Lịch sử Quân sự Việt Nam
Tin tức: Lịch sử quân sự Việt Nam
 
*
Chào Khách. Bạn có thể đăng nhập hoặc đăng ký. 29 Tháng Ba, 2024, 12:41:44 pm


Đăng nhập với Tên truy nhập, Mật khẩu và thời gian tự động thoát


Trang: « 1 2 3 4 5 6 7 8 »   Xuống
  In  
Tác giả Chủ đề: Trung đoàn 174 anh hùng  (Đọc 4308 lần)
0 Thành viên và 1 Khách đang xem chủ đề.
chuongxedap
Đại tá
*
Bài viết: 13138



« Trả lời #50 vào lúc: 04 Tháng Giêng, 2023, 08:21:14 am »


*

Lúc ấy, vào khoảng ba giờ chiều ngày mồng 7 tháng 5. Tiểu đoàn chúng tôi đã đánh chiếm hoàn toàn cứ điểm A1 mà tướng Đờ Cát gọi bằng cái tên mĩ miều là Êlian, sau một tháng giằng co ác liệt.

Khắp đồi, vang động những tiếng reo hò. Các chiến sĩ nhảy cả lên nóc lô cốt. Giờ cáo chung của tập đoàn cứ điểm đã đến rồi!

Đúng lúc đó hàng loạt tiếng đề-pa của súng cối 120 ly từ Hồng Cúm vèo vèo rít gió, hướng về phía chúng tôi. Tôi chỉ kịp thét:

- Nó bắn đấy! Nằm xuống!

Hàng chục quả đạn cối 120 ly đã ầm ầm quật xuống đồi A1. Tiếng nổ chát chúa như xé tai. Khói đen đặc trùm kín nơi chúng tôi đang đứng. Tiếng kêu thét "Mon Dieu!"1 của mấy tên tù binh lẫn trong tiếng kêu thất thanh của đại đội trưởng Thụy.

Chúng tôi lao vào lô-cốt giam tù binh giữa làn khói bay sặc sụa khét lẹt. Chiếc lô-cốt đã vỡ tung. Một quả đạn rơi giữa căn hầm lộ thiên, giết chết tươi ba tên tù binh. Tên còn lại máu me đầy mặt đang run bắn, nép vào góc tường, giương cặp mắt nâu đỏ dại nhìn chúng tôi, miệng lắp bắp: "Mon Dieu! Mon Dieu!"

Tôi ôm đại đội trưởng Thụy trên tay. Một mảnh đạn đã làm đùi trái anh bị gãy nát và trên bụng anh, máu trào ướt đẫm bàn tay tôi.

Đưa Thụy sang cản hầm khác cấp cứu và tổ chức cáng thương đưa anh về phía sau xong, y tá tiểu đoàn băng bó cho tên tù binh còn sống sót. Nó có vẻ chịu đựng, tự tay xé rộng ống quần để lộ vết thương đỏ lòm. Cặp môi dày của nó mấp máy:

- Merci! Merci bien mon caporal2

Đang cay đắng vì tổn thất bất ngờ xảy ra trước giờ toàn thắng, tôi dằn giọng bảo nó:

- Chúng mày phải chết.

Nhìn nòng súng chĩa vào ngực mình mỗi lúc một gần, tên tù binh bật dậy:

- Mon commandant! Tôi không có tội!

- Không có tội! Mày! Một tên lê dương?

- Thưa ông, tôi đã phản chiến! Tôi đã chạy sang hàng ngũ các ông.

Tôi cười gằn:

- Chúng tao bắt mày tại trận mà mày lại là hàng binh?

Tên tù binh vẫn đứng theo tư thế nghiêm:

- Xin phép ngài thiếu tá được báo cáo!

- Nói đi!

- Thưa ngài thiếu tá! Cách đây ba ngày tôi đã rời khỏi căn cứ này chạy ra rừng để tìm đến hàng quân đội Việt Nam.

Hắn lóng ngóng lần túi trong chiếc áo "bắt gà" rộng lùng thùng rút ra một tờ giấy trắng gấp cẩn thận:

- Thưa ngài thiếu tá! Tôi nhặt được tờ truyền đơn của các ngài cách đây một tuần. Tôi liền đào ngũ chạy ra rừng. Nhưng loanh quanh ba ngày không gặp bộ đội Việt Nam. Tôi lại bị quân tuần tiễu bắt gặp, trả về đại đội. Tôi bị phạt giam ba ngày. Khi các ngài đánh vào, capiten3 buộc tôi cầm súng chống cự. Đúng lúc ấy các ông tràn vào...

Tôi để ý nhìn kỹ tên tù binh: mái tóc đen xoăn tít rối bù, gương mặt đen sạm gầy guộc, cặp mắt nâu trũng sâu, một hàng ria mép đen và chiếc lưng hơi còng. Trông hắn có vẻ thành thật bên trong nỗi mệt mỏi cực độ về thể xác. Tôi hỏi:

- Tên anh là gì? Cấp bậc?

Lập tức, tên tù binh rập gót giày:

- Benla. Binh nhất, thưa ngài thiếu tá!

- Bao nhiêu tuổi?

- Thưa ngài thiếu tá, hai mươi tám.

Tôi ngạc nhiên nhìn hắn. Tưởng hắn phải đến bốn mươi nhăm.

- Không thể tin anh được. Anh bị bắt tại trận với vũ khí trong tay. Anh là tù binh chiến tranh. Ra chỗ kia tập trung.

Tên tù binh chớp cặp mắt mệt mỏi, cúi đầu bước theo một chiến sỹ, dáng đi lộ vẻ nhẫn nhục.

Ba ngày sau, tiểu đoàn chúng tôi nhận được một lệnh khá đặc biệt "áp tải hai nghìn tù binh Pháp về hậu phương Thanh Hóa". Với yêu cầu phải bảo đảm đầy đủ số tù binh không được để hao hụt, đào ngũ dọc đường.

Một buổi chiều, từ chỗ trú quân ven đường gần ngã ba Tuần Giáo chúng tôi dẫn tù binh vượt đèo Pha Đin. Đó là một cái đèo nổi tiếng vì độ cao, độ dài và khó đi, là nỗi gờm sợ của những chàng lái xe kéo pháo.

Vượt qua mấy đoạn đèo, đoàn tù binh đuổi kịp một đơn vị nữ thanh niên xung phong cũng trên đường trở ra. Các cô đều mặc quần đen, áo sơ mi xanh màu lá, dép lốp, mũ nan, gài lá nguỵ trang. Nhiều cô khoác tấm vải dù hoa, một kỷ niệm kiêu hãnh của người ở chiến trường trở về. Cô nào cũng gồng gánh nhưng xem ra chẳng có gì là nặng. Khác hẳn những ngày trước đây, các cô nhìn toán tù binh dài dặc vượt qua bằng ánh mắt thản nhiên, tò mò, thích thú và khinh thị. Những tiếng nói lao xao trong trẻo cất lên giữa lưng đèo lạnh ngắt:

- Khiếp, trông chúng nó kinh kinh là! Bây giờ em mới nhìn thấy tận mắt đấy.

- Eo ơi! Chúng nó hôi quá!

- Các anh ơi! Cho chúng em mỗi đứa một thằng về kéo cầy nhé. Trâu nhà em tàu bay nó bắn chết rồi.

- Ơ hò... Bộ đội mà gặp dân công... Ai đi hò lơ
Như anh gặp chị... ai đi hò lờ
Như ông gặp bà... Hò lơ ới lơ, lắng tai nghe chúng tôi hò lờ.

Tiếng ồm ồm của một cậu nào bỗng cất lên nghịch ngợm khiến quang cảnh trở nên nhộn nhạo. Khắp hàng quân ran ran tiếng cười nói, tiếng đùa cợt, tán tỉnh của các chàng lính trẻ. Các cô gái cười như nắc nẻ, dúi đẩy nhau, đấm vai nhau thùm thụp.

Một cô gái đi sau, sát vệ đường lấy sức bước lên một hòn đá. Bất ngờ cô trượt chân ngã quỵ xuống. Chiếc ba lô mắc ở phía sau đòn gánh bật ra, lăn xuống dốc núi dựng đứng. Cô gái kêu lên một tiếng hoảng hốt, đứng ngẩn nhìn theo chiếc ba lô chưa biết xử trí ra sao... Giữa lúc mọi người đi trước chưa biết làm gì thì trong đoàn tù binh, một người đã tự động tách khỏi hàng và lao theo chiếc ba lô. Chỉ một phút sau anh ta đã leo lên và đặt chiếc ba lô trước mặt cô gái miệng lúng búng.

- Của cô... xin chào! Cám ơn...

Trước vẻ bỡ ngỡ và có chiều ngượng ngập của cô gái, anh ta chạy vội về hàng của mình.

Việc nhỏ đó cũng đủ là đề tài câu chuyện kéo dài trong chặng đường vượt đèo. Khi cậu liên lạc láu táu kể cho tôi nghe, tôi nảy ra ý tò mò muốn biết mặt người tù binh đó. Tuy trời đã nhá nhem tối nhưng tôi cũng còn nhận ra một dáng hơi quen. Vừa đi bên cạnh anh ta, tôi hỏi:

- Anh đã giúp đỡ một người của chúng tôi. Thế là tốt.

Người tù binh ưỡn ngực nhưng vẫn bước:

- Xin cám ơn ngài thiếu tá!

- Tôi trông anh hơi quen.

