Lịch sử Quân sự Việt Nam
Tin tức: Lịch sử quân sự Việt Nam
 
*
Chào Khách. Bạn có thể đăng nhập hoặc đăng ký. 28 Tháng Ba, 2024, 07:49:15 pm


Đăng nhập với Tên truy nhập, Mật khẩu và thời gian tự động thoát


Trang: « 1 2 3 4 5 6 7 8 »   Xuống
  In  
Tác giả Chủ đề: Điện Biên Phủ - 50 năm nhìn lại  (Đọc 2423 lần)
0 Thành viên và 1 Khách đang xem chủ đề.
chuongxedap
Đại tá
*
Bài viết: 13138



« Trả lời #20 vào lúc: 20 Tháng Mười Hai, 2022, 07:23:14 am »


Đợt tấn công thứ nhất: tiêu diệt trung tâm đề kháng Him Lam và toàn bộ phân khu bắc.

Trung tâm đề kháng Him Lam là một trung tâm phòng ngự kiên cố nhất của địch. Vị trí này thuộc phân khu trung tâm, cách Mường Thanh 2,5 kilômét, có nhiệm vụ che chở cho phân khu trung tâm và án ngữ con đường từ Tuần Giáo đến Điện Biên, ngăn chặn hướng tấn công chính của quân ta vào ngoại vi Điện Biên Phủ. Him Lam do một tiểu đoàn lê dương tăng cường, thuộc bán lữ đoàn lê dương số 13 mà địch cho là một trong những đơn vị thiện chiến nhất của chúng chiếm giữ. Địch bố trí thành ba cứ điểm yểm hộ lẫn nhau, có trận địa phòng ngự vững chắc, có nhiều hỏa điểm lợi hại và cả một hệ thống công sự phụ bằng mìn và dây thép gai bố trí thành bãi, có nơi rộng đến 100 - 200 mét.

Đột xuất về phía đông bắc, trung tâm đề kháng Him Lam có liên quan mật thiết với phân khu bắc của tập đoàn cứ điểm. Phân khu này gồm trung tâm đề kháng đồi Độc Lập và trung tâm đề kháng Bản Kéo. Cả ba vị trí này hình thành một khu vực ngoại vi của địch đột xuất về phía bắc, đông bắc và tây bắc. Vị trí đồi Độc Lập nằm trên một quả đồi dài 700 mét, rộng 150 mét ở cách Mường Thanh 4 kilômét, do một tiểu đoàn Bắc Phi tăng cường chiếm giữ, có trận địa phòng ngự kiên cố, có hệ thống công sự phụ rất mạnh, được tăng cường hỏa lực cầu vồng. Vị trí đồi Độc Lập có nhiệm vụ án ngữ con đường và ngăn chặn các cuộc tấn công của quân ta từ phía bắc đánh xuống. Còn trung tâm đề kháng Bản Kéo thì nằm trên một quả đồi ở tây bắc sân bay, cách phân khu trung tâm 2 kilômét, do một tiểu đoàn ngụy người Thái chiếm đóng. Cả ba trung tâm đề kháng nói trên đều được hỏa lực trọng pháo 105 và 155 ly của địch ở Mường Thanh và Hồng Cúm yểm hộ, theo một kế hoạch hỏa lực rất dày đặc.

Nhiệm vụ của quân ta trong đợt một là tiêu diệt cả ba trung tâm đề kháng ngoại vi đột xuất hơn hết của địch, tiêu diệt một bộ phận sinh lực của chúng, thu hẹp phạm vi chiếm đóng của chúng, tạo điều kiện cho quân ta thắt chặt vòng vây và mở cuộc tấn công vào khu trung tâm. Đây là những trận đánh công kiên đầu tiên của quân ta đánh vào những trung tâm đề kháng của địch nằm trong một tập đoàn cứ điểm rất mạnh. Đây lại là những trận đầu tiên của chiến dịch Điện Biên Phủ. Nếu đối với toàn bộ chiến dịch, sự chỉ đạo phải nắm vững nguyên tắc cơ bản đánh chắc thắng, thì đối với những trận đầu của chiến dịch, nguyên tắc đó lại càng phải được bảo đảm. Chính để bảo đảm cho những trận đầu của chiến dịch nhất định phải là những trận thắng lợi, bộ đội ta đã dày công chuẩn bị và rèn luyện trong một thời gian dài, nắm vững nguyên tắc: phải đánh những trận có chuẩn bị, chỉ đánh những trận có chuẩn bị đầy đủ; trong đánh công kiên, công tác chuẩn bị lại càng phải mười phần đầy đủ; trong đánh công kiên có tính chất trận địa vào một vị trí mạnh của địch nằm trong một tập đoàn cứ điểm mạnh, công tác chuẩn bị chiến đấu về mọi mặt lại càng phải hết sức đầy đủ. Không có một sự chuẩn bị về mọi mặt hết sức cụ thể và đầy đủ thì không thể đánh công kiên thắng lợi được.

Đi vào sử dụng lực lượng, để bảo đảm trận đầu chắc thắng, chúng ta đã tập trung ưu thế binh lực, hỏa lực tuyệt đối so với lực lượng địch. Lực lượng của ta về bộ binh mạnh hơn địch gấp ba hoặc hơn gấp ba lần, về hỏa lực súng cối và pháo binh nhẹ, mạnh hơn địch gấp nhiều lần. Các đơn vị trọng pháo của ta có nhiệm vụ một mặt trực tiếp chi viện cho bộ binh, một mặt khống chế các căn cứ trọng pháo của địch.

17 giờ ngày 13 tháng 3 năm 1954, quân ta nổ súng tấn công trung tâm đề kháng Him Lam.

Theo kế hoạch dự định thì bắt đầu từ 16 giờ, pháo binh của ta mới hoạt động. Nhưng vào lúc 12 giờ trưa, một tình huống mới xuất hiện, địch phát hiện các trận địa xuất phát xung phong của ta lúc đó chỉ cách chúng khoảng 200 mét, chúng cho một đơn vị tiến ra đánh phá. Một đơn vị trọng pháo của ta được lệnh dùng hỏa lực tập kích vào Him Lam, đánh địch bảo vệ trận địa, đồng thời bắn vào sân bay và Mường Thanh để kiểm tra độ chính xác. Trận tập kích bằng hỏa lực này đã phá hủy được một số công sự, trong đó có sở chỉ huy của địch ở Him Lam và phá hủy một số máy bay trên sân bay. Tên quan tư chỉ huy vị trí Him Lam và tên quan năm chỉ huy phân khu trung tâm bị pháo binh ta bắn chết ngay từ phút đầu.

Đúng 17 giờ, cuộc tấn công vào trung tâm đề kháng Him Lam bắt đầu. Bộ binh và pháo binh phối hợp khá chặt chẽ. Sau một giờ chiến đấu, quân ta tiêu diệt hoàn toàn cứ điểm đầu tiên; sau hai giờ, ta tiêu diệt cứ điểm thứ hai. Cuộc chiến đấu ở cứ điểm thứ ba về phía tây bắc diễn ra gay go. Pháo binh của địch lúc đầu bị tê liệt, dần dần hoạt động trở lại khá mạnh. Đến 22 giờ 30 phút, quân ta tiêu diệt hoàn toàn trung tâm đề kháng Him Lam, tiêu diệt gần 300 địch, bắt sống hơn 200 tên. Chiến thắng Him Lam là chiến thắng đầu tiên của chiến dịch Điện Biên Phủ. Trận đánh tiêu diệt này có một tác dụng rất lớn đối với sự phát triển của chiến dịch.

Ngày hôm sau, 14 tháng 3 năm 1954, quân ta mở cuộc tấn công vào trung tâm đề kháng đồi Độc Lập.

17 giờ, trọng pháo của ta bắt đầu bắn vào khu chỉ huy của địch ở Mường Thanh, vào các trận địa pháo binh và sân bay của chúng, đồng thời bắn phá hủy các công sự của đồi Độc Lập. Cuộc chiến đấu bằng hỏa lực diễn ra ác liệt. Theo những tài liệu bắt được của địch sau này, để chi viện cho các vị trí Him Lam và đồi Độc Lập và phá hủy các trận địa pháo binh của ta, chỉ trong ba ngày, từ 13 đến 15 tháng 3 năm 1954, quân địch đã bắn tất cả trên ba vạn phát đạn pháo. Trong đêm 14 tháng 3 năm 1954, chúng lại huy động máy bay oanh tạc từ Hà Nội lên ném bom liên tiếp suốt đêm

Trận tấn công vào đồi Độc Lập, vì các đơn vị sơn pháo chuyển đến chậm (đêm đó trời mưa to), nên đến 2 giờ sáng ngày 15 tháng 3 năm 1954 mới bắt đầu. Cuộc chiến đấu kéo dài đến mờ sáng, đến 6 giờ 30 phút thì quân ta tiêu diệt hoàn toàn trung tâm đề kháng đồi Độc Lập.

6 giờ, địch cho một đơn vị bộ binh có xe tăng yểm hộ từ Mường Thanh tiến lên phản kích, nhưng bị pháo binh ta bắn thương vong một số, phải rút lui.
Logged
chuongxedap
Đại tá
*
Bài viết: 13138



« Trả lời #21 vào lúc: 20 Tháng Mười Hai, 2022, 07:23:42 am »


Trung tâm đề kháng thứ ba về phía tây bắc, tức là vị trí Bản Kéo trở nên cô lập, bị quân ta uy hiếp mạnh. Trong khi một đơn vị chủ lực của ta đang xúc tiến việc chuẩn bị để tiêu diệt vị trí Bản Kéo thì quân địch ở đây đã rất hoang mang. 15 giờ ngày 17 tháng 3 năm 1954, pháo binh của ta bắn 20 phát vào Bản Kéo. Mặc dầu bọn chỉ huy người Pháp ra sức khống chế lính ngụy, nhưng binh lính người Thái đã lợi dụng lúc bọn chỉ huy chui xuống hầm ẩn nấp, mang cả vũ khí kéo ra hàng. Địch cho xe tăng đuổi theo toán quân ngụy; pháo binh của ta đã bắn chặn để yểm hộ cho số hàng binh nói trên, buộc xe tăng của địch phải lùi lại.

