Lịch sử Quân sự Việt Nam
Tin tức: Lịch sử quân sự Việt Nam
 
*
Chào Khách. Bạn có thể đăng nhập hoặc đăng ký. 29 Tháng Ba, 2024, 03:45:53 pm


Đăng nhập với Tên truy nhập, Mật khẩu và thời gian tự động thoát


Trang: 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 16 17 18 19 20 21 22 23 24 25 26 27 28 29 30 31 32 33 34 »   Xuống
  In  
Tác giả Chủ đề: Thượng tướng GS Hoàng Minh Thảo - Tác phẩm giải thưởng Hồ Chí Minh  (Đọc 9380 lần)
0 Thành viên và 1 Khách đang xem chủ đề.
vnmilitaryhistory
Moderator
*
Bài viết: 1830



« vào lúc: 06 Tháng Mười Hai, 2022, 07:03:47 pm »

- Tên sách: Thượng tướng GS Hoàng Minh Thảo - Tác phẩm giải thưởng Hồ Chí Minh
- Tác giả:
- Nhà xuất bản: Quân đội nhân dân
- Năm xuất bản: 2006
- Người số hóa: vnmilitaryhistory
 

Chỉ đạo thực hiện:

   Đại tá PHẠM QUANG ĐỊNH

   Đại tá PHẠM BÁ TOÀN

   Thượng tá NGUYỄN ĐỨC HÙNG


Tổ chức thực hiện:

   Đại tá HOÀNG ĐỨC NHUẬN

   Đại tá NGUYỄN TRUNG KIÊN

   Thiếu tá NGUYỄN MINH TUẤN

   Họa sĩ PHẠM VŨ QUỲNH
Logged
vnmilitaryhistory
Moderator
*
Bài viết: 1830



« Trả lời #1 vào lúc: 06 Tháng Mười Hai, 2022, 07:05:32 pm »

HOÀNG MINH THẢO VỊ TƯỚNG CỦA NHÂN DÂN
(Lời giới thiệu của Họa sĩ Phạm Vũ Quỳnh)


Thượng tướng, Giáo sư Hoàng Minh Thảo (tức Tạ Thái An) nguyên Tư lệnh chiến dịch Tây Nguyên, chỉ huy trưởng trận đánh Buôn Ma Thuột, một đòn then chốt chiến lược mở đầu cuộc Tổng tiến công chiến lược mùa Xuân năm 1975, giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước.


Ông sinh ngày 25 tháng 10 năm 1921, tại thôn Cao, xã Bảo Khê, huyện Kim Động, tỉnh Hưng Yên. Cha ông làm nghề thợ may nổi tiếng ở quê nhà, vì nhiệt tình ủng hộ cách mạng, nên bị địch truy bức phải rời ra Quảng Ninh rồi chuyển lên Thất Khê - Lạng Sơn để sinh sống.


Năm 13 tuổi, ông được cha gửi về Hà Nội học ở trường tư thục Thăng Long, nơi đã đào tạo ra nhiều người con ưu tú cho đất nước. Ông thuộc thế hệ học sinh của các thầy dạy lúc đó là Đặng Thai Mai, Võ Nguyên Giáp, Phạm Văn Đồng, Hoàng Minh Giám... Sau thắng lợi của Mặt trận bình dân ở Pháp, phong trào cách mạng ở Việt Nam cũng phát triển rất mạnh mẽ. Là học sinh, ông tham gia và tìm hiểu về cách mạng nên đã bị nhà cầm quyền thực dân Pháp bắt tháng 4 năm 1938. Sau một tuần bị tra khảo, vì không có bằng chứng nên chúng buộc phải thả ông. Lần bị giặc Pháp bắt trở thành bước ngoặt đầu tiên trong cuộc đời hoạt động cách mạng của ông. Về Lạng Sơn, ông tích cực tham gia hoạt động ở đảng bộ huyện Tràng Định.


Năm 1941 khi Bác Hồ trở về nước chỉ đạo cách mạng, Người đã chọn ông cùng một số thanh niên yêu nước như: Hoàng Văn Thái, Đàm Quang Trung, Vũ Lập, Nam Long, Thanh Phong,... sang Trung Quốc đào tạo về quân sự để chuẩn bị cho cách mạng Việt Nam. Khoá học thuộc phân hiệu của Trường quân sự Hoàng Phố, được tổ chức ở Liễu Châu và huấn luyện ở Nam Ninh (Trung Quốc). Cuối năm 1944, tình hình thế giới và trong nước có nhiều biến động. Lúc đó Bác Hồ được nhà cầm quyền của Tưởng Giới Thạch trả tự do. Vừa ra tù, Người đi giao thiệp ngay để xin cho những thanh niên đang được đào tạo này về nước và chính họ là lớp người đầu tiên xây dựng Quân đội nhân dân Việt Nam. Khi đó ông được phân công về Lạng Sơn để xây dựng cơ sở du kích, làm chính trị viên trung đội. Mới một tuổi quân, ông đã chỉ huy đội du kích tiêu diệt đồn Pò Mã nổi tiếng (5-1945) và tham gia cách mạng tháng Tám cùng nhân dân cướp chính quyền ở huyện Tràng Định - Lạng Sơn.


Cách mạng tháng Tám thành công, ông được gọi về Hà Nội. Bác Hồ giao nhiệm vụ cho ông thay tướng Nguyễn Bình, để tướng Nguyễn Bình vào miền Nam công tác. Với cương vị Khu trưởng Chiến khu 3, ông bắt tay ngay vào việc tiễu phỉ ở Móng Cái - Quảng Ninh. Lúc này phong trào cách mạng của ta trên cả nước đang ở thế mạnh, riêng vùng Móng Cái - Hà Cối còn nằm dưới sự kiểm soát của bọn thổ phỉ. Là người chỉ huy sâu sát và gan dạ, ông cùng một cán bộ đã tìm cách vào tận hang ổ của bọn thổ phỉ để trinh sát. Sau khi điều tra nắm tình hình trở về, ông tổ chức bộ đội chiến đấu, đồng thời kết hợp với địch vận, đưa chính quyền mới về tay nhân dân. Tháng 11 năm 1946, thực dân Pháp gây hấn ở Hải Phòng, chúng đã vấp phải thế trận chiến tranh nhân dân đang dâng lên ngày càng mạnh mẽ. Nơi đây thường xuyên diễn ra những trận đánh phối hợp của bộ đội chủ lực và dân quân du kích do ông chỉ huy nhằm vào hậu phương địch ở Hải Phòng, Kiến An, trên đường 5... khiến cho chúng ăn không ngon, ngủ không yên và bị tổn thất rất nặng nề.


Năm 1949, ông về làm Tư lệnh Liên khu 4 thay cho tướng Nguyễn Sơn và đến năm 1950, ông được bổ nhiệm làm Đại đoàn trưởng Đại đoàn 304, đại đoàn chủ lực thứ hai của Quân đội nhân dân Việt Nam. Dưới sự chỉ huy của ông, đại đoàn đã lập được nhiều chiến công vang dội trên các chiến trường Trung Lào, Cánh Đồng Chum, trận đánh ở Chùa Cao - Ninh Bình và những trận đánh ngăn chặn quân địch, bảo vệ vững chắc hậu phương Khu 4 để ta tập trung nhân tài vật lực cho chiến dịch Điện Biên Phủ.


Năm 1954, ông được giao làm Hiệu trưởng Trường bổ túc quân chính Bắc Sơn đầu tiên của quân đội ta, đến năm 1956 trường chuyển thành Trường quân sự trung cao và sau là Học viện quân sự. Năm 1962 có một thời gian ông lại tham gia học tập tại Trung Quốc. 12 năm sau ngày hoà bình lập lại trên miền Bắc, vừa nghiên cứu khoa học, vừa giảng dạy, ông cùng với các đồng đội và những học viên vừa từ trong chiến trường ra học tập đã đúc kết được nhiều bài học quý báu cho nền nghệ thuật quân sự cách mạng.


Năm 1966, ông nhận nhiệm vụ làm Phó tư lệnh mặt trận B3 Tây Nguyên. Trên mặt trận nóng bỏng và ác liệt này, tài thao lược và mưu trí sáng tạo trong nghệ thuật chỉ huy quân sự của ông ngày càng được bộc lộ.


Năm 1967, với cương vị Tư lệnh mặt trận B3 Tây Nguyên, ông đã chỉ huy chiến dịch Đắc Tô 1 giành được thắng lợi xuất sắc. Kế thừa những kinh nghiệm từ chiến dịch Plây Me năm 1965 và chiến dịch Sa Thầy năm 1966, lần này ông cũng vận dụng cách dụ địch vào thế trận của ta. Ông phán đoán, khi ta cho đơn vị pháo binh đánh khêu ngòi vào căn cứ của địch, thì thế nào địch cũng cho quân ra đánh đuổi bộ phận khêu ngòi của ta, kết hợp dùng máy bay lên thẳng đổ quân xuống phía sau đội hình đơn vị khêu ngòi của ta để bao vây tiêu diệt. Nếu đơn vị đổ bộ bằng máy bay lên thẳng này bị ta đánh, thì chúng lại đổ quân tiếp vào sâu hậu phương để cắt đứt môi liên hệ giữa bộ đội đang chiến đấu và đánh phá hậu phương của ta. Dựa vào kinh nghiệm và phán đoán quy luật, thủ đoạn hành động của địch, với một lực lượng hơn 3 trung đoàn của ta, ông đã bày ra một thế trận nhiều tầng, nhiều lớp và sẵn sàng đón đánh địch bằng "chiến thuật vận động tiến công kết hợp chốt", đây là một chiến thuật mới được sáng tạo nhằm hạn chế sức mạnh cơ động của quân Mỹ.