- Thưa ngài thiếu tá! Tôi đã được hân hạnh gặp ngài trên đồi Êlian sau khi pháo của quân đội liên hiệp Pháp đã giết hại mấy đồng đội của tôi.

- A! Tôi nhớ. Benla, đúng tên anh vậy không?

Mấy tên tù binh đi bên cạnh Benla nhìn anh ta bằng cặp mắt ghen tị. Benla lộ vẻ vui sướng nhưng giọng vẫn điềm đạm:

- Rất cảm ơn ngài thiếu tá.
____________________________________________
1. Lạy chúa!
2. Cám ơn! Rất cám ơn thầy cai.
3. Ông đại úy.
Logged
chuongxedap
Đại tá
*
Bài viết: 13138



« Trả lời #51 vào lúc: 04 Tháng Giêng, 2023, 08:23:35 am »


*

Rồi một đêm đã khuya, bọn tù binh được lệnh nghỉ chân tại ven đường. Trăng rừng hắt ánh sáng xanh xao lên mọi người khiến mỗi khuôn mặt đều trở nên gầy võ. Tôi ngồi bên cạnh một thân cây đổ, tình cờ lại ở ngay cạnh người tù binh có tên là Benla. Đến nay, anh ta vẫn nhận mình là hàng binh.

Khi tôi châm một điếu thuốc Cẩm Thủy và rít một hơi, qua ánh lửa, tôi nhìn thấy vẻ thèm thuồng trên ánh mắt Benla đang nhìn chằm chặp vào điếu thuốc. Nhưng Benla không xin. Tôi biết anh ta đang phải chịu đựng sự dày vò ghê gớm. Tôi chỉ còn điếu ấy là cuối cùng, liền đưa cho anh ta:

- Anh cầm lấy mà hút.

Người tù binh gần như vồ lấy điếu thuốc, miệng nói:

- Rất cám ơn ngài thiếu tá!

Im lìm độ vài phút, bỗng người tù binh lên tiếng, giọng rụt rè:

- Xin phép ngài thiếu tá

- Anh muốn hỏi gì?

Giọng anh ta đắn đo:

- Tôi xin được ngài thiếu tá giải thích cho về hội nghị Giơnevơ hiện nay đến đâu rồi? Liệu có thể chấm dứt chiến tranh được không?

Tôi ngạc nhiên về những câu hỏi của người tù binh và bỗng thấy có cảm tình với anh ta. Tôi nói vắn tắt diễn biến mới nhất của hội nghị mà tôi nghe được qua bản tin của sư đoàn, nói rõ lập trường của phái đoàn ta và quan điểm phản động của Bidault, ngoại trưởng Pháp.

Nghe xong, người tù binh thở dài:

- Bidault là một con lừa! Ông ta muốn tiếp tục chiến tranh bằng máu của chúng tôi, những binh lính thuộc địa.

- Anh là người nước nào?

- Thưa, tôi là người Angiêri.

- Trước kia, anh làm nghề gì?

- Thưa, tôi dạy học. Tôi dạy văn tại một trường trung học ở Orăng.

- Tại sao anh lại vào lính lê dương?

- Đó là bi kịch lớn nhất của đời tôi, thưa ngài.

Tôi là con cả trong một gia đình đông con. Cha tôi có nợ nần, quá hạn không trả được, bị người ta đưa ra tòa. Nước Pháp mộ lính lê dương, hứa hẹn rất nhiều quyền lợi hấp dẫn: "Đấy chỉ là một cuộc du lịch sang xứ nhiệt đới châu Á không mất tiền". Và điều quan trọng là họ ứng trước một khoản tiền. Tôi lại bị sa thải vì bị coi là có những quan điểm quốc gia quá khích. Vì thế, tôi đánh canh bạc liều, kết quả thật là bi đát. Chúa đã trừng phạt tôi.

Tôi còn giải thích thêm cho anh ta về hoàn cảnh của Tổ quốc anh và nói về chỗ đứng của anh đáng lẽ phải có ở chỗ nào. Anh ta chỉ im lặng ngồi nghe. Một lát, anh đứng nghiêm trước mặt tôi:

- Thưa ngài thiếu tá! Cho phép tôi được hân hạnh biết tên tuổi của ngài.

- Ồ! Anh hỏi để làm gì?

- Thưa ngài, tôi đã có sự ngộ nhận về những sĩ quan Việt Nam. Bộ chỉ huy quân đội liên hiệp Pháp tuyên truyền rằng, cán bộ Việt Minh là những người nhà quê, không biết chữ và hoàn toàn dốt nát về tri thức quân sự.

Tôi phì cười, châm biếm:

- Như đã được chứng minh ở Điện Biên Phủ phải không?

Người tù binh không cười:

- Thưa ngài thiếu tá, Coócnây đã viết "La valeur n'attend point le nombre des années"1. Các ngài đã chứng minh hùng hồn như vậy.

- Anh thuộc Le Cid2 đấy nhỉ?

Benla lại rập gót giày:

- Rất cảm ơn ngài thiếu tá về lời khen. Tôi là giáo viên dạy văn học cổ điển Pháp.

- Thế mà anh lại đi cầm súng đánh thuê. Tôi mong rằng lần này thoát được về quê hương, anh lại có chỗ đứng trên bục giảng.

Người tù binh cúi đầu:

- Rất cám ơn ngài thiếu tá.

Cuộc hành quân của chúng tôi mỗi ngày một trở nên khó khăn. Đêm nào, tù binh cũng đào ngũ hàng chục đứa, mặc dù chúng tôi đã nát óc tìm mọi biện pháp ngăn ngừa. Cứ khoảng mười, mười một giờ đêm bọn tù binh giở trò. Chúng lén đổ gạo đi để khỏi phải mang, chui vào rừng đánh một giấc, để rồi sáng mai, leo lên những ngọn núi phía tây, tìm đường chạy sang Lào. Chúng mò vào nhà dân, bắt gà lợn, hiếp phụ nữ, đã có tên bị dân quân trong bản bắn chết.

Tôi đã quan sát, phát hiện ra có một trung đội toàn người Bắc Phi là tỏ ra khá nhất. Sau mười lăm ngày hành quân số quân của trung đội này vẫn đầy đủ. Họ ít nói, có ý thức giúp đỡ nhau, ở mỗi nơi trú quân thường đóng riêng ra một chỗ. Tôi biết ý chí hồi hương của học rất mãnh liệt. Trong trung đội đó có người tù binh Benla.
____________________________________________
1. Tài năng chẳng cần chờ đến tuổi trưởng thành.
2. Bi kịch cổ điển của Coócnây (1606-1684).
Logged
chuongxedap
Đại tá
*
Bài viết: 13138



« Trả lời #52 vào lúc: 04 Tháng Giêng, 2023, 08:25:29 am »


Một đêm đi qua Mộc Châu. Trời cuối tháng đã tối, lại càng tối thêm bởi những vách đá sừng sững hai bên đổ bóng xuống mặt đường, về sáng sương mù lạnh ngắt rắc đầy như mưa bụi, nhỏ lộp độp xuống những tàu lá chuối rừng. Tôi có việc bận họp ở trung đoàn nên phải đuổi theo đơn vị. Trên khúc đường quạnh quẽ thấp thoáng trong sương lạnh một bóng người cao lênh khênh hai tay chống hai chiếc gậy dài, đang tập tễnh lê từng bước chân nặng nề với dáng vẻ hết sức nhẫn nại. Trong cái vắng vẻ đến rợn người, tôi nhận ra một tù binh liền bước lên ngang anh ta hỏi:

- Anh ở "công voa" nào? Sao lại tách ra khỏi hàng?

Giọng người tù binh bỗng có vẻ mừng rỡ:

- Thưa ngài thiếu tá, tôi bị ốm quá nên không theo kịp công-voa. Tôi đã được ông đại uý cho phép đi chậm suốt đêm.

Hóa ra là Benla. Chạnh lòng, tôi hỏi:

- Sao anh không nhờ đồng đội dìu đi hay nằm cáng trên một đoàn đường. Tôi đã ra lệnh cho tù binh phải mang theo băng ca cơ mà?

Benla lắc đầu quầy quậy, giọng đầy bi thảm:

- Thưa ngài thiếu tá, tôi ốm đã ba ngày nay nhưng tôi quyết không bỏ công-voa, bởi vì tôi phải sống, phải về được Tổ quổc tôi dù có phải bò đi nữa. Đồng đội cũng có giúp đỡ tôi, nhưng họ cũng đã quá mệt nên tôi quyết định tự mình phải cố gắng là chính. Đêm qua, thấy tôi đi tụt lại sau, một ông đại úy thương tình chỉ định mấy đứa dìu đi. Nhưng khi vắng mặt săngtinen1, mấy thằng người Ý này chửi rủa đấm đá tôi thậm tệ. Tôi đã phải van lậy chúng nó để cho tôi đi một mình. Vâng, thưa ngài thiếu tá, tôi thấy khổ quá, nhiều lúc muốn chết cho đỡ cực nhưng rồi tôi lại cố đến kiệt sức. Tôi phải sống bằng mọi giá. Dù có què quặt về được đến quê nhà gặp lại những người thân, và nếu có thể thì đem hết sức còn lại làm được một việc gì có lợi cho sự giải phóng của Tổ quốc tôi. Sáng nay, tôi lại đi vượt qua cả công-voa vì không tìm thấy biển cắm. Những thằng nằm lại đêm qua, sáng dậy đã đi trước tôi. Chúng lột hết biển cắm, cuốn hút thuốc lá, thành ra tôi cứ lê từng bước đi suốt ngày, mãi chiều nay mới gặp lại công-voa.

