Lịch sử Quân sự Việt Nam
Tin tức: Lịch sử quân sự Việt Nam
 
*
Chào Khách. Bạn có thể đăng nhập hoặc đăng ký. 29 Tháng Ba, 2024, 04:51:54 pm


Đăng nhập với Tên truy nhập, Mật khẩu và thời gian tự động thoát


Trang: « 1 2 3 4 5 6 7 8 »   Xuống
  In  
Tác giả Chủ đề: Đường 5 anh dũng quật khởi - Tập 20  (Đọc 2015 lần)
0 Thành viên và 1 Khách đang xem chủ đề.
dungnuocgiunuoc
Thành viên
*
Bài viết: 614



« Trả lời #20 vào lúc: 21 Tháng Mười Một, 2022, 07:48:54 pm »

NHƯ CON MỘT NHÀ


PHẠM SĨ CẢO

Tôi tuy ở tỉnh Thái Bình
Nhưng coi Ngoại Bối, Đông Ninh... quê mình
Quân y địch hậu, thương binh
Được dân đùm bọc trong tình yêu thương.
Sống ngâm thịt, chết ngâm xương
Quanh năm đồng bãi, bữa thường cà, tương
Chắt chiu cơm gạo, dân nhường
Rút ngắn ngày chữa vết thương kéo dài.
Địch càn vây kín trong ngoài
Thương binh, y - tá tìm hoài chẳng ra
Kể từ chiến thắng về ta
Năm chục năm trước, như là hôm nay
Bây giờ gặp lại nhau đây
Nhớ ngày chia sẻ đắng cay, ngọt bùi
Nhớ người đỡ khuất, ngậm ngùi
Cầu khấn về hưởng niềm vui đời đời
Không còn nghèo khổ nữa rồi
Xã anh hùng đất đâm chồi nở hoa!
Xin chúc Ngoại Bối quê ta
Thêm nhiều thành tích tiếp đà vươn cao
Giữ vững truyền thống, phong trào
Xây đời hạnh phúc, vui nào vui hơn
Chúng tôi ghi nhớ công ơn
Nguyện cùng dân bãi như con một nhà!
Logged
dungnuocgiunuoc
Thành viên
*
Bài viết: 614



« Trả lời #21 vào lúc: 21 Tháng Mười Một, 2022, 07:49:57 pm »

CHIẾN CÔNG CỦA NGƯỜI ANH HÙNG Ở XÃ LIÊN MẠC, HUYỆN THANH HÀ


ĐẶNG VĂN TƯ
(Nguyên Trưởng công an xã Liên Mạc
nguyên Trưởng công an huyện Thanh Hà)


Từ năm 1950, xã Liên Mạc, huyện Thanh Hà, Hải Dương đã lọt vào giữa vòng vây đồn địch ở đường số 5, Đại Điền, Cổ Chẩm và bốt Liên hiệp Pháp Đò Hương. Các bốt này cách xã chỉ khoảng 3-4 km. Đặc biệt giặc Pháp đưa quân về chiếm đóng thôn Văn Mạc, trang bị vũ khí cho một số tên phản động, tổ chức tề binh, xây bốt chiếm đóng.


Văn Mạc là một trong 4 thôn của xã Liên Mạc (Mạc Thủ, Tiêu Xá, Mạc Đông và Văn Mạc). Khi bọn phản động về lập bốt ở thôn này thì hầu hết cán bộ, du kích Văn Mạc đều phải chạy sang Mạc Thủ. Những tên phàn động ở đây thường đưa bọn lính ở bốt Cổ Chẩm về Văn Mạc để càn quét các thôn trong xã, vây bắt cán bộ du kích, cướp lương thực, trâu bò, lợn gà..., tìm cách dụ dỗ lôi kéo một số người đứng ra lập tề theo chúng nhưng không thành.


Năm 1950, nhân dân xã Liên Mạc ở vào thế chống đỡ, gặp nhiều khó khăn, gian nan nguy hiểm. Bọn phản động ở Văn Mạc phối hợp với bốt Cổ Chẩm tổ chức nhiều toán biệt kích vây ráp, lúc đưa quân bao vây từ tờ mờ sáng, lúc chia từng toán nhỏ đóng giả người đi làm đồng từ Văn Mạc tràn sang (vì Văn Mạc cách Mạc Thủ chỉ một cánh đồng), lúc giả làm người đi chợ gánh hàng rồi bất ngờ rẽ vào xóm quây bắt. Ban đêm chúng đột nhập vào Mạc Thủ, Tiêu Xá bắt du kích, thanh niên... Thời gian đầu, địch đã bắt được 9 người dân đem cắt cổ, mổ bụng rồi treo xác lên cây đa Quán Rọc hòng uy hiếp tinh thần kháng chiến của dân trong xã.


Chi ủy và xã đội xã Liên Mạc (thời gian này đồng chí Nguyễn Quang Tỵ còn làm bí thư chi bộ) đã họp bàn rút kinh nghiệm, củng cố phát triển lực lượng du kích, bổ sung thêm kế hoạch tuần tra canh gác, báo động liên hoàn, coi trọng địch từ phía Văn Mạc, phân tán nhỏ thành từng tổ du kích để hoạt động. Ban đêm phải ngủ phân tán từng xóm. Nhiều gia đình ngủ tập trung vào một nhà để bảo vệ lẫn nhau. Địch đến thì đấu tranh kêu la ầm ĩ. Mọi người phải đào thêm hầm bí mật, hầm tránh phi pháo, cất giấu thóc lúa. Cán bộ du kích phải nằm gần hầm bí mật, phải thay đổi địa điểm ngủ để tránh địch đột kích bất ngờ. Nam nữ thanh niên thì tìm cách tránh ra cánh đồng, bãi... Xã giao cho đồng chí Nguyễn Đức Tụng, xã đội phó, đôn đốc thực hiện, kiểm tra. Tụng là cán bộ đảng viên trẻ khỏe, gan dạ xông pha, được du kích và nhân dân tin tưởng. Xã Liên Mạc thời kỳ đó có xã đội trưởng Ngô Bá Kiệt, xã đội phó Nguyền Đức Tụng là trụ cột của du kích. Bọn phản động ở Văn Mạc rất kiềng hai anh, bọn chúng luôn tìm cách bắt hoặc triệt hạ các anh.   


Nhờ có kế hoạch chiến đấu, bảo vệ dân làng, nên một năm trời (1950-1951), địch ở bốt Cổ Chẩm và Văn Mạc tổ chức nhiều cuộc biệt kích đều thất bại. Nhưng chúng lại thành công trong việc mua chuộc lôi kéo được một du kích người Văn Mạc làm tay sai, đó la tên Mạc Văn C làm liên lạc cho xã đội mấy năm liền, c được xã đội tin dùng, hấn đi theo xã đội phó Nguyễn Đức Tụng, từng đào hầm ngủ chung với Đức Tụng, vì vậy C biết được kế hoạch chiến đấu, nơi ngủ sơ tán của anh em du kích, địa điểm ẩn nấp cán bộ xã...   Sẩm tối ngày 14-2-1951, Mạc Văn C vào nhà đồn Tụng hỏi cụ Nguyễn Đức Thiết (bố đồng chí Tụng) để xem “Tối hôm nay anh Tụng có công việc gì nhắn hẹn lại không?”. Vốn đã biết C nên cụ bảo: "Nó đi ăn cỗ ở bên bố vợ, có lẽ tối về muộn”. C ra về... Đêm đó, lính Cổ Chẩm và lính Văn Mạc được tên C đưa đi phục bắt đồng chí Tụng đầu ngõ, sau đó C lại tiếp tục đưa đi sục tìm đúng nơi nơi ngủ của Tiêu Công Năng, Phạm Văn Lạc (tiểu đội trưởng, tiểu đội phó du kích) ở khu vực nhà bà Nguyền Thị Chất (xóm Quang Trung). Địch đưa cả ba đồng chí vào sân nhà bà Lắm, dùng dây thừng trói chặt Đức Tụng, Năng và Lạc vào cây mít. Sau đó, C lại đi lùng sục bắt thêm được 3 ông: Nguyễn Đức Cáy, Tiêu Công Hán, Mạc Văn Nở giam vào gian nhà bà Lắm. Một tiểu đội lính ngụy, Tây đen, Tây trắng canh gác. C đưa số lính khác đi phục ở ngõ ngoài.


Trời đã khuya, tối đen như mực. Gió bấc thổi vào vườn ngô mé nhà bà Lắm. Lợi dụng đêm tối, Nguyễn Đức Tụng thì thào nói với Năng và Lạc: “Chúng mình bị tên C chỉ điểm rồi, nó trói ở đây thì sống ít chết nhiều, phải tìm cách thoát ra để báo cho các anh và dân làng biết mà tránh ngay kẻo nó bắt hết. Tôi bị nó trói nhiều vòng ở tay vào cây mít xem chừng khó mà thoát. Tôi sẽ tìm cách cởi dây thừng để 2 anh thoát trước. Còn tôi có chết thì chúng nó cũng phải chết theo chứ không chịu để chúng nó đưa về bốt”. Nói xong, anh đem hết sức mình còn lại sử dụng đôi tay sưng lần tìm từng mối dây cởi dần. Anh còn dùng răng cắn đứt dây thừng trói 2 anh, nhờ đó Năng và Lạc đã tụt người xuống, nhoài ra khỏi vòng dây thừng, lẩn mình vào bóng tối dầy đặc.


Cũng tôi hôm đó, một tiểu đội bộ đội Bắc Hà từ khu Hà Đông vượt sông sang Mạc Thủ do đồng chí Phạm Kim Bạo, trung đội trưởng phụ trách. Đồng chí Ngô Bá Kiệt, xã đội trưởng và tôi (Đặng Văn Tư) - trưởng Công an xã bàn kế hoạch phân tán thành 3 nhóm ở xóm dưới Mạc Thủ và Tiêu Xá, anh Bạo và 1 nhóm ở khu vực nhà ông Dương Văn Tôn. Sau đó, anh Nguyễn Quang Huy, phó bí thư chi bộ và tôi về chuồng lợn nhà ông Dương Văn Nguyên gần hầm và sát cạnh nhà tôi, xã đội trưởng Ngô Bá Kiệt đi ngủ ở cơ sở của mình.