Mưu kế dụ địch từng bước vào sâu trong thế trận của ta đã thành công. Mặc dù Mỹ - ngụy tăng cường mọi sức mạnh sẵn có, sử dụng trung bình mỗi ngày 700 lần chiếc máy bay, có cả máy bay B52 tham gia ném bom yểm trợ, nhưng vẫn không cản phá được các trận tiến công rộng lớn của ta đánh bại từng tiểu đoàn quân Mỹ. Lần đầu tiên trên chiến trường Tây Nguyên, ta dùng mưu lừa được 2 lữ đoàn Mỹ và 1 lữ đoàn (thiếu) quân ngụy ra nơi chọn sẵn, nhằm đánh bại chiến lược "tìm diệt" của Mỹ - ngụy và đánh thiệt hại nặng 1 lữ đoàn cơ động chiến lược của Mỹ, làm cho quân Mỹ từ đó rất e ngại tiến sâu vào khu căn cứ của ta.


Đầu năm 1970, ông cùng với Đảng ủy và Bộ tư lệnh mặt trận B3 Tây Nguyên chủ trương mở chiến dịch Đắc Xiêng. Trong chiến dịch này, mưu kế của ta là đánh Đắc Xiêng để dụ địch ở Tân Cảnh ra cứu, rồi tiêu diệt quân cứu viện bằng đường bộ và đường không. Trong trận Đắc Xiêng quân ta đã vây tròn, vây chặt cả bốn mặt bằng chiến thuật "vận động bao vây liên tục". Đây cũng là một chiến thuật mới sáng tạo, nhằm hạn chế hoả lực sát thương của địch, bao vây chặt quân địch, sau đó liên tục công kích cho đến khi dứt điểm làm chủ trận địa.


Năm 1972, ông chỉ huy chiến dịch Đắc Tô - Tân Cảnh (Đắc Tô 2) giành thắng lợi to lớn. Không gian chiến dịch gần trùng hợp với chiến dịch Đắc Tô 1 - năm 1967, nhưng lần này đối tượng tác chiến là quân ngụy có sự chi viện tối đa của hoả lực Mỹ. Mưu kế chiến dịch là nghi binh lừa địch, bằng cách mở hai con đường cơ giới phía tây thị xã Kon Tum. Đây là con đường làm giả nhằm thu hút địch về phía đó, làm cho địch tập trung lực lượng vào thị xã Kon Tum mà để sơ hở Đắc Tô - Tân Cảnh. Lợi dụng sơ hở này ta mở một con đường quân sự làm gấp nối vào đường 14 để đưa lực lượng chủ chốt và xe tăng vòng về phía đông Đắc Tô - Tân Cảnh, là hướng địch không hề ngờ tới. Khi đã tạo được thế trận và thời cơ, quân ta siết chặt vòng vây ngăn chặn cụm thị xã Kon Tum và tập trung lực lượng đột phá cụm Đắc Tô - Tân Cảnh. Địch bị trói chân ở Kon Tum không thể đi phản kích, trong khi toàn bộ quân ở Đắc Tô - Tân Cảnh bị tiêu diệt, cụm phòng ngự phía bắc tỉnh Kon Tum sụp đổ nhanh chóng. Chiến thắng Đắc Tô - Tân Cảnh cùng với các chiến thắng của chiến dịch Quảng Trị, chiến dịch Đông Nam Bộ và ''chiến dịch Điện Biên Phủ trên không" trong năm 1972 có ý nghĩa chiến lược quan trọng, đưa chiến tranh bước sang một giai đoạn mới, buộc Mỹ phải ký kết Hiệp định Pa-ri và rút quân về nước, còn quân ngụy phải chuyển vào thế phòng ngự chiến lược.


Năm 1973, ông ra Hà Nội họp. Trong một buổi làm việc, ông nêu ý kiến với Đại tướng Võ Nguyên Giáp: Khi đã chọn hướng chiến lược là Tây Nguyên thì trước hết nên đánh Buôn Ma Thuột, vì đây là thị xã lớn nhất, là nơi hiểm yếu và cũng là nơi địch sơ hở nhất và có khả năng phát triển xuống đồng bằng dễ hơn Kon Tum. Khó khăn phải vượt qua để tiến công trên hướng này là thiếu đường hành quân và thiếu nước. Đại tướng rất đồng tình. Trải qua 6 năm lăn lộn trực tiếp chỉ huy trên chiến trường Tây Nguyên, với nhãn quan quân sự nhạy bén, ông nhận ra rằng, đánh Kon Tum thì không phát triển được, đánh Plây Cu thì địch còn mạnh, chỉ có đánh Buôn Ma Thuột là nơi địch yếu, sơ hở ít phòng bị và có hướng phát triển chiến dịch.
Logged
vnmilitaryhistory
Moderator
*
Bài viết: 1830



« Trả lời #2 vào lúc: 06 Tháng Mười Hai, 2022, 07:07:39 pm »

Năm 1974, ông làm Phó tư lệnh Khu 5, cuối năm ra Hà Nội dự họp bàn về kế hoạch giải phóng miền Nam của Bộ Chính trị và Quân ủy Trung ương. Trong lúc này thế của ta đang lên và đang mạnh, địch ngày càng suy yếu. Đó là thời cơ để Bộ Chính trị hạ quyết tâm giải phóng miền Nam trong 2 năm 1975-1976 và nếu có thời cơ thì giải phóng miền Nam trong năm 1975. Ngay sau đó ông được dự họp hội nghị mở rộng của Quân ủy Trung ương để quán triệt và triển khai quyết định chiến lược của Bộ Chính trị "Chọn Buôn Ma Thuột làm mục tiêu chủ yếu của chiến dịch Nam Tây Nguyên" và là nơi mở đầu cuộc Tổng tiến công mùa Xuân 1975. Ông được giao nhiệm vụ là Tư lệnh chiến dịch Tây Nguyên, đồng thời là Chỉ huy trưởng trận đánh Buôn Ma Thuột.


Đây là điều ông rất tâm đắc, chọn Tây Nguyên là nơi có dung lượng chiến trường lớn, vừa có rừng núi, vừa có cao nguyên, lại là nơi có đường chiến lược Hồ Chí Minh đi qua. Ở Tây Nguyên lại chọn Buôn Ma Thuột làm điểm đột phá là chính xác vì là nơi hiểm yếu. Điểm trúng cái huyệt đó thì toàn bộ Tây Nguyên và các tỉnh ven biển Nam Trung Bộ sẽ rung chuyển. Mỗi khi nói về điều này, ông luôn nhắc tới sự sáng suốt của Bộ Chính trị, của Quân ủy Trung ương và đặc biệt là sự chỉ đạo tài tình của Đại tướng Võ Nguyên Giáp đã tạo thế cho Tây Nguyên mọi thuận lợi để giành chiến thắng một cách chắc chắn.


Đó là mưu kế chiến lược tạo ra một hình thế dàn trận chiến lược - bày binh bố trận, nhằm ghìm địch ở hai đầu Nam - Bắc chiến tuyến là Sài Gòn và Huế - Đà Nẵng để tạo thế phá vỡ Tây Nguyên, sau đó tạo lực bất ngờ bằng cách tăng thêm cho Tây Nguyên 2 sư đoàn. Theo ông nói: Đưa bí mật đột ngột 2 sư đoàn lên Tây Nguyên là cái nút của cuộc chiến tranh, là mưu hay của ta, của Bộ thống soái mà trực tiếp là Đại tướng Tổng tư lệnh Võ Nguyên Giáp, người đã có kinh nghiệm tác chiến lớn, người có trình độ chỉ huy các chiến dịch lớn, người có tri thức chỉ huy tác chiến binh chủng hợp thành.


Lực lượng được tăng cường và bố trí hợp lý, mưu kế của ông và Bộ tư lệnh chiến dịch nhằm chuyển hoá thế trận: ta yếu thành mạnh, còn địch mặc dù về tổng thể thì mạnh hơn ta. Bằng cách nghi binh lừa địch, ta đánh thật nhưng mà là "thật giả" ở Plây Cu, đã điều được địch trở về Plây Cu. Sau đó lập tức chia cắt đường tạo thế cô lập Buôn Ma Thuật. Khi địch mắc vào mưu kế đó, thì ta liền tập trung lực lượng nhanh chóng phá vỡ Buôn Ma Thuột và đón đánh quân phản kích thắng lợi, tạo ra đột biến về chiến dịch. Đòn điểm huyệt thắng lợi buộc địch phải rút chạy khỏi Plây Cu, Kon Tum. Quân ta liền truy kích và tiêu diệt hoàn toàn quân địch tháo chạy, tạo ra đột biến về chiến lược. Chiến dịch đang thắng lợi trở nên thắng lợi rất lớn, thắng lợi một cách đột ngột, rất nhanh. Địch hoang mang dao động mất tinh thần, không còn khả năng chống đỡ, suy sụp về chiến lược, phản ứng dây chuyền đó đã tạo ra đột biến về chiến tranh.


Nói về sự kiện này, ông kể: Trước khi rời Hà Nội vào chiến trường, lúc chia tay, Đại tướng Võ Nguyên Giáp có căn dặn: "Nếu địch bị thua đau, bị mất Buôn Ma Thuột thì có khả năng chúng sẽ co cụm về các tỉnh ven biển miền Trung". Quả nhiên, thế trận diễn ra đúng như vậy. Vì thế ông thường nói: Thắng lợi của chiến dịch Tây Nguyên là sự thắng lợi của mưu kế, của sự đấu mưu đấu trí với địch, tất nhiên phải có công cụ chiến đấu, có tinh thần chiến đấu của người chiến sĩ trên chiến hào và phải dựa vào thế trận lòng dân. Nếu không có thế trận lòng dân thi làm sao ta lập được thế trận ghìm địch ở hai đầu Nam Bắc chiến tuyến, rồi nghi binh lừa địch, chia cắt địch... Từ thực tiễn chiến đấu, đến lý luận quân sự được ông khái quát :

   Mưu cao nhất là mưu lừa địch,
   Kế hay nhất là kế điều địch,
   Thế tốt nhất là thế chia cắt địch,
   Thời đẹp nhất là lúc địch ít phòng bị.
   Mưu sinh ra kế - thế đẻ ra thời,
   Đánh bằng mưu kế - thắng bằng thế thời.


