Lịch sử Quân sự Việt Nam
Tin tức: Lịch sử quân sự Việt Nam
 
*
Chào Khách. Bạn có thể đăng nhập hoặc đăng ký. 28 Tháng Ba, 2024, 07:20:12 pm


Đăng nhập với Tên truy nhập, Mật khẩu và thời gian tự động thoát


Trang: « 1 2 3 4 5 »   Xuống
  In  
Tác giả Chủ đề: Hồi ức B2  (Đọc 2471 lần)
0 Thành viên và 1 Khách đang xem chủ đề.
dungnuocgiunuoc
Thành viên
*
Bài viết: 614



« Trả lời #10 vào lúc: 30 Tháng Mười Hai, 2022, 05:15:59 pm »

LÀM PHIM Ở CHIẾN TRƯỜNG


PHẠM QUỐC VINH


Ngay từ đầu năm 1963, trong chúng tôi đã có người cùng với máy quay phim lên đường vào chiến trường. Đợt đi B dài hạn đầu tiên có Trương Thành Hy, Trần Anh Trà, Phạm Xuân Bình rồi tiếp theo hàng năm số quay phim, biên tập luân phiên nhau đi chiến trường ngày một tăng. Người đi dài hạn có khi 2, 3 năm, có người ở B2 bẩy, tám năm liền. Số đi ngắn hạn tùy theo từng chiến dịch, thường từ 3 đến 4 tháng.


Đội ngũ chúng tôi phần lớn là cán bộ chính trị, có một số giáo viên văn hoá, một số từ các đơn vị chuyển sang và từ những năm 1970 có cả một số "tân binh" được bổ sung ngay tại chiến trường. Trình độ chuyên môn không đồng đều, phần lớn còn non yếu, có một số lần đầu mới làm quen với máy quay phim, nhưng chúng tôi vừa học vừa làm, vưa rút kinh nghiệm. Luôn luôn bồi dưỡng - kèm cặp lẫn nhau về nghiệp vụ, đó là phương châm phấn đấu của chúng tôi. Chúng tôi thường trao đổi và xác định với nhau là người chiến sĩ quay phim ở mặt trận bên cạnh lòng yêu nghệ thuật điện ảnh còn đòi hỏi phái tự rèn luyện cuộc sống dầy dạn như những người chiến sĩ và tâm hồn người chiến sĩ.


Thời kỳ đầu đi chiến dịch, chúng tôi còn rất lúng túng về những trang bị vì có nhiều thứ và cồng kềnh! Một đội quay phim đi chiến trường nhiều là 3 người, ít là 2 người với một máy quay loại 16 mm, một máy ảnh và phim nhựa (thường đem theo 10 hộp phim 16mm loại 30 mét) cùng tăng - võng - quần áo. Những thứ này để gọn trong "bòng" (ba-lô) vừa phải chống ẩm ướt nhưng lại phải sắp xếp cho khéo để thao tác nhanh nhất, nếu không sẽ bỏ lỡ cơ hội ghi hình ảnh tốt nhất.


Không phải chỉ có vậy, trong đội quay còn phải có người mang theo cả súng AK hoặc súng "Các bin", súng ngắn, thủ pháo, lựu đạn để tự vệ, cùng cuốc xẻng, cưa để làm công sự, (cưa cắt lát hầm). Ngoài ra người nào cũng phải có lương thực, thực phấm đảm bảo trung binh từ 10 đến 15 ngày. Chừng đó thứ cũng đủ nặng rồi, và tất cả đều nhờ vào ý chí và đôi chân.


Trên đường đi chiến dịch, ngày đêm ròng rã cùng hành quân với bộ đội, chúng tôi vẫn phải tranh thủ ghi chép hình ảnh về những đặc điểm của địa phương, những hoạt động mà bộ đội phải khắc phục khó khăn gian khổ vượt qua... Đến vị trí trú quân dù mệt nhọc đến đâu chăng nữa, bản thân đồng chí quay phim nào cũng phải nhanh chóng làm một công sự đảm bảo cho chiến đấu, có khi phải làm công sự nổi ở những vùng sông, rạch... vì thế cuốc xẻng là vật thiết thân, ai cũng giữ gìn chu đáo.


Những năm đầu ở chiến trường miền Đông, chỉ có 1, 2 đội quay và qua từng chiến dịch anh em chúng tôi đều có ghi lại được những chiến công vẻ vang của Quân giải phóng. Tuy nội dung chưa đầy đủ nhưng hình ảnh rất chân thực, có sức hấp dẫn đồng thời đó là những thước phim có giá trị lịch sử vô cùng quý giá.


Trong trận Bình Giã, Hồng Hải và Trường Sơn đã ghi được hình khẩu đội ĐKZ lần đầu tiên diệt chiến xa M.113 địch trên chiến trường miền Đông Nam Bộ; những chiến sĩ đội mũ tai bèo, chân dép lốp xông lên diệt bọn lính thuỷ đánh bộ "thiện chiến". Các anh ghi được cả những bộ mặt hoảng hốt của kẻ chiến bại...


Đầu năm 1965, vượt qua suối - sông - dốc cao - mưa gió - các đồng chí Phú Thạnh, Bá Nhàn, Thanh Xuân, Tôn Bảo đã cùng bộ đội ra mặt trận. Đồng bào và chiến sĩ Nam Bộ rất thích bộ phim "Chiến thắng Đồng Xoài" vì đó là chiến công gần gũi của họ. Người xem thích nhất là cảnh chi khu Đồng Xoài rực lửa có những tên lính đành thuê chui từ trong đồn ra cao tay đầu hàng trước mũi súng quân ta, cùng những tên lính thuộc tiểu đoàn 7 dù, phơi thây trên bãi chiến trường.


Chuẩn bị cho đầu Xuân 1968, đội ngũ chúng tôi được tăng cường thêm: Dương Phước An, Châu Quang, Trần Cần Kiệm, Nguyễn Quế, Vũ Thập, Quang Đạt, Trọng Hội... Số anh em này đều là giáo viên văn hoá bổ sung vào chiến trường nhưng lại cầm máy quay.


Cùng với anh em đã vào từ trước, tất cả chúng tôi đã "xuống đường" đợt này, ngày đêm hành quân bám sát bộ đội, gian khổ ác liệt nhưng rất vui. Ai nấy náo nức mong sao ống kính của mình sẽ được "lia" một cung rộng trên thành phố Sài Gòn, in rõ những tư thế hiên ngang của người chiến thắng.


Vượt qua bom đạn ác liệt lọt được vào nội đô, Dương Phước An, Vũ Thập đã đạt được phần nào ý nguyện của mình, thu vào ống kính những hình ảnh tiến quân vào Sài Gòn, những tổ xung kích đang bám sát từng căn nhà, góc phố đánh địch. Một khẩu đội 12 ly 7 đặt giữa ngã tư đường phố bắn máy bay địch, những cột khói bom đạn do máy bay của chúng thả xuống giữa đô thành... và những bà má ven đô tham gia tiếp tế giúp đỡ cho Quân giải phóng... là những hình ảnh sôi động trong bộ phim "Vài hình ánh về cuộc tổng tấn công và nổi dậy" của Xưởng phim Quân giải phóng sau Tết Thân 1968.


Giành được chiến thắng oanh liệt và để có được những thước phim có giá trị lịch sử đó, chúng ta đã phải "đổi" bằng xương máu của biết bao chiến sĩ trong đó có các chiến sĩ quay phim mặt trận.

Châu Quang đi theo mũi tiến công phía Bắc Sài Gòn, đã trèo lên cây cao quay những đợt đổ quân ứng cứu của địch... và rồi đồng chí hy sinh nhưng không rời máy.

Phú Thạnh bám theo bộ binh ghi được những cảnh xung phong đánh địch phản kích. Bị thương, anh tự băng bó lấy rồi lại tiếp tục tiến theo bộ đội. Anh cố gắng chạy cho kịp trong khi vết thương vẫn rỉ máu. Anh nằm xuống, nhưng cảnh cuối cùng mà máy của anh đã ghi được đó là một khẩu đội đại liên đang giòn giã nhả đạn vào quân giặc.


Sau khi đã hoàn thành nhiệm vụ ở phía trước, trên đường rút về căn cứ, Dương Phước An đã hy sinh trong một trận phục kích của địch ở kênh Bo-bo.

Những gương chiến đấu ngoan cường, những gương hy sinh dũng cảm của các chiến sĩ, của đồng đội càng thôi thúc chúng tôi quyết tâm nỗ lực thu thập tài liệu và làm phim tốt hơn... và dù cho có khó khăn về phương tiện và kỹ thuật... những bộ phim thời sự và phóng sự ngắn của chúng tôi vẫn kịp thời đến với các chiến sĩ các đơn vị trước khi ra trận.
Logged
dungnuocgiunuoc
Thành viên
*
Bài viết: 614



« Trả lời #11 vào lúc: 30 Tháng Mười Hai, 2022, 05:17:09 pm »


Từ 1969 cuộc chiến tranh ở miền Nam bước sang giai đoạn mới. Quán triệt tình hình nhiệm vụ, trong 3 năm liền, chúng tôi phân chia lực lượng đi thu thập tài liệu hình ảnh về hoạt động tác chiến của bộ đội chủ lực và nhân dân ta đấu tranh chống phá "bình định" của địch trong âm mưu thực hiện "Việt Nam hoá chiến tranh" của Mỹ.


