Lịch sử Quân sự Việt Nam
Tin tức: Lịch sử quân sự Việt Nam
 
*
Chào Khách. Bạn có thể đăng nhập hoặc đăng ký. 18 Tháng Tư, 2024, 09:54:53 pm


Đăng nhập với Tên truy nhập, Mật khẩu và thời gian tự động thoát


Trang: « 1 2 3 4 5 6 7 8 »   Xuống
  In  
Tác giả Chủ đề: Điện Biên Phủ - 50 năm nhìn lại  (Đọc 2549 lần)
0 Thành viên và 1 Khách đang xem chủ đề.
chuongxedap
Đại tá
*
Bài viết: 13138



« Trả lời #60 vào lúc: 31 Tháng Mười Hai, 2022, 10:31:56 am »


4

Mùa khô này, cả nước cùng ra trận. Nhưng chưa chiến dịch nào, con đường ra mặt trận của chúng tôi lại bị đánh phá ác liệt như lần này.

Phải mất trọn một đêm để vượt qua đèo Pha Đin, dài ba mươi ki-lô-mét, còn bom nổ chậm và rất nhiều bom bướm, cửa ải cuối cùng trên đường tiến vào Điện Biên Phủ.

Sáng 12 tháng Giêng, tới Tuần Giáo. Ban ngày, nghỉ lại, chờ trời tối đi tiếp vào sở chỉ huy mặt trận. Đây đã là đất Lai Châu. Thị xã Lai Châu chỉ mới được giải phóng lần đầu cách đây một tháng. Ngôi nhà sàn của đồng bào Thái hai mái cao vút. Sàn tre ở đầu hồi có ang nước và mấy chậu gỗ trồng những cây hẹ, chủ nhà niềm nở đưa nước pha trà mời khách.

Chợp mắt được một lúc, thức giấc. Thấy anh Hoàng Văn Thái từ sở chỉ huy mặt trận đã ra ngồi chờ.

Theo nhận định của các đồng chí đi chuẩn bị chiến dịch, Điện Biên Phủ có một cánh đồng khá rộng, nhưng vẫn nằm giữa địa hình rừng núi, thuận lợi cho ta. Bộ đội đã tập kết chung quanh Điện Biên Phủ. Lúc này, địch không thể rút lui mà không có thiệt hại. Địch ở Điện Biên Phủ hoàn toàn cô lập về đường bộ; giao thông vận tải, tiếp tế đều trông vào máy bay. Địch có ở Điện Biên Phủ mười tiểu đoàn. Chúng đã ra sức xây dựng công sự, nhưng chỉ mới làm được những công sự dã chiến. Một số mặt của tập đoàn cứ điểm còn sơ hở. Về phía bộ đội ta, các đơn vị đều sung sức, tinh thần chiến đấu lập công rất cao. Ta đã trao đổi với các đồng chí bạn cùng đi chuẩn bị chiến trường, thấy nên dùng cách đánh nhanh để tiêu diệt địch. Sự xuất hiện của pháo binh và pháo cao xạ sẽ tạo cho địch một bất ngờ. Đánh nhanh thắng nhanh, bộ đội đang còn sung sức, sẽ đỡ tổn thất và không phải đối phó với khó khăn rất lớn về tiếp tế đạn dược, lương thực cho hàng vạn chiến sĩ và dân công trong một cuộc chiến đấu dài ngày...

Bản sơ đồ tập đoàn cứ điểm được trải rộng trên mặt sàn. Lần đầu, tôi nhìn thấy những vị trí địch nhiều và dày đặc đến như vậy. Từ nhiều phía, nhất là phía tây, muốn tiếp cận địch, đều phải vượt qua cánh đồng rộng. Riêng phía đông tập đoàn cứ điểm là rừng núi, nhưng đã bị án ngữ bằng một loạt vị trí nằm khá gần nhau trên những mỏm đồi.

Tôi hỏi:

- Hiện nay còn phải giải quyết những vấn đề gì?

- Đang sửa gấp đường từ Tuần Giáo đi Điện Biên Phủ. Đường này dài gần một trăm kilômét, trước đây chỉ dùng cho xe ngựa và đã bỏ lâu ngày. Sửa xong đường, đưa pháo vào vị trí là có thể nổ súng.

- Ý kiến các đồng chí chỉ huy các đại đoàn như thế nào?

- Anh em cũng đều thấy là nên đánh ngay khi địch chưa đứng chân vững. Bộ đội rất phấn khởi vì lần này có lựu pháo và cao xạ.

Tôi cảm thấy chủ trương này không ổn, muốn nghe thêm tình hình. Nava hẳn đã quyết định tiếp nhận chiến đấu ở Điện Biên Phủ. Bộ đội còn phải mất một thời gian làm đường. Địch còn có điều kiện tăng quân. Ngay bây giờ đánh nhanh thắng nhanh đã khó. Rồi đây hẳn lại càng khó.

Buổi chiều, đi tiếp vào sở chỉ huy nằm ở cây số 15 trên con đường Điện Biên Phủ - Tuần Giáo.

Không khí ở sở chỉ huy rất nhộn nhịp. Cán bộ tham mưu tấp nập chuẩn bị kế hoạch tác chiến, bản đồ, sa bàn. Những cán bộ tới gặp tôi, đều hân hoan nói, cần tranh thủ thời gian để đánh nhanh thắng nhanh.

Trong cuộc hội ý của Đảng ủy mặt trận, đúng như lời anh Thái đã nói, những đồng chí đã đi trước để chuẩn bị chiến dịch đều nhất trí cần đánh địch ngay trong lúc địch chưa kịp tăng thêm quân và củng cố công sự, có khả năng giành chiến thắng trong vài ngày. Các đồng chí dự kiến với tinh thần “Mở đường thắng lợi” của bộ đội và dân công như hiện nay, khoảng năm ngày nữa có thể hoàn thành việc kéo pháo vào trận địa. Mọi người lo, nếu để địch tăng cường tập đoàn cứ điểm quá mạnh, sẽ bỏ lỡ cơ hội tiêu diệt địch lớn trong Đông Xuân này; và cũng lo chiến dịch kéo dài, sẽ không giải quyết được vấn đề tiếp tế trên con đường 500 kilômét từ hậu phương ra mặt trận, nằm trên địa hình rừng núi hiểm trở, thường xuyên bị máy bay địch đánh phá.

Tôi thấy cần gặp đồng chí Trưởng đoàn chuyên gia quân sự của bạn đã cùng đi lên đây. Quan hệ giữa chúng tôi với các chuyên gia quân sự của bạn từ chiến dịch Biên Giới tới giờ, nhìn chung là tốt đẹp. Bạn đã giúp chúng ta nhiều kinh nghiệm quý rút từ chiến tranh cách mạng của Trung Quốc và chiến tranh chống Mỹ ở Triều Tiên. Trưởng đoàn là một cán bộ cách mạng lâu năm, từng trải, lịch lãm và chín chắn. Những cuộc trao đổi giữa chúng tôi thường cởi mở, thân tình. Trước ngày trở về nước, đồng chí đã nói những năm công tác ở Việt Nam là một thời kỳ “hoàng kim” trong cuộc đời hoạt động cách mạng của mình. Đồng chí đã tặng tôi một bức tranh có con chim đại bàng với cây tùng và năm chữ: “Đông phong nghênh khải hoàn”.

Tôi nêu ý kiến của mình là không thể đánh nhanh được. Đồng chí Trưởng đoàn quân sự của bạn, sau giây lát cân nhắc, nói đã gặp những chuyên gia cùng đi chuẩn bị chiến trường với cán bộ Việt Nam. Các chuyên gia đều nhất trí với các đồng chí Việt Nam là cần đánh sớm, có khả năng giành chiến thắng bằng “đánh nhanh thắng nhanh”. Nếu để địch tăng thêm quân và củng cố công sự, thì cuối cùng sẽ khó có khả năng đánh thắng.

Tôi vẫn cho rằng đánh nhanh không thể giành thắng lợi. Nhưng cũng chưa thật đủ cơ sở thực tế để bác bỏ phương án đã được các đồng chí đi trước lựa chọn. Tôi không có điều kiện và thời gian để trình bày đầy đủ với Bác và Bộ Chính trị. Trước tình hình như vậy, tôi đồng ý triệu tập hội nghị triển khai kế hoạch chiến đấu.

Tôi nói riêng với một cán bộ trong Văn phòng Tổng quân ủy những suy nghĩ của mình, dặn theo dõi, nghiên cứu, suy nghĩ kỹ và chỉ được trao đổi riêng với tôi về vấn đề này. Tôi chỉ thị cho đồng chí cục phó Cục 2 điều tra thật cẩn thận những vị trí trên cánh đồng hướng tây, nơi được đánh giá là sơ hở, ta sẽ sử dụng mũi thọc sâu đánh vào. Và yêu cầu phải báo cáo hàng ngày những hiện tượng như tăng quân, củng cố công sự của địch.
Logged
chuongxedap
Đại tá
*
Bài viết: 13138



« Trả lời #61 vào lúc: 31 Tháng Mười Hai, 2022, 10:32:56 am »


5

Ngày 14 tháng Giêng năm 1954, mệnh lệnh chiến đấu được phổ biến trên một sa bàn lớn tại hang Thẩm Púa. Cán bộ trung cao những đại đoàn tham gia chiến đấu đều có mặt. Những đồng chí tư lệnh quân sự: Vương Thừa Vũ, Lê Trọng Tấn, Lê Quảng Ba, Đào Văn Trường, Nam Long. Những đồng chí chính ủy: Chu Huy Mân, Phạm Ngọc Mậu... Rất nhiều cán bộ trung đoàn, tiểu đoàn qua nhiều năm chiến đấu đối với tôi đã trở thành thân thuộc.

