Lịch sử Quân sự Việt Nam
Tin tức: Lịch sử quân sự Việt Nam
 
*
Chào Khách. Bạn có thể đăng nhập hoặc đăng ký. 30 Tháng Mười Một, 2023, 08:57:02 am


Đăng nhập với Tên truy nhập, Mật khẩu và thời gian tự động thoát


Trang: « 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 16 17 18 19 20 21 22 23 24 25 26 27 28 29 30 »   Xuống
  In  
Tác giả Chủ đề: Thượng tướng GS Hoàng Minh Thảo - Tác phẩm giải thưởng Hồ Chí Minh  (Đọc 5763 lần)
0 Thành viên và 1 Khách đang xem chủ đề.
vnmilitaryhistory
Moderator
*
Bài viết: 1787



« Trả lời #270 vào lúc: 02 Tháng Mười Một, 2023, 01:07:53 pm »

Đường lối tiến hành chiến tranh chỉ đạo mọi mặt hoạt động của đất nước và của lực lượng vũ trang trong quá trình chuẩn bị và tiến hành một cuộc chiến tranh nhất định, với đối tượng tác chiến và những điều kiện xã hội - lịch sử cụ thể. Nghệ thuật tác chiến chịu sự chỉ đạo của đường lối đó trên một số mặt chủ yếu sau đây:

a) Hệ thống tư tưởng, quan điểm về tiến hành chiến tranh và đấu tranh vũ trang

Tư tưởng quân sự, quan điểm về tiến hành chiến tranh và đấu tranh vũ trang là một bộ phận trong hệ tư tưởng của một giai cấp, chịu sự chi phối của những quan điểm chính trị - xã hội, kinh tế, triết học... của giai cấp đó. Nó phản ánh chính sách đối nội, đối ngoại của nhà nước, mục đích chính trị và tính chất của chiến tranh, phụ thuộc vào chế độ xã hội, trình độ của nền sản xuất, vị trí địa lý... của nước tiến hành chiến tranh. Đồng thời tư tưởng quân sự cũng mang dấu ấn dân tộc, tiếp thụ và kế thừa kinh nghiệm, truyền thống quân sự của dân tộc.


Tư tưởng, quan điểm về tiến hành chiến tranh là sản phẩm chủ quan của cơ quan lãnh đạo chiến tranh, là kết quả nhận thức, phản ánh các điều kiện, quy luật khách quan của chiến tranh. Nhận thức và phản ánh đúng quy luật là tiền đề của thắng lợi, còn nếu phản ánh sai lệch, cưỡng lại quy luật thì thất bại là tất yếu.


Tiến hành chiến tranh xâm lược phi nghĩa, đi ngược lại lợi ích của các dân tộc và của chính nhân dân nước chúng, chủ nghĩa đế quốc và cấc thế lực phản động không có cách nào khác hơn là dựa vào quân đội nhà nghề với số lượng đông, vào ưu thế về tiềm lực kinh tế và vũ khí kỹ thuật hiện đại, sử dụng các biện pháp vũ lực tàn bạo kết hợp với thủ đoạn chính trị xảo quyệt, hòng giành thắng lợi quyết định trong thời gian ngắn. Chiến lược "đánh nhanh giải quyết nhanh" của thực dân Pháp khi khởi đầu chiến tranh xâm lược Việt Nam, hay chiến lược "tìm diệt" của đế quốc Mỹ khi đưa quân Mỹ ồ ạt vào tham chiến ở miền Nam nước ta, đều không thoát ra khỏi những vấn đề có tính quy luật ấy của chiến tranh xâm lược. Vấp phải đối thủ kiên cường và tài trí là nhân dân Việt Nam anh hùng, chúng buộc phải chuyển sang đánh kéo dài là đã chấp nhận mầm mống của thất bại không sao tránh khỏi.


Trong quá trình lãnh đạo cuộc đấu tranh lâu dài của nhân dân ta để giành và giữ vững nền độc lập, Đảng ta và Bác Hồ đã hình thành và từng bước hoàn chỉnh hệ thống tư tưởng, quan điểm về tiến hành chiến tranh giải phóng và chiến tranh giữ nước ở Việt Nam, mà những nội dung cơ bản là:

- Quan điểm chiến tranh nhân dân, phát động và tổ chức toàn dân đánh giặc.

- Quan điểm phát huy sức mạnh tổng hợp của cả nước, kết hợp sức mạnh của dân tộc với sức mạnh của thời đại để đánh thắng kẻ thù xâm lược.

- Tư tưởng chiến lược tiến công, đánh thắng quân địch từng bước, tiến lên giành thắng lợi hoàn toàn.

"Mạnh được, yếu thua", kết cục của chiến tranh cuối cùng tùy thuộc vào tương quan sức mạnh của các bên tham chiến trên chiến trường. Đó là quy luật của chiến tranh. Nhân dân Việt Nam thường phải chiến đấu và chiến thắng các thế lực xâm lược của những nước lớn có nền kinh tế phát triển cao hơn, có quân đội đông, được trang bị nhiều và hiện đại hơn mình, có khi gấp nhiều lần. Đó là một mâu thuẫn gay gắt phải giải quyết thành công thì mới giành được thắng lợi. Đảng ta đã nhìn thấy sức mạnh để đánh thắng quân địch không phải chỉ ở số lượng quân đội và vũ khí mà tìm nguồn sức mạnh vô tận ở tinh thần hy sinh, dũng cảm và khả năng đánh giặc của nhân dân, không chỉ nhìn hiện tại mà còn nhìn thấy xu thế phát triển của sức mạnh phía ta và phía địch. Tổ chức và tiến hành chiến tranh nhân dân, phát huy sức mạnh tổng hợp của cả nước kết hợp với sức mạnh của thời đại, thực hành nhất quán chiến lược tiến công, đánh thắng địch từng bước, làm chuyển hóa so sánh lực lượng có lợi cho ta, cuối cùng tạo thành sức mạnh tổng hợp lớn hơn địch để đánh bại chúng, đó là chiếc chìa khóa để giải quyết mâu thuẫn, là quy luật giành thắng lợi của chiến tranh cách mạng Việt Nam.


Những tư tưởng, quan điểm cơ bản nói trên là sự kết hợp nhuần nhuyễn quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin với tinh hoa truyền thống đánh giặc, giữ nước của dân tộc Việt Nam. Nó đã dẫn dắt nhân dân ta đến thắng lợi oanh liệt trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ vừa qua. Nó cũng đang soi rọi cho công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa ngày nay.
Logged
vnmilitaryhistory
Moderator
*
Bài viết: 1787



« Trả lời #271 vào lúc: 02 Tháng Mười Một, 2023, 01:08:32 pm »

b) Phương thức tổ chức lực lượng

Tư tưởng, quan điểm về tiến hành chiến tranh được thể hiện thông qua phương thức tổ chức lực lượng.

Để tiến hành chiến tranh xâm lược, bọn đế quốc và phản động chủ yếu dựa vào việc tổ chức quân đội chính quy nhà nghê gồm đội quân viễn chinh và quân đội tay sai bản xứ. Dù ở nơi nào, lúc nào đó, chúng cũng lập ra các tổ chức địa phương quân, dân vệ, v.v... nhưng thực chất đó cũng chỉ là những đội quân đánh thuê đối lập với nhân dân.


Xuất phát từ quan điểm chiến tranh nhân dân, phát huy sức mạnh tổng hợp của toàn dân đánh giặc, Đảng ta đã đề ra phương thức tổ chức lực lượng: đi từ xây dựng lực lượng chính trị của quần chúng mà xây dựng lực lượng vũ trang gồm ba thủ quân: bộ đội chủ lực, bộ đội địa phương và dân quân tự vệ với cơ cấu cân đối, hoàn chỉnh. Phương thức tổ chức lực lượng như trên cho phép khơi dậy tiềm năng to lớn của nhân dân để đánh thắng kẻ thù xâm lược, bảo đảm cho lực lượng vũ trang gắn bó mật thiết với toàn dân đánh giặc, có nguồn bổ sung vô tận để phát triển và trưởng thành.


Thực tiễn hai cuộc kháng chiến chống Pháp, chống Mỹ trước đây và hai cuộc chiến tranh bảo vệ biên giới ở hai đầu đất nước vừa qua đều chứng minh: ở đâu, lúc nào thực hiện được đầy đủ, đồng bộ phương thức tổ chức lực lượng như trên thì sẽ giành được thắng lợi; trái lại nếu chệnh choạng về đường lối quan điểm, mất cân đối trong tổ chức thực hiện thì sẽ gặp khó khăn, thậm chí bị thất bại tạm thời.


c) Phương thức tiến hành chiến tranh.