Khoảng 2 giờ sáng ngày 15-2-1951, tôi giật mình tỉnh dậy vì tiếng nói của vợ tôi và bà Hìu bên nhà vọng sang: “Tây... Tây đến...”. Anh Huy và tôi dậy ngay. Ngó theo mé vách nhìn sang sân nhà, thấy một người tầm thước đứng sát vào hè, quần áo ướt dính chặt vào mình, 2 tay bị trói quặt ra sau đang cất tiếng gọi khe khẽ: “Chị Tư! Mở cửa! Tôi đây! Năng đây mà". Biết là có chuyện rồi, hai chúng tôi vội vàng xuống sân, thấy anh Tiêu Công Năng bị trói tay, quần áo bê bết bùn, vợ tôi và bà Hìu lấy liềm cứa mãi mới đứt dây. Vừa xong thì anh Phạm Văn Lạc cũng lần được về. Chúng tôi cởi trói cho anh. Hai anh em kể vắn tắt về việc bị Mạc Văn C phản bội đưa quân địch về bắt anh Tụng và 2 anh. Anh Tụng đã cởi dây trói ngoài cho Năng, Lạc trốn được về đây. Tôi tìm ngay anh Phạm Kim Bạo về hội ý, đề nghị anh Bạo đưa tiểu đội Bắc Hà cùng du kích sang xóm Quang Trung đánh tháo cho đồng chí Nguyễn Đức Tụng. Anh Bạo nhất trí tìm cách giải quyết ngay, nhưng đề nghị xã đội cử cho 2 du kích đi nắm tình hình trước. Anh Huy - phó bí thư Chi bộ và tôi nhất trí cử 2 đồng chí Nguyễn Đức Thập và Nguyễn Đình Chiên (I, ngay. Một lúc sau đó, tiếng súng tiểu liên của địch ở khu nhà bà Lắm nổ mấy loạt... Việc tổ chức giài thoát cho đóng Tụng không thành.


Mờ sáng ngày 15-2-1951, thêm một toán lính từ Cổ Chẩm, Văn Mạc kéo vào xóm Quang Trung đến thẳng nhà bà Lắm do một tên Tây trắng chỉ huy đem theo dụng cụ tra tấn. Chúng có ý đồ tra tấn và khai thác Đức Tụng chỉ hầm bắt cán bộ, du kích. Trời đã sáng rõ, trong xóm ngoài làng vắng lặng vì nhân dân biết tin đã rút sang xóm Bãi, địch chỉ lùng sục mấy nhà gần xóm Quang Trung rồi rút về canh gác.


Mấy chục tên lính ngụy và Âu Phi lăm lăm súng trong tay vây quanh nhà bà Lắm và gốc mít mà Đức Tụng đang bị trói, giữa sân là dụng cụ tra tấn với thằng Tây trắng và tên chỉ điểm Mạc Văn C. Thằng Tây ra lệnh cởi trói cho đồng chí Tụng. Thấy tến C mấy hôm trước còn là đồng đội, nay đã là kẻ thù không đội trời chung, Tụng loé lên một hành động táo bạo “sống còn với địch”. Anh liếc nhìn thấy một con dao găm trong bao đeo bên sườn thằng Tây trắng. Anh nghe theo bon chúng, từ từ cởi quần áo vứt xuống đất và nhanh như cắt anh rút ngay con dao găm đeo bên hông tên Pháp, dồn hết sức đâm một nhát xuyên vào bụng thằng Tây, rồi quay ngược tay dao đâm vào mỏ ác tên Mạc Văn C. Thấy địch quây tròn quanh sân, anh cầm con dao găm còn đẫm máu xông thẳng vào mấy tến lính da đen. Một tràng tiểu liên nổ đanh, anh để rơi dao và từ từ ngã xuống vẫn còn hô: “Đảng Cộng sản muôn năm!”, “Hồ Chủ tịch muôn năm!”.


Gần 9 giờ sáng, tổ du kích tiền tiêu báo “Địch đã rút hết về Văn Mạc”. Chúng tôi tức tốc về xóm Quang Trung vào nhà bà Lăm. Thấy chúng tôi đến, bà Chắt, bà Lắm và mấy bà khóc kể lại cho chúng tôi nghe toàn bộ diễn biến về trận chiến đấu giữa đồng chí Tụng và bọn địch.


Hành động chiến đấu phi thường của xã đội phó Nguyễn Đức Tụng là một chiến công tuyệt vời.

Từ ngày diệt trừ được tên đầu hàng chỉ điểm Mạc Văn C, tên Tây trắng đồn trưởng tàn bạo ở bốt cổ Chẩm (tên này bị đồng chí Tụng đâm vào bụng, địch cáng về giữa đường thì chết), quân địch ở Cô Chẩm và bọn phản động ở Văn Mạc cũng khiếp vía kinh hồn, chấm dứt những đợt biệt kích vào Mạc Thủ, Tiêu Xá.


Hơn 50 năm qua đi, kể từ những cuộc chiến đấu chống xâm lược Pháp và hành động chiến đấu quả cảm phi thường của xã đội phó Nguyễn Đức Tụng, xã Liên Mạc đã có nhiều thay đổi.

Tôi, Đặng Văn Tư, ở tuổi “bát tuần” cùng với anh Nguyễn Quang Tỵ, Bí thư Chi bộ đầu tiên của xã, cùng nhau ôn lại chuyện cũ và ghi ra đây một trong nhiều trận chiến đấu chống kẻ thù đánh vào xã Liên Mạc mà nổi bật là hành động chiến đấu anh hùng của đồng chí Nguyễn Đức Tụng. Với chiến công đặc biệt xuất sắc đó, ngày mồng 10 tháng 4 năm 2001, Chủ tịch nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã truy tặng Nguyễn Đức Tụng danh hiệu “Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân”.
Logged
dungnuocgiunuoc
Thành viên
*
Bài viết: 614



« Trả lời #22 vào lúc: 21 Tháng Mười Một, 2022, 07:51:27 pm »

Phần IV
MỘT SỐ HỒI KÝ THỜI CHỐNG PHÁP VÀ CHỐNG MỸ

ĐỒNG CHÍ NGUYỄN NGỌC XUÂN VÀ QUẢ MÌN LÕM ĐẦU TIÊN PHÁ THÁP CANH, HƯƠNG ĐỒN NỔI TIẾNG HƯNG YÊN


Hồi năm 1950, Tỉnh đội Hưng Yên rất muốn phá mưu mở rộng kế hoạch “tháp canh hương đồn” của đế quốc Pháp nhằm đàn áp triệt để cơ sở kháng chiến của ta ở thôn xã. Địch đã lợi dụng xây dựng bốt hương dũng vũ trang một số súng cho bọn này, thường xuyên đi càn quét giết hại bắt bớ cán bộ và du kích, đốt phá nhà cửa, hòng đánh bật lực lượng kháng chiến của ta còn bám ở xã, thôn, bắt ép nhân dan phải lập tề, ngụy, xây bốt. Tình hình phong trào lúc đó rất đen tối, nguy hiểm.


Chúng tôi nghiên cứu thấy chỉ có cách phá kỳ đươc các bốt canh, hương đồn thì mới có cơ hội để phát triển cơ sở kháng chiến, mới thực tế phá được tề, ngụy. Nhưng muốn phá được âm mưu mở rộng các bốt Hương dũng có kết quả trong phạm vi toàn tỉnh thì phải phá cho kỳ được 2 cái mạnh tương đối của bọn chúng. Đó là phải phá cho được lô cốt của chúng và chặn được chi viện của các bốt xung quanh đến giúp sức. Bản thân bọn hương dũng thì rất yếu, nhưng ban đêm nếu bị bộ đội đến đánh, khi thấy động, bọn chúng chui vào lô cốt để cố thủ, để đợi đến sáng, chờ cho viện binh ở các bốt xung quanh đến ứng cứu. Về phía ta, chỉ có thể làm chủ được ban đêm, không làm chủ được ban ngày. Năm 1950, ta đã được Bộ Quốc phòng tăng cường trang bị nên lớn mạnh rất nhiều, nhưng chỉ được trang bị những vũ khí bộ binh, không có vũ khí công đồn.


Cuối năm 1950, tôi được dự hội nghị tổng kết chiến dịch Biên giới. Ngoài việc học tập kinh nghiệm chiến đấu của chiến dịch, tôi cố ý tìm gặp đồng chí Nguyễn Ngọc Xuân, vốn quê ở Hưng Yên (huyện Mỹ Hào), lúc đó là Cục phó Cục Quân giới. Tôi đã lấy tình nghĩa người cùng quê hương Hưng Yên, trình bày với đồng chí khó khăn hiện nay của phong trào Hưng Yên và trình bày nguyện vọng thiết tha của Tỉnh đội Hưng Yên muốn được Bộ trang bị cho vài khẩu SKZ mà Bộ mới sản xuất được. Loại SKZ (súng không giật) này vừa là vũ khí chống được xe tăng, đồng thời cũng là vũ khí công đồn rất có hiệu quả.


Đồng chí Xuân đã nói với tôi rằng: "Là người quê ở Hưng Yên, tôi rất thông cảm với đồng chí. Nhưng hiện nay Bộ và Cục Quân giới chỉ mới sản xuất được ít, nếu đồng chí có xin và đợi cho Bộ xét duyệt, thì phải mất thời gian. Vì vậy, hiện nay Cục Quân giới đã có loại mìn lõm có thể vừa chống tăng và phá lô cốt được. Nếu đồng chí cần thì ngay lập tức Cục Quân giới sẽ trang bị cho Hưng Yên Rồi đồng chí giải thích mìn lõm là loại mìn có lõm một đầu, sức xuyên rất mạnh vào thành của lô cốt, nhưng đòi hỏi người chiến sĩ phải dũng cảm đặt mìn sát vào lô cốt thì mới có hiệu quả. Sau này khi Cục Quân giới đã sản xuất được nhiều súng SKZ thì đồng chí Xuân sẽ đề nghị với Bộ và Cục trang bị SKZ cho Hưng Yên.


Nghe đồng chí Xuân giải thích như vậy, trong lòng tôi vẫn muốn xin loại vũ khí công đồn như SKZ, nhưng nghe thấy loại mìn lõm cũng có tác dụng phá được lô cốt mà chỉ cần có chiến sĩ dũng cảm đặt mìn thì tôi rất phấn khởi và xin ngay Bộ và Cục Quân giới trang bị cho loại mìn lõm này. Sau hội nghị, được giấy giới thiệu của đồng chí Xuân, tôi cho người đến ngay kho để lĩnh. Tôi đã cùng với một số anh em trực tiếp mang về Hưng Yên. Đường đi phải trải qua vùng địch hậu tỉnh Bắc Giang và Hải Dương. Tôi đã giao tổ quân giới của tỉnh nghiên cứu và sản xuất đúng theo kiểu của Cục Quân giới vừa trang bị. Tổ quân giới của tỉnh cho biết có thể sản xuất các loại mìn lõm như vậy, cỡ từ 5 kg, 10 kg đến 20 kg theo ý muốn của cách đánh. Để giữ bí mật, chúng tôi đã đặt mật danh cho mìn lõm là VKM (vũ khí mới). Thế mà bọn địch cũng phát hiện ra mật danh đã thông báo cho cấp dưới của chúng để đề phòng, nhưng không rõ loại VKM đó là lo gì, cấu tạo và tác dụng ra sao thì chúng hoàn toàn không biết.


