NHỮNG NĂM THÁNG BA CÙNG (1951-1954)
Trong các năm 1948, 1949, 1950, các Ban quân, dân, chính, Đảng các miền và nhiều vùng trực thuộc miền đều được thành lập. Lực lượng dân quân du kích đã được xây dựng khá nhiều. Bộ đội Campuchia, Việt Nam phát triển mạnh hơn. Các đại đội chủ lực tập trung Miền đã được thanh lập và chủ động tiến công địch nhiều nơi, diệt nhiều địch, thu nhiều vũ khí, quân trang quân dụng. Hai đại đội 160 và 180 ở miền Tây Nam Campuchia đã đánh thắng hàng chục trận lớn, thu nhiều vũ khí và chiến lợi phẩm. Đại đội 180 còn tiến lên Kỏng Pông Chnăng phối hợp với các đơn vị ở Tây Bắc Campuchia đánh địch phát triển du kích chiến tranh. Các miền Tây Bắc, Đông Bắc, Đông Nam, Miền Đông đều có các đại đội chủ lực Miền. Nhiều cán bộ quân tình nguyện Việt Nam cùng với các bạn Campuchia lãnh đạo vùng như: Anh Sam Khăn (Nguyễn Ngọc Khanh, tức Ba Khanh là Chủ tịch tỉnh Sông Bé hiện nay), hồi đó phụ trách vùng Nam lộ Chhuk (Kampot), anh Lê Linh Giang vùng cánh B tỉnh Tà Keo, anh Oong (Méas Savông) Kg.Chnăng, anh Nguyễn Công Lý, Kg Speu, anh Trần Háo Hiếu vùng Tây Kampot (sau 1954 anh Trần Háo Hiếu là đại tá, Cục phó Cục phòng cháy chữa cháy Việt Nam), anh Hoàng Tươi, thị xã Kampot, hiện là Đại tá Quân đội Nhân dân Việt Nam, anh Trần Văn Xã trong Ban cán sự Vùng Đông Kampot, sau đó anh ở trong Đảng ủy Nam lộ Chhuk, anh Huỳnh Công Đồng công tác ở KoKông - Tây Kampot, từ những năm 1946-1947 ở Thái Lan và các năm 1948-1954 ở Tây Kampot, (nay là một cán bộ hưu trí) hoạt động đắc lực giúp việc anh Dung Văn Phúc trong nhiệm vụ giải quyết vũ khí đạn dược cho chiến trường Nam Bộ và Campuchia. Có lần anh Huỳnh Công Đồng, Trần Mạnh Thắng đã cùng đồng chí Sẩy Bouthoong Chỉ huy phó Srok KôKông (Huyện KôKông) tiến đánh đồn Kôkapi ở trên núi, bắn chết tên đồn trưởng ác ôn khét tiếng vùng này. Anh Đào Mạnh Duệ sau thời gian chỉ huy bộ đội 651, từ năm 1952 đến tháng 10-1954 phụ trách Ban Tuyên huấn quân dân chánh Đảng miền Tây Nam Campuchia, là Bí thư Chi bộ liên cơ miền Tây Nam Campuchia trực thuộc Ban Cán sự Miền Tây Nam Campuchia, anh Phan Tùng Lâm, phó bí thư v.v... Có những anh em chiến đấu và công tác ở Campuchia từ năm 1947, 1948, 1949 liên tục đến tháng 10-1954 thì lên đường về nước sau Hiệp định Gènève, rồi lại lên Campuchia chiến đấu công tác liên tục qua các thời gian chống Mỹ, đánh Pôn Pốt - Đó là các anh Trần Chim (tức Trần Chính) các năm qua là đại tá, Phó Giám đốc Sở công an thành phố Hồ Chi Minh, anh Nguyễn Văn Hên, lên hoạt động chiến đấu ở Kông Pông Chnăng, là trung đội phó một trung đội, nay là Đại tá quân đội Nhân dân Việt Nam, anh Vũ Đình Ty, thời kỳ chống Pháp là đội trưởng đội võ trang tuyên truyền vùng Tà Keo (nay là Đại tá quân đội nhân dân Việt Nam), anh Trần Mạnh Thắng, trước hoạt động ở KoKông (nay là Đại tá quân đội NDVN), anh Nguyễn Tâm (quê ở Rạch Cái Sắng - xã Thới Bình, huyện Cà Mau) là chiến sĩ liên lạc mặt trận của Tiểu đoàn Hải ngoại Cửu Long II, lên hoạt động, chiến đấu ở Tây Nam Campuchia và công tác ở Trung ương Cục Miền Nam. Anh Ba Khanh lại lên Kratié nhiều năm. Anh Nguyễn Thanh Nhàn chiến sĩ bắn súng máy Bộ đội Hải ngoại Cửu Long II, nay là Đại tá Quân đội nhân dân Việt Nam.