Theo ông, kế hoạch tác chiến càng công phu kỹ lưỡng bao nhiêu thì thắng lợi càng dễ bấy nhiêu, thế trận càng phức tạp thì tình huống diễn ra càng giản đơn và ông coi đó là biện chứng pháp trong nghệ thuật chỉ huy cũng như nghệ thuật chỉ đạo chiến tranh.


Suốt trên chặng đường trường chinh góp phần vào sự nghiệp giải phóng dân tộc, hành trang ông mang theo là những trang sách mà trong đó chứa đựng hồn non nước, những điều mà ông tâm đắc:

Trần Hưng Đạo
- Đánh ở chỗ không có thành, công ở chỗ không có luỹ, chiến ở chỗ không có trận, nhẹ nhàng như mưa bay trên không.

- Bở chỗ thực đánh vào chỗ hư, đó là cái diệu của việc binh.

Nguyễn Trãi
- Thời thời thực không nên lỡ.

- Bốn phương dân cày tập hợp. Rượu hoà nước, dưới trên cùng một bụng cha con.

- Bở chỗ thực đánh chỗ hư, bở chỗ mạnh đánh chỗ yếu, thì sức dùng một nửa mà công được gấp đôi.

- Lấy yếu chống mạnh, hay đánh bất ngờ;
   Lấy ít địch nhiều, thường dùng mai phục.

- Được thời có thế thì mất biến thành còn, nhỏ hoá ra lớn;
   Mất thời không thế thì mạnh hoá ra yếu, an lại thành nguy.
   Hồ Chí Minh
   Phải nhìn cho rộng suy cho kỹ,
   Kiên quyết không ngừng thế tiến công.
   Lạc nước hai xe đành bỏ phí,
   Gặp thời một tốt củng thành công.

- Quả cân chỉ một ki-lô-gam ở vào thế có lợi thì lực của nó tăng lên nhiều, có sức mạnh làm bổng được vật nặng hàng trăm ki-lô-gam. Đó là thế thắng lực.

- Nước lấy dân làm gốc, quần chúng là gốc của cách mạng. Cách mạng cũng như chiến tranh cách mạng, là sự nghiệp của quần chúng.


Chiến thắng Tây Nguyên đã được ông vận dụng từ những triết lý đó. Từ chiến thắng Tây Nguyên đã tạo thế cho chiến dịch gối đầu Huế - Đà Nẵng đến Chiến dịch Hồ Chí Minh kế tiếp được mở ra nhanh chóng. Trong một thời gian ngắn, bằng ba đòn chiến lược Tây Nguyên - Huế, Đà Nẵng - Sài Gòn, cuộc Tổng tiến công chiến lược mùa Xuân 1975 đã giành được thắng lợi hoàn toàn, giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước.


Năm 1976, ông lại trở về công việc nghiên cứu và giảng dạy với cương vị Viện trưởng Học viện Lục quân và có một thời gian ông học tập ở Liên Xô. Tại Đại hội đại biểu Đảng toàn quốc lần thứ IV, ông được bầu là Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam.


Năm 1977, ông làm Viện trưởng Học viện Quân sự cấp cao, nay là Học viện Quốc phòng.

Năm 1990, ông làm Viện trưởng Viện chiến lược Bộ Quốc phòng. Đến năm 1995, nghỉ làm công tác quản lý, nhưng ông vẫn tham gia rất nhiều công việc như: giảng dạy, hướng dẫn nghiên cứu sinh, hội thảo khoa học, viết sách viết báo, các công trình nghiên cứu về khoa học và nghệ thuật quân sự, v.v...; ngoài ra còn giữ các chức danh như: Ủy viên Hội đồng xét duyệt học hàm, học vị; Hội đồng chỉ đạo Bách khoa thư. Ông là tác giả của nhiều cuốn sách về lịch sử và nghệ thuật quân sự được xuất bản từ năm 1958. Có những cuốn sách ông viết và xuất bản ngay trên chiến trường đã trở thành cẩm nang cho cán bộ chiến sĩ trước khi ra trận như cuốn: Tìm hiểu tổ tiên ta đánh giặc (1969, 1971), Sự thất bại của sức mạnh phi nghĩa (1974), Cách dùng binh (1975),... Trong số đó có 8 cuốn sách là một Cụm công trình được Hội đồng xét giải thướng Nhà nước và giải thưởng Hồ Chí Minh về khoa học và công nghệ đánh giá là: "Đặc biệt xuất sắc, có giá trị cao về khoa học công nghệ đã được công bố, sử dụng từ ngày thành lập nước Việt Nam dân chủ cộng hoà nay là nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, góp phần quan trọng vào sự nghiệp phát triển nền kinh tế quốc dân, khoa học công nghệ trong công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc". Cụm công trình này đã được trao Giải thưởng Hồ Chí Minh về khoa học công nghệ năm 2005 theo Quyết định số 971/2005/QĐ-CTN ngày 30 tháng 8 năm 2005 do Chủ tịch nước ký. Đến nay số đầu sách của ông đã có hơn 15 cuốn, ông vẫn còn muốn viết nhiều hơn nữa, để đóng góp vào nền khoa học và nghệ thuật quân sự Việt Nam, cũng như những vấn đề mà ông cho rằng dựng nước phải đi đôi với giữ nước. Ông đã được Đảng và Nhà nước tặng thưởng Huân chương Hồ Chí Minh cùng nhiều huân chương cao quý khác và được phong hàm Giáo sư, danh hiệu Nhà giáo nhân dân. 60 tuổi Đảng, dù ở bất kỳ cương vị nào ông đều luôn giữ vững danh hiệu "Bộ đội Cụ Hồ", sống một cuộc đời trong sạch, giản dị, sâu nặng nghĩa tình đồng chí đồng đội, tình quê hương làng xóm của người đảng viên gương mẫu vì sự nghiệp cách mạng của Đảng, của dân tộc. Ông thực sự là vị tướng của nhân dân.


Tháng 12 năm 2005
P.V.Q
Logged
vnmilitaryhistory
Moderator
*
Bài viết: 1830



« Trả lời #3 vào lúc: 06 Tháng Mười Hai, 2022, 07:09:38 pm »

HỌC TẬP KHOA HỌC QUÂN SỰ XÔ-VIẾT1
(Nhà xuất bản Quân đội nhân dân, H. 1958)


Lời giới thiệu


Quân đội Xô-viết xứng đáng là quân đội đàn anh của các lực lượng vũ trang trong phe xã hội chủ nghĩa. Khoa học quân sự Xô-viết xứng đáng là nền khoa học quân sự tiên tiến nhất trên thế giới hiện nay.

Sinh cùng với Đại Cách mạng xã hội chủ nghĩa tháng Mười, Quân đội Xô-viết đã trải qua 40 năm lịch sử đầy chiến thắng vẻ vang và ngày nay đã trở thành một quân đội hiện đại vào bậc nhất mà không một quân đội một nước tư bản nào có thể so sánh nổi. Cũng trải qua 40 năm ấy, khoa học quân sự Xô-viết - nền khoa học quân sự của chủ nghĩa Mác - Lênin đã hình thành, đã được thử thách và được những kinh nghiệm của các cuộc đấu tranh vũ trang làm cho ngày thêm phong phú.


Quân đội ta cũng như quân đội các nước anh em đều hướng về Quân đội Xô-viết và khoa học quân sự Xô-viết mà ra sức học tập. Đó là một nhu cầu bức thiết trên con đường xây dựng quân đội ta tiến lên chính quy và hiện đại.


Với tập sách nhỏ "Học tập khoa học quân sự Xô-viết", đồng chí Hoàng Minh Thảo đã sơ bộ đáp ứng được nhu cầu đó của cán bộ chúng ta.

Trong quyển này, đồng chí Hoàng Minh Thảo đã giới thiệu sơ lược quá trình xây dựng, chiến đấu và phát triển của Quân đội Xô-viết cùng những nguyên tắc căn bản mà Lênin và Đảng Cộng sản Liên Xô đã đề ra để xây dựng lực lượng vũ trang của Nhà nước Xô-viết. Đồng chí đã cố gắng trình bày một cách khái quát một số vấn đề của khoa học quân sự Xô-viết và những nguyên tắc chung của chiến tranh hiện đại với những quy luật phát triển và quan điểm đúng đắn của nó.


Như trên đã nói, những điều mà đồng chí Hoàng Minh Thảo trình bày trong quyển này chỉ mới là sơ bộ, khái quát, còn nhiều thiếu sót, nó mới đặt vấn đề và khêu gợi vấn đề để cho cán bộ chúng ta tiếp tục nghiên cứu học tập. Cho nên, chúng ta sẽ còn phải bổ sung, sửa chữa và góp thêm nhiều ý kiến quý báu. Nhưng dù sao, bước đầu đó củng rất đáng quý, đáng khuyến khích, đáng học tập.


Kho tàng khoa học quân sự Xô-viết rất quý báu, dồi dào, phong phú, sâu sắc. Tiến quân vào khoa học quân sự Xô-viết, quân đội chúng ta phải kiên quyết, anh dũng, bền bỉ như trong các cuộc chiến đấu trước kia. Dưới sự lãnh đạo của Trung ương Đảng và Tổng Quân ủy, cán bộ chúng ta nhất định không hề biết mệt mỏi trên con đường đó.


Mong rằng quyển sách nhỏ này sẽ là một trong những người bạn đường của chúng ta, xin trân trọng giới thiệu với các đồng chí.