Nhiệm vụ thọc sâu trao cho đại đoàn 308, đại đoàn chủ lực đầu tiên của Bộ. 308 sẽ đánh vào tập đoàn cứ điểm từ hướng tây, xuyên qua những vị trí nằm trên cánh đồng, thọc thẳng tới sở chỉ huy của Đờ Cátxtơri. Các đại đoàn 312, 316 nhận nhiệm vụ đột kích vào hướng đông, nơi có những cao điểm trọng yếu của địch. Dự kiến trận đánh sẽ diễn ra trong hai ngày ba đêm. Trước mắt tập trung toàn bộ lực lượng bộ đội hoàn thành đường kéo pháo và đưa pháo vào trận địa dã chiến. Khi phổ biến quyết tâm chiến đấu để chuẩn bị phần nào tư tưởng cho cán bộ, tôi nói: “Hiện nay địch tình chưa có triệu chứng thay đổi lớn. Chúng ta cần ra sức nắm vững địch tình, để một khi địch tình biến hóa thì kịp thời xử trí”.

Trước mỗi trận đánh, tôi thường khuyến khích cán bộ nói hết khó khăn, để cùng bàn cách khắc phục. Nhưng lần này, các đơn vị đều hăng hái nhận nhiệm vụ. Chỉ có những người hỏi cho rõ hơn, không ai có thắc mắc gì. Sau này tôi mới biết, có những đồng chí chỉ huy cảm thấy nhiệm vụ đơn vị quá nặng, lo phải đột phá liên tiếp, trận đánh kéo dài, không giải quyết được thương binh và tiếp tế đạn dược. Nhưng trước không khí chung, không ai nói những ý nghĩ thực của mình.

Một số nhà văn, nhà báo các nước anh em cũng theo bộ đội đi chiến dịch. Một buổi tối, anh Lê Liêm đề nghị tôi và anh Thái gặp bạn trước khi các đồng chí đó lên đường trở về nước. Cuộc gặp diễn ra bên dòng suối lấp lánh ánh trăng, dưới một chiếc dù hoa, chiến lợi phẩm của những trận đánh địch ở Lai Châu.

Nhà văn Ba Lan nói:

- Thiên nhiên của các đồng chí đẹp quá! Quang cảnh này thật thanh bình.

Lúc này không có một tiếng súng. Dưới ánh trăng, những mỏm đá nhấp nhô mờ ảo.

Tôi nói:

- Tôi cũng thấy quang cảnh ở đây rất đẹp. Tôi ít khi làm thơ, nhưng cảm thấy cảnh này thật nên thơ. Chúng tôi lại sắp chiến đấu chính là để cho khắp đất nước đêm nào cũng đẹp như đêm nay.

Đồng chí nhà báo Tiệp Khắc nói:

- Quân đội của các đồng chí thật lạ. Tôi thấy không có gì cách biệt giữa một vị tướng với một người lính.

Rồi anh kể lại, hôm nay khi lội dọc con suối vào sở chỉ huy, đã nhìn thấy đồng chí Tổng tham mưu phó nhường ngựa cho một chiến sĩ đau chân, xách giày trong tay cùng lội suối như mọi người.

- Quân đội chúng tôi như vậy. Quan hệ giữa chúng tôi trước hết là quan hệ của những người đồng chí, những người bạn chiến đấu.

Cuối buổi gặp, đồng chí nhà văn Ba Lan hỏi bằng một giọng vừa lưu luyến vừa băn khoăn:

- Các đồng chí sắp đi chiến đấu, còn chúng tôi thì sắp lên đường trở về nước. Tôi muốn đề nghị đồng chí Tổng tư lệnh cho biết, sau đây chúng tôi sẽ nhận được tin gì?

Tôi đã trả lời:

- Hoặc là các đồng chí sẽ không nhận được tin tức gì về Điện Biên Phủ. Nhưng sẽ được tin chiến thắng của chúng tôi trên các chiến trường khác. Hoặc là các đồng chí sẽ được tin chúng tôi chiến thắng ở Điện Biên Phủ, khi đó sẽ là một chiến thắng rất to.
Logged
chuongxedap
Đại tá
*
Bài viết: 13138



« Trả lời #62 vào lúc: 31 Tháng Mười Hai, 2022, 10:33:33 am »


6

Sở chỉ huy từ cây số 15 chuyển vào Mường Phăng. Đứng trên đỉnh núi sau sở chỉ huy, nhìn thấy rõ cánh đồng Mường Thanh khá rộng và toàn bộ những cứ điểm của địch.

Các đồng chí trong Bộ chỉ huy và Đảng ủy mặt trận chia nhau đi kiểm tra và đôn đốc công tác chuẩn bị chiến đấu.

Phần lớn những trận địa pháo tôi tới thăm, đều nằm ở những nơi trống trải. Pháo đặt ở những vị trí như thế này khi nổ súng rất dễ lộ mục tiêu cho không quân và pháo binh địch đánh phá. Con đường kéo pháo khá dài, nằm trên địa hình hiểm trở, nhiều dốc cao, vực sâu. Tôi thấy rất khó kéo pháo vào trận địa theo thời gian dự kiến là hai ngày. Và việc tiếp đạn khi chiến đấu sẽ rất khó khăn.

Bộ chỉ huy mặt trận đã huy động cả đại đoàn 312 và trung đoàn 57 vào làm nhiệm vụ kéo pháo. Nhưng sau một tuần, pháo vẫn chưa tới trận địa đủ. Cán bộ, chiến sĩ ta chưa lường được sức mình khi phải đưa những cỗ lựu pháo, cao xạ pháo nặng hàng tấn qua núi rừng hiểm trở, nhiều chỗ có độ dốc cao.

Đồng chí Cao Pha báo cáo địch tiếp tục tăng quân. Ở nhiều cứ điểm địch đã có công sự kiên cố. Mỗi cứ điểm đều có bãi mìn kết hợp với hàng rào dây thép gai bao quanh, có nơi rộng tới trăm mét. Những cứ điểm ở phía tây, nơi đại đoàn 308 sẽ đột phá, tuy có yếu hơn một số cao điểm, nhưng lại nằm trên cánh đồng trống, địch dễ sử dụng xe tăng, pháo binh và lực lượng phản kích, các chiến sĩ ta lại không có địa hình ẩn náu. Đồng chí Hiếu nói riêng với tôi: “Công tác tư tưởng mới nhắc tới quyết tâm mà ít bàn cách khắc phục những khó khăn trong trận đánh”.

Đồng chí Trần Văn Quang báo tin, ngày 20 tháng Giêng, Nava đã tung khoảng mười lăm tiểu đoàn vào nam Phú Yên. Bộ đội Liên khu 5 vẫn tiếp tục tiến hành kế hoạch đã định, chỉ để một bộ phận nhỏ cùng với lực lượng vũ trang địa phương đối phó với cuộc tiến công, đại bộ phận đã tiến lên Bắc Tây Nguyên. Trận đánh của ta ở hướng thứ tư sắp bắt đầu.

Sau nhiều ngày đêm chật vật, những khẩu pháo mới xích tới gần trận địa dã chiến. Ngày nổ súng được quyết định là 17 giờ 25 tháng Giêng. Gần ngày N, một chiến sĩ của đại đoàn 312 không may bị địch bắt. Có tin địch thông báo cho nhau về thời gian tiến công của bộ đội ta. Diễn biến đầu tiên ngoài dự kiến. Tất cả các đơn vị đều đã triển khai sẵn sàng chờ lệnh. Tôi quyết định hoãn thời gian nổ súng lại hai mươi bốn tiếng. Và phân công nhau đi nắm lại tình hình sẵn sàng chiến đấu của các đơn vị.

Từ sau khi phổ biên nhiệm vụ chiến đấu từ hang Thẩm Púa, tôi cảm thấy thời gian rất dài. Nhưng tính lại, mới mười một ngày. Nhiều lần, tôi lên mỏm núi sau sở chỉ huy, đứng ngắm giờ lâu, những cứ điểm địch đỏ ối trên cánh đồng Mường Thanh, bằng phẳng và những ngọn đồi phía đông. Máy bay địch, chiếc xếp hàng bên đường băng, chiếc bay lượn trên không thả dù, chiếc lao xuống bắn phá những nơi chúng nghi có quân ta. Những chiếc xe tăng địch chạy trên con đường nối liền Mường Thanh với Hồng Cúm.

Mỗi ngày qua, tôi càng khẳng định là không thể nào đánh nhanh được. Tôi nhớ tới lời Bác dặn trước khi lên đường và một câu trong nghị quyết của Trung ương hồi đầu năm 1953: “Chiến trường ta hẹp, người của ta không nhiều, cho nên ta chỉ được thắng không được bại, vì bại thì hết vốn”. Qua tám năm kháng chiến, bộ đội ta đã trưởng thành. Nhưng vốn liếng quả chưa nhiều. Chúng ta chỉ mới có sáu đại đoàn chủ lực. Hầu hết các đại đoàn đều có mặt trong chiến dịch này!

Đêm 25 tháng Giêng, tôi thao thức. Đầu đau nhức. Đồng chí bác sĩ buộc trên trán tôi một nắm ngải cứu.