Không phải chúng tôi chỉ thu thập tài liệu ở chiến trường miền Nam mà ngay khi giặc Mỹ xâm lược đưa quân can thiệp vào Căm-pu-chia, năm 1970, các đội quay phim Quân giải phóng được sự ủng hộ giúp đỡ của lực lượng cách mạng và nhân dân Câm-pu-chia anh em, đã tới được Kăm-pôt, Tàkeo, Chlong, Kờ-ra-chiê và đến cả Ang-ko (Siêm Riệp) nữa.


Nhớ lại có lần phối hợp chiến đấu cùng với lực lượng vũ trang cách mạng và nhân dân Căm-pu-chia, các đơn vị chủ lực của ta đã được nhân dân bạn huy động từng đoàn xe hon-đa chở bộ đội hành quân trên đường 7... còn các đội quay chúng tôi cũng đã có lần được bà con đưa bằng xe hon-đa từ vùng đất đỏ biên giới, vượt hàng trăm ki lô mét trên quốc lộ 6 đến tận khu đền Ang-ko cổ kính. Những ngày làm phim trên vùng Biển hồ mênh mông, chúng tôi sống với bà con gần nửa tháng trời trên xuồng máy, nhưng rất tiếc là không có đủ phim nhựa mang theo để ghi tư liệu. Trận đánh phối hợp với bạn giải phóng Puốc năm ấy (1970) Trọng Hội và Quang Đạt đã ghi được khá nhiều hình ảnh bộ đội từ khi xuất kích chiến đấu ngay trong thị xã, cho đến những đoàn tù binh của bè lũ Lon Non được giải về phía sau.


Chỉ trong một thời gian ngắn, chúng tôi đã ghi lại được hàng nghìn mét phim tư liệu trên chiến trường Cam-pu-chia nói về tội ác của giặc Mỹ xâm lược cấu kết với bè lũ tay sai, về hoạt động võ trang tuyên truyền của các lực lượng giải phóng Cam-pu-chia, về tinh đoàn kết quân dân... Số phim tư liệu về chiến dịch "Chen La I, Chen-La II" do các đội quay Quốc Hùng, Đồng Cam, Minh quang, Thanh Dũng... đảm nhiệm gồm hàng nghìn mét còn nguyên trong kho lưu trữ phim tư liệu chưa được khai thác sử dụng cùng nhiều tư liệu chưa được khai thác sử dụng cùng nhiều tư liệu khác nữa mà nội dung rất phong phú, có ý nghĩa lịch sử...


Làm công tác điện ảnh, kịp thời ghi được nhiều tư liệu ở chiến trường là điều đáng mừng nhưng điều mong muốn trước hết của những người quay phim mặt trận là những thước phim đó phải nhanh chóng đến với đông đảo người xem mà ưu tiên là các chiến sĩ và nhân dân ở phía trước.


Điều băn khoăn của anh em quay phim mặt trận là khi thấy phim do mình quay về không được in tráng kịp thời để xem kết quả ra sao? "Khổ tâm" hơn nữa là có thời kỳ phim quay về để ùn lại không được dựng thành phim, cất vào kho "tư liệu"!?!


Trong những năm ở chiến trường, cũng có thời kỳ chúng tôi phải chịu cảnh như vậy! Đó là những năm căn cứ phải di chuyển nhiều lần, phim nhựa hạn chế, (phim dương bán) vật liệu, hoá chất thiếu v.v... nên việc tổ chức in tráng và sản xuãt phim trong rừng sâu gặp nhiều khó khăn... Tuy nhiên được sự chi viện từ hậu phương lớn, chúng tôi vẫn ra sức phấn đấu ra phim sau mỗi chiến dịch, bộ phận sản xuất phim vẻn vẹn chỉ có 3 người đều là thương binh: Đó là Bá Nhàn, Lương Ngọc Triển và Tôn Bảo. Buồng tối lợp bằng lá "trung quân" thường đặt bên bờ suối và làm vào ban đêm. Tổ chức tráng thủ công, mỗi guồng phim 30 mét, anh em cũng đã dùng một chiếc máy quay cũ cải tiến thành "máy" in phim. Cùng với một chiếc máy phát điện nhỏ đặt dưới hầm phục vụ cho sản xuất phim. Sau mỗi đêm anh em có thể in và tráng từ 300 đến 500 mét bảo đảm chất lượng phim trong sáng, tốt.


"Chiến thắng Xuân hè 1969" là tập III của bộ phim tổng tấn công và nổi dậy đồng loạt, đã nêu bật sự tích anh hùng đánh Mỹ ở căn cứ Dầu Tiếng, ở Téc-Ních (Binh Long), ở Đồng Pan, Bà Chiêm, Tà tê, Suối Giây... trên chiến trường miền Đóng anh dũng, đẩy bè lũ Ních Sơn càng lún sâu vào những thất bại mới!


Phim "Chiến thắng Đông Bắc Căm-pu-chia" là một phóng sự vạch trần cuộc hành quân của bè lũ Mỹ - ngụy mang tên "Toàn thắng 1-71". Trọng Hội, Nguyễn Quế, Quốc Hùng, Đồng Cam, Minh Quang đã theo sát các đơn vị chủ lực của ta phối hợp chiến đấu với quân dân bạn và ghi được đủ các loại xe, pháo, tăng, thiết giáp của Mỹ - ngụy với đủ các sắc lính trong các trận quân ta đánh tiêu diệt xuất sắc ở Xuông, Chúp, Đầm be, Oát-thơ mây, Snun.


Gương những anh hùng chiến sĩ thi đua ở Sài Gòn Gia Định và miền Đông Nam Bộ cũng được phản ánh trong phim thời sự cuối năm 1971.

Cũng vào dịp đó Nguyễn Quế và Thành Đồng vượt vào tận ven đô (vùng Củ Chi) để lam phim phóng sự “Về thăm một vùng đất thép". Từ hình ảnh đến lời giới thiệu thật bình dị, chân chất và gần gũi mà lại vẫn nêu được phẩm chất của những người dân chí cốt với cách mạng, của người chiến sĩ thành đồng "thề cùng giặc Mỹ có tao không mày"!


Thực hiện quyết tâm chiến lược: tấn công nổi dậy giành thắng lợi lớn năm 1972, chúng tôi "ra quân" với trên 10  đội quay ở các mặt trận trong chiến dịch mang tên “Nguyễn Huệ”, nhà quân sự thiên tài của dân tộc. Chúng tôi thường phân công bố trí những đội quay phim “khỏe” cả về tinh thần và sức lực đồng thời “mạnh” cả về kỹ thuật đi theo hướng chủ yếu của chiến dịch.


Đã từng quen thuộc địa hình, địa vật ở vùng Lộc Ninh, Tổ quay phim của Phan Văm Cam cũng theo bộ đội ém sẵn gần sát chi khu trước giờ nổ súng. Anh chiếm lĩnh vị trí trên một cây cao và đã quay được những điểm chạm loạt pháo đầu tiên của ta nổ tung đồn địch. Cơn bão lửa dội xuống đầu giặc vừa dứt, cũng là lúc Cam tụt từ trên cây xuống đất đón chờ đoàn xe tăng của ta hiệp đồng binh chủng lần đầu xuất trận trên chiến trường miền Đông Nam Bộ.


Bám theo trong đội hình của đoàn xe, Cam muốn ghi được cảnh xe tăng của ta vừa cơ động vưa nhả đạn lao thẳng vào phía cửa mở. Nhưng bất ngờ chiếc xe tăng đi đầu bị khựng lại sau một tiếng nổ lớn. Cả đoàn xe bị ùn tắc dừng lại! Thấy không ổn. Cam ôm chặt lấy máy quay vội nhẩy xuống vòng ra hướng khác theo tổ xung kích đang trên đường tiến vao đồn địch. Trời đã sáng rõ. Máy bay địch lồng lộn bắn phá chặn đường. Giữa lúc Cam đang quay bộ đội trên đường vào lô cốt đầu cầu thì một loạt bom nổ ngay gần đó. Cam ngã khuỵ xuống vẫn còn kịp dặn phụ quay phim Nguyễn Cường nhanh chóng cầm máy thay thế tiến vào "tung thâm"... Những bộ mặt kinh hoàng của những tên cố vấn Mỹ, những tên Nguỵ gục đầu khiếp sợ từ trong công sự, hầm ngầm lũ lượt chui ra giơ tay hàng cùng với đại ta chỉ huy trưởng chiến đoàn 9 Ngụy, đều lọt vào ống kính máy quay của Nguyễn Cường.
Logged
dungnuocgiunuoc
Thành viên
*
Bài viết: 614



« Trả lời #12 vào lúc: 30 Tháng Mười Hai, 2022, 05:18:46 pm »

Cũng đi theo chiến dịch này, cùng với các chiến sĩ ta kiên trì bám dọc đường 13, đoạn gắn ngã ba Đồng Tâm, đồng chí Minh Quang một mình một máy quay đón chờ trận đánh chiến đoàn 52 rút chạy. Quang đã có bài học kinh nghiệm của Vũ Thập bình tĩnh gan dạ xông lên chớp thời cơ. Thập đã ghi được đầy đủ hình ảnh rất sinh động trận tiêu diệt đoàn xe địch trên lộ 22 mấy năm trước. Ống kính máy quay của Quang đã không uổng công chờ đợi. Quang đã chủ động bấm máy quay từ lúc ta nổ súng diệt chiếc xe đi đầu cho đến khi đoàn xe bị chia cắt, xe pháo ngổn ngang, quân tướng hoảng hốt tan tác, đứa thì chết, đứa thì đầu hàng, số còn lại chạy dạt sang bên đường đều bị bắt sống.


Phim “Chiến dịch Nguyễn Huệ - 1972" còn phản ánh trung thực cuộc sống của các dũng sĩ đường 13 đã trải qua 150 ngày đêm liên tục vây hãm đánh địch An Lộc mà vẫn dẻo dai ngoan cường chốt giữ, chịu đựng hàng nghìn tấn bom đạn của quân thù.