Đêm 31-3-1951, mở đầu cho chiến dịch “phá tháp canh hương đồn của địch”, chúng tôi đã tiêu diệt bốt Hương dũng có vũ trang rất phản động ở làng Thọ Lão (huyện Phù Cừ - Hưng Yên) bằng loại mìn lõm, phá tan 2 lô cốt cố thủ của chúng xây ngay bức Tường của nhà thờ. Sau đó, cùng với D664 (C42) chặn viện, diệt và bắt sống một số tên đi cứu viện cho địch ở Thọ Lão. Tiếp theo mẫu hình của trận Thọ Lão diệt bọn hương dũng, bằng mìn lõm, tỉnh Hưng Yên lại tiếp tục phá một loạt tháp canh, hương đồn của địch, mở các khu du kích rộng lớn tại các huyện Tiên Lữ, Ân Thi, Kim Động, Khoái Châu, tồn tại và phát triển cho tới khi kết thúc chiến tranh chống Pháp.


Tháng 11 năm 1951, Tỉnh đội Hưng Yên lại được Bộ, Cục Quân giới trang bị thêm một khẩu SKZ. Tôi hiểu rõ đó chính là đồng chí Nguyễn Ngọc Xuân đã giữ lời hứa với tôi trong hội nghị tổng kết chiến dịch Biên giới hồi tháng 10 năm 1950. Chúng tôi đã dùng khẩu SKZ này để tiêu diệt bốt Dương Trạch (phía Bắc huyện Khoái Châu). Việc này đã làm rung chuyển, suy sụp tinh thần chiến đấu của bọn địch khắp vùng Khoái Châu, Tây Yên Mỹ, toàn huyện Văn Giang. Tất cả các bốt Từ Hồ, Thiết Trụ, Công Luận, Đa Ngưu, Cửu Cao, v.v... đều hoảng sợ trước uy danh của bộ đội, chỉ nghe thấy bộ đội tiến gần đã vội tháo chạy hoặc xin hàng, tạo cho quân dân các huyện thuộc miền Bắc tỉnh Hưng Yên mở được nhiều khu du kích, giành được đại đa số dân, thiết lập được nhiều chính quyền cách mạng, và sau đó bộ đội tỉnh đã có nhiều cơ hội thắng lớn bằng các hình thức tác chiến khác.


Sự nghiệp “phá tháp canh, hương đồn” địch năm 1951 được tổng kết là rất vinh quang, Bác Hồ kính yêu đã tặng cho quân dân Hưng Yên mấy chữ vàng: "Đoàn kết nhân dân, đánh thắng giặc Pháp ” (tháng 5 năm 1952).


Theo tôi nghĩ, vinh quang ấy trước hết thuộc về đồng chí Nguyễn Ngọc Xuân. Nhưng đồng chí Nguyễn Ngọc Xuân rất khiêm tốn, không bao giờ kể về sự đóng góp của mình cho nhiều người biết là chính nhờ những quả mìn lõm rất có hiệu quả để phá hệ thống tháp canh, hương đồn ở tỉnh Hưng Yên và chính nhờ khẩu SKZ mà Bộ và bản thân đồng chí Nguyễn Ngọc Xuân đã trang bị cho Hưng Yên.


Lời BBT - Qua bài báo của Đại tá Trần Tiệu, quân dân đường 5 và quân dân tỉnh Hưng Yên mới được biết thêm, đồng chí Nguyễn Ngọc Xuân đã từng là chính trị phạm, bị Pháp bắt đày ở Côn Đảo. Khi chiến tranh thế giới lần thứ 2, đồng chí lại bị bắt ở Hỏa lò, căng Vụ Bản (Hòa Bình), rồi bị quản thúc ở quê huyện Mỹ Hào. Đồng chí còn là Bộ trưởng không bộ trong Chính phủ lâm thời của nước Việt Nam dân chủ cộng hòa.


Qua hồi ký của đồng chí Vân* (Đồng chí Vân - bí danh là Chương, là ủy viên Thưởng vụ Tỉnh ủy Hưng Yên, đã về hưu, hiện trú tại thị xã Hưng Yên.), em ruột đồng chí Nguyễn Ngọc Xuân, thì đồng chí Xuân đã chơi rất thân với ông Nguyễn Bình (sau này là Trung tướng đầu tiên của nước ta). Anh Vân đã cùng ông Nguyễn Bình đóng giả sĩ quan Nhật, bất thình lình tập kích và tước đoạt vũ khí đồn Bần Yên Nhân (Hưng Yên) trên đường số 5 vào đêm 12-3-1945. Trước đó, ngày 10-3-1945, tại nhà đồng chí Nguyễn Ngọc Xuân, 2 người đã cùng bàn kế hoạch đánh đồn Bần, được sự đồng tình và phê duyệt của Xứ ủy Bắc Kỳ). Qua ông Vân, chúng tôi lại được biết, đồng chí Nguyễn Ngọc Xuân đã từ trần năm 1981 (ngày 9 tháng 2 âm lịch).


Nay đồng chí Nguyễn Ngọc Xuân không còn nữa. Xin thay mặt Ban chỉ huy Tỉnh đội Hưng Yên năm xưa, kính cẩn thắp một nén nhang trước linh hồn đồng chí Nguyễn Ngọc Xuân và mãi mãi tỏ lòng biết ơn đồng chí đối với phong trào kháng chiến đầy gian khổ của tỉnh Hưng Yên vì đồng chí đã tự thân trang bị cho Hưng Yên quả mìn lõm và khẩu súng SKZ rất có hiệu quả và kịp thời lúc đó.
Logged
dungnuocgiunuoc
Thành viên
*
Bài viết: 614



« Trả lời #23 vào lúc: 21 Tháng Mười Một, 2022, 07:53:00 pm »

NGUYÊN VĂN XUÂN HAY NGUYỄN NGỌC XUÂN?
   

HỒNG ANH


Vừa qua, tạp chí Xưa và Nay nhận được thư của Đại tá Trần Tiệu, nguyên Chủ nhiệm Bộ môn, Viện Lịch sử Quân sự - Bộ Quốc phòng, cho biết rằng: Trong danh sách Chính phủ lâm thời Việt Nam dân chủ cộng hòa ra mắt chiều 2/9/1945 có Bộ trưởng không giữ bộ nào: Nguyễn Văn Xuân.


Trong danh sách Chính phủ liên hiệp lâm thời ngày 1/1/1946 cũng có Bộ trưởng không giữ bộ nào: Nguyễn Văn Xuân.

Vậy Nguyễn Văn Xuân là ai? Theo Đại tá Trần Tiệu thì Nguyễn Văn Xuân chính là Nguyền Ngọc Xuân, nhà hoạt động cách mạng quê Mỹ Hào, Hưng Yên tham gia cách mạng bị Pháp bắt đày Côn Đảo, Hỏa Lò, căng Vụ Bản (Hòa Bình) rồi bị quản thúc ở quê...


Năm 1944 phụ trách xưởng vũ khí làng Chè. Ngày 15/9/1945 Bác Hồ quyết định thành lập phòng Quân giới thuộc Bộ Quốc phòng, cử đồng chí Nguyễn Ngọc Xuân là Chánh văn phòng và sau đó là Cục phó Quân giới (Cục trưởng là Trần Đại Nghĩa). Trong giấy ủy nhiệm do Hồ Chí Minh ký và Võ Nguyên Giáp ký đều ghi rõ tên Nguyễn Ngọc Xuân.


Nhiều người đọc sách lịch sử không hiểu, thắc mắc Nguyễn Văn Xuân là nhân vật nào?

Cuối cùng ông đề nghị Tòa soạn góp ý với bộ phận biên soạn cuốn Lịch sử Chính phủ (do GS Lê Mậu Hãn chủ biên) nên thay Nguyễn Văn Xuân hoặc mở ngoặc bên cạnh (tức Nguyễn Ngọc Xuân)...

Để làm rõ vấn đề trên, chúng tôi đã cử người đến gia đình tại số 5 Lý Nam Đế, Hà Nội gặp ông Nguyễn Ngọc Duẩn năm nay tuổi 80 là con trai cụ Nguyễn Ngọc Xuân để tìm hiểu thêm. Ông cho biết: “Tên lót “Ngọc” là tên khai sinh đi học của cụ từ xưa, ở mọi cơ quan nơi cụ công tác đều mang tên như vậy. Chỉ trong danh sách Chính phủ hồi đó là có tên lót là Văn”.


Trong tài liệu gia đình còn giữ lại có những tấm bằng ghi rõ họ tên cụ Nguyễn Ngọc Xuân, vì vậy chúng tôi xin đóng góp thêm tư liệu để những đơn vị phát hành tài liệu có liên quan đến sự việc này nên ghi rõ thêm Nguyễn Văn Xuân tức Nguyễn Ngọc Xuân để tránh sự nhầm lẫn về tên người trong lịch sử. (Vì còn có một nhân vật chính trị khác là Nguyễn Văn Xuân tham gia chính phủ bù nhìn do thực dân Pháp dựng nên năm 1945 ở Sài Gòn).
Logged
dungnuocgiunuoc
Thành viên
*
Bài viết: 614



« Trả lời #24 vào lúc: 21 Tháng Mười Một, 2022, 07:53:59 pm »

MỘT ĐẢNG VIÊN TRUNG THÀNH, DŨNG CẢM


LÊ CHI


Mồ côi mẹ từ lúc dưới 5 tuổi, cậu bé Lê Văn Chuối được bác ruột (chị của mẹ) đón về nuôi dưỡng dạy dỗ. Đến khi Cách mạng Tháng Tám năm 1945 công, anh đã 20 tuổi. Bác mất, anh sống cùng người con trai của bác. Hai anh em đều tham gia hoạt động cách mang, anh trai vào tự vệ chiến đấu, sau là du kích.


Sau ngày toàn quốc kháng chiến, tháng 3-1947 giặc Pháp càn quét đến quê hương anh (xã Xuân Quan, huyện Văn Giang, tỉnh Hưng Yên) rồi chúng chiếm đóng, lập tề, xây bốt tại địa phương. Ngày 14-10-1948, bọn hội tề đưa quân Pháp về vây làng, chỉ điểm cho địch bắt 15 cán bộ, đảng viên, du kích đem đi sát hại (các đồng chí này đều đã được công nhận liệt sĩ).


