Lịch sử Quân sự Việt Nam
Tin tức: Lịch sử quân sự Việt Nam
 
*
Chào Khách. Bạn có thể đăng nhập hoặc đăng ký. 28 Tháng Ba, 2024, 04:22:31 pm


Đăng nhập với Tên truy nhập, Mật khẩu và thời gian tự động thoát


Trang: 1 2 3 4 »   Xuống
  In  
Tác giả Chủ đề: Sống mãi với thời gian  (Đọc 2591 lần)
0 Thành viên và 1 Khách đang xem chủ đề.
chuongxedap
Đại tá
*
Bài viết: 13138



« vào lúc: 03 Tháng Mười, 2022, 03:14:26 pm »

Tên sách: Sống mãi với thời gian
Nhà xuất bản: Quân đội nhân dân
Năm xuất bản: 2007
Số hoá: ptlinh, chuongxedap



Sống mãi
với thời gian


Tập bài viết về danh tướng Nguyễn Chánh người con của núi Ấn sông Trà





NHÂN KỶ NIỆM 50 NĂM NGÀY MẤT CỦA ĐỒNG CHÍ NGUYỄN CHÁNH











NHÀ XUẤT BẢN QUÂN ĐỘI NHÂN DÂN
Hà Nội – 2007

 

* Sưu tầm, tuyển chọn và chỉnh lý bài viết:

                                              Bà PHẠM THỊ TRINH (vợ đồng chí Nguyễn Chánh)
                                              Và các con:
                                                   - NGUYỄN CHÍ TRỰC
                                                   - NGUYỄN TUYẾT MINH
                                                   - NGUYỄN NGỌC SƯƠNG
                                                   - NGUYỄN ANH TƯỜNG
                                                   - NGUYỄN CHÍ DŨNG
                                                   - NGUYỄN CHÍ HÒA

 

Vị tướng tài danh của nước nhà
Qua đời giữa tuổi bốn mươi ba
Ghi một dấu son hình núi Ấn
Sáng ngời soi xuống dải sông Trà

(TẾ HANH)
Logged
chuongxedap
Đại tá
*
Bài viết: 13138



« Trả lời #1 vào lúc: 03 Tháng Mười, 2022, 03:19:55 pm »


Lời giới thiệu

NGUYỄN CHÁNH là một vị tướng. Hơn thế, như Đại tướng Võ Nguyên Giáp đã đánh giá, là một "vị tướng tài". Còn viên tướng chỉ huy quân đội viễn chinh Pháp, viên tư lệnh chỉ huy chiến dịch Atlante đánh lên Tây Nguyên là De Beaufort đã phải thừa nhận rằng Nguyễn Chánh là "vị tướng đã làm tôi điêu đứng trên chiến trường"... Nguyễn Chánh không chỉ là một vị tướng cầm quân trong Quân đội nhân dân Việt Nam, ông còn là một nhà lãnh đạo chính trị, một nhân vật của lịch sử.

Ông thuộc thế hệ những lớp người đầu tiên tham gia Đảng Cộng sản, từng trải ngục tù đế quốc. Ông lại là một trong những người tham gia lãnh đạo Đội du kích Ba Tơ, hạt nhân đầu tiên của lực lượng vũ trang cách mạng ở Khu 5. Ông là một trong những nhân vật lãnh đạo chủ chốt của sự kiện giành chính quyền ở Quảng Ngãi vào ngày 14 tháng 8 năm 1945, trước cả khi lệnh Tổng khởi nghĩa được ban hành.

Trong suốt cuộc kháng chiến 9 năm chống thực dân Pháp trở lại xâm lược, ông là người lãnh đạo và bám trụ với chiến trường Khu 5, vùng tự do nằm trong sự kiểm soát của nhà nước cách mạng nhưng cũng lại lọt vào giữa vòng vây của quân thù và là mục tiêu của những cuộc càn quét và các chiến dịch quân sự của quân viễn chinh xâm lược. Ở cương vị vừa là Chính ủy lại vừa là Tư lệnh chiến trường Khu 5, Nguyễn Chánh không chỉ làm tròn nhiệm vụ là giữ vững vùng giải phóng, kiên cường chống trả mọi cuộc hành quân của giặc, đặc biệt là cản phá âm mưu của thực dân Pháp tiến chiếm vùng Tây Nguyên chiến lược mà còn phối hợp với chiến trường cả nước, đặc biệt là trong chiến cục Đông - Xuân - Hè 1953-1954, góp phần vào chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ.

Chỉ sau Hiệp định Giơnevơ (7-1954), Nguyễn Chánh theo sự chỉ đạo của Trung ương mới rời chiến trường quê hương ra Bắc tham gia xây dựng quân đội, chuẩn bị cho những nhiệm vụ chiến lược lâu dài. Ông đảm nhiệm nhiều chức vụ quan trọng, nhưng trong lòng không nguôi khát vọng giải phóng quê hương Quảng Ngãi và Khu 5 kiên cường mà ông đã từng gắn bó gần như trọn đời. Nhưng cuộc đời ông chấm dứt chỉ mới ở tuổi 43 như lời đánh giá đầy thương tiếc của vị Tổng tư lệnh là "tài năng đương độ phát triển", nhưng tổng kết lại vẫn là "một cuộc đời thật đẹp của... một vị tướng có đức, có tài, một con người mẫu mực".

Cuốn sách này tập hợp những bài viết đã đăng tải trên báo chí trong 10 năm qua về sự nghiệp của một con người mới có 43 năm tuổi đời nhưng đã để lại không chỉ những công trạng mà cả những ký ức, nhiều kỷ niệm tốt đẹp của những người cùng thời cũng như lòng kính trọng của những thế hệ sau về tính cách, cuộc sống đời thường... khiến cho tên tuổi của Nguyễn Chánh "Sống mãi với thời gian".

Năm 1997, Hội Khoa học Lịch sử Việt Nam đã tổ chức một cuộc hội thảo nhân kỷ niệm 40 năm ngày mất của Nguyễn Chánh (1957-1997) và tượng bán thân của ông đã được đặt trang trọng tại ngôi nhà tưởng niệm của ông ở quê hương núi Ấn - sông Trà, cũng như được tặng cho Bảo tàng Lịch sử Quân sự Việt Nam.

Năm nay, nhân nửa thế kỷ ngày mất của Nguyễn Chánh (1957-2007), cuốn sách này như là một kỷ niệm để lại cho các thế hệ sau tấm gương của một trong những con người đã cống hiến cho sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc... một sự nghiệp cũng "Sống mãi với thời gian".


Tháng 8-2007
DƯƠNG TRUNG QUỐC
Logged
chuongxedap
Đại tá
*
Bài viết: 13138



« Trả lời #2 vào lúc: 03 Tháng Mười, 2022, 03:25:36 pm »


NHỚ ANH NGUYỄN CHÁNH - MỘT CÁN BỘ LÃNH ĐẠO XUẤT SẮC CỦA ĐẢNG,
MỘT VỊ TƯỚNG TÀI CỦA QUÂN ĐỘI


Đại tướng VÕ NGUYÊN GIÁP

Anh Nguyễn Chánh là một cán bộ lãnh đạo trung kiên của Đảng, một vị tướng tài của quân đội, đã có cống hiến lớn với cách mạng và kháng chiến. Anh ra đi quá sớm, năm 1957, lúc mới 43 tuổi, tài năng đang độ phát triển.

Lần đầu tôi biết và làm việc với anh vào những ngày đấu tranh hào hùng của Cách mạng tháng Tám năm 1945, đặc biệt là vào những ngày cuộc kháng chiến ở Nam Bộ và Nam Trung Bộ diễn ra sôi nổi. Cuối thu năm 1946 tôi được Trưng ương và Chính phủ cử vào kiểm tra mặt trận phía Nam, tôi đã dừng chân tại Huế, gặp anh Trần Hữu Dực, lúc bấy giờ là Chủ tịch và anh Chánh là Ủy viên trưởng Quốc phòng của Ủy ban kháng chiến Trung Bộ.

Về sau, trong chín năm kháng chiến, anh Chánh đã mấy lần từ Liên khu 5 ra họp và làm việc ở Việt Bắc. Năm 1950 anh ra dự Hội nghị tổng kết chiến dịch Biên Giới, ở lại tham gia Đảng ủy các chiến dịch Đường 18 và Trung Du vào đầu năm 1951 với cương vị Phó chủ nhiệm Tổng cục Chính trị. Anh đã dự Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ 2 (1951) và được bầu vào Ban Chấp hành Trung ương Đảng. Lúc này Trung ương đã có ý định giữ anh Chánh ở lại làm Chủ nhiệm Tổng cục Chính trị thay anh Nguyễn Chí Thanh để anh Thanh tập trung chuyển về công tác đảng, nhưng do nhu cầu của chiến trường nên anh lại trở về Liên khu 5.

Năm 1953, anh lại ra Việt Bắc, lần này để nhận nhiệm vụ quan trọng về chiến cục Đông - Xuân - Hè 1953 - 1954.

Trong thời gian đầu tiếp xúc và trực tiếp làm việc với anh Chánh, anh đã để lại trong tôi ấn tượng sâu sắc, và chúng tôi đã quý mến nhau ngay từ lúc đó.

Sau năm 1954, anh ra làm Tổng Tham mưu phó, rồi Chủ nhiệm Tổng cục Cán bộ, chúng tôi đã thường xuyên làm việc với nhau. Anh và cả chị Trinh, vợ anh, cũng trở nên thân thiết với gia đình tôi và bản thân tôi.

Cuộc đời, sự nghiệp, cống hiến của anh Nguyễn Chánh trước hết gắn liền với Liên khu 5, tức vùng Nam Trung Bộ, một chiến trường khó khăn về kinh tế, bị địch bao vây bốn bề, ở xa Trung ương, nhưng lại có truyền thống cách mạng lâu đời và vị trí chiến lược rất quan trọng, đặc biệt có chiến trường Tây Nguyên, khống chế cả khu vực nam bán đảo Đông Dương và nối liền hành lang huyết mạch với Nam Bộ.