Thế là hai trận đầu của chiến dịch là hai trận thắng lợi giòn giã. Trung tâm đề kháng Him Lam và toàn bộ phân khu bắc của địch đã bị tiêu diệt. Phòng tuyến ngoại vi của địch về phía đông bắc, phía bắc và tây bắc bị phá vỡ, quân địch ở phân khu trung tâm ở vào tình thế khó khăn hơn, bị hở sườn hẳn về các phía này.

Đây cũng là những trận công kiên có tính chất trận địa đầu tiên của quân ta, tiêu diệt những trung tâm đề kháng kiên cố của địch nằm trong một tập đoàn cứ điểm rất mạnh. Bộ đội ta đã tiến bộ một bước dài về cách đánh công kiên tương đối chính quy, có trọng pháo và pháo cao xạ phối hợp. Thắng lợi này rất quan trọng, vì nó mở đường cho thắng lợi của cả chiến dịch và đặt cơ sở cho nhiều thắng lợi lớn về sau.

Trong hai cuộc chiến đấu đợt đầu, các trận địa tấn công của ta tỏ ra có nhiều kết quả. Việc tổ chức phòng không, phòng pháo của quân ta được chu đáo, nên tác dụng của không quân và pháo binh địch đã bị hạn chế rất nhiều. Không những thế, pháo binh của ta đã hoạt động rất chính xác, hiệp đồng tốt với bộ binh, gây cho địch nhiều thiệt hại nặng, phá hủy một phần các căn cứ pháo binh của chúng, sân bay trung tâm bị uy hiếp, nhiều máy bay đậu ở trên sân bay bị trúng đạn. Các đơn vị pháo cao xạ của ta cũng bắt đầu hoạt động, bắn rơi nhiều máy bay địch, yểm hộ cho quân ta chiến đấu.

Về phía địch, chúng đã bị tổn thất nặng, bị tiêu diệt 2 tiểu đoàn tinh nhuệ, bị tan rã 1 tiểu đoàn, mất toàn bộ phân khu bắc và vị trí ngoại vi chủ chốt ở đông bắc. Làm cho chúng lo ngại nhất là các căn cứ hỏa lực khá mạnh của chúng không những bị phá hủy một phần mà đã tỏ ra ít tác dụng, không có khả năng dùng chiến thuật phản pháo để tiêu diệt các trận địa pháo binh của ta. Hơn nữa, sân bay trung tâm, mà điều kiện an toàn là hết sức cần thiết để không quân của chúng có thể chuyển viện binh và lương thực, đạn dược lên Điện Biên Phủ, thì nay đã bị hỏa lực pháo binh của ta uy hiếp.

Nhưng, thất bại lớn hơn hết của địch là chúng đã phán đoán sai. Chúng đã cho rằng quân ta chỉ có thể tiêu diệt được những cứ điểm độc lập trên dưới một tiểu đoàn, chứ không thể tiêu diệt được những trung tâm đề kháng gồm nhiều cứ điểm nằm trong một tập đoàn cứ điểm kiên cố như Điện Biên Phủ, nhất là khi những trung tâm đề kháng đó lại được những đơn vị hết sức thiện chiến của chúng chiếm giữ. Chúng coi thường pháo binh nhỏ yếu của ta, nhưng sau những trận giao chiến đầu tiên, chúng đã hết sức hoảng sợ trước uy lực mạnh mẽ của trọng pháo và pháo cao xạ của quân ta. Mấy hôm sau, tên quan năm chỉ huy trọng pháo của địch ở Mường Thanh đã tự sát.

Đứng về quan điểm chiến lược toàn chiến trường Đông Dương, thì địch đã phạm một sai lầm rất nghiêm trọng. Vì cho rằng chúng ta không dám và đã bỏ ý định đánh Điện Biên Phủ, cho nên ngày 12 tháng 3 năm 1954, tướng Nava đã dùng một lực lượng cơ động khá lớn tiếp tục thực hiện ý đồ tấn công chiến lược trên chiến trường miền Nam, đổ bộ đánh chiếm Quy Nhơn, phân tán thêm lực lượng ở đó. Cuộc hành binh chiến lược không đúng lúc này càng gây thêm cho địch nhiều khó khăn làm cho chúng càng thêm bị động.

Tuy nhiên, sau đợt tấn công thắng lợi đầu tiên của ta, sau những thất bại nặng nề của chúng, quân địch mặc dầu gặp nhiều khó khăn lúng túng, nhưng lực lượng của chúng còn rất mạnh và chúng đang ra sức đối phó. Ngày 14 và ngày 16 tháng 3 năm 1954, chúng đã tăng viện thêm hai tiểu đoàn quân dù từ Hà Nội lên. Chúng thả dù thêm nhiều bộ phận súng nặng và đạn dược. Chúng ra sức củng cố trận địa phòng ngự để đủ sức chịu đựng trọng pháo của ta. Chúng điều chỉnh bố trí, tăng cường việc bảo vệ sân bay, đưa lính Âu Phi ra một số cứ điểm ngoại vi thay thế cho quân ngụy. Địch còn tin ở sức mạnh của khu trung tâm, ở sức mạnh của pháo binh và không quân của chúng, cho rằng quân ta không thể nào công phá được. Chúng tăng cường hoạt động không quân bắn phá các trận địa và tuyến cung cấp của ta. Chúng còn mong quân ta bị tổn thất nặng không đủ sức để tiếp tục cuộc tấn công. Nhất là nếu chiến dịch kéo dài, tuyến cung cấp bị đánh phá dữ dội, thì ta không khỏi gặp khó khăn lớn về lương thực, đạn dược, do đó mà phải thu quân.
Logged
chuongxedap
Đại tá
*
Bài viết: 13138



« Trả lời #22 vào lúc: 20 Tháng Mười Hai, 2022, 07:24:59 am »


Đợt tấn công thứ hai: đánh chiếm các ngọn đồi phía đông, đánh chiếm sân bay, triệt đường tiếp tế và tiếp viện, thắt chặt vòng vây, từng bước thu hẹp phạm vi chiếm đóng và vùng trời của phân khu trung tâm.

Đợt thứ hai là đợt quan trọng nhất của chiến dịch, dài nhất và ác liệt nhất, bởi vì phân khu trung tâm là phân khu mạnh nhất, vị trí của phân khu lại nằm giữa cánh đồng Mường Thanh, có một hệ thống điểm cao rất lợi hại ở phía đông bảo vệ.

Sau thắng lợi của đợt một, chúng ta nhận định rằng, mặc dầu quân ta đã tiêu diệt một bộ phận sinh lực của địch, nhưng lực lượng của chúng vẫn còn rất mạnh, vì vậy phương châm tác chiến của chúng ta vẫn là đánh chắc tiến chắc.

Nhiệm vụ đề ra cho đợt tấn công thứ hai là đánh chiếm các điểm cao phòng ngự phía đông của phân khu trung tâm, nhanh chóng tiếp cận bao vây quân địch, thắt chặt trận địa tấn công và bao vây, khống chế đi đến đánh chiếm sân bay trung tâm, hạn chế đi đến triệt hẳn đường tiếp tế và tiếp viện của địch, tích cực tiêu diệt và tiêu hao sinh lực địch, thu hẹp phạm vi chiếm đóng và vùng trời của chúng, tạo điều kiện chuyển sang tổng công kích tiêu diệt toàn bộ quân địch.

Phân khu trung tâm gồm năm trung tâm đề kháng, cộng tất cả trên ba mươi cứ điểm do bảy tiểu đoàn Âu Phi và một tiểu đoàn ngụy phòng giữ, trong đó có một số tiểu đoàn dù cơ động. Ở đây có bộ chỉ huy chung của tập đoàn cứ điểm, các căn cứ hỏa lực chính, các đơn vị xe tăng, các căn cứ hậu cần và sân bay trung tâm của Điện Biên Phủ. Toàn bộ phân khu nằm ở giữa cánh đồng Điện Biên Phủ. Từ phân khu đi đến các triền núi xung quanh, địa hình đều bằng phẳng, trên những khoảng cách từ ba đến năm kilômét hay nhiều hơn nữa. Muốn thực hiện nhiệm vụ tấn công các điểm cao phía đông và đồng thời thắt chặt vòng vây, thì về chiến thuật, một vấn đề cực kỳ quan trọng cần được giải quyết là vấn đề tiếp cận tập đoàn cứ điểm của địch, trên một địa hình bằng phẳng và tiến hành chiến đấu liên tục cả đêm lẫn ngày trong điều kiện pháo binh, cơ giới và không quân của địch hoạt động mạnh.

Từ khi bộ đội chủ lực của ta bắt đầu đánh công kiên thì vấn đề làm thế nào để tiếp cận quân địch luôn luôn được đặt ra. Ngay trong cả các chiến dịch lớn trước đây, chúng ta đã giải quyết vấn đề đó bằng cách lợi dụng địa hình rừng núi và lợi dụng đêm tối để tiếp cận địch một cách bí mật. Về sau, khi bộ đội ta đã tiến lên đánh những cứ điểm tương đối lớn thì quân ta đã bắt đầu làm ít nhiều công sự để giảm bớt tác dụng của hỏa lực địch, nhưng những công sự ấy còn hết sức sơ sài. Cho nên, có thể nói rằng tất cả các cuộc chiến đấu công kiên của ta trước đây, trừ một số trường hợp đặc biệt, đều được tiến hành ban đêm: xuất kích ban đêm, chiến đấu ban đêm, rút quân ban đêm. Do thời gian bị hạn chế như vậy, cho nên khả năng tiêu diệt địch của quân ta trong đánh công kiên cũng bị hạn chế. Tại Điện Biên Phủ, vấn đề chiến thuật quan trọng đó lại được đặt ra một cách cấp thiết, với một yêu cầu rất cao. Chúng ta đã giải quyết vấn đề đó bằng chủ trương xây dựng trận địa tấn công và bao vây và cũng vì vậy nhiệm vụ xây dựng trận địa tấn công và bao vây được coi là nhiệm vụ trung tâm trong công việc chuẩn bị cho đợt tấn công thứ hai.