Lực lượng kháng chiến còn lại (trong đó có anh Chuối bị bật ra ngoài, đến đêm lần mò về gây lại cơ sở. Hoạt động kháng chiến trong điều kiện rất khó khăn gian khổ phải tự túc hoàn toàn; một tập thể hơn 70 con người phải phân công cụ thể từng bộ phận công tác: một bộ phận chuyên về gây cơ sở, một bộ phận chuyên làm kinh tế cày thuê, gặt mướn chợ búa nuôi nhau để hoạt động kháng chiến. Anh Chuối đươc giao nhiệm vụ đi buôn nước mắm, từ đất Khoái Châu (Hưng Yên) sang chợ Đại, Cống Thần (Hà Đông) mua hàng gánh bộ về đi bán rong các làng. Tháng 3-1949, anh được chi bộ kết nạp vào Đảng Cộng sản, lấy bí danh là Lê Đình Thực.


Cuối năm 1949, giặc Pháp đánh chiếm địa bàn tỉnh Hưng Yên. Cán bộ, du kích xã phải lánh qua Thái Bình sang Hà Nam, ban đêm lại vượt qua đồn bốt giặc các huyện Phú Xuyên, Thường Tín, Thanh Trì... về cơ sở nắm dân. Đồng chí Thực cùng bộ phận làm kinh tế được phân công gánh muối từ Hà Nam lên Việt Bắc bán, qua Hà Đông đến Thái Nguyên. Khi trở về đến Ba Thá (Hà Đông), đồng chí đã bị sốt rét rừng hành hạ. Cả đoàn dìu dắt nhau về đến nơi ở thì cũng là lúc giặc Pháp bắt đầu tấn công Hà Nam Ninh.


Theo quyết định của Huyện ủy, chi bộ phải bố trí một bộ phận về địa phương sống hợp pháp để nắm dân, gây cơ sở. Đồng chí Thực và 2 đảng viên cùng 7 người là cán bộ du kích được chi bộ giao nhiệm vụ này. Đồng chí Thực được phân công chuyển thư, báo cáo đến hộp thư bí mật của huyện và nhận công văn, chỉ thị của huyện về cho đồng chí Điện (Bí thư) nằm bí mật trong xã. Đồng chí thường phải đi đêm, tìm cách tránh giặc phục kích, bảo vệ được tài liệu đến đích an toàn.


Tháng 12-1952, ta giải phóng gần hết huyện Văn Giang. Vành đai phía đông nam Hà Nội đứng trước nguy cơ bị uy hiếp nên bọn địch đã điều động đại đội Bảo chính đoàn lưu động số 16 do thiếu úy Đinh Văn Lực chỉ huy (tên phản bội cách mạng này rất tàn ác) về đóng quân tại xã Xuân Quan, xây bốt lập vị trí tiền tiêu phòng chống sự tấn công của quân ta. Thời gian này, ngày nào đồng chí Thực cũng phải chuyển báo cáo mật lén huyện. Ngày 26-12-1952, đồng chí đang đi làm nhiệm vụ, đã bị bọn lính bắt dẫn về bốt. Đồng chí nghĩ kế ngồi xuống vờ đi giải và vùi tài liệu dưới đống gạch ngổn ngang đang để xây bốt. Lính dẫn đồng chí vào bốt trình tên Lực, y ra lệnh khám người. Không thấy gì, bọn lính nghi ngờ hành động ngồi đi giải của đồng chí nên chúng kéo nhau ra bới đống gạch tìm kiếm, thấy ống tài liệu đem vào nộp tên Lực. Bọn ác ôn thay nhau tra tấn đồng chí rất dã man song không lấy được một lời khai nào. Đến tối, vì bốt đang xây không có chỗ giam, tên Lực đã giao cho đồn binh Pháp ở Giang Cao giam giữ và tiếp tục tra tấn khai thác hòng moi tin tức.


Ngày hôm sau, bọn Phòng nhì tra tấn cực kỳ dã man. Đồng chí Thực cắn răng chịu đựng, không khai báo gì. Đêm nằm đau rên, đồng chí nghĩ nó tra tấn mãi cũng chết, nên chết vì Đảng vì dân cho xứng đáng là một đảng viên. Đồng chí nghĩ ra một kế. Sáng hôm sau, bắt đầu cuộc tra tấn. Tên Phòng nhì hỏi:

- Mày đã biết thế nào là đòn tra chưa?

- Tôi đau lắm!

- Tại sao mày không chịu khai báo?

- Hôm nay tôi sẽ khai.

- Cho mày khai đi.

- Tôi có một quả lựu đạn... giấu ở xóm Soi dưới!

- Mày dẫn tao đi lấy.

Thế là chúng tổ chức một tiểu đội lính dẫn giải đồng chí đi lấy lựu đạn. Đến nơi chúng hỏi:

- Mày để đâu?

- Tôi bị tra đánh đau quá nên nói thế chứ tôi không có lựu đạn.

Bọn lính lại xúm vào đánh đồng chí một trận ác liệt. Hai tay bị trói quặt ra đằng sau lại bị bọn lính đi hai hàng áp giải kèm chặt nên đồng chí không có cơ hội chạy trốn. Cả ngày thứ hai đồng chí bị địch tra tấn hơn ngày trước. Rồi ngày thứ ba chúng tiếp tục tra tấn dã man, đồng chí vẫn cắn răng chịu đựng không khai báo lời nào. Đêm đến, đồng chí nghĩ cách thực hiện kế đã định, tìm cách tự cởi trói. Thử nghiêng đầu lách lọt qua lỗ châu mai thấy được, đồng chí bèn cởi quần áo ngoài, sấp người luồn 2 chân giơ thắng 2 tay lách người luồn ra. Địch rào dây thép gai nhiều tầng, trên treo ống bơ, dưới đất gài mìn. Đồng chí lần theo rìa bờ rào trong cùng ra đến cổng. Vọng gác ở phía trong cổng độ 10 m, đêm tối tên gác không phát hiện được. Gặp thời cơ thuận lợi, đồng chí đã trườn qua cổng thoát ra ngoài rồi tiếp tục bò nhanh xuống khu ruộng trũng vượt qua mặt đê...


Đồng chí Thực trở về mình đầy thương tích. Anh em đồng chí trong xã tìm mọi cách thuốc thang cứu chữa hồi phục sức khỏe cho đồng chí. Ít lâu sau đồng chí bình phục lại, được điều động làm nhân viên bưu điện huyện, rồi về xã làm công tác cơ sở.


Tên Lực lùng bắt cán bộ, phá vỡ cơ sở của Xuân Quan. Cán bộ, đảng viên phải tạm lánh ra ngoài đứng nhờ địa bàn xã Tân Tiến và Liên Nghĩa. Thời gian này, đêm nào đồng chí Thực cũng thường xuyên lăn lộn về tổ chức cơ sở.


Địa bàn huyện Văn Giang là cửa ngõ phía Đông Nam Hà Nội và sân bay quân sự Gia Lâm. Năm 1953, địch luôn tổ chức các cuộc càn quét lớn tấn công vào đất Văn Giang. Các cuộc càn quét lớn, nhỏ của địch đều vấp phải sự đánh trả quyết liệt của quân ta. Ngày 17-1-1954, địch huy động hàng binh đoàn càn quét lớn vào xã Tân Tiến. Bộ đội huyện và du kích tập hợp tại ấp Bá Khê để thực hiện kế hoạch vào đánh tập kích quân địch. Đồng chí Phạm Ninh, Huyện đội trưởng, yêu cầu người dẫn đường cho bộ đội vào đánh địch. Đồng chí Thực đã xung phong dẫn đường và nói: “Tôi đã làm bưu điện đóng ở xã Tân Tiến nên tôi thuộc đường lắm”. Đồng chí chỉ huy chấp nhận và ra lệnh cho đơn vị tiến quán. Trong trận chiến đấu này, đồng chí Thực bị trúng đạn của địch và hy sinh, được đồng đội đưa về làm lễ mai táng tại ấp Bá Khê.


Đồng chí, đồng đội, nhân dân xã Xuân Quan và toàn huyện cảm phục ca ngợi đồng chí Lê Đình Thực - một đảng viên hết lòng trung thành với Đảng, kiên cường bất khuất trước sự tra tấn dã man của kẻ thù, dũng cảm chiến đấu với quân địch.


Sau ngày kháng chiến chống Pháp thắng lợi, đồng chí được Chính phủ quyết định công nhận là liệt sĩ, tặng bằng Tổ quốc ghi công. Cụ Phan Thị Thành, mẹ liệt sĩ Lê Đình Thực đã được Chủ tịch nước truy tặng danh hiệu Bà mẹ Việt Nam anh hùng.
Logged
dungnuocgiunuoc
Thành viên
*
Bài viết: 614



« Trả lời #25 vào lúc: 21 Tháng Mười Một, 2022, 07:55:07 pm »

LIỆT SĨ ĐỖ MINH HIỆP - NGƯỜI CON THÂN YÊU
CỦA THÔN QUAN XUYÊN


Đại tá ĐÀO NGỌC QUẾ


Trong cuộc kháng chiến chống Pháp, xã Nguyễn Huệ1 (Xã Nguyễn Huệ nay được chia thành 2 xã là Nguyễn Huệ và Thành Công thuộc huyện Khoái Châu), huyện Khoái Châu, tỉnh Hưng Yên có hàng trăm người con hăng hái tham gia các lực lượng vũ trang, trong đó có hơn 100 người tham gia quân đội. Chi riêng thôn Quan Xuyên2 (Thôn Quan Xuyên nay thuộc xã Thành Công) có tới gần ba chục người tham gia quân đội và mấy chục thanh niên nam nữ vào dân quân du kích. Một trong những gương chiến đấu mưu trí, dũng cảm tiêu biểu của xã Nguyễn Huệ lúc ấy, đến tận bây giờ nhiều người ở đây còn nhớ rõ: Đó là đồng chí Đỗ Minh Hiệp, người thôn Quan Xuyên, một đảng viên Cộng sản trung kiên, một cán bộ mẫu mực, chiến đấu gan dạ, sáng tạo.


Đỗ Minh Hiệp tham gia hoạt động cách mạng ở thôn Quan Xuyên từ những ngày đầu cuộc chiến. Khi đội du kích huyện Khoái Châu (sau này là bộ đội địa phương) được thành lập, anh đã tình nguyện gia nhập. Anh được điều về làm công tác quân báo của Huyện đội Khoái Châu. Lúc này, ở huyện Khoái Châu địch mới đóng 2 bốt ở Thiết Trụ và Đông Tảo. Chúng cho quân càn quét, cướp bóc, lập hội tề ở các vùng chung quanh. Đồng thời, nhiều lần chúng hội quân các bốt đi càn quét sâu xuống các xã khu Trung và khu Nam trong huyện. Nhận nhiệm vụ, Đỗ Minh Hiệp cùng đồng đội bám sát, nắm chắc tình hình địch, kịp thời báo cáo về Huyện đội Khoái Châu và Tỉnh đội Hưng Yên. Nhờ vậy, ta chủ động có kế hoạch đối phó với địch, và hạn chế được âm mưu phá hoại của chúng, vừa bảo vệ được tính mạng và tài sản của nhân dân. Với thành tích ấy, Đỗ Minh Hiệp nhiều lần được tuyên dương công trạng và được kết nạp vào Đảng.