Có được trường đoạn trong phim này, Nguyễn Quế và Thanh Đồng với máy quay của mình đã tìm tới từng công sự, gặp từng chiến sĩ bám chốt, kể cá các đồng chí "anh nuôi" và hàng ngày cũng 1 bữa cơm nóng, 2 bữa cơm nguội, không một giờ ngủ yên như các dũng sĩ.


Những mét phim đó không chỉ nói lên những gương bám trụ kiên cường của các chiến sĩ giữa một vùng đất hẹp mà quân thu mong huỷ diệt sự sống ở đây, đồng thời phim còn nêu lên được phong thái đàng hoàng, một tâm hồn lạc quan, một niềm tin mãnh liệt của người chiến thắng.


Ngoài việc ghi hình ảnh tác chiến của các đơn vị chủ lực, chúng tôi không xem nhẹ những hoạt động đấu tranh của nhân dân đánh phá "bình định".

Những năm 1970 - 1971 đã có những đội quay đi sâu vào vùng Bà Rịa, Biên Hoà, đi Bến Tre, và xuống tận Bẩy Núi, Cô-tô, An Giang. Dù gặp nhiều khó khăn về địch tình, về khí hậu thời tiết, nhưng được sự giúp đỡ của bà con nhân dân và lực lượng vũ trang địa phương, các Tổ quay phim của Quốc Hùng, Bất Diệt, Cần Kiệm, Văn Minh, Quang Đạt đã quyết tâm ghi được nhiều phim tư liệu quý. Đồng chí Quốc Hùng, có lần đã phải chịu 26 ngày đêm không tắm giặt, cơm vắt ngủ hầm để chờ quay bộ đội phục kích giặc.


Đồng chí Nguyễn Văn Thắng, một phụ quay phim trẻ tuổi đời, tuổi quân và cả tuổi nghề nữa, đã tận tụy phục vụ quay chính trong các chiến dịch. Khi đang công tác ở vùng Bẩy Núi đã nói với tổ Đảng: "Các anh cứ dạy bảo em, em xin hứa là không bao giờ phụ lòng Chi bộ, phụ lòng các anh!" Và chí 2, 3 ngày sau, trên đường công tác chẳng may đồng chí chạm phải mìn địch, đồng chí đã hy sinh, để lại cho đơn vị hình ảnh tươi sáng va đẹp đẽ của người Đảng viên trẻ tuổi "lớp Hồ Chí Minh".


Sau những kiên trì đấu tranh và anh dũng chiến đấu, hiệp định Pari, chấm dứt chiến tranh ở Việt Nam được ký kết, nhưng giặc Mỹ và bè lũ tay sai vẫn ngoan cố phá hoại hoà bình...

Những người làm phim chúng tôi vẫn xác định được trách nhiệm trước tình hình mới. Từ "R" xuống tận đồng bằng Cửu Long để làm phim là một quyết tâm cao và sau chuyên đi ấy không phải là không có khó khăn. Đầu năm 1974, tổ quay của Nguyễn Quế, Thanh Đồng đã đem về những mét phim sinh động về quân và dân vung Cần Thơ Rạch Giá đã trừng trị đích đáng bọn Mỹ nguỵ với tham vọng "bình   định", “lấn chiếm", "tràn ngập lãnh thổ". Bộ phim ấy mang tên “Phía Nam Sông Hậu'' còn ngợi ca cuộc sống êm đẹp thanh bình trong vùng mới giải phóng của bà con nhân dân miền Tây Nam Bộ.


Trong thời kỳ này, chúng tôi cũng dành một số quay phim để ghi tư liệu về hoạt động của phái đoàn ta trong Ủy ban Quân sự 4 bên tại Tân Sơn Nhất, về hoạt động trao trả tù binh, về các anh chị em từ các lao tù của Mỹ ngụy, chiến thắng trở về.


Điều kiện phim nhựa còn eo hẹp, lại thiếu phương tiện thu thanh, máy quay đồng bộ, nhưng vẫn mạnh dạn làm phim “Tiếng hát của những người chiến thắng" đạt hiệu quả tốt gây xúc động là một cố gắng đáng kể.


Bộ phim "Ủy Ban Quốc tế thăm vùng giải phóng Lộc Ninh" là một phóng sự ngắn ra kịp thời nêu được tinh thần phấn khởi của nhân dân ta và sự đón tiếp nồng hậu thân thiết trọng tình hữu nghị của Chính phủ cách mạng lâm thời Cộng hoà miền Nam Việt Nam đối vơi các vị khách quốc tế lần đầu đến vùng giải phóng.


Làm phim về Đại hội anh hùng chiến sĩ thi đua các lực lượng vũ trang giải phóng lần thứ IV đầu năm 1974, các đồng chí quay phim không chỉ ghi lại những cảnh sinh hoạt trong Đại hội giữa rừng sâu, mà anh em đã chia nhau đi lấy hình ảnh về những gương chiến đấu, công tác học tập của những anh hùng và tập thể anh hùng ngay tại các đơn vị, nên nội dung của bộ phim mang tên "Nhưng ngọn cờ chiến thắng" rất phong phú, hấp dẫn với người xem.


Đầu năm 1974, lực lượng quay phim được tăng cường thêm Cao Thuận, Ngô Hường, Nguyễn Nhiêm. Các anh em thay nhau đi làm phim ở những vùng mới được giải phóng.

Đầu tháng 12-1974, thực hiện Nghị quyết của Trung ương lần thứ 21: "Tiến hành chiến tranh cách mạng, tấn công vào sào huyệt của chúng tiến lên giải phóng miền Nam", lực lượng quay phim đi theo chiến dịch đường 14 - Phước Long gồm những đội quay trẻ như Nguyễn Nhiêm, Tường Vân, Minh Quang, Văn Minh v. v...


Nhớ lại hồi năm 1965, "ra quân" lần đầu, số anh em quay phim Quân giải phóng đã vượt khó khăn gian khổ vác máy đến chiến trường này và đã cùng với quân dân ta rộn ràng phấn khởi câu ca:

"Ai về Sông Bé - Phước Long
Còn nghe vang dội chiến công Đồng Xoài"


… thì nay những anh em quay phim lớp kế tiếp cũng dũng cảm bám sát các mũi tiến quân của các đơn vị từ ngày mở đầu trận đánh (13-12-1974) cho đến khi kết thúc chiến dịch (6-1-1975). Những hình ảnh quay được trong bộ phim "Phước Long hoàn toàn giải phóng" góp phần vào việc cổ vũ động viên quân dân miền Đông Nam Bộ tiến lên chuẩn bị giành thắng lợi vĩ đại!


Trong cuộc tổng tiến công mùa Xuân 1975 và tiếp theo là "Chiến dịch Hồ Chí Minh" lịch sử, anh em quay phim Quân giải phóng rất phấn khởi được sát cánh cùng với đông đảo đội ngũ quay phim Xưởng phim Quân đội đi theo các cánh quân tiến đánh giải phóng Sài Gòn, và những tài liệu đó đã tập trung góp phần vào bộ phim "Chiến thắng Xuân 75 lịch sử" - đánh dấu một chặng đường thắng lợi vẻ vang giải phóng hoàn toàn miền Nam và thống nhất đất nước.


Quá trình trưởng thành của chúng tôi là quá trình phấn đấu công tác học tập với sự nỗ lực chủ quan say mê nghề nghiệp đồng thời còn hăng hái lao động chiến đấu liên tục nữa. Bên những gương hy sinh dũng cảm trong khi quay phim, chúng tôi còn có những tay súng giỏi và có người đã là dũng sĩ diệt cơ giới, dũng sĩ diệt Mỹ-ngụy.


Trong trận chống càn "Gian-sơn Xi-ty năm 1967 - sau khi đã chôn giấu phim, ảnh, tài liệu... tổ chiến đấu gồm các đồng chí Bất Diệt, Tôn Báo và Hồng Hải đã phục kích dùng B.40 bắn cháy 1 xe tăng M41, còn Bá Nhàn dùng mìn chống tăng cải tiến đánh tan xác 1 xe thiết giáp Mỹ.


Cùng với bộ binh đánh trận phục kích đoàn xe địch trên đường 22 (năm 1969) Vũ Thập đã dùng súng ngắn bắn vào tốp lính Mỹ ở gần nhất và diệt xong tốp nay, ống kính của đồng chí lại tiếp tục hoạt động trong khi đồng chí phụ quay Đồng Cam tung thủ pháo tiêu diệt bọn Mỹ đang núp ở một ngôi nhà trong ấp chiến lược dùng súng bắn lén!


Cùng với bộ đội chiến đấu, phụ quay phim Phạm Văn Năm trong trận Cầu Khởi (Tây Ninh) dùng AK đẩy lùi đợt xung phong cua bọn “Trâu Điên”. Có lần một mình Năm lạc vào vùng chốt Mỹ, nhưng rất bình tĩnh, tỉnh táo, mưu trí, Năm đã tìm cách vượt qua địch tìm đường về căn cứ... và còn nhiều gương dũng cảm gan da khác nữa!


