vnmilitaryhistory
Moderator

Bài viết: 1787
|
 |
« Trả lời #101 vào lúc: 25 Tháng Chín, 2023, 09:22:19 am » |
|
2. Diễn biến trận đánh
Sau 7 ngày chặn đánh các mũi tấn công của địch, thực hiện quyết tâm của Bộ Tư lệnh Chiến dịch, 3 giờ 10 phút ngày 26 tháng 10 năm 1972, Trung đoàn 335 cùng với Trung đoàn 148, Tiểu đoàn 924 Trung đoàn 866 và 1 đại đội xe tăng - thiết giáp, được 2 cụm pháo binh chiến dịch trực tiếp chi viện, bất ngờ nổ súng đồng loạt vào đội hình quân địch đang tập trung trước các mục tiêu dự định tiến công. Theo kế hoạch, Trung đoàn 335 được tăng cường Tiểu đoàn 6 Trung đoàn 88 từ Phu Hủa Sang đánh vào Cha Ho, Bản Phồn, Điểm cao 1388, chia cắt đội hình địch, hình thành thế bao vây không cho địch rút chạy về Nậm Cọ, Khang Kho.
Trung đoàn 148 từ Phu Seo đánh xuống Bản Xưa, Na Van, Điểm cao 1236, Điểm cao 1172, cắt đường lui về Phu Huột. Tiểu đoàn 924 Trung đoàn 866 cùng đại đội tăng (có 5 xe tăng và 3 xe thiết giáp) từ Phu Tâng đánh chiếm 2 điểm cao 1239 và 1228, rồi thọc xuống phía Nam, phá vỡ đội hình địch, dồn chúng vào khu quyết chiến Cha Ho, Bản Hai, Bản Phồn, phối hợp với Trung đoàn 148 và Trung đoàn 355 họp vây diệt địch.
Bị chặn đánh bẩt ngờ, địch rối loạn ngay từ phút đầu, tháo chạy về phía Nam; đồng thời, dùng không quân ngăn chặn các mũi tiến công của ta, yểm hộ cho bộ binh rút chạy. Ta bám sát, đánh xen kẽ với địch rất quyết liệt; một bộ phận của Tiểu đoàn 2 Trung đoàn 335 đã chặn đứng được GM 23 và GM 32 tại Bản Phồn, diệt hàng trăm tên, tạo điều kiện có lợi cho đơn vị bạn (Tiểu đoàn 6 Trung đoàn 148 diệt hơn 300 tên địch tại Na Van, Na Hung; 1 phân đội súng máy cao xạ hạ 2 máy bay, diệt 70 địch tại Điểm cao 1236).
Trên đường truy kích địch rút chạy, xe tăng ta không vượt được ngầm Cha Ho, phải quay lại.
Đến đêm 26 tháng 10, địch phân tán luồn rừng chạy về Nậm Cọ, Khang Kho; đáng chú ý, có bộ phận quân địch (gồm cả quân ngụy Lào và quân Thái Lan) chạy nhầm vào Sở Chỉ huy Trung đoàn 335 ở Đông Bản Phồn 5km, bị ta diệt gọn (khoảng 200 tên).