Đầu năm 1950, giặc Pháp mở chiến dịch lớn DIABOLO (Con lăn) càn quét, đánh phá ác liệt vào hầu hết các vùng tự do còn lại của ta ở Hưng Yên và Hải Dương. Trong số 360 đồn bốt chúng mới lập ở Hưng Yên thì huyện Khoái Châu có tới 80 đồn bốt; trong đó thôn Quan Xuyên được chúng xác định là một trọng điểm. Bộ máy ngụy quyền được thiết lập đồng thời với các tổ chức quận dũng, tổng dũng, hương dũng, bảo an ở hầu hết các làng xa trong huyện, do bọn tay sai người Việt chỉ huy. Ngoài lực lượng chiếm đóng, địch còn bố trí các binh đoàn cơ động (GM) sẵn sàng tăng viện, phối hợp trong các trận càn lớn khác. Một số tên phản động lợi dụng thời cơ nổi lên làm tay sai cho giặc, chỉ điểm phá cơ sở cách mạng. Tình trạng bắt lính, bắt phu xây bốt, làm đường diễn ra thường xuyên.


Ngoài việc xây bốt ở ngay bến đò trên sông Hồng thuộc địa bàn thôn Quan Xuyên (đặt tên là bốt Nghi Xuyên), ở các làng xung quanh chúng đã thiết lập cả một hệ thống đồn bốt phản động liên hoàn như Sài Quất, Chợ Giàn, Hậu Đền, Nhuế Dương, Cốc Phong... do các tên tay sai gian ác chỉ huy. Một bộ phận dân chúng bị địch o ép vào hội tề. Ngay cả một số chị em phụ nữ cũng bị chúng bắt lấy lính bốt. Nhiều cán bộ cơ sở của Quan Xuyên phải lánh ra vùng tự do chờ dịp trở lại hoạt động. Nhân dân bị giặc o ép khủng bố đói khổ mong chờ bộ đội về diệt bốt giải phóng cho dân làng.


Trước những diễn biến phức tạp ở xã Nguyễn Huệ nói chung và thôn Quan Xuyên nói riêng, lãnh đạo huyện Khoái Châu quyết định điều động Đỗ Minh Hiệp - lúc này đang làm cán bộ quân báo - về tăng cường cho địa phương. Biết anh là một cán bộ trẻ có năng lực, xông xáo, lại là người thôn Quan Xuyên rất thông thuộc địa bàn, cư dân, lãnh đạo xã Nguyễn Huệ phân công Đỗ Minh Hiệp về phụ trách Quan Xuyên để củng cố tổ chức, gây dựng lại cơ sở đã bị địch phá. Biết là có nhiều khó khăn, phức tạp, song nhận thức được tầm quan trọng của vùng đất Quan Xuyên, anh quyết tâm hoàn thành nhiệm vụ.


Hoạt động trong hoàn cảnh không thuận lợi, Đỗ Minh Hiệp khôn khéo, bí mật gặp gỡ các cán bộ chủ chốt còn trụ lại cùng những quần chúng tốt để chắp nối lại cơ sở ở Quan Xuyên. Khơi dậy được lòng yêu nước và ý chí căm thù giặc của quần chúng, anh được che chở và vượt qua mọi tai mắt của kẻ thù. Một thời gian sau, đội du kích thôn Quan Xuyên được tổ chức lại với hàng chục đội viên. Các đoàn thể phụ nữ thanh niên, dân quân... được khối phục, hoạt động có hiêu quả. Đỗ Minh Hiệp được bổ sung vào cấp ủy, nhận nhiệm vu xã đội trưởng, đồng thời trực tiếp phụ trách thôn Quan Xuyên Một số người trước đây bị địch o ép phải làm việc cho chúng nay được anh Hiệp bí mật bố trí giao nhiệm vụ. Địch đánh hơi, điên cuồng bắt một số người đánh đập, tra tấn dã man hòng truy tìm tổ chức của ta. Chúng giết bà Tâm - Chi hội phụ nữ, ông Cừ - cán bộ cơ sở, thiêu sống cụ ông Nguyễn Văn Tấm, bắt bà Toan - em gái bà Tâm, uy hiếp dân làng. Chúng còn bắn pháo vào làng, giết chết cụ bà Quỹ Tuân, bà Thào, làm bị thương và phá hủy tài sản của nhiều người khác.


Địch biết Đỗ Minh Hiệp là người chỉ huy các lực lượng kháng chiến ở Quan Xuyên, chúng liền treo giải thưởng cho ai bắt hoặc chỉ điểm nơi ở của anh. Thế nhưng Đỗ Minh Hiệp vẫn an toàn hoạt động. Việc anh tổ chức đội du kích cải trang đánh bọn lính ngụy ngay trong chợ Bốt càng làm cho địch hoang mang, lo sợ.


Năm 1951, bộ đội ta về tiêu diệt một số lớn đồn bốt địch trong toàn tỉnh, buộc chúng phải co cụm lại. Các bốt xung quanh Quan Xuyên nổi tiếng hung ác như Sài Quất, Chợ Giàn, Hậu Đền, Lạc Thủy... lần lượt bị tiêu diệt. Đội du kích xã Nguyễn Huệ và thôn Quan Xuyên cũng trưởng thành nhanh chóng, từng phôi hợp với bộ đội huyện đánh địch ở bốt vào càn quét thôn Uyển, Nhuệ Dương và Quan Xuyên giành thắng lợi, diệt tên sếp bốt. Một lần, địch ngoan cố lại cho quân tiến công vào thôn Uyển và Quan Xuyên. Đội du kích do Đỗ Minh Hiệp chỉ huy đã phối hợp với bộ đội chặn đứng nhiều đợt tiến công của địch vào thôn Quan Xuyên, buộc chúng phải rút chạy bỏ lại trâu bò cùng nhiều tài sản cướp của dân. Sau trận này, đội du kích thôn Quan Xuyên do Đỗ Minh Hiệp tổ chức chỉ huy đã có nhiều gương dũng cảm, như bà Ngội, bà Bích bị địch bắt tra tấn dã man nhưng vẫn bảo vệ khí tiết trở về với đồng đội. Bà Kiên đã cùng một tiểu đội du kích nữ Hoàng Ngân ra tận đường 39 dùng đòn gánh diệt một tiểu đội địch, cướp vũ khí. Bà Kiên được tặng thưởng một khẩu súng chiến lợi phẩm đem về bổ sung vào số vũ khí của đơn vị.


Ngày 26 tháng 3 năm 1954, Tiểu đoàn 54 thuộc Tỉnh đội Hưng Yên về đánh diệt hoàn toàn bốt Nghi Xuyên. Đội du kích Quan Xuyên số đông là chị em nữ Hoàng Ngân đã tích cực phục vụ trận đánh. Các chị em hăng hái bắt tù binh, cứu thương, mang vác chiến lợi phấm. Riêng bà Ngội được đội trinh sát sử dụng để vẽ sơ đồ, đắp sa bàn dẫn đường cho bộ đội (bởi bà đã có thời gian bị địch bắt ở trong bốt, thông thạo địa hình), bà đã được Ban chỉ huy trận đánh khen thưởng.


Đầu năm 1954, ta mở chiến dịch tổng công kích đường 5, đánh phá toàn tuyến đường bộ và đường sắt từ Hải Phòng đi Hà Nội. Tỉnh đội Hưng Yên quyết định điều động Đỗ Minh Hiệp giữ chức chính trị viên Trung đội thuộc Đại đội 5 (là đại đội độc lập chuyên về đánh bom mìn trên đường 5 và đường sắt). Đồng chí Mai Phương, đại đội trưởng và đồng chí Quyết, đại đội phó là những người trực tiếp chỉ huy đơn vị lúc đó, cho biết: Đồng chí Đỗ Minh Hiệp là một cán bộ gương mẫu, tận tụy. Tuy đồng chí ở đơn vị chưa lâu nhưng thường xuyên tổ chức và chỉ huy các chiến sĩ bám sát trận địa. Ngày thì trinh sát địch, đêm lại chỉ huy đánh bom mìn phá đường sắt, cắt dây điện thoại... tiêu diệt được nhiều đoàn tàu giặc. Sau một lần đánh địch, đơn vị của Đỗ Minh Hiệp về trú quân tại thôn Thư Đôi (làng Cồi) thuộc huyện Thuận Thành - Bắc Ninh, thì bị 3 máy bay Đa-cô-ta của Pháp đến thả bom. Đồng chí Đỗ Minh Hiệp bị trúng bom và hy sinh. Cả đơn Đại đội 5 vô cùng thương tiếc anh, một cán bộ dũng cảm, kiên cường. Đơn vị cùng địa phương tổ chức truy điệu và chôn cất anh ngay trên mảnh đất anh ngã xuống.


Được tin Đỗ Minh Hiệp hy sinh khi anh tròn 24 tuổi cán bộ và nhân dân xã Nguyên Huệ và thôn Quan Xuyên - quê hương thân yêu của anh vô cùng thương tiếc, đã tổ chức trọng thể lễ truy điệu, đưa tiễn anh. Nhà nước cũng đã truy tặng Đo Minh Hiệp danh hiệu liệt sĩ và bằng Tổ quốc ghi công.
Logged
dungnuocgiunuoc
Thành viên
*
Bài viết: 614



« Trả lời #26 vào lúc: 21 Tháng Mười Một, 2022, 07:55:50 pm »

ĐẠI ĐỘI 25 LIÊN TIÊP LẬP CÔNG


Đại tá NGUYỄN VĂN HẢI
(Nguyên Viện trưởng VKSQS Quân khu 3)


Bước vào Đồng Xuân năm 1952-1953, Đại đội 25 thuộc Tiểu đoàn 58 Tỉnh đội Hưng Yên được cấp trên giao nhiệm vụ lên hoạt động bám trụ ở phía bắc huyện Khoái Châu và 2 huyện Văn Giang - Yên Mỹ để làm nhiệm vụ xây dựng cơ sở, giữ vững căn cứ du kích vùng mới giải phóng, đồng thời nghiên cứu, tố chức diệt các đồn bốt địch ở các khu vực địa bàn khu căn cứ uy hiếp đường số 5A.