Nhìn lại trong hơn 10 năm kháng chiến chống Mỹ cứu nước, trong chúng tôi tuy tuổi đời, tuổi quân và tuổi nghề có khác nhau nhưng đã lần lượt thay nhau theo bộ đội hành quân trên các nẻo đường, đã có mặt ở các trận đánh và chiến dịch lớn nhỏ tại chiến trường miền Nam cũng như chiến trường bạn. Tổng số phim mà đội ngũ chúng tôi đã quay và ghi lại đươc lên tới gần 50.000 mét. Từng thời gian, tuy đã có trích ra để dựng thành phim phổ biến kịp thời, nhưng phần lớn số phim đó chưa được sử dụng! Đây là một tài sản rất quý - một số vốn tư liệu phim chiến tranh có giá trị cần được giữ gìn bảo quản chu đáo để nghiên cứu khai thác tiếp tục sau này sử dụng xây dựng những bộ phim về truyền thống lịch sử của các lực lượng vũ trang nhân dân ta, về cuộc chiến tranh nhân dân vĩ đại của dân tộc Việt Nam.


Là các chiến sĩ trên mặt trận văn hoá nghệ thuật, trong biên chế của đơn vị là 107 người thì có tới 23 là liệt sĩ, ngót năm chục người là thương binh, những người còn sống thì nay hầu hết đã về nghỉ… Chúng tôi thấy rất tự hào phấn khởi vì đội ngũ chúng tôi trong suốt thời gian qua đã làm tròn nhiệm vụ một cách vẻ vang, đã góp phần trí tuệ, sức lực nhỏ bé của mình vào sự nghiệp giải phóng miền Nam, thống nhất Tổ quốc và cho nền nghệ thuật Điện ảnh trẻ tuổi Việt Nam.

P.Q.V
Logged
dungnuocgiunuoc
Thành viên
*
Bài viết: 614



« Trả lời #13 vào lúc: 30 Tháng Mười Hai, 2022, 05:19:44 pm »

NHỚ CÁC ANH*
(Điện ảnh Quân giải phóng thuộc Cục Chính trị Miền B2)


NGUYỄN VĂN LÂM


Trong kháng chiến chống Mỹ ở B2 (Nam Bộ) bệnh viện của chúng tôi hồi đó thu dung trung bình hàng tháng khoảng 500 thương bệnh binh, thời gian đột xuất khi mở chiến dịch hay thu dung tân binh ở miền Bắc mới vào bị ốm đau thì lên tới 2000 thương bệnh binh.


Tôi còn nhớ, cứ khoảng 3-4 tháng một lần đội chiếu bóng của Cục chính trị Miền - B2, lại về chiếu phim cho anh chị em thương bệnh binh và cán bộ chiến sĩ của bệnh viện chúng tôi xem.

Các anh thường chủ động đến với chúng tôi. Máy chiếu, phim, máy nổ... đều được mang theo trên những chiếc "xe đạp thồ" nặng nề, đạp ít đẩy nhiều, vì đường rừng thì hẹp lại khó đi, còn có khi phải qua suối, qua trảng ngập nước - trảng là một khoảng đất trống rất rộng, có khi hàng 2-3 km, từ phía bờ rừng bên kia sang bờ rừng bên này, nhất là vào mùa mưa thì thật là vất vả hết chỗ nói: nhiều khi phái tháo rời từng bộ phận để khiêng vác qua suối; có lúc các anh phải tìm đến đơn vị, nhờ cho người ra giúp sức cùng các anh mang máy móc phương tiện về "cứ"; đó là chưa kể trên đường đi phải hết sức chú ý đề phòng bom đạn, biệt kích... Nhưng lúc đến đơn vị là các anh khẩn trương tổ chức chiếu phim ngay cho anh chị em xem, mặc dù các anh mệt nhọc và đói, có lẽ vì sự mong đợi, sự khao khát của anh chị em lâu ngày quá rồi chưa được xem phim, đã làm cho các anh cảm thông sâu sắc bỏ qua đi những nhọc nhằn, phục vụ ngay cho anh chị em thương bệnh binh.


Thường thì các anh phải ở lại chiếu cho đơn vị chúng tôi ít nhất là vài ba buổi.

Bệnh viện có nhiều khoa, mỗi khoa lại cách nhau hàng 2-3 km đường rừng. Hơn nữa anh em thương bệnh binh nặng không đi xa được thường phải khiêng cáng anh chị em ra bãi chiếu để xem, có buổi chiếu phim kéo dài đến quá nửa đêm vì "tai nạn" máy bay, khi có báo động máy bay thì phải ngừng, máy bay đi xa lại tiếp tục chiếu, khán giả kiên trì ở lại xem cho đến hết phim, thì các anh cũng kiên trì chiếu cho bằng xong.


Ban ngày, các anh lại dành thời gian đi thăm hỏi các anh chị em thương bệnh binh ở các lán. Tình cảm giữa các anh va anh chị em thương bệnh binh thật là gắn bó đậm đà tình nghĩa đồng chí đồng đội.


Có một kỷ niệm sâu sắc mà anh chị em trong bệnh viện chúng tôi không bao giờ quên, đó là vào khoảng đầu năm 1969, các anh về chiếu cho anh chị em trong đơn vị xem hai bộ phim: Một phim truyện "Nổi gió" và một phim tài liệu “Trao trả 3 tù binh Mỹ ở Tây Ninh”, trong ba tù binh Mỹ đó có một tù binh Mỹ da mầu, bị chấn thương sọ não, đã được phẫu thuật cấp cứu kịp thời và điều trị khỏi tại bệnh viện chúng tôi. Khi xuất hiện trên màn chiếu hình ảnh của đồng chí Viện trưởng, bác sĩ Lê Thế Châu, chủ nhiệm khoa ngoại, và một số anh chị em y tá, hộ lý khác của bệnh viện thì tất cả cán bộ chiến sĩ, anh chị em thương bệnh binh đều reo hò không ngớt: "Hoan hô B8, hoan hô B8! mãi mới thôi! Anh chị em hoan hô B8 vì B8 đã nói lên được ít nhiều công lao của anh chị em trong đơn vị mà lại được chiếu phim lên màn hình thì tuyệt quá! Đó là sự cảm ơn của anh chị em trong đơn vị đối với B8.


Và cứ như thế, các anh đến rồi lại đi, bệnh viện thì đâu có ở một chỗ cố định, nhưng dù bệnh viện ở Bình Long, Phước Long, Tây Ninh, Cà Tum, Xa Mát, ngã ba Đầm Bè, Sơ Lông, Mi Mốt v.v... lại đều có mặt các anh, lâu lâu các anh chưa đến, anh chị em trong bệnh viện lại nhắc: "Sao dạo nay B8 lâu về thế!” chị em quen gọi đội chiếu bóng là B8 và coi như người nhà của bệnh viện.


Hồi đó bệnh viện nghèo, mà các anh đến phục vụ cho đơn vị cũng chẳng có gì chiêu đãi các anh, cũng chẳng có chi làm quà mà các anh cũng chẳng bao giờ đòi hỏi, nhưng giữa chúng ta lại có một món quà vô giá đó là tình cảm sâu nặng đậm đà của những người lính ở chiến trường hết đỗi thương yêu nhau, quý mến nhau, và tôi nghĩ rằng từ đó cho đến nay chúng ta cũng không quên được nhau!


Năm nay nhân kỷ niệm ngày 30/4, ngày đất nước thống nhất chung tôi lại nhớ tới các anh B8, những chiến sĩ văn hoá thầm lặng nhưng đầy vinh quang biết bao nhiêu. Xin chúc các anh vui, khoẻ, hạnh phúc và ước mong sao cho các anh được nhiều may mắn trong sự nghiệp và trong cuộc đời.


Tháng 4/98
N. V. L
Logged
dungnuocgiunuoc
Thành viên
*
Bài viết: 614



« Trả lời #14 vào lúc: 30 Tháng Mười Hai, 2022, 05:20:28 pm »

CHÙM BÁNH ÍCH


NGÔ QUANG ĐẠT


Khẩu pháo 120mm chồm lên trong ánh chớp lửa, bóng những pháo thủ, tiếng nổ ủ tai đồng thời diễn ra trong chớp mắt. Đó là cảnh cuối cùng của trận pháo kích lọt vào ống kính máy quay phim 16mm của tôi. Cả khẩu đội nhanh chóng thu pháo lui về phía sau.


Quân ta pháo kích và bao vây chi khu Lộc Ninh, chờ đón đánh quân tiếp viện bằng đường bộ và đường không của địch.

Pháo rút xong, trinh sát đưa tổ quay phim chúng tôi và thị trấn. Trời đã sáng, những mái nhà nằm dưới thung lũng, xung quanh là những đồi cao su bạt ngàn. Tiếng súng nổ, tiếng động cơ trên trời dưới đất ầm ầm. Từng tổ các chiến sĩ đang vận động ẩn hiện trên đường phố. Tôi say mê dán mắt vào kính ngắm, bấm máy.


Đường thị trấn im lặng khóng bóng người dân. Chiến tranh bom đạn đối với thị trấn này là chuyện thường tình. Chỉ khi nào an toàn họ mới rời khỏi nơi ẩn nấp.

Tôi theo các chiến sĩ trinh sát luồn lách qua các hẻm và các trục đường chính. Trên đường thỉnh thoáng một tốp bộ binh vận động thoăn thoắt. Nép vào vỉa hè tôi mải mê quan sát về phía chi khu. Đang tập trung tư tưởng chợt giật mình bởi một giọng nói nhỏ nhẹ: - "Này cậu!" Tôi quay phắt lại như bị điện giật. - "Em cầm lấy mấy chiếc bánh này ăn đỡ". Định thần lại, tôi nhận biết được điều gì đã xảy ra, vội nhẹ lắc đầu. Chị tiếp: "Lẹ lên, lỡ người ta nhìn thấy". Chợt hiểu ý chị, không kịp suy nghĩ, bị động như một cái máy tôi vội đưa tay đón nhận, miệng phát ra được mấy tiếng: "Xin cảm ơn chị".