Nhờ có sự chủ động, nhạy bén nắm bắt tình hình địch, chuẩn bị chu đáo, Bộ Tư lệnh Chiến dịch kịp thời hạ quyết tâm tiến hành trận phản đột kích quyết định, tổ chức sử dụng lực lượng hợp lý nên trận đánh đã giành được thắng lợi lớn trong ngày 26 tháng 10 năm 1972. Kết quả, ta diệt 1.240 tên địch (bắt 79 tên), thu hơn 1.500 súng các loại (21 khẩu cối và ĐKZ)1 (Hiện nay, về số quân địch bị bắt trong trận phản đột kích quyết định ngày 26 tháng 10 năm 1972 còn có sự sai lệch trong một số sách đã xuất bản. Sách Viện Khoa học quân sự - Khoa Nghệ thuật quân sự, Chiến dịch phòng ngự Cánh Đồng Chum mùa mưa năm 1972, xuất bản năm 1977, tr. 82 và cuốn Bộ Quốc phòng - Viện Lịch sử quân sự Việt Nam, Chiến dịch phòng ngự Cánh Đồng Chum - Xiêng Khoảng mùa mưa 1972, Sdd, tr. 59 đều viết là "bắt 79 tên". Tuy nhiên, trong sách Bộ Quốc phòng - Viện Lịch sử quân sự Việt Nam, Lịch sử các đoàn 335, 766, 866 Quân tình nguyện và 463. 565 Chuyên gia quân sự Việt Nam tại Lào (1954 - 1975), Sđd, tr. 76 viết "bắt 80 tên"). Thắng lợi của trận phản đột kích quyết định đã cổ vũ mạnh mẽ tinh thần quyết chiến, quyết thắng của quân ta, đẩy địch lâm vào tình trạng bị động, hoang mang, mất tinh thần chiến đấu. Sau thắng lợi của trận phản đột kích quyết định, khu vực cánh đồng Căng Xẻng hoàn toàn do ta làm chủ, kế hoạch tiến công đánh chiếm một phần khu vực phía Nam Cánh Đồng Chum của địch bị phá sản, kéo theo sự thất bại hoàn toàn cuộc tiến công hòng giành lại địa bàn chiến lược Cánh Đồng Chum trong mùa mưa năm 1972 của quân địch.
3. Một số kinh nghiệm
Thắng lợi của trận phản đột kích quyết định ngày 26 tháng 10 năm 1972 đã tạo bước quyết định kết thúc thắng lợi hoàn toàn của Chiến dịch phòng ngự Cánh Đồng Chum - Xiêng Khoảng (21.5 - 15.11.1972). Trận đánh điển hình trong tác chiến phòng ngự của Quân tình nguyện Việt Nam phối hợp với lực lượng Quân giải phóng nhân dân Lào để lại kinh nghiệm quý, thể hiện qua một số nội dung chủ yếu sau:
Thứ nhất, lực lượng cơ động chiến dịch phải mạnh mới đủ sức phản đột kích và tiến hành thắng lợi trận phản đột kích quyết định. Trong chiến dịch này, lúc đầu, Bộ Tư lệnh Chiến dịch đã sử dụng 2 trung đoàn bộ binh phòng ngự, 2 trung đoàn bộ binh làm nhiệm vụ cơ động; mỗi trung đoàn phòng ngự dùng 1 tiểu đoàn làm lực lượng cơ động. Như vậy, ta có 6 tiểu đoàn phòng giữ, 8 tiểu đoàn cơ động. Tuy nhiên, trong diễn biến thực tiễn của chiến dịch, lực lượng cơ động của các trung đoàn phòng ngự không đủ sức phản kích đẩy lùi địch trong phạm vi đảm trách nên cấp chiến dịch phải xé lẻ một bộ phận cơ động chiến dịch tăng cường cho từng khu vực, cụ thể như: Tiểu đoàn 6 Trung đoàn 148 vào chiến đấu ở khu Trung gian trong đợt 1; Tiểu đoàn 1 Trung đoàn 335 phải tăng cường để giữ chốt Phu Học; Tiểu đoàn 4 Trung đoàn 148 và Tiểu đoàn 3 Trung đoàn 335 tăng cường cho cụm chốt Phu Hủa Sang... Do đó, lực lượng cơ động chiến dịch không tập trung được, vẫn bị phân tán. Đây là một trong những nguyên nhân khiến cho lực lượng ta ở các trận phản đột kích chưa đủ mạnh để thắng giòn giã hơn. Nhận thức được vấn đề này, tháng 10 năm 1972, Bộ Tư lệnh Chiến dịch đã tăng cường Trung đoàn 88 Sư đoàn 308C làm lực lượng cơ động chiến dịch và nhờ đó thường xuyên nắm được 2 trung đoàn nên mới có đủ lực lượng mạnh tiến hành thắng lợi trận phản đột kích quyết định ở hướng Nam (khu vực cánh đồng Căng Xẻng) để kết thúc chiến dịch.