Hệ thống trận địa tấn công và bao vây bao gồm những đường hào giao thông trục chạy xung quanh phân khu Mường Thanh, cắt đứt phân khu trung tâm và phân khu nam chiến đấu tỏa ra từ các triền núi xung quanh tiến sát trận địa của địch, nhiều tuyến hào giao thông ngang để tăng cường khả năng liên lạc; ở những vị trí nhất định lại phải xây dựng các công sự cho hỏa lực, xây dựng hầm đạn, hầm ngủ, hầm cứu thương, v.v.

Trong khoảng mươi ngày, bộ đội ta đã đào thêm trên 100 kilômét hào giao thông, hào chiến đấu, xây đắp vô số công sự đủ các kiểu. Quá trình phát triển trận địa tấn công và bao vây là cả một quá trình chiến đấu gay go giữa ta và địch. Quân địch đã tìm mọi cách để phá hoại hào giao thông, phá hoại trận địa của ta, nhưng, dưới bom đạn của máy bay và pháo binh địch, qua nhiều trận chiến đấu lớn nhỏ xảy ra liên tiếp, quân ta ngày càng tiến sát gần địch với một sức mạnh không gì ngăn cản được. Xây dựng trận địa tấn công và bao vây là một công trình lao động và chiến đấu to lớn của quân ta, tỏ rõ tinh thần chiến đấu anh dũng, lao động cần cù, khắc phục mọi khó khăn, vượt qua mọi gian khổ của một quân đội cách mạng. Thành công của trận địa tấn công và bao vây là đã giải quyết cho quân ta vấn đề tiếp cận quân địch trên địa hình bằng phẳng, vận chuyển lực lượng, giữ vững trận địa, tiến hành chiến đấu liên tục không quản ngày đêm, hạn chế đến mức cao tác dụng của pháo binh và không quân địch. Đến cuối tháng 3 năm 1954, trận địa tấn công và bao vây căn bản đã hoàn thành, các trận địa xuất phát xung phong để tiến đánh các ngọn đồi phía đông cũng đã được chuẩn bị.

Đêm ngày 30 tháng 3 năm 1954, đợt thứ hai của chiến dịch Điện Biên Phủ bắt đầu với cuộc tấn công của quân ta vào năm điểm cao phòng ngự phía đông của phân khu trung tâm. Dãy điểm cao này là then chốt phòng ngự của địch, mất các điểm cao đó thì Điện Biên Phủ không thể giữ được, nhiều tuyến hào giao thông có công sự. Vì vậy mà cuộc chiến đấu trên các ngọn đồi phía đông diễn ra hết sức ác liệt.
Logged
chuongxedap
Đại tá
*
Bài viết: 13138



« Trả lời #23 vào lúc: 20 Tháng Mười Hai, 2022, 07:25:54 am »


17 giờ ngày 30 tháng 3 năm 1954, cuộc tấn công vào các ngọn đồi phía đông của địch bắt đầu. Đây là một cuộc chiến đấu lớn, vì mục đích của nó không phải chỉ nhằm tiêu diệt một tiểu đoàn của địch mà nhằm tiêu diệt luôn mấy tiểu đoàn của địch; lại là một cuộc chiến đấu phức tạp vì nó bao gồm cả một loạt trận công kiên, tiêu diệt nhiều vị trí của địch. Cuộc chiến đấu diễn ra lúc đầu khá thuận lợi. Chỉ sau 45 phút là quân ta tiêu diệt gọn quân địch và đánh chiếm đồi C1 ở cạnh đồi A1. Sau 1 giờ 30 phút, quân ta tiêu diệt một bộ phận tiểu đoàn dù ngụy, tiếp đó đánh chiếm đồi E là điểm cao ở về phía bắc. Sau 2 giờ, quân ta lại tiêu diệt toàn bộ một tiểu đoàn địch và đánh chiếm đồi D là điểm cao thứ hai từ phía bắc trở xuống và cũng là điểm cao quan trọng hơn hết về phía này. Tiếp đó quân ta đánh chiếm luôn đồi D2. Gần sáng quân địch cho một lực lượng phản kích về phía các ngọn đồi này, trong ngày hôm sau lại tổ chức phản kích lần thứ hai; các cuộc phản kích đó đều bị quân ta đánh lui.

Đặc biệt trên đồi A1, tức là điểm cao quan trọng nhất trong năm ngọn đồi, cũng là điểm cao cuối cùng che chở cho phân khu trung tâm, cuộc chiến đấu diễn ra hết sức gay go, từ đêm 30 tháng 3 cho đến ngày 4 tháng 4 năm 1954. Trong đêm đầu, quân ta đánh chiếm hai phần ba vị trí. Đến tảng sáng và suốt ngày hôm sau, địch tăng cường lực lượng, có pháo binh và xe tăng yểm hộ đánh chiếm lại hai phần ba vị trí. Đêm 31 tháng 3, quân ta tấn công lần thứ hai; cuộc chiến đấu kéo dài đến sáng ngày 1 tháng 4, kết quả, ta chiếm lại hai phần ba vị trí; nhưng tiếp đó địch lại phản kích nhiều lần chiếm lại một phần trận địa đã mất. Sang đêm 1 tháng 4, ta tổ chức cuộc tấn công lần thứ ba; cuộc chiến đấu giằng co, quyết liệt; cho đến ngày 4 tháng 4, ta và địch giành nhau từng tấc đất một; địch đã lợi dụng những hầm ngầm và trận địa kiên cố để chống lại quân ta; cuối cùng mỗi bên giữ một nửa điểm cao.

Trong khi quân ta chưa giải quyết được điểm cao cuối cùng, thì quân địch được tăng viện bằng một lực lượng nhảy dù xuống; sáng ngày 9 tháng 4 năm 1954, chúng tổ chức cuộc phản kích đánh chiếm lại đồi C1; cuộc chiến đấu ở đây lại tiếp diễn trong bốn ngày đêm, kết quả đồi C1 cũng chia đôi, ta chiếm một nửa, địch chiếm một nửa.

Thế là cuộc tấn công của quân ta vào các ngọn đồi phía đồng phân khu trung tâm đã thu được thắng lợi quan trọng, nhưng chưa hoàn thành được tất cả những mục đích đã đề ra. Tính từ lúc chiến dịch bắt đầu, chúng ta đã tiêu diệt được 5.000 sinh lực tinh nhuệ của địch, nghĩa là một lực lượng tương đương với 6 tiểu đoàn trong đó có 3 tiểu đoàn bị tiêu diệt gọn. Số địch bị tiêu diệt chiếm gần hai phần năm tổng số. Lực lượng còn lại của địch còn khá mạnh, trên một vạn quân, về sau còn được tăng viện thêm một số tiểu đoàn; nhưng tinh thần chiến đấu thì bị giảm sút. Về địa hình có lợi, thì chúng ta đã khống chế các điểm cao ở phía bắc, khống chế phần lớn các điểm cao quan trọng ở phía đông phân khu trung tâm; trận địa tấn công và bao vây của ta đã tiến tới gần sân bay, vòng vây đã thắt chặt thêm, tiếp tế và tiếp viện của địch bị hạn chế, liên lạc giữa phân khu trung tâm và phân khu nam bị cắt đứt. Phạm vi đóng quân của địch bị thu hẹp, vùng trời của chúng cũng bị thu hẹp rất nhiều.

Chúng ta chủ trương tiếp tục hoàn thành nhiệm vụ đề ra cho đợt tấn công thứ hai tức là tiếp tục củng cố và phát triển vào gần địch hơn nữa trận địa tấn công và bao vây, cải tạo địa hình, đánh chiếm một số vị trí quan trọng nhằm từng bước thắt chặt vòng vây hơn nữa, đánh chiếm sân bay đạt đến mục đích triệt hẳn tiếp tế và tiếp viện của địch, uy hiếp mạnh hơn nữa tung thâm của chúng.

Thực hiện chủ trương nói trên, trận địa ta ngày càng tiến sát gần địch, có nơi chỉ cách địch 10-15 mét. Các ngọn đồi đã chiếm được ở phía đông, nhất là đồi D1, đã được biến thành cứ điểm phòng ngự mạnh của ta, có trận địa hỏa lực cho sơn pháo và súng cối, với những công sự rất kiên cố. Hỏa lực các cỡ của ta luôn luôn uy hiếp quân địch. Cuộc chiến đấu diễn ra liên tiếp không kể ngày đêm.

Quân ta lợi dụng các hào chiến đấu đã đào sát đến vị trí của địch, áp dụng chiến thuật đánh lấn dần. Đêm 1 tháng 4 năm 1954, cứ điểm 106 bảo vệ sân bay về phía tây bị quân ta đột nhập bất thần, địch không kịp trở tay bị ta tiêu diệt gọn. Đêm 2 tháng 4, cứ điểm 311 nằm về phía tây bị quân ta uy hiếp; một bộ phận ra hàng, một bộ phận rút chạy. Đêm 18 tháng 4, quân ta tiêu diệt vị trí 105 bảo vệ phía bắc sân bay; tiếp đó, đêm 22 tháng 4, bộ đội ta đang làm công sự chuẩn bị tấn công, đã nắm vững thời cơ có lợi, đột nhập tiêu diệt quân địch, đánh chiếm vị trí 206 bảo vệ phía tây sân bay. Sân bay trung tâm của địch đã bị hoàn toàn bộc lộ. Trận địa của ta từ phía tây, phía đông và phía bắc tiến vào sân bay, liên lạc với nhau, cắt ngang sân bay; sân bay trung tâm của địch đã bị quân ta đánh chiếm. Vòng vây của quân ta càng thắt chặt hơn nữa; cuộc chiến đấu càng trở nên gay go. Quân địch liên tiếp tổ chức nhiều cuộc phản kích dữ dội, có cơ giới và không quân yểm hộ, nhằm đánh lùi trận địa của ta. Cuộc phản kích quyết liệt nhất đã xảy ra trong ngày 24 tháng 4, với mục đích đánh lùi quân ta ra khỏi sân bay. Kết quả là địch đã bị tiêu diệt một bộ phận, trận địa của ta vẫn được giữ vững, sân bay vẫn bị quân ta kiểm soát.