Khi nghe anh Thái nói lần đầu ở Tuần Giáo về khả năng đánh nhanh thắng nhanh, tôi đã thấy nếu ta làm như vậy là mạo hiểm. Từ đó tới nay đã nửa tháng qua. Tình hình địch đã thay đổi rất nhiều. Quân số của chúng không còn là mười tiểu đoàn mà theo tin của quân báo đã lên tới hơn mười ba tiểu đoàn. Chúng đã củng cố công sự phòng ngự, không còn là trận địa dã chiến. Bộ đội sẽ phải tiến hành một trận công kiên lớn tiêu diệt tập đoàn cứ điểm phòng ngự vững chắc rất mạnh, được sự yểm trợ của lực lượng không quân, pháo binh, thiết giáp tại chỗ, và chắc chắn còn được ưu tiên yểm trợ số 1 đối với lực lượng không quân địch ở miền Bắc Đông Dương... Ba khó khăn hiện lên rất rõ. Thứ nhất, bộ đội chủ lực ta đến nay chỉ mới tiêu diệt cao nhất là tiểu đoàn địch tăng cường, có công sự vững chắc như ở Nghĩa Lộ. Khi đánh vào tập đoàn cứ điểm Nà Sản, chúng ta mới đánh từng tiểu đoàn địch trong công sự dã chiến, mà còn đánh rất dở! Thứ hai, trận này ta không có xe tăng, máy bay nhưng hợp đồng bộ binh, pháo binh quy mô cũng là lần đầu, bộ đội lại chưa qua diễn tập. Vừa qua đã có trung đoàn trưởng xin trả bớt súng, vì không biết phối hợp như thế nào! Thứ ba, bộ đội từ trước đến nay chỉ quen tác chiến ban đêm, ở những địa hình dễ ẩn náu. Chủ lực ta chưa có kinh nghiệm tác chiến ban ngày trên địa hình bằng phẳng, với một kẻ địch có ưu thế về máy bay, pháo binh và xe tăng. Trận đánh sẽ diễn ra trên một cánh đồng dài 13 kilômét và rộng 6 kilômét... Tất cả những khó khăn này ta đều chưa bàn cách giải quyết.

Suốt đêm, tôi không sao ngủ được, càng thấy trách nhiệm nặng nề, chỉ mong trời chóng sáng để triệu tập cuộc họp Đảng ủy mặt trận.
Logged
chuongxedap
Đại tá
*
Bài viết: 13138



« Trả lời #63 vào lúc: 31 Tháng Mười Hai, 2022, 10:35:34 am »


7

Sáng ngày 26 tháng Giêng 1954 (trước đây có những tài liệu nói ngày 25 là không đúng), các đồng chí trong Đảng ủy xuống các đơn vị nắm tình hình chưa về đủ. Trong khi chờ đợi cuộc họp, tôi gặp đồng chí bạn.

Đồng chí Trưởng đoàn quân sự của bạn ngạc nhiên nhìn nắm ngải cứu trên trán tôi. Đồng chí ân cần hỏi thăm tình hình sức khoẻ rồi nói:

- Trận đánh sắp bắt đầu. Đề nghị Võ Tổng cho biết tình hình tới lúc này ra sao?

Tôi đáp:

- Đó cũng là vấn đề tôi muốn trao đổi với đồng chí. Qua theo dõi tình hình, tôi cho rằng địch không còn trong trạng thái lâm thời phòng ngự, mà đã trở thành một tập đoàn cứ điểm phòng ngự kiên cố. Vì vậy không thể đánh theo kế hoạch đã định...

Tôi nói tiếp ba khó khăn lớn của bộ đội, rồi kết luận:

- Nếu đánh là thất bại.

- Vậy nên xử trí thế nào?

- Ý định của tôi là ra lệnh hoãn cuộc tiến công ngay chiều hôm nay, thu quân về vị trí tập kết, chuẩn bị lại theo phương châm “đánh chắc tiến chắc”.

Sau giây lát suy nghĩ, đồng chí bạn nói:

- Tôi đồng ý với Võ Tổng. Tôi sẽ làm việc với các chuyên gia.

- Thời gian gấp. Tôi cần họp Đảng ủy để quyết định. Và cần có dự kiến cho 308 tiến về phía Luông Phabăng, bộc lộ lực lượng chừng nào, kéo không quân địch về hướng đó, không để chúng tập trung gây khó khăn khi quân ta lui quân và kéo pháo ra...

Cuộc trao đổi giữa tôi và đồng chí bạn diễn ra khoảng hơn nửa giờ.

Khi tôi trở về sở chỉ huy thì các đồng chí trong Đảng ủy đã có mặt đông đủ.

Tôi trình bày những suy nghĩ mình đã có từ lâu chung quanh cách đánh tập đoàn cứ điểm, những thay đổi quan trọng về phía địch từ sau hội nghị Thẩm Púa đến nay, ta vẫn giữ vững quyết tâm tiêu diệt địch ở Điện Biên Phủ nhưng phải thay đổi cách đánh.

Mọi người im lặng một lúc.

Rồi đồng chí Chủ nhiệm chính trị phát biểu:

- Đã động viên sâu rộng bộ đội về nhiệm vụ rồi, anh em đều rất tin tưởng, quyết tâm chiến đấu rất cao. Giờ nếu thay đổi thì giải thích cho bộ đội làm sao?

Đồng chí Chủ nhiệm hậu cần nói:

- Tôi thấy cứ nên giữ vững quyết tâm. Hậu cần chuẩn bị tới bây giờ đã khó khăn. Nếu không đánh ngay, sau này lại càng không đánh được!

Tôi nói:

- Tinh thần bộ đội là rất quan trọng, nhưng quyết tâm phải có cơ sở... Hậu cần là điều kiện tiên quyết, nhưng cuối cùng quyết định, là phải có cách đánh đúng.

Đồng chí Tham mưu trưởng nói:

- Anh Văn cân nhắc cũng phải... Nhưng lần này, ta có ưu thế binh lực, hoả lực, lại có kinh nghiệm của bạn, tôi thấy nếu đánh vẫn có khả năng giành thắng lợi...

Trao đổi một hồi chưa đi tới kết luận. Cuộc họp tạm dừng một lát.

Khi cuộc họp tiếp tục, tôi nói:

- Tình hình khẩn trương, cần sớm có quyết định. Vô luận tình hình nào, chúng ta vẫn phải nắm nguyên tắc cao nhất là: Đánh chắc thắng... Trước khi tôi ra đi, Bác trao nhiệm vụ: “Trận này rất quan trọng, phải đánh cho thắng. Chắc thắng mới đánh, không chắc thắng, không đánh”. Với tinh thần trách nhiệm trước Bác và Bộ Chính trị, tôi đề nghị các đồng chí trả lời câu hỏi: “Nếu đánh có chắc thắng trăm phần trăm không?”.

Đồng chí Chủ nhiệm chính trị nói:

- Anh Văn nêu câu hỏi thật khó trả lời. Ai dám bảo đảm là sẽ chắc thắng trăm phần trăm?

Đồng chí Chủ nhiệm hậu cần nói tiếp:

- Làm sao dám bảo đảm như vậy!

- Tôi nghĩ với trận này, ta phải bảo đảm chắc thắng trăm phần trăm.

Bấy giờ đồng chí Tham mưu trưởng mới nói:

- Nếu yêu cầu phải chắc thắng trăm phần trăm thì khó...

Lát sau Đảng ủy đi đến nhất trí là trận đánh có thể gặp nhiều khó khăn mà ta chưa có biện pháp cụ thể để khắc phục.

Tôi kết luận:

- Để đảm bảo nguyên tắc cao nhất là “đánh chắc thắng”, cần chuyển phương châm tiêu diệt địch từ “đánh nhanh thắng nhanh” sang “đánh chắc tiến chắc”. Nay quyết định hoãn cuộc tiến công. Ra lệnh cho bộ đội trên toàn tuyến lui về địa điểm tập kết và kéo pháo ra. Công tác chính trị bảo đảm triệt để chấp hành mệnh lệnh lui quân như mệnh lệnh chiến đấu.

Hậu cần chuyển sang chuẩn bị theo phương châm mới.

Sau đó tôi phân công anh Hoàng Văn Thái ra lệnh cho cán bộ đơn vị bộ binh, tôi ra lệnh cho pháo binh và trao nhiệm vụ mới cho 308.

Tôi gọi điện cho pháo binh:

- Tình hình địch đã thay đổi. Quyết tâm tiêu diệt Trần Đình1 vẫn giữ vững. Nay thay đổi cách đánh. Vì vậy, ra lệnh cho các đồng chí từ 17 giờ hôm nay, kéo pháo ra khỏi trận địa, lui về địa điểm tập kết, chuẩn bị lại. Triệt để chấp hành mệnh lệnh! Không giải thích.

Đầu dây đằng kia, tiếng đồng chí Phạm Ngọc Mậu, chính ủy pháo binh đáp:

- Rõ. Xin triệt để chấp hành mệnh lệnh.

14 giờ 30, mới có liên lạc điện thoại với anh Vương Thừa Vũ, tư lệnh đại đoàn 308.

- Chú ý nhận lệnh: Tình hình thay đổi. Đại đoàn các đồng chí có nhiệm vụ hướng về Luông Phabăng tiến quân. Dọc đường, gặp địch tùy điều kiện cụ thể mà tiêu diệt. Giữ vững lực lượng, có lệnh, trở về ngay. Giữ liên lạc vô tuyến điện. Khi được hỏi mới trả lời.

- Rõ - Anh Vũ đáp - Triệt để chấp hành mệnh lệnh!... Xin chỉ thị về sử dụng binh lực như thế nào?