Anh Chánh tham gia cách mạng rất sớm, từ những năm 1930 - 1931, là một chiến sĩ cộng sản đấu tranh kiến cường trong nhà tù của đế quốc. Năm 1945, sau khởi nghĩa Ba Tơ, được Tỉnh ủy Quảng Ngãi phân công trực tiếp tham gia lãnh đạo Đội du kích Ba Tơ vừa mới ra đời, anh Chánh đã có chủ trương rất táo bạo, sáng suốt: không để đội du kích luẩn quẩn trên vùng rừng núi, trong vòng vây của quân thù mà chủ trương đưa quân về đồng bằng, dựa vào phong trào quần chúng cách mạng để xây dựng và chiến đấu, đồng thời phát triển dân quân tự vệ và tham gia phát động phong trào cách mạng của quần chúng. Anh đặc biệt quan tâm đến việc củng cố sự lãnh đạo của Đảng, xây dựng chi bộ Đảng trong đội du kích. Chính do chủ trương đúng đắn, sắc sảo này mà trong một thời gian rất ngắn Đội du kích Ba Tơ từ mười mấy người đã phát triển thành hai đại đội mạnh, cùng với hàng vạn dân quân tự vệ và quần chúng cách mạng, tạo nên cao trào mạnh mẽ. Ngày 14 tháng 8 năm 1945 đã tiến hành Tổng khởi nghĩa giành chính quyền ở Quảng Ngãi, một trong những địa phương đã sớm vùng lên giành chính quyền trong thời cơ phát-xít Nhật đầu hàng. Sau đó Đội du kích Ba Tơ đã thực sự trở thành nòng cốt vững chắc của Giải phóng quân ở Nam Trung Bộ. Đội du kích Ba Tơ xứng đáng là một trong những tổ chức tiền thân của Quân đội nhân dân chúng ta.

Nay nhìn lại, nghiên cứu kỹ cuộc khởi nghĩa Ba Tơ và lịch sử Đội du kích Ba Tơ, chúng ta có thể thấy sự lãnh đạo của Đảng ở Quảng Ngãi và của anh Nguyễn Chánh hồi bấy giờ thật vững vàng, sắc sảo; ngay từ đầu đã nắm vững những vấn đề rất cơ bản trong việc xây dựng và phát triển lực lượng vũ trang cách mạng của Đảng và của nhân dân; những vấn đề về bản chất của quân đội nhân dân đã được khẳng định và thực hiện đúng đắn. Đó là điều hết sức quan trọng và không dễ chút nào, nhất là trong điều kiện cách mạng còn ở trong tình trạng trứng nước và ở xa sự chỉ đạo của Trung ương hồi bấy giờ.

Do vị trí đặc biệt của Liên khu 5 như đã nói trên, nên từ ngày đầu kháng chiến toàn quốc được phát động, đồng chí Phạm Văn Đồng đã được cử vào làm đại diện Trung ương và Chính phủ ở đây, trực tiếp chỉ đạo chiến trường này. Trong thời kỳ đó, có thể nói ở Liên khu 5, Đảng bộ, đồng bào và chiến sĩ ta đã thực hiện được kỳ tích: giữa vòng vây của quân thù, vẫn giữ được một vùng tự do gồm gần trọn 4 tỉnh đồng bằng ven biển liên hoàn, không những đứng vững trước mọi o ép của địch mà còn xây dựng được cả một hệ thống chính quyền cách mạng hoàn chỉnh, có kinh tế tự túc ổn định, văn hóa, giáo dục phát triển, trong nhiều năm giữ vững đường giao thông với vùng Cực Nam Trung Bộ, với Nam Bộ, thực sự đã trở thành một vùng hậu phương vững chắc cho kháng chiến lâu dài. Trong vùng địch tạm chiếm thì phong trào đấu tranh cách mạng của quần chúng và chiến tranh du kích đã phát triển đều khắp; ba thứ quân phát triển nhịp nhàng...

Với cương vị là Chính ủy Bộ tư lệnh Liên khu 5, anh Nguyễn Chánh đã có sự đóng góp quan trọng vào kỳ tích nói trên.

Từ khoảng năm 1949 trở đi, đồng chí Phạm Văn Đồng, rồi một số đồng chí lãnh đạo khác lần lượt được điều về Trung ương. Trách nhiệm của anh Chánh ngày càng nặng nề hơn, từ năm 1951, đã giữ trọng trách vừa là Bí thư Liên khu ủy, vừa là Chính ủy kiêm Tư lệnh Liên khu 5.

Đối với anh, đây là một thử thách lớn. Chính thử thách này càng làm bộc lộ bản lĩnh và tài năng của anh.
Logged
chuongxedap
Đại tá
*
Bài viết: 13138



« Trả lời #3 vào lúc: 03 Tháng Mười, 2022, 03:36:50 pm »


Phong trào cách mạng và kháng chiến ở Liên khu 5 không những tiếp tục được giữ vững, mà từ 1951 trở đi, rõ ràng có những bước phát triển mạnh mẽ và nhanh hơn. Là Bí thư Liên khu ủy, anh tỏ ra là một người lãnh đạo toàn diện. Là Chính ủy kiêm Tư lệnh, anh tỏ ra là một cán bộ có tầm nhìn chiến lược, đồng thời là một người chỉ huy kiên quyết và có tài tổ chức.

Có điều đặc biệt đáng nói rõ là ở Liên khu 5 trong thời kỳ này, đi đôi với sự phát triển của lực lượng du kích và chiến tranh nhân dân du kích, lãnh đạo Liên khu và anh Nguyễn Chánh với chủ trương và sự chi viện của Trung ương và Bộ Tổng tư lệnh, đã chú trọng đúng mức, kiên định và liên tục xây dựng lực lượng chủ lực, biết sử dụng khéo quả đấm chủ lực để thúc đẩy kháng chiến phát triển, vừa tác chiến, vừa xây dựng, trưởng thành khá vững và nhanh.

Chính đây là một trong những nhân tố rất quan trọng khiến Liên khu 5 là một trong những chiến trường giành được thắng lợi rực rỡ nhất trong chiến cục Đông - Xuân - Hè 1953 - 1954, phối hợp rất đắc lực với chiến trường chính Điện Biên Phủ.

Lúc này địch đưa một lực lượng khá lớn, mở chiến dịch Át-lăng hòng đánh chiếm vùng tự do đồng bằng Liên khu 5. Quân ủy và Bộ Tổng tư lệnh chủ trương ta không bị động đối phó với địch ở vùng tự do mà chủ động đưa lực lượng chủ lực tập trung đánh lên Tây Nguyên, giành lấy địa bàn chiến lược này, đẩy địch vào thế bị động. Đó là cách tốt nhất để giữ vững vùng tự do đồng bằng. Bấy giờ một số đồng chí chủ chốt trong cơ quan lãnh đạo Liên khu và Bộ tư lệnh Liên khu còn có chỗ chưa thông, sợ mất vùng tự do, muốn dùng chủ lực giữ đồng bằng. Nhiều đồng chí lãnh đạo ở các tỉnh đồng bằng cũng e ngại, lo lắng; bộ đội và đồng bào thì thắc mắc nhiều. Anh Chánh đã kiên trì thuyết phục và đấu tranh với mọi ý kiến trái ngược. Anh đã kiên quyết chấp hành nghiêm chỉnh và tổ chức thực hiện rất tốt chủ trương của Quân ủy và Bộ Tổng tư lệnh.

Kết quả thật rực rõ: một mảng phòng ngự lớn của địch ở Bắc Tây Nguyên bị phá vỡ, tỉnh Kon Tum và cả vùng Bắc Tây Nguyên được giải phóng. Sau đó, nhanh chóng phát triển chiến dịch, tiếp tục tiến xuống phía nam, đánh địch trên tuyến đường chiến lược số 19, tiêu diệt hoàn toàn Binh đoàn cơ động số 100, là một binh đoàn tinh nhuệ vào bậc nhất của quân viễn chinh Pháp vừa rút từ Triều Tiên về; bao vây Plây-cu, thọc sâu vào cao nguyên Đắc Lắc, áp sát Buôn Ma Thuột, tạo điều kiện nối liền với chiến trường Nam Bộ, đồng thời tiến xuống cùng quân và dân địa phương đánh mạnh quân địch ở Phú Yên và uy hiếp cả Nha Trang. Ở các chiến trường địch hậu trong Liên khu, thừa thắng quân dân ta đã tiêu diệt, bức hàng chục đồn bốt, giải phóng những khu vực rộng lớn với hàng chục vạn dân. Phía Nam Lào và Đông Bắc Cam-pu-chia, ta phối hợp với quân dân bạn giải phóng một vùng rộng lớn. Chiến dịch Át-lăng của địch bị đánh bại hoàn toàn, vùng tự do đồng bằng Liên khu được giữ vững và mở rộng. Thế trận ở Tây Nguyên cũng như trên toàn Liên khu lúc này thật đẹp, tạo triển vọng. Giành thắng lợi to lớn hơn nữa.

Tướng chỉ huy quân viễn chinh Pháp trên chiến trường Tây Nguyên và là Tư lệnh chiến dịch Át-lăng (đợt 1, 2) là De Beaufort đã hết sức thán phục, và sau khi chiến tranh kết thúc đã tỏ ý muốn gặp "vị tướng đã làm cho tôi điêu đứng trên chiến trường...”. Tôi đã cho tổ chức và đã dự cuộc gặp gỡ lý thú ấy khi anh Chánh và cả tướng De Beaufort có mặt tại Hà Nội.

Sự phát triển tài năng của anh Nguyễn Chánh có thể nói là một trường hợp khá đặc biệt. Anh chưa từng được qua trường lớp nào, ngay việc được học tập văn hóa từ nhỏ cũng rất hạn chế. Nhưng đó là một con người thông minh, có ý chí tiến thủ mạnh, khiêm tốn và ham học. Những bài học cơ bản về khởi nghĩa vũ trang và xây dựng lực lượng vũ trang cách mạng, chính là anh đã học được từ trong nhà lao Buôn Ma Thuột, khi các đồng chí của ta ở đây đã thực hiện "biến nhà tù của đế quốc thành trường học cách mạng" và sau đó trong thực tiễn chiến đấu, anh đã vận dụng hết sức thành công.

Mấy lần anh từ Liên khu 5 ra Việt Bắc công tác, tôi luôn nhận thấy anh hết sức chăm chú tìm hiểu học tập với một tinh thần thật sự khiêm tốn và cầu thị. Nhiều anh em ở Liên khu 5 đều bảo rằng sau mỗi chuyến ở Việt Bắc về, anh Nguyễn Chánh lại tiến bộ hơn, vững vàng hơn, sắc sảo hơn.

Anh Chánh còn là một con người có đức tính đoàn kết, tập hợp được cán bộ và chiến sĩ, quân và dân. Trước hết, vì anh luôn toàn tâm, toàn ý vì sự nghiệp lớn của cách mạng, chí công vô tư, có tâm hồn trong sáng và cuộc sống thanh bạch. Hơn nữa tuy không được học hành nhiều ở trường lớp nào, nhưng từ nhỏ ở anh đã tiếp thu truyền thống quê hương gia đình, về sau đã nhanh chóng thấm nhuần đường lối của Đảng. Anh là một chiến sĩ cách mạng kiên cường, một người chỉ huy nghiêm khắc, quyết đoán, nhưng cũng lại là một con người cởi mở, nhân hậu, giản dị, biết linh hoạt trong ứng xử, ăn ở thủy chung với đồng chí, đồng bào. Anh được cán bộ, chiến sĩ, được nhân dân Liên khu 5 hồi bấy giờ hết sức quý mến và khâm phục.