Chấp hành nhiệm vụ, đồng chí Phạm Du, đại đội trưởng giao nhiệm vụ cho các đồng chí Uy, Lai, Chất - trinh sát viên dưới sự chỉ huy của đồng chí Lê Văn Ca - Tiểu đội trưởng - Trung đội 1 đi trinh sát các bốt địch để tìm đường luồn sâu vào trung tâm căn cứ địch theo phương thức đánh “Mật tập” diệt đồn nhanh gọn quân ta ít bị thương vong mà Đại đội 25 đã từng thành công giành thắng lợi vẻ vang, tiêu diệt một số đồn như: Đào Viên, Văn Trì...


Sau một thời gian, tổ trinh sát đã tiến hành trinh sát thực địa có kết quả về báo cáo với đại đội. Sáng ngày 8-10-1953, đại đội trưởng Phạm Du gọi tôi (Nguyễn Văn Hải) thư ký tác chiến đại đội nói rõ nhiệm vụ: Tối nay đi cùng đại đội trưởng theo tổ trinh sát dẫn đường đến thực địa xem cụ thể bốt Cống Ao Sầu. Khoảng 23 giờ chúng tôi nối đuôi nhau bò vào hết hàng rào dây thép gai thứ 3 rất thuận lợi và an toàn.


Sáng hôm sau, đại đội trưởng giao cho tôi và tổ trinh sát đắp sa bàn, nghiên cứu để giao nhiệm vụ cho các trung đội đi trinh sát, nghiên cứu thực địa thật cụ thể, thận trọng...

Ngày 10-10-1953, mũi trinh sát của các trung đội tập trung trên sa bàn để bổ sung những tình tiết mới phát hiện. Đồng chí đại đội trưởng kết luận, đồng thời giao nhiệm vụ cho các trung đội về tổ chức cho bộ đội luyện tập phương thức tác chiến đánh “Mật tập” ở các hướng đã được phân công nhiệm vụ. Thời gian này, đồng chí Mai Dương, Tiểu đoàn phó D58 trực tiếp xuống theo dõi chỉ đạo Đại đội 25. Theo kế hoạch, tối ngày 14-10-1953, Đại đội 25 tấn công diệt đồn cống Ao Sầu. Đúng 20 giờ đơn vị xuất phát hành quân từ thôn Đức Nhuận Thượng, đến 23h30 đại đội đã tỏa ra tiến sát hàng rào thép gai ngoài cùng. Đường dây điện thoại các mũi báo về thông suốt. Tổ trinh sát mũi chính báo ra đã gỡ hết mìn và cắt xong hàng rào thứ 3, mở đường áp sát sở chỉ huy địch. Các mũi gọi điện về đều đã áp sát lô cốt địch. Đồng chí Phạm Du ra lệnh các mũi tiếp tục tiến vào. Đúng 23 giờ 50, lệnh đại đội trưởng phát hỏa tiến công. Ngay lập tức mũi trung đội 1 xông lên diệt gọn chỉ huy sở địch và 2 lô cốt trung tâm. Mũi trung đội 3 diệt gọn 2 lô côt phía bắc. Tất cả địch đều bị tiêu diệt gọn. Còn mũi thứ 3 do Trung đội Nguyễn Văn Định chỉ huy bị vướng hàng rào quanh lô cuối cùng không vào được nên phải bí mật rút ra và bị hy sinh một đồng chí.


Trận đánh diễn ra trong vòng 30 phút, ta tiêu diệt gọn, chỉ huy và 4 lô cốt, boong ke; thu được 4 khẩu đại liên Mas, 1 trung liên và một số súng trường. Còn sót 2 lô cốt phía nam không diệt được nên trung đội ở mũi này phải kiểm điểm rút kinh nghiệm.


Sau trận diệt đồn Cống Ao Sầu ngày 18-11-1953, đại đội 25 lại “Mật tập” tiêu diệt đồn Vĩnh An huyện Văn Giang. Ta diệt 16 tên, bắt sống 74 tên, thu toàn bộ vũ khí. Điều nổi bật trận này là ta đã đánh trúng, diệt và bắt gọn hầu hết ca tên phản động, ác ôn có nhiều tội ác chống phá cách mạng huyện Văn Giang. Trong trận này ta chỉ bị thương 3 đồng chí.


Để tiếp tục chỉ huy đơn vị chiến đấu, cấp trên đã bổ nhiệm đồng chí đại đội phó Hà Huy Doanh lên giữ chức đại đội trưởng. Đại đội 25 lại nhận được lệnh của Tỉnh đội giao tiếp nhiệm vụ tổ chức trinh sát, tìm mọi cách diệt bằng được đồn Kênh Cầu thuộc huyện Yên Mỹ, cách đường số 5 hơn 2km. Sau một thời gian trinh sát, tổ trinh sát đã tìm được lối vào. Riêng đồng chí Lai, trinh sát viên, đã mò vào hẳn trung tâm chỉ huy của đồn mà bọn địch không hay biết, lúc ra còn vào bếp lấy ra 3 kg thịt và bọc bún mang về. Tuy vậy đai đội thấy việc làm manh động của đồng chí Lai là rất nguy hiểm nên đã kịp thời chấn chỉnh. Đồng chí đại đội trưởng gọi tôi (Nguyễn Văn Hải) thư ký tác chiến lên đi cùng đại đội trưởng theo tổ trinh sát đến thực địa nghiên cứu theo dõi qua 3 ngày, đại đội báo cáo về tiểu đoàn và lên Tỉnh đội. Đồng chí Lê Đức Thịnh, Chính trị viên Tỉnh đội và đồng chí Nguyễn Văn Chiện, Tiểu đoàn trưởng D58 xuống kiểm tra nắm tình hình và trực tiếp chỉ huy trận đánh này... Đúng 5 giờ ngày 18-01-1954, Đại đội 25 lại lập công xuất sắc, tiêu diệt gọn bốt Kênh Cầu, thu toàn bộ vũ khí, quân trang, quân dụng. Bộ đội ta hoàn toàn vô sự. Thắng lợi diệt dược đồn Kênh Cầu và Vĩnh An, bọn địch không còn khả năng chiếm đóng lại nên tuyên đường số 5A dài khoảng 8 km từ Bần Yên Nhân đến Cầu Ghềnh bọn địch đành bỏ ngỏ. Thời cơ này đã tạo điều kiện cho các lực lượng chủ lực, dân quân du kích của ta kéo lên áp sát đường 5A, ngăn chặn con đường tiếp tế chiến lược của địch từ Cảng Hải Phòng lên Hà Nội và đánh tiêu diệt lớn đối với đội quân viễn chinh Pháp đang bị sa sút, khốn đốn trên đoạn đường này cho đến khi hiệp định Giơnevơ được ký kết.
Logged
dungnuocgiunuoc
Thành viên
*
Bài viết: 614



« Trả lời #27 vào lúc: 21 Tháng Mười Một, 2022, 07:56:47 pm »

LA TIẾN MỘT THỜI ĐAU THƯƠNG VÀ CHIẾN THẮNG


PHẠM QUANG MINH


La Tiến thuộc xã Nguyễn Hòa, huyện Phù Cừ, ở tận cùng phía đông nam tỉnh Hưng Yên. Sống dưới chế độ thực dân Pháp, nhân dân ta bị bọn thực dân đế quốc đàn áp bóc lột nặng nề, dẫn đến nạn đói khủng khiếp tháng ba năm Ất Dậu 1945. La Tiến cùng nằm trong thảm cảnh đó. Xã Nguyễn Hòa bị chết đói 544 người (bằng 1/4 dân số xã), riêng La Tiến chết đói 112 người.


Cách mạng Tháng Tám năm 1945 thắng lợi. Nhân dân La Tiến đi theo Việt Minh vùng lên giành lại chính quyền. Cuộc mít tinh lớn tổ chức tại sân đình ngày 24-8-1945 biểu thị ý chí cách mạng của nhân dân, quyết tâm xây dựng cuộc sống mới dưới chế độ Dân chủ cộng hòa. Lá cờ đỏ sao vàng được cấm trên ngọn cây đa cao. Làng quê bừng lên khí thế cách mạng mới, thanh niên, thiếu nhi phấn khởi múa hát những bài ca cách mạng dưới bóng cây đa. Giải phóng quân về huyện tập “đánh trận giả” tại bờ sông khu vực bến đò. Xã tổ chức cuộc thi bơi vượt sông Luộc, dân làng đứng kín quanh gốc cây đa reo hò cổ vũ, càng tăng thêm không khí tưng bừng của cách mạng mùa thu.   Thực dân Pháp dã tâm xâm lược nước ta lần nữa. Ngày 23-9-1945 chúng gây hấn ở Nam Bộ. Đáp lời kêu gọi của Hồ Chủ tịch, người thanh niên đầu tiên của La Tiến là Đặng Đồng - vừa đoạt giải nhất cuộc thi bơi - đã xung phong gia nhập đoàn quân Nam tiến. Ngày 19-12-1946, kháng chiến toàn quốc bùng nổ. La Tiến còn ở xa mặt trận, nhưng không khí chuẩn bị chiến đấu đã sôi động hơn. Hàng chục thanh niên tiếp tục tình nguyện nhập ngũ ra tiền tuyến. Bến đò La Tiến nhộn nhịp, ngày đêm từng đoàn bộ đội hành quân qua lại, ngồi nghỉ chân bên sốc đa, nhân dân mang nước chè xanh ủng hộ.


Chiến tranh ngày càng lan rộng. Ngày 4-1-1947, giặc Pháp đánh vào địa bàn Hưng Yên, đóng bốt cầu Ghềnh, Như Quỳnh, từng bước mở rộng chiếm đường 5, đường sắt và 4 huyện phía bắc tỉnh. Nhân dân La Tiến vẫn tích cực chuẩn bị mọi mặt cho kháng chiến. Dân quân, thanh niên hăng hái luyện tập quân sự, mua sắm vũ khí, đào hầm hố phòng tránh bom đạn, phá hoại đường, đắp ụ trên đê sông Luộc; rào làng đắp lũy xây dựng “thôn kháng chiến”; tổ chức đưa du kích và các cụ “bạch đầu quân’' lên khu đường 5.