Phạm vi đóng quân của địch càng bị thu hẹp, dần dần mỗi chiều chỉ còn có 2 kilômét. Khu trung tâm của địch đã nằm vào trong tầm bắn của tất cả các cỡ súng của ta. Các trận địa pháo cao xạ của ta cũng được chuyển vào cánh đồng. Vùng trời bị thu nhỏ của chúng không còn an toàn nữa. Lúc này, tiêu diệt được thêm một, hai tên địch, giành thêm một, hai tấc đất cũng có ý nghĩa quan trọng. Quân ta một mặt đã tấn công tiêu diệt từng cứ điểm của địch, đánh lui những cuộc phản kích của chúng, mặt khác, đẩy mạnh cuộc thi đua bắn tỉa quân địch. Các chiến sĩ thiện xạ bắn súng trường, bắn súng máy, bắn súng cối, các chiến sĩ pháo binh ra sức bắn tỉa quân địch, làm cho địch ngày càng bị tiêu hao, thương vong chồng chất, tinh thần sút kém, luôn luôn lo sợ và căng thẳng, không dám đi lại, hễ lộ ra khỏi trận địa tên nào là bị quân ta bắn chết. Các đội dũng sĩ của ta đột nhập sâu vào trong lòng địch, đánh phá kho tàng, tiêu hao sinh lực của chúng.
Logged
chuongxedap
Đại tá
*
Bài viết: 13138



« Trả lời #24 vào lúc: 20 Tháng Mười Hai, 2022, 07:27:00 am »


Vấn đề tiếp viện và tiếp tế của địch đã trở nên hết sức khó khăn. Từ lâu, sân bay đã không còn sử dụng được. Nhất là từ khi quân ta đã cắt ngang và kiểm soát sân bay thì địch chỉ còn một cách là thả dù quân tiếp viện và thả dù lương thực, đạn dược tiếp tế. Nhưng vì khu vực của địch quá hẹp, máy bay lại sợ pháo cao xạ của ta không dám xuống thấp nên chỉ một phần dù tiếp tế rơi đúng vào vị trí của chúng, một phần ngày càng lớn rơi vào trận địa của ta. Quân ta đã tích cực dùng hỏa lực bắn phá không cho địch ra nhặt dù để triệt nguồn tiếp tế của chúng, mặt khác tranh đoạt tiếp tế với địch, lấy lương thực, đạn dược của địch bổ sung một phần cho ta. Chúng ta đã từng sử dụng khá nhiều đạn đại bác do địch thả xuống để bắn lại chúng. Sau các trận giao chiến trên các ngọn đồi phía đông, địch đã cho nhảy dù tăng viện hai tiểu đoàn; về sau lại cho nhảy dù từng đợt những toán lính mà chúng gọi là tình nguyện đi cứu viện cho Điện Biên Phủ, tổng cộng khoảng bảy, tám trăm tên; bọn này một số bị rơi vào trận địa của ta và bị quân ta bắt làm tù binh ngay từ khi mới nhảy xuống.

Tình hình trong suốt đợt hai luôn luôn khẩn trương. Bọn can thiệp Mỹ đã tăng viện nhiều máy bay oanh tạc và vận tải để giúp quân Pháp cố thủ Điện Biên Phủ. Quân địch đã dùng vào mặt trận Điện Biên Phủ hai phần ba số máy bay chiến đấu và hai phần ba số máy bay vận tải của chúng ở Đông Dương, không kể những phi đội máy bay C.119 của Mỹ. Chúng hy vọng với một kế hoạch ném bom dữ dội và liên tục, với những loại bom hạng nặng, tập trung vào từng khu vực chúng có thể cứu nguy cho tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ. Máy bay oanh tạc của địch hoạt động ráo riết, bắn phá không ngớt những mục tiêu chúng cho là trận địa của quân ta, trút bom napan đốt cháy núi đồi xung quanh Điện Biên Phủ, dùng bom hạng nặng trút xuống các vị trí mà chúng cho là trận địa pháo binh của ta. Chỉ trong một ngày 2 tháng 4 năm 1954, chúng đã dùng đến gần 250 chuyến máy bay oanh tạc và khu trục. Sự cố gắng tột bậc và tuyệt vọng của địch đã không thu được kết quả như chúng mong muốn. Trong khi đó, trận địa quân ta vẫn thắt chặt vòng vây thêm mãi; các đơn vị pháo cao xạ trẻ tuổi của ta hoạt động tích cực và thu được nhiều kết quả, gây cho không quân địch nhiều tổn thất đáng kể.

Bước vào tháng 4 năm 1954, bọn tướng tá Pháp - Mỹ đã thấy nguy cơ tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ có thể bị quân ta tiêu diệt. Thượng tuần tháng 4, chính phủ Pháp chính thức yêu cầu Mỹ phái sang những đội máy bay chiến đấu và máy bay oanh tạc hạng nặng, xuất phát từ Philippin hoặc từ các tàu chở máy bay của hạm đội 7 của hải quân Mỹ để chi viện cho Điện Biên Phủ. Nhưng ngay nội bộ chính giới Mỹ cũng không nhất trí; giữa bọn đế quốc có mâu thuẫn gay gắt; vả lại, chúng không tin rằng một hành động như vậy có thể cứu vãn được quân đội viễn chinh Pháp mà chắc chắn sẽ bị dư luận trong nước và ngoài nước kịch liệt lên án, lại có thể làm cho tình hình Đông Dương trở nên phức tạp, gây nên những hậu quả khó lường được, rốt cuộc kế hoạch này không được thi hành.

Trung tuần tháng 4, chúng đã từng tính đến một cuộc hành binh giải vây từ lưu vực sông Nậm Hu tiến về hướng Điện Biên Phủ. Kế hoạch này vì thiếu quân nên phải hoãn đi hoãn lại nhiều lần, cuối cùng cũng không thực hiện được.

Chúng lại một lần nữa dự định mở cuộc hành binh đánh sâu vào hậu phương của ta, dự định đánh vào Tuyên Quang, Yên Bái; hạ tuần tháng 4, chúng lại dự định đánh lên Đoan Hùng. Nhưng quân thiếu, lực lượng không quân không đủ, lại sợ không đảm bảo được thắng lợi mà có thể bị thất bại đau đớn; rốt cuộc dự định này cũng không được thực hiện.

Vào hạ tuần tháng 4, chúng đã mất dần hy vọng có thể cố thủ Điện Biên Phủ. Chúng cũng dần dần nhận thấy rằng hoạt động không quân của chúng không thể "nghiền nát" quân ta được, không thể nới rộng vòng vây của ta, cũng không thể cắt đứt đường vận chuyển tiếp tế của ta. Lực lượng cơ động của chúng ở Điện Biên Phủ chỉ còn 5 đại đội, phạm vi chiếm đóng của chúng mỗi chiều chỉ còn 1,7 kilômét đến 1,3 kilômét. Tình hình quân địch đã trở nên trầm trọng.

Về phía ta, suốt đợt hai, trong khi quân ta chiến đấu liên tục tại mặt trận Điện Biên Phủ thì trên các tuyến cung cấp từ hậu phương đi đến mặt trận, cuộc chiến đấu với địch cũng diễn ra cực kỳ gay go, gian khổ. Chúng ta đã nói ở trên, nhu cầu lớn lao của chiến dịch về mặt tiếp tế chi viện: lực lượng tham chiến lên đến mấy vạn quân, lực lượng dân công vận tải lên đến mấy chục vạn, các tuyến cung cấp dài từ 300 đến 500 kilômét, thời gian kéo dài trên sáu tháng. So với chiến dịch Biên Giới, chỉ nói khối lương thực cần thiết, cũng đã tăng lên gấp mười lần. Chỉ lấy phạm vi hậu cần của chiến dịch, nghĩa là từ Sơn La trở lên, khối lượng vận chuyển trong chiến dịch cũng đã lên đến trên 4,5 triệu tấn kilômét. Trong khi đó phương tiện vận chuyển chỉ một phần dựa vào cơ giới, còn lại thì phải dựa vào phương tiện thô sơ, dựa vào sức người.

Trong thời gian chuẩn bị, địch đã ra sức bắn phá các tuyến cung cấp của ta. Nhưng, không quân của chúng bắn phá dữ dội hơn cả là trong thời gian tháng 4, nghĩa là trong khi tình hình Điện Biên Phủ bị lâm nguy, việc trực tiếp chi viện cho Điện Biên Phủ ngày càng gặp trở ngại to lớn, chúng đã coi việc phá hoại các tuyến cung cấp của ta là một trong những phương sách chủ yếu để cứu vãn tình thế. Các con đường vận chuyển của ta lại là những đường độc đạo, có nhiều quãng hết sức hiểm trở, đã hẹp lại xấu. Quân địch đã tập trung máy bay ném bom tạ, thả bom chờ nổ và bom bươm bướm, hoạt động không kể ngày đêm, tập trung ném bom và bắn phá một số điểm hiểm yếu nhất, như đèo Khế, đèo Hút Gió, đèo Lũng Lô, đèo Pha Đin, v.v. có nơi chúng trút hàng trăm tấn bom trong một ngày. Đó là chưa nói đến những khó khăn rất lớn do mưa, lũ gây nên. Do những khó khăn trở ngại nói trên, dự trữ của ta ở trước mặt trận đã có lúc bị giảm xuống khá nhiều dưới mức quy định.