Sau năm 1954, anh chỉ mới ra làm việc ở Trung ương mấy năm nhưng cũng đã gây được lòng yêu mến và kính trọng của các cơ quan và đơn vị. Khi được cử làm Chủ nhiệm Tổng cục Cán bộ thì mọi người đều vui mừng, tin tưởng.

Anh Chánh mất sớm là một tổn thất lớn của Đảng và của quân đội ta; tôi mất đi một người bạn chí thiết.

Cuộc đời một con người mới 43 tuổi đã để lại sự nghiệp như vậy có thể nói là một cuộc đời thật đẹp: cuộc đời của một người cộng sản kiên cường, một cán bộ lãnh đạo xuất sắc, một vị tướng có đức, có tài, một con người mẫu mực.

(Trích trong Nguyễn Chánh - con người và sự nghiệp,
Nxb Quân đội nhân dân, Hà Nội, 1997, tr.41 49)
Logged
chuongxedap
Đại tá
*
Bài viết: 13138



« Trả lời #4 vào lúc: 07 Tháng Mười, 2022, 06:45:24 pm »


NHÀ VĂN HOÁ
TRONG MỘT VỊ TƯỚNG THAO LƯỢC

Nhà văn NGUYÊN NGỌC

                                                                                                                                                                                                                  Nguyễn Chánh là một danh tướng trí dũng song toàn của Đảng, quân đội và nhân dân ta. Ông đến với cách mạng với Đảng từ năm 14 tuổi. Ông là người lãnh đạo chủ chốt của Đội du kích Ba Tơ, một trong ba tổ chức tiền thân của Quân đội nhân dân Việt Nam. Năm 31 tuổi, ông đã là Ủy trưởng quốc phòng Trung Bộ đầu kháng Pháp. Năm 1951, ba mươi bảy tuổi, ông là Bí thư Liên khu ủy, Chính ủy kiêm Tư lệnh Liên khu 5 (khi ấy bao gồm các tỉnh Trung Bộ, Tây Nguyên, Hạ Lào, Đông Bắc Cam-pu-chia). Sau năm 1954, ông là Tổng tham mưu phó rồi Chủ nhiệm Tổng cục Cán bộ Quân đội nhân dân Việt Nam cho đến khi mất vì bạo bệnh, năm 1957, khi mới 43 tuổi. Dù ông đã đi xa 45 năm nay, mọi người vẫn nhớ về ông với nỗi tiếc thương khôn nguôi một nhà lãnh đạo tài cao đức lớn, một vị tướng thao lược hiếm có, một con người chí nghĩa chí tình... Văn hiến Việt Nam xin giới thiệu bài viết về Nguyễn Chánh của nhà văn Nguyên Ngọc nhân 45 năm ngày mất của ông.


Thời kháng chiến chống Pháp, tôi có một thời gian dài làm việc ở báo Vệ quốc quân Liên khu 5 (từ năm 1952 đổi tên thành báo Quân đội nhân dân Liên khu 5). Là một cán bộ ở cấp rất thấp, tôi ít có dịp được làm việc trực tiếp với anh Nguyễn Chánh, bấy giờ là Bí thư Liên khu ủy, Chính ủy kiêm Tư lệnh Liên khu. Nhưng anh Chánh là người rất quan tâm đến báo chí, nên anh thường hay qua chỗ toà soạn của chúng tôi, thăm hỏi từng anh em, phát biểu những ý kiến chỉ đạo chung đối với từng bài báo của chúng tôi. Tôi nhớ những ý kiến của anh thường rất nghiêm khắc, cặn kẽ, chứng tỏ anh rất coi trọng vai trò của tờ báo và anh đọc báo rất kỹ. Nhưng cách nói của anh, ngay khi phê phán, vẫn rất ân cần. Anh thường không "chụp" ngay vào những chỗ khuyết điểm sai sót của chúng tôi trên báo, mà bằng các câu nói nhẹ nhàng, khêu gợi cho chúng tôi tự thấy ra, cuối cùng chính tự chúng tôi rút ra bài học, kết luận.

Những lần đến toà soạn, anh rất quan tâm đến số anh em trẻ, là học sinh mới vào bộ đội. Lúc bấy giờ ở toà soạn có Ngọc Anh và tôi đều mười bảy, mười tám tuổi. Chúng tôi vừa làm báo, vừa tập tò sáng tác văn học chút ít: Viết đôi bài bút ký nho nhỏ. Không ngờ anh Chánh biết và chú ý đến việc đó, Một hôm anh cho gọi tôi và Ngọc Anh lên. Thú thực lúc đầu tôi rất lo: Chắc là có khuyết điểm gì nặng trong bài báo nào của chúng tôi rồi đây. Đã chuẩn bị tinh thần để nghe anh "chỉnh" ...

Nhưng, rất ngạc nhiên, anh bắt đầu như là một người anh lớn tâm sự với hai đứa em nhỏ. Anh hỏi tỉ mỉ hoàn cảnh của gia đình từng đứa, học hành ra sao, vào bộ đội đã qua những công tác gì, "có phải có nguyện vọng muốn trở thành nhà văn không" ... Chúng tôi đành nhận là quả có như thế thật, nhưng chúng tôi còn lúng túng lắm, không biết học hỏi ở đâu.

Anh bảo, đại ý: Làm văn học là công việc rất cao quý, nói là thiêng liêng cũng không quá đáng, phải học hỏi rất nhiều. Học trường, học thầy, học trong sách. Nhưng có một cái học hết sức quan trọng không thể thiếu, đó là học hỏi từng trải ở đời. Cái thiếu lớn nhất của chúng tôi bây giờ là sự từng trải đó. Nên đi ra chiến trường, đi xuống đơn vị, sống và tham gia cuộc chiến đấu cùng đồng bào và chiến sĩ, đó là trường học hay nhất. Qua đó mà tích lũy lâu dài, về sau mới mong may ra có thể có chút thành công gì trên đường văn chương ...

Quả thật tôi rất cảm động và kinh ngạc: Không ngờ một vị Tư lệnh, bận bao nhiêu lo toan lớn lao phức tạp, lại có thể quan tâm đến hai anh chàng phóng viên trẻ, vô danh, hiểu thấu đáo cả ước mơ thầm kín của chúng tôi và lo nghĩ sâu sắc đến vậy con đường đi lâu dài trong cuộc đời của chúng tôi.

Ngọc Anh và tôi đều đề nghị anh cho chúng tôi ra đơn vị chiến đấu. Anh bảo: Cũng chưa cần như thế đâu. Nhưng đừng ru rú ở toà soạn mãi làm gì, nên đi xuống chiến trường, xuống đơn vị cơ sở, và xuống đó đừng có chỉ làm anh nhà báo suông mà phải thực sự tham gia công tác cùng anh em, đồng bào ...

Sau đó, chắc là anh có nói với anh Đinh Nho Bát, Trưởng ban Tuyên huấn Quân khu, và cả anh Trương Khả Liên, rồi anh Ngô Thông, Thư ký toà soạn của chúng tôi, nên các anh đưa ngay Ngọc Anh và tôi đi làm "phóng viên chiến trường" và giao nhiệm vụ: Cứ nằm ở dưới cơ sở, càng lâu càng tốt. Tôi đi Nam Tây Nguyên, Ngọc Anh đi mặt trận miền Tây tức vùng dân tộc thiểu số Tây Quảng Ngãi, Bắc Kon Tum. Chúng tôi đã làm đúng như lời anh Chánh dặn: Ngọc Anh trở thành cán bộ gây dựng cơ sở ở mặt trận miền Tây, tôi thì trực tiếp tham gia như là một đội viên một đội vũ trang tuyên truyền ở Đắc Lắc, rồi sau ra Bắc Tây Nguyên... Có thể nói chính nhờ sự chỉ bảo của anh Chánh mà về sau này tôi mới có được "Đất nước đứng lên", Ngọc Anh có những bài thơ tuyệt vời như "Bóng cây Kơ-nia" ...

Có lần trong chiến dịch Đông - Xuân - Hè 1953 - 1954, trên đường hành quân lên mặt trận, gặp tôi, anh hỏi tôi đi với đơn vị nào. Tôi báo cáo, tôi sẽ đi với tiểu đội bộc phá của Trần Xứng thuộc Tiểu đoàn 59 đánh đồn Kom Rẫy. Anh bảo vậy là tốt nhưng cũng đừng đi sâu quá thế, có thể hy sinh không cần thiết, nên đi với ban chỉ huy đại đội là vừa...

Năm 1956, ở Hà Nội, tôi viết xong quyển "Đất nước đứng lên", quyển sách vừa được xuất bản và được giải thưởng của Hội Văn nghệ Việt Nam. Một buổi tối anh gọi tôi đến nhà anh ở 34 Lý Nam Đế. Anh khen, động viên và hỏi:

- Giải thưởng với nhuận bút, được bao nhiêu tiền?

Tôi báo cáo anh Chánh tôi được hơn một triệu (tiền cũ hồi bấy giờ). Anh hỏi:

- Cậu định sử dụng số tiền đó như thế nào?

Thật tình tôi rất lúng túng: tôi chỉ có một mình, chưa vợ con, gia đình gì, tiền quả cũng chẳng biết làm gì bây giờ.

Anh bảo:

- Có tiền nhiều, không khéo cũng dễ thành người ăn chơi hư hỏng. Thôi bây giờ để mình bày cho cậu cách tiêu: có nhiều gia đình cán bộ quân đội ra tập kết ở Hà Nội, nay rất khó khăn. Cậu nên cho họ mượn mỗi nhà một ít để họ nuôi heo. Cậu không quen quản lý tiền nong, để mình nói cậu Kỳ (thư ký riêng của anh Chánh) quản lý hộ và cho các bà vay.

Tôi quá mừng, liền giao gần hết số tiền vừa có cho anh Kỳ, chỉ giữ lại một ít cho cậu em trai tôi mua một chiếc xe đạp...