Rồi Benla kể lại cảnh mấy thằng tù binh người Tây Ban Nha và Anh khiêng cáng anh ta hồi đêm.

Khi thấy Benla quá ốm, hai chân sưng vù, quấn đầy giẻ rách mà vẫn tập tễnh cố bám theo đoàn, đại đội trưởng Lâm liền giữ hai tên tù binh cao lớn còn khá khỏe mạnh, đang vác chung một chiếc băng ca đan bằng nứa, do bộ đội ta làm cho:

- Các anh hãy khiêng người này!

Hai thằng làu bàu trong cổ họng, tỏ ý không muốn làm. Một thằng gân cổ lý sự:

- Nhưng thưa ông đại úy! Tôi phải khiêng nó thì tôi ốm có đứa nào khiêng tôi không?

Đã biết đặc tính chúng, đại đội trưởng Lâm sẵng giọng:

- Chấp hành mệnh lệnh!

Miễn cưỡng, hai thằng đặt chiếc băng ca xuống. Benla lập cập nằm vào cáng, miệng lẩm bẩm: "Merci! Merci bien, camarades"2.

Đại đội trưởng Lâm đi kèm theo chúng một quãng rồi vượt lên đầu hàng quân.

Hai tên tù binh khiêng cáng cố ý chùng chình đi chậm rồi tụt lại sau cùng. Khi đường đã vắng không còn bóng người, hai thằng bắt đầu xỉ vả người nằm trong cáng.

- Thằng chó đẻ! Mày là mọi đen mà dám bắt chúng tao phải hầu hạ à?

- Chết mẹ mày đi! Đồ dòi bọ! Mày không đáng sống

Chúng trao đổi với nhau bằng thứ tiếng lóng mà Benla không hiểu được. Đến một lùm cây rậm bên đường, hai thằng dừng lại cùng hô: hai, ba! Rồi thẳng tay, quăng luôn cả cáng lẫn người xuống khe núi. Xong việc, chúng thản nhiên cười hềnh hệch, xoa tay đi thẳng.

Phúc cho Benla! Chiếc cáng rơi trúng bụi cây sim mua rậm rạp nên vướng lại. Benla bị hất văng xuống đất. Choáng váng, anh cố hết sức thu tàn lực bò dậy, quờ quạng tìm hai cái gậy của mình và bò lên đường, người ướt đẫm nước khe và nước mắt. Anh lại tập tễnh bước đi với đôi chân sưng phù quấn giẻ rách, rát bỏng như kim châm.

- ...Thưa ngài thiếu tá, tôi căm thù chúng nó. Chúng nó là lũ lang sói không có một chút tình người.

- Tôi sẽ tìm ra hai tên ấy và sẽ trừng phạt chúng. Tôi sẽ ra lệnh cho chúng phải khiêng anh.

- Xin đa tạ ngài thiếu tá. Nhưng xin ngài đừng ra lệnh cho chúng. Nhất định chúng sẽ giết tôi.

Người tù hàng binh đã bình tĩnh trở lại, nói với tôi bằng một giọng van lơn và cả quyết.

Tôi bảo anh ta dừng lại, tìm chỗ ngủ đêm nay, rồi bấm đèn pin, xé một tờ giấy trong quyển sổ tay, viết nhanh:

"Ban chỉ huy tiểu đoàn... cho phép tù binh này được đi riêng ban ngày trên đường 41. Đề nghị đơn vị không bắt giữ anh ta".

Tôi ghi họ tên, chức vụ của mình, ký tên rồi đưa cho anh ta:

- Cầm giấy này mà đi. Mệt quá thì cứ nghỉ. Buổi sáng thì cố tìm về đơn vị còn có cái mà ăn. Hôm nay, anh nhịn cả ngày à?

Tôi bảo cậu liên lạc đưa cho anh ta gói xôi lạc, suất ăn của cả hai người.
___________________________________________
1. Lính gác.
2. Rất cám ơn các bạn!
Logged
chuongxedap
Đại tá
*
Bài viết: 13138



« Trả lời #53 vào lúc: 04 Tháng Giêng, 2023, 08:29:27 am »


*

Từ mấy ngày nay, một chiếc Michel bay dọc đường cái 41. Chúng đã đánh hơi thấy bọn tù binh, do những tên đào ngũ lên núi, đốt lửa, vẫy khăn làm hiệu.

Bộ Tư lệnh sư đoàn lệnh xuống: "Phải đặc biệt đề phòng khả năng địch ném bom vào đội hình quân ta và đổ trực thăng đánh cướp tù binh, nhất là bọn sĩ quan. Nghiêm trị bọn phá rối!"

Sự phiền phức xảy ra ở cây số 42 trên đường từ Mộc Châu về Suối Rút.

Trưa hôm ấy, đoàn tù binh trú quân trong một cánh rừng rậm bằng phẳng phía tây đường. Tù binh đã nấu nướng, cơm nước xong. Nhiều tên đã lăn ra ngáy khò khò. Nhiều đứa đi tắm dưới con suối trong vắt. Trên mặt đường, ở khu vực các đại đội đều có cắm những tấm giấy nhỏ ghi địa chỉ: "1er convoi" - "2ème convoi"... Lác đác vẫn còn những tên tù binh đến chậm. Đã quen lệ, chúng nhòm vào từng tờ giấy nhận ra đơn vị của mình liền phởn phơ tìm đến nơi.

Đại đội nữ thanh niên xung phong cũng trú quân gần đấy, phía đầu dòng suối.

Khoảng 1 giờ trưa, có tiếng máy bay từ hướng đông nam vẳng lại, nghe mỗi lúc một gần. Trong nháy mắt, chiếc Michel bay sạt ngọn cây, to như một chiếc phà, phơi cái bụng xám mốc. Một phút sau, nó bay quành trở lại và lượn những vòng rất thấp gần chạm ngọn cây quanh khu vực trú quân. Tiếng rít rú của động cơ dội vào vách núi gây nên một không khí hết sức căng thẳng. Thật không thể tưởng tượng được! Hàng trăm tên tù binh, như có ma lực hấp dẫn, bỗng chồm dậy, la hét, reo hò loạn xạ. Chúng leo lên cây cao, chạy lên mặt đường cái, tung khăn, vẫy mũ. Những đám khói từ đâu ùn bốc lên cao. Bọn tù binh có nguy cơ nổi loạn!

Chiếc Michel như đã phát hiện ra mục tiêu, lượn những vòng rất hẹp chung quanh nơi trú quân. Bỗng từ bụng nó, tung ra hai chiếc dù trắng, treo lủng lảng mấy chiếc hòm nhỏ. Rồi nó cất lên cao, bay mất hút về phía đông nam.

Tôi cùng một tổ trung liên chạy lên mặt đường 41 và vận động lên một quả núi trọc cao nhất gần đấy ở phía đông đường. Giữa lúc ấy, lại thấy một chiếc trực thăng từ đâu phành phạch bay tới. Nó lượn quanh ngọn núi mà chúng tôi đang vận động lên, gần như treo tại chỗ rồi hạ thấp dần. Một chiếc thang dây tung ra, lủng lẳng. Trong khoang chiếc trực thăng, mấy cái đầu thò ra ngoài nhìn xuống.

Gần tới đỉnh đồi, tôi đã nhìn thấy một cảnh tượng gay cấn đang diễn ra: bốn tên tù binh đang lao vào một chiến sĩ ta đang cầm một con dao trong tay. Tôi nhận ra chiến sĩ nuôi quân ở tiểu đoàn bộ. Hai tên xông vào giằng được con dao và thẳng cánh đâm vào bụng anh chiến sĩ. Cậu này tránh được mấy đòn ác hiểm, nhưng nhát đâm cuối cùng làm anh ngã xuống. Đúng lúc tên tù binh giơ con dao định đâm bổ xuống thì khẩu trung liên đã rít lên. Chiếc trực thăng chòng chành rồi hốt hoảng vụt lên cao, kéo theo chiếc thang dây đung đưa, bỏ lại dưới bụng nó mấy tên tù binh với khoảng cách chừng vài ba thước.

Ba tên tù binh thấy nguy, liền lao đầu chạy tuột xuống sườn núi phía tây, thoát khỏi tầm đạn và nhanh chóng mất hút trong rừng rậm bạt ngàn.

Cùng lúc ấy, từ sườn núi, có hai người nữa chạy lên, tay xách súng các bin. Đó là hai cô ở đội thanh niên xung phong. Tôi nhận ra, một trong hai người con gái ấy là người đã bị ngã ở đèo Pha Đin và được người tù binh nhặt giúp chiếc ba lô đưa trả với vẻ lịch thiệp. Từ xa, các cô gái hỏi gấp:

- Các anh ơi! Cho chúng em chiến đấu với!

Ngẫu nhiên, hai tốp chúng tôi cùng lao tới tên tù binh còn lại đang đứng đờ ra như một xác chết. Cô gái có mái tóc cắt ngắn vội chạy tới đỡ người chiến sĩ dậy. Máu loang ra thấm đỏ tay cô.

Bừng bừng nổi giận, tôi chạy tới sau lưng tên tù binh túm cổ áo nó lắc mạnh rồi xoay mặt nó quay lại. Tôi sững sờ:

- Benla! Té ra lại là mày à? Mày trả ơn chúng tao như thế này phải không? Thằng chó chết!