Thứ hai, phải nắm chắc và sử dụng hiệu quả lực lượng dự bị. Trong điều kiện lực lượng ta có hạn, địa bàn phòng ngự rộng, địch tiến công từ nhiều hướng cùng một lúc, khả năng cơ động cao, có thể chuyển hướng và thay đổi so sánh lực lượng tại chỗ một cách bất ngờ, việc nắm chắc và sử dụng lực lượng dự bị có ý nghĩa hết sức quan trọng. Phải thường xuyên tính toán việc luân phiên chiến đấu, củng cố lực lượng dự bị cơ động bảo đảm cho các trận then chốt thắng lợi cũng như để phát triển tiến công, phản công tiếp theo. Các lực lượng dự bị phải bố trí ở những địa bàn có lợi kịp thời năm tình hình địch, tổ chức chiến đấu nhanh và đưa vào làm nhiệm vụ ở thời cơ có lợi nhất; phải có biện pháp bảo đảm lực lượng dự bị sung sức trước khi vào chiến đấu và bảo đảm cơ động chiếm lĩnh trận địa kịp thời. Trận phản đột kích quyết định ngày 26 tháng 10 năm 1972 ở khu vực cánh đồng Căng Xẻng ta dùng 2 trung đoàn (thiếu) dự bị chiến dịch, 8 xe tăng - thiết giáp 8 pháo xe kéo, 2 tiểu đoàn súng máy cao xạ và gần 2 tiểu đoàn phòng ngự ở Phu Tâng, Phu Seo, Phu Hủa Sang.
Thứ ba, dùng hỏa lực mạnh để tiêu diệt địch. Trong chiến tranh vệ quốc vĩ đại của Hồng quân Xôviết, nhiệm vụ tiêu diệt địch bằng hỏa lực mạnh chủ yếu là sử dụng nhiều pháo binh và băng cách kéo thêm thời gian pháo chuẩn bị. Mật độ pháo trong nhiều trận phản đột kích là từ 60 - 80 khẩu pháo trên 1km chính diện và thời gian pháo chuẩn bị trước phản đột kích thường từ 15-30 phút1 (Thiếu tướng, GS, TSKH N. G. Pô-pốp, Phản đột kích trong các chiến dịch phòng ngự hiện đại, tr. 13, in trong; Quân đội nhân dân Việt Nam, Phản đột kích trong chiến đấu phòng ngự, Tài liệu tham khảo chuyên đề, số 7-1979). Trong các trận phản đột kích của Chiến dịch phòng ngự Cánh Đồng Chum - Xiêng Khoảng mùa mưa năm 1972, ta đã tập trung từ 70 đến 80% số pháo của chiến dịch để chi viện chiến đấu, trung bình mỗi trận đã sử dụng từ 1.000 - 1.200 viên đạn pháo (trận dùng nhiều nhất từ 1.600 - 1.900 viên các loại), phù hợp với khả năng củng cố cao của ta lúc đó. Đặc biệt, trong trận phản đột kích quyết định ở khu vực cánh đồng Căng Xẻng, ta đã sử dụng đại đội xe tăng - thiết giáp tiến công chính điện, thực hiện thọc sâu chia cắt, tạo điều kiện cho bộ binh tiêu diệt địch. Trong trận này, sử dụng xe tăng - thiết giáp thực sự đã tạo ra sức đột kích mạnh, nhưng do không làm tốt công tác bảo đảm vượt ngầm Cha Ho nên đã hạn chế kết quả trong trận truy kích địch. Điều này lặp lại trong trận phản đột kích Cửa Việt (1.1973). Mặc dù trận đánh giành được thắng lợi lớn, nhưng công tác tổ chức vượt sông bằng phà chưa chu đáo và nếu như có kế hoạch về thời gian đưa đội dự bị sang sớm hơn thì ngày 31 tháng 1 năm 1973 ta đã có thêm 8 xe tăng T-59 của Đại đội 1 Trung đoàn 203 và 3 xe thiết giáp còn lại của Tiểu đoàn 66 vào tham gia chiến đấu1 (Trần Hạnh, Bộ binh cơ giới trong trận phản đột kích Cửa Việt (từ 26 đến 31.1.1973), Tạp chí Lịch sử quân sự, số 3-1996, tr. 35).
|