Tôi nghĩ có lẽ không phải ngẫu nhiên mà anh Chánh, một vị tướng giữ trọng trách chỉ huy cả một chiến trường lớn, quan trọng và khó khăn, lại có thể quan tâm, lặng lẽ nhưng tận tình, chu đáo đến cuộc đời một người lính, một người viết văn như tôi, dìu dắt và theo dõi từng bước trưởng thành, chỉ cho cả phương hướng cuộc đời lâu dài, và cẩn thận răn ngừa cho cả những khi có thể vấp váp. Chắc ở đây không chỉ có trách nhiệm của một người lãnh đạo. Ở anh Chánh còn có một sự hiểu biết và đồng cảm sâu sắc với nghệ thuật và những người làm nghệ thuật. Bởi vì trong anh, theo tôi, ẩn chứa rất sâu, có một tâm hồn nghệ sĩ, theo nghĩa sâu và đúng nhất của nó.

Anh Chánh không có Tây học bao nhiêu, nhưng Hán học thì anh khá giỏi. Gia đình anh, nhất là phía mẹ, là một gia đình có truyền thống văn chương. Không phải chỉ ở chỗ có nhiều người làm thơ phú (chính anh Chánh cũng làm nhiều thơ), mà ở chỗ những con người này có một dòng máu tài hoa phong phú và thâm thuý. Hoặc nói cho thật đúng hơn là có một nền tảng văn hoá thật sự, một tinh thần văn hoá sâu sắc.

Anh Chánh là một con người tài hoa. Trong tài hùng biện của anh - mà tất cả những người từng tiếp xúc với anh đều nhớ và cảm phục - trọng tài năng tập hợp, thu phục lòng người, kể cả nhiều loại trí thức "có cỡ" mặc dầu anh đi học ở trường chưa hết bậc phổ thông, ngay cả trong cách xử trí các tình huống khác nhau của anh ở cương vị một người lãnh đạo cao và một vị tướng, nhìn kỹ đều có in dấu chất tinh hoa đẹp đẽ ấy.

Không phải ngẫu nhiên mà anh Chánh là người am hiểu và yêu mến đến thế các loại hình nghệ thuật sân khấu dân tộc, đặc biệt là nghệ thuật tuồng. Các anh chị trong ngành đã nói nhiều về công lớn của anh Chánh trong việc khôi phục, giữ gìn, phát triển nghệ thuật sân khấu truyền thông tuyệt vời này. Riêng tôi, có lần được chứng kiến một trường hợp thú vị. Ấy là trong một dịp hội nghị nào đó, hình như là đại hội thi đua hay hội nghị Quân chính Quân khu thì phải. Anh em tổ chức một tối hát tuồng, toàn bộ các phòng ban của Quân khu tự diễn, tôi nhớ có anh Lô, cán bộ tác chiến, diễn rất giỏi. Lúc anh em đang tập, anh Chánh ghé qua, thấy thích quá, anh bảo:

- Cho mình đóng một vai với.

Anh em bảo:

- Không được đâu, bọn tui phải tập suốt ngày thế này, anh bận lắm, thời giờ đâu để tập mà đòi sắm vai.

Anh Chánh nói:

- Thế thì tối nay cho mình cầm chầu vậy!

Trong hát bội, người cầm chầu (đánh trống chầu) là ngươi rất sành nghệ thuật. Tối đó, trong đêm biểu diễn, anh Chánh ngồi cầm chầu, tiếng trống điểm nhịp, tiếng trống khen, tiếng trống chê... rất hay, anh em trầm trồ không ngờ Tư lệnh giỏi nghề hát bội đến thế.

Đến lúc kết thúc đêm diễn, anh em vây quanh, anh Chánh cười rất vui, nói:

- Đời mình ấy mà, không đi làm cách mạng, thì mình đã đi hát bội rồi!

Quả thật, có một tâm hồn nghệ sĩ sâu xa tiềm ẩn trong vị tướng thao lược ấy... Hơn nửa thế kỷ qua kể từ những ngày đầu tiên tôi được gặp và biết anh Nguyễn Chánh. Bốn mươi năm đã qua kể từ ngày anh mất.

Trong những năm tháng về sau này, trong cuộc đời hoạt động đó đây của mình, tôi có nhiều lần nhớ và suy nghĩ về anh.

Trong hiểu biết thiển cận của tôi, tôi nghĩ anh là một vị tướng tài và một người lãnh đạo giỏi. Nhưng chắc hẳn không phải là tướng giỏi nhất, cũng không phải là người lãnh đạo tài giỏi nhất trong những người lãnh đạo của Đảng ta.

Nhưng vẫn có một dấu hỏi: vì sao anh để một dấu ấn sâu đậm, thắm thiết và một niềm nuối tiếc đến vậy trong hầu như tất cả những ai từng ít nhiều gặp và biết anh?

Có lẽ rõ nhất là vì con người của anh.

Nhưng trong con người đó, thì là điều gì?

Có lẽ có một lý do, thoạt nghe có thể hơi bất ngờ, nhưng nghĩ kỹ thì càng nghĩ càng thấy thấm: Anh Nguyễn Chánh là một con người văn hoá, một nhà văn hoá, theo nghĩa rộng và đẹp nhất của khái niệm đó. Ở anh, không ít uyên bác phương Đông và Việt Nam, mà bằng sự thông minh hiếm có, anh đã học được ngay từ nhỏ và gìn giữ, phát triển suốt đời, vận dụng sắc sảo những gì là bản chất tinh tuý nhất, trong công việc cách mạng, trong ứng xử việc lớn việc nhỏ, trong quan hệ với con người.

Cái văn hoá uyên bác đó được hoà trộn nhuần nhuyễn đến như hoàn toàn tự nhiên với văn hoá dân gian, dân tộc, mà anh hiểu, yêu và giỏi nữa.

Những vấn đề văn hoá trực tiếp anh giải quyết trong cương vị công tác của anh và cả trong đời thường, thường không nhiều và "không chính thức" (vì chủ yếu anh là tướng cầm quân đánh giặc). Nhưng nhìn lại mà xem: đều đúng, sâu, cơ bản, có cái có ý nghĩa "cứu" cả một mảng quan trọng văn hoá nghệ thuật dân tộc (như đối với tuồng...), và thật chí nghĩa chí tình.

Anh Nguyễn Chánh cho ta hiểu thế nào là một nhà văn hoá, mà chẳng phải "ồn ào văn hoá" chút nào.

(Nhà văn Nguyên Ngọc, "Nhà văn hoá trong
một vị tướng thao lược", Tạp chí Văn hiến Việt Nam –
diễn đàn của Trung tâm bảo tồn và
phát huy nghệ thuật dân tộc,
số 6, 2002, Festival Huế)
Logged
chuongxedap
Đại tá
*
Bài viết: 13138



« Trả lời #5 vào lúc: 07 Tháng Mười, 2022, 08:48:12 pm »


TƯ LỆNH NGUYỄN CHÁNH VỚI SÂN KHẤU DÂN TỘC

NSND NGUYỄN TƯỜNG NHAN

                                                                                                                                                               
             
LTS: Vừa kháng chiến vừa kiến quốc, văn hóa văn nghệ cũng là một mặt trận. Tại chiến trường Khu 5 ác liệt ngay trong những năm tháng khói lửa của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, đường lối văn nghệ của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã được thể hiện rất sôi động. Đảng ủy, Bộ tư lệnh Liên khu 5 mà tiêu biểu là đồng chí Nguyễn Chánh (1914-1957) - Tư lệnh kiêm Chính ủy - đã trực tiếp chỉ đạo khôi phục và phát huy vốn nghệ thuật phong phú của quê hương miền Trung, đặc biệt là nghệ thuật tuồng + (hát bội). Nhân kỷ niệm 57 năm ngày Nam Bộ kháng chiến (23-9-1945), kỷ niệm lần thứ 45 ngày mất của đồng chí Nguyễn Chánh (24-9-1957) chúng tôi xin giới thiệu bài viết của Nghệ sĩ nhân dân Nguyễn Tường Nhẫn về người chỉ huy chính trị, quân sự tài năng có công lớn trong khôi phục và phát triển sân khấu và văn hóa dân tộc.

Sau Cách mạng tháng Tám và mấy năm đầu kháng chiến chống Pháp, ở Nam Trung Bộ, sân khấu ca kịch dân tộc, như hát bội (tuồng), bài chòi, cải lương... không còn hoạt động. Nhưng ngay giữa lúc chiến tranh ác liệt, đồng bào vẫn khao khát được nghe, xem các loại ca kịch dân tộc vốn đã từ lâu thấm sâu trong tâm thức con người ở miền đất này.

Có thể nói chính anh Nguyễn Chánh là người đầu tiên trong lãnh đạo ở Liên khu 5 hồi bấy giờ đã cảm nhận ra nhu cầu tinh thần sâu xa này của nhân dân và đã hiểu thấu đáo vẻ đẹp độc đáo, ý nghĩa thâm thúy giá trị quý báu, vai trò của nghệ thuật dân tộc trong đời sống con người, kể cả đang sống giữa lúc chiến tranh.

Tôi được nghe Trần Tống, bấy giờ là Khu ủy viên Ban chấp hành Đảng bộ Liên khu 5 kể lại: Năm 1951, sau khi đi dự Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ hai ở Việt Bắc về, trong cuộc Hội nghị Thường vụ Liên khu ủy, anh Chánh đã kiên quyết đưa ra chủ trương khôi phục các hình thức ca kịch dân tộc truyền thống ngay trong kháng chiến và trước mắt nhằm phục vụ kháng chiến.

Theo như anh Trần Tống kể lại, trong Thường vụ Liên khu ủy lúc bấy giờ có một số đồng chí không đồng ý với anh Chánh. Các đồng chí ấy cho rằng bây giờ đang kháng chiến khó khăn, những sinh hoạt giải trí linh tinh đó là không cần thiết, hoặc bây giờ cần xây dựng "nền văn hoá mới" không nên đi khôi phục các thứ văn hóa "phong kiên, lỗi thời"...

Ý kiến đấu tranh có lúc khá căng. Anh Chánh một mặt kiên trì giải thích, thuyết phục, một mặt cũng tỏ rõ sự quyết đoán cần thiẽt. Anh nói: "Ta cứ nên làm, các đồng chí ai thích thì xem, ai không thích thì đừng xem. Thử hỏi Khu 5 không hát bội thì hát gì? Chúng ta nên mời các nghệ sĩ tuồng có tài năng lớn, họ là vốn quý của nhân dân, ta phải có trách nhiệm chăm lo giữ gìn và phát huy họ. Lời ca tiếng hát của họ có tác dụng lớn trong nhân dân, chúng ta là những người cộng sản phải biết tận dụng tài năng của họ vào công việc tuyên truyền cách mạng, kháng chiến...".

Ý kiến vừa sâu sắc và vừa mạnh mẽ của anh Chánh, cuối cùng đã thông. Thường vụ Liên khu ủy có nghị quyết về việc khôi phục, phát triển nghệ thuật tuồng và các hình thức dân ca kịch truyền thống ở Khu 5.