- Toàn quyền quyết định, từ một tiểu đoàn đến toàn đại đoàn. Hậu cần tự giải quyết. Đúng 4 giờ chiều nay xuất phát.

- Xin triệt để chấp hành mệnh lệnh.

Đồng thời tôi chỉ thị cho một bộ phận nhỏ, mang theo một đài vô tuyến điện, đi về phía Mộc Châu, mỗi ngày ba lần đánh điện báo cáo “Đại đoàn 308 đã về tới...”. Điện mật, xen đôi tiếng không dùng mật mã. Do những bức điện này, lúc đầu địch đã tưởng 308 đang quay về đồng bằng.
____________________________________________
1. Mật danh chiến dịch Điện Biên Phủ.
Logged
chuongxedap
Đại tá
*
Bài viết: 13138



« Trả lời #64 vào lúc: 31 Tháng Mười Hai, 2022, 10:37:14 am »


8

Trong ngày hôm đó tôi đã đạt được một quyết định khó khăn nhất trong cuộc đời chỉ huy của mình.

Không thể dùng điện đài, tôi viết thư hỏa tốc gửi về báo cáo Bộ Chính trị. ít ngày sau nhận được thư của anh Trường Chinh cho biết Bác và các anh ở nhà nhất trí cho rằng quyết định thay đổi phương châm là hoàn toàn đúng đắn. Trung ương Đảng và Chính phủ sẽ động viên toàn dân dốc toàn lực chi viện cho tiền tuyến tới khi bộ đội giành toàn thắng tại Điện Biên Phủ.

Trên mặt trận Điện Biên Phủ, mặc dù mỗi người còn có những băn khoăn, suy nghĩ khác nhau, nhưng toàn thể cán bộ, chiến sĩ đã triệt để chấp hành mệnh lệnh lui quân, biểu thị một niềm tin, một tinh thần kỷ luật tuyệt vời.

Cả đại đoàn 312 cùng các chiến sĩ pháo binh, bảy ngày đêm ròng rã, đã kéo pháo ra an toàn trên con đường hiểm trở, bị máy bay và pháo địch biến thành con đường lửa.

Các chiến sĩ đại đoàn 308 lên đường với mỗi người năm lạng gạo, đã đuổi địch trên chặng đường dài 200 kilômét với sự phối hợp với bộ đội Pathét Lào và sự đùm bọc của nhân dân Lào, đã đập tan phòng tuyến Nậm Hu, tiêu diệt 14 đại đội. Nava lại phân tán lực lượng cơ động, lập thêm một tập đoàn cứ điểm nữa ở Mường Sài và tăng quân bảo vệ Luông Phabăng.

Ngày Tết đến bất chợt với hoa ban nở trắng bên sườn núi và dọc những khe suối quanh sở chỉ huy. Nam Bộ, Liên khu 5 xa xôi gửi điện chúc mừng các chiến sĩ Điện Biên Phủ sớm giành toàn thắng. Trong hàng vạn lá thư từ hậu phương gửi ra mặt trận, có những lá thư từ Mátxcơva, Bắc Kinh, Bình Nhưỡng. Đêm 30 Tết, tôi vẫn theo dõi những khẩu pháo cuối cùng trên đường trở về vị trí tập kết. Anh Vương Thừa Vũ điện về báo cáo những chiến sĩ đầu tiên của đại đoàn 308 cùng bộ đội Pathét Lào đã ở bên sông Mê Công, cách Luông Phabăng, kinh đô nhà vua Lào 7 kilômét.

Cuộc tiến công ở Thượng Lào nổ ra đồng thời với cuộc tiến công giải phóng Công Tum tiếp theo những cuộc tiến công giải phóng tỉnh Thà Khẹt và cao nguyên Bôlôven trước đó, cùng với việc Nava ném quân xuống Điện Biên Phủ đã làm tan vỡ khối quân cơ động của địch.

Đại đoàn 320 cùng với các lực lượng vũ trang địa phương các tỉnh đã làm mưa làm gió tại đồng bằng Bắc Bộ, đập tan phòng tuyến Sông Đáy, đột nhập các sân bay, phá huỷ một phần sáu số máy bay của địch ở Đông Dương. 20 trong số 44 tiểu đoàn cơ động của Nava còn lại ở đồng bằng, phải rải ra để bảo vệ những tuyến đường giao thông quan trọng, đặc biệt là đường 5.

Cuộc tiến công của địch vào Phú Yên bị sa lầy. Quân du kích Nam Trung Bộ tập kích thành phố Nha Trang, thị trấn Ninh Hoà. Bộ đội địa phương Quảng Nam, Phú Yên, Khánh Hòa, Bình Thuận diệt nhiều cứ điểm đại đội của địch.

Giấc mộng bình định Nam Bộ của Nava trong mùa khô này đã tan thành mây khói. Các tiểu đoàn chủ lực của khu, tỉnh ở Nam Bộ đều tiến vào vùng tạm bị chiếm, đẩy mạnh phong trào chiến tranh nhân dân, đánh đồn, chặn viện, đánh vận động, đánh giao thông, tiêu diệt trên một ngàn đồn bốt, tháp canh (nhiều vị trí đại đội), diệt nhiều đoàn xe cơ giới, xe lửa, tàu thuyền của địch. Quân địch buộc phải quay về bảo vệ những vùng trước đây chúng coi là “bình định xong”. Vùng tự do Khu 9 được giữ vững và mở rộng. Các căn cứ du kích và khu du kích lớn, nhỏ đều được khôi phục và mở rộng rất nhiều. Nhiều địa phương mới được giải phóng.

Trên toàn bộ các chiến trường, quân Pháp đều bị sa lầy.

Nhưng trên mặt trận Điện Biên Phủ, quyết định ngày 26 tháng Giêng năm 1954 vẫn còn đứng trước những thử thách cực kỳ lớn. Quân số địch ở Điện Biên Phủ đã tăng lên 19 tiểu đoàn và còn khả năng tăng lên nữa trong quá trình chiến đấu.

Chuẩn bị theo phương châm mới, trận đánh đã lui lại một tháng rưỡi.

Chúng ta đã xây dựng trận địa bao vây và tiếp cận chung quanh tập đoàn cứ điểm, với hàng trăm kilômét chiến hào, để bộ đội có thể chiến đấu cả ban ngày và ban đêm dưới bom đạn. Chúng ta đã đưa những khẩu pháo vào ẩn náu an toàn trong những căn hầm nằm phân tán giữa lòng núi và làm đường cho xe vận tải chở đạn tới từng hầm pháo.

Với khẩu hiệu “Tất cả cho tiền tuyến - Tất cả để chiến thắng”, quân và dân ta đã không tiếc mồ hôi, xương máu làm nên kỳ công bảo đảm việc tiếp tế đạn dược, lương thực cho các chiến sĩ ở mặt trận.

Ta đã dành cho kẻ địch một bất ngờ lớn nhất là không chấp nhận một cuộc tổng giao chiến chớp nhoáng với toàn bộ lực lượng viễn chinh tinh nhuệ địch náu mình trong tập đoàn cứ điểm kiên cố. Ta quyết định tiêu diệt dần từng trung tâm đề kháng bằng cách đánh sở trường của ta, vào thời gian, địa điểm do ta lựa chọn, với thế mạnh áp đảo trong từng trận đánh, đồng thời siết chặt trận địa chiến hào, triệt nguồn tiếp tế cho tới lúc tập đoàn cứ điểm nghẹt thở.

Ngày 13 tháng 3 năm 1954, tiếng súng tiến công của ta ở Điện Biên Phủ bắt đầu. Viên chỉ huy phó tập đoàn cứ điểm, phụ trách pháo binh, phải tự sát vì không có cách nào làm im lặng những khẩu pháo Việt Nam. Đờ Cátxtơri và bộ chỉ huy quân đội viễn chinh Pháp đành chịu bó tay ngồi nhìn những cứ điểm mạnh nhất của tập đoàn cứ điểm lần lượt sụp đổ dưới bàn chân không giày của những chiến sĩ xung kích Việt Nam. Trận địa chiến hào của ta, từ núi cao đổ xuống cánh đồng, mỗi ngày càng siết chặt sợi dây định mệnh chung quanh tập đoàn cứ điểm.

... Ngày mồng 7 tháng 5 năm 1954, lá cờ Quyết chiến quyết thắng tung bay trên nóc hầm của tướng Đờ Cátxtơri. Hơn một vạn quân địch ở Mường Thanh kéo cờ trắng đầu hàng.

Quân và dân ta tháng Năm ấy lại có một chiến công lớn mừng ngày sinh của Bác Hồ. Thư khen ngợi của Bác tới ngay ngày hôm sau:

"Quân ta đã giải phóng Điện Biên Phủ, Bác và Chính phủ thân ái gửi lời khen cán bộ, chiến sĩ, dân công, thanh niên xung phong và đồng bào địa phương đã làm tròn nhiệm vụ một cách vẻ vang. Thắng lợi tuy lớn nhưng mới là bắt đầu...".