Cái bóng thon thả nhỏ nhắn, khuôn mặt xinh xinh hiện lên những nét khắc khổ. Chị mỉm cười, đảo nhanh cặp mắt đăm chiêu một vòng rồi nhanh chóng khuất sau cánh cửa.

Sự việc xảy ra rất nhanh. Cái khoảnh khắc hiếm hoi đó còn lưu giữ mãi trong tôi. Cái giọng nói nhỏ nhẹ mà trong một câu cách phát âm đều có cả Bắc và Nam xen lẫn. Nụ cười, ánh mắt đều chứa đựng những ẩn ý sâu xa.


Tôi đi khắp nơi, ghi đươc nhiều hình ảnh về tình quân dân. Thật tiếc thay! Cái hình ảnh, việc làm của người chị vùng địch tạm chiếm đóng rất cảm động với chính bản thân lại không có trong những thước phim của mình. Hình ảnh ấy lưu mãi trong ký ức, chỉ của riêng mình. Hìn ảnh của người dân hướng về cách mạng.

N.Q.Đ
Logged
dungnuocgiunuoc
Thành viên
*
Bài viết: 614



« Trả lời #15 vào lúc: 30 Tháng Mười Hai, 2022, 05:21:41 pm »

KỶ NIỆM THỜI CHIẾN VỀ PHÓNG THÍCH TÙ BINH


NGUYỄN HÙNG TRÍ


Mười ngày sau khi tên lính chiến Mỹ đầu tiên đổ bộ lên Đà Nẵng vào đầu tháng 3 năm 1965, ba anh em chúng tôi là những sinh viên đầu tiên của miền Bắc gia nhập Quân đội Nhân dân Việt Nam với mục đích rõ rệt là đi B đánh Mỹ.


Cuộc chiến tranh phá hoại bằng không quân Mỹ đã leo thang ra Bắc. Chúng đã ném bom cầu Hàm Rồng và cầu Đò Lèn. Để an toàn hơn, đoàn đi B của chúng tôi là đoàn đầu tiên được lệnh phải đi bộ từ Thanh Hoá thay vì từ Làng Ho, Quảng Bình như các đoàn trước đây. Sau 4 tháng hành quân từ Thanh Hoá, tháng 9/65 chúng tôi tới Trung ương Cục Miền Nam đóng tại Tây Ninh. Anh Nguyễn Bùi Nguyên đươc phân công về Công trường 9 (Sư đoàn 9), anh Nguyên Gia Chán về Công trường 5 (Sư đoàn 5), còn tôi về Phòng Địch vận, Cục Chính trị Quân giải phóng Miền Nam Việt Nam và được phân công xuống Trại Tù Binh B20 lúc đó có 4 tù binh Mỹ và tạm giữ hai tù binh sĩ quan ngụy (ở cách biệt).


Trong số những tù binh bị bắt đầu tiên có hai tù binh George Smith (Trung sĩ) va Claude McClure thuộc Lực lượng Đặc biệt (Spécial Forces) bị bắt tại trại của những lực lượng này tại Hiệp Hòa (Long An) trong cuộc tấn công của du kích ta tháng 11 năm 1963. Trước sự đối xử chăm sóc hàng ngày của cán bộ chiến sĩ ta và những buổi do cán bộ quản giáo trại giới thiệu về lịch sử Việt Nam và các cuộc đấu tranh giữ gìn độc lập dân tộc, hai tù binh nay đã thấy và tin chính sách khoan hồng và nhân đạo của MTDTGP theo đạo lý truyền thống của dân tộc Việt Nam. Họ được ăn đầy đủ ba bữa với khẩu phần ăn tạm đủ cho trọng lượng cơ thể họ; được phát thuốc rê, giấy cuốn và trà cho người nghiện. Vào những ngày lễ của ta, họ cũng được thức ăn đặc biệt như tất cả mọi người trong hoàn cảnh mỗi lần "đi chợ", các chiến sĩ ta phải mất hàng tuần lễ và không ít hy sinh vì phục kích, bom đạn của Mỹ-Ngụy. Hàng ngày sau khi ăn sáng, họ mong đợi được gọi với những cái tên rút gọn "Mít", "Lu" để đi theo các anh cảnh vệ làm việc đâu đó như tát suối bắt cá, cũng có khi đi đào dế cơm để về làm món ăn ưa thích là dế nướng nhồi đậu phộng... Họ trở nên quen thuộc và thích thú với các việc phục vụ cho sinh hoạt bình thường của họ trong trại như chẻ mây làm lạt, chằm lá lợp nhà, khoan cây, đào hầm ngủ chống bom, phụ kéo đất đào giếng, bổ củi giúp nhà bếp. Lần đầu tiên được giao vót chông để bảo vệ trại và cả tính mạng họ thì họ thi đua vót nhanh vót sắc. Nhiều việc họ làm khéo không kém chiến sĩ ta.


Một chuyện rất lạ trong con mắt anh em ta là toàn bộ những tù binh này đều có thói quen giống nhau là sau khi đánh răng bằng kem đánh răng, họ nuốt luôn bọt; và sau khi xoa xà phòng tắm và kỳ cọ, họ chỉ dội nước một lần cho hết bọt chứ không kỳ cọ thêm cho hết trơn xà phòng. Cách ăn của tất cả bọn họ cũng có điểm đặc biệt là ăn hết từng món, dầu mặn nhạt thế nào, thường là món mặn trước (kể cả món mắm ruốc cực kỳ mặn) sau đến rau và cuối cùng là ăn cơm không. Bữa ăn thường kéo dài hàng tiếng đồng hồ. Tối tối họ lắng nghe bản tin tiếng Anh qua Đài phát thanh tiếng nói Việt Nam và hy vọng nghe tin chiến tranh sớm chấm dứt. Nhiều người trong họ viết bài kêu gọi lính Mỹ chống chiến tranh, được ghi âm và phát trên đài phát thanh. Họ mong các chiến sĩ ta đi chợ về mang cho họ xà phòng thơm, kem đánh răng, thuốc rê, bàn cạo râu. Có chiến sĩ còn mua cho họ bánh mỳ khi ốm đau. Chiến sĩ ta nhiều lần đi rừng về còn mang cho hoa quả rừng, khi thì nắm quả gùi, quả trường, dâu da (những thứ quá cây rừng ăn rất ngon và nhiều vitamin), hoặc một ngọn cây lá chua, khi thì cành phong lan cắm giữa sàn chung. Họ thực sự yên tâm với cuộc sống yên ổn đó và mong chờ ngày được trao trả vào lúc kết thúc chiến tranh hoặc may mắn hơn thì được phóng thích khi có dịp. Và rồi ngày ấy đã đến.


Lúc này nhân dân Mỹ phản đối chiến tranh lên cao với những hành động quyết liệt như trường hợp đốt thẻ quân dịch và thậm chí tự thiêu như trường hợp Norman Morrison, bà Alice Herz... Để đáp lại nghĩa cử đó và phối hợp với phong trào phản đối chiến tranh bên Mỹ, Mặt trận Giải phóng Miền Nam Việt Nam và Bộ Chỉ huy QGP MNVN quyết định phóng thích 2 tù binh Mỹ để họ trở về với gia đình va phong trào của nhân dân Mỹ. Smith và McMlure được lựa chọn.


Sau khi nghe Trại trưởng đọc quyết định phóng thích hai tù binh xúc động thốt lên: "Thật không thể tưởng tượng nổi. Các ông thật là nhân đạo. Xin cảm ơn Quân Giải Phóng". Họ được phép quay về trại để báo tin mừng và chia tay với các bạn tù binh khác. Ngày hôm đó họ được chuyển ra căn nhà mới và buối tối được đến ăn chung trong nhà ăn của cán bộ chiến sĩ ta. Smith và Clure lần đầu tiên được nhìn thấy bếp lò Hoàng Cầm. Họ cũng hiểu thêm về những gian khổ của cán bộ chiến sĩ trong việc duy trì được cuộc sống của họ. Sau bữa cơm, cán bộ chiến sĩ ta tặng trà "con Hổ", thuốc lá ARA và những lưu niệm là những vật dụng cần thiết hàng ngay như đèn dầu làm bằng lo thuốc có ống dẫn bấc bằng vỏ đạn Mỹ, muỗng ăn cơm, lược làm bằng vỏ bom Mỹ, mũ tai bèo, khăn rằn miền Nam. Smith va Clure không quên mang theo tất cả đồ dùng cá nhân như bòng đựng quần áo, dép cao su, chăn màn, quần áo... Họ biết rằng đây sẽ là những kỷ niệm vô cùng quý báu cho gia đình và con cháu họ sau này.


Giờ phút chia tay đã đến. Họ lưu luyến nắm chặt tay từng cán bộ, nhân viên của trại. Họ nhìn trại trưởng Lê Huệ với đôi mắt xúc động, biết ơn.