Thực hiện nghị quyết của Thường vụ Liên khu ủy, Ban tuyên huấn Liên khu 5 giao nhiệm vụ cho anh Hoàng Châu Ký trực tiếp lo việc này. Anh Ký giới thiệu tôi cùng anh xúc tiến thành lập đoàn tuồng Liên khu 5. Anh Ký khẩn trương đi các tỉnh sục tìm và tập hợp được các nghệ sĩ và tác giả có tên tuổi như Nguyễn Nho Túy, Nguyễn Lai, Ngô Thị Liễu, Văn Phước Khôi, Tống Phước Phổ (đa số trong các nhân vật này về sau đều trở thành Nghệ sĩ nhân dân) làm nòng cốt ban đầu, từ đó mở rộng dần, lập nên đoàn hát bội Liên khu 5. Đoàn diễn một số vở truyền thống nổi tiếng như Ngọn lửa Hồng Sơn, Trưng Nữ Vương, v.v... được công chúng khắp nơi hoan nghênh nhiệt liệt.

Cũng từ gợi ý của anh Chánh mà đoàn hát bội Liên khu 5 đã từng bước mạnh dạn thử nghiệm đưa nghệ thuật tuồng vào đề tài hiện đại (các vở: Đường về Vụ Quang của Hoàng Châu Ký, Chị Ngộ của Nguyễn Lai...). Đặc biệt thành công là vở Chị Ngộ đã gây chấn động mạnh trong đời sống tinh thần nhân dân và của bộ đội Khu 5, thật sự góp phần đắc lực tạo nên sức mạnh chiến đấu của quân và dân Liên khu 5.

Từ nòng cốt là đoàn hát bội Liên khu 5, các tỉnh Quảng Ngãi và Bình Định lần lượt thành lập đoàn tuồng riêng của mình.

Cùng lúc thành lập đoàn hát bội Liên khu 5, anh Chánh còn cho thành lập đoàn văn công tổng hợp, trong đó anh rất chú trọng bài chòi, là thể loại dân ca đặc trưng của Khu 5. Phần bài chòi trong đoàn được giao cho anh Ngô Quang Thắng phụ trách. Cũng chính do gợi ý của anh Chánh mà anh chị em đã tìm tòi, dần dần nâng cao bài chòi trước đây chỉ là một lối hát dân gian lên thành một ngành sân khấu ca kịch độc đáo, về sau ngày càng phát triển.

Lúc bấy giờ có anh Huỳnh Vân Cát, vốn là người Long Xuyên, lúc kháng chiến bị mắc kẹt ở Khu 5. Biết anh Cát là người có tài, anh Chánh đã thu phục anh Cát, lo thu xếp cả gia đình vợ con cho anh Cát chu đáo, để anh Cát phát huy khả năng trong đoàn văn công tổng hợp Khu 5. Chính anh Cát là người đã khởi xướng thể độc tấu rất độc đáo (có thể bắt nguồn và sáng tạo từ cơ sở lối nói vè truyền thống) trên sân khấu, có tác dụng rất tốt trong kháng chiến. Anh Huỳnh Văn Cát cũng là một trong những người đầu tiên có công khôi phục, xây dựng ngành múa rối ở ta.

Anh Cát còn tìm được anh Võ Bài, là người góp phần xây dựng đầu tiên ngành múa trên sân khấu ở Liên khu 5...

Sau Hiệp định Giơ-ne-vơ 1954, trong không biết bao nhiêu công việc bộn bề và quan trọng của người lãnh đạo chủ chốt và trong thời điểm rất phức tạp, anh Chánh vẫn đặc biệt chăm lo cho việc đi tập kết của các đoàn văn công. Đặc biệt đối với các nghệ sĩ nổi tiếng như bác Sáu Lai, bác Đội Tảo, bà Ngô Thị Liễu, ông Tống Phước Phổ... anh đôn đốc phải nhất thiết đưa đi tập kết chu đáo, vì đây là vốn quý của dân tộc. Đồng thời anh cho thành lập một số đoàn văn công (một đoàn ca múa tổng hợp và một đội bài chòi) ở lại phục vụ nhân dân trong thời kỳ 300 ngày, sau đó cũng lên đường đi tập kết.

... Ngày 24 thăm 9 năm 1957, tin anh Chánh đột ngột qua đời đến với chúng tôi như một tiếng sét đánh. Hầu như tất cả chúng tôi ai cũng khóc oà lên. Chín giờ sáng hôm ấy, chúng tôi đã vội chạy ùa đến nhà anh. Anh chị em nghệ thuật Liên khu 5 đã cử một đội nhạc ai điếu trang trọng đến nơi tang lễ, đau đớn tiễn anh về nơi an nghỉ cuối cùng.

Tháng 9 năm 2002
(NSND Nguyễn Tường Nhẫn, “Tư lệnh Nguyền Chánh với sân khấu dân tộc",
Báo Quân đội nhân dân chủ nhật, 22-9-2002,
trích hồi ký của Nghệ sĩ nhân dân Nguyễn Tường Nhẫn)
Logged
chuongxedap
Đại tá
*
Bài viết: 13138



« Trả lời #6 vào lúc: 07 Tháng Mười, 2022, 08:51:39 pm »

 
VỊ TƯỚNG KHÔNG MANG QUÂN HÀM
(Nhân 45 năm ngày mất của đồng chí Nguyễn Chánh)

Đại tá TRẦN NHẬT ĐỘ
(Trần Nhật)

Tháng 12 năm 1958, lần đầu tiên quân đội ta tổ chức lễ phong quân hàm cho cán bộ, chiến sĩ toàn quân. Đồng chí Nguyễn Chí Thanh, Chủ nhiệm Tổng cục Chính trị được phong quân hàm Thượng tướng. Đồng chí Hoàng Văn Thái, Phó Tổng tham mưu trưởng được phong quân hàm Trung tướng, đồng chí Lê Trọng Tấn - Hiệu trưởng trường Lục quân được phong quân hàm Thiếu tướng. Là thủ trưởng một Tổng cục quan trọng, chắc chắn nếu còn sống, Nguyễn Chánh cũng sẽ được nhận quân hàm cấp Tướng xứng đáng với công lao, thành tích của mình.

Chính vì vậy mà trong dịp tưởng niệm 40 năm ngày mất của anh, Đại tướng Võ Nguyên Giáp đã phát biểu: "Anh Nguyễn Chánh là một cán bộ lãnh đạo trung kiên của Đảng, một vị tướng tài của quân đội, đã có cống hiến với cách mạng và kháng chiến. Anh ra đi quá sớm, lúc tuổi mới 43, tài năng đang độ phát triển".

Nguyễn Chánh sinh trưởng trong một gia đình nho học yêu nước ở Quảng Ngãi, mảnh đất vốn có bề dày truyền thống cách mạng. Được giáo dục và rèn luyện trong thực tiễn đấu tranh cách mạng, anh Chánh đã có những bước thành đạt nhanh chóng trên nhiều mặt. Đặc biệt, anh có cái nhìn sắc sảo và đánh giá thời cuộc với độ khái quát cao. Ngay sau khi Nhật đảo chính Pháp (9-3-1945), anh đã nói ngay với các đồng chí cùng bị giam cầm trong nhà lao Thừa Phủ (Huế): "Tình hình này, thể nào ở Ba Tơ cũng có khởi nghĩa, tôi phải về Quảng Ngãi ngay". Đúng như anh dự đoán, cuộc khởi nghĩa Ba Tơ đã nổ ra và thành công tốt đẹp. Anh Nguyễn Chánh được bổ sung vào Tỉnh ủy lâm thời, được phân công phụ trách quân sự và trực tiếp lãnh đạo Đội du kích Ba Tơ cùng các đồng chí Nguyễn Đôn, Phạm Kiệt...

Lúc này, toàn Đội du kích đang lâm vào tình thế hầu như bị bế tắc, bởi vẫn giữ chủ trương lưu động trên chốn rừng núi để xây dựng căn cứ, phát triển lực lượng. Trước tình hình đó, tuy mới lên chiến khu được mấy hôm, qua nghiên cứu các mặt, anh Chánh kiến nghị: Phải đưa Đội du kích về đồng bằng, dựa vào phong trào cách mạng của quần chúng để xây dựng, phát triển và chiến đấu. Dựa vào dân, được nhân dân che chở là kín đáo nhất, xây dựng căn cứ trong dân là vững chắc nhất.

Cùng với tập thể, anh Nguyễn Chánh đã đem hết sức lực và trí tuệ lãnh đạo việc xây dựng và tác chiến của Đội du kích. Nhờ đó, Đội du kích đã phát triển lớn mạnh nhanh chóng, thực sự là lực lượng nòng cốt cho cuộc Tổng khởi nghĩa tháng Tám thành công ở Quảng Ngãi. Trong những ngày hào hùng và sôi động của cao trào Cách mạng tháng Tám, Quảng Ngãi đã nổ phát súng đầu tiên và là nơi bắt đầu cuộc Tổng khởi nghĩa sớm nhất vào ngày 14 tháng 8 năm 1945, trong đó có sự đóng góp quan trọng của anh Nguyễn Chánh, với cương vị là Trưởng ban quân sự chỉ huy cuộc Tổng khởi nghĩa ở Quảng Ngãi.

Sau Cách mạng tháng Tám, anh Nguyễn Chánh được giao trọng trách Ủy trưởng quốc phòng Trung Bộ, chịu trách nhiệm về quân sự. Anh đã cùng tập thể nhanh chóng chuyển cao trào Tổng khởi nghĩa vào cuộc kháng chiến của quân và dân Nam Trung Bộ, nơi anh được phân công phụ trách quân sự về sau là Tư lệnh kiêm Chính ủy.

Ngay từ những ngày đầu bước vào cuộc kháng chiến toàn dân, toàn diện và lâu dài, Nguyễn Chánh đã nhận rõ phải tổ chức cho toàn dân đánh giặc, chứ không chỉ có bộ đội đánh giặc, cần phải xây dựng căn cứ cho từng tỉnh, từng huyện để chuẩn bị đánh giặc dài ngày và gian khổ.

Một nét nổi bật và độc đáo là trong suốt cuộc kháng chiến, Liên khu 5 đã bảo vệ vững chắc vùng tự do gồm gần bốn tỉnh rộng hơn ba vạn kilômét vuông và số dân 2,5 triệu, nhưng điều đặc biệt quan trọng hơn là vùng tự do ấy đã được xây dựng khá hoàn chỉnh trên tất cả các lĩnh vực: vững về chính trị trên cơ sở khối đoàn kết toàn dân ngày càng được củng cố, có chính quyền cách mạng ngày càng vững mạnh, có kinh tế tự túc không những đủ bảo đảm cho quân dân trong Liên khu, mà còn chi viện cho các chiến trường bạn.