Tháng 4 năm 1958
Thiếu tướng HOÀNG VĂN THÁI
Logged
vnmilitaryhistory
Moderator
*
Bài viết: 1830



« Trả lời #4 vào lúc: 06 Tháng Mười Hai, 2022, 07:10:20 pm »

I
SỰ THẮNG LỢI CỦA VŨ TRANG KHỞI NGHĨA
TRONG CÁCH MẠNG THÁNG MƯỜI


Cách mạng xã hội chủ nghĩa tháng Mười vĩ đại mở ra một kỷ nguyên mới trong lịch sử phát triển của xã hội loài người. Cách mạng xã hội chủ nghĩa tháng Mười thành công đã thay đổi tận gốc rễ mọi quan hệ và sinh hoạt xã hội. Dựa trên sự thay đổi căn bản của hạ tầng cơ sở, nền khoa học quân sự mới, nền khoa học quân sự của giai cấp vô sản - thuộc phạm trù của thượng tầng kiến trúc - cũng được dựng lên.


Giai cấp vô sản dưới ngọn cờ của chủ nghĩa Mác - Lênin biết dùng lý luận và thực tiễn quân sự để tự võ trang đánh đổ giai cấp tư sản và địa chủ giành thắng lợi cho cách mạng.

Bạo lực là tiền đề của cách mạng ngay khi mà giai cấp cách mạng chưa bước lên vũ đài chính trị, khi mà giai cấp thống trị còn nắm được trong tay bộ máy quan liêu, quân phiệt mạnh mẽ để đàn áp cách mạng.

Trong lịch sử đã diễn ra những sự kiện như thế từ các cuộc khởi nghĩa của nông nô cho đến các cuộc cách mạng của giai cấp tư sản. Hiểu rõ điều đó, Đảng Bôn-sê-vích rất chú ý đến việc vận động binh lính. Đảng đã phái nhiều cán bộ vào hoạt động trong đội ngũ của quân đội Nga hoàng. Do Đảng đã chú ý tổ chức những đội tự vệ đỏ và lôi kéo được binh lính nên cuộc khởi nghĩa vũ trang bắt đầu từ thành Pê-trô-grát đã thắng lợi được dễ dàng trong cả nước.


Sau cách mạng tháng Hai, Lênin, người kế tục sự nghiệp vĩ đại của Mác và Ăng-ghen đã áp dụng lý luận mác-xít đề ra khả năng phát triển hòa bình từ cách mạng dân chủ tư sản sang cách mạng xã hội chủ nghĩa. Song vì giai cấp tư sản thống trị hồi đó thẳng tay dùng võ lực đàn áp quần chúng cách mạng, không dùng bạo lực với chúng không xong. Khởi nghĩa vũ trang đã nổ ra và đưa đến thắng lợi của Cách mạng xã hội chủ nghĩa tháng Mười. Đội Cận vệ đỏ đã là nòng cốt của lực lượng vũ trang cách mạng để đánh đổ chính phủ lâm thời tư sản Kê-răng-ski và chống với bọn phản cách mạng Coóc-ni-lốp.


Khả năng phát triển hòa bình của cách mạng thời đó không thành hiện thực, nhưng đã soi sáng cho con đường phát triển hòa bình cách mạng nhiều nước sau này trên thế giới. Đối với Cách mạng tháng Mười, vũ trang khởi nghĩa thật là quan trọng và cần thiết. Kinh nghiệm của cách mạng Trung Quốc và Việt Nam càng cho ta thấy vai trò của vũ trang khởi nghĩa. Đối với quân thù hung bạo và ngoan cố, sức mạnh thực tế, vật chất rõ ràng là không thể thiếu được trong khi làm cách mạng.
Logged
vnmilitaryhistory
Moderator
*
Bài viết: 1830



« Trả lời #5 vào lúc: 06 Tháng Mười Hai, 2022, 07:12:14 pm »

II
HỒNG QUÂN TRONG THỜI KỲ NỘI CHIẾN


Sau khi Cách mạng tháng Mười thành công, Nhà nước Xô-viết nhận thấy rằng các đội Cận vệ đỏ chiến đấu rất anh dũng, nhưng với nhiệm vụ mới bảo vệ Nhà nước xã hội chủ nghĩa, đội cận vệ số lượng ít, phân tán, thiếu huấn luyện, không thích hợp với hoàn cảnh mới. Do đó, Nhà nước Xô-viết và Lênin chú trọng đến việc cần thiết phải xây dựng một quân đội có tổ chức huấn luyện và được trang bị hơn. Lênin đã đề ra vấn đề giảm bỏ tính lưu động, tính du kích của quân đội; ngày 28 tháng 1 năm 1918 Lênin ký sắc lệnh thành lập Hồng quân công nông và đến ngày 14 tháng 2 thì ký sắc lệnh thành lập Hải quân công nông đỏ.


Trong sắc lệnh có nói: "Quân đội cũ là một công cụ của giai cấp tư sản dùng để áp bức giai cấp công nhân. Theo với sự chuyển biến chính quyền từ trong tay giai cấp bóc lột sang tay nhân dân lao động và giai cấp bị bóc lột, cần thiết đề ra việc xây dựng một quân đội mới làm cốt cán cho chính quyền Xô-viết" (Con đường chiến đấu của quân đội Liên Xô, trang 13).


Bắt tay vào xây dựng Hồng quân, một quân đội hoàn toàn mới mẻ về nhiều mặt, Nhà nước Xô-viết gặp phải rất nhiều khó khăn. Điều khó khăn trước tiên và khó giải quyết nhất là cán bộ. Tình hình cán bộ rất thiếu thốn, về vũ khí, trang bị có thể lấy được của quân đội Nga hoàng mà dùng và có thể phát huy được tác dụng lớn hơn, nhưng về cán bộ không thể lấy hoàn toàn, lấy hết của quân đội Nga hoàng, không thể phát huy tác dụng lớn hơn được nếu không cải tạo. Hồng quân cần có những cán bộ trung thành với sự nghiệp cách mạng xã hội chủ nghĩa và học hỏi được từ thực tế kỹ thuật quân sự. Trong khi đó các phần tử Men-sê-vích, xã hội cách mạng và các phần tử gian trá của giai cấp tư sản lọt vào trong hàng ngũ Hồng quân tìm mọi cách ngăn trở, phá rối công cuộc xây dựng của Hồng quân.


Bọn chúng đã chống lại chính sách quân sự của Đảng, không muốn thành lập một đội Hồng quân chính quy có tổ chức, có kỷ luật. Chúng âm mưu sát hại các đồng chí Bôn-sê-vích lãnh đạo trong quân đội. Việc xây dựng Hồng quân còn gặp khó khăn trong hoàn cảnh cách mạng vừa thành công thì cuộc nội chiến chống vũ trang can thiệp của các nước đế quốc bên ngoài lại tới liền.


Đảng đã kiên trì chống mọi khuynh hướng sai lầm và tập trung lực lượng xây dựng Hồng quân. Lênin đưa ra khẩu hiệu: "Cả nước là trại lính", "Tất cả cho tiền tuyến", "Tất cả cho thắng lợi". Nguyên tắc tình nguyện tòng quân đổi thành nghĩa vụ quân sự. Gần một nửa tổng số đảng viên, đoàn viên thanh niên cộng sản có mặt ở ngoài mặt trận, số khác thì làm công tác xây dựng và tiếp tế ở hậu phương.


Để đảm bảo cho các phần tử phản động khỏi lọt vào trong quân đội, để giữ vững vai trò của Hồng quân là một công cụ vững chắc nhất của chuyên chính vô sản, mọi người nhập ngũ đều cần có hai người giới thiệu đứng trong các cơ quan chính quyền hoặc đoàn thể cách mạng. Để bồi dưỡng nhân tài và đào tạo cán bộ, Đảng quy định mọi đảng viên đều phải nghiên cứu quân sự và theo chỉ thị của Lênin mở ra trường đào tạo cán bộ Hồng quân. Để giữ vững đường lối chính trị của Đảng trong quân đội, các đơn vị đều lập chế độ chính ủy. Nhờ đó quân đội càng chấp hành có hiệu quả mọi chủ trương, chính sách của Đảng trong quân đội, sinh hoạt chính trị của quân đội càng được chú ý và như thế là bản chất của quân đội cách mạng càng được bồi dưỡng. Muốn củng cố chính quyền Xô-viết và chuẩn bị lực lượng, Đảng đưa ra chủ trương một mặt đàm phán hòa bình, một mặt gấp rút xây dựng lực lượng.


Bọn đế quốc chủ nghĩa tưởng có thể bóp chết ngay trong buổi sơ sinh chế độ xã hội chủ nghĩa. Chúng hăm hở tấn công. Nhưng sau một số thất bại đau đớn ở Pơ-scốp và Nác-va xem chừng khó nuốt được chính quyền Xô-viết, đế quốc Đức nhận đàm phán. Hòa ước Brét-li-tốp được ký. Để kỷ niệm thắng lợi đầu tiên vẻ vang đó, Nhà nước Xô-viết lấy ngày 23 tháng 2 năm 1918, ngày đánh bại quân đội Đức, làm ngày sinh nhật của Hồng quân.


Miếng đòn đầu tiên giáng vào đầu con rắn Đức như thế chưa có thể làm chùn được các con rắn đế quốc khác. Ngay sau khi chiến tranh giữa các nước đế quốc kết thúc, chúng đầy căm thù tiến công tứ phía vào chính quyền Xô-viết.


Trước sự bao vây tấn công của các nước đế quốc và sự phản kháng của bọn Bạch vệ trong nước, nhân dân và Nhà nước Xô-viết đã hết sức chiến đấu để giữ vững chế độ tốt đẹp của mình. Điều khó khăn nhất lúc đó là thiếu lương thực và vũ khí.