Chiều hôm sau, đoàn chúng tôi được biết là sẽ đưa hai tù binh đó đến biên giới Căm-pu-chia để giao cho đại diện ta từ Phnôm-Pênh đón nhận. Việc hành quân từ trại trên rừng biên giới Tây Bắc tỉnh Tây Ninh đi theo hướng Tây Nam đến biên giới tính Svay-riêng (Cam-pu-chia) liên tục nhiều ngày đêm, chỉ dừng nghỉ ở những khoảng đường an toàn vì phải lo đảm bảo thời gian và bí mật nhưng cũng thật lý thú cho số tù binh được phóng thích này. Cùng vượt rừng, lội suối, vượt trảng cỏ, đồng trống, đầm lầy, khi đi sát bản làng biên giới, lúc tránh đồn địch, tránh máy bay..., họ thấy được sự phối hợp chặt chẽ, chính xác giữa các đơn vị trên tuyến đường đã qua; thấy được sự dày dạn, nhanh nhẹn tháo vát, lạc quan của cán bộ chiến sĩ quân giải phóng. Họ cũng được tham gia trong việc bắt trăn trong đầm lầy, tát mương bắt cá trên dọc đường đi để cái thiện thêm bữa ăn dọc đường. Sau 4 ngày hành quân, chúng tôi tới một đồn biên giới của Cam-pu-chia tại tỉnh Svav-riêng và giao cho đại diện ngoại giao của ta đã đợi sẵn tại đó. Smith và Clure bầy tỏ lòng biết ơn, nói: "Trong khi cho chúng tôi về nhà thì các ông quay lại chiến đấu. Chúng tôi mong góp phần sớm chấm dứt chiến tranh”.
Logged
dungnuocgiunuoc
Thành viên
*
Bài viết: 614



« Trả lời #16 vào lúc: 30 Tháng Mười Hai, 2022, 05:22:11 pm »

Sau 5 tháng thẩm vấn truy hỏi và kết tội "cộng tác với địch" nhưng thất bại vì vấp phải cuộc đấu tranh ngày càng cao của nhân dân Mỹ đòi trả lại tự do cho hai tù binh đã được phóng thích này, chính Tổng thống Mỹ là Giôn-sơn lúc đó phải ra lệnh cho Lục quân Mỹ thả họ về với gia đình vào tháng 4/1966. Và phải đến năm 1971 Smith mới có thể qua nhà báo nổi tiếng Donald Duncan (người phát hiện và công bố về chuồng cọp Côn Đảo sau này) giới thiệu cho công chúng Mỹ và thế giới một cách tỷ mỷ và khá trung thực (tuy còn một số đoạn chưa chính xác) về "Hai nam làm tù binh của Việt Cộng". Thực hiện lời hứa của mình trước khi chia tay, Smith và Clure đã tham gia tích cực trong phong trào cựu binh Mỹ phản đối cuộc chiến tranh của Mỹ tại Việt Nam. Trên nhiều diễn đàn, Smith đã trở thành người nêu bật chính nghĩa và sự nhân đạo của dân tộc Việt Nam trong cuộc đấu tranh giải phóng đất nước.


Mấy năm sau chúng tôi lại thực hiện một cuộc phóng thích tù binh Mỹ nữa nhưng hoàn toàn khác trước.

Cuộc tổng tiến công và nổi dậy xuân Mậu Thân 68 đã đánh sâu vào sào huyệt Mỹ Ngụy và bắt được nhiều tù binh Mỹ. Trong số này, một hạ sĩ quan Mỹ (da mầu) tên là Brigham bị một mảnh đạn B40 bằng hạt ngô cắm vào vỏ não bị quân Mỹ bỏ lại chiến trường ven Sài Gòn vào khoảng tháng 5/1968 đã được Quân Giải phong vượt bao hiểm nguy, cáng người tù binh thoi thóp nặng hơn một tạ này về trại tù binh Mỹ trong chiến khu ở miền Đông Nam Bộ. Chỉ trong hai ngày, sau khi tiếp nhận, ngoài việc chăm sóc, sơ cứu và bồi dưỡng đặc biệt, đồng chí trại trưởng Lê Quang Huy (hiện nay ở Bến Tre) và y sĩ Châu đã thu xếp và đưa tù binh này tới Viện Quân y K70. Tại đây, bác sĩ Viện trưởng Văn Lâm (nay là giảng viên Đại học Đông Đô, Hà Nội) và bác sĩ Châu đã tiến hành ca mổ trong vòng 3 tiêng đồng hồ, lấy ra mánh đạn và đưa tù binh giữ làm kỷ niệm. Tuy chưa thật tỉnh táo sau gây mê, tù binh cảm động nói "Thank you” trước sự vui mừng của nhiều cán bộ chiến sĩ Viện và trại đứng túc trực xung quanh.


Thực hiện chính sách khoan hồng và nhân đạo của Chính phủ CM lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam, và đáp ứng nguyện vọng của nhân dân Mỹ qua phong trao phản chiến, Bộ Chỉ huy Quân giải phong miền Nam quyết định phóng thích va trao ba tù binh Mỹ cho Bộ chỉ huy Mỹ tại miền Nam Việt Nam tại một địa điểm trên chiến trường Tây Ninh. Đây là cuộc tiếp xúc đầu tiên, công khai và trực tiếp của đại diện Bộ Chỉ huy Quân giải phóng miền Nam Việt Nam và Bộ Chỉ huy quân đội Mỹ trên chiến trường, trước khi có Hội nghị bốn bên tại Paris nên có tiếng vang khá lớn trên thế giới.


Một tổ quay phim Quân giải phóng thuộc Cục chính trị miền B2 gồm các đồng chí Trường Sơn, Cần Kiệm và Quốc Hùng được lệnh lên đường để ghi lại toàn bộ diễn biên cuộc phóng thích tù binh Mỹ này.


Cuộc phóng thích dự định vào ngày 25/12/1968 nhưng hai bên không thống nhất được thủ tục giao nhận nên phải hoãn lại. Đúng 9 giờ sáng ngày 1/1/1969 máy bay trực thăng chở 5 sĩ quan của Mỹ hạ cánh xuống bến Tà Xiêm, Tây Ninh gặp đoàn đại diện Bộ chỉ huy Quân giải phóng miền Nam ở miền Đông Nam bộ. Do có chuẩn bị trước từ phía Mỹ nên không có một bóng máy bay nào quấy nhiễu. Đồng chí Năm Lực, trưởng đoàn Quân giải phóng tiếp nhận biên nhận của trưởng đoàn Mỹ và yêu cầu phía Mỹ không được tiến hành bất kỳ hành động chiến tranh nào trong vòng hai tiếng đồng hồ sau khi hoàn thanh trao trả. Đồng chí Năm Lực nhắn nhủ các tù binh Mỹ:"Nhân dân Việt Nam và Chính phủ Cách mạng Lâm thời Cộng hoà miền Nam Việt Nam mong các ban mạnh khoẻ, sớm đoàn tụ cùng gia đình và tham gia phong trao phản chiến để sớm chấm dứt cuộc chiến tranh này ở miền Nam Việt Nam". Cả ba tù binh rất xúc động, riêng Brigham lúc này đã hoàn toàn khỏe, hô lớn "Thank you". Vậy mà sau khi trực thăng chở lính Mỹ cất cánh thì hàng chục máy bay quân sự các loại quần đảo để lùng sục tìm kiếm đường vận động về hậu cứ của ta va uy hiếp tinh thần nhân dân trong vùng.


Đoàn đã trở về hậu cứ an toàn và chỉ sau một thời gian ngắn bộ phim phóng sự “Trao trả ba tù binh Mỹ ở Tây Ninh" do anh em điện ảnh Quân giải phóng B2 thực hiện đã được chiếu rộng rãi ở các đơn vị, các bệnh viện thuộc miền Đông Nam Bộ.

N.H.T
Logged
dungnuocgiunuoc
Thành viên
*
Bài viết: 614



« Trả lời #17 vào lúc: 30 Tháng Mười Hai, 2022, 05:23:12 pm »

MỘT CƠN MƯA MIỀN ĐÔNG


LÊ VĂN VỌNG


Vào khoảng cuối mùa mưa năm 1970, bầu trời lúc nào cũng sũng nước và như thấp hẳn xuống. Mây màu chỉ sà chạm đỉnh rừng, tưởng giơ tay có thể nắm được. Những trận mưa kéo dài thâu đêm, vắt cả sang ngày. Nước dâng tràn sông, suối, chảy cuồn cuộn như thác.


Dường như còn giọt nước nào ông trời đổ nốt xuống để rồi sáu tháng sau đó lại bắt con người, cây cối phải chịu cảnh khô nắng dữ dằn.

Ngoài cái dạn dày bom đạn, những người lính miền Đông cũng phải quen với sự khắc nghiệt của thời tiết.

Căn cứ của Đại đội I, Tiểu đoàn 49 vận tải xe đạp nằm trong môt khu rừng thuộc tỉnh Phước Long. Dưới những tán cây bị mảnh bom cắt cụt, những căn hầm vẫn tỏa đều hơi ấm con người và cũng từ đây những bàn chân đêm đêm ra đi góp lửa cho chiến trường.


Biết được chúng ta đang chuẩn bị cho chiến dịch mùa khô, đã hơn một tháng qua, địch tập trung đánh cắt những con đường dẫn xuống vùng giáp ranh các khu căn cứ, chi khu lớn cua chúng. Ném bom, rải chất độc, thả biệt kích v.v.... thế nhưng sức sống tuôn chảy trên những con đường chưa khi nào bị chặn. Suốt nhiều đêm chúng tôi chưa khi nào vắng mặt trong đội hình đơn vị. Có thể nói được tận mắt chứng kiến những lần vận chuyển "hàng" ra phía trước trong những ngày mùa mưa này, mới thấm thìa được nỗi gian khổ, cực nhọc của người lính vận tải miền Đông.


Những chiếc xe đạp thô sơ nhãn hiệu "Con Nai nằm", trước xe buộc một cái đèn ống bơ, thế nhưng hiệu quá của nó chẳng kém gì các phương tiện cơ giới.

Súng đạn, gạo, quân trang... chát cao lù lủ, nhìn không thấy người đẩy xe. Cả k-hôi hàng ấy cứ "Tự hành" trên đường. Không ai thồ dưới 200kg, nhiều người đạt tới con số 300, 350 và cả 400 kg nữa.