Tôi viết hồi tưởng này là để dâng một bó hoa thơm kính viếng anh linh các anh hùng, liệt sĩ, để nói lên sức mạnh thần kỳ của đoàn kết toàn dân chiến đấu, của liên minh chiến đấu đặc biệt Việt Nam - Lào - Campuchia đã làm nên chiến công hiển hách trong mùa Xuân lịch sử cách đây 35 năm.
Logged
chuongxedap
Đại tá
*
Bài viết: 13138



« Trả lời #65 vào lúc: 31 Tháng Mười Hai, 2022, 10:45:14 am »


VIỆT NAM – HỒ CHÍ MINH - ĐIỆN BIÊN PHỦ1 


Mùa Xuân năm Giáp Ngọ (1954), chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ kết thúc thắng lợi cuộc kháng chiến thần thánh của Việt Nam chống thực dân Pháp và can thiệp Mỹ, tạo thế, tạo lực để quân và dân ta tiếp tục cuộc chiến đấu 30 năm, đưa sự nghiệp cách mạng giải phóng dân tộc đến thắng lợi hoàn toàn.

Nhân dân ta tự hào, phấn khởi. Bạn bè quốc tế vui mừng. Đã xuất hiện trên báo chí phương Tây một khẩu hiệu như là một chân lý: “Việt Nam - Hồ Chí Minh - Điện Biên Phủ". Có thể coi đây là bản tổng kết súc tích, ngắn gọn của loài người tiến bộ chào đón chiến công đầu oanh liệt đại phá thành trì của chủ nghĩa thực dân.


*

*       *

Sự kiện Điện Biên Phủ làm "chấn động địa cầu". Đây là chiến công vang dội đầu tiên của một dân tộc vốn là thuộc địa, đánh thắng quân đội hiện đại của một đế quốc phương Tây. Đây cũng là trận tiêu diệt chiến lớn điển hình nhất trong lịch sử đấu tranh của các dân tộc bị áp bức chống quân xâm lược nước ngoài. Tiếng sấm Điện Biên Phủ khiến nhân loại hướng về dải đất hình chữ S trên bán đảo Đông Dương, một nước nguyên là thuộc địa bị các thế lực thực dân xóa tên gần 100 năm trên bản đồ thế giới. Các nhà sử học đi sâu vào quá khứ phát hiện ra dân tộc làm nên Điện Biên Phủ sống trên một đất nước anh hùng bất khuất, có lịch sử dựng nước và giữ nước nhiều thiên niên kỷ, có lần sau hơn một nghìn năm bị thống trị, chẳng những không bị đồng hóa, mà đã vùng lên giành lại quyền sống của mình.

Những phát hiện làm cho thế giới phải kinh ngạc và khâm phục, thực ra không phải là mới với con người Việt Nam vốn mang truyền thống chống ngoại xâm trong huyết quản. Đối với một dân tộc ở vào khu vực ngã ba đường của vùng Đông Nam châu Á, kể từ thời Văn Lang, Âu Lạc đã phải chống chọi với những cuộc chinh phục của ngoại bang, thì đánh giặc giữ nước đã thành quy luật sinh tồn. Một khi cờ nghĩa phất cao, "tuy mạnh yếu từng lúc khác nhau, song hào kiệt đời nào cũng có". Trước họa xâm lăng, nhân dân Việt Nam buộc phải liên tiếp đứng lên giành và giữ độc lập. Bởi vì "nước mất" thì "nhà tan", "giặc đến nhà đàn bà cũng đánh"... "đánh cho sử tri Nam quốc anh hùng chi hữu chủ". Bởi vì "Không có gì quý hơn độc lập, tự do", "Hễ còn một tên xâm lược trên đất nước ta thì ta còn phải tiếp tục chiến đấu, quét sạch nó đi!".


*

*       *

Đất nước ta là một trong những chiếc nôi của loài người. Nơi đây, từ ngàn xưa đã tích tụ một hào khí anh hùng, một truyền thống giữ nước vẻ vang, một hệ thống tri thức quân sự độc đáo và sáng tạo, chống lại những kẻ địch lớn mạnh. Đó là những di sản quý báu, là cội nguồn của những võ công oanh liệt ngày nay.

Bước vào lịch sử cận đại, từ giữa thế kỷ XIX, chủ nghĩa đế quốc phân chia thế giới, xâm chiếm thuộc địa. Bài toán có tính quốc tế đặt ra lúc này cho các dân tộc bị áp bức đang còn trong nền kinh tế nông nghiệp lạc hậu, phong kiến, tiền phong kiến, là làm thế nào để chống lại ách xâm lược của các nước tư bản công nghiệp hơn hẳn về kinh tế, kỹ thuật, làm thế nào để giành thắng lợi trong sự chênh lệch rất lớn về trình độ sản xuất và phương thức sản xuất. Nguyễn Ái Quốc – Hồ Chí Minh là người đầu tiên tìm ra đáp số. Giương cao ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Người đã tìm ra con đường cứu nước, đặt nền móng cho đường lối cách mạng và đường lối quân sự của Đảng ta. Đó là con đường cách mạng giải phóng dân tộc trong thời đại mới, là quan điểm đoàn kết toàn dân, quan điểm khởi nghĩa vũ trang toàn dân và chiến tranh toàn dân, phát động sức mạnh vô tận của dân tộc Việt Nam, của con người Việt Nam để dựng nước và giữ nước. Trong chiến tranh, đó là đường lối chiến lược của "một nước nhỏ mà đánh thắng hai đế quốc to", đã được lịch sử chứng minh và kiểm nghiệm.

Chủ tịch Hồ Chí Minh là Người Cha thân yêu của các lực lượng vũ trang nhân dân. Ngay từ những ngày đầu, Người đã chủ trương xây dựng ba thứ quân, "lập ra đội chủ lực", vì "về quân sự, nguyên tắc chính là nguyên tắc tập trung lực lượng". Trong cuộc kháng chiến toàn dân, toàn diện, trường kỳ, lấy sức mình làm chính, phải đẩy mạnh chiến tranh du kích đi đôi với phát triển chiến tranh chính quy, càng đánh càng mạnh, càng đánh càng thắng. Phải "đánh địch bằng mưu, thắng địch bằng thế". "Tất cả cho tiền tuyến. Tất cả để chiến thắng". Tất cả đều "do dân" và "vì dân".

Tư tưởng Hồ Chí Minh và đường lối của Đảng ta đã đưa Cách mạng tháng Tám đến thành công. Tư tưởng của Người và đường lối của Đảng tiếp tục đưa kháng chiến chống Pháp, kháng chiến chống Mỹ đến thắng lợi với chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ và chiến dịch Hồ Chí Minh toàn thắng.
_____________________________________________
1. Bài viết nhân dịp kỷ niệm lần thứ 40 chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ, đăng trên báo Quân đội nhân dân, năm 1994.
Logged
chuongxedap
Đại tá
*
Bài viết: 13138



« Trả lời #66 vào lúc: 31 Tháng Mười Hai, 2022, 10:47:31 am »


*

*      *

Điện Biên Phủ là đỉnh cao của chiến cuộc Đông Xuân 1953-1954, là kết quả của chín năm kháng chiến trường kỳ gian khổ, của sự phối hợp chiến lược chặt chẽ giữa các chiến trường cả nước ta và hai nước bạn, từ miền Bắc đến miền Nam, từ miền xuôi đến miền ngược, giữa tiền tuyến và hậu phương. Điện Biên Phủ là thắng lợi của khoa học và nghệ thuật quân sự Việt Nam, biết phát huy cái mạnh và cách đánh sở trường của ta, không cho địch phát huy cái mạnh và cách đánh sở trường của chúng, thường lấy cái mạnh của ta đánh thắng vào chỗ yếu và hiểm yếu của địch, liên tiếp phá tan mọi âm mưu chiến lược của chúng, tiến tới đánh thắng chúng hoàn toàn.

Binh thư kim, cổ, đông, tây đều thống nhất ở nguyên tắc về quyền chủ động và nguyên tắc tập trung lực lượng. Thế nhưng vận dụng được các nguyên tắc ấy trong thực tiễn lại tùy thuộc vào tính chất chiến tranh và khả năng của các bên tham chiến. Kế hoạch quân sự của tướng Nava nhằm xây dựng một khối cơ động mạnh, giành lại quyền chủ động chiến lược, tiến tới kết thúc chiến tranh trên thế mạnh không phải là hoàn toàn không có cơ sở. Thế nhưng, với phương châm "tích cực, chủ động, cơ động, linh hoạt", khoét sâu mâu thuẫn cố hữu giữa tập trung và phân tán của chiến tranh xâm lược, Bộ thông soái tối cao Việt Nam bằng một sự điều động binh lực năng động, mưu trí, đã buộc quân Pháp phải đánh theo ý định của ta, phải xòe "nắm đấm chủ lực" ra nhiều hướng. Và khi quân Pháp tập trung ở một điểm cô lập xa hậu phương, hình thành một tập đoàn cứ điểm rất mạnh mà chúng cho là bất khả xâm phạm hòng thu hút và tiêu diệt chủ lực ta, thì ta đã tập trung cao độ lực lượng chủ lực tinh nhuệ đánh ngay vào chỗ mạnh nhất của địch. Với cách đánh sáng tạo, quân và dân ta đã tiêu diệt hoàn toàn quân địch trong một trận quyết chiến chiến lược, giành thắng lợi ngay ở nơi địch muốn quyết chiến với ta. Đây là đặc điểm nổi bật của chiến dịch Điện Biên Phủ.

Quyết tâm tiêu diệt địch ở Điện Biên Phủ là một quyết tâm rất lớn, có cơ sở khoa học và thực tiễn. Ở đây, lòng dũng cảm và trí thông minh của con người Việt Nam kết hợp với nhau trong cuộc đấu trí, đấu lực quyết liệt, đầy kịch tính, cuối cùng đã mang về chiến thắng.