Đảng nhận định một cách biện chứng rằng: muốn thắng lợi trong cuộc chiến tranh, ngoài sức mạnh tinh thần, phải có cả sức mạnh vật chất nữa, sức mạnh tinh thần và sức mạnh vật chất không chống đối nhau, trái lại cùng kết hợp khăng khít với nhau mà phát triển.


Đảng còn nhận định rằng: không phải chỉ có bộ đội vũ trang tiến hành chiến tranh mà phải là toàn dân. Vì thế Lênin mới đưa ra khẩu hiệu: "Cả nước là một trại lính". Vì thế mà chính sách "cộng sản thời chiến" của Lênin mới ra đời. Tất cả những điều đó đều cần thiết để bảo đảm cho Hồng quân chiến đấu thắng lợi. Các công xưởng làm việc ngày đêm cung cấp vũ khí cho quân đội. Lương thực của nông dân tập trung vào cho mặt trận và công xưởng.


Tinh thần chiến đấu vô cùng anh dũng của nhân dân và quân đội dưới sự động viên và lãnh đạo của Đảng Bôn-sê-vích cùng các biện pháp bảo đảm của Đảng và Nhà nước đã chiến thắng. Hồng quân đã bảo vệ được Xa-rít-xin, một trung tâm chiến lược quan trọng ở miền Nam. Giữ được vùng Xa-rít-xin thì khống chế được các vùng Cô-ca-dơ U-cơ-ren và Trung Á. Đồng chí Sta-lin đã được cử xuống chỉ huy mặt trận này. Tập đoàn quân thứ 10 của Hồng quân cùng các đội Tự vệ công nhân đã đánh tan 6 vạn quân phản cách mạng do tên tướng Bạch vệ Cơ-sát-nốp chỉ huy. Trong khi đó thì ở vùng Vôn-ga vào khoảng từ tháng 9 đến tháng 10 năm 1918 Tập đoàn quân thứ nhất của Chính ủy Qui-bi-sép có Hạm đội Vôn-ga tham gia cũng đánh tan quân Tiệp, đuổi chúng tới U-ran, giải phóng Nam U-ran cùng với bộ đội Tuyếc-két-tăng hội sư1 (Hội sư là 2 cánh quân cùng tiến đánh tiêu diệt được quân địch rồi gặp nhau).


Bọn đế quốc can thiệp vẫn không từ bỏ âm mưu đen tối của chúng. Một mặt chúng đem quân vào Hắc Hải, vào biên thùy nam Si-bê-ri, vào biên thùy phía bắc vùng Pê-trô-grát, một mặt chúng phát động bọn Bạch vệ nổi dậy. Ở miền Đông, có bọn Kôn-tơ-sắc, ở miền Nam có bọn Đê-ni-kin và bọn Krát-snốp, ở miền Bắc có bọn I-u-đê-ních.


Trước tình hình đó, Lênin nhận định mặt trận phía Đông quan trọng hơn hết và kêu gọi toàn Đảng, toàn dân tập trung lực lượng bảo đảm cung cấp cho quân đội để chiến thắng ở phía Đông.

Được các nơi trong nước chi viện, Hồng quân đánh tan được quân địch ở phía Đông. Phơ-run-giê đặt kế hoạch tấn công tập trung chủ lực thành một binh đoàn đột kích chủ yếu đánh ở bên phải từ phía nam lên, còn các bộ phận khác đánh vào U-ran phối hợp với du kích ở Si-bê-ri. Kế hoạch đó đã thực hiện thành công. Sư đoàn 25 của Sa-pa-ép đã tạo được nhiều thành tích vẻ vang trong chiến dịch này. Du kích hoạt động cũng rất mạnh góp phần công lao chiến thắng. Thế là bọn Kôn-tơ-sắc ở miền Đông bị đánh tan.


Sau đó trung tâm chiến trường chuyển lên phía bắc. Vì Hồng quân ở đây mắc sai lầm trong kế hoạch tác chiến và có nội phản nên quân địch lúc đầu thu được ít thắng lợi, đánh sát tới cửa ngõ Pê-trô-grát.

Trước tình thế nguy cấp đó, Đảng tập trung lực lượng và phái một số cán bộ chỉ huy có kinh nghiệm tới. Cuối cùng Hồng quân vẫn giữ vững Pê-trô-grát và chuyển sang phản công. Ngày 21 tháng 6 năm 1919, Hồng quân đánh tan quân Phần-Lan và bọn I-u-đê-ních. Cuộc tấn công thứ nhất của bọn đế quốc can thiệp và bọn Bạch vệ bị thất bại.


Đông thua, bắc thua, bọn đế quốc liền xoay chiều. Chỉ còn phía nam và tây. Nhưng cả hai cuộc tiến công thứ 2 (ở phía nam), thứ 3 (ở phía tây) đều bị thất bại. Trong trận tấn công thứ 3, Hồng quân có cả binh đoàn kỵ binh tham gia chiến đấu, lập được nhiều thành tích, ở Viễn Đông, Hồng quân cũng đánh bại các cuộc tấn công của đế quốc Nhật.


Thế là trước tinh thần chiến đấu vô cùng anh dũng của nhân dân và quân đội cách mạng, chủ nghĩa đế quốc buộc phải lùi bước.

Thắng lợi giành được trong cuộc chiến tranh chống cả một tập đoàn đế quốc chủ nghĩa cấu kết với thế lực phản động trong nước thật không phải là một chuyện thường. Ít người tưởng tượng được điều đó. Bọn đế quốc mù quáng tưởng rằng chúng có tiền của, vũ khí, quân đội nhà nghề là chúng làm trời, chúng thắng được tất cả. Chúng không hiểu được sức mạnh của quần chúng cách mạng là thế nào. Chỉ có những người cộng sản mới tin được điều này. Dựa trên quan điểm quần chúng Lênin đã phân biệt được chiến tranh xâm lược và chiến tranh chính nghĩa (cách mạng).
Logged
vnmilitaryhistory
Moderator
*
Bài viết: 1830



« Trả lời #6 vào lúc: 06 Tháng Mười Hai, 2022, 07:13:11 pm »

Cuộc chiến tranh chính nghĩa (cách mạng) là một cuộc chiến tranh của toàn dân, vì lợi ích của nhân dân, Lênin đã thấy trước có thể phát động được toàn dân tham gia chiến đấu, những người được chia ruộng đất, được sống tự do sẽ nhất định đứng lên để bảo vệ lấy những quyền lợi đã giành được của mình. Khi họ đã giác ngộ, có tổ chức, có lãnh đạo, đoàn kết thành một khối thì không có một sức mạnh nào có thể phá nổi. Ngoài ra vì chủ nghĩa xã hội là điều mong mỏi của nhân dân lao động thế giới, nhất định nó sẽ được ủng hộ rộng rãi trên toàn thế giới, ở điểm này chúng ta thấy được nguyên lý của Lênin về chiến tranh chính nghĩa, chiến tranh nhân dân.


Nhưng tiến hành chiến tranh nhân dân không phải chỉ tổ chức nhân dân đánh du kích, chiến đấu tại chỗ từng địa phương, rời rạc lẻ tẻ với các vũ khí thô sơ, mà phải tiến tới có những bộ phận cốt cán, tập trung có tổ chức, có trình độ kỹ thuật và trang bị cao hơn. Không thế không thể giành được những thắng lợi quyết định. Vì thế Đảng và Lênin đã chú ý ngay từ đầu đến việc tổ chức Hồng quân. Phải có hai lực lượng du kích và chính quy đó kết hợp được chặt chẽ với nhau, giúp đỡ lẫn nhau chiến đấu mới có thể chiến thắng quân thù. Giai cấp tư sản không thể nhận thức đầy đủ được vấn đề này. Không có một thế giới quan và một nhân sinh quan đúng đắn, chúng không bao giờ tin ở lực lượng quần chúng nhân dân, chúng không biết gì đến sức mạnh của chính nghĩa. Chúng chỉ tin ở vũ khí, ở tài và thủ đoạn mưu lược của một số người chỉ huy. Đến khi thất bại chúng không thể cắt nghĩa được nên lại đâm ra hoang mang, hoài nghi rồi đâm ra mê tín, tin ở may rủi, số phận. Đó là quan điểm duy tâm của giai cấp tư sản về chiến tranh.


Tư tưởng chỉ đạo chiến thuật của Đảng và Lênin là lấy tấn công làm hình thức chủ yếu nhất, hình thức quyết định. Lênin cũng như Mác coi vũ trang khởi nghĩa như một nghệ thuật với một tinh thần tấn công kiên quyết nhất.


Tư tưởng tích cực tấn công kiên quyết của Lênin đã trở thành tư tưởng quân sự và thấm nhuần bản chất chiến đấu của Hồng quân.

Dặn dò về kế hoạch chuẩn bị võ trang khởi nghĩa ở Pê-trô-grát Lênin đã dẫn chứng một câu của Mác như sau: "Khi cuộc khởi nghĩa đã bắt đầu thì phải hành động kiên quyết nhất, hơn nữa phải nhất định và tuyệt đối thực hành tấn công. Phòng ngự là con đường chết của võ trang khởi nghĩa"1 (Thư của một người vắng mặt. Tuyển tập Lênin bản chữ Pháp, tập 2, phần 1, trang 177, 179, Nxb Ngoại văn. M. 1954).


Nhưng điều khôn khéo và tài tình của Lênin là đã biết vận dụng các hình thức chiến thuật một cách hợp thời, hợp với thực tế.

Lênin đã nói đến phòng ngự, nhận thức đúng mức vai trò của phòng ngự và đề ra nhiệm vụ phòng ngự khi cần thiết.