Cuộc kháng chiến chống Pháp của nhân dân Campuchia ngày càng phát triển mạnh. Từ năm 1952 trở đi, các vùng giải phóng Campuchia mở rộng. Quân đội phát triển, nhiệm vụ nặng nề hơn, nhưng tài chính thì có nhiều khó khăn, nên đã yêu cầu tất cả các đơn vị cơ quan quân dân chính Đảng các cấp, cũng như quân đội đều phải tự cấp, tự túc về kinh tế, tài chính. Khắp các đơn vị nêu khẩu hiệu “ba cùng”: “cùng ăn, cùng ở, cùng làm” với nhân dân Campuchia. Bộ đội đánh giặc dựa vào dân mà sống, dựa vào dân để đánh giặc. Các đơn vị vừa sản xuất tự túc, vừa đánh giặc. Năm 1952, 1953, 1954, cơ quan quân dân chánh Đảng Miền Tây Nam đóng tại Phum Sréchène, Khum Srè Khnông, Srok Chhuk. Từ đây ra tới đồn Ôkrahông 10km, từ đồn Ôkrahông ra lộ Chhuk 2km. Các Ban của Miền Tây Nam đều do các đồng chí Campuchia làm trưởng ban, còn phó ban và cán bộ, nhân viên chuyên môn thì có cả Việt Nam lẫn Campuchia làm việc chung, nhưng về Đảng thì sinh hoạt riêng. Như đồng chí Achayout là chủ tịch miền kiêm trưởng Ban Tuyên huấn quân dân chính Đảng Miền. Trực tiếp điều hành Ban Tuyên huấn trong 3 năm ấy là đồng chí Đào Mạnh Duệ. Ban Tuyên huấn có 15 anh chị em, sau giảm biên chế còn 10 người. Nhà ở tự làm lấy và vài tháng di chuyển địa điểm một lần. Trong số này có vài anh em đã có vợ, con, còn đa số thì chưa. Công việc rất khẩn trương, có những lúc làm việc cả ngày lẫn đêm để kịp phát hành những tin tức tài liệu về tình hình chiến sự trong Miền, các tài liệu về đoàn kết sản xuất, giết giặc, về tổ chức, thành lập du kích, canh phòng và chống âm mưu tuyên truyền của địch, gây chia rẽ tình đoàn kết giữa hai dân tộc Việt Nam và Campuchia v.v... Làm việc thì căng thẳng như vậy, ăn uống thì vô cùng kham khổ. Ở Campuchia có món phổ biến là mắm “prồhoóc”. Loại mắm này làm bằng cá, để cho xình, xong trộn muối, bỏ vô khạp, không đậy nắp, phơi nắng nhiều ngày, sau đó đậy nắp, trét bùn để vài tháng thì đã thành mắm. Chúng tôi phải gởi đồng bào ra chợ mua mỗi lần ba bốn hũ về đem bán đi hai hũ, để lấy lại tiền vốn, còn một, hai hũ để dùng (mỗi hũ độ 3-4kg). Mỗi tuần chỉ được hai lần ăn canh có nêm mắm Prồhoóc. Vì nếu ăn nhiều thì thâm vào tiền mua muối trong tháng. Thịt heo, gà, vịt hầu như rất ít được ăn, vì nhân dân vùng ven rừng núi này rất ít nuôi heo, mà chỉ nuôi bò kéo xe, cày ruộng, nuôi gà đê đi cúng chùa.