Tên tù binh Benla rũ ra như con gà bị cắt tiết, chân tay run lẩy bẩy, hai chiếc gậy rơi xuống đất.

- Thưa ngài thiếu tá! Xin tha tội cho tôi. Chúng nó rủ rê, cưỡng ép tôi. Nếu không, chúng giết...

Tôi cười gằn:

- Rốt cuộc, mày là một thằng lê dương mạt hạng! Tao phải bắn mày vì tội phá rối cuộc hành quân và hành hung chiến sĩ của chúng tao.

Tên tù binh ngã quỵ xuống, oà lên khóc:

- Thưa ngài thiếu tá! Ngài cứ bắn tôi đi! Vâng! Vâng! Tôi là kẻ đào ngũ! Tôi đã theo chúng nó. Trời ơi! Tôi chỉ muốn sống được trở về quê hương sớm ngày nào hay ngày ấy. Tôi đã nghe chúng nó. Tôi có tội với các ngài. Vâng! Xin ngài cứ bắn tôi đi!

Những giọt nước mắt đùng đục chảy trên khuôn mặt hốc hác của hắn lúc này không làm tôi động tâm. Tôi nhìn cậu chiến sĩ nuôi quân. Cô gái đã băng bó cho anh xong và đặt anh nằm nghiêng trên vạt cỏ. Cảm giác vừa phẫn uất, vừa cay đắng nghẹn ứ trong lòng tôi. Tôi đã bị tên tù binh phản bội. Tôi thật quá ngây thơ khi tin rằng ở trong trái tim một tên lê dương, lại có một ngọn lửa khao khát chính nghĩa đang bùng cháy. Chung quy chó sói vẫn là chó sói. Tôi rút khẩu súng ngắn ra, lạnh lùng:

- Cầu Chúa đi!

Tên tù binh ngước nhìn tôi với vẻ tuyệt vọng, nhưng không khóc nữa. Nó quỳ xuống, tay làm dấu thánh giá:

Hồng - cô gái có mái tóc ngắn - rụt rè lên tiếng:

- Em có ý kiến! Xử nó thế nào thì tuỳ các anh. Nhưng thằng này, em thấy nó ốm quá, mà suốt tuần qua, ngày nào chúng em cũng thấy nó chống gậy lần đi. Cái thằng đâm anh bộ đội là thằng có râu quai nón màu râu ngô kia! Nó chạy thoát rồi.

- Làm sao cô biết? Không chạy trốn mà nó ở đây à?

- Cách đây một giờ, em trông thấy mấy đứa dưới đường. Thấy chúng nó đông, em vội nấp vào bụi. Em thấy ba thằng kia xì xồ gì với thằng này như chúng nó cãi nhau, rồi chúng kéo thằng này lên núi. Khi nghe có tiếng trực thăng, em gọi được cái Soan chạy lên, chính mắt em nhìn thấy thằng râu xồm xông vào đâm anh bộ đội.

Trong lòng tôi lúc này có sự giằng co dữ dội. Một mặt là những tên tù binh cực kỳ ngoan cố đã cố tình phá hoại cuộc hành quân, chỉ điểm cho máy bay địch, và nghiêm trọng hơn là chúng dám hành hung cả chiến sĩ ta. Tội ấy đáng phải xử bắn để răn đe những đứa khác. Tên tù binh này phải đền tội.
Logged
chuongxedap
Đại tá
*
Bài viết: 13138



« Trả lời #54 vào lúc: 04 Tháng Giêng, 2023, 08:30:17 am »


Tôi bỗng nhớ lại tất cả những gì nó đã nói với tôi trong suốt chặng đường. Tôi hình dung vẻ mừng rỡ của bố mẹ nó khi thấy nó đột nhiên bước vào nhà, thấy sự hoan hỉ của những đứa học trò trong một lớp học nào đó ở trường trung học Orăng xa xôi khi thấy nó xuất hiện trên bục giảng. Biết đâu, nó chẳng có thể trở thành người cầm súng trong vùng chiến khu nào đấy của Tổ quốc nó. Nó có thể trở thành người có ích cho đất nước đang còn nô vong của nó chăng? Bắn hay tha?

Y tá tiểu đoàn đã chạy lên và cùng mấy chiến sĩ dìu cậu anh nuôi lần xuống núi. Thở dài, tôi nhét khẩu súng vào bao:

- Tạm tha cho mày! Tội trạng sẽ xét sau, về ngay công-voa.

Tên tù binh đứng nghiêm chào tôi, rồi tần ngần một giây hắn bước đến trước mặt Hồng, cô gái vừa lên tiếng xin tha cho nó, cúi rạp đầu, cung kính nói bằng tiếng Việt:

- Merci bien!... cám ơn cô... cám ơn lắm lắm!

Khi tên tù binh ngước nhìn cô gái, tôi cảm thấy ánh mắt anh ta trở nên hiền dịu, ấm áp khác thường, khiến cô gái, bắt gặp cái nhìn ấy, củng phải ngượng ngập, quay mặt đi...

Ít ngày sau, đoàn tù binh về đến Thanh Hóa.

Đại đội nữ thanh niên xung phong cũng cùng về nơi tập kết tù binh và tổ chức lại thành những tiểu đội cấp dưỡng, với nhiệm vụ nuôi bọn tù binh, chờ ngày trao trả cho đối phương.

Tiểu đội nữ do Hồng, cô thanh niên xung phong làm tiểu đội trưởng được phân công nấu ăn cho hai trăm tù binh. Nhà ở, nhà ăn đều là nhà dân. Vì thế, nỗi vất vả của chúng tôi và ban quản lý tù binh tăng lên gấp bội.

Tù binh được cắt phiên nhau xuống giúp nhà bếp. Chúng vui sướng như điên với công việc này vì được nhìn các cô gái, được ăn vụng thực phẩm các cô mua về như cá, đậu và nhất là thịt trâu, thịt bò. Chúng rút dao găm lén cắt từng miếng thịt sống đút vào túi quần "bắt gà" rồi lỉnh ra một chỗ xẻ thành từng miếng nhai ngấu nghiên.

Một buổi sáng, tôi xuống kiểm tra nhà bếp của đại đội Hai. Mấy tên tù binh đang huỳnh huỵch bổ củi bên cái giếng to giữa sân đình, Benla đang thả gàu múc nước. Anh ta không múc bằng cái khau làm bằng mo cau mà bằng cả chiếc thùng gánh nước, kéo lên một cách nhẹ nhàng. Bên cạnh anh ta, Hồng tay áo xắn đến khuỷu, đang vùi hai cánh tay vào chiếc chậu gỗ cực lớn vo gạo. Dáng điệu anh tù - hàng binh từ tốn và rõ ràng tỏ ra ngoan ngoãn khi cô gái lắc đầu, hất mái tóc xoã che lấp khuôn mặt rám nắng. Họ nói chuyện với nhau bằng tiếng nói của mỗi người, bằng những cử chỉ và cả bằng mắt. Thỉnh thoảng, cô gái lại cười như nắc nẻ.

Tôi bước tới, lên tiếng:

- Chào cô Hồng! Thế nào? Benla, anh khỏe chứ?

Benla buông thùng, ưỡn ngực đứng nghiêm:

- Xin chào thiếu tá! Rất cảm ơn ngài.

- Cô nói chuyện gì với anh ta thế?

Cô gái bỗng đỏ mặt, ngượng nghịu bê thùng gạo ướt sũng đứng lên:

- Em đang tranh thủ dậy anh ta học nói đấy!

Cô gái đi rồi, Benla vẫn đứng nghiêm bên giếng nước nhưng ánh mắt đuổi theo cô gái. Mỉm cười, tôi hỏi:

- Benla, nghỉ! Cho phép anh ngồi xuống đây. Anh thấy cô gái Việt Nam của chúng tôi thế nào?

Benla xin phép ngồi bệt xuống sân gạch. Giọng anh ta trầm trồ:

- Tuyệt vời! Thưa ngài thiếu tá! Cô gái này đã cứu tôi thoát khỏi tử hình - anh ta cười ngượng ngập - tôi suốt đời biết ơn cô ấy.

- Anh thấy cô ấy thế nào?

- Một cô gái vị tha, hiền dịu và xinh đẹp, thưa ngài thiếu tá. Phụ nữ Việt Nam rất đẹp. Cô ấy giống như những cô gái đẹp nhất xứ tôi.

Hơn một tháng sau, thực hiện hiệp định Giơnevơ, chúng tôi đưa đoàn tù binh lúc này đã lại sức ra bãi biển Sầm Sơn. Hải Thôn là địa điểm được hai bên thỏa thuận để nhận người của mình.

Một chiếc cầu phao dài được bắc từ bờ cát ra biển, dùng làm cầu tàu. Hàng chục cổng chào kết lá dừa được dựng lên. Những lá cờ màu cùng những cờ Tổ quốc bay phần phật trong gió lộng như vẫy chào những người con ưu tú trở về. Nhân dân địa phương, đông đến mấy ngàn người, mặc quần áo ngày hội, tay cầm cờ, xếp thành hàng dọc lối đi. Những giây phút cực kỳ xúc động. Giữa những tiếng hò reo của trẻ em, tiếng hô khẩu hiệu của thanh niên, là tiếng nức nở của mẹ già. Nhân dân ôm lấy những con em mình áo nâu, đầu trọc, vừa cười vừa khóc.