Lênin nói rằng: "Một quân đội thường thắng lợi, đã chiếm được một nửa hoặc hai phần ba đất đai của quân địch, lúc đó quân đội ấy không thể không đình chỉ tấn công, để tập hợp lực lượng, tăng thêm dự trữ về vũ khí, đạn dược, sửa chữa và củng cố đường giao thông, xây dựng kho quân nhu mới, điều động tập trung hậu bị quân, v.v... Trong điều kiện đó, đình chỉ tấn công chính là để cho quân đội thường thắng chiếm được hết đất đai còn lại của địch, tức là điều cần thiết để thu được thắng lợi hoàn toàn (Giai đoạn đấu tranh mới với giai cấp tư sản, nhiệm vụ trước mắt của chính quyền Xô-viết). Chính lúc đầu cuộc chiến tranh nội chiến và chống can thiệp, Lênin đã đề ra phòng ngự và sau một thời gian thì chuyển sang tấn công.


Nguyên lý này đã được nhắc lại lúc đầu cuộc chiến tranh giữ nước vĩ đại của Liên Xô sau này. Hiện nay Nhà nước và quân đội các nước xã hội chủ nghĩa cũng đang theo nguyên lý ấy. Nguyên lý ấy khác hẳn với tư tưởng quân sự của giai cấp tư sản, nhận thức một cách phiến diện về tấn công và phòng ngự. (Thí dụ: tư tưởng quân sự của quân đội Đức thì nặng nề về tấn công rất coi nhẹ phòng ngự mà tư tưởng quân sự của quân đội Pháp thì lại nghiêng về phòng ngự, coi nhẹ tấn công). Lênin nhận định vấn đề này một cách toàn diện không những trong phạm vi chiến thuật mà còn nhận định một cách toàn diện, trong phạm vi cả cuộc chiến tranh.


Chiến tranh là một hình thức đấu tranh gay gắt nhất, cao nhất về các mặt. Nó không phải chỉ là một cuộc giao chiến giữa hai quân đội ngoài mặt trận, mà còn là một cuộc thử thách của chế độ chính trị, là một cuộc ganh đua của tài tổ chức, là một cuộc động viên ở hậu phương. Lênin rất chú ý đến việc động viên ở hậu phương, phát động tinh thần lao động sản xuất ở hậu phương để lấy lương thực, vũ khí cung cấp cho tiền tuyến. Một quân đội không có một hậu phương chắc chắn thì không thể sinh tồn và chiến thắng được. Nói lực lượng hậu phương không phải chỉ kể những thứ của cải đã có, những người đã có, mà còn phải kể đến lực lượng tiềm tàng sức người, sức của do phát huy tinh thần chiến đấu và lao động sản xuất đến cao độ mà có. Đó là những điều quan trọng để duy trì một cuộc chiến tranh lâu dài, giành lấy thắng lợi cuối cùng.


Lênin đã nói: "Ai có nhiều nguồn dự trữ, nhiều nguền lực lượng hơn thì người đó sẽ thắng trong chiến tranh".

Cuộc chiến đấu vô cùng anh dũng của nhân dân Liên Xô chống thù trong giặc ngoài đã thắng lợi vẻ vang. Giành được thắng lợi đó phải thật là anh dũng, thật là gian khổ. Không có chính sách đúng đắn của Đảng, tập trung tất cả vào việc chiến đấu đánh bại kẻ thù của chế độ Xô-viết, tìm mọi biện pháp để bảo đảm chiến đấu, phát động được quần chúng cả nước tham gia chiến đấu, không có tinh thần cách mạng của nhân dân chiu đựng moi hy sinh gian khổ, tinh thần anh dũng phi thường của quân đội, không có tay chèo vững chắc của Đảng cộng sản, không có những cái đó thì không thể thắng lợi, chế độ Xô-viết không thể sống còn được.
Logged
vnmilitaryhistory
Moderator
*
Bài viết: 1830



« Trả lời #7 vào lúc: 06 Tháng Mười Hai, 2022, 07:15:13 pm »

III
HỒNG QUÂN LIÊN XÔ TRONG
THỜI KỲ HÒA BÌNH XÂY DỰNG XÃ HỘI CHỦ NGHĨA


Chiến tranh chống can thiệp và nội chiến kết thúc, Nhà nước Xô-viết chuyển sang thời kỳ xây dựng hòa bình, Hồng quân cũng được cải tổ để bảo vệ Nhà nước Xô-viết, cùng nhân dân Liên Xô tiến lên xây dựng xã hội chủ nghĩa.


Trong vòng vây của tư bản chủ nghĩa, lực lượng quân sự của Nhà nước Xô-viết phải được củng cố.

Lênin chỉ thị rằng: "Chúng ta đem toàn bộ lực lượng ra tiến hành xây dựng hòa bình, quyết không để cho giữa đường bỏ dở. Đồng thời các đồng chí không được sơ khoáng trong việc bảo vệ Nhà nước chúng ta, cũng như giữ gìn sức chiến đấu của Hồng quân, xem như con ngươi trong mắt của chúng ta vậy" (Ngày 23-12-1922 - Con đường chiến đấu của Hồng quân, trang 67).


Củng cố lực lượng quân sự tức là củng cố quốc phòng, cải tổ phát triển Hồng quân, xây dựng Hồng quân tiến lên một quân đội chính quy, hiện đại hóa, đạt mục tiêu tiên tiến trên thế giới. Củng cố quốc phòng là một trong những nhiệm vụ bức thiết nhất của Nhà nước Xô-viết hồi bấy giờ. Muốn củng cố quốc phòng không thể không nói đến một nền kỹ nghệ quốc phòng. Muốn có kỹ nghệ quốc phòng phải có một nền công nghiệp nặng. Đi theo đúng đường lối của Lênin, của Đảng và Nhà nước Xô-viết, toàn dân Liên Xô đem hết sức mình ra phấn đấu để xây dựng một nền công nghiệp xã hội chủ nghĩa lấy công nghiệp nặng làm cơ sở. Không có công nghiệp nặng thì không thể thoát khỏi tình trạng kinh tế lạc hậu, không thể tiến lên xã hội chủ nghĩa được, không có độc lập về kinh tế, cũng như không có quốc phòng vững chắc được.


Đối với bọn đế quốc chủ nghĩa, chúng ta không được mảy may sơ khoáng. Tư tưởng chiến tranh xâm lược đã đời đời thống trị đầu óc bọn đầu sỏ, bọn tướng tá các nước tư bản chủ nghĩa. Các nhà quân sự và các nhà tư tưởng của giai cấp tư sản rất sùng bái dẫn chứng những câu châm ngôn như:

- "Chiến tranh là người cha của tất cả mọi vật" (Héraclite).

- "Được hay thua, đó cũng là cái gốc của sinh tồn" (Goethe).

Chúng công nhiên đưa ra chân lý của chúng:

- "Chiếm đất mới phải bằng con đường xâm lược và xâm lược đã trở thành một cái luật tất yếu" (Bernhardi).

- "Cũng cần công nhận một cách phổ biến quyền đô hộ, vì những đất đai có các dân tộc kém văn minh cần phải được đặt dưới sự cai trị của các dân tộc văn minh hơn" (Bernhardi)1 (Những câu này trích trong cuốn "Nước Đức với cuộc chiến tranh sau này" của Bernhardi, bản chữ Pháp. Nhà xuất bản Payot và công ty ở Pa-ri - Héraclite: nhà triết học cổ Hy Lạp - Goethe: nhà triết học tư sản Đức - Bernhard]: nhà quân sự tư sản Đức).


Đó là những lý luận tối phản động, những tư tưởng rất độc ác. Chúng đã xuyên tạc một cách vô liêm sỉ quy luật phát triển của xã hội và lừa bịp mọi người bằng thuyết cạnh tranh sinh tồn.

Nhân dân Liên Xô đã trải qua bao nhiêu gian khổ, thắt lưng buộc bụng để xây dựng nền công nghiệp nặng, để cải tạo và phát triển nền kinh tế quốc dân, cũng như để cung cấp vũ khí, khí tài mới mẻ hợp thời đại cho Hồng quân.


Thấm nhuần tư tưởng của chủ nghĩa cộng sản, Nhà nước và Đảng cộng sản Liên Xô đã xây dựng Hồng quân trên cơ sở chính trị như sau:

1. Hồng quân là một đội quân của nhân dân lao động, chiến đấu để bảo vệ quyền lợi của nhân dân lao động, công cụ của chính quyền vô sản chuyên chính. Hồng quân được xây dựng trên một quan hệ sản xuất mới, quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa.


2. Hồng quân là một đội quân của các dân tộc anh em trong Liên bang Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Xô-viết. Mọi dân tộc đều được góp sức lực, tài năng để bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa, không có phân biệt, đều bình đẳng trong tổ chức và chỉ huy quân đội.


3. Hồng quân là một quân đội có tinh thần của chủ nghĩa quốc tế vô sản. Hồng quân không phải là một đội quân xâm lược mà là một đội quân giải phóng, một đội quân anh em của giai cấp vô sản và nhân dân bị áp bức trên toàn thế giới.


Đó là một đội quân kiểu mới. Lần đầu tiên trên thế giới xuất hiện một đội quân giải phóng kiểu mới, một đội quân của những người bị áp bức không giống tí nào với đội quân của giai cấp bóc lột. Được xây dựng trên những nguyên tắc đó, Hồng quân đã trở thành thân thiết với tất cả nhân dân lao động trên thế giới, Hồng quân đã trở thành mẫu mực của quân đội các nước dân chủ nhân dân và xã hội chủ nghĩa hiện nay.