Cũng vì tính ưu việt của loại phương tiện vận tải này mà chúng ta đưa được cả những kho dự trữ hậu cần vào sát nách địch một cách bí mật, an toàn. Tôi đã có nhiều ngày được sống với các chiến sỹ xe thồ Tiểu đoàn 49, chứng kiến niềm vui và cả lúc nguy hiểm.


Đêm đêm những chiếc xe đạp "no hàng" ra đi, len lỏi giữa gốc cây, hố bom, men bờ suối, khi lên dốc, lúc xuống khe, thầm lặng, kiên nhẫn. Trong chuyến hàng đêm ấy chúng tôi đã gặp một trận mưa lớn. Cả đại đội xe thồ chở đầy hàng đạn như đi trên con đường đổ mỡ. Nhiều trường hợp cả người và xe "trôi" xuống vực. Phải xúm nhau vào, người đẩy, người kéo, người "bắt bánh"... "Trục" được xe hàng trở lại mặt đường là mồ hôi trộn máu. Lại có chỗ đất dẻo như nhựa đường, bám két, bánh xe không sao lăn được. Đi một đoạn lại dừng xe cậy đất.


Mọi lần vào thời điểm đó cả đại đội đã lên tới đỉnh dốc, dựa xe ngồi nghỉ, nhưng vì trận mưa tối, làm cho tốc độ đi bộ chậm lại. Khi người đi đầu vừa tới suối cạn, thì bom B52 đã nổ trên đỉnh dốc. Nhìn lên lửa chớp liên hồi, đất bay, cây đổ ầm ầm. Ba loạt bom B52 đã làm đỉnh dốc biến dạng, khi lần tới nơi không còn nhận ra những vị trí quen thuộc. Những thân cây đổ, vạt đất bằng, hay ụ mối mà trước đây anh em thường ngồi nghỉ sau chặng đường dài, đã bị bom đào hất. Nhìn cảnh tượng đó ai cũng thót tim.


Nếu không có trận mưa "ghìm" chân thì chắc chắn trận bom đã "hốt" gọn đơn vị rồi. Trong nỗi vui mừng thoát hiểm, mọi người đã gọi đó là cơn mưa "cứu sinh" của Miền Đông.

L.V.V
Logged
dungnuocgiunuoc
Thành viên
*
Bài viết: 614



« Trả lời #18 vào lúc: 30 Tháng Mười Hai, 2022, 05:24:18 pm »

Ở CHIẾN TRƯỜNG B2


ĐÀM THỊ LOAN


... Giữa năm 1967, đồng chí Nguyễn Chí Thanh, Bí thư Trung ương Cục ở B2 ra Bắc họp. Trong lúc chuẩn bị lên đường trở vào B2, anh bị bệnh đột ngột mất tại Hà Nội.

Lúc này anh Hoàng Văn Thái đang trên đường từ Khu 5 ra Ha Nội thì được báo không ra Bắc nữa, mà tiếp tục vào B2 luôn. Cả đoàn biết tin đồng chí Nguyễn Chí Thanh mất quá đôt ngột, ai nấy đều đau xót, thương tiếc ngươi con trung thành của Đảng, một cán bộ lãnh đạo kiên cường, dũng cảm. Đồng chí mất đi giữa lúc cách mạng ở miền Nam đang trong giai đoạn quyết liệt, đó là một thiệt thòi lớn lao cho đất nước, cho nhân dân, cho Đảng. Mọi người không ai cầm được nước mắt vì quá đau buồn.


Trên đường vào B2 anh Thái biên thư cho tôi: "Em có thể thu xếp công tác và gia đình để vào B2 công tác được không?"

Anh biết, khi trước tôi học Trường Chính trị trung cao, có phong trào xung phong đi chiến trường tôi cũng xung phong, xin được đi chiến trường.

Được thư anh, tôi rất vui. Niềm vui được nhân đôi khi Ban tổ chức Trung ương báo tin cho tôi được vào miền Nam công tác. Tôi báo tin vui cho anh biết.

Cuối tháng 7 năm 1967, tôi được cấp trên đồng ý cho vào B2 chiến đấu. Việc này tôi có tâm sự với một vài chị em cùng có chồng công tác ở B2. Các chị nói với tôi:

- Chị Loan có anh Thái công tác ở B2 rồi, chị nên nghĩ cho kỹ, ở ngoài này chị vừa công tác, vừa chăm lo cho các cháu, để anh yên tâm công tác thì tốt hơn. Phải tính khả năng xấu nhất, nếu cá hai vợ chồng không may hy sinh, tội nghiệp cho các cháu quá.


Ý kiến của các chị cũng làm tôi suy nghĩ. Các chị phát biểu chân thành quá. Nghĩ đến cánh cả hai vợ chồng đều không may hy sinh để cho các cháu ở ngoài nay mồ côi cả cha lẫn mẹ, tôi lại thấy phân vân. Nhưng rồi tôi tự nghĩ, từ trước tới nay, việc sống chết biết thế nào mà lường được? Nếu rủi ro mà chết thì chết vì độc lập tự do, thống nhất đất nước, không có điều gì phải ân hận. Các con tôi sẽ không mồ côi, chúng sẽ được sống trong vong tay âu thương của Đảng và Bác Hồ.


Việc con cái, tôi phải sắp xếp cho chu đáo để bán thân nhẹ nhàng mà yên tâm lên đường.

Đầu tháng 11 năm tôi lên đường, cùng đi trong đoàn có đồng chí Quang ở cục Quân báo, đồng chí Điện ở Cục Tác chiến và bảy đồng chí nữa. Không phải nói đến những nhọc nhằn gian khổ trên đường Trường Sơn, mặc dầu đoàn tôi ít người. Sáng dậy sớm lên đường, tôi nghỉ tại các trạm giao liên; trên đường vào đến trạm cuối cùng của đường dây 559 là quá vất vả, mệt nhọc. Vao đường dây của B2, chúng tôi được nhận mỗi người một xe đạp. Đi xe đạp trên đường mòn Hồ Chi Minh là một điều thật thú vị, nhưng phái là người quen thuộc đường và phải biết phanh xe băng chân mới bảo đảm an toàn. Tôi chỉ quen dùng phanh tay, chưa quen phanh chân, nên có lần suýt chết. Hôm ấy xe đang lao xuống dốc vun vút, tôi mất bình tĩnh nên quên nghĩ đến phanh chân, xe cứ lao xuống, phanh tay không làm sao giữ được, sống chết trong gang tấc. May quá, có một đồng chí đang ngồi nghỉ chạy ra, nắm xe giữ lại. Thật là hú vía. Bấy giờ xuống xe, tôi mới tin là thoát nạn và cảm ơn đồng chí đã giúp đỡ tôi lúc quá nguy hiểm, ở chiến trường là như thế. Trước những khó khăn nguy hiểm tới tính mang bất kể ai cũng sẵn sàng xả thân vì đồng đội. Tôi ân hận vì cho đến nay, không hỏi được tên và đơn vị của đồng chí đó.


Đầu tháng 2 năm 1968, tôi đến Cục Chính trị Miền. Anh Hai Chân, Cục trưởng Cục Chính trị, anh Ba Lưu, Ba Thắng, anh Tám Trần và một số anh chị em trong cơ quan đến thăm hỏi chuyện trò rất vui. Trình giấy tờ với phòng Cán hộ xong, tôi xin phép sang Bộ chỉ huy thăm nhà tôi. Giữa nơi chiến trường ác liệt gặp lại nhau, chúng tôi xiết bao vui mừng. Nhà tôi bấy giờ lấy bí danh là Mười Khang.


Anh Thái giới thiệu tôi với một số anh em trong Bộ Chỉ huy Miền và các anh chị em khác trong cơ quan. Thấy tôi vào an toàn mạnh khoẻ, mọi người tỏ ý vui mừng. Anh Thái bấy giờ là Phó Bí thư Trung ương cục, vừa phụ trách Bộ Chỉ huy nên rất bận. Dạo ấy đang giữa mùa chiến dịch tổng tấn công Tết Mậu Thân. Tôi chỉ ở lại hai ngày, tôi kể cho anh nghe tình hình gia đình, con cái, anh em bạn bè... Anh rất vui khi nhận được thư các con. Tính anh vẫn vậy, dù bận đến đâu, nhưng hàng tháng anh vẫn dành thì giờ biên thư động viên các con chăm học, ngoan vâng lời thầy cô và các cô chú. Sau đó tôi trở lại phòng Cán bộ nhận công tác ngay. Tôi được phân công làm công tác chính sách: lo chuyện hậu phưong cán bộ và công tác bảo dưỡng dưới sự chỉ huy của đồng chí Bảy Phương, phụ trách phòng Cán bộ; đồng chí Thanh Đồng phụ trách Ban chính sách.


Hôm sau có môt đồng chí bên cơ quan Bộ Chỉ huy sang gặp tôi. Đồng chí nói:

- Chúng tôi muốn chị Mười sang công tác bên cơ quan Bộ Chỉ huy. Chị ở đây rất tiện, vừa công tác, vừa góp phần chăm sóc sức khỏe cho anh Mười thêm. Ý kiến chị thế nào?

- Tôi không muốn hai vợ chồng cùng công tác một chỗ, nhất là chồng tôi lại là chỉ huy. Vả lại tôi làm công tác này quen rồi. Tôi rất cám ơn sự quan tâm của của các đồng chí, nhưng mong các đồng chí thông cảm cho.