Vào mùa mưa có nhiều măng tre, măng le, vô rừng chặt về nấu canh với mắm prồhoóc ngọt và ngon. Lâu lâu gặp nhân dân bắn được con nai hoặc bán thịt voi khô, chúng tôi mua một ít để cải thiện. Đầu mùa mưa, còn có món ăn rất quí đó là “con hinh” Tiếng Campuchia gọi là “Hinh”. Nhân dân Campuchia gọi là “gà đồng”. Trời mưa, chúng kêu inh ỏi. Mỗi người cầm một cây đèn chai cháy sáng, đến các gò mối có tiếng Hinh kêu thì bắt từng cặp một rất dễ dàng. Con Hinh gần giống như loài ễnh ương, nhưng mập mạp, thịt nó mềm và mỡ nhiều. Đem về kẹp từng kẹp 4-5 con nướng vàng, hoặc nấu canh chua ăn rất ngon, như thịt gà, có điều mềm hơn thịt gà. Hồi đó chúng tôi rất thích món Hinh này. Mấy năm ấy mỗi đầu người trong 1 tháng chỉ nhận được 1 cắc (1 hào) tiền Đông Dương, chủ yếu để mua muối, về lương thực, cấp mỗi đầu người 8 tháng lúa, 4 tháng kia còn lại thì đơn vị tự túc. Do đó đơn vị, cơ quan nào cũng xin đất của nhân dân để làm ruộng. Anh em còn phá rừng, trồng bắp, khoai mì, khoai lang, đậu v.v.... Từ cán bộ lãnh đạo, chỉ huy đều làm như anh em và còn gương mẫu đi đầu, nên mọi khó khăn đều vượt qua mà không hề nghe một tiếng kêu ca gì cả. Còn trái cây như chuối, thì hầu như hàng năm mới được ăn vài trái. Về quần áo: là quần xà loỏn (quần cụt), áo cổ vuông ngắn tay bằng vải tám mộc, nhuộm lá bàng (giã ra vắt lấy nước) và nhúng xình, hoặc nhuộm bằng các thỏi chì trong pin đèn. Quần áo nhuộm xong có màu xám tro. Nón chầm bằng lá thốt nốt. Chân đi đất suốt 4 mùa. Đi trong núi, rừng và đồng ruộng đều không hề có giầy dép. Chất ngọt thì vài tháng nấu chè bằng đường thốt nốt 1 lần.
Cuộc sống của cán bộ, chiến sĩ quân tình nguyện Việt Nam cùng với các cán bộ, chiến sĩ Campuchia trong thời kỳ 9 năm đánh Pháp là như vậy. Nhưng ai cũng xác định được nhiệm vụ giúp cách mạng Campuchia, giúp bạn đánh Pháp cũng là nhiệm vụ giải phóng đất nước Việt Nam. Hàng năm, anh em vẫn được bố trí về phép để giải quyết tình cảm gia đình
Cán bộ Việt Nam trong Ban tuyên huấn Miền Tây Nam Campuchia có các anh Lương Văn Thượng (chi ủy viên chi bộ liên cơ quan Miền), (hiện là đại tá cục phó cục chính trị quân khu 9), anh anh Nguyễn Duy Trinh Trung tá Công an (đã nghỉ hưu), anh Trịnh Xuân Tòng, anh Phát cán bộ biên tập và một số cán bộ Campuchia như các anh: Bunthon, Semsát, Acha... Các năm sau này có một số cán bộ đưa vợ con lên chiến trường Tây Nam, Tây Bắc, Đông Nam Campuchia, cùng công tác ở cơ quan - đơn vị, cũng sống những năm tháng gian khổ như vừa kể.