Những cảnh tượng thiêng liêng ấy đập vào mắt những tù binh đang tập trung gần đấy, chờ đến lượt xuống thuyền ra tàu. Nhiều tên thẫn thờ, mắt đỏ hoe. Họ ăn mặc giống nhau: chiếc mũ lá rộng vành, bộ quần áo màu xanh lá cây, đôi dép cao su và một cái túi xách nhỏ đựng những vật dùng thường ngày.
Logged
chuongxedap
Đại tá
*
Bài viết: 13138



« Trả lời #55 vào lúc: 04 Tháng Giêng, 2023, 08:34:36 am »


Tôi đi dọc hàng tù binh, nói chuyện, khích lệ và tiễn biệt họ. Bỗng thấy Benla chạy tới, giọng hồi hộp trong hơi thở gấp:

- Kính chào thiếu tá! - Thưa ngài, tôi có thể nhờ ngài giúp cho một việc được không?

- Sẵn sàng lắm! Anh có việc gì cần?

Benla rút trong túi ngực ra một phong thư, vuốt ngay ngắn rồi trân trọng đưa cho tôi bằng cả hai tay:

- Xin ngài làm ơn đưa giúp bức thư này cho cô Hồng. Sáng nay vì đi vội nên tôi chưa kịp gửi.

- Tôi rất vui lòng chuyển giúp anh bức thư này đến tận tay cô ấy.

- Thưa thiếu tá, bức thư để ngỏ, xin ngài xem cho, và nếu ngài không cho là xấu, xin ngài chuyển giúp.

- Anh cứ yên tâm.

Tiếng còi tàu rít lên. Đoàn tù binh xếp hàng lần lượt bước xuống cầu phao. Tôi xắn quần đứng dưới mép nước, vẫy chào họ. Tù binh reo lên:

- Fini la guerre1.

- Rapatriement!2

Tiếng của Benla chìm trong những đợt sóng ập vào bờ:

- Mong có ngày được gặp lại ngài thiếu tá!

Trên đường về, tôi mở bức thư của Benla ra xem, theo yêu cầu của anh. Nét chữ đẹp, cứng cáp, viết bằng chữ Pháp:

Thưa cô Hồng
Tôi là người chịu ơn cô cứu sống. Suốt đời, tôi biết ơn và thờ phụng cô. Rồi đây, tôi sẽ trở về chiến đấu cho Tổ quốc tôi, cũng giống như cô đang chiến đấu cho Tổ quốc Việt Nam. Hình ảnh cô mãi mãi ngự trị trong trái tim tôi. Sau này tôi sẽ nên người một khi đất nước tôi được hoàn toàn giải phóng. Tôi nhất quyết xin trở lại đây để được gặp cô và xin với Chính phủ Việt Nam được đón cô về. Tôi tha thiết hy vọng ngày ấy cũng không quá lâu và cô cũng chưa quên kẻ bất hạnh nhưng hết sức trung thành với cô.
Môhamét Benla.


Cuộc gặp gỡ quốc tế của chúng tôi tại thành phố Hồ Chí Minh đã kết thúc. Chúng tôi bay ra Hà Nội, trái tim đất nước. Sau mấy ngày hoạt động thăm viếng, hôm nay, tôi lại được cùng các bạn đồng nghiệp đi tiễn những người bạn quốc tế về nước. Vì cương vị giao thiệp, tôi không được ngồi cùng xe với Apđun Môhamét. Mãi đến sân bay Nội Bài, tôi mới lại được gặp anh.

Môhamét thân thiết ôm lấy vai tôi. Một nụ cười hóm hỉnh hiện trên gương mặt cương nghị của anh:

- Bây giờ đã đến lúc tôi giới thiệu với anh về vợ con tôi. Hôm nọ anh có hỏi, nhưng vì chuyện cũng dài, và thú thật tôi định để đến lúc này mới nói với anh.

Môhamét rút ví lấy ra một tấm ảnh màu cỡ 9x13 đưa cho tôi. Nhìn qua cũng thấy ngay ảnh của gia đình anh: anh mặc bộ âu phục đứng giữa, bên một thiếu phụ và hai bên cậu con trai và cô con gái cũng đã lớn. Tôi khen xã giao:

- Đẹp lắm.

Nhưng Môhamét theo đuổi một ý nghĩ khác:

- Anh nhìn kỹ nhà tôi xem.

Tôi nhìn lại tấm ảnh. Người thiếu phụ uốn tóc cao, mặc áo xanh, váy trắng, nét mặt đầy đặn, xinh đẹp và thùy mị. Tôi mơ hồ thấy một gương mặt hơi quen. Bỗng tôi reo lên:

- Cô Hồng phải không?

Vẻ mặt Môhamét rạng rỡ hẳn lên:

- Trí nhớ anh thật tuyệt vời! Chính cô ấy đấy!

Tôi hết sức cảm động, nhìn kỹ tấm ảnh và thầm liên tưởng lại quãng ngày gian khổ hành quân trên đường 41 và cảnh tượng xảy ra tại cây số 42. Thấm thoát mà đã ba chục năm trời. Môhamét rút bút bi ghi mấy chữ nắn nót ở mặt sau tấm ảnh rồi đưa cho tôi:

- Xin tặng anh tấm ảnh này với tất cả ý nghĩa của nó.

Tôi tiễn anh đến tận chân cầu thang máy bay. Anh ôm hôn tôi nhiều lần, rồi trước con mắt ngạc nhiên của các bạn quốc tế và trong nước, anh bỗng đứng nghiêm, giơ tay lên vành mũ, giọng trang nghiêm:

- Merci bien mon commandant!

1984
___________________________________________
1. Chấm dứt chiến tranh.
2. Hồi hương!
Logged
chuongxedap
Đại tá
*
Bài viết: 13138



« Trả lời #56 vào lúc: 05 Tháng Giêng, 2023, 03:13:41 pm »


TRUNG ĐOÀN TRỞ LẠI ĐIỆN BIÊN (1958) BÁC HỒ ĐẾN THĂM VÀ ĐỘNG VIÊN
(trích Hồi ký)

ĐẶNG NGỌC LÂM1


... Tháng 3 năm 1958, chúng tôi được phổ biến Nghị quyết của Tổng quân ủy về nhiệm vụ của quân đội. Trong Nghị quyết, Tổng quân ủy quyết định điều chỉnh kế hoạch, giảm bớt tổng số quân đồng thời tận dụng khả năng của quân đội trong việc xây dựng kinh tế, phát triển sản xuất. Kế hoạch đề ra biện pháp cụ thể nhằm tăng cường phòng thủ miền Bắc, chuẩn bị sẵn sàng đối phó khi chiến tranh xảy ra.

Chúng tôi được biết, trong Hội nghị cấp cao toàn quân ngày 20 tháng 3 năm 1958, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ ra nhiệm vụ của quân đội là: "Một là xây dựng quân đội ngày càng hùng mạnh và sẵn sàng chiến đấu để giữ gìn hòa bình bảo vệ đất nước, bảo vệ công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc và làm hậu thuẫn cho cuộc đấu tranh thống nhất nước nhà. Nhiệm vụ đó bao gồm xây dựng quân đội thường trực và xây dựng lực lượng hậu bị.

Hai là tích cực tham gia sản xuất để góp phần xây dựng kinh tế, xây dựng và củng cố quốc phòng
".

Hai nhiệm vụ đó đều rất quan trọng, nhất trí và kết hợp chặt chẽ với nhau vì đều làm cho quân đội ta ngày càng hùng mạnh và miền Bắc ngày càng vững chắc.

Trong tình hình đó, chúng tôi nghĩ rằng là một trung đoàn nằm trong đội hình của sư đoàn được ra đời và trưởng thành trên núi rừng Việt Bắc, là một đơn vị đánh giỏi trên chiến trường miền núi, đã có truyền thống trong chiến dịch Đông Khê và đường 4 anh hùng, là một đơn vị chiến đấu anh dũng ở chiến dịch Điện Biên Phủ, là đơn vị chủ yếu chiến thắng ở đồi A1 góp phần giải phóng Điện Biên "chấn động địa cầu", cán bộ, chiến sỹ rất thuộc địa hình Tây Bắc, gắn bó với đồng bào các dân tộc Tây Bắc, nay trở lại Điện Biên, mảnh đất còn nóng bỏng chiến công, và thấm máu bao đồng đội, cán bộ và chiến sỹ của trung đoàn nên đã nhận rõ vinh dự và trách nhiệm lớn lao trước nhiệm vụ của Đảng và quân đội giao.

Giữa lúc trung đoàn đang khẩn trương triển khai nhiệm vụ thì chúng tôi nhận được điện triệu tập về sư đoàn nghe Bộ về giao nhiệm vụ và động viên. Chúng tôi dự đoán chuyến này thế nào cũng được gặp Đại tướng Võ Nguyên Giáp và nghe Đại tướng nói chuyện.

Khi về đến nơi, tập trung tất cả ở hội trường lớn của sư đoàn thì mới được nghe phổ biến chuyến này Bác Hồ cùng về với Đại tướng, chúng tôi rất phấn khởi, náo nức chờ đón Bác; mọi người đều quay ra cửa lớn của hội trường để nhìn Bác rõ hơn.

Chúng tôi nghe tiếng xe của đoàn ô tô, đoán là Bác sắp đến, mọi con mắt đều nhìn ra cửa lớn chờ. Trong khi mọi người đang thấp thỏm thì nghe thấy một số người ở phía sau reo ồ lên, chúng tôi quay mặt lại thì đã thấy Bác bước từ cửa sau hội trường lên sân khấu, chúng tôi ngớ ra, đồng thời lúc đó đoàn của Đại tướng Võ Nguyên Giáp và đồng chí Chu Huy Mân cùng đoàn cán bộ của Bộ mới xuất hiện ở cửa lớn vào hội trường.