Phương thức tiến hành chiến tranh là tổng thể các hình thức và phương pháp sử dụng các lực lượng theo tư tưởng, quan điểm chỉ đạo đã đề ra để giành thắng lợi trong chiến tranh.

Từ quan điểm phát huy sức mạnh tổng hợp của toàn dân đánh giặc với lực lượng vũ trang nhân dân gồm ba thứ quân làm nòng cốt, dẫn đến phương thức tiến hành chiến tranh của nhân dân ta trong chiến tranh giải phóng và chiến tranh giữ nước mà những điểm nổi bật là: kết hợp chặt chẽ chiến tranh nhân dân địa phương với chiến tranh bằng các binh đoàn chủ lực; kết hợp tiến công quân sự với tiến công chính trị, binh vận, ngoại giao; kết hợp các quy mô, các hình thức tác chiến, đánh địch trên mọi địa bàn chiến lược...


Phương thức tiến hành chiến tranh như trên đã phát triển ngày càng hoàn chỉnh và đưa đến thắng lợi của hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ. Ngày nay nó cần được nghiên cứu, vận dụng sáng tạo để phát huy hiệu lực to lớn trong chiến tranh bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa.


Quán triệt sâu sắc những nội dung nói trên trong đường lối tiến hành chiến tranh của Đảng ta, nghệ thuật tác chiến Việt Nam có điều kiện để phát triển rực rỡ. Sức mạnh tổng hợp của toàn dân đánh giặc, lực lượng chính trị và lực lượng vũ trang hùng hậu gồm ba thứ quân, sự kết hợp chặt chẽ giữa các hình thức đấu tranh, giữa chiến tranh nhân dân địa phương và chiến tranh bằng các binh đoàn chủ lực mở ra những khả năng vô cùng thuận lợi để nghệ thuật tác chiến xây dựng thế trận vững chắc, cài xen vào thế trận phòng thủ của địch, thực hành mưu kế hiểm hóc, sáng tạo nhiều cách đánh linh hoạt, tạo thời cơ và nắm vững thời cơ để giành thắng lợi giòn giã.
Logged
vnmilitaryhistory
Moderator
*
Bài viết: 1787



« Trả lời #272 vào lúc: 02 Tháng Mười Một, 2023, 01:09:26 pm »

2. So sánh lực lượng trên chiến trường

Tác chiến là một quá trình đấu lực và đấu trí quyết liệt, khẩn trương giữa hai tập đoàn vũ trang đối địch trên chiến trường nhằm đánh lạc đối phương, giành thắng lợi về mình. So sánh lực lượng giữa hai bên đối chiến cả về quy mô, khối lượng bộ đội và trang bị kỹ thuật cũng như trạng thái tinh thần, bản lĩnh chiến đấu, nghệ thuật chỉ huy... là yếu tố khách quan chi phối sự vận dụng nghệ thuật tác chiến của mỗi bên. Vì vậy, đánh giá đúng so sánh lực lượng để tìm ra đấu pháp thích hợp là điều kiện tiên quyết để giành thắng lợi. Ngược lại, đánh giá sai là bước đi đầu tiên kéo theo hàng chuỗi những sai lầm dẫn đến bị động và thất bại.


"Biết người biết mình, trăm trận trăm thắng". Các nhà cầm quân từ xưa đến nay đều khẳng định điều đó. Nhưng làm thế nào để ''biết người biết mình" cho đúng lại là một nghệ thuật.

Để đánh giá đúng địch, đúng mình, trước hết phải có quyết tâm và lòng dũng cảm, đồng thời phải có tri thức, kinh nghiệm và cách xem xét khách quan, khoa học. Nếu ý chí không vững vàng, thiếu năng lực phân tích, hay có cách nhìn phiến diện thì nhìn người, nhìn mình không thật, sinh ra dao động sợ địch hoặc chủ quan khinh suất, đều dẫn đến sai lầm nguy hiểm.


Đánh giá so sánh lực lượng không thể chỉ bằng các kết quả tính toán số học, mặc dù đó là những căn cứ cần được xem xét một cách nghiêm túc. Phải có sự phân tích tổng hợp, khái quát cả số lượng và chất lượng, con người và tổ chức, vật chất và tinh thần, thế và lực, khả năng tác chiến của binh sĩ và nghệ thuật, bản lĩnh của chỉ huy... để đánh giá so sánh lực lượng lúc ban đầu và dự kiến sự chuyển hóa trong tiến trình tác chiến. Từ đó tìm ra biện pháp hạn chế chỗ yếu, phát huy chỗ mạnh của ta, kiềm chế chỗ mạnh, khoét sâu chỗ yếu và mâu thuẫn của địch, buộc chúng phải mắc sai lầm để ta tập trung nỗ lực tạo ưu thế sức mạnh vào nơi và lúc quyết định để giành thắng lợi.


Tổ tiên ta đã nêu nhiều tấm gương xuất sắc về nghệ thuật đánh giá so sánh lực lượng, làm cơ sở cho việc vận dụng nghệ thuật tác chiến sắc sảo linh hoạt. Thời Trần, trước đối thủ là đạo quân Nguyên xâm lược khét tiếng thiện chiến và hung bạo, ông cha ta không hề nao núng mà bình tĩnh, sáng suốt nhìn thấu chỗ mạnh, chỗ yếu của địch và của ta, từ đó định ra kế sách đúng đắn "lấy nhàn chờ nhọc, đoạt nhuệ khí của giặc trước", "lấy đoản binh thắng trường trận", tạo thời cơ thực hành phản công chiến lược, giành thắng lợi hoàn toàn. Lời nhắc nhủ của Trần Quốc Tuấn khi lâm bệnh: "Nếu giặc ở thế tiến quân ồ ạt như lửa thiêu gió táp thì dễ chế ngự" thể hiện một tầm nhìn vững vàng, sâu sắc trong việc đánh giá địch, ta.


Trong giai đoạn cuối của cuộc kháng chiến chống Minh, Nguyễn Trãi và các lãnh tụ nghĩa quân Lam Sơn cũng nêu một ví dụ điển hình về đánh giá địch, ta một cách chính xác. Khi trong nước vẫn còn 10 vạn quân thù chiếm đóng và 15 vạn viện binh địch sẵn sàng vượt biên giới tràn sang nước ta, Lê Lợi - Nguyễn Trãi đã vạch ra "sáu điều địch phải thua" và quyết định lập thế trận "vây thành diệt viện" trên quy mô chiến lược. Các ông cũng phân tích sâu sắc chỗ mạnh, chỗ yếu của hai cánh quân tiếp viện, kể cả kinh nghiệm từng trải và tính khí của hai viên tưởng chỉ huy là Mộc Thạnh và Liễu Thăng. Từ đó hạ quyết tâm chính xác tập trung tiêu diệt đạo quân Liễu Thăng trước bằng cách đánh "phục binh giữ hiểm, đập nát tiền phong".


Nắm vững chủ nghĩa Mác - Lênin, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ rõ phương pháp đánh giá địch, ta một cách khoa học, biện chứng là: không "chỉ nhìn về vật chất, chỉ nhìn ở hiện trạng, chỉ lấy con mắt hẹp hòi mà xem..." mà phải "không những nhìn vào hiện tại, mà lại nhìn vào tương lai... tin chắc vào tinh thần và lực lượng của quần chúng, của dân tộc"1 (Hồ Chí Minh, Những bài viết và nói về quân sự, tập 2, Nxb Quân đội nhân dân, H. 1987, tr. 13).


Đánh giá so sánh lực lượng trong tác chiến không thể dừng lại ở những nhận định chung, khái quát mà phải rất cụ thể, phân tích đúng khả năng tác chiến, sở trường, thủ đoạn và quy luật hành động của từng đổi tượng tác chiến. Ví dụ: trong chiến tranh xâm lược Việt Nam vừa qua, chỗ mạnh và sở trường của quân Mỹ là sử dụng máy bay lên thẳng đổ quân và thiết lập các trận địa hởa lực ở sâu trong hậu phương ta, kết hợp với đột kích thọc sâu bằng xe tăng, xe bọc thép. Nhưng chỗ yếu của chúng là tinh thần chiến đấu kém, ỷ lại vào hỏa lực, phụ thuộc vào việc vận chuyển, tiếp tế yểm hộ của máy bay lên thẳng. Vì vậy, nếu chúng ta tập trung diệt máy bay lên thẳng và chế áp hỏa lực của chúng, thì đội hình quân Mỹ dễ hỗn loạn, dễ bị ta đưa vào bẫy và tiêu diệt từng bộ phận.