Ngày 22-12-1949, địch mở chiến dịch Diabolo đánh phá càn quét địa bàn 10 huyện tự do phía nam 2 tỉnh Hưng Yên Hải Dương. Từ ngày đó, địch đóng bốt La Tiến, xây dựng thành vị trí then chốt trong tuyến phòng thủ bắc sông Luộc. La địa hình quan trọng về quân sự và giao thông thủy bộ, những trận càn lớn của địch ở Hưng Yên trong những năm kháng chiến như Diabolo (Con Quay 22-12-1949). Citron (Trái Chanh 25-9-1951). Dromadaire (Lạc Đà 23-4-1952), và trận càn lớn cuối cùng An-giê-ri (7-1-1954) đánh vào các huyện Phù Cừ, Tiên Lữ, và 2 huyện Thanh Miện, Ninh Giang (Hải Dương), quân cơ động địch đều có lực lượng kín tập kết ở La Tiến, làm bàn đạp tấn công càn quét trong vùng. Bốt La Tiến trở thành nơi địch giam cầm, tra tấn, tàn sát đồng bào, cán bộ và chiến sĩ ta bằng cả những hình thức giết người man rợ. Trong số hơn một ngàn người bị địch giết hại ở đây, có nữ anh hùng liệt sĩ Trần Thị Khang lúc đó là Huyện ủy viên. Bí thư Phụ nữ cứu quốc huyện, chỉ huy đội nữ du kích Hoàng Ngân huyện Phù Cừ. Ngày 8-6-1950, chị về công tác tại thôn Phù Oanh xã Minh Tiến, không may địch quây càn bắt được dưới hầm bí mật. Chúng đưa chị về bốt La Tiến tra tấn hết sức dã man, treo ngược lên cành cây đa đấm đá đến khi ngất lịm, máu chảy đầm đìa; tra điện giật bắn tung người, dùng kìm rút hết móng tay... Lúc tỉnh dậy, địch lại giở trò dụ dỗ khai báo, đầu hàng, nhưng chị không hề khuất phục. Qua 5 ngày đối mặt với quân thù, chị luôn giữ vững ý chí, kiên trung bất khuất. Địch đã treo chị lên cành cây đa, dùng dao cắt cổ rồi hất xác xuống sông Luộc. (Ngày 8-11-2000, chị được Nhà nước truy tặng danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân).


Nhân dân La Tiến hai lần bị địch dồn đi khỏi làng, bỏ lại “vườn không nhà trống”; ba lần địch đốt phá, san bình địa thành “vành đai trắng”. Gần ba trăm nóc nhà, toàn bộ công trình kiến trúc cổ kính: đình, chùa, đền, miếu... thành đống tro tàn, hơn 100 người bị chết... Nhưng người dân La Tiến không hề theo giặc, vẫn một lòng một dạ hướng về Đảng, Bác Hồ, tin tưởng vào kháng chiến.


Đáp lại sự mong đợi của nhân dân trong vùng, rạng sáng ngày 31-1-1954 (tức 23 tháng chạp năm Quý Tỵ), bộ đội Trung đoàn 42 gồm Tiểu đoàn 664 và Đại đội 24 Phù Cừ phối hợp, cường tập tiêu diệt vị trí La Tiến trong vòng 20 phút, mở ra vùng căn cứ du kích rộng lớn khu tiếp giáp 3 tỉnh Hưng Yên - Hải Dương - Thái Bình.


Nhân dân La Tiến thoát khỏi vòng kìm kẹp khủng bố của quân thù, nhanh chóng trở về phục hồi sản xuất, dựng tạm nhà cửa trên nền đất cũ. 4 năm sống trong vùng địch tạm chiếm căng thẳng, giờ đây được sống tự do. Không bao lâu, chợ La lại họp đông vui trên nền chợ cũ - nơi bốt địch vừa bị quân ta tiêu diệt. Con đò ngang lại sớm tối đưa khách qua sông. Nhân dân thu dọn sạch sẽ, cải tạo địa hình không còn một dấu tích quân giặc chiếm đóng. “Bia căm thù” được xây dựng bên gốc đa để ghi sâu tội ác của bọn xâm lược, và nêu gương hy sinh bất khuất, chiến thắng vẻ vang của quân dân ta.


Hơn nửa thế kỷ qua, từ khi không còn bốt giặc, người dân La Tiến trở về làng xây dựng lại cuộc sống. Hàng chục nhà xây cao tầng liên tiếp mọc lên. Nhân khẩu gần gấp đôi thời chống Pháp (1700 người) nhưng không còn hộ đói, không còn nhà tranh tre, nứa lá. Đường lối đổi mới của Đảng đã mở ra phương hướng phát triển xây dựng đi lên chủ nghĩa xã hội, thực hiện “Công nghiệp hóa, hiện đại hóa”, “dân giàu nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”.


Mọi sự vật đổi thay theo năm tháng. Nhưng còn đó “cây đa La Tiến”, nhiều người gọi là “cây đa căm thù”, bởi nó là “hiện vật” ghi lại tội ác của bọn đế quốc xâm lược. Trải qua bao mưa nắng, cây đa to lớn nhanh đến lạ kỳ, gấp ba bốn lần lúc quân địch chiếm đóng. Thân cây tròn dăm người giang tay ôm không kín, cành lá sum suê che khuất một khoảng trời, soi bóng xuống dòng sông.


Cây đa La Tiến trên bờ sông Luộc bên cạnh “Bia căm thù” là di tích về một thời máu lửa đau thương. Những gia đình có người thân bị địch giết hại nơi gốc đa này, mỗi lần về thăm viếng đứng trước “Bia căm thù” đọc dòng chữ:... “nơi đây giặc Pháp và tay sai đã giết hại 1145 đồng bào, cán bộ, chiến sĩ ta...”, ai nấy đều lặng lẽ thắp nén hương thơm tưởng niệm người đã khuất. Hàng trăm hài cốt còn ở nơi đâu? Chắc là đã theo dòng sông trôi ra biển cả, hoặc chìm vào lòng đất... nhưng linh hồn vẫn ở lại quẩn quanh cùng quê hương, đất nước, quần tụ quanh gốc đa này - một di tích căm thù không thể nào quên.
Logged
dungnuocgiunuoc
Thành viên
*
Bài viết: 614



« Trả lời #28 vào lúc: 21 Tháng Mười Một, 2022, 08:00:54 pm »

VÀI NÉT VỀ PHONG TRÀO THANH NIÊN HƯNG YÊN
THỜI KỲ CHỐNG PHÁP


ĐOÀN VĂN LIỆU
(8 1996)


Tôi viết lại đây một vài mẩu chuyện và những gian khổ oanh liệt của Đoàn Thanh niên cứu quốc nói riêng và phong trào thanh niên nói chung thời kỳ chống Pháp của tỉnh Hưng Yên để thanh niên sau này hiểu được, và cũng để con cháu tôi thấy được ông cha nó có góp phần.


Tôi tạm sơ qua vài điểm người thật việc thật trong những năm cuối 1946 đầu 1947 diễn ra những mưu trí của ta chống ngoại xâm, giữa một dân tộc lạc hậu đánh nhau với một cường quốc có hạng trên thế giới.


Tôi được đồng chí Trần Phương là Tỉnh ủy viên Hưng Yên lúc đó điều lên huyện công tác, phụ trách Bí thư Thanh niên cứu quốc đầu tiên ở huyện Tiên Lữ.

Tôi, Đoàn Văn Liệu, chính quán làng Đặng Cầu, nhưng lại được giác ngộ cách mạng ở thành phố Nam Định từ 1944, hoạt động trong Nhà máy sợi Nam Định. Khi Nhật đảo chính Pháp, tôi bị Nhật bắt tra tấn, đánh đập và giam tù ở nhà lao Nam Định.


Nhật đầu hàng Đồng minh. Ngày 17/8/1945, ta điều đình Nhật thả chúng tôi ra và 19/8/1945 tôi tham gia cướp chính quyền ở Nam Định. Đồng chí Đặng Châu Tuệ được bầu Chủ tịch ủy ban nhân dân cách mạng lâm thời tỉnh Nam Định. Tôi được phân công phụ trách Phó ban trinh sát và công tác theo sự phân công của tổ chức cho đến tháng 11/1946, chúng tôi hoàn thành cuộc đình công Nhà máy sợi để chống Cao ủy Pháp, và là lúc sửa soạn kháng chiến toàn quốc.


Các đồng chí Đặng Xuân Thiều, Phương, Tỉnh là những người phụ trách chúng tôi lúc bây giờ, thông báo cho chúng tôi biết là phải cho gia đình tản cư rời khỏi thành phố ngay, vì ta đã toàn quốc kháng chiến. Các đồng chí cho biết: nếu tản cư về địa phương nào hoặc quê quán mình mà mất liên lạc với tổ chức, thì cứ ở địa phương ấy xin công tác mà hoạt động. Vì thế khi tôi đưa gia đình vợ con về quê làng Đặng Cầu (Tiên Lữ, Hưng Yên) xong, khi trở lại Nam Định để nhận công tác thì Pháp đã chiếm toàn thành phố nên mất liên lạc.


Tôi quay lại quê hương, gặp đồng chí Hiến là Chủ tịch Ủy ban kháng chiến xã xin công tác. Tôi được giao công tác làm Chủ tịch Ủy ban tản cư, rồi Chỉ huy trưởng đội dân quân du kích và Thường vụ Việt Minh xã. Mọi nhiệm vụ tôi hoàn thành tốt, và công tác rất nhiệt tình. Đồng chí Trần Phương là Tỉnh ủy viên phụ trách khu vực thấy năng lực và nhiệt tình của tôi, mới điều tôi làm công tác ở trên huyện Tiên Lữ. Khoảng đầu năm 1947, tôi làm Bí thư Thanh niên cứu quốc huyện Tiên Lữ đầu tiên, đồng thời là Thường vụ Việt Minh huyện. Lúc này, hầu hết các thôn xã trong toàn huyện chưa có phân đoàn, xã đoàn thanh niên nào, cho nên tôi phải gấp rút thành lập Ban chấp hành thanh niên huyện, rồi phân công các đồng chí chấp hành về các thôn, xã thành lập phân đoàn xã đoàn. Nơi nào khó khăn, tôi phải trực tiếp xuống nằm ở đó để tổ chức cho bằng được. Đến khi toàn huyện có đầy đủ các phân đoàn, xã đoàn, tôi tiến hành tổ chức đại biểu hội nghị để bầu ra Ban chấp hành chính thức. Dĩ nhiên tôi trúng cử Bí thư Thanh niên cứu quốc huyện cộng với 8 ủy viên chấp hành được hội nghị bầu ra. Sau đó ít lâu, hội nghị lại bầu tôi là Huyện đoàn trưởng Thanh niên Việt Nam.