Về sau, chúng tôi nghe các đồng chí ban tiếp đón kể chuyện lại xe ô tô chở Bác đi ở đầu đoàn xe, không đi ở giữa đoàn xe, khi gần đến nơi xe Bác tách ra đi trước vào chỗ của Bộ Tư lệnh sư đoàn và đi thăm chỗ ăn, ở của đơn vị, sau đó Bác mới đến hội trường.

Ở trên sân khấu của hội trường lúc đó đã bầy sẵn bàn, rải khăn trắng và 3 chiếc ghế. Bác ngồi giữa, Đại tướng ngồi bên phải, đồng chí Chu Huy Mân - Chính ủy quân khu Tây Bắc ngồi bên trái.

Sau khi Đại tướng nói ngắn gọn nhiệm vụ của sư đoàn, Bác mới từ tốn nói với tất cả cán bộ: "Trung ương Đảng và Chính phủ sẽ theo dõi sự cố gắng và mỗi thắng lợi của đơn vị, sẵn sàng khen thưởng các đơn vị và cá nhân xuất sắc. Bác trao cho đơn vị 100 cái huy hiệu làm giải thưởng trong bước đầu và mong tất cả các chú sẽ làm tròn nhiệm vụ thi đua cùng với toàn dân thực hiện kế hoạch dài hạn của Nhà nước".

Cuối cùng Bác hỏi: "Nhiệm vụ lên Điện Biên Phủ khó khăn, phức tạp lắm, sư đoàn đã thắng Tây ở đây, nay có thắng được nghèo nàn lạc hậu ở Điện Biên Phủ không?". Cả hội trường đứng dậy đồng thanh hô lớn: "Quyết tâm hoàn thành được ạ".

Trước khi ra về, Bác tặng sư đoàn bài thơ:

        "Đá rắn, quyết tâm ta rắn hơn đá2
        Núi cao chí khí ta còn cao hơn.
        Khó khăn ta quyết vượt cho kỳ được
        Gian khổ không làm lòng ta sờn.
        Đảng phái ta làm mặt trận sản xuất.
        Nhiệm vụ ấy ta quyết tâm làm cho tròn.
        Đội ơn đào tạo người, quân đội.
        Quyết chí đền bù nghĩa nước non!".


Thực hiện quyết tâm và lời hứa với Bác, đầu tháng 4 năm 1958, trung đoàn bắt đầu hành quân theo đường 6 lên Tây Bắc, tiến quân vào Điện Biên, ngày đi đêm nghỉ hàng tháng trời, trên con đường mà chúng tôi đã hành quân vào giải phóng Điện Biên.

Khi đội hình của sư đoàn đến Điện Biên, thực hiện Nghị quyết của Tổng quân ủy và chỉ thị của Bộ Tổng tham mưu, ngày 14 tháng 4 năm 1958 Đảng ủy sư đoàn ra Nghị quyết tổ chức lại lực lượng theo phương hướng rút bớt lực lượng thường trực như sau:

- Giải thể trung đoàn 174, lấy trung đoàn 174 làm nòng cốt tổ chức thành các tiểu đoàn bộ binh và các tiểu đoàn thông, công, pháo trực thuộc, tổ chức thành Lữ đoàn 316 để làm nhiệm vụ huấn luyện, sẵn sàng chiến đấu.

- Tổ chức trung đoàn 98 thành công trường làm đường, có nhiệm vụ làm đường từ Tuần Giáo đến Điện Biên.

- Tổ chức trung đoàn 176, tổ chức thành từng đội sản xuất, trang bị công cụ sản xuất, tổ chức thành nông trường Điện Biên.

Như vậy, sư đoàn thành 2 khối rõ rệt, khối sẵn sàng chiến đấu và khối sản xuất.

Trong không khí đơn vị bắt tay vào nhiệm vụ huấn luyện và sản xuất thì chúng tôi, một số chính trị viên tiểu đoàn gồm các anh: Trần Quế, Đoàn Độ, Đoàn Khoát, Tuấn Phi, Bùi Tố Tọa và tôi được lệnh đi học khóa 2 trường Trung học chính trị (nay là Học viện chính trị) lúc đó trường đang ở trường "An-be Sa-rô" trước dinh Hồ Chủ tich. Khóa đó trường chúng tôi chuyển khắp Hà Nội, từ "An-be Sa-rô" đến Đồn Thủy, Bạch Mai, Quần Ngựa để sau này trở lại xây dựng Tây Bắc.
____________________________________________
1. Nguyên chính trị viên Tiểu đoàn 251.
2. Bài thơ trích ở cuốn Lịch sử quân khu 2 xuất bản năm 1996.
Logged
chuongxedap
Đại tá
*
Bài viết: 13138



« Trả lời #57 vào lúc: 05 Tháng Giêng, 2023, 03:19:58 pm »


TRÍCH NHẬT KÝ CỦA LIỆT SĨ NGUYỄN XUÂN DƯƠNG
(Hy sinh trên đất Lào)


Ngày 02/01/1965

Chúng tôi đã bước chân vào đất Lào 15 ngày đêm rồi. Một cảm giác miên man: đất nước Triệu Voi ngày đêm chiến đấu với nắng mưa, sông suối, ngày đêm chiến đấu với quân Mỹ ăn cướp, tụi Phu-mi dại dột1.

Chúng tôi bước đi 15 ngày, 15 ngày liệu đã được một phần nhỏ tỉnh SN2 này chưa nhỉ?

Sông suối, con người, một cảm giác quen quen. Thái độ niềm nở ân cần của người dân lao động. Tôi muốn yêu con suối, ngọn đồi như quê hương mẹ đẻ của tôi.

Tôi thấy mến mến thương thương từ miếng nương phát dở tới bản nhỏ ven rừng. Mến thương con người cùng khổ đã cùng dân Việt Nam chiến đấu hơn 80 năm trời nay vẫn sống trong bom đạn của chiến tranh.

Những sự xúc động đến chảy nước mắt, người dân ấy tôi thấy vẫn là cả một mùa xuân.

Đúng, chiến đấu, phải chiến đấu, vui lên mà chiến đấu – chiến đấu – đem lại hạnh phúc cho dân Lào, cho những người cùng đinh khốn khổ. Chiến đấu đề rừng ban kia mãi mãi nở hoa, cho toàn nước Lào sẽ tới tương lai.


Ngày 13/01/1965



- Báo cáo, no thì chưa no, nhưng nếu chỉ được 1/2 bát, chúng tôi cũng sẵn sàng vui vẻ. Tôi im lặng rồi nói:

- Đúng chúng ta là quân đội của nhân dân, từ nhân dân mà ra, vì nhân dân mà chiến đấu, dân no thì ta no, dân đói ta cũng chịu đói. Chúng ta còn phải chịu đựng gian khổ hơn thế này nữa, có khi hàng tuần không có một hột gạo. Lúc bấy giờ, chúng ta sẵn sàng chịu đựng, vả lại nếu như có địch, chúng ta vẫn có một sức mạnh phi thường làm cho chúng thất điên bát đảo vì mấy thằng nhịn đói hàng tuần này.


Ngày 14/01

Nằm xuống, tôi vẫn nghĩ đến những người dân chiều nay tản cư ngoài rừng. Từng đàn quạ đen của địch đến bất chợt ném bom. Các mẹ, các em nhìn chúng tôi chứa chan tin tưởng: “Các anh sẽ giải phóng bản mường!”

... Hôm nay tôi, Lai, Hưng và đồng chí bt đi nghiên cứu trận địa phục kích bọn F3. Chúng tôi phải luồn qua bao rừng rậm, suối sâu đến mấy bản địch đốt phá tan hoang, dân ở đây phải lang bạt vào rừng...

Lúc về dọc đường lại bàn đi lấy hoa chuối rừng về cho chiến sĩ. Chả là hơn nửa tháng nay chỉ cơm với mắm và muối thôi mà. Bước đầu gian khổ tôi cảm thấy cuộc sống chứa chan ý nghĩa.

Thế là bt với ba thằng chúng tôi lại trốn vào rừng đi tìm hoa chuối. Chiều nay tiểu đội tôi được bữa tươi.


Ngày 15/01

Sáng nay đi trinh sát trận địa với bt, lòng dạ lâng lâng khi nhận những nhiệm vụ khó khăn.

Rừng gỗ sum suê, đây mà giấu quân thì tuyệt. Lấy thuốc ra hút, bt Khiêm nói với tôi:

- at4 Dương có lẽ nóng ruột lắm nhỉ?

Tôi không trả lời ngay, mỉm cười rồi thưa:

- Cũng không nóng ruột lắm đâu! Nhưng cũng muốn quật luôn một trận xem sức ra sao, bt ạ.

Đồng chí ấy cười nhìn tôi:

- Cứ bình tĩnh, rồi sẽ được liên tục đó!