Tác chiến hiện đại trong tương lai sẽ diễn ra cả trên bộ, trên không và trên biển với nhịp độ cao, huy động nhiều loại lực lượng, nhiều thứ vũ khí, phương tiện kỹ thuật mới, mỗi bên đều tìm biện pháp để che giấu ý đồ, hành động của mình, gây bất ngờ cho đối phương. Vì vậy, để đánh giá đúng so sánh lực lượng không những phải có quan điểm, phương pháp đúng mà còn phải biết sử dụng các phương pháp, phương tiện kỹ thuật hiện đại để tiến hành trinh sát, thu thập và xử lý thông tin một cách kịp thời, đầy đủ và chính xác, đồng thời để che giấu hành động của mình và nghi binh lừa địch.
Logged
vnmilitaryhistory
Moderator
*
Bài viết: 1787



« Trả lời #273 vào lúc: 02 Tháng Mười Một, 2023, 01:10:14 pm »

3. Môi trường tác chiến

Môi trường tác chiến bao gồm những yếu tố tự nhiên và xã hội tồn tại và vận động trong không gian và thời gian tác chiến như địa hình, điều kiện khí tượng - thủy văn, sự phân bố và mật độ dân cư, trình độ chính trị, kinh tế, trạng thái tinh thần, tâm lý của nhân dân, v.v... Những yếu tố đó là những điều kiện khách quan có ảnh hưởng quan trọng đến hành động và việc vận đụng nghệ thuật tác chiến của hai bên tham chiến, tạo thuận lợi cho bến này, gây trở ngại cho bên kia, hoặc cũng có khi tạo thuận lợi hay khó khăn cho cả hai bên. Vì vậy trong phép dùng binh từ xưa đến nay, các nhà cầm quân đều coi trọng các yếu tố môi trường tác chiến và tìm cách tranh thủ các điều kiện "thiên thời, địa lợi, nhân hòa" để giành thắng lợi.


Xem xét môi trường tác chiến là phải phân tích từng yếu tố trong mối quan hệ tác động lẫn nhau, xác định những thuận lợi, khó khăn mà các yếu tố đó gây ra cho ta, cho địch và xem xét các khả năng cải tạo môi trường, từ đó tìm biện pháp tận dụng những điều kiện thuận lợi, hạn chế những khó khăn của ta, làm tăng thêm khó khăn cho địch.


Các trận thủy chiến trên sông Bạch Đằng của Ngô Quyền năm 938 và Trần Hưng Đạo năm 1288 để lại cho chúng ta một mẫu mực tuyệt vời về việc vận dụng tổng hợp các yếu tố môi trường trong nghệ thuật tác chiến, về sự kết hợp tài tình giữa thế hiểm của đất trời, sông núi với trí tuệ và sức mạnh của con người mà đòi xưa từng ca ngợi:

Thủy tri vạn cổ Trùng Hưng nghiệp
Bán tại quan hà, bán tại nhân1 (Hai câu thơ chữ Hán của Nguyễn Sưởng, thời Trần. Theo: Nguyễn Lương Bích, Việt Nam ba lần đánh Nguyên toàn thắng, Nxb Quân đội nhân dân, H. 1981, tr. 296).

Dịch là: Có ai biết sự nghiệp thời Trùng Hưng lưu danh muôn thuở, một nửa do sông núi, một nửa là do người.

Chặn đánh đoàn chiến thuyền Nam Hán vào xâm lược nước ta, Ngô Quyền đã nghiên cứu tận dụng triệt để địa hình thiên nhiên phức tạp, chọn điểm quyết chiến ở vùng cửa biển Bạch Đằng, nơi có nhiều cồn bãi, đầm lầy, kênh rạch... Trần Quốc Tuấn đánh đạo quân thủy của Nguyên - Mông rút chạy khỏi nước ta, đã lập trận địa mai phục ở vùng thượng lưu sông Bạch Đằng, nơi có địa thế sông núi tiếp liền nhau, có nhiều lạch sông nhỏ tiện giấu quân kín đáo, xuất kích bất ngờ trên đường địch tất phải qua. Cả hai ông đều nghiên cứu kỹ chế độ sông nước, thủy triều để xác định thời gian bắt đầu và kết thúc tác chiến có lợi nhất, đồng thời dùng biện pháp cải tạo môi trường bằng cách xây dựng những bãi cọc ngầm dưới lòng sông để chặn đứng đoàn thuyền địch khi nước triều xuống. Hai ông cũng phát huy sức mạnh của yếu tố "nhân hòa", động viên lực lượng nhân dân địa phương góp công góp của xây dựng trận địa cọc và tổ chức những đội dân binh phối hợp cùng quân triều đình đánh giặc. Đó chính là những yếu tố quan trọng góp phần làm nên hai trận quyết chiến chiến lược lừng danh trong lịch sử quân sự Việt Nam.
Logged
vnmilitaryhistory
Moderator
*
Bài viết: 1787



« Trả lời #274 vào lúc: 02 Tháng Mười Một, 2023, 01:11:35 pm »

4. Bản lĩnh của chỉ huy

Hạt nhân chủ thể của việc vận dụng nghệ thuật tác chiến là người chỉ huy và cơ quan chỉ huy.

Thắng lợi trên chiến trường tùy thuộc vào hành động kiên quyết và hiệp đồng chặt chẽ của tất cả các lực lượng tham gia tác chiến theo kế hoạch và hiệu lệnh thống nhất của người chỉ huy và cơ quan chỉ huy. Tất nhiên chỉ huy không phải là yếu tố quyết định hết thảy; mọi ý đồ, quyết tâm của người chỉ huy dù chính xác đến mấy cũng phải do những người và tổ chức thuộc quyền chấp hành một cách tích cực, sáng tạo thì mới trở thành hiện thực. Song với tư cách là trung tâm thần kinh của các lực lượng tác chiến, người chỉ huy và cơ quan chỉ huy có vai trò rất quan trọng và trách nhiệm hết sức nặng nề, ở cương vị càng cao thì vai trò và trách nhiệm đó càng lớn. Bởi vì mỗi quyết định, mệnh lệnh của người chỉ huy đểu có quan hệ đến sinh mạng của hàng trăm, hàng nghìn người, đến diễn biến và kết cục của tác chiến. Trong chiến tranh, một sai lầm, sơ suất, một sự do dự, chậm trễ dù nhỏ nhất cũng có thể phải trả giá bằng xương máu và kéo theo những hậu quả khó lường.


Bản lĩnh của người chỉ huy và cơ quan chỉ huy thể hiện chủ yếu ở trình độ vận động nghệ thuật tác chiến trong suốt quá trình tổ chức và thực hành tác chiến, mà hiệu lực thực tế được đánh giá bằng kết quả tác chiến. Bản lĩnh đó là sản phẩm tổng hợp của nhiều yếu tố: các phẩm chất tinh thần, tâm lý và trí tuệ, kiến thức và kinh nghiệm, năng lực và phong cách.


Người chỉ huy trước hết phải có lòng dũng cảm. Bởi vì có dám đánh rồi mới biết đánh, có dũng cảm mới đủ tỉnh táo, sáng suốt để phát huy được trí tuệ và năng lực trong chỉ huy tác chiến. Clau-dơ-vit - nhà lý luận quân sự nổi tiếng nước Phổ thế kỷ XIX - đã có lý khi nhận định: "Chiến tranh là môi trường của nguy hiểm nên lòng dũng cảm là đức tính quân sự quan trọng nhất"1 (Các Phôn Clau-dơ-vit, Bàn về chiến tranh, phần một, Nxb Quân đội nhân dân, H. 1981, tr. 83). Đức tính ấy của người chỉ huy phải được xây dựng trên những cơ sở vững chắc: nhận thức đầy đủ về mục đích, tính chất của chiến tranh, lòng yêu nước, lòng căm thù và quyết tâm tiêu diệt địch, ý thức trách nhiệm và lòng tin ở quân đội của mình, ở thắng lợi... Khác với các chiến binh trực tiếp giao chiến với quân địch, lòng dũng cảm của người chỉ huy không chỉ biểu hiện ở sự gan dạ, không ngại hy sinh, coi thường nguy hiểm, mà trước hết và chủ yếu phải bieu hiện ở thái độ dám đảm đương nhiệm vụ, dám chịu trách nhiệm trước tình huống khó khăn phức tạp. Nói về tư cách của người tướng, Bác Hồ đã dạy: "Dũng là không được nhút nhát, phải can đảm, dám làm những việc đáng làm, dám đánh những trận đáng đánh"2 (Hồ Chí Minh, Những bài viết và nói về quân sự, tập 1, 1985, tr. 365).