Xưa kia, Trần Quốc Tuấn dặn dò tướng sĩ "cần phải xem xét tình hình biến chuyển như người đánh cờ, tùy cơ mà ứng biến"1. Nguyễn Trãi cũng đã viết: "Việc binh cốt phải mau chóng như thần, máy then mở đóng, như bánh xe chuyển, như đám mây bay, trong khoảng chốc lát, chợt nóng lạnh, thay đổi khôn lường"2.

Trong điều kiện ngày nay, do sự phát triển của khoa học, kỹ thuật, vũ khí và phương tiện chiến tranh, sự thay đổi tình huống trên chiến trường lại càng mau lẹ. Nghệ thuật quân sự phải vừa có tính kiên quyết vừa có tính linh hoạt. Một mặt, phải hạ quyết tâm chính xác và kiên trì thực hiện quyết tâm, không dao động với những hiện tượng bề ngoài; mặt khác, khi tình hình đã thay đổi, thì kịp thời thay đổi phương thức và biện pháp cho phù hợp để giành chiến thắng. Từ "đánh nhanh giải quyết nhanh" chuyển sang "đánh chắc tiến chắc", Đảng ủy Bộ chỉ huy chiến dịch Điện Biên Phủ đã có một "quyết định khó khăn nhất", kịp thời hành động đúng quy luật, tiêu diệt tập đoàn cứ điểm địch trong một cuộc chiến đấu 55 ngày đêm, thay vì tiến công địch trong ba đêm hai ngày theo phương án cũ.

Phương pháp khoa học quân sự đưa đến chiến công Điện Biên Phủ được lặp lại trong đại thắng mùa Xuân năm 1975. Khi tình hình chuyển biến nhanh chóng, Bộ Chính trị Trung ương Đảng, Quân ủy Trung ương và Bộ Tổng tư lệnh đã nhạy bén chuyển từ kế hoạch cơ bản sang kế hoạch thời cơ, điều hành chiến tranh theo tinh thần "thần tốc, táo bạo, bất ngờ, chắc thắng", kết hợp tiến công và nổi dậy, giành toàn thắng trong thời gian hai tháng, không phải là hai hoặc ba năm như dự kiến ban đầu.


*

*      *

Kỷ niệm lần thứ 40 chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ, nhân dân ta thành kính tưởng nhớ và ghi công các anh hùng, liệt sĩ đã hy sinh chiến đấu quên mình trong hơn ba mươi năm trên khắp các chiến trường, giải phóng đất nước, bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa trước mọi âm mưu xâm lược của chủ nghĩa đế quốc và các thế lực phản động.

"Việt Nam - Hồ Chí Minh - Điện Biên Phủ”

Gần nửa thế kỷ đã trôi qua, mà ý nghĩa của câu tổng kết năm nào vẫn sáng ngời chân lý, soi tỏ bước đường trước mắt của nhân dân ta xây dựng đất nước giàu mạnh, mang lại hạnh phúc cho toàn dân theo đường lối "đổi mới" của Đảng.

Chiến thắng Điện Biên Phủ để lại những bài học lịch sử hết sức quý giá.

Đó là sức mạnh to lớn của dân tộc Việt Nam, của con người Việt Nam, của khối đại đoàn kết toàn dân phát triển lên trình độ mới, phát huy vào sự nghiệp mới. Tin tưởng ở dân, bồi dưỡng sức dân. Tất cả "do dân" và "vì dân", thì "nhiệm vụ nào cũng hoàn thành, khó khăn nào cũng vượt qua, kẻ thù nào cũng đánh thắng".

Đó là tư tưởng Hồ Chí Minh, là chủ nghĩa Mác - Lênin vận dụng sáng tạo vào cách mạng Việt Nam, là tinh thần cách mạng và khoa học, luôn bám sát thực tiễn, phát hiện quy luật, phát hiện cái mới, hành động đúng quy luật khách quan với tinh thần "đổi mới". Phát huy sức mạnh tổng hợp của nhiệt tình và trí tuệ của toàn dân tộc trong thời đại mới, không bao giờ chủ quan, tự mãn, nhất định đất nước ta sẽ có những bước phát triển mới với tốc độ nhanh và vững, sánh vai cùng các nước trên thế giới.

Đó là tinh thần quyết chiến quyết thắng của Điện Biên Phủ, là quyết tâm đi theo con đường Bác Hồ đã lựa chọn, biết phát huy ở mức cao nhất sự giúp đỡ và sự đồng tình ủng hộ quốc tế, luôn luôn giữ vững độc lập, chủ quyền và bản sắc văn hóa dân tộc, độc lập tự chủ, tự lực tự cường. Tinh thần Điện Biên Phủ sẽ chiến thắng mọi nguy cơ, đập tan âm mưu "diễn biến hòa bình", diệt trừ "quốc nạn" tham nhũng và mọi biểu hiện tiêu cực khác.

Điện Biên Phủ cùng với đại thắng mùa Xuân năm 1975 đang cổ vũ quân và dân ta lập nhiều thành tích mới, những câu chuyện thần kỳ mới trong sự nghiệp xây dựng đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa, giữ gìn ổn định chính trị, bảo vệ vững chắc vùng đất, vùng trời, vùng biển của Tổ quốc.

Hướng về Điện Biên Phủ, thanh niên thế hệ Hồ Chí Minh tự hào về chiến công bất tử của cha anh, tích cực, sáng tạo trong học tập, lao động và chiến đấu, cống hiến nhiệt tình và sức trẻ làm nên những Điện Biên Phủ mới, đánh thắng nghèo nàn lạc hậu, làm cho dân giàu nước mạnh, xã hội công bằng, văn minh. Đó là suy nghĩ và hành động có ý nghĩa nhất để đền đáp công ơn các anh hùng liệt sĩ, để xứng đáng với dòng máu của tổ tiên, làm vẻ vang cho nòi giống Việt Nam trường tồn và phát triển.
____________________________________________
1. "Quân kỳ suy biến, như vị kỳ nhiên, tùy thời chế nghi": Di chúc của Trần Quốc Tuấn, Việt sử thông giám cương mục, Nxb Văn sử Địa, Hà Nội, 1958, tr. 100.
2. Quân trung từ mệnh tập. Thư cho Vương Thông, Nguyễn Trãi Toàn tập, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội, 1978, tr. 118.
Logged
chuongxedap
Đại tá
*
Bài viết: 13138



« Trả lời #67 vào lúc: 31 Tháng Mười Hai, 2022, 11:01:58 am »


TINH THẦN ĐIỆN BIÊN PHỦ
SỐNG MÃI TRONG SỰ NGHIỆP CỦA CHÚNG TA
1 


Trong buổi bình minh của thiên niên kỷ mới, trên Tổ quốc Việt Nam hoàn toàn độc lập, thống nhất, công cuộc đổi mới xây dựng phát triển đất nước đang từng ngày khởi sắc, nhân dân ta kỷ niệm trọng thể 50 năm chiến thắng Điện Biên Phủ và thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Pháp.

Chúng ta còn nhớ: Thu Đông 1953, cuộc kháng chiến của nhân dân Việt Nam chống thực dân xâm lược Pháp bước sang năm thứ tám. Sau 5 năm tự lực chiến đấu trong vòng vây, từ năm 1950 trở đi, chủ lực ta liên tiếp mở nhiều chiến dịch lớn, tiêu diệt nhiều sinh lực địch, giải phóng nhiều vùng rộng lớn ở biên giới Việt - Trung, Hòa Bình, Tây Bắc, Thượng Lào. Chiến tranh du kích phát triển mạnh, làm "ruỗng nát" vùng tạm chiếm của đối phương.

Trước tình hình nguy khốn ở Đông Dương, chính phủ Pháp cử tướng bốn sao Hăngri Nava sang làm tổng chỉ huy thứ bảy của đội quân viễn chinh xâm lược. Ta được biết nội dung kế hoạch Nava do bạn Trung Quốc cung cấp. Theo kế hoạch này, Nava đề ra mục tiêu trong vòng 18 tháng, tập trung lực lượng cơ động chiến lược để tiến công tiêu diệt phần lớn chủ lực ta, buộc Chính phủ ta phải chấp nhận đàm phán theo những điều kiện do Pháp đề ra, nhằm tìm "lối thoát danh dự" cho cuộc chiến tranh xâm lược.

Trong Đông Xuân 1953-1954, Nava tập trung các binh đoàn cơ động ở đồng bằng Bắc Bộ nhằm đối phó với cuộc tiến công có thể xảy ra của chủ lực ta, càn quét bình định vùng sau lưng chúng; cho quân nhảy dù xuống Lạng Sơn, đánh ra Ninh Bình, uy hiếp các căn cứ kháng chiến của ta ở Việt Bắc và Thanh Nghệ Tĩnh.

Để phá tan kế hoạch Nava, buộc chúng phải phân tán lực lượng, bị động đối phó, Bộ thống soái tối cao của ta chủ trương dùng một bộ phận quân chủ lực, phối hợp với các lực lượng địa phương, chủ động mở các cuộc tiến công lên Tây Bắc, Trung Lào và Hạ Lào, Bắc Tây Nguyên, lấy Tây Bắc làm hướng chính. Đó là những hướng chiến lược hiểm yếu mà địch tương đối yếu, ta có thể tiêu diệt sinh lực địch, giải phóng đất đai, tiếp tục khoét sâu mâu thuẫn cơ bản giữa tập trung và phân tán binh lực của địch, tạo nên thế trận mới, thời cơ mới. Tình hình có thể phức tạp, ta cần theo dõi diễn biến, khi thời cơ xuất hiện thì nhanh chóng tập trung lực lượng, tiêu diệt một bộ phận quan trọng quân địch, làm chuyển biến cục diện chiến tranh có lợi cho ta.