Xây dựng Hồng quân trở thành một đội quân cách mạng chính quy, hiện đại hóa, không thể tách rời được việc xây dựng đất nước. Hòa bình trở lại, một đội quân mấy triệu người không cần thiết nữa. Hồng quân bắt đầu giản chính tiến hành phục viên và tham gia lao động sản xuất xây dựng xã hội chủ nghĩa. Năm 1923 tổng quân số chỉ còn 56 vạn người. Tính theo tỷ lệ dân số thì đó là một đội quân nhỏ nhất so với các nước tư bản đế quốc. Tuy nhiên như thế không có nghĩa là Đảng và Nhà nước Xô-viết có ý coi nhẹ lực lượng phòng thủ đất nước, coi nhẹ việc tăng cường sức chiến đấu của Hồng quân mà chính là trái lại.


Thi hành chỉ thị của Đảng, đồng chí Phơ-run-giê đã lãnh đạo chấp hành tốt chính sách của Đảng về chế độ nghĩa vụ quân sự và xây dựng bộ đội địa phương, dân quân. Ngoài ra, Đảng còn động viên các đoàn thể quần chúng tham gia các hoạt động có tính chất quân sự để làm lực lượng hậu bị, làm nguồn bổ sung nhân tài chuyên môn kỹ thuật cho quân đội. Thí dụ như "Hội những người bạn Không quân", "Hội những người bạn phòng hóa học", "Hội khoa học quân sự", v.v... Những đoàn thể này ra đời khoảng từ năm 1923-1925, đoàn kết và rèn luyện được hàng triệu nhân dân lao động sẵn sàng gia nhập quân đội phục vụ Tổ quốc.
Logged
vnmilitaryhistory
Moderator
*
Bài viết: 1830



« Trả lời #8 vào lúc: 06 Tháng Mười Hai, 2022, 07:16:59 pm »

Việc xây dựng lực lượng vũ trang của Nhà nước xã hội chủ nghĩa là một sự nghiệp vô cùng mới mẻ và khó khăn, nhưng Đảng cộng sản và Nhà nước Xô-viết cũng đã đề ra được những nguyên tắc đúng đắn căn bản như sau:

1. Sự lãnh đạo của Đảng là một nguyên tắc không thể lay chuyển được.

Đảng cộng sản đã vạch ra đường lối và đặt ra nhiệm vụ có cơ sở khoa học cho lục quân và hải quân trong mỗi một giai đoạn phát triển. Tất cả các nghị quyết của Đảng đều mang tính chất sáng tạo và nhằm đáp ứng yêu cầu lãnh đạo chiến tranh thắng lợi trong những điều kiện cụ thể của từng thời kỳ. Bộ máy của Đảng, chính quyền thành một hệ thống lưới dày đặc gắn liền với cơ cấu tổ chức của quân đội. Đảng lại không ngừng củng cố và cải tiến các tổ chức đảng và cơ quan chính trị trong quân đội, coi công tác đảng và chính trị là một bộ phận quan trọng trong nền móng xây dựng và hoạt động của quân đội. Công tác đảng và công tác chính trị nhằm nâng cao sự giác ngộ nhiệm vụ, lòng trung thành vô hạn đối với Đảng và Nhà nước Xô-viết, bảo đảm sự đoàn kết, tính tổ chức, kỷ luật, tinh thần sẵn sàng chiến đấu, tinh thần cảnh giác trong quân đội. Đảng đã vạch cho chiến sĩ tính chất chính nghĩa và mục đích cao quý của cuộc chiến tranh giữ gìn Tổ quốc xã hội chủ nghĩa. Lênin nói: "Nền móng vững chắc của Quân đội Liên Xô xây dựng được là nhờ có công tác tổ chức và giáo dục chính trị của Đảng".


Trong những năm chiến tranh, Đảng đã gửi ra mặt trận nửa số đảng viên. Gương hy sinh, dũng cảm chiến đấu của các đảng viên đã củng cố hàng ngũ Hồng quân, động viên các chiến sĩ hăng hái lập công. Đảng luôn luôn kêu gọi công nhân, nông dân và đặc biệt các đảng viên, các đoàn viên công đoàn, đoàn viên thanh niên cộng sản phải ra sức học tập kỹ thuật quân sự và nâng cao tinh thần sẵn sàng chiến đấu.


Chế độ chính ủy do Đảng đề ra đã đóng một vai trò đặc biệt trong việc xây dựng Hồng quân. Với công tác của mình chính ủy đã đoàn kết hàng ngũ Hồng quân, giáo dục Hồng quân lập trường tư tưởng vô sản, kỷ luật cách mạng, tinh thần dũng cảm chiến đấu, ngăn ngừa tư tưởng chủ quan, tự mãn, kiêu ngạo, trái lại đàn áp không thương tiếc những hoạt động phản bội của các phần tở chỉ huy cũ và đề cao, bảo đảm uy tín cho các người chỉ huy ưu tú.


Đảng là người đã động viên và tổ chức Quân đội Xô-viết đánh tan bọn can thiệp vũ trang và bọn phản cách mạng. Trung ương đã trực tiếp lãnh đạo các hoạt động của quân đội trên các mặt trận và Bộ chỉ huy tối cao. Đảng luôn luôn chú ý củng cố hậu phương, động viên nhân dân ủng hộ Hồng quân đặc biệt là nhân dân vùng gần mặt trận và các vùng mới giải phóng. Lênin, lãnh tụ vĩ đại của Đảng với danh nghĩa Chủ tịch Hội đồng Quốc phòng, trực tiếp lãnh đạo các cơ quan quân sự, lãnh đạo nhiệm vụ bảo vệ quân đội, lãnh đạo động viên cung cấp người, vũ khí lương thực, trang bị cho quân đội.


Trong thời kỳ hòa bình xây dựng xã hội chủ nghĩa Đảng đã đấu tranh chống nhóm muốn thủ tiêu quân đội thường trực, Lênin và những bạn chiến đấu trung thành của Người đã nêu rõ sự cần thiết phải giữ vững quân đội thường trực và củng cố tinh thần sẵn sàng chiến đấu đề phòng sự đe dọa xâm lăng của đế quốc. Đảng lại chú trọng nhấn mạnh tính chất giai cấp của quân đội và vai trò lãnh đạo của giai cấp công nhân trong quân đội. Đại hội Đảng lần thứ X yêu cầu không đưa công nhân ở trong quân đội ra ngoài và yêu cầu chuyển những công nhân trẻ tuổi ở các đội quân lao động vào quân đội thường trực. Đại hội yêu cầu củng cố vai trò lãnh đạo của Đảng trong quân đội và đề nghị ngừng gọi những đảng viên cộng sản ra khỏi quân đội và trả lại những đảng viên cũ trong quân đội. Đại hội đã giao cho Trung ương nhiệm vụ tăng cường các cơ quan chính trị và phải đổi mới và củng cố thành phần các chính ủy; vì lúc đó Đảng đã khám phá được sự hoạt động của những nhóm muốn thủ tiêu quân đội thường trực và tách rời quân đội ra khỏi sự lãnh đạo của Đảng.


Đại hội Đảng lần thứ XIV đề thêm một mục trong điều lệ Đảng quy định việc xây dựng đảng, tổ chức đảng và cơ quan chính trị trong quân đội. Điều lệ đó yêu cầu các tổ chức đảng và công tác chính trị trong quân đội phải liên hệ chặt chẽ với cơ quan Đảng và chính quyền địa phương.


Đại hội lần thứ XVI nêu rõ ý nghĩa lớn lao của việc phát triển nhanh chóng nền công nghiệp đối với việc củng cố quốc phòng. Trong chiến tranh thế giới lần thứ 2, để bảo đảm thắng lợi, nhiều cán bộ lãnh đạo xuất sắc của Đảng đã được điều vào giữ những chức trách quan trọng trong quân đội. Ngoài ra còn điều thêm 4.700 cán bộ và đảng viên vào lục quân và hải quân.


Căn cứ vào quan điểm của Đảng là thắng lợi của cuộc chiến tranh trước hết và chủ yếu do tinh thần của quần chúng đổ máu trên chiến trường quyết định, Đảng hết sức giáo dục tinh thần yêu nước, tinh thần chiến đấu bất khuất cho quân đội.


Đảng không ngừng củng cố bộ máy Đảng và chính trị trong quân đội, cải tiến phương pháp công tác.

Sắc lệnh ngày 16 tháng 7 năm 1941 của Xô-viết tối cao quy định thành lập lại chế độ chính ủy bãi bỏ từ năm 1940. Việc thành lập lại chế độ chính ủy lúc đó rất thích hợp. Hoàn cảnh gian khổ của những tháng đầu của cuộc chiến tranh, việc rút lui bắt buộc của Quân đội Liên Xô đòi hỏi phải đấu tranh quyết liệt chống bọn phản bội, chống những phần tử hoảng hốt, khiếp nhược, chống tác phong dễ dãi lỏng lẻo trong quân đội. Tình hình non yếu, thiếu kinh nghiệm của những cán bộ chỉ huy từ trong hàng ngũ hạ sĩ và binh lính lên, từ trong công dân chưa phục vụ trong Hồng quân ra, làm cản trở việc chấp hành kỷ luật một cách nghiêm minh, đòi hỏi phải củng cố vai trò lãnh đạo của Đảng. Chế độ chính ủy được thành lập lại đã giúp giải quyết những khó khăn đó.


Tháng 10 năm 1942 chế độ chính ủy lại được thay thế bằng chế độ một người chỉ huy, vì lúc đó Hồng quân đã có kinh nghiệm, các sĩ quan chỉ huy và chính trị đã trưởng thành.

Trong những năm chiến tranh Đảng luôn luôn giữ quan hệ chặt chẽ với nhân dân và quần chúng lao động. Dưới sự lãnh đạo của Đảng, đất nước Liên Xô đã biến thành một mặt trận chiến đấu thống nhất. Sự lớn mạnh của giai cấp công nhân, của các kỹ sư, nhân viên kỹ thuật đã bảo đảm sản xuất vũ khí, phương tiện đầy đủ và thỏa mãn cho quân đội Liên Xô chiến thắng quân phát xít Đức.
Logged
vnmilitaryhistory
Moderator
*
Bài viết: 1830



« Trả lời #9 vào lúc: 06 Tháng Mười Hai, 2022, 07:17:44 pm »

2. Trong công cuộc xây dựng Quân đội Liên Xô, nguyên tắc bình đẳng về quyền lợi và nghĩa vụ của mọi công dân Xô-viết trong việc bảo vệ Tổ quốc và tính chất giai cấp của quân đội được đề lên hàng đầu.