Song chỉ dũng cảm thôi chưa đủ, người chỉ huy phải có những phẩm chất trí tuệ phát triển. Không phải ngẫu nhiên mà Bac Hồ đã nêu điều đầu tiên (trong sáu điều) về tư cách của người tướng: "Trí là phải có óc sáng suốt để nhìn mọi việc, để suy xét địch cho đúng"3 (Hồ Chí Minh, Những bài viết và nói về quân sự, tập 1, 1985, tr. 365). Óc sáng suốt đó không thể tự nhiên mà có mà là kết quả tổng hợp của kiến thức sâu rộng và bề dày kinh nghiệm qua quá trình học tập và rèn luyện công phu trong thực tiễn đấu tranh. Sách Binh thư yếu lược - một tác phẩm quân sự cổ của dân tộc ta - cũng chỉ rõ: Người làm tướng không nên lấy giỏi cung đao cưỡi bắn làm tài, mà phải lấy thông suốt cổ kim làm giỏi"1 (Binh thư yếu lược, Nxb Khoa học xã hội, H. 1977, tr. 35, 56, 48. Bản gốc Binh thư yếu lược (hay Binh gia diệu lý yếu lược) của Trần Quốc Tuấn đến nay chưa tìm thấy. Cuốn Binh thư yếu lược này là bản viết do người đời sau (có thể vào đầu thế kỷ XIX) biên soạn lại).


Lòng dũng cảm và trí tuệ là cơ sở cho tính quyết đoán, một đức tính rất quan trọng của người chỉ huy. Chiến tranh là sự xung đột giữa những lực lượng sống với những biến cố khó dự đoán được hết, những tình huống khẩn trương, ác liệt. Điều đó đòi hỏi người chỉ huy phải có tính quyết đoán và năng lực hạ quyết tâm chính xác trong thời gian ngắn. Trù trừ, do dự có thể làm lỡ thời cơ, mất quyền chủ động, làm giảm hiệu quả tác chiến, thậm chí dẫn đến thất bại. Chính vì thế mà trong Binh thư yếu lược có nêu một trong "tám điều tệ" của đạo làm tướng là "do dự không quả quyết"2 (Binh thư yếu lược, Nxb Khoa học xã hội, H. 1977, tr. 35, 56, 48. Bản gốc Binh thư yếu lược (hay Binh gia diệu lý yếu lược) của Trần Quốc Tuấn đến nay chưa tìm thấy. Cuốn Binh thư yếu lược này là bản viết do người đời sau (có thể vào đầu thế kỷ XIX) biên soạn lại), và "cái hại trong việc dùng binh thì do dự là lớn nhất, tai vạ của ba quân sinh ra bởi sự hồ nghi"3 (Binh thư yếu lược, Nxb Khoa học xã hội, H. 1977, tr. 35, 56, 48. Bản gốc Binh thư yếu lược (hay Binh gia diệu lý yếu lược) của Trần Quốc Tuấn đến nay chưa tìm thấy. Cuốn Binh thư yếu lược này là bản viết do người đời sau (có thể vào đầu thế kỷ XIX) biên soạn lại). Tất nhiên tính quyết đoán của người chỉ huy hoàn toàn không đồng nghĩa với sự hấp tấp, bất cẩn và thói độc đoán.


Một yêu cầu cũng rất quan trọng về bản lĩnh của người chỉ huy là năng lực tư duy sáng tạo. Đó là năng lực phán đoán, phân tích, tổng hợp, so sánh, khái quát vận dụng những kiến thức và kinh nghiệm về chiến tranh và khoa học, nghệ thuật quân sự vào thực tế chiến trường, tìm ra phương án tối ưu để đạt tới thắng lợi. Nghệ thuật tác chiến không chấp nhận mọi sự giáo điều, công thức, rập khuôn. Trần Quốc Tuấn khi soạn Vạn kiếp tôn bí truyền thư để dạy tướng sĩ đã không quên căn dặn người đọc: "... Sau khi học được bí quyết này, nên thi hành, bài binh bố trận một cách sáng suốt thông minh, không được cứ theo di văn truyền lặp một cách ngu muội"1 (Nguyễn Lương Bích, Việt Nam ba lần đánh Nguyên toàn thắng, tr. 152). Chủ tịch Hồ Chí Minh khi nói về cách dùng binh cũng đòi hỏi phải "thiên biến vạn hóa, kẻ thù không biết đâu mà ngờ, mà phòng"2 (Hồ Chí Minh, Những bài viết và nói về quân sự, tập 1, tr. 138). Cho nên tư duy sáng tạo chính là thước đo trình độ vận dụng nghệ thuật tác chiến của người chỉ huy và cơ quan chỉ huy.


Bản lĩnh của người chỉ huy còn thể hiện ở lòng nhân nghĩa đối với tướng sĩ dưới quyền, đoàn kết được ba quân. Như Nguyễn Trãi nói: "Rượu hòa nước, dưới trên đều một bụng cha con"3 (Nguyễn Trãi, Bình Ngô đậi cáo). Có thế mới tạo ra sự gắn bó, một lòng chiến đấu cho mục đích chung.


Trên đây là mấy yêu cầu lớn về bản lĩnh của chỉ huy. Tất nhiên còn có thể kể ra những yêu cầu khác nữa như: tính kiên định, tính nhạy bén, trí tưởng tượng, năng lực tổ chức, điều hành, v.v... nhưng trong phạm vi cuốn sách này không thể đê cập hết được.


Trong lịch sử quân sự Việt Nam, những chiến công hiển hách đều gắn liền với tên tuổi của những vị thống soái lỗi lạc: Ngô Quyền, Lý Thường Kiệt, Trần Hưng Đạo, Lê Lợi, Nguyễn Trãi, Quang Trung... mà tầm vóc trí tuệ, tài năng mãi mãi là bài học sông động cho những người chỉ huy và cơ quan chỉ huy chúng ta.
Logged
vnmilitaryhistory
Moderator
*
Bài viết: 1787



« Trả lời #275 vào lúc: 02 Tháng Mười Một, 2023, 01:16:27 pm »

Chương II
MƯU KẾ


Tác chiến là cuộc đọ sức quyết liệt, trong đó hai bên đối địch vận dụng hết sức lực, cân não để giành quyền chủ động, tạo bất ngờ, thực hiện các đòn đánh trúng, đánh hiểm nhằm làm thất bại ý đồ, kế hoạch tác chiến của đối phương, đạt tới mục tiêu tác chiến của mình.


Quyền chủ động là quyền tự do hành động, là khậ năng bắt đầu và kết thúc tác chiến vào nơi và lúc có lợi nhất, bằng lực lượng và cách đánh mình mong muốn. Chủ động và bất ngờ có quan hệ chặt chẽ với nhau. Nắm được quyền chủ động thì có nhiều khả năng tạo bất ngờ; ngược lại, tạo bất ngờ là một phương thức để giành giật và phát huy quyền chủ động. Nắm được quyền chủ động và tạo được bất ngờ thì có thể ít thành nhiều, yếu hóa mạnh, gặp lúc nguy nan có thể chuyển bại thành thắng. Vì vậy, giành quyền chủ động tối đa, tạo bất ngờ tối đa là những vấn đề có ý nghĩa mạch sống của tác chiến, là mục tiêu vươn tối và là thước đo nghệ thuật của các bên tham chiến. Sách Binh thư yếu lược viết: "Tiến lên hay lui giữ do ở ta thì hẳn thắng, do ở ta thì ta khống chế địch, do ở địch thì ta bị địch khống chế"1 (Binh thư yếu lược, tr. 44). Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng chỉ rõ: "Giữ quyền chủ động là khôn khéo xử khiến quân thù, muốn đánh nó ở chỗ nào thì đưa nó đến đó mà đánh, muốn đưa nó vào bẫy của mình có thể đưa được... giữ được chủ động thì thế nào cũng thắng, không thắng to thì thắng nhỏ. Trái lại, nếu mình không giữ được quyền chủ động mà lại ở vào địa vị bị động, để cho quân thù xử khiến, mình dễ bị thất bại"1 (Hồ Chí Minh, Những bài viết và nói về quân sự, tập 1, tr. 137-138).