Tháng 11 năm 1953, khi phát hiện chủ lực ta tiến lên Tây Bắc, Nava cho quân nhảy dù xuống Điện Biên Phủ để yểm trợ cho các đơn vị ở Lai Châu rút chạy, đồng thời bảo vệ Thượng Lào. Sau khi biết chắc phần lớn chủ lực ta đã tiến lên Tây Bắc, Nava chủ trương tăng cường lực lượng, gấp rút xây dựng Điện Biên Phủ thành một tập đoàn cứ điểm mạnh nhất Đông Dương nhằm thu hút và đánh bại chủ lực ta.

Đầu tháng 12 năm 1953, quân ta mở cuộc tiến công tiêu diệt phần lớn quân địch ở Lai Châu rút chạy, bao vây Điện Biên Phủ. Hạ tuần tháng 12, quân tình nguyện Việt Nam phối hợp với Quân giải phóng Pathét Lào mở cuộc tiến công vào Trung Lào, giải phóng Thà Khẹt và phát triển xuống Hạ Lào, giải phóng cao nguyên Bôlôven. Tháng 1 năm 1954, tuy có tin địch sẽ tiến công vào vùng tự do ven biển Liên khu 5, nhưng chủ lực ta vẫn nghiêm chỉnh chấp hành mệnh lệnh của Bộ Tổng tư lệnh, kiên quyết mở cuộc tiến công lên Bắc Tây Nguyên, giải phóng Công Tum và một vùng rộng lớn, nối liền với khu giải phóng Hạ Lào. Hạ tuần tháng 1 năm 1954, trong khi tạm đình cuộc tiến công vào Điện Biên Phủ, một đơn vị chủ lực ta đã bất ngờ mở cuộc tiến công sang Thượng Lào. Đòn tiến công này đã giải phóng lưu vực sông Nậm Hu, uy hiếp thủ đô Luông Phabăng.

Bằng 5 đòn tiến công chiến lược nói trên, ta đã điều động được lực lượng địch, thu hút chúng đến những chiến trường có lợi cho ta, buộc khối cơ động chiến lược của Nava phải chia năm sẻ bảy để tiêu diệt chúng.

Phối hợp với các đòn tiến công của bộ đội chủ lực, chiến tranh du kích phát triển mạnh mẽ ở các vùng địch hậu đồng bằng Bắc Bộ, Bình Trị Thiên, Cực Nam Trung Bộ và Nam Bộ. Hàng chục đoàn tàu bị lật đổ, hàng chục máy bay bị phá hủy trên các sân bay, hàng trăm đồn bốt bị san bằng, nhiều vùng căn cứ du kích được mở rộng.

Thắng lợi to lớn của các chiến trường phối hợp trong giai đoạn đầu của chiến cuộc Đông Xuân 1953-1954 đã làm cho kế hoạch Nava bị đảo lộn và bắt đầu phá sản. Ở chiến trường chính, Điện Biên Phủ, lúc đầu chưa có trong kế hoạch Nava và cũng chưa có trong kế hoạch tác chiến của ta, đã trở thành nơi diễn ra trận quyết chiến chiến lược, cuộc đọ sức quyết liệt nhất giữa ta và địch.
____________________________________________
1. Bài viết nhân dịp kỷ niệm lần thứ 50 chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ, bản gửi cho Nxb Quân đội nhân dân, ngày 4 tháng 3 năm 2004.
Logged
chuongxedap
Đại tá
*
Bài viết: 13138



« Trả lời #68 vào lúc: 31 Tháng Mười Hai, 2022, 11:02:37 am »


Thực hiện quyết tâm tiêu diệt địch ở Điện Biên Phủ, bộ phận tham mưu của ta và của Đoàn cố vấn đi trước để chuẩn bị chiến trường, đã đề nghị phương án tranh thủ "đánh nhanh giải quyết nhanh" khi địch còn đứng chân chưa vững, dốc toàn lực đánh trong 3 đêm 2 ngày tiêu diệt toàn bộ quân địch giành thắng lợi. Tôi và đồng chí Trưởng đoàn cố vấn đi sau, lên đến mặt trận đã nghe báo cáo phương án đánh nhanh.

Tại cuộc họp đầu tiên của Đảng ủy chiến dịch, tôi đã nêu những khó khăn lớn mà bộ đội ta chưa thể vượt qua nếu đánh theo phương án đó. Nhưng ý kiến chung đều cho rằng: Bộ đội ta đã được huấn luyện về cách đánh tập đoàn cứ điểm, hiện nay sung sức, quyết tâm chiến đấu rất cao, lại có lựu pháo và cao xạ pháo lần đầu xuất trận, với sức mạnh mới, có thể gây bất ngờ và sẽ chiến thắng. Nếu không đánh sớm, để địch tăng thêm quân và củng cố công sự khiến tập đoàn cứ điểm trở nên quá mạnh, ta sẽ bỏ lỡ cơ hội đánh tiêu diệt lớn trong Đông Xuân này. Chiến dịch kéo dài sẽ không giải quyết được khó khăn về hậu cần. Đồng chí Trưởng đoàn cố vấn cũng tán thành phương án ấy.

Tuy không tin vào thắng lợi của phương án đánh nhanh thắng nhanh, nhưng tôi tự thấy mình vừa mới đến chiến trường, chưa có đủ cơ sở thực tế để bác bỏ ý kiến của đa số, nên đã đồng ý triệu tập Hội nghị cán bộ để phổ biến kế hoạch tác chiến theo phương châm "đánh nhanh giải quyết nhanh". Đồng thời tôi chỉ thị cơ quan tham mưu theo dõi chặt chẽ tình hình địch từng ngày, từng giờ, kịp thời báo cáo; nếu tình hình thay đổi, ta có thể thay đổi kế hoạch...

Suốt 11 ngày đêm theo dõi tình hình, tôi thấy địch ngày càng tăng cường lực lượng, ra sức củng cố trận địa, và những khó khăn của ta chưa có cách khắc phục. Nhiều đêm trăn trở, cân nhắc, đêm cuối cùng thức trắng, tôi đi đến kết luận: đánh theo cách này nhất định thất bại. Sáng ngày 26 tháng 1, tôi đã trao đổi ý kiến thống nhất với đồng chí Trưởng đoàn cố vấn, tiếp đó đưa ra Đảng ủy mặt trận bàn thay đổi cách đánh. Cuộc thảo luận trong Đảng ủy đã diễn ra gay go sôi nổi. Tất cả đều cho rằng bộ đội quyết tâm cao, mọi mặt đã chuẩn bị, phải đánh nhanh, nếu không sẽ khó khăn, mất thời cơ. Nhưng khi đặt ra câu hỏi: Vậy đánh nhanh có bảo đảm chắc thắng 100% như Bác Hồ căn dặn không? thì không ai dám khẳng định; cuối cùng Đảng ủy đã đi đến nhất trí phải chuyển sang phương châm "đánh chắc tiến chắc" - một phương án đã từng dự kiến trước đây. Mặc dầu mấy vạn quân ta đã giàn trận, đạn đã lên nòng sẵn sàng nổ súng vào đêm ngày 26 tháng 1, nhưng chúng ta đã kiên quyết dừng lại, cho lui quân về vị trí tập kết, kéo pháo ra để chuẩn bị trận địa đánh theo phương án mới. Quyết định thay đổi phương châm đã được triển khai, sau đó báo cáo về Trung ương bằng thư hỏa tốc, được Bác Hồ và Bộ Chính trị nhất trí và cho biết sẽ động viên hậu phương đem toàn lực chi viện cho tiền tuyến đánh thắng.

Thay đổi cách đánh trong tình thế toàn mặt trận từ trên xuống dưới quyết tâm chiến đấu theo phương án đánh nhanh giải quyết nhanh, các đơn vị đã vào vị trí chiến đấu, chờ giờ nổ súng là quyết định khó khăn nhất trong cuộc đời chỉ huy của tôi.

Chúng ta chuyển sang cách đánh chắc tiến chắc tức là bao vây đánh dần từng bước, tiêu diệt địch từng bộ phận, từ ngoại vi vào tung thâm. Đánh theo cách này, ta có điều kiện tập trung binh hỏa lực ưu thế tuyệt đối trong từng trận, tạo nên sức mạnh áp đảo đánh thắng địch.

Để bảo đảm bao vây, tiêu diệt địch từng bước, theo kinh nghiệm chiến đấu của Giải phóng quân Trung Quốc mà Đoàn cố vấn giới thiệu, chúng ta đã xây dựng một hệ thống đường kéo pháo bằng cơ giới và các trận địa pháo có hầm đào sâu vào vách núi; xây dựng một hệ thống trận địa bao vây và tiến công quy mô chiến dịch, với hàng trăm kilômét hào giao thông để cơ động tiếp cận địch, với hàng vạn công sự chiến đấu, công sự ẩn nấp cho người và vũ khí, có hầm nghỉ ngơi, sinh hoạt, cấp cứu thương binh trong lòng đất, bảo đảm cho bộ đội chiến đấu liên tục ngày đêm trên cánh đồng Mường Thanh, dưới sự đánh phá ác liệt của không quân và pháo binh địch.