Trên mọi cương vị, lúc lãnh đạo Đội du kích Ba Tơ cũng như khi làm Bí thư Liên khu ủy kiêm Tư lệnh Liên khu, Nguyễn Chánh không ngừng chăm lo nâng cao năng lực lãnh đạo của các tổ chức Đảng, luôn luôn giữ gìn sự đoàn kết thống nhất trong Đảng, trong quân đội, trong đội ngũ cán bộ, giữa Đảng và quần chúng. Anh luôn là hạt nhân của sự đoàn kết thống nhất ấy. Anh luôn toàn tâm, toàn ý phục vụ sự nghiệp của Đảng, của dân tộc, có tâm hồn trong sáng và một cuộc sống thanh bạch; luôn khiêm tốn học hỏi, biết nghe và chịu nghe ý kiến của bất kỳ ai, dù những ý kiến ấy trái ngược với ý kiến của mình.

Tài năng quân sự là một nét độc đáo nổi bật của Nguyễn Chánh. Nó đã bộc lộ rất sớm từ khi anh lãnh đạo chỉ huy Đội du kích Ba Tơ và ngày càng sáng rõ trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, đặc biệt là trong giai đoạn cuối cùng của cuộc kháng chiến này. Chính De Beaufort, Tư lệnh quân viễn chinh Pháp ở Tây Nguyên cũng đã phải thú nhận vị tướng Việt Minh chỉ huy chiến trường Nam Trung Bộ đã từng làm y phải nhiều phen điêu đứng và sau này trong buổi diện kiến ở Hà Nội đã chân thành hỏi anh: "Ngài đã qua trường lớp nào?". Nguyễn Chánh đã trả lời ông ta: "Tôi chỉ qua trường thực tiễn đấu tranh cách mạng".

Vào những năm 1951 - 1952, lúc mà Liên khu 5 gặp nhiều vấn đề khó khăn gay cấn: vụ Sơn Hà, nạn đói trầm trọng, những sai lầm trong chỉ đạo thực hiện tổng động viên và thuế nông nghiệp, những vấn đề mới nảy sinh trong việc xây dựng và tác chiến của lực lượng vũ trang trong giai đoạn quyết định, v.v... Nguyễn Chánh một lần nữa lại tỏ rõ tài năng của mình, có khả năng bao quát mọi lĩnh vực, có tài giải quyết dứt điểm từng vấn đề, từng khâu, biết tập trung vào khâu chủ yếu trên cơ sở một tri thức sâu rộng với đầu óc thực tiễn nhạy bén. Trong chỉ đạo xây dựng ba thứ quân, anh Nguyễn Chánh là một người kiên quyết chống khuynh hướng nóng vội, muốn rút lực lượng địa phương quá sớm lên xây dựng chủ lực, làm yếu cơ sở, đồng thời lại kiên trì khắc phục tư tưởng địa phương chủ nghĩa, du kích đơn thuần, không chịu đưa lực lượng địa phương lên xây dựng chủ lực.

Tư lệnh kiêm Chính ủy Nguyễn Chánh đặc biệt coi trọng chất lượng chiến đấu của bộ đội theo hướng "tinh binh, tinh cán". Năm 1952, mặc dù trong giai đoạn quyết liệt nhất của cuộc chiến tranh, Liên khu 5 vẫn kiên quyết giảm quân, từ 5 vạn xuống còn 3 vạn mà sức chiến đấu của bộ đội vẫn được nâng cao, bảo đảm hoàn thành vượt mức nhiệm vụ. Từ năm 1950 trở đi, một yêu cầu rất cấp thiết đặt ra trước bộ đội chủ lực Liên khu 5 là phải tiến lên tiêu diệt địch trong công sự vững chắc, có thế mới đẩy cuộc kháng chiến ở đây phát triển tiến lên. Lần đầu, quân ta đã tiêu diệt cụm cứ điểm mạnh nhất của địch trên tuyến đường đông Kon Tum và các cứ điểm khác trong chiến dịch Tây Nguyên năm 1953 - 1954.

Người tướng tài là người vừa phải giỏi luyện quân, vừa phải thao lược trong chiến trận. Nguyễn Chánh là người như vậy. Là tư lệnh một chiến trường trọng yếu rộng lớn gồm mười hai tỉnh Nam Trung Bộ và các tỉnh ở Hạ Lào và Đông - Bắc Cam-pu-chia, đồng thời là tư lệnh các chiến dịch lớn trong Đông Xuân 1953 - 1954 ở chiến trường Liên khu 5, Nguyễn Chánh ra trận là đem đến niềm tin và chiến thắng.

(Đại tá Trần Nhật Độ, trích Báo Công an
nhân dân cuối tuần, số 1460, 3-10-2002)
Logged
chuongxedap
Đại tá
*
Bài viết: 13138



« Trả lời #7 vào lúc: 07 Tháng Mười, 2022, 08:54:48 pm »


NHỮNG GÌ CÒN ĐỌNG LẠI QUA NĂM THÁNG


NGUYỄN TUYẾT MINH

Tuy là cha của sáu đứa con nhưng ba tôi không có diễm phúc như những người cha khác, được chứng kiến những giây phút trong đời của từng đứa con, từ khi cất tiếng khóc chào đời cho đến lúc bước vào đời và trưởng thành khôn lớn. Ông đã qua đời quá sớm, khi ông mới 43 tuổi, đứa con lớn nhất chưa tròn hai mươi và đứa bé nhất mới hơn hai tuổi. Thời gian chúng tôi được sống bên ông quá ít ỏi và không cho phép chúng tôi hiểu hết người cha của mình.

Đến nay, đã qua 45 năm từ ngày ông ra đi, nhờ những hồi ức của những người đã từng sống và làm việc với ông, nhờ những tình cảm chân thành của họ dành cho ông mà chúng tôi, những đứa con của ông, mới phần nào hiểu được con người ông, cuộc đời và sự nghiệp của ông.

Tôi còn nhớ cách đây 5 năm, Hội Khoa học lịch sử đã đứng ra tổ chức lễ tưởng niệm 40 năm ngày ông qua đời tại Viện bảo tàng Cách mạng Việt Nam.

Đến dự lễ tưởng niệm có Đại tướng Võ Nguyên Giáp, nhiều tướng lĩnh và sĩ quan cao cấp trong quân đội, các nhà văn, nhà thơ, nghệ sĩ đã từng làm việc với ông, bạn bè, người thân của gia đình và nhiều nhất là đồng bào Quảng Ngãi, Liên khu 5. Tôi vô cùng xúc động khi thấy có những cụ già ngoài 80 không quản tuổi già sức yếu cũng đi xe ôm đến dự...

Trong hội trường đại diện cho các thế hệ lên phát biểu, nhắc lại những kỷ niệm sâu sắc và cảm động về ba tôi, ngoài sân mọi người tụ tập từng nhóm nhỏ ôn lại những sở thích của ông như thích văn thơ, xem hát bội, thích kể những chuyện vui, dí dỏm, họ nhắc đến thái độ gần gũi, chan hoà, mến khách của ông, có người còn biết kỹ là ông thích ăn bánh xèo, bánh tráng nướng, ngô nướng, v.v... Quả đây thực sự là một buổi tưởng niệm - chính thức và không chính thức - mọi người đã nhắc đến ông với tình cảm trìu mến, sâu đậm đọng lại trong ký ức mỗi người trong mấy chục năm qua.

Lòng tôi xót xa nghĩ thương ông vì ông đã ra đi quá sớm, không kịp nhìn thấy thành quả của sự nghiệp cách mạng mà ông đã trọn vẹn hiến dâng cả cuộc đời ngắn ngủi của mình.

Cũng trong ngày hôm đó tại Quảng Ngãi quê ông, Đảng, chính quyền, đồng bào địa phương và họ hàng gia tộc đã tổ chức lễ tưởng niệm ông rất trang nghiêm và cảm động. Hội cựu chiến binh Liên khu 5 ở thành phố Hồ Chí Minh đã tổ chức lễ tưởng niệm ông rất đông, có đến trên 400 người dự lễ. Rất tiếc là gia đình chúng tôi vì bận việc tổ chức lễ tưởng niệm ở Hà Nội nên không có ai về quê và vào thành phố Hồ Chí Minh dự được, nhưng mấy hôm sau chúng tôi nhận được những băng ghi hình về buổi lễ tưởng niệm đó. Cả gia đình chúng tôi lặng đi khi thấy hình ảnh bác Trần Lương (tức Trần Nam Trung - là người đồng chí cũng bị thực dân Pháp bắt tù đày những năm ba mươi và sau này nhiều thời gian cùng công tác với ông trong kháng chiến chống pháp ở Liên khu 5) trên chín mươi tuổi, sức yếu, phải có người dìu cũng đến dự lễ. Đặc biệt khi chiếu đến cảnh Trung tướng Đặng Hoà và một số người nữa nước mắt giàn giụa khi trên bục có người đang ôn lại những kỷ niệm về Ba tôi thì cả nhà tôi đều không cầm được nước mắt.

Đã 40 năm trôi qua mà tình cảm của mọi người dành cho Ba tôi như bất chấp quy luật của thời gian, vẫn được gìn giữ nguyên vẹn, nóng hổi như những ngày ông mới ra đi.

Năm ngoái, có dịp đi công tác vào thành phố Hồ Chí Minh, tôi ghé thăm bác Trần Lương. Bác vừa qua một trận ốm nặng mới đỡ. Vì mấy chục năm rồi bác cháu không gặp nhau nên bác không nhận ra tôi. Khi tôi bảo với bác: "Cháu là Tuyễt, con ông Nguyễn Chánh đây mà", thì bác ôm tôi rất cảm động và vội lấy quyển hồi ký về Ba tôi Nguyễn Chánh - con người và sự nghiệp để ngay đầu giường ra khoe với tôi và lại còn hỏi: "Cháu có quyển này không? Đã đọc chưa? Hay lắm! Cảm động lắm!".