Quyền chủ động trong tác chiến thuộc về bên nào, điều đó tùy thuộc vào nhiều yếu tố: số lượng, chất lượng quân đội, binh khí kỹ thuật và phương tiện vật chất bảo đảm; khả năng cơ động và điều động bổ sung; địa thế; loại tác chiến (tiến công hay phòng ngự), v.v... song yếu tố chủ yếu quyết định là nghệ thuật tác chiến. Bên có ưu thế về lực lượng thì có. điều kiện giành và giữ quyền chủ động, những bên có lực lượng ít hơn có thể lấy chất lượng bù số lượng, khéo léo bố trí, sử dụng lực lượng, tận dụng địa thế có lợi để giành lấy quyền chủ động. Thông thường bên tiến công nắm quyền chủ động nhưng bên phòng ngự không hẳn lúc nào cũng bị động. Nếu nắm chắc đối phương, có dự kiến đầy đủ, kế hoạch chu đáo và cách đánh thích hợp thì vẫn có thể giữ quyền chủ động và đánh thắng. Chiến dịch phòng ngự với đòn phản chuẩn bị mãnh liệt, bất ngờ, rồi chuyển sang phản công của Quân đội Liên Xô ở vòng cung Cuốc-xcơ mùa hè năm 1943 đã chứng minh điều đó. Trận "Điện Biên Phủ trên không" của quân và dân ta tháng 12 năm 1972 đập tan cuộc tập kích chiến lược bằng máy bay B.52 của đế quốc Mỹ trên bầu trời Hà Nội - Hải Phòng cũng là một dẫn chứng hùng hồn về vấn đề này.


Có thể có nhiều phương thức, biện pháp để tạo bất ngờ, giành chủ động, song xem trong lịch sử chiến tranh, chúng ta thấy nổi lên hai khuynh hướng chủ yếu sau đây:

Khuynh hướng thứ nhất là dựa vào quân đông, binh khí nhiều, gây tình huống đột biến bằng cách tập trung hoặc tăng cường đột ngột số lượng quân đội tác chiến và binh khí kỹ thuật, nhằm tạo ưu thế áp đảo, phá vỡ thế trận của đối phương, giành quyền chủ động trên chiến trường. Một ví dụ tiêu biểu về quan điểm này là việc đế quốc Mỹ đưa quân vào trực tiếp tham chiến ở miền Nam Việt Nam trong những năm 1965-1968, đưa số quân Mỹ ở Việt Nam từ 2 vạn lên 18 vạn (tháng 12-1965), 30 vạn (tháng 8-1966), rồi 48 vạn (tháng 12-1967), cùng với gần 6 vạn quân chư hầu và 65 vạn quân ngụy hợp thành đội quân xâm lược đông tới 1 triệu 20 vạn tên. Với lực lượng ấy, chúng tính toán đã đạt tới ưu thế 4,7/1 và liên tiếp mở hai cuộc phản công chiến lược mùa khô 1965-1966 và 1966-1967   hòng "đánh gãy xương sống Việt cộng", giành lại quyền chủ động đã mất. Song thực tế chiến trường đã chứng minh: chúng không sao đảo ngược được tình thế và tiếp tục sa lầy trong thế bị động; quân và dân miền Nam vẫn giữ vững và phát triển thế chủ động tiến công.


Khuynh hướng thứ hai là vừa trọng lực vừa trọng mưu, nhưng hết sức chú trọng vận dụng mưu kế để lập thế ta, phá thế địch, điều khiển tình huống tác chiến, tạo thời cơ hành động bất ngờ, giành thắng lợi. Tác chiến có nhiều mưu hay kế giỏi thường đem lại hiệu quả cao mà tiết kiệm được lực lượng, giảm được tổn thất, với lực lượng ít hơn địch vẫn có thể thực hiện nguyên tắc tập trung sức mạnh vào nơi và lúc quyết định để đánh đòn quyết định.


Nghệ thuật quân sự Việt Nam là nghệ thuật trọng dùng mưu trong tác chiến. Với điều kiện của một nước nhỏ, lực lượng vũ trang tập trung thường không nhiều, phải chống lại những đội quân xâm lược vừa đông vừa mạnh hơn mình về vũ khí trang bị, các nhà chỉ huy quân sự Việt Nam từ xưa đến nay đã có nhiều sáng tạo trong vận dụng mưu kế tác chiến và đạt những thành tựu xuất sắc. Từ Ngô Quyền trong chiến thắng Bạch Đằng; Lý Thường Kiệt trên sông Như Nguyệt; Trần Hưng Đạo ỏ Hàm Tử, Chương Dương - Thăng Long... ; Lê Lợi - Nguyễn Trãi với Tốt Động - Chúc Động, Chi Lăng - Xương Giang; Quang Trung với Ngọc Hồi - Đống Đa... đến hai cuộc kháng chiến chống Pháp, chống Mỹ vừa qua, lịch sử quân sự Việt Nam lấp lánh những chiến công của một nghệ thuật dùng binh đầy mưu lược.


Nói đến mưu kế, có người nghĩ đó chỉ là những mưu mẹo để đánh lừa địch và thường chỉ được vận dụng trong chiến thuật. Theo chúng tôi quan niệm như thê có phần hạn hẹp.

Vậy mưu kế tác chiến là gì? Đó là những phương sách, biện pháp và bước đi nhằm giành quyền chủ động trên chiến trường, buộc địch phải chấp nhận tác chiến ở nơi và vào lúc ta mong muốn, phải hành động theo phương án ta dự kiến, tạo điều kiện cho ta tiêu diệt địch và thực hiện thắng lợi ý đồ tác chiến đã đề ra.


Mưu kế tác chiến được vận dụng trong tác chiến chiến lược, chiến dịch và trận chiến đấu với quy mô và biện pháp khác nhau. Ở quy mô chiến lược, chiến dịch, có thời gian chuẩn bị dài thì có điều kiện lập và triển khai mưu kế tinh vi, phức tạp, hiểm hóc, nhưng việc điều hành cũng đòi hỏi nghệ thuật cao. Trong một số loại tác chiến như chiến đấu gặp gỡ, truy kích... hay khi phải bước vào chiến đấu gấp thì điều kiện để vận dụng mưu kế có khó khăn hơn, đòi hỏi người chỉ huy phải rất nhạy bén, sáng tạo thì mới thành công.


Mưu kế tác chiến được vận dụng trong mối quan hệ mật thiết với các yếu tố khác của nghệ thuật tác chiến: dùng mưu kế đê lập thế trận, cài thế ta, phá thế địch; để sử dụng lực lượng hợp lý, tiết kiệm mà đạt hiệu quả cao; để vận dụng cách đánh táo bạo, hiểm hóc; để dẫn dắt tình huống tác chiến diễn biến theo ý định của mình, để tạo thời cơ giành thắng lợi quyết định.


Mưu kế tác chiến là yếu tố chỉ đạo xuyên suốt quá trình tác chiến, từ lúc xác định phương án, kế hoạch tác chiến, tổ chức hiệp đồng và bảo đảm, bố trí triển khai lực lượng, điều hành tác chiến qua các bước, các giai đoạn cho đến khi hoàn thành thắng lợi nhiệm vụ đã đề ra. Mưu kế tác chiến có khi chưa hoàn chỉnh ngay từ đầu mà từng bước được bổ sung hoàn thiện thêm trong quá trình tác chiến.


Lập mưu kế phải dựa trên sự phân tích đúng đắn chỗ mạnh, chỗ yếu, ý đồ và quy luật, thủ đoạn hành động của địch, khả năng thực tế của ta, điều kiện địa hình, thời tiết... Đặc biệt phải tính toán kỹ lực lượng dự bị (cả chiến dịch, chiến lược) của địch và khả năng cơ động, ứng cứu, phản kích của chúng, từ đó dự kiến hết các khả năng diễn biên tình huống, chuẩn bị sẵn các phương án và lực lượng để đối phó với những khả năng xấu nhất.