Để khắc phục mọi khó khăn trở ngại, bảo đảm cung cấp tiếp tế cho tiền tuyến, Trung ương và Chính phủ đã kêu gọi toàn Đảng và toàn dân cố gắng đến cùng, nhất định bảo đảm vận chuyển ra mặt trận đủ lương thực, đủ đạn dược để cho quân ta tiếp tục chiến đấu. Chúng ta có lúc đã tăng cường hàng trăm cán bộ trung cao cấp vào các tuyến cung cấp; một bộ phận quan trọng cán bộ chính trị ở mặt trận cũng tham gia vào công tác hậu cần. Nhờ sự cố gắng lớn lao của nhân dân hậu phương, trong đó có nhân dân Tây Bắc, nhờ tinh thần chiến đấu anh dũng và vượt gian khổ rất cao của anh chị em dân công, nhất là ở ngoài hỏa tuyến, chúng ta đã phá được âm mưu thâm độc của địch hòng làm thất bại công cuộc chi viện tiền tuyến của ta. Chúng ta đã hoàn thành nhiệm vụ chi viện cung cấp trên một quy mô lớn cho chiến dịch lịch sử này. Chúng ta đã chuẩn bị đầy đủ nếu cần thì có thể tiếp tục chiến đấu trong suốt tháng 5 hoặc lâu hơn nữa.

Đặc điểm của đợt tấn công thứ hai là lúc đầu thì diễn ra sau những chiến thắng giòn giã của đợt tấn công thứ nhất, cho nên để bảo đảm chắc thắng, về mặt lãnh đạo tư tưởng, chúng ta đã chú trọng khắc phục những hiện tượng chủ quan, khinh địch, dễ đưa đến nắm tình hình địch không cụ thể, làm trận địa không đúng tiêu chuẩn, không đi sâu nắm vững và kiểm tra lực lượng chiến đấu cũng như kế hoạch tác chiến. Nhưng, đặc điểm quan trọng nhất của đợt tấn công thứ hai là tính chất gay go ác liệt của các cuộc chiến đấu, đòi hỏi một tinh thần chiến đấu anh dũng rất cao; là thời gian rất dài, bộ đội phải chiến đấu liên tục, bị tiêu hao mỏi mệt, tinh thần căng thẳng; là điều kiện chiến đấu không những gay go mà lại hết sức gian khổ, sau mấy tháng chuẩn bị thường phải ẩn nấp dưới công sự, nay lại phải chiến đấu và sinh hoạt ở trong hào giao thông và hầm trận địa trong một thời gian dài. Đó là chưa nói đến những khó khăn mới do thời tiết đưa lại; mỗi một lần mưa to thì trận địa có nơi bị lở hoặc bị ngập nước. Tình hình cung cấp có lúc lại không được đầy đủ. Các cuộc chiến đấu đã diễn ra liên tiếp trong quá trình phát triển và thắt chặt trận địa tấn công và bao vây, cho nên lực lượng của ta không khỏi bị tiêu hao, đòi hỏi phải kịp thời bổ sung và chấn chỉnh để bảo đảm chiến đấu liên tục.
Logged
chuongxedap
Đại tá
*
Bài viết: 13138



« Trả lời #25 vào lúc: 20 Tháng Mười Hai, 2022, 07:27:34 am »


Trong tình hình nói trên, công tác chính trị đã đóng một vai trò cực kỳ quan trọng, tiếp tục giáo dục thật sâu rộng ý nghĩa to lớn của chiến dịch, tiếp tục quán triệt quyết tâm của Trung ương là tiêu diệt toàn bộ quân địch ở Điện Biên Phủ, lấy mỗi một thắng lợi của quân ta, mỗi một thất bại của địch mà động viên cán bộ và chiến sĩ, lấy gương chiến đấu hy sinh của bao nhiêu anh hùng, chiến sĩ để phát huy chủ nghĩa anh hùng cách mạng của bộ đội, giữ vững và nêu cao tinh thần quyết chiến quyết thắng. Công tác chính trị đã đi sâu giáo dục và kiểm tra việc thực hiện các nhiệm vụ cụ thể như kỷ luật trận địa, việc tổ chức sinh hoạt trong trận địa; việc bảo đảm cho cán bộ, chiến sĩ ăn nóng, ngủ đủ; việc xây dựng trận địa cho đúng yêu cầu, chuyển quân ban ngày không bị lộ, bảo đảm được khô ráo, không bị ngập nước; việc giữ gìn kỷ luật vệ sinh phòng bệnh. Công tác chính trị còn phải chăm lo giữ vững lực lượng chiến đấu, bổ sung quân số, đề bạt cán bộ. Công tác phát triển đảng, luôn luôn kiện toàn chi bộ đã được hết sức coi trọng. Việc chấp hành kỷ luật nghiêm minh, thưởng, phạt kịp thời và đúng đắn cũng là một công tác quan trọng để nâng cao tinh thần chiến đấu của bộ đội.

Đợt hai càng kéo dài, quân ta càng thu được nhiều thắng lợi, ưu thế binh lực hỏa lực của ta ngày càng tăng thêm. Qua thực tiễn của các cuộc chiến đấu, chủ trương tác chiến rõ ràng là chính xác, các vấn đề chiến thuật đề ra đều được giải quyết rất cụ thể. Trong lúc đó quân địch bị thất bại ngày càng nặng và đang gặp những khó khăn chồng chất về binh lực, về tiếp viện và tiếp tế cũng như về tinh thần.

Tuy nhiên, cũng chính vào lúc đó, trong cán bộ và chiến sĩ ta, xuất hiện tư tưởng hữu khuynh tiêu cực, biểu lộ dưới hai hình thức: một là ngại thương vong, ngại tiêu hao, mệt mỏi, ngại khó, ngại khổ; hai là chủ quan khinh địch, chủ quan tự mãn. Bộ Chính trị theo dõi rất sát tình hình quân ta trước mặt trận đã nhận định rằng: những thắng lợi to lớn vừa qua đã tạo những điều kiện căn bản cho quân ta hoàn thành nhiệm vụ tiêu diệt toàn bộ quân địch ở Điện Biên Phủ; nhưng, vì cán bộ ta còn có khuyết điểm, chủ yếu là vì "tư tưởng hữu khuynh còn nghiêm trọng, cho nên đã hạn chế thắng lợi của ta một phần". Bộ Chính trị ra chỉ thị: "Các cấp ủy, các đảng viên và toàn thể các cán bộ phải ra sức khắc phục tư tưởng hữu khuynh, củng cố và đề cao quyết tâm, đề cao tinh thần trách nhiệm trước nhân dân, quân đội và Đảng, kiên quyết sửa chữa những khuyết điểm vừa qua, tiếp tục thấu triệt phương châm đánh chắc tiến chắc đồng thời phải ra sức tranh thủ thời gian, triệt để chấp hành mệnh lệnh, vượt qua mọi khó khăn gian khổ, hoàn thành nhiệm vụ giành toàn thắng cho chiến dịch".

Trong cuộc hội nghị đại biểu đảng ủy các đại đoàn và các cơ quan, chúng ta đã triển khai một cuộc đấu tranh tư tưởng nghiêm túc và sâu sắc. Hội nghị đã nhận định tình hình địch, ta một cách khách quan, nêu rõ thắng lợi của ta, thất bại của địch, nêu rõ những điều kiện dần dần chín muồi để tiêu diệt toàn bộ quân địch, đề ra yêu cầu phải quán triệt phương châm đánh chắc tiến chắc, đồng thời phải tích cực tranh thủ thời gian, đưa chiến dịch đến toàn thắng, trước mùa mưa đã gần tới.

Chúng ta đã tiến hành phê phán không nhân nhượng những biểu hiện của tư tưởng hữu khuynh tiêu cực, đã nêu rõ:

"Tư tưởng của Đảng ta, của quân đội ta là tư tưởng tích cực cách mạng của giai cấp vô sản, là tinh thần đấu tranh bất khuất, đấu tranh đến cùng chống kẻ thù, tinh thần đấu tranh không nhân nhượng, không thỏa hiệp của giai cấp vô sản. Tư tưởng đó là tinh thần triệt để cách mạng, lúc thắng lợi không say mê, lúc khó khăn không chùn bước, bất kỳ trong hoàn cảnh nào cũng kiên trì đấu tranh đến thắng lợi cuối cùng. Trong quân đội, tư tưởng đó của Đảng là tinh thần anh dũng chiến đấu, tích cực diệt địch, triệt để chấp hành mệnh lệnh, đó là tinh thần kiên quyết vượt qua mọi khó khăn, gian khổ, không sợ gian lao nguy hiểm, không sợ mỏi mệt thương vong, không sợ hy sinh tính mệnh. Đó là tinh thần liên tục chiến đấu, lúc thắng lợi thì không chủ quan tự mãn, lúc thất bại thì không hoang mang dao động, bất kỳ trong trường hợp nào cũng bình tĩnh, khẩn trương, kiên trì chiến đấu".