Tôi đã mừng thầm. Tưởng tượng lại những phút ác liệt và những chiến công tôi cũng như chiến sĩ của tôi sắp lập được sẽ như thế nào?
____________________________________________
1. Chính quyền tay sai của Mỹ.
2. Sầm Nưa.
3. Bọn lính ngụy Phu-mi.
4. Tiểu đội trưởng.
Logged
chuongxedap
Đại tá
*
Bài viết: 13138



« Trả lời #58 vào lúc: 05 Tháng Giêng, 2023, 03:22:33 pm »


Ngày 17/01/1965

Tôi đào xong công sự cá nhân, đi kiểm tra công sự của chiến sĩ. Đá nhiều, rễ cây cũng nhiều, qua một ngày, một đêm hành quân rừng, suối. Mệt chứ sao không mệt, nhưng anh em rất hăng say. Hăng lắm. Trời rét thế nhưng người nào cũng như từ trong bếp mùa hè mới ra...

Trời sẩm tối.

Chuẩn bị xuất quân tiếp cận!


Ngày 21/01

Vào lúc 3 giờ sáng, súng của ta tấn công dữ dội. Không ngủ được, tôi đang ước mơ một điều gì sung sướng nhất, một điều mà quân ta sẽ đại thắng!

Lẽ dĩ nhiên chúng tôi đánh là phải thắng. Hôm nay, chúng tôi ngóng đợi lệnh mà chẳng thấy gì.

Được, cứ sẵn sàng. Sẽ đánh chứ sao!


Ngày 22/01

Thật là vinh dự cho cả tiểu đội tôi được đi làm nhiệm vụ bảo vệ chính ủy đoàn1. Tiểu đội tôi chỉ còn đúng năm thằng (ba ốm). Đồng chí tiểu đội phó đi công tác. Uyển và Chuẩn đi đầu, chúng nó cũng tài thật, mò đúng đường... Trời đã tối rồi, chẳng hiểu ngày âm lịch là bao nhiêu nữa, nhưng lâu lắm trăng mới mọc. Trời tối như mực, cái đoạn đường từ Phù Việt tới chỉ huy sở2 sao mà khó đi thế! Đêm càng rét, nhưng bình toong nước đã vơi đi 2/3 rồi. Giả sử cứ thả cửa thì quẳng cho tôi ba bình toong cũng sẽ kiệt cả ba. Qua bản Na Kha được lệnh dừng lại ăn, giở chiếc bánh chưng gói từ hôm 18 ra vẫn còn ngon. Đời bộ đội thế này có gì là lạ nhỉ?


Ngày 23/01

Ăn cơm sáng xong, chừng 10 phút đồng hồ, đồng chí cần vụ chính ủy xuống báo cho tôi lên gặp chính ủy. Tôi vội đeo trang bị và gọi Chuẩn cùng đi.

- Báo cáo, tiểu đội trưởng Xuân Dương có mặt!

Chính ủy cười và nói:

- Thế này đồng chí nhé. Tình hình thay đổi, hiện nay trung đội 20 nó bảo vệ tuyến đường trục và phòng ngự ở mỏm 1790 không làm nhiệm vụ ấy nữa. Phân đội đồng chí tới đó thay thế. Tình hình thế nào trao đổi với đồng chí trung đội trưởng chuẩn bị cho đi.

- Rõ, báo cáo, chúng tôi đi.

Thế là không được đi bảo vệ chính ủy nữa rồi. Phổ biến cho tiểu đội xong, vẻ mặt mọi chiến sĩ thấy một điều gì khang khác. Xuất phát lúc 10 giờ, tới vị trí lúc 12 giờ. Vừa đến xong thì một loạt máy bay đã vè vè trên đầu, rốc-két chúng bắn như mưa. Một quả bom làm công sự tôi rụng xuống bao nhiêu là đất. Rồi hai quả, ba quả, nhiều quả, mảnh bom như xé không khí, như phạt hết cả khu rừng tiểu đội tôi chiếm đóng...


Ngày 24/01

... Lúc 3 giờ sáng hôm nay, chúng tôi được lệnh chuyển quân. Trên dọc đường đi sặc nồng khói lửa của bom đạn quân thù trút xuống chiều qua.

Tụt khỏi một con dốc, tôi thấy mấy đồng chí Phathét (Lào) đang ngồi nghỉ. Chiếc đài thu thanh Phathét ấm ấm đều đều... Thấy chúng tôi ngồi nghỉ, các đồng chí mời thuốc và vặn luôn đài Hà Nội. Đúng giờ ca nhạc.

Chà ruột gan sao bồn chồn thế hở? Xa tổ quốc mới ít bữa thôi mà cứ như là xa hàng bốn năm năm gì gì rồi ấy.

Nghe đài Hà Nội, tôi lại càng nghĩ tới cái Tết sắp đến rồi. Hôm nay 22 tháng Chạp rồi à? Thế là còn tám ngày nữa là Tết Nguyên Đán ư? Bây giờ, quê hương, gia đình, người yêu thế nào nhỉ? Chắc nhớ hơn là tôi nhớ. Chẳng sao, Tết này là ba Tết xa gia đình rồi. Có lẽ Tết này đặc biệt nhất, một cái Tết ý nghĩa quốc tế cao cả. Tôi đang từng giờ, từng phút sôi máu chiến đấu cho Tổ quốc mãi mãi hưởng Tết yên vui.

Ước gì đúng mồng 1 Tết cấp trên cho đi diệt đồn nhỉ!


Ngày 25/01

Giở ảnh Hoa ra nhìn. Chà, cô ấy cười làm cho lòng dạ tôi càng bồi hồi. Sao mà xinh thế hở “cô bé Việt Nam”! Chỉ nhìn thấy nụ cười khá xinh trong ảnh thôi mà đã hồi tưởng lại muôn vàn ngày thơ ấu. Lý trí và tình cảm đã quyện thành sức mạnh bất tận của tuổi trẻ. Hoa - cô bạn gái thôi - nhưng thật đậm đà thắm thiết làm sao!

Tôi ân hận mãi một sự lãng trí đáng trách của tôi. Để cho sự mong ngóng mãi mãi chẳng đáp lời, hay là vì lý trí quá mà tôi dạo ấy đã quá quên tình cảm. Bây giờ thì dù tôi có muốn cũng muộn rồi. Tôi phục cô ấy lắm vì tình cảm của cô ấy là cả một sự chân chính xuất phát từ đáy lòng tốt của cha mẹ và tình cảm đậm đà, chân thật của cả hai. Thú thật với nhật ký là tôi nhớ cô ấy lắm. Ước gì có một đôi cánh để bay nhỉ! Xa Tổ quốc hơn một tháng rồi, nhưng với cô ấy thì xa gần ba năm rồi kia. Chà, chắc là cô ấy thương tôi lắm nhỉ? Chiều rừng núi Thượng Lào hôm nay đẹp quá! Nhìn rừng ban, rừng mận, rừng đào đang đua nở là nhớ tới mùa xuân của quê hương, con sông Nhuệ. Nói lại một tí về xuân nhé. Tôi cứ nhớ mãi Tết 1961 tôi với Hoa giận nhau cả ba ngày. Thật là buồn cười cho cái giận của hai “đứa nhãi” hồi xưa.

Trời tối rồi, ghi không rõ nữa, hẹn nhật kí buổi sau em nhé.
______________________________________________
1. Đồng chí Hoàng Danh Trà.
2. Chỉ huy sở trung đoàn.
Logged
chuongxedap
Đại tá
*
Bài viết: 13138



« Trả lời #59 vào lúc: 05 Tháng Giêng, 2023, 07:52:13 pm »


Ngày 30/01

Thật là đột ngột vô cùng, nhận được thư của Hoa. Thế là họ đã cưới nhau vào ngày hôm nay. Cái ngày mà tôi tập trung tinh thần và sống chết với quân thù. Về thế nào được mà năn nỉ? Không về được mà cũng không nói: Tôi đang chiến đấu ở đất Lào.

Chúc các bạn hạnh phúc nhé! Khi xuân về hoa nở khắp đó đây, tôi chiến đấu xây cho các bạn ấm tổ uyên ương...


Ngày 31/01

Thật là xấu số, mình lại ốm à? Thấy anh em vui, cũng cố dậy vui, nhưng được một lúc lại chóng mặt, hoa mắt, lại nằm. Thú thực là cứ lo ngay ngáy.


Ngày 01/02

Cả đêm hôm qua không ngủ được. Bụng cứ òng ọc suốt đêm, hai thái dương dật dật như chiếc máy chạy ấy. Sáng hôm nay cũng cố dậy sớm gọi chiến sĩ thức dậy. Tôi cố sức làm với trạng thái bình thường. Nhưng sự khó chịu của cơ thể lại đưa về nhăn nhó. Giục anh em đi làm mà tôi không đi thật là xấu hổ. Đi ngoài cả ngày nay 8, 9 lần, nhọc lắm rồi. Tôi mà buồn thì hỏng hết. Sống ở rừng núi đất nước bạn, ăn Tết rất nghèo nàn. Không khéo có cậu trẻ sẽ khóc. Thật là phức tạp ở công tác tư tưởng đối với một tiểu đội trưởng.

...Hôm nay mới 30 Tết thôi, còn ngày mai? Tôi phải suy nghĩ rất nhiều về ngày mai, mình phải làm gì về công việc này?


Ngày 02/02

(Mồng 1 Tết 1965)1 cái Tết mà chúng tôi hưởng một số vật chất ít thôi. Nhưng vui lắm. Chúng tôi vui lắm đón xuân của dân tộc ở khu rừng vắng Sầm Nưa này. Mai đây sẽ đón xuân bằng những tràng tiểu liên, sau đó là hàng loạt quân thù gục ngã.


Ngày 06/02

Được lệnh xuất quân đi Xiêng Khoảng, phen này Dương sẽ nghĩ sao? Sẽ lập công chứ? Ừ, nhất định sẽ lập công.