Trong vận dụng nghệ thuật mưu kế, một yêu cầu rất quan trọng là phát hiện đúng mâu thuẫn của ta, của địch và tìm ra những biện pháp có hiệu quả để giải quyết mâu thuẫn của ta, khoét sâu mâu thuẫn của địch. Sách Binh thư yếu lược viết : "Nắm được một cái sở đoản của địch thì phá được trăm cái sở trường của nó. Nhân một cái sở trường của ta thì cứu được trăm cái sở đoản của ta"1 (Binh thư yếu lược, tr. 185).


Trong tác chiến, các bên đối địch bên nào cũng gặp những mâu thuẫn. Có mâu thuẫn cơ bản, bắt nguồn từ tính chất, mục đích của chiến tranh; có mâu thuẫn tạm thời, trước mắt, do những điều kiện tác chiến cụ thể quy định. Kẻ tiến hành chiến tranh xâm lược phi nghĩa thường gặp những mâu thuẫn gay gắt, khó khắc phục vì chúng gắn với bản chất phản động của chiến tranh. Còn trong chiến tranh chính nghĩa, những mâu thuẫn gặp phải không thuộc về bản chất nên có thể hạn chế, khắc phục được. Tuy nhiên nếu không phát hiện kịp thời và có biện pháp giải quyết đúng đắn thì mâu thuẫn sẽ phát triển, gây khó khăn cho việc thực hiện nhiệm vụ tác chiến, thậm chí dẫn đến thất bại.


Xưa nay, trong các cuộc chiến tranh xâm lược nước ta, kẻ địch thường gặp những mâu thuẫn cơ bản là: mâu thuẫn giữa tập đoàn thống trị và nhân dân nước địch về mục đích chính trị của chiến tranh; mâu thuẫn giữa quân xâm lược và nhân dân ta; mâu thuẫn giữa tham vọng xâm lược với khả năng huy động và cung cấp nhân lực, tiền của cho chiến tranh xâm lược, v.v... Trong tác chiến, chúng thường bộc lộ những mâu thuẫn giữa tiến công và phòng ngự, giữa tập trung và phân tán, giữa cơ động và chiếm đóng, v.v... Nghệ thuật tác chiến của ta đã nhằm khai thác và phát triển được những mâu thuẫn đó của địch nên đã thành công.


Trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, Bác Hồ đã chỉ rõ: "Với binh nhiều tướng đủ, với khí giới tối tân, chúng (thực dân Pháp xâm lược - T.G) định đánh mau thắng mau. Với quân đội mới tổ chức, với vũ khí thô sơ, ta quyết kế trường kỳ kháng chiến"1 (Hồ Chí Minh, Những bài viết và nói về quân sự, tập 2, tr. 428). Đây là một ví dụ sinh động về vận dụng kế sách chiến lược nhằm khoét sâu mâu thuẫn của địch, giải quyết mâu thuẫn của ta. Đánh lâu dài thì những mâu thuẫn cố hữu của kẻ xâm lược sẽ phát triển ngày càng trầm trọng. Còn mâu thuẫn của ta giữa yêu cầu tiêu diệt địch, giải phóng đất đai với lực lượng tác chiến còn nhỏ và thiếu kinh nghiệm... sẽ dần dần được khắc phục với nghệ thuật đánh giặc bằng sức mạnh tổng hợp của chiến tranh toàn dân, toàn diện.


Vận dụng mưu kế là quá trình tư duy sáng tạo và tổ chức điều hành căng thẳng của người chỉ huy và cơ quan chỉ huy. Trên cơ sở nắm vững nhiệm vụ, mục tiêu tác chiến, hiểu rõ tình hình địch, tình hình ta và môi trường tác chiến, người chỉ huy phải đặt ra và giải đáp mấy câu hởi: tập trung tiêu diệt địch ở đâu, lúc nào là có lợi nhất? Và như vậy, phải lừa địch bằng cách gì, cắt, vây, kìm địch ở đâu? Địch sẽ phản ứng thê nào, ta tiếp tục đánh địch ở đâu, bằng lực lượng nào, v.v... Mưu hay, kế giởi là phải lừa được địch và điều khiển được địch. Cho nên mưu cao nhất là mưu lừa địch, kế hay nhất là kế điều địch.
« Sửa lần cuối: 28 Tháng Mười Một, 2023, 10:05:25 am gửi bởi ptlinh » Logged
vnmilitaryhistory
Moderator
*
Bài viết: 1787



« Trả lời #276 vào lúc: 15 Tháng Mười Một, 2023, 09:48:01 pm »

Xem trong lịch sử quân sự Việt Nam, chúng ta thấy các nhà chỉ huy đã vận dụng mưu kế rất linh hoạt, sáng tạo. Có thể kể ra mấy dạng mưu kế chính sau đây:
 
1. Nghi binh, lừa địch

Là dùng mọi biện pháp để địch không biết đâu là ý định thật của ta, đi đến phán đoán lầm, hành động sai, bộc lộ sơ hở, tạo điều kiện thuận lợi cho ta đánh địch ở nơi và vào lúc đã chọn. Đây là biện pháp được các nhà quân sự từ xưa tới nay hết sức quan tâm và vận dụng rộng rãi. Clau-dơ-vít viết: "Kẻ dùng mưu chước nhằm làm cho người mình muốn lừa phạm phải những sai lầm trong suy nghĩ, những sai lầm này cuối cùng sẽ tập trung vào một kết quả độc nhất là đột nhiên làm biến đổi trước mắt họ bản chất của sự vật"1 (Các Phân Clau-dơ-vít, Bàn về chiến tranh, phần một, tr. 274). Sách Binh thư yếu lược có mục: "Dùng cách lừa dối": "Điều cốt yếu để đánh được địch, không phải chỉ dùng sức mạnh để chống, còn phải dùng thuật để lừa... lừa bằng vụng, lừa bằng khôn, cũng lừa bằng sự lẫn lộn hư thực..."2 (Binh thư yếu lược, tr. 183).


Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng rất chú trọng biện pháp nghi binh lừa địch trong tác chiến. Người viết: "... mình phải lừa quân thù không chú ý phòng bị chỗ ấy mà lại phòng bị chỗ khác, nghĩa là náo phía đông đánh phía tây"3 (Hồ Chí Minh, Những bài viết và nói về quân sự, tập 1, tr. 138-139, 140), "... làm cho chúng mắt mù, tai điếc, hoặc truyền đến cho chúng những tin tức sai lầm để lừa gạt chúng"4 (Hồ Chí Minh, Những bài viết và nói về quân sự, tập 1, tr. 138-139, 140).


Nghi binh, lừa địch có nhiều cách như tung tin giả, tạo ra các mục tiêu giả, hiện tượng giả, tiến hành các hoạt động giả nhằm đánh lạc hướng chú ý của đối phương vào nơi này, hướng này, để rồi bất ngờ hành động thật ở nơi khác, hướng khác. Ngày nay, với việc sử dụng những thành tựu mới của khoa học kỹ thuật quân sự, việc tạo giả, tung tin giả, gây nhiễu để thực hiện nghi binh càng trở nên tinh vi, phức tạp hơn. Vì vậy muốn nghi binh, lừa địch có hiệu quả, phải thực hiện tốt các biện pháp trinh sát để nắm đúng, hiểu đúng địch, đồng thời phải tăng cường việc ngụy trang, giữ bí mật về lực lượng, ý định tác chiến của mình. Trước hết phải không để bị địch lừa rồi mới lừa được địch.


Lịch sử quân sự Việt Nam đã có nhiều bài học thành công về nghi binh, lừa địch. Trong chiến dịch Biên giới thu - đông 1950, ta tổ chức nghi binh rầm rộ ở Lào Cai và tiến công Bắc Hà trên hướng Tây Bắc, thu hút sự chú ý của quân Pháp vào hướng đó, để rồi bất ngờ mở chiến dịch trên hướng Đông Bắc, giành thắng lợi giòn giã.


Trong chiến dịch bắc Tây Nguyên xuân 1972, để bảo đảm cho trận mở màn đánh chiếm căn cứ Tân Cảnh, ta đã tiến hành một loạt biện pháp nghi binh, tạo thế: đánh cắt đoạn quốc lộ 14 từ Plây Cu đi Kon Tum và từ Kon Tum đi Tân Cảnh, đồng thời mở hai đoạn đường quân sự làm gấp ở tây bắc thị xã Kon Tum và phía tây sông Pô Cô, làm cho địch tin chắc rằng ta sẽ đánh Kon Tum nên tung lữ dù 3 là lực lượng dự bị chiến dịch ra tây bắc Kon Tum nhằm phá sự chuẩn bị tiến công của ta. Lực lượng ta được chuẩn bị sẵn đã tiêu diệt một bộ phận quân dù, số còn lại bị ta giam chân ở đó. Thế là ta có điều kiện bất ngờ tập trung đánh chiếm Tân Cảnh mà địch không có cách gì cứu viện được.