Có lần tôi và anh Trực tôi đi thành phố Hồ Chí Minh ghé thăm chú Nguyễn Văn Luyện (trước kia là thư ký của Ba tôi) vừa nằm viện về còn yếu, vậy mà mấy chú cháu chuyện trò về Ba tôi tận ba tiếng đồng hồ. Chú kể chuyện say sưa, hai anh em tôi chăm chú lắng nghe, bị thu hút bởi nội dung mới mẻ của những mẩu chuyện về Ba tôi bởi sự hấp dẫn của người kể. Chú nhắc đi nhắc lại nhiều lần: "Chú đã từng làm thư ký cho nhiều vị tướng sau Ba các cháu, nhưng đối với chú, Ba các cháu là người gần gũi nhất. Một con người tuyệt vời! Hiếm có!", rồi giọng chú lắng xuống như tâm sự: "Trong đời chú, ngoài cha mẹ chú ra, có lẽ Ba các cháu là người duy nhất chiếm trọn tình yêu thương và lòng kính trọng của chú. Dù đã 40 năm trôi qua, nhưng làm sao chú có thể quên được đôi mắt sáng hóm hỉnh, nụ cười hiền hậu, giọng nói chân tình, ấm áp của Ba các cháu!". Khi ra về hai anh em chúng tôi cứ băn khoăn: "Không hiểu Ba mình có "ma lực" gì mà thu phục được lòng người lâu đến thế, đến cả 40 năm sau khi ông mất?".

Vừa rồi tôi và mẹ tôi về quê dự lễ tế xuân của họ tộc nội, ngoại, đi đến đâu cũng được bà con xóm giềng, chính quyền địa phương đón tiếp nồng nhiệt và chân tình.

Khi về đến khu vườn của ông nội tôi ở thôn Thọ Lộc nằm bên bờ sông Trà Khúc, nơi mấy anh chị em tôi đã từng sống qua thời thơ ấu, từ ngoài cổng đã thấy một nhà bia rất trang nghiêm, bên trong có đặt bức tượng đồng bán thân của Ba tôi bên cạnh một bình hoa, phía dưới là lư hương đồng, hai bên có hai câu đối. Sở dĩ có được cái công trình văn hoá - lịch sử này là do ý kiến đề xuất của anh Dương Trung Quốc và Hội Cựu chiến binh Liên khu 5 ở phía Nam. Anh Dương Trung Quốc đã xin ý kiến gia đình sử dụng số tiền còn lại sau khi tổ chức lễ tưởng niệm để đúc hai bức tượng bán thân cho Ba tôi: một bức trao tặng Bảo tàng Quân đội, một bức trao lại cho gia đình đem về quê thờ ông. Trong dịp tổ chức lễ tưởng niệm 40 năm ngày mất của ông tại thành phố Hồ Chí Minh, Hội cựu chiến binh và Du kích Ba Tơ tại thành phố Hồ Chí Minh và các tỉnh phía Nam đã quyên góp tiền để xây một nhà bia và đặt bức tượng này ở quê để thể hiện những tình cảm cao quý dành cho ông.

Phía sau nhà bia là nhà lưu niệm do Đảng và chính quyền địa phương lập nên ghi nhận tình cảm của quê hương dành cho Ba chúng tôi và để truyền lại cho thế hệ con cháu mai sau như một trang sử nhỏ trong lịch sử đấu tranh chống ngoại xâm của quê nhà.

Và cảm động biết bao khi mẹ tôi và tôi đến thăm trường phổ thông trung học xã Tịnh Hà quê Ba tôi, nơi có nhã ý chân thành xin phép Đảng và chính quyền tỉnh được mang tên Ba tôi. Tại phòng tiếp khách của đồng chí hiệu trưởng có mấy chục em lớp trưởng đã chờ sẵn để đón mừng chúng tôi như những vị khách quý. Tôi đưa mắt nhìn lên tủ sách dọc tường, bỗng thấy hai gáy sách quen quen - đó là quyển hồi ký Nguyễn Chánh - con người và sự nghiệp, bên cạnh là quyển Những chặng đường của người mẹ của mẹ tôi là bà Phạm Thị Trinh. Hai quyển sách này đã thay thế chúng tôi kể cho các em học sinh nghe về cuộc đời hoạt động của một đôi vợ chồng đã từng tham gia cách mạng từ khi mới mười lăm, mười sáu tuổi, những hy sinh ba mẹ tôi đã trải qua để góp phần dệt nên những trang sử vẻ vang của quê nhà và đất nước.

Chắc chắn không thể nói hết được tấm lòng của hàng ngàn, hàng vạn người đã dành cho Ba tôi... Nhưng là một thiếu sót lớn nếu không nhắc đến những người bao giờ cũng bên cạnh gia đình tôi để cùng chia sẻ vui buồn, những người không bao giờ vắng mặt trong những ngày giỗ Ba tôi hàng năm, dù có được mời hay không - đó là anh Thân Hoạt, anh Nguyên Ngọc, anh Cao Hữu Thọ và nhiều người khác nữa. Hai anh Thân Hoạt và Nguyên Ngọc đã từng bỏ bao năm tháng cùng gia đình chúng tôi sưu tầm và biên tập để kịp cho ra đời quyển Hồi ký về Ba tôi gồm 68 bài hồi ức dài hơn 600 trang vào dịp tổ chức lễ tưởng niệm nhân 40 năm ngày ông mất. Qua từng dòng chữ trong quyển sách đó các anh đã gửi gắm tình cảm sâu nặng của mỗi người dành cho Ba tôi.

Thật là bất ngờ đối với gia đình tôi khi đọc hồi tưởng của Trung tướng Đặng Hoà, nguyên là Trưởng phòng Điều động và Để bạt kiêm Trưởng phòng Quân hàm của Tổng cục Cán bộ Quân đội nhân dân Việt Nam có tiết lộ một "bí mật" mà cả gia đình tôi đến bây giờ mới biết: "...Theo ý kiến của Bác và Bộ Chính Trị thì nên phong thêm một đại tướng là đồng chí Nguyễn Chí Thanh, còn trong số bốn người là Chu Văn Tấn, Văn Tiến Dũng, Hoàng Văn Thái và Nguyễn Chánh nên cân nhắc phong hai thượng tướng. Khi bàn đến việc này anh Hoàng Văn Thái đã phát biểu: "Nên để anh Nguyễn Chánh là thượng tướng, tôi nhất định phải cấp thấp hơn" và Đại tướng Võ Nguyễn Giáp đã gật đầu đồng ý ngay. Rất tiếc là anh đã qua đời chỉ ít lâu trước khi được phong quân hàm".

Cách đây không lâu Nhà nước đã truy tặng Ba tôi Huân chương Hồ Chí Minh để ghi nhớ những đóng góp của ông cho Tổ quốc và đã được Bộ Quốc phòng tổ chức trao tặng một cách trọng thể. Tin này được đưa trên Đài phát thanh và truyền hình. Ngày hôm sau gia đình chúng tôi nhận được rất nhiều điện thoại của các bạn bè, người thân gọi đến chúc mừng, trong số đó có cả học trò của tôi, những người chưa từng được gặp mặt ông.

Đã 45 năm trôi qua mà bóng dáng ông, ánh mắt ông, nụ cười ông, giọng nói ông vẫn còn lắng đọng trong tâm khảm bạn bè, chiến hữu và tất cả những người đã từng biết ông hoặc đã từng chỉ một lần gặp ông.

Chúng tôi, là những đứa con của ông, vô cùng biết ơn tất cả những ai đã dành cho ông một chỗ đứng nhỏ trong trái tim, đã giúp chúng tôi hiểu được cha mình để tự hào về ông, để phấn đấu làm sao cho xứng đáng là những đứa con của ông.

(Nguyễn Tuyết Minh, "Những gì còn lại qua năm tháng",
Tạp chí Xưa và Nay, Hội Khoa học lịch sử Việt Nam
số 125, tháng 10-2002)
Logged
chuongxedap
Đại tá
*
Bài viết: 13138



« Trả lời #8 vào lúc: 07 Tháng Mười, 2022, 08:59:46 pm »


LIÊN KHU 5 VỚI CHIẾN DỊCH ĐIỆN BIÊN PHỦ


Đại tá, nhà báo, nhà thơ HỒ NGỌC SƠN

                                                                                                                                                               
                     
Tôi còn nhớ rõ, bước vào Thu Đông 1953, những mật điện khẩn giữa Bộ Tổng Tham mưu và Bộ tư lệnh Liên khu 5 tăng lên dồn dập, trong đó có cả điện của Đại tướng Võ Nguyễn Giáp ký tên Giáp hoặc Văn gửi riêng đồng chí Nguyễn Chánh hoặc Chí Thuần (bí danh Đảng của anh Nguyễn Chánh), lúc bấy giờ là Ủy viên Trung ương Đảng, Tư lệnh kiêm Chính ủy Liên khu 5. Dần về sau, cán bộ nhân viên chúng tôi ở bộ phận trực ban chiến sự, Ban Tác chiến, Phòng Tham mưu Liên khu 5 đều được biết Tổng Quân ủy và Bộ Tổng tư lệnh đã hoàn toàn tán thành phương hướng, kế hoạch tác chiến của Đảng ủy và Bộ tư lệnh Liên khu 5 (DU và BTL Liên khu 5) trong chiến cuộc Đông Xuân 1953 - 1954 phối hợp với chiến trường chính; đồng thời được biết về "Kế hoạch Na-va" trên chiến trường Liên khu 5.

1. CHIẾN DỊCH ÁT-LĂNG VÀ CUỒNG VỌNG CỦA NA-VA

Ngược lại dòng lịch sử, sau khi điều đình với Mỹ, tháng 5 năm 1953, Pháp rút viên tướng tài Na-va (Henry Navarre), Tham mưu trưởng khối Quân sự Bắc Đại Tây Dương (NATO), sang làm Tổng chỉ huy quân đội Pháp, hòng cứu vãn tình hình Đông Dương đang hấp hối. Na-va vạch một kế hoạch đầy tham vọng mang chính tên mình: "Kế hoạch Na-va", chia làm 2 giai đoạn và ấn định trong vòng một năm sẽ lật ngược tình thế chiến trường, chuyển bại thành thắng.

Giai đoạn 1, Thu Đông 1953 và Xuân 1954, phòng ngự chiến lược ở miền Bắc, tấn công chiến lược ở miền Nam, đánh chiếm các vùng tự do của Liên khu 5 và Khu 9 ở Nam Bộ.

Giai đoạn 2, sang Thu Đông 1954, rút toàn bộ lực lượng cơ động chiến lược ở miền Nam ra miền Bắc, chuyển sang tấn công chiến lược trên chiến trường chính, giành thắng lợi quyết định; buộc ta phải điều đình trong thế lợi cho Pháp.