Trải qua một quá trình chiến đấu dài ngày, chúng ta đã lần lượt tiêu diệt từng cụm cứ điểm của địch, siết chặt vòng vây, vận dụng chiến thuật đánh lấn, bắn tỉa, chia cắt sân bay, triệt đường tiếp tế... làm cho tập đoàn cứ điểm ngày càng bị bóp nghẹt, không phận ngày càng bị thu hẹp, khó khăn ngày càng chồng chất, tinh thần chiến đấu của địch ngày càng sa sút. Cuối cùng, ta mở đợt tiến công quyết định đánh vào sở chỉ huy đầu não, bắt sống tướng Đờ Cát và bộ chỉ huy, buộc toàn bộ quân địch đầu hàng, giành toàn thắng cho chiến dịch.

Như vậy, quân đội ta từ chỗ mới tiêu diệt được từng tiểu đoàn địch phòng ngự trong công sự vững chắc và thường chỉ đánh trong đêm, đã tiến lên tiêu diệt 21 tiểu đoàn phòng ngự trong một tập đoàn cứ điểm mạnh nhất Đông Dương, với 8 trung tâm đề kháng, 49 cứ điểm và đánh liên tục trong 56 ngày đêm, đã tiêu diệt, bắt sống hơn 1 vạn 6 nghìn quân địch, đại bộ phận là lính Âu Phi tinh nhuệ.

Đây là trận tiêu diệt chiến lớn nhất, tiêu biểu nhất, một bước trưởng thành vượt bậc về trình độ tác chiến của quân đội ta.
Logged
chuongxedap
Đại tá
*
Bài viết: 13138



« Trả lời #69 vào lúc: 31 Tháng Mười Hai, 2022, 11:05:09 am »


*

*      *

Kỷ niệm 10 năm chiến thắng Điện Biên Phủ, Bác Hồ viết: "Điện Biên Phủ như là một cái mốc chói lọi bằng vàng của lịch sử. Nó ghi rõ nơi chủ nghĩa thực dân lăn xuống dốc và tan rã, đồng thời phong trào giải phóng dân tộc khắp thế giới đang lên cao đến thắng lợi hoàn toàn"1. "Đó là thắng lợi vĩ đại của nhân dân ta mà cũng là thắng lợi chung của tất cả các dân tộc bị áp bức trên thế giới".

Năm nay kỷ niệm 50 năm chiến thắng Điện Biên Phủ, nhìn lại tiến trình lịch sử của dân tộc ta và của nhân loại qua nửa thế kỷ, chúng ta càng thấy ý nghĩa to lớn và sâu sắc của chiến thắng vĩ đại Điện Biên Phủ.

Điện Biên Phủ là trận đánh tiêu diệt và bắt sống quân viễn chinh xâm lược lớn nhất, gọn nhất của quân đội ta, dân tộc ta và của phong trào giải phóng dân tộc trong thế kỷ XX.

Chiến thắng vĩ đại Điện Biên Phủ đã kết thúc vẻ vang cuộc kháng chiến của nhân dân ta chống thực dân xâm lược Pháp
.

Ông cha ta trước đây từng tiêu diệt quân xâm lược ở Bạch Đằng, Chi Lăng... để giải phóng Thăng Long. Đến thời đại Hồ Chí Minh, quân và dân ta đã đánh một trận tiêu diệt lớn quân xâm lược ở Điện Biên Phủ, buộc đối phương phải đi đến ký kết Hiệp nghị Giơnevơ, giải phóng nửa nước, giải phóng Thủ đô Hà Nội. Miền Bắc hoàn toàn giải phóng, được xây dựng ngày càng vững mạnh trở thành căn cứ địa vững chắc của cách mạng cả nước, trở thành hậu phương lớn của tiền tuyến lớn miền Nam. Đó là "nhân tố quyết định nhất", trong khi phong trào cách mạng của nhân dân miền Nam Thành đồng Tổ quốc là “nhân tố quyết định trực tiếp" của sự nghiệp giải phóng miền Nam, thống nhất Tổ quốc.

Như chúng ta đã biết, sau chiến thắng Điện Biên Phủ, ta bước vào cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước với sức mạnh mới của một nửa nước được hoàn toàn giải phóng, xây dựng chế độ xã hội mới với sự giúp đỡ của các nước anh em cả về kinh tế và quốc phòng. Ta có một quân đội nhân dân được xây dựng theo phương hướng chính quy và hiện đại, gồm nhiều binh chủng và quân chủng, với một đội ngũ cán bộ dạn dày kinh nghiệm, đã được bồi dưỡng, đào tạo trưởng thành. Trong quá trình kháng chiến chống Mỹ, hàng triệu thanh niên lên đường vào Nam chiến đấu, trong đó hàng vạn "chiến sĩ Điện Biên Phủ" đã lập công xuất sắc. Hàng ngàn "chiến sĩ Điện Biên Phủ" đã tham gia cuộc Tổng tiến công và nổi dậy đại thắng mùa Xuân 1975 mà đỉnh cao là chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử, trong đó có ba trong bốn tư lệnh quân đoàn từng là trung đoàn trưởng chiến đấu ở Điện Biên Phủ.

Như vậy, chiến thắng Điện Biên Phủ đã tạo nên chỗ dựa vững chắc, tạo nên lực lượng, ý chí, niềm tin và kinh nghiệm để quân và dân ta tiến lên, đánh bại chiến tranh xâm lược của đế quốc Mỹ, đưa đất nước ta bước vào một kỷ nguyên mới: kỷ nguyên độc lập, thống nhất hoàn toàn, từng bước quá độ lên chủ nghĩa xã hội.

Dưới sự lãnh đạo của Đảng và Bác Hồ, qua 9 năm kháng chiến nhân dân ta đã làm nên trận đại thắng Điện Biên Phủ giải phóng nửa nước, tạo điều kiện để 21 năm kháng chiến tiếp theo, làm nên trận toàn thắng mùa Xuân năm 1975 giải phóng nửa nước còn lại, đưa giang sơn về một mối. Điều trùng lặp kỳ lạ là về thời gian, hai trận quyết chiến chiến lược ấy đều diễn ra trong 56 ngày đêm chiến đấu liên tục và chiến thắng vẻ vang. Cũng một điều trùng lặp nữa là khi tình thế thay đổi thì cả hai trận đã kịp thời thay đổi quyết sách. Trận trước dự định đánh trong 2 ngày 3 đêm đã chuyển sang đánh gần 2 tháng; trận sau dự định đánh trong 2 năm nhưng khi thời cơ đến đã tiến công thần tốc chỉ đánh trong gần 2 tháng.

Chiến dịch Điện Biên Phủ năm 1954 và cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân năm 1975, đỉnh cao là chiến dịch Hồ Chí Minh đã đi vào lịch sử chống ngoại xâm của dân tộc Việt Nam như Bạch Đằng, Chi Lăng, Đông Đa trong thời đại mới.

Ý nghĩa to lớn của chiến thắng vĩ đại Điện Biên Phủ đối với dân tộc ta là như vậy.

Trên phạm vi thế giới
, với chiến thắng Điện Biên Phủ, lần đầu tiên trong lịch sử nhân loại, một dân tộc vốn là thuộc địa nửa phong kiến, đất không rộng, người không đông, kinh tế còn lạc hậu, vũ khí kém cỏi, đã đánh thắng quân đội xâm lược của một cường quốc phương Tây có tiềm lực kinh tế và quân sự lớn, trang bị vũ khí hiện đại.

Trong lần đến thăm Việt Nam gần đây, Chủ tịch Phiđen Cátxtrô đã nói: “Tôi đã đọc lịch sử chiến tranh. Từ trước đến nay chưa từng có một cuộc chiến tranh nào mà một nước nhỏ, kinh tế lạc hậu như Việt Nam mà vẫn đánh thắng Pháp và Mỹ. Đó là vô song. Trên thế giới chưa từng có. Trong lịch sử chưa từng thấy".

"Chiến thắng Điện Biên Phủ đã làm cho các dân tộc thuộc địa ngửng cao đầu"2. Tiếng sấm Điện Biên Phủ chấn động địa cầu, vang tới những vùng xa xôi còn chìm đắm trong đêm dài nô lệ, thức tỉnh và tạo niềm tin cho các dân tộc bị áp bức vùng lên. Gần hai thập kỷ sau Điện Biên Phủ, hàng loạt nước thuộc địa ở châu Á, châu Phi, châu Mỹ Latinh đã lần lượt giành độc lập với hình thức và mức độ khác nhau. Phong trào đấu tranh vì hòa bình, độc lập, dân chủ và tiến bộ xã hội phát triển sâu rộng.

Với Điện Biên Phủ, Việt Nam trở thành nước đi tiên phong trong phong trào giải phóng dân tộc, đấu tranh đánh đổ chủ nghĩa thực dân cũ - một vết nhơ trong lịch sử nhân loại.

Chiến thắng Điện Biên Phủ đã góp phần làm thay đổi cục diện thế giới. Ý nghĩa quốc tế lớn lao của Điện Biên Phủ là như vậy
.
____________________________________________
1. Hồ Chí Minh Toàn tập, tập 11, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1994, tr. 261, 266.
2. Ôman Uxêđích, Trưởng đoàn đại biểu Quân đội Angiêri nói trong dịp sang thăm Việt Nam năm 1960.
Logged
Trang: « 1 2 3 4 5 6 7 8 »   Lên
  In  
 
Chuyển tới:  

Powered by MySQL Powered by PHP Powered by SMF 1.1.21 | SMF © 2006-2008, Simple Machines

Valid XHTML 1.0! Valid CSS! Dilber MC Theme by HarzeM