Trong chiến dịch Tây Nguyên năm 1975, ta cũng dùng các biện pháp điều quân, cắt đường giao thông, tác chiến nghi binh để hút địch về hướng Kon Tura, Plây Cu và vây hãm địch ở đó, bảo đảm cho trận mở màn đánh chiếm Buôn Ma Thuột diễn ra bất ngờ và giành thắng lợi nhanh gọn.
Logged
vnmilitaryhistory
Moderator
*
Bài viết: 1787



« Trả lời #277 vào lúc: 15 Tháng Mười Một, 2023, 09:48:49 pm »

2. Đặt bẫy, dụ địch

Là kế lập sẵn thế trận ở nơi địch tất phải tới mà ta thì có thế lợi, rồi tìm cách dụ địch sa vào bẫy đúng lúc ta dự kiến đê tiêu diệt chúng. Loại mưu kế này được sử dụng trong chiến dịch hoặc chiến lược có thể tạo ra các trận then chốt hoặc then chốt quyết định.


Thời cổ đại, Ha-ni-ban - vị thống soái lừng danh xứ Các-ta-giơ - đã lùi một bước, lừa quân La Mã tiến sâu vào trận địa của mình rồi khép chặt vòng vây tiêu diệt chúng trong trận Can (năm 216 trước Công nguyên). Hàn Tín - một tướng tài nhà Hán (Trung Quốc) - trong trận Bối Thủy (năm 204 trước Công nguyên) đã giăng bẫy trên bờ sông, lừa quân Triệu sa vào đó để tiêu diệt.


Xem trong lịch sử quân sự Việt Nam cả xưa lẫn nay, có thể dẫn ra nhiều ví dụ về việc vận dụng mưu kế này. Năm 938, để tiêu diệt quân Nam Hán vào xâm lược nước ta bằng đường thủy, tướng quân Ngô Quyền đã lợi dụng địa hình và điều kiện thủy văn một cách thông minh để lập sẵn thế trận ở đoạn hiểm yếu trên sông Bạch Đằng nơi quân địch tất phải qua, với bãi cọc ngầm xuất hiện đột ngột khi nước triều xuống có hiệu lực như một cánh quân vây bọc phía sau. Ông lại nắm vững bản lĩnh non nớt của tên tướng trẻ Hoằng Thao để dùng thuật dụ binh khích tướng, vừa nhử vừa hãm, đưa đoàn thuyền địch vào trận địa cọc đúng lúc thủy triều xuống. Vì vậy với diệt lực lượng ít hơn địch, chỉ bằng một trận then chốt, ông đã đập tan kế hoạch xâm lược của triều đình Nam Hán.


Trong cuộc kháng chiến chống Nguyên lần thứ hai (1285) và lần thứ ba (1288), Trần Hưng Đạo đã vận dụng phương sách này trên quy mô chiến lược. Nắm vững sở trường tác chiến của quân Nguyên là dùng kỵ binh có sức cơ động nhanh để vây bọc và đột phá trận địa đối phương, nhưng sở trường ấy chỉ phát huy được trên địa hình rộng và tương đối bằng phẳng, Trần Hưng Đạo đã dùng cách vừa đánh chặn địch vừa cơ động từng bước, khiến quân địch luôn luôn vồ hụt nên càng cay cú dấn sâu vào vùng đồng bằng sông Hồng, nơi có nhiều sông ngòi, ruộng nước, đầm lầy. Ở đây sở trường của địch bị hạn chế nhiều, ngược lại phương thức tác chiến chiến tranh nhân dân của ta được phát huy mạnh mẽ. Khi quân địch đã lâm vào thế phòng ngự bị động, mệt mỏi, suy yếu, ông mới tung chủ lực còn nguyên vẹn ra giáng những đòn then chốt quyết định.


Lê Lợi - Nguyễn Trãi cũng sử dụng phương sách này rất thành công trong chiến dịch Chi Lăng - Xương Giang (1427). Khi quyết định tập trung sức mạnh tiêu diệt đạo quân viện 10 vạn tên của Liễu Thăng trên hướng Lạng Sơn, bộ thống soái nghĩa quân Lam Sơn đã cho lập trận địa mai phục ở Chi Lăng, nơi có địa hình hiểm trở trên đường địch tất phải qua, đồng thời hạ thành Xương Giang trên đường từ Đông Quan lên Pha Lũy để cắt đứt liên lạc giữa quân cứu viện của địch với quân đồn trú ở Đông Quan. Khi địch vượt qua biên giới, ta chặn địch từng bước và khích được tính hung hăng của Liễu Thăng khiến hắn đích thân dẫn một vạn quân tiền đạo sa vào trận địa phục sẵn của ta và phải bỏ xác tại đấy. Quân địch còn lại cố tiến xuống Xương Giang thì thành đã mất, chúng phải hạ trại trên cánh đồng với tâm trạng hoang mang, mệt mỏi. Đây là thời cơ để ta đánh đòn then chốt quyết định tiêu diệt gọn đạo quân viện của Liễu Thăng, đưa cuộc kháng chiến chống Minh đến thắng lợi hoàn toàn.


Trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ, phương sách này được vận dụng rộng rãi dưới hình thức đánh điểm, diệt viện, ở đây chỉ xin nêu một ví dụ điển hình là chiến dịch Biên Giới thu - đông 1950. Giữa Cao Bằng và Đông Khê, ta đã chọn rất chính xác Đông Khê làm điểm đột phá đầu tiên, vì nó là một vị trí rất quan trọng trên tuyến Lạng Sơn - Cao Bằng. Mất Đông Khê, địch sẽ buộc phải đưa quân ứng cứu lên giành lại để giữ Cao Bằng, hoặc phải đánh lên để đón quân Cao Bằng rút lui, ta sẽ có cơ hội thuận lợi tiêu diệt lớn quân địch ngoài công sự. Chiến dịch đã diễn ra đúng với ý đồ tác chiến của ta mà Bác Hồ đã vạch ra là: "nhử thú dữ vào tròng" để "khép vòng lưới thép" tiêu diệt chúng1 (Xem Lịch sử Quân đội nhân dân Việt Nam, tập 1, Nxb Quân đội nhân dân, H. 1974, tr. 405).
« Sửa lần cuối: 28 Tháng Mười Một, 2023, 10:06:21 am gửi bởi ptlinh » Logged
vnmilitaryhistory
Moderator
*
Bài viết: 1787



« Trả lời #278 vào lúc: 15 Tháng Mười Một, 2023, 09:49:38 pm »

3. Tương kế tựu kế

Là biết rõ và lợi dụng mưu kế của đối phương để lập ra kế của mình đánh lại chúng. Sách Binh thư yếu lược viết: "... Nhân cách lừa của địch mà lừa nó... lấy sự lừa của nó để làm cho nó bị lừa, nó lừa mà ta thì biết. Cho nên người giỏi việc binh lừa người mà không bị người lừa"2 (Binh thư yếu lược, tr. 183).


Dùng mưu của mình để lừa địch đã là giỏi, nhưng dùng chính kế của địch để đánh địch, lấy "gậy ông đập lưng ông" thì lại càng tinh vi hiểm hóc hơn. Đây là một qua trình đấu mưu chọi kế quyết liệt giữa hai bên đối chiến. Ai thông minh hơn, có bản lĩnh cao hơn, người đó sẽ thắng.


Muốn tương kế tựu kế, trước hết phải biết được kế của địch. Người chỉ huy chẳng những phải nắm vững lực lượng, cách bày binh bố trận và mọi động thái của quân địch mà còn phải có năng lực phân tích, phán đoán sắc sảo ý đồ sâu kín của chỉ huy địch, nhìn thấy trước đường đi nước bước của chúng để không mắc mưu địch mà còn tìm ra những sơ hở trong kế của địch và tìm cách quật lại chúng. Kinh nghiệm lịch sử cho thấy thực hiện được tương kế tựu kế thì từ bị động sẽ chuyển thành chủ động, đã chủ động càng chủ động cao hơn, tạo được bất ngờ tối đa, giành thắng lợi to lớn.