Huyện ủy cử tôi là Bí thư Đảng đoàn thanh niên huyện. Sau khi ổn định tổ chức thanh niên trong toàn huyện mới vận động thanh niên tòng quân, vào dân quân du kích, tham gia mọi mặt trong công tác kháng chiến chống Pháp. Huyện đoàn Tiên Lữ còn làm được mấy việc rầm rộ để sốc phong trào lên lúc đó. Khoang cuối 1947, tôi đã tổ chức ngày Đại hội khỏe của thanh niên toàn huyện ngay ở huyện lỵ Tiên Lữ, được đồng chí Đào Quốc Bảo là Tỉnh đoàn trưởng Thanh niên Việt Nam về chứng kiến.


Huyện đoàn Thanh niên Tiên Lữ ra được 3 số báo in tipô lấy tên là “Thanh niên mới”. Huyện đoàn chúng tôi ra được tờ báo in đó là vì có một ông chủ nhà in tên là Nhẫn ở Hà Nội tản cư về Nễ Châu có mang theo mấy cái máy in dận chân và vật liệu in. Chúng tôi vận động ông ta in báo xong thu tiền về. Còn bài vở thì chúng tôi cử ra ban biên tập, ban ấn loát hẳn hoi, còn đề tài là kháng chiến chống Pháp... Tờ báo mới ra 3 số, mỗi số hơn 1.000 tờ, thì đình bản.


Chúng tôi không chỉ nắm được quần chúng là thanh niên mà còn đa phần nhân dân, nhất là giới phụ lão. Vì thế, Tỉnh đoàn đặt vấn đề nhờ tôi vận động nhân dân địa phương ủng hộ để triệu tập cuộc họp Đại biểu hội nghị Tỉnh đoàn. Hội nghị của Tỉnh đoàn được tổ chức trong 3 ngày ở làng Triều Dương huyện Tiên Lữ.


Cuộc bầu cử Tỉnh đoàn ngay sau đó, anh em bầu tôi vào Ban chấp hành. Thế là khoảng 1948 tôi lên công tác tại Tỉnh đoàn Thanh niên cứu quốc Hưng Yên, và được Tỉnh ủy cử đi học lớp lý luận trung cao cấp của trường Trần Phú do Liên khu ủy 3 mở. Khi mãn khóa, tôi về thì giặc Pháp đã chiếm đóng toàn tỉnh. Lúc đó tôi được phân công Phó bí thư Thanh niên cứu quốc tỉnh, đồng thời là Phó bí thư Đảng đoàn thanh vận tỉnh Hưng Yên, hoạt động địch hậu. Tỉnh ủy lại thành lập Đảng đoàn Dân vận do đồng chí Hân phụ trách. Tôi là Đảng đoàn thanh vận tỉnh. Lúc này công tác Đoàn phải kết hợp với dân vận nói chung nên tôi được Tỉnh Đảng bộ Hưng Yên giao công tác 4 huyện miền Nam là Kim Động, Ân Thi, Tiên Lữ, Phù Cừ.


Đã 1 năm Pháp chiếm đóng toàn tỉnh, chúng lập tề, xây bốt, mỗi xã có 1 tháp canh, tỉnh Hưng Yên có 500 xã thì có 500 cái tháp canh. Song, chúng ta có du kích chiến tranh và nhân dân chiến tranh chống lại, vì thế ở một vài huyện có những vùng dằng co giữa ta và địch và có những khoảnh tự do hoàn toàn.


Toàn tỉnh, phong trào thanh niên bị xẹp xuống (nói chung cả các ngành, các giới). Cho nên, một số anh em trong Ban chấp hành bàn nhau và chia nhau đi các nơi trực tiếp triệu tập một số cán bộ Huyện đoàn còn lại và một sộ cán bộ Xã đoàn còn bám đất tới họp hội nghị cán bộ. Tỉnh đoàn mời đại diện các ngành, các giới của tỉnh đến dự họp. Địa điểm họp hội nghị Tỉnh đoàn là đình làng Mão Xuyên, huyện Ân Thi. Đây là địa điểm tương đối tự do, xung quanh có bốt địch nhưng ở cách làng này tương đối xa, chúng tôi có cho cảnh giới cẩn thận. Tuy ở trong lòng địch nhưng chúngg vẫn quyết định họp hội nghị Tỉnh đoàn, để củng cố tinh thần cho các Huyện đoàn và Xã đoàn toàn tỉnh.
Logged
dungnuocgiunuoc
Thành viên
*
Bài viết: 614



« Trả lời #29 vào lúc: 21 Tháng Mười Một, 2022, 08:01:32 pm »

Trong cuộc hội nghị này, do ấu trĩ của thanh niên lúc đó mà khiến một số đại biểu các ngành, các giới ở tỉnh đến dự họp đã bi thương vì một trò chơi dại dột lúc đó.

Khoảng 7 giờ tối khai mạc hội nghị. Sau khi tuyên bố lý do, giới thiệu đại biểu, rồi báo cáo tình hình, tinh thần khá căng thẳng. Một cán bộ phát biểu buổi họp thanh niên gì ngột ngạt thế, vui nhộn lên chứ. Một lúc sau thì thấy hai bên cánh cửa đình mở, lố nhố một số mang súng, mặt nhọ nhem đầu đội mũ sắt, mồm liến thóang: “ố là là, bố cu Việt Minh bố cu Việt Minh”. Trời ơi, một cuộc hỗn loạn nhốn nháo nhảy qua tường, vượt cả lên người nhau mà chạy. Có đồng chí toạc đầu, sái chân. Ông Nhường, Trưởng ty Giáo dục tỉnh bi thương nặng, còn số anh em khác bị đau. Thì ra đó là trò chơi, mà người bày ra trò chơi là đồng chí Tuấn “cà chua”. Sau cuộc họp này, chúng tôi phải chấp nhận mọi sự phê phán vì thanh niên tếu làm một việc vô ý thức.


Và cũng sau cuộc họp này, Ban chấp hành Tỉnh đoàn chúng tôi phân công nhau xuống nằm ở các huyện, còn một số đồng chí thì được điều đi nơi khác. Đồng chí Tuấn “cà chua” điều về văn phòng Thanh niên Liên khu 3, đồng chí Đào Quốc Bảo điều đi công tác tại Tỉnh đoàn Hòa Binh, tôi và em Hiền văn phòng Tỉnh đoàn thì về huyện Tiên Lữ, khi ấy tôi kết hợp công tác cơ quan Dân vận Tỉnh ủy đóng ở Tam Nông. (Tôi nhớ em Hiền cán bộ văn phòng Tỉnh đoàn bị bắn chết ở Muội Sảng, tôi đề nghị những người còn sống nên có trách nhiệm đối với em Hiền lúc đó).


Tỉnh đoàn Thanh niên thời đó cũng đề ra nhiều công tác phối hợp phá tề trừ gian, kết hợp với các thôn xã chống bắt phu bắt lính. Tỉnh đoàn còn ra những bức thư ngỏ gửi anh em thanh niên trong hàng ngũ địch, mà bản thảo hiện nay tôi còn giữ được nguyên văn. Tỉnh đoàn Hưng Yên luôn làm theo sự hướng dẫn của Đảng để chỉ dẫn động viên thanh niên tỉnh Hưng Yên chống Pháp một cách dũng cảm.


Năm 1951, Liên khu ủy in điều tôi đi khỏi Hưng Yên ra công tác tại Tỉnh đoàn Ninh Bình. Cũng thời gian này, tôi nghe tin đồng chí Miên (tức Đặng), cùng ở trong Đảng đoàn tỉnh với tôi đã bị địch bắt đánh đập dã man, lôi đi hết nhà tù nọ đến nhà tù kia, sau rồi tôi không rõ. Tôi công tác ở Ninh Bình được ít lâu thi Khu lại điều về Thanh vận Liên khu in và đi tham gia công tác Thanh niên xung phong hỏa tuyến ở chiến dịch Quang Trung, Hà Nam Ninh.


Tóm lại: Phong trào chống Pháp của Đoàn thanh niên tỉnh Hưng Yên là vô cùng dũng cảm, oanh liệt, đã kích động và khơi dậy cả một trào lưu thanh niên của tỉnh Hưng Yên tham gia sôi nổi, rộng khắp. Đó là chính sách dân vận đúng đắn của Đảng, nhất là thanh vận, lúc đó Đảng đã đào tạo được một số cán bộ thanh vận đắc lực.


Giặc Pháp sử dụng chiến tranh ở Hưng Yên là tàn bạo vô cùng. Phải khẳng định rằng, vùng địch Hưng Yên những năm từ 1949 đến 1951 là đen tối vô cùng - có thể so sánh với những vùng đen tối nhất của toàn quốc.


Viết bài này là vì một vài chiến hữu trong Ban liên lạc hưu trí Tỉnh đoàn Thanh niên cũ giục tôi. Tôi nghĩ viết một vài mẩu cuộc đời hoạt động của phong trào thanh niên huyện Tiên Lữ và thanh niên tỉnh Hưng Yên đã dũng cảm chiến đấu chống Pháp xâm lược là như thế đấy, để tỏ rõ thanh niên thế hệ Hồ Chí Minh, để thanh niên thế hệ sau nghiên cứu và cũng để cho con cháu tôi sau này biết được ông cha cũng đã góp phần. (Đồng chí Đoàn Văn Liệu đã mất đã 10 năm nay, đây là tài liệu của gia đình giữ lại).


CHỨNG NHẬN

Tôi, Hoàng Văn Đỉnh (tức Phí Tất Đại) khi làm Bí thư Đoàn thanh niên Liên khu 3 (1949-1951), nguyên Thứ trưởng Bộ Cơ khí - luyện kim, hiện là ủy viên Thường Vụ Hội khoa học công nghệ mỏ Việt Nam, chứng nhận: Đồng chí Đoàn Văn Liệu là Bí thư Huyện đoàn Tiên Lữ và sau là ủy viên Thường vụ Tỉnh đoàn thanh niên Hưng Yên vào thời kỳ 1949-1951.

Đồng chí Liệu có ý thức với lịch sử trong việc viết bài này. Nhưng theo tôi còn nhớ rất rõ vào khoảng thời gian đó Hưng Yên và các tỉnh Tả ngạn sông Hồng là nơi diễn ra chiến sự ác liệt nhất trong cuộc chiến tranh chống Pháp, là nơi bộc lộ cao nhất khí phách anh hùng của thanh niên và nhân dân ta. Cần có nhiều cán bộ thanh niên thời đó viết và gửi đến Tỉnh đoàn thanh niên Hải Hưng hiện nay.

Ngày 22-8-1996
HOÀNG VĂN ĐỈNH
Logged
Trang: « 1 2 3 4 5 6 7 8 »   Lên
  In  
 
Chuyển tới:  

Powered by MySQL Powered by PHP Powered by SMF 1.1.21 | SMF © 2006-2008, Simple Machines

Valid XHTML 1.0! Valid CSS! Dilber MC Theme by HarzeM