Khi Nhà nước Xô-viết mới ra đời, bọn đế quốc lợi dụng những phần tử phản cách mạng định dập tắt cách mạng và khôi phục lại chính quyền tư sản, địa chủ trên toàn nước Nga. Để bảo vệ thắng lợi cách mạng, Đảng cộng sản đề ra thành lập Hồng quân công nông, Hồng quân công nông là vũ khí của chuyên chính vô sản nên phải có tính chất giai cấp. Thành phần chủ yếu bao gồm những người đại diện cho hai giai cấp công nhân và nông dân. Việc tuyển mộ lúc đầu dựa trên nguyên tắc tự nguyện. Vì hồi ấy chỉ có những công nhân và nông dân được giác ngộ sớm mới có thể tỏ ra kiên cường và có kỷ luật cách mạng.


Đến tháng 4 năm 1918 thì được chuyển từ chế độ tình nguyện sang nghĩa vụ tòng quân, quy định tất cả nam công dân từ 18 đến 40 tuổi đều có nghĩa vụ quân sự. Nhưng để giữ vững tính chất giai cấp của quân đội, Đảng quy định chỉ có những người lao động mới được cầm vũ khí, còn những người không lao động thì không được cầm vũ khí, họ làm nghĩa vụ quân sự bằng cách tham gia các công tác khắc phục vụ quân đội, phục vụ tiền tuyến. Sau khi Liên Xô đã thanh toán xong giai cấp bóc lột, Hiến pháp lại đề ra: "Nghĩa vụ tòng quân đối với mọi người là một pháp lệnh, chế độ binh dịch trong lực lượng võ trang Liên Xô là một nghĩa vụ vinh dự của người công dân Xô-viết".


Trai tráng công dân Xô-viết không phân biệt nguồn gốc giai cấp, vị trí xã hội, chủng tộc, tôn giáo, văn hoá đều phải làm nghĩa vụ quân sự. Công tác tuyên truyền giáo dục nghĩa vụ quân sự rộng rãi đã đóng một vai trò lớn trong việc chuẩn bị cho đông đảo công dân tham gia quân đội. Trong đại chiến thứ 2, Chính phủ lại quy định tất cả nam công dân từ 16 đến 50 tuổi đều phải làm nghĩa vụ quân sự. Các cơ quan Đảng, Xô-viết, các công đoàn và cơ quan tuyển mộ mở rộng việc tuyên truyền và giáo dục khắp trong nước làm cho đại đa số công dân khi được gọi vào Hồng quân đều đã biết một số tri thức quân sự tối thiểu. Một "Hội tự nguyện giúp đỡ Hải - Lục - Không quân" được thành lập. Hội đó có hàng triệu người chuẩn bị để thay thế các chiến sĩ trong các đơn vị của lực lượng võ trang Liên Xô, 5 năm gần đây lực lượng hội đó tăng gấp đôi. Hội đã đạt được nhiều thành tích trong việc phổ biến các tri thức quân sự chuẩn bị cho nhân dân chống những vũ khí mới của địch và tạo thành một lực lượng dự bị đầy đủ về trí lực và thể lực cho quân đội.


3. Trong việc đào tạo cán bộ và chiến sĩ phái nắm vững yêu cầu trên cơ sở giáo dục chính trị mà huấn luyện quân sự nhằm đáp ứng yêu cầu chiến thắng một kẻ dịch mạnh và trang bị kỹ thuật cao.

Đảng luôn luôn giáo dục cho Quân đội Liên Xô đường lối, chính sách của Đảng làm cho quân đội thừa nhận và thực hiện một cách kiên quyết những đường lối, chính sách đó.

Đảng luôn luôn chú trọng nâng cao trình độ chính trị, tư tưởng và trình độ lý luận Mác - Lênin cho cán bộ, đồng thời nhấn mạnh việc giáo dục cán bộ nắm vững những đặc điểm và kinh nghiệm của chiến tranh cũng như các phương tiện và phương pháp đấu tranh càng ngày càng phát triển. Lênin còn yêu cầu cán bộ quân đội phải nghiên cứu những phương tiện chiến đấu, những thủ đoạn và phương pháp tiến hành chiến tranh của kẻ địch.


Mọi công tác tuyên truyền vận động của Đảng đều nhằm nâng cao lòng giác ngộ cách mạng, ý thức xã hội chủ nghĩa, tính kỷ luật, tinh thần sẵn sàng chiến đấu, làm cho mọi chiến sĩ và cán bộ phải tự rèn luyện thói quen, khả năng vượt mọi khó khăn và thử thách của chiến tranh. Lênin thường dạy: "Kỷ luật nghiêm minh là điều không thể thiếu được của quân đội thường trực". Người phân biệt sự khác nhau giữa kỷ luật quân sự Xô-viết và kỷ luật roi vọt của nhà nước bóc lột. Kỷ luật Quân đội Xô-viết dựa trên cơ sở tự giác và quan hệ giữa các quân nhân trong Quân đội Xô-viết. Người quân nhân Xô-viết hiểu rằng phục vụ trong quân đội là một nghĩa vụ cao quý, là bảo vệ lợi ích công nông, bảo vệ thành quả của cách mạng, của chủ nghĩa xã hội vĩ đại.


Sự phục tùng cán bộ chỉ huy, việc chấp hành nghiêm minh điều lệnh là điều kiện không thể thiếu được trong việc chuẩn bị chiến đấu cho quân đội. Đại hội Xô-viết toàn Nga lần thứ V có đề ra: "Hồng quân công nông phải xây dựng trên một cơ sở kỷ luật cao, mỗi một công dân đã được chính quyền trao cho vũ khí để bảo vệ lợi ích lao động, có trách nhiệm phải phụ thuộc vào yêu cầu mệnh lệnh của sĩ quan chỉ huy của chính quyền Xô-viết".


Lênin yêu cầu chấp hành điều lệnh không phải vì sợ mà vì ý thức tự giác. Người yêu cầu kiên quyết đấu tranh chống lại những hiện tượng vô kỷ luật và tác phong du kích trong quân đội. "Phải đấu tranh chống tác phong du kích như đấu tranh chống với lửa" (Lênin toàn tập, tập 29, trang 512).


Dựa trên cơ sở của yêu cầu chiến tranh hiện đại, quân đội phải hết sức để cao kỷ luật. Không có kỷ luật nghiêm minh thì khi tác chiến các binh chủng quân chủng không đạt được hợp đồng và bổ trợ chặt chẽ cho nhau được. Chỉ có thống nhất ý chí hành động mới bảo đảm được thắng lợi. Sự vi phạm kỷ luật trong chiến tranh hiện đại sẽ dẫn đến những tai họa, những thiệt hại cho nên Đảng yêu cầu phải hết sức giữ gìn kỷ luật quân sự.


Cuối năm 1939 để đáp ứng với nhu cầu thực tế, theo chỉ thị của Đảng, quân đội lại cải tổ phương pháp giáo dục. Phải giáo dục bộ đội trong điều kiện sát thực tế chiến đấụ. Dạy cho chiến sĩ có khả năng và thói quen vượt bất kỳ khó khăn nào và không mong những thắng lợi dễ dàng. Đảng yêu cầu chú ý đến những kinh nghiệm mới và hết sức nghiên cứu những phương tiện chiến đấu mới, yêu cầu củng cố chế độ một thủ trưởng, đề cao tính kỷ luật, tổ chức và trật tự trong quân đội.


Từ sau chiến tranh, những phương pháp rèn luyện cán bộ đã được thay đổi cho phù hợp. Một hệ thống các trường, các lớp đã được thành lập.

Trong chiến tranh thế giới lần thứ 2 Quân đội Liên Xô đã tỏ ra hơn hẳn quân đội Đức về mọi mặt, vượt xa chúng về vũ khí, về tổ chức, về tinh thần chiến đấu và nghệ thuật chỉ huy chiến đấu, chiến dịch, chiến lược. Ngày nay kẻ địch âm mưu gây chiến đang ra sức phát triển trang bị, kỹ thuật mới. Tình hình đó đòi hỏi Quân đội Liên Xô phải luôn luôn tiếp tục cải tiến việc huấn luyện, việc trang bị, kỹ thuật chiến đấu mới phức tạp hơn, yêu cầu người chỉ huy phải có một trình độ cao hơn trước, phải phát huy cao độ tinh thần sáng tạo, vì mỗi một trận đánh, một chiến dịch không có cái nào giống cái nào. Chỉ có tài khéo léo, tính tự động, óc sáng tạo mới tạo điều kiện cho người cán bộ chỉ huy chiến đấu thắng lợi. Khoa học quân sự Liên Xô không nêu ra một mẫu mực nào cứng nhắc. Cho nên việc rèn luyện cán bộ phải là một công tác sinh động và thực tiễn. Chỉ có đưa những kiến thức thu được trong học tập lý thuyết vận dụng vào thực tế mới làm cho những kiến thức đó trở nên có tác dụng và ngày một phát triển phong phú thêm.
Logged
Trang: 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 16 17 18 19 20 21 22 23 24 25 26 27 28 29 30 31 32 33 34 »   Lên
  In  
 
Chuyển tới:  

Powered by MySQL Powered by PHP Powered by SMF 1.1.21 | SMF © 2006-2008, Simple Machines

Valid XHTML 1.0! Valid CSS! Dilber MC Theme by HarzeM