Phải chiến đấu dũng cảm

Phải chỉ huy tiểu đội thật linh hoạt.

Nguyễn Xuân Dương phải thực hiện:

1. Bảo đảm quân số 100% tới đích, hoàn thành nhiệm vụ xuất kích ngay.

2. Chiến đấu dũng cảm, ngoan cường, cơ trí, linh hoạt, bình tĩnh trong mọi tình huống.

3. Tiêu diệt sinh lực địch

4. Nghiêm chỉnh chấp hành các chính sách dân vận, tù hàng binh, chính sách thương binh tử sĩ, chính sách chiến lợi phẩm.

5. Chấp hành mọi chỉ thị, mệnh lệnh của cấp trên.


Ngày 08/02

Đơn vị trú quân khi còn chưa rõ mặt người. Đồng chí tiền trạm dẫn tới chỗ trú quân của tiểu đội tôi. Tôi nghiên cứu địa hình xong rồi phân công cho từng tổ.

Tiếng cuốc xẻng lịch kịch chỉ trong loáng mắt công sự đã xong rồi. Trời sáng dần, đã nhìn được xa khỏi khu rừng. Đẹp quá, những hàng cây mắc cọt nở hoa trắng xóa khắp nơi.

Gió nhẹ của mùa xuân thổi từ trên đỉnh núi xuống rừng hoa. Hoa rung rinh tung ra những cánh rơi xuống phủ trên miệng công sự, phủ trên chiếc chăn đã bạc màu của chúng tôi. Nằm xuống mà còn nghe gió nhẹ vi vu, nước dạt dào của con suối đâu đây.

Mệt nhọc của một đêm hành quân đã làm cho "thằng ngủ" quyến rũ tôi vào mộng...


Ngày 10/02

Toàn đơn vị được ở đây 1, 2 ngày thì tôi được lên gặp thủ trưởng liên đội. Thế là chi đội tôi lại rút, sáng hôm nay ra đi trước, trang bị nặng hơn trước nhiều. Tôi phải đeo thêm tám bánh chưng, mỗi chiếc một cân, hai ngày lương khô. Hai nắm cơm to như hai bát điếu để ngày nay "kin" chứ! Mang thêm cho trung liên 150 viên đạn, 2 quả B40. Chà nặng thật!

...Tối nay lại phải đi luôn vì phải nhanh chóng vượt qua đồn giặc. Đi khoảng 6 km, mấy ông tướng đi đầu để lộ, thế là 5 quả cối 81 liền xoạch xoạch oành oành ngay trong thung lũng, trên đỉnh đồi. Toàn tiểu đội tôi giữ đội hình tốt, ai cũng nằm dạt xuống để tránh những quả cối của địch.

Mẹ kiếp! Vài hôm nữa thôi con ạ, chúng ông sẽ sửa cho bọn khốn nạn này!


Ngày 19/02

... Đóng ở một mỏm cách địch chừng 300m. Chúng đi lại, chỉ trỏ ra vẻ "bọ xít" tợn. Từ lúc đến đây tôi đã phải chịu đựng 35 quả đạn 106,7 ly của địch. Cứ phải nằm hầm. Chà cái hầm không duỗi được (chân), khổ quá! Tiểu đội tôi còn vẻn vẹn có 3. Ai mà không đau lòng?

Hơn lúc nào hết, tôi muốn phanh thây mấy thằng giặc ở đồn kia ra ngay bây giờ. Thôi cứ yên chí. Tối nay hoặc tối mai thôi mà!


Ngày 20/02

Đã 13 hôm nay rồi Dương không được tắm, không được rửa mặt. Chà, khó chịu thật!

Chiều hôm nay cùng với cán bộ toàn C đi trinh sát trận địa. Vinh dự quá, tiểu đội trưởng Nguyễn Xuân Dương được chỉ huy một mũi thọc sâu. "Thọc sâu à?" Dương thở dài một cái thật là dễ chịu. Chẳng bao giờ tôi nghĩ sướng như bây giờ. Tôi nhớ lại hồi năm 62 đã có lần được gặp Giáp Văn Khương kể thời gian anh làm tiểu đội trưởng thọc sâu. Nhớ lại và cố tìm ra những điều vận dụng vào ngay trận đánh này.


Ngày 21/02

... Mãi chẳng đánh, nằm đây buồn quá!

Không hiểu sao sáng nay nằm mơ thấy Dương lại ở quê. Mẹ Dương, các em Dương, bạn gái và bạn trai Dương thấy Dương về đều sung sướng! Dương đi lại khắp xóm làng, đi sang cả Hoàng Dương, đi cả Viên Ngoại, Vân Đình.

Gặp cô Lê Hoa thấy cô ấy bụng đã khá to, gặp cả những cô Hoài, Tuất. Mê gì mà mê khỉ thế!


Ngày 22/02

Ngày hôm nay Dương chuẩn bị cho Dương, chuẩn bị và kiểm tra trong tiểu đội. Tối hôm nay đi giọt nhau. Tiểu đội thọc sâu, nhiệm vụ nặng nề, nhưng vô cùng vẻ vang khi hoàn thành. Hồi hộp như khi ở nhà đi học, đến ngày vào buồng thi, không hiểu đỗ hay trượt. Nhưng, đây là nhiệm vụ chiến đấu bằng vũ lực, có thể nói được chết hay sống không? Không, nhất thiết là không.

Trong cuộc đấu tranh giữa hai con đường, hai giai cấp, người trực tiếp cầm súng chiến đấu cho một mục tiêu của mình, lẽ dĩ nhiên sẽ có hi sinh. Nhưng Dương không thể nói được là "đỗ" hay không, sống hay chết, mà chỉ nói được Dương liệu có hoàn thành nhiệm vụ một cách xuất sắc hay không? Trả lời đi Dương! Chẳng phải giục như thế. Hoàn thành xuất sắc chứ sao! Vì có Đảng cạnh mình, có cấp trên sáng suốt, có chiến sĩ của Dương vững vàng.

Hẹn nhật kí mai Dương sẽ kể chuyện chiến đấu nhé.

Hôn em!


VÀI LỜI CỦA NGƯỜI BIÊN TẬP

ĐỖ CA SƠN


Đồng chí Nguyễn Xuân Dương, tiểu đội trưởng thọc sâu của C10/D3/trung đoàn 174 của chúng ta, đã ngã xuống trong trận đánh sau đó một ngày (ngày 23/02/1965).

Tôi xin kể vắn tắt bằng cách nào chúng ta lại có được di vật thiêng liêng này của liệt sĩ Nguyễn Xuân Dương. Một ngày đầu tháng 8/2003, trong buổi gặp anh Hoàng Thúy Toàn (nguyên Phó giám đốc NXB Văn học, hiện là Giám đốc Trung tâm Văn hóa Ngôn ngữ Đông Tây) để bàn về việc biên tập và in ấn tập Hồi kí của Trung đoàn ta, anh Thúy Toàn cho biết là anh đang giữ một cuốn nhật ký của một chiến sĩ Trung đoàn 174 đã hi sinh trên đất Lào. Cuốn nhật ký này được trao cho Chính ủy trung đoàn, lúc đó là đồng chí Hoàng Danh Trà. Trước khi chỉ huy Trung đoàn 174 đi B, anh Trà đã trao lại cho em trai mình chính là nhà văn - dịch giả Thúy Toàn, và anh Toàn đã gìn giữ cuốn nhật ký này suốt 37 năm nay. Đó là một cuốn số nhỏ vừa bằng lòng bàn tay, viết bằng chữ nhỏ li ti mà thời gian đã làm phai nhòa nét mực. Đọc những dòng viết của anh Nguyễn Xuân Dương, tôi thực sự xúc động, như anh Thúy Toàn đã xúc động khi đọc trước đó. Anh Toàn và tôi quyết định đi tìm thân nhân liệt sĩ Dương để trao lại cuốn nhật ký, trong đó thể hiện rất nhiều phẩm chất cao đẹp, trong sáng của một chiến sĩ Trung đoàn 174 qua chiến đấu cũng như trong tình cảm riêng tư.

Chúng tôi đã tìm đến sở Lao động Thương binh và Xã hội Hà Tây và được các đồng chí ở Phòng Chính sách, đặc biệt là đồng chí Đinh Duy Phúc tận tình giúp đỡ. Sau khoảng một tuần tìm kiếm trong kho lưu trữ hàng vạn hồ sơ liệt sĩ của tỉnh (vì chúng tôi không có một cứ liệu nào về quê quán của liệt sĩ Dương, chỉ phỏng đoán là ở vùng Hà Đông, nơi có con sông Nhuệ chảy qua), chúng tôi đã xác định được nơi sinh ra của anh Dương: xã Cao Thành, huyện Ứng Hòa, Hà Tây.

Vài hôm nữa chúng tôi sẽ đi gặp những người thân của liệt sĩ Nguvễn Xuân Dương để bày tỏ những tình cảm sâu sắc nhất của mình đối với liệt sĩ và gia đình liệt sĩ...

10/9/2003
_____________________________________________
1. Tết Ất Tỵ
Logged
Trang: « 1 2 3 4 5 6 7 8 »   Lên
  In  
 
Chuyển tới:  

Powered by MySQL Powered by PHP Powered by SMF 1.1.21 | SMF © 2006-2008, Simple Machines

Valid XHTML 1.0! Valid CSS! Dilber MC Theme by HarzeM