Sau cuộc hội nghị nói trên, một cuộc giáo dục và đấu tranh tư tưởng được triển khai sâu rộng từ các cấp ủy cho đến chi bộ, từ cán bộ cho đến chiến sĩ, trong tất cả các đơn vị tham chiến. Công tác giáo dục và đấu tranh đó là một thành công rất lớn của công tác chính trị trên mặt trận Điện Biên Phủ, là một trong những thành công lớn nhất của công tác chính trị trong lịch sử chiến đấu của quân đội ta. Nó đã đưa lại kết quả to lớn là những biểu hiện của tư tưởng sai lầm đã được khắc phục. Toàn thể đảng viên, cán bộ và chiến sĩ đều củng cố lòng tin tưởng vững chắc ở thắng lợi cuối cùng của chiến dịch, củng cố quyết tâm sắt đá, hoàn thành cho kỳ được nhiệm vụ tiêu diệt toàn bộ quân địch. Tinh thần quyết chiến quyết thắng của quân ta được nâng cao. Với một khí thế mạnh mẽ, tất cả các đơn vị đều cố gắng tiến lên, tích cực chuẩn bị cho đợt tấn công sắp tới, ra sức tạo mọi điều kiện để chuyển sang tổng công kích.
Logged
chuongxedap
Đại tá
*
Bài viết: 13138



« Trả lời #26 vào lúc: 20 Tháng Mười Hai, 2022, 07:28:28 am »


Đợt tấn công thứ ba: đánh chiếm điểm cao cuối cùng ở phía đông, tiêu diệt một số cứ điểm khác của địch, thu hẹp hơn nữa phạm vi đóng quân và vùng trời của chúng, uy hiếp mạnh tung thâm của chúng, nắm vững thời cơ tiến hành tổng công kích, tiêu diệt toàn bộ quân địch.

Vào hạ tuần tháng 4 năm 1954, tình hình quân địch đã trở nên hết sức nguy khốn. Tuy nhiên ở phía đông chúng vẫn còn giữ hai phần ba ngọn đồi A1 và một nửa ngọn đồi C1. Vùng trời của chúng đã bị thu hẹp rất nhiều, nhưng chúng vẫn còn thu được một phần dù tiếp tế do máy bay vận tải của chúng thả xuống.

Nhiệm vụ đề ra cho đợt hoạt động mới của quân ta là đánh chiếm các điểm cao địch còn giữ một phần ở phía đông, tiêu diệt một số vị trí ở phía tây, tiêu diệt thêm một bộ phận sinh lực của địch, phát triển sâu hơn nữa trận địa tấn công và bao vây, phát huy tất cả các thứ hỏa lực bắn phá tung thâm của địch, uy hiếp vùng trời còn lại của chúng, chuẩn bị chuyển sang tổng công kích.

Đợt tấn công lần thứ ba bắt đầu trong điều kiện tình hình quân địch đã trở nên trầm trọng; về phía ta, thì tinh thần chiến đấu của bộ đội rất cao, các khó khăn về cung cấp vừa được khắc phục, do đó những trận chiến đấu của đợt này là những trận chiến đấu giòn giã nhất. Phần lớn các đơn vị đều nổ súng đúng thời gian đã định, triệt để chấp hành mệnh lệnh, chiến đấu cực kỳ anh dũng, hoàn thành tất cả những nhiệm vụ được trên giao cho.

Đêm ngày 1 tháng 5, đợt tấn công thứ ba bắt đầu. Quân ta nhanh chóng tiêu diệt quân địch còn kiểm soát một nửa đồi C1, chiếm toàn bộ ngọn đồi. Cũng trong đêm đó, quân ta đã tấn công tiêu diệt nhanh chóng hai vị trí 505 và 505A ở dưới chân các ngọn đồi phía đông nằm trên tả ngạn sông Nậm Rốm. Ở phía tây, vị trí 311A của địch cũng bị tiêu diệt gọn. Ở phân khu nam, quân ta tiêu diệt một bộ phận quân địch đóng ở phía đông bắc Hồng Cúm. Sang đêm ngày 3 tháng 5, quân ta lại tiêu diệt thêm vị trí 311B ở phía tây. Trận địa tấn công và bao vây của ta càng thắt chặt lại, có nơi chỉ cách sở chỉ huy của tập đoàn cứ điểm khoảng 300 mét.

Quân địch lúc bấy giờ có những dấu hiệu muốn mở một con đường máu để phá vòng vây. Nava và các tướng tá Pháp - Mỹ đã nhận thấy rằng Điện Biên Phủ sắp bị tiêu diệt đến nơi. Chúng dự định thu thập lực lượng tổ chức thành ba cánh quân, thừa lúc ban đêm đột phá vòng vây của ta, đánh tháo về phía Lào: một cánh gồm các đơn vị dù rút theo hướng đông nam; một cánh gồm các đơn vị lê dương và Bắc Phi rút theo hướng nam; một cánh gồm các đơn vị ở Hồng Cúm rút theo hướng tây. Trong lúc đó, ở phía Thượng Lào, chúng sẽ cho một cánh quân tiến sang để đón. Riêng tướng Đờ Cát và một số đơn vị thì được chỉ định ở lại với thương binh tại Điện Biên Phủ. Chúng ta đã theo dõi sát những ý định và sự chuẩn bị của chúng; các đơn vị của quân ta có nhiệm vụ giữ các trận địa ở phía tây đã được lệnh kiểm soát chặt chẽ tất cả các con đường lớn và đường nhỏ đi từ Điện Biên Phủ ra biên giới Việt - Lào. Sau khi đã tiêu diệt tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ, quân ta đã bắt được bản mệnh lệnh mở cuộc hành binh đột phá vòng vây, dự định thực hiện vào đêm ngày 7 tháng 5 năm 1954.

17 giờ ngày 6 tháng 5, quân ta mở cuộc tấn công vào đồi A1. Ở đây, trong thời gian chuẩn bị, công binh ta đã đào một đường hầm ngầm đi sâu vào giữa ngọn đồi và đã đặt sẵn một tấn thuốc nổ. Được sự phối hợp chặt chẽ của công binh, sau tiếng nổ mạnh mẽ của bộc phá, quân ta đã chia làm nhiều mũi, từ nhiều hướng đánh vào vị trí của địch, tiêu diệt quân dù lê dương chiếm đóng ở đó. Chúng ta đã đánh chiếm điểm cao cuối cùng.

Cũng trong đêm ấy, quân ta tiêu diệt quân địch và đánh chiếm đồi C2; đây là điểm cao phụ nằm giữa ngọn đồi C1 và sông Nậm Rốm. Các vị trí 506 của địch ở phía bắc cầu Mường Thanh, 310 ở phía tây cũng bị tiêu diệt. Sau các cuộc tấn công thắng lợi trên đây của quân ta, địch đã mất hết tất cả cac điểm cao ở phía đông, lực lượng bị tiêu diệt thêm một phần quan trọng, phạm vi chiếm đóng bị thu lại rất hẹp, mỗi chiều chỉ còn từ bảy, tám trăm mét đến một kilômét, tinh thần binh sĩ của chúng hoang mang đến cực độ.

Mọi điều kiện đều đã đầy đủ để chuyển sang tổng công kích. Trong khi chúng ta đang đẩy mạnh công tác chuẩn bị, để bảo đảm thắng lợi cho cuộc tổng công kích thì sáng ngày 7 tháng 5, có những dấu hiệu rất đáng chú ý về tình hình địch. Những máy bay tiếp tế vũ khí đạn dược đều quay về Hà Nội, không thả dù nữa. Chỉ có một số máy bay tiếp tế còn thả ít nhiều dù lương thực. Trong lúc đó, lác đác ở một số nơi trong khu địch đóng quân, ta phát hiện có nhiều tiếng nổ: quân địch đang phá hủy một số vũ khí. Một số binh lính của địch vứt súng đạn xuống sông Nậm Rốm.

Chúng ta nhận định trong hàng ngũ địch đang xảy ra tình trạng hỗn loạn. Bộ đội ta được lệnh chuẩn bị sẵn sàng.

14 giờ ngày 7 tháng 5, một đơn vị của ta mở cuộc tấn công vào vị trí 507, ở gần cầu Mường Thanh. Địch đối phó yếu ớt, toàn bộ binh lính địch kéo cờ trắng ra hàng. Tiếp đó, quân ta phát triển thắng lợi tấn công tiêu diệt luôn hai vị trí 508 và 509 nằm trên tả ngạn sông Nậm Rốm.

Rõ ràng, quân địch đã rối loạn, mất hết tinh thần chiến đấu; ở một số nơi đã có những lá cờ trắng xuất hiện.

15 giờ ngày 7 tháng 5, quân ta được lệnh không chờ đến tối, nắm ngay cơ hội thuận lợi, lập tức mở cuộc tổng công kích vào tập đoàn cứ điểm.

Các đại đoàn của ta lập tức hành động, từ phía đông và phía tây giáp công, đánh thẳng vào sở chỉ huy của địch. Mặc dầu quân địch còn khoảng một vạn tên, tinh thần của chúng đã hoàn toàn tan rã. Quân ta đánh đến đâu, địch giương cờ trắng ra hàng đến đó.

17 giờ 30 phút, quân ta đánh chiếm sở chỉ huy của địch: tướng Đờ Cát và toàn bộ bộ tham mưu của tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ bị quân ta bắt sống.

Toàn bộ địch còn lại lũ lượt kéo ra hàng. Chúng đều bị bắt làm tù binh và được ta đối đãi tử tế.

Lá cờ Quyết chiến quyết thắng của quân ta đã được nêu cao trên cánh đồng Điện Biên Phủ.

Ngay đêm hôm đó, quân ta tấn công quân địch ở phân khu nam. Quân địch ở đây có trên 2.000 tên, định tìm đường rút chạy về phía Thượng Lào, nhưng bị quân ta đuổi đánh. 20 giờ, quân ta bắt gặp quân địch; 24 giờ thì toàn bộ quân địch bị bắt làm tù binh.



Sau 55 ngày đêm chiến đấu liên tục, quân ta đã tiêu diệt toàn bộ quân địch ở tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ.