Công tác hậu phương, bảo dưỡng cán bộ ở trong này gặp nhiều khó khăn hơn ở Hà Nội. Vì bộ phận này người thì ít, chỉ có ba người, đối tượng chăm sóc lại đông, trong hoàn cảnh thiếu thốn mọi thứ. Bộ phận tôi phải phụ trách ba cục (Chính trị, Tham mưu và Hậu cần), các sư đòan và các tỉnh đội. Ở chiến trường đời sống rất khó khăn, có được gạo là tốt lắm rồi. Mỡ, thịt, cá đều là xa xỉ và rau lại là quý hiếm. Công tác chăn nuôi, trồng trọt rất được các đơn vị quan tâm, nhưng bị máy bay địch săn lùng dữ quá. Phát hiện được một mảng rưng được phát quang để trồng trọt và máy bay địch bắn phá liên tục cho đến khi tan nát mới thôi. Hơn nữa do yêu cầu giữ bí mật, đề phòng địch tập kích, cơ quan đổi chỗ luôn. Thuốc men chủ yếu trông cậy vào sự chi viện của miền Bắc, cũng may mà hàng của miền Bắc gửi vào đều đặn và kịp thời. Không những chỉ có thuốc men mà còn cả súng săn để phát cho các đơn vị tổ chức săn bắn, cải thiện thêm đời sống vật chất.
Logged
dungnuocgiunuoc
Thành viên
*
Bài viết: 614



« Trả lời #19 vào lúc: 30 Tháng Mười Hai, 2022, 05:25:29 pm »

Ở chiến trường B2 ngại nhất mùa mưa. Vì mùa mưa là mua sức khoẻ của cán bộ và chiến sĩ sút kém nhất trong năm. Nhưng mùa mưa cán bộ lại hay về họp. Biết vậy, tôi đề nghị cấp trên tranh thủ bồi dường cho cán bộ ăn uống, thuốc men luôn trong thời gian họp, để họp xong, các đồng chí có sức khoẻ khá hơn để về chiến đấu.


Giữa năm 1968 anh Thanh Đồng sốt xuất huyết, chỉ có năm ngày anh mất. Tôi làm cả phần việc của anh. Thời kỳ này thật là bận, có hôm cán bộ các đơn vị mười một, mười hai giờ đêm mới về đến nơi rồi lại phải đi ngay. Thế là, phải giải quyết các mục bảo dưỡng luôn cho các đồng chí để kịp thời bồi bổ sức khoẻ. Tuy bận rộn, nhưng công việc vẫn trôi chảy vì đươc sự ủng hộ của cán bộ trong cơ quan.


Từ đầu năm 1969 tháng nào cũng vậy tôi đều có qua Cục Tham mưu làm việc với phong Cán bộ về việc bảo dưỡng. Hôm ấy là mồng 2 tháng 9 năm 1969, làm xong việc tôi ghé sang Bộ Chỉ huy thăm anh Thái. Lấn này không thấy anh vui như mọi khi, tôi đoán hoặc là anh ốm, hoặc ở Miền có chuyện gì rắc rối. Tôi hỏi anh mới biết ở Hà Nội điện vào, Bác Hồ ốm rất nặng, và đến trưa thi được tin: Bác mất!!! Tất cả lặng im, rồi mọi người khóc sướt mướt. Tôi có nín khóc mà nước mắt cứ chảy giàn giụa. Ai đó thốt lên tiếng nói:

- Bác ơi, chúng cháu chưa tròn nhiệm vụ đón Bác vào thăm đồng bào miền Nam. Nay Bác đã đi rồi, làm sao đây!

Thế là tất cả không kìm được nữa, oà khóc nức nở thành tiếng. Tôi vừa khóc vừa ra về.

Trước tình hình chung như thế, Cục Chính trị thấy không có lợi, nhất là đối với các đồng chí sắp ra mặt trận, bèn triệu tập một cuộc họp khẩn cấp để kịp thời lãnh đạo tư tưởng, ổn định tinh thần cho anh em. Nếu không, có khả năng sẽ làm giảm sút sức chiến đấu, và cũng có thể tạo điều kiện cho địch thừa cơ đánh lấn tới.


Ngày mùng 9 tháng 9 năm 1969 tất cá hơn sáu trăm cán bộ và chiến sĩ thuộc Bộ Chỉ huy và ba Cục tổ chức lể truy điệu Bác. Buổi sáng mùa thu lặng gió. Từng đoàn người lặng lẽ tiến vào một khu rừng rậm rạp, đường vào gập ghềnh để đến lễ đài tưởng niệm. Bộ Chỉ huy có đủ mặt các anh Thái, anh Trà, anh Tấn, anh Độ... Người đông như thế mà khu rừng thì im phăng phắc, chỉ có tiếng khóc nức nở và những tiếng nấc bị ghìm nén lại. Lời điếu văn truy điệu vừa dứt, đáp lại lời kêu gọi của Bộ Chỉ huy Miền là những tiếng hô "xin thề" vang như sấm dậy. Quyết tâm biến đau thương thành sức mạnh, đánh cho kỳ được “Mỹ cút, ngụy nhào", để cho Bắc Nam xum họp một nhà.


Bác mất, đau thương ấy đến với chúng tôi bất ngờ quá, và nỗi mất mát lớn quá. Ai cũng cảm thấy mình có lỗi với Bác. Cả cuộc đời Bác dâng hiến cho dân tộc, mà cho đến khi ra đi, một nguyện vọng quá ư giản dị của Bác là được gặp gỡ đồng bào miền Nam cũng không thực hiện được.

- Bác ơi! Thế là hy vọng ngày chiến thắng hoàn toàn, trở về Hà Nội báo cáo với Bác là chúng cháu đã hoàn thành nhiệm vụ Bác giao không còn nữa.

Cơn choáng váng đã qua đi, chúng tôi lao vào công tác với một quyết tâm mạnh mẽ đúng như lời hứa trước hương hồn Người. Một mặt lo cho một số cán bộ vào địch hậu hoạt động, một mặt lo cho một số cán bộ ra mặt trận và dành nhiều thời gian cho việc đưa một số cán bộ và phần lớn anh em thương bệnh binh ra Bắc điều trị. Đây là một nhiệm vụ rất lớn đối với Ban tôi.


Trước hết phải đưa tất cả thương bệnh binh không còn khả năng chiến đấu ra trước. Đi bằng đường bộ, một số không đi được, thì bố trí người khiêng.

Còn lại có thể đi bộ từng chặng ngắn rồi nghỉ, có bác sĩ y tá đi theo chăm sóc. Chủ trương này được thực hiện nhanh chóng. Các binh trạm trên đường dây chấp hành các quy định khá nghiêm túc, nên nhìn chung, việc đưa thương bệnh binh ra Bắc đã chót lọt và không có tổn thất gì nghiêm trọng.


Ở chiến trường B2 không lâu bằng các đồng chí khác, nhưng những ngày gian khổ nhất tôi cũng đã trải qua. Tôi còn nhớ dạo đầu năm 1970 vấn đề gạo là khó khăn nổi cộm nhất toàn Miền. Tình hình biên giới không ổn định, máy bay địch oanh tạc nhiều, gạo không chuyển về được. Vòng vây của địch ở đồng bằng quá chặt nên gạo ở vùng địch hậu cũng không lên được. Mọi ngươi phải ăn ngô bung thay cơm. Có thêm muối là đã quý chứ đừng nhắc đến thịt, cá. Do đó cán bộ ốm đau quá nhiều, bệnh sốt huyết phát triển. Có nhiều đồng chí sốt vài ngày đã bị đi tiểu ra máu. Tình hình này lam công tác bảo dưỡng cán bộ gặp quá nhiều khó khăn. Tiền không thiếu, nhưng thiếu hiện vật, và ở trong rừng bây giờ hiện vật quý hơn tiền. Thấy công việc của tôi tuv không nguy hiểm, ác liệt, nhưng suốt ngày và có khi cả đêm nữa cũng vất vả nên cấp trên ưu tiên cho phép chỉ làm việc chuyên môn, các công tác khác được miễn. Nhưng tôi nghĩ về sức khoẻ, tôi có thể cố gắng tham gia được với anh em các mặt công tác khác. Có đồng cam cộng khổ với nhau thì mới dễ gần nhau, hiểu nhau và từ đó có thể xoá bỏ được một số định kiến hẹp hòi trong vấn đề Nam - Bắc.


Tôi cũng tham gia làm nhà, đào hầm, đi tải gạo hàng chục cây số. Cuộc sống tuy có gian khổ song thật chan hoà thân ái, lúc rỗi rãi còn tổ chức ca hát như thời còn trẻ ở Việt Bắc.

Tôi còn nhớ một hôm vừa đi xem phim về, khoảng mười hai giờ đêm, có lệnh báo động di chuyển ngay để tránh khả năng bị B52 oanh tạc. Chúng tôi đi suốt đêm trong mưa tầm tã, tay chân lạnh cóng, cứng nhắc, ngồi xuống phải nhờ người đỡ, đứng lên phải nhờ người kéo tay. Rồi lại phải vượt sông. Anh em biết bơi buộc thừng vào cổ tay chị em rồi cầm dây bơi qua trước, đến nơi thì kéo chị em sang. Ba lô súng đạn bọc vào ni lông, túm lại buộc chặt làm phao. Xe đạp cũng nhờ anh em kéo sang. Gian khổ hết chỗ nói, nhưng mỗi lần vươt qua lại quên hết, cùng nhau đùa vui, cười vang như là không có chuyện gì xảy ra. Tôi đã được sống lại không khí của những ngày ở chiến khu Việt Bắc năm xưa...

Đ.T.L
Logged
Trang: « 1 2 3 4 5 »   Lên
  In  
 
Chuyển tới:  

Powered by MySQL Powered by PHP Powered by SMF 1.1.21 | SMF © 2006-2008, Simple Machines

Valid XHTML 1.0! Valid CSS! Dilber MC Theme by HarzeM