Ở vào giai đoạn cuối cuộc kháng chiến chống Nguyên lần thứ hai (1285), Trần Hưng Đạo và các vua Trần đã nêu gương xuất sắc về vấn đề này. Sau khi vào được kinh thành Thăng Long bỏ ngỏ, kế của quân Nguyên là dùng đạo quân của Thoát Hoan từ Thăng Long đánh xuống, quân của Toa Đô từ Nghệ An - Thanh Hóa đánh lên, kẹp chặt đạo quân của vua Trần ở Thiên Trường - Trường Yên giữa hai gọng kìm. Biết rõ kế của giặc, vua Trần lập mưu cầu hòa tạm thời hoãn chiến, một mặt làm cho địch tưởng rằng kế của chúng đã thành công, mặt khác giành lấy thời gian để bí mật, an toàn rút hết đại quân ra biển. Sau đó vua Trần cho một bộ phận lên vùng Đông Bắc hợp với đạo quân của Trần Hưng Đạo án ngữ ở Vạn Kiếp, còn đại bộ phận thì vượt biển vào Thanh Hóa, ép phía sau lưng đạo quân Toa Đô vừa tiến lên Trường Yên. Thế là ta đã thoát ra khỏi thế bị kẹp giữa hai gọng kìm của quân Nguyên mà còn hình thành hai gọng kìm lớn hơn kẹp lại quân địch. Tình thế đó đã làm xuất hiện thời cơ phản công mà Trần Hưng Đạo và vua Trần đã kịp thời nắm lấy để giáng đòn quyết định tiêu diệt hoàn toàn 50 vạn quân Nguyên xâm lược.


Trận Tốt Động - Chúc Động (1426) của nghĩa quân Lam Sơn trong kháng chiến chống Minh là một điển hình thành công khác về tương kế tựu kế. Biết rõ kế của Vương Thông dùng hai cánh quân theo hai hướng đánh vào căn cứ Cao Bộ của ta (thuộc huyện Chương Mỹ, tỉnh Hà Sơn Bình ngày nay), chúng lại quy ước dùng pháo lệnh làm tín hiệu hiệp đồng để đồng thời đánh khép lại, các tướng lĩnh nghĩa quân đã lập trận địa mai phục ở Tốt Động - Chúc Động, nơi hai đạo quân địch tất phải qua. Khi quân địch tới gần, các ông cho nổ pháo lệnh khiến cả hai đạo quân địch đều tưởng đó là pháo lệnh của chúng nên càng tiến gấp đến khu vực quy định và sa vào trận địa đã bày sẵn của ta. Kết quả là chỉ với lực lượng khoảng 1 vạn quân, nghĩa quân Lam Sơn đã tiêu diệt trên 5 vạn quân địch và bắt sống hơn 1 vạn tên.


Trong kháng chiến chống Pháp, cuộc tiến công chiến lược Đông Xuân 1953-1954 và chiến dịch Điện Biên Phủ cũng là một ví dụ hay về tương kế tựu kế. Cuối năm 1952, sau khi bị mất gần hết vùng Tây Bắc rộng lớn, quân Pháp lần đầu tiên trong chiến tranh xâm lược Việt Nam đã xây dựng một tặp đoàn cứ điểm ở Nà Sản với binh lực 8 tiểu đoàn. Ta đã tiến hành đột phá vào Nà Sản nhưng không thành công. Thấy vậy, bộ chỉ huy Pháp đinh ninh rằng tập đoàn cứ điểm là một kế lợi hại, có thể chặn đứng cuộc tiến công của ta trên mọi hướng, thu hút chủ lực ta đến để tiêu diệt, từ đó giành lại quyền chủ động trên chiến trường. Biết rõ kế của địch, bước vào Đông Xuân 1953-1954, Bộ chỉ huy tối cao của ta quyết định mở cuộc tiến công trên những hướng sơ hở và hiểm yếu của địch ở Tây Bắc, Thượng Lào, Trung Lào và Tây Nguyên, buộc quân Pháp tung lực lượng cơ động chiến lược ra lập thành các tập đoàn cứ điểm ở Điện Biên Phủ, Xê-nô (Trung Lào), Luông Pha-băng (Thượng Lào)... Thế là ta đã lợi dụng được kế của địch để phân tán chủ lực địch và giam chân chúng trên nhiều hướng, từ đó tạo ra thời cơ tập trung lực lượng vào chiến trường chính do ta lựa chọn để tiêu diệt lớn quân địch. Đối với Điện Biên Phủ, một tập đoàn cứ điểm mạnh chưa từng có ở Đông Dương hồi đó mà Na-va gọi là "một Véc-đoong thứ hai ở Viễn Đông", bộ chỉ huy Pháp tin rằng nếu ta chấp nhận giao chiến ở Điện Biên Phủ là sa vào bẫy của họ và sẽ bị nghiền nát. Nhưng họ không ngờ rằng chính quân Pháp đã trúng kế của ta; chúng đã bị ta điều đến một chiến trường xa, hoàn toàn bị cô lập mà ta có khả năng và thế lợi để tiêu diệt chúng.
Logged
vnmilitaryhistory
Moderator
*
Bài viết: 1787



« Trả lời #279 vào lúc: 15 Tháng Mười Một, 2023, 09:50:54 pm »

4. Nỗ lực cao, vượt khó khăn lớn để đánh địch vào nơi và lúc chúng không ngờ tới

Đây là một biện pháp của mưu kế tác chiến đòi hỏi trí thông minh, lòng dũng cảm, tính quyết đoán của người chỉ huy và bản lĩnh chiến đấu cao của bộ đội để vượt qua những khó khăn trở ngại tưởng chừng không thể khắc phục nổi, tiến công địch trên hướng chúng ít ngờ tới nhất và vào lúc chúng ít đề phòng nhất. Làm được như vậy thì tác chiến thường đạt được hiệu quả cao. Đúng như Clau-dơ-vit đã nhận định: "... Bất ngờ càng dễ thì hiệu quả càng ít, và ngược lại bất ngờ càng khó thì hiệu quả càng nhiều"1 (Các Phôn Clau-dơ-vit, Bàn về chiến tranh, phần một, tr. 269).


Lịch sử quân sự Việt Nam cho ta nhiều dẫn chứng sinh động về vấn đề này. Ngô Quyền xây dựng trận địa cọc gỗ bịt sắt dưới lòng sông Bạch Đằng; Lý Thường Kiệt xuất quân sang đánh phá trước các căn cứ chuẩn bị tiến công của địch ở các châu Ung - Khâm - Liêm; các vua Trần đã "cử quốc hàng hải" (đưa cả nước đi ra biển) - như chính kẻ địch phải thừa nhận - cơ động một đạo quân lớn trên sông biển ra khỏi vòng vây của địch để rồi trở lại bao vây tiêu diệt chúng; vua Quang Trung mở cuộc hành quân thần tốc từ Phú Xuân ra Bắc, vừa đi đường vừa bổ sung lực lượng và chuẩn bị tác chiến để bất ngờ tiến công chớp nhoáng vào Thăng Long; tất cả đều là kết quả của trí sáng tạo, tài quyết đoán và nỗ lực rất cao của ông cha ta để tạo bất ngờ lớn, giành thắng lợi vẻ vang.


Đến hai cuộc kháng chiến chống Pháp, chống Mỹ, những kỳ tích như vậy tiếp tục được lập nên với những tầm vóc mới. Như trong chiến dịch Điện Biên Phủ, ta đã thiêt lập tuyến hậu cần chiến dịch với những đoàn xe đạp thồ vận chuyển ngày đêm dưới bom đạn địch, dùng sức người kéo những cỗ trọng pháo vào trận địa trên đỉnh núi cao, xây dựng hàng trăm ki-lô-mét chiến hào và giao thông hào vây bọc tập đoàn cứ điểm với những đoạn hào vây lấn như những mũi dùi đâm vào tim gan địch. Những nỗ lực to lớn đó vượt quá sức tưởng tượng của bộ chỉ huy quân Pháp.
Logged
Trang: « 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 16 17 18 19 20 21 22 23 24 25 26 27 28 29 30 »   Lên
  In  
 
Chuyển tới:  

Powered by MySQL Powered by PHP Powered by SMF 1.1.21 | SMF © 2006-2008, Simple Machines

Valid XHTML 1.0! Valid CSS! Dilber MC Theme by HarzeM