Chiến dịch lịch sử Điện Biên Phủ đã toàn thắng. Cuộc tấn công chiến lược Đông Xuân 1953-1954 của quân ta đã kết thúc bằng một chiến thắng vĩ đại.
Logged
chuongxedap
Đại tá
*
Bài viết: 13138



« Trả lời #27 vào lúc: 21 Tháng Mười Hai, 2022, 01:26:29 pm »


VI. Ý NGHĨA TO LỚN
CỦA CHIẾN THẮNG ĐIỆN BIÊN PHỦ VĨ ĐẠI
VÀ CỦA CÁC CHIẾN THẮNG ĐÔNG XUÂN NÓI CHUNG

Chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ và nói chung các chiến thắng Đông Xuân 1953-1954 là những chiến thắng to lớn nhất của lực lượng vũ trang nhân dân và của nhân dân ta từ trước đến nay. Các chiến thắng vĩ đại đó đã đánh dấu một sự tiến bộ vượt bậc, một sự chuyển biến lớn lao trong quá trình phát triển tiến lên của cuộc kháng chiến cứu nước của nhân dân ta chống đế quốc Pháp xâm lược có bọn can thiệp Mỹ giúp sức.

Phân tích hình thái mới của cuộc kháng chiến, chúng ta nhận thấy nổi bật lên những điểm sau đây:

Một là, trong cuộc tấn công chiến lược Đông Xuân 1953-1954, chúng ta đã mở nhiều chiến dịch tấn công trên nhiều hướng của chiến trường cả nước.

Từ năm 1950 trở đi, với chiến dịch Biên Giới, hình thái phản công cục bộ đã xuất hiện. Trong mỗi một mùa tác chiến hoặc trong mỗi một thời gian nhất định, bộ đội chủ lực ta đã có khả năng mở chiến dịch tấn công thắng lợi trên một hướng nhất định của chiến trường chính, tức là chiến trường Bắc Bộ. Trong những năm tiếp sau, chúng ta luôn luôn giữ quyền chủ động trên chiến trường chính; những cố gắng lớn lao của địch để giành lại chủ động ở Bắc Bộ đã bị quân ta đánh bại.

Bước vào mùa Thu, mùa Đông năm 1953 và mùa Xuân năm 1954, bộ đội chủ lực ta không những đã có khả năng mở những chiến dịch tấn công trên nhiều hướng, mà quan trọng hơn nữa là không những mở chiến dịch tấn công trên chiến trường Bắc Bộ mà cả trên chiến trường Liên khu 5; đồng thời bộ đội tình nguyện ta đã phối hợp với Quân giải phóng Pathét Lào mở những chiến dịch tấn công ở Thượng Lào, Trung Lào và Hạ Lào. Phạm vi cuộc tấn công chiến lược Thu Đông năm 1953 của ta đã vượt ra ngoài chiến trường chính, bước đầu mở rộng đến chiến trường miền Nam, chiến trường Đông Dương.

Hai là, bước qua thời kỳ thứ hai của cuộc tấn công chiến lược Thu Đông đó thì trên mặt trận chính diện chủ yếu, tức là mặt trận Điện Biên Phủ, chúng ta đã tập trung đại bộ phận bộ đội chủ lực tinh nhuệ của ta, mở cuộc tấn công lớn vào tập đoàn cứ điểm mạnh nhất của địch, do một bộ phận quan trọng bộ đội tinh nhuệ của địch phòng giữ.

Trước đây, kể cả trong thời kỳ đầu của cuộc tấn công Thu Đông, phương hướng tác chiến của ta là nhằm những hướng chiến lược quan trọng mà địch tương đối sơ hở để tấn công tiêu diệt một bộ phận sinh lực của địch.

Bước vào chiến dịch Điện Biên Phủ thì chúng ta đã chuyển lên tập trung chủ lực của ta tiêu diệt chủ lực của địch, đánh vào một tập đoàn cứ điểm mà địch cho là không thể nào công phá được. Chiến dịch Điện Biên Phủ mang tính chất đầy đủ của một trận quyết chiến về chiến lược.

Ba là, trong cuộc tấn công Đông Xuân 1953-1954, đã diễn ra một sự biến chuyển mới về hình thức tác chiến.

Vận động chiến bao gồm những thành phần chiến đấu công kiên trước đây đã tiến lên giữ địa vị chủ yếu trên chiến trường Bắc Bộ, thì nay đã phát triển rộng khắp hơn, tiến lên giữ địa vị chủ yếu trên chiến trường Liên khu 5 và trên chiến trường nước bạn.

Biến chuyển to lớn hơn nữa là nếu trước đây, kể cả trong thời kỳ đầu của cuộc tấn công Đông Xuân, hình thức tác chiến phổ biến của chủ lực là đánh vận động, thì bước vào chiến dịch Điện Biên Phủ, điểm trung tâm của chiến trường cả nước, quân đội ta đã vận dụng hình thức tác chiến mới: chiến dịch công kiên có tính chất trận địa trên một quy mô lớn.

Trong lúc đó trên chiến trường sau lưng địch, du kích chiến vẫn giữ một địa vị hết sức quan trọng, ở Bình Trị Thiên và Nam Bộ vẫn giữ địa vị chủ yếu.

Qua những biến chuyển và phát triển vượt bậc của phạm vi các chiến dịch tấn công, của tính chất và hình thức tác chiến của chiến dịch Điện Biên Phủ, quân ta đã thu được những thắng lợi lớn lao chưa từng thấy. Những thắng lợi đó đã đưa cuộc kháng chiến của nhân dân ta từ hình thái phản công cục bộ tiến lên hình thái phản công lớn, từ thế chủ động chiến lược trên chiến trường Bắc Bộ tiến lên giành chủ động trên chiến trường cả nước. Ý nghĩa chiến lược to lớn của chiến thắng Điện Biên Phủ vĩ đại và các chiến thắng Đông Xuân là ở chỗ đó.
Logged
chuongxedap
Đại tá
*
Bài viết: 13138



« Trả lời #28 vào lúc: 21 Tháng Mười Hai, 2022, 01:27:55 pm »


Trong chiến dịch lịch sử Điện Biên Phủ và các chiến dịch Đông Xuân nói chung, chúng ta đã tiêu diệt một bộ phận rất quan trọng sinh lực của địch.

Điện Biên Phủ là trận đánh tiêu diệt lớn nhất và điển hình nhất của quân đội ta từ trước đến nay, trận chiến thắng lớn nhất của nhân dân ta trong gần 100 năm đấu tranh chống ngoại xâm. Trận Điện Biên Phủ cũng được coi là một trong những trận đánh tiêu diệt lớn nhất trong lịch sử đấu tranh vũ trang của các dân tộc nhỏ chống quân đội xâm lược của bọn đế quốc thực dân. Tại Điện Biên Phủ, quân ta đã tiêu diệt và bắt làm tù binh trên 16.000 tên địch, trong đó có toàn bộ cơ quan chỉ huy của tập đoàn cứ điểm, có một tên tướng, 16 tên quan năm, 1.749 sĩ quan và hạ sĩ quan. Lực lượng của địch bị tiêu diệt bao gồm 17 tiểu đoàn bộ binh tinh nhuệ trong đó có 7 tiểu đoàn dù, 3 tiểu đoàn pháo binh, gần 1 tiểu đoàn công binh, tổng cộng là 21 tiểu đoàn.

Nhìn chung trên các chiến trường cả nước thì trong cuộc tấn công Đông Xuân này, quân ta đã tiêu diệt 11 vạn 2 nghìn tên địch, tức là một phần tư toàn bộ lực lượng vũ trang của địch ở Đông Dương, trong số đó có 25 tiểu đoàn bị tiêu diệt hoàn toàn.

Số máy bay oanh tạc, chiến đấu và vận tải, kể cả máy bay oanh tạc B.24 và máy bay vận tải hạng nặng C.119 của Mỹ bị bắn rơi và phá huỷ ở Điện Biên Phủ là 62 chiếc, tính cả các chiến trường cả nước là 177 chiếc, tức là một bộ phận rất quan trọng lực lượng không quân của địch ở Đông Dương.

Từ khi đế quốc Pháp trở lại gây chiến tranh xâm lược, chưa bao giờ trong một thời gian tương đối ngắn, quân địch bị một tổn thất nặng nề như vậy. Đối với địch, tổn thất lại nặng nề hơn nữa là ở chỗ đại bộ phận lực lượng bị quân ta tiêu diệt lại bao gồm những sinh lực tinh nhuệ nhất của chúng, tức là các tiểu đoàn quân dù, các tiểu đoàn Âu Phi, mà chúng coi là "mũi nhọn của ngọn giáo", là "quả đấm tấn công", là nòng cốt của khối cơ động chiến lược của Nava. Những thất bại nặng nề nói trên đã làm cho bộ tổng chỉ huy quân đội viễn chinh Pháp phải kinh hoàng, làm cho tinh thần tướng tá và binh sĩ của chúng đã kém sút lại càng suy sụp nhanh chóng.

Trong chiến dịch lịch sử Điện Biên Phủ và các chiến dịch Đông Xuân nói chung, chúng ta đã giải phóng nhiều vùng đất đai rộng lớn có tính chất quan trọng về chiến lược.

Ở Bắc Bộ, sau khi Lai Châu và Điện Biên Phủ được giải phóng, trên toàn bộ khu Tây Bắc của ta lần đầu tiên không còn bóng giặc. Căn cứ địa của cuộc kháng chiến đã được mở rộng, bao gồm toàn bộ miền rừng núi Bắc Bộ, đi từ Việt Bắc đến Tây Bắc, Hòa Bình, lại được nối liền với khu giải phóng rộng lớn của nước bạn ở Thượng Lào. Quân địch lúc đó chỉ còn đóng ở đồng bằng Bắc Bộ.

Ở Liên khu 5, vùng tự do của ta mà địch rắp tâm đánh chiếm, nay lại được mở rộng rất nhiều. Một địa bàn quan trọng rộng lớn ở miền Bắc Tây Nguyên chiến lược đã được giải phóng. Thế uy hiếp của địch ở sau lưng các tỉnh Quảng Nam, Quảng Ngãi, Bình Định đã bị phá tan. Vùng tự do của ta đi từ bờ biển đến biên giới Việt - Lào, nối liền với khu giải phóng của nước bạn ở Hạ Lào, gây nên một thế uy hiếp mới đối với địch ở miền Nam Đông Dương.