Để thực hiện cuồng vọng trên, riêng chiến trường Liên khu 5, địch tập trung lớn một lực lượng cơ động chiến lược toàn binh lính Âu Phi đông gấp 5 - 7 lần ta, mở chiến dịch Át-lăng với ba bước: Bước 1, từ Khánh Hòa đánh ra chiếm tỉnh Phú Yên. Bước 2, đổ bộ lên Quy Nhơn, kết hợp với cánh quân từ Phú Yên đánh ra và từ An Khê đánh xuống, chiếm tỉnh Bình Định. Bước 3, từ Bình Định đánh ra, Quảng Nam - Đà Nẵng đánh vào, Kon Tum đánh xuống, kết hợp với cánh quân đổ bộ từ biển đánh lên, hợp điểm tại thị xã Quảng Ngãi; chiếm đóng toàn bộ vùng tự do Liên khu 5; kết thúc chiến dịch.

Ngày ấy, Liên khu 5 chỉ có trong tay 2 trung đoàn (E) chủ lực 108 và 803. Bốn tỉnh vùng tự do Liên khu 5 vừa trải qua một nạn đói khủng khiếp chưa từng thấy do địch tập trung máy bay, tàu chiến đánh phá ác liệt các làng ven biển từ Quảng Nam vào Phú Yên, đốt phá hết ghe thuyền, mành lưới, khiến cho hàng trăm ngàn dân đói đến nỗi ăn cả cây xương rồng rồi đổ lên quốc lộ 1 xin ăn; bộ đội phải san sẻ khẩu phần ăn ít ỏi của mình để cứu giúp đồng bào. Dư luận và tâm trạng xã hội trở nên rất nóng bỏng. Nhiều suy nghĩ, nhiều lo lắng, nhiều câu hỏi hóc búa được đặt ra: Ta sẽ đối phó chiến dịch Át-lăng như thế nào và bằng cách nào? Liệu ta có giữ được vùng tự do hay không? Nếu mất vùng tự do, mất hậu phương chiến lược thì cuộc kháng chiến của Liên khu 5 sẽ diễn biến ra sao? Có nên phân tán lực lượng chủ lực ra đối phó với các hướng tấn công của địch không?... Mở chiến dịch ở Tây Nguyên có giải quyết được vấn đề không? Sao lại bỏ những cánh đồng lúa ở đồng bằng để giành những rẫy sắn, bắp ở trên núi? Tất cả đều trông chờ vào lời giải của một bài toán khó.


2. NHỮNG QUYẾT ĐỊNH SÁNG SUỐT, ĐÚNG ĐẮN

Dưới sự chủ trì của đồng chí Nguyễn Chánh, Đảng ủy và Bộ tư lệnh Liên khu 5 quyết định: Tập trung các lực lượng chủ lực, mở cuộc tấn công lớn trên Tây Nguyên. Giao nhiệm vụ bảo vệ vùng tự do và hậu phương chiến lược cho các lực lượng địa phương. Đẩy mạnh các hoạt động ở các vùng sau lưng địch, kìm giữ không cho địch rút quân đi nơi khác.

Vào những giờ khắc quan trọng và căng thẳng như vậy, anh Chánh vẫn rất điềm tĩnh và ung dung tính toán lợi hại của các nước cờ. Đôi mắt to, dịu hiền của anh luôn ánh lên niềm lạc quan, tin tưởng. Nói chuyện thân mật với đông đảo cán bộ được cử đi chuẩn bị cho chiến cuộc Đông Xuân 1953-1954, anh Chánh đưa ra những nhận định, lập luận, những lời giải thích:

- Địch vét hết các lực lượng Âu Phi cơ động chiến lược tổ chức co cụm lớn ở Điện Biên Phủ và tập trung trên một số trọng điểm của các chiến trường khác, thì đây là canh bạc cuối cùng trong cơn tuyệt vọng. Chúng có những điểm tạm thời rất mạnh nhưng sẽ bộc lộ hết những điểm yếu rất cơ bản, rất có thể sẽ dẫn đến sai lầm về chiến lược. Đồng thời, đây lại là thời cơ có một không hai cho chúng ta tiêu diệt lớn sinh lực chủ yếu của địch, làm cho chúng suy sụp nhanh chóng, không gượng dậy nổi.

Còn trên chiến trường Liên khu 5 chúng ta, địch tập trung sức lực cho chiến dịch Át-lăng tất sẽ sơ hở ở Tây Nguyên. Nếu chúng ta phân tán lực lượng chủ lực đối phó với các hướng tấn công của địch tức là sa vào âm mưu của chúng, rơi vào thế bị động và sẽ bị tiêu hao lực lượng. Mở cuộc tấn công lớn trên Tây Nguyên là đánh vào nơi sơ hở và hiểm yếu nhất của địch. Giành được quyền chủ động trên Tây Nguyên, thế và lực của ta sẽ có điều kiện phát triển rất mạnh và vững chắc. Còn chiến dịch Át-lăng sẽ rơi vào thế tiến thoái lưỡng nan, bị động và thất bại.

Một khi chiến trường chính vào cuộc, địch sẽ bị căng kéo, dàn mỏng khắp cả Đông Dương, không còn sức chi viện cho nhau, nhất định chúng sẽ sa lầy tận cổ. Nếu chúng ta giành thắng lợi lớn trong Đông Xuân 1953-1954, sẽ xuất hiện tình thế mới, cục diện mới, tác động đến toàn cục cuộc kháng chiến chống Pháp có lợi cho ta. Tất cả đang tùy thuộc vào nỗ lực chủ quan của ta. Thời cơ lớn đã đến thì nỗ lực chủ quan lại càng phải vượt bậc và có ý nghĩa quyết định. Liên khu 5 chúng ta tuy là chiến trường phụ, nhưng là một hướng chiến lược rất quan trọng, tác động trực tiếp, nhanh chóng đến chiến trường chính. Trước vận hội trọng đại này, phải động viên toàn thể cán bộ, chiến sĩ làm hết sức mình cho chiến cuộc Đông Xuân giành thắng lợi to lớn nhất, phối hợp một cách có hiệu quả nhất với chiến trường chính. Mấy vấn đề cần làm ngay là tổ chức một cuộc sinh hoạt chính trị sâu rộng về tầm quan trọng và ý nghĩa lịch sử của chiến cuộc Đông Xuân, giải quyết tư tưởng hoạt động lâu dài trên Tây Nguyên; cho bộ đội luyện tập đánh công kiên lớn; tổ chức tốt một hệ thống hậu cần nhân dân; đảm bảo tuyệt đối bí mật khu vực mở màn trận đánh then chốt của chiến dịch.
Logged
chuongxedap
Đại tá
*
Bài viết: 13138



« Trả lời #9 vào lúc: 07 Tháng Mười, 2022, 09:00:38 pm »


3. MƯỜI NGÀY RUNG CHUYỂN TÂY NGUYÊN

Mùa khô đã đến. Rừng Tây Nguyên giũ sạch gió mưa, thay sắc đỏ sang xuân. Dòng sông Rhe đã trở nên hiền hoà. Hàng vạn dân công, bộ đội vượt qua đói rét, gian khổ, rùng rùng tiến lên Tây Nguyên. Anh Chánh rời chỉ huy sở cơ bản lên sở chỉ huy chiến dịch, trực tiếp chỉ huy mặt trận chính ở Bắc Tây Nguyên. Anh hạ quyết tâm chọn cứ điểm Mang Đen làm điểm đột phá mở màn chiến dịch. Mang Đen là một tiểu khu quân sự khá kiên cố, cách thị xã Kon Tum 50km, án ngữ vững chắc cho thị xã Kon Tum, kiểm soát một vùng rộng lớn ở đông bắc Kon Tum, đồng thời làm bàn đạp đánh phá vùng tự do giáp ranh miền tây Quảng Ngãi. Ở đây lại có một con đường huyết mạch độc đạo đánh xuống huyện lỵ Ba Tơ, vùng đồng bằng và thị xã Quảng Ngãi.

Tháng 1 năm 1954. Chỉ huy sở cơ bản điện báo anh Chánh tin vui: Các chiến trường sau lưng địch chủ động nổ súng đồng loạt giòn giã, thu thắng lợi bước đầu đáng phấn khởi. Ở Quảng Nam, ta tiêu diệt đồn Bồ Bồ, một cứ điểm quan trọng kiểm soát cả một vùng rộng lớn ở sông Thu Bồn. Ở Đắc Lắc, ta tiêu diệt đồn Kà Tung và Bô Ba - Kà Tu. Ở Bắc Tây Nguyên, ta uy hiếp các đồn bốt và đánh mạnh vào các toán quân lùng sục, khiến cho địch co lại không dám đi xa. Cũng nhờ đó mà hàng vạn bộ đội, dân công vượt qua sông Rhe vào các vị trí tập kết quân, giữ được bí mật hoàn toàn. Ban Quân báo Liên khu 5 cũng thông báo cho anh Chánh biết địch đã hoàn thành việc rút Binh đoàn cơ động số 100 ở Triều Tiên về đóng tại An Khê (viết tắt GM100 tức groupement mobile numéro 100).

Ngày 20 tháng 1 năm 1954, địch khai cuộc chiến dịch Át-lăng, sử dụng cùng một lúc 22 tiểu đoàn của các binh đoàn cơ động số 10, 41, 42 và 100 cùng với 2 tiểu đoàn dù từ Khánh Hòa đánh ra Phú Yên. Được chuẩn bị từ trước, các lực lượng địa phương ta chặn đánh quyết liệt, gây cho địch thương vong và không dám tiến nhanh.

Chỉ một tuần sau, ngày 28 tháng 1 năm 1954, ta mở màn chiến dịch Tây Nguyên. Trung đoàn (E) 108 tiêu diệt tiểu khu quân sự Mang Đen, E803 tiêu diệt hai cứ điểm Kom Rẫy, Mang Bút ở đông nam Mang Đen. Như vậy là ta đã đập tan tuyến phòng thủ và mở toang cánh cửa vùng đông bắc Kon Tum. Mang Đen bị tiêu diệt làm rung động dữ dội thị xã Kon Tum và cả Plây Ku. Ngược lại, chiến thắng Mang Đen là trận công kiên lớn nhất của Liên khu 5 trong kháng chiến chống Pháp, nên có sức cổ vũ khí thế quyết chiến quyết thắng của bộ đội và dân công lên rất cao. Anh Chánh lập tức ra lệnh cho E108 cấp tốc hành quân ra Bắc Kon Tum và E803 vào ngay nam Kon Tum, hình thành thế bao vây cô lập thị xã Kon Tum, chia cắt Kon Tum với Gia Lai. E108 lần lượt tiêu diệt hệ thống cứ điểm ở Đắc Tô, Đắc Lây, giải phóng hoàn toàn hai huyện Bắc Kon Tum. Ngày 4 tháng 2 năm 1954 E803 tiêu diệt một đoàn xe bảy chiếc và một đại đội Âu Phi trên đường 14 ở Nam Kon Tum. Anh Chánh động viên E