Trên các chiến trường sau lưng địch, ở đồng bằng Bắc Bộ, Bình Trị Thiên và Nam Bộ, các căn cứ du kích và vùng du kích được mở rộng rất nhiều. Hình thái chiếm đóng của địch nhiều nơi đã từ diện biến thành tuyến và điểm. Phạm vi vùng bị tạm chiếm ở đồng bằng Bắc Bộ bị thu hẹp; ba phần tư đất đai vùng sau lưng địch đã được giải phóng.

Ở Lào, Quân giải phóng Pathét Lào và bộ đội tình nguyện Việt Nam đã giải phóng tỉnh Phông Xa Lỳ và vùng lưu vực sông Nậm Hu, mở rộng căn cứ địa Thượng Lào. Vùng giải phóng ở Trung Lào và ở Hạ Lào cũng được mở rộng. Trên toàn nước bạn, hơn một nửa đất đai và một nửa dân số đã được giải phóng.

Do những thắng lợi lớn lao của quân ta và bạn như trên đã nói, qua cuộc tấn công chiến lược Đông Xuân của ta mà đỉnh cao nhất là chiến dịch Điện Biên Phủ, kế hoạch quân sự Nava của đế quốc Pháp - Mỹ đã bị phá sản.

Quân địch đã bị tổn thất trầm trọng về sinh lực. Cái gọi là "khối lực lượng cơ động chiến lược" của Nava đã bị tiêu diệt một bộ phận rất quan trọng, bộ phận còn lại thì bị buộc phải phân tán đến mức độ không còn là cơ động nữa. Tinh thần binh sĩ hết sức hoang mang. Lực lượng quân ngụy mới tăng thêm đã tan rã từng mảng lớn. Điều nghiêm trọng hơn nữa đối với địch là: tiêu diệt tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ, quân ta đã đánh bại hình thức phòng ngự cao nhất, mạnh nhất của chúng, đặt quân địch trước nguy cơ các hệ thống phòng ngự khác đều yếu hơn Điện Biên Phủ nhiều sẽ tiếp tục sụp đổ.

Trong tình hình nguy khốn đó, quân địch đương nhiên không còn nghĩ đến những cuộc tấn công chiến lược đã đề ra trong kế hoạch Nava, càng không thể nghĩ đến khả năng giành lấy những thắng lợi có tính chất quyết định theo như ước tính của bọn hiếu chiến Pháp - Mỹ. Lúc bấy giờ, điều lo lắng lớn nhất của chính phủ Pháp là làm thế nào để bảo toàn cho lực lượng còn lại của quân đội viễn chinh tránh khỏi nguy cơ bị tiêu diệt. Trung tuần tháng 5 năm 1954, tướng Êly đến Sài Gòn, mang theo chỉ thị của chính phủ Pháp cho tướng Nava: cần thực hiện thu hẹp ngay phạm vi chiếm đóng ở đồng bằng Bắc Bộ về vùng "châu thổ có ích", chuẩn bị sẵn sàng khi cần thì có thể tiến hành việc rút quân về miền Nam vĩ tuyến 18. Tinh thần của chỉ thị đó là phải lấy việc giữ gìn lực lượng còn lại của quân đội viễn chinh làm mục tiêu chủ yếu, coi đó là nhiệm vụ ưu tiên. Kế hoạch rút quân của địch đã được tiến hành trong hạ tuần tháng 6 và thượng tuần tháng 7 năm 1954. Quân địch đã rút chạy khỏi thị xã Việt Trì, phân khu Chợ Bến và toàn bộ Liên khu Nam đồng bằng bao gồm các tỉnh và thị xã Nam Định, Thái Bình, Ninh Bình, Phát Diệm, Bùi Chu. Trong cuộc rút chạy này, quân địch đã bị quân ta truy kích tiêu diệt một bộ phận. Hàng vạn lính ngụy đã bỏ hàng ngũ quân địch trở về với nhân dân.
Logged
chuongxedap
Đại tá
*
Bài viết: 13138



« Trả lời #29 vào lúc: 21 Tháng Mười Hai, 2022, 01:28:28 pm »


Chiến thắng Điện Biên Phủ vĩ đại và các chiến thắng Đông Xuân nói chung đã mở ra một cục diện chính trị mới, góp phần quyết định vào thắng lợi của Hội nghị Giơnevơ năm 1954.

Chiến thắng Điện Biên Phủ đến giữa lúc Hội nghị Giơnevơ năm 1954 sắp họp để bàn về việc lập lại hòa bình ở Đông Dương.

Chiến thắng đó đã đánh bại âm mưu của bọn thực dân hiếu chiến Pháp và bọn can thiệp Mỹ muốn kéo dài và mở rộng chiến tranh xâm lược ở Đông Dương và đang tìm cách phá hoại Hội nghị Giơnevơ. Nội các phản động Lanien - Biđôn, từ trước đã nêu lên chủ trương "đánh đến cùng", "quốc tế hóa chiến tranh Đông Dương", bị đổ. Nội các của phái chủ hòa do Măngđét Phrăng đứng đầu lên thay thế.

Mặc dầu đế quốc Mỹ và bọn hiếu chiến Pháp vẫn tiếp tục tìm cách phá hoại, sau hơn bảy mươi ngày thương lượng, hội nghị đã thu được kết quả tốt.

Đoàn đại biểu nước Việt Nam dân chủ cộng hòa tại hội nghị đã nêu lên lập trường căn bản của nhân dân và Chính phủ ta là: hòa bình, độc lập, thống nhất, dân chủ, coi đó là nguyện vọng thiết tha và quyền lợi chính đáng mà nhân dân Việt Nam quyết hy sinh phấn đấu đến cùng để thực hiện. Dựa vào khối đoàn kết chiến đấu của toàn dân ta, có các chiến thắng Đông Xuân nhất là chiến thắng Điện Biên Phủ vĩ đại làm hậu thuẫn, dựa vào sự đoàn kết của nhân dân ba nước Việt Nam, Campuchia và Lào, được sự ủng hộ hết lòng của Liên Xô, Trung Quốc và các nước xã hội chủ nghĩa anh em khác, được sự đồng tình ủng hộ của nhân dân Pháp và nhân dân yêu chuộng hòa bình trên thế giới, nhân dân ta đã giành được thắng lợi lớn về ngoại giao.

Hiệp nghị Giơnevơ được ký kết ngày 21 tháng 7 năm 1954, hòa bình được lập lại ở Đông Dương trên cơ sở tôn trọng chủ quyền, độc lập, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của nước Việt Nam và hai nước bạn Campuchia và Lào. Sau gần 100 năm đấu tranh giải phóng dân tộc, sau tám, chín năm kháng chiến anh dũng và gian khổ của toàn dân ta, miền Bắc nước ta được hoàn toàn giải phóng. Những điều khoản chính trị nhằm thực hiện hòa bình thống nhất nước Việt Nam bằng tổng tuyển cử tự do cũng được quy định.

Thắng lợi của Hội nghị Giơnevơ là một thắng lợi to lớn của nhân dân ta và của nhân dân thế giới đang đấu tranh cho hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và chủ nghĩa xã hội, là một thất bại nặng nề của đế quốc Mỹ và thực dân hiếu chiến Pháp.

Chiến thắng Điện Biên Phủ vĩ đại và chiến thắng Đông Xuân nói chung đã có ảnh hưởng rộng lớn trên thế giới.

Trong khi bọn đế quốc hiếu chiến hoang mang, thất vọng thì các tin chiến thắng của quân và dân ta trên các chiến trường cả nước, đặc biệt là tin chiến thắng Điện Biên Phủ, đã làm nức lòng nhân dân tiến bộ toàn thế giới.

Chiến thắng Điện Biên Phủ không những là thắng lợi to lớn của nhân dân ta mà còn được các nước xã hội chủ nghĩa anh em coi như thắng lợi của bản thân mình. Điện Biên Phủ được coi là thắng lợi to lớn của các dân tộc nhỏ yếu đang đấu tranh chống chủ nghĩa đế quốc, chống chủ nghĩa thực dân cũ và mới, giành tự do và độc lập. Điện Biên Phủ đã trở nên niềm tự hào của các dân tộc bị áp bức, là một cống hiến lớn lao của nhân dân ta vào cao trào giải phóng dân tộc đang dâng lên mạnh mẽ từ sau chiến tranh thế giới lần thứ hai, báo hiệu hệ thống thuộc địa của chủ nghĩa đế quốc sắp sụp đổ.

Điện Biên Phủ còn là thắng lợi to lớn của các lực lượng hòa bình trên thế giới. Không có thắng lợi Điện Biên Phủ thì chắc chắn Hội nghị Giơnevơ không thu được kết quả, hòa bình không được lập lại ở Đông Dương. Điều đó càng chứng tỏ rằng, chiến thắng Điện Biên Phủ nói riêng và nói chung thắng lợi của cuộc kháng chiến của nhân dân ta, thắng lợi của cuộc đấu tranh giải phóng của các dân tộc bị áp bức chống chủ nghĩa đế quốc thực dân dưới mọi hình thức, có tác dụng cực kỳ quan trọng làm suy yếu chủ nghĩa đế quốc, làm thất bại âm mưu xâm lược và gây chiến của chúng, góp phần trọng đại vào việc bảo vệ hòa bình trên thế giới.
Logged
Trang: « 1 2 3 4 5 6 7 8 »   Lên
  In  
 
Chuyển tới:  

Powered by MySQL Powered by PHP Powered by SMF 1.1.21 | SMF © 2006-2008, Simple Machines

Valid XHTML 1.0! Valid CSS! Dilber MC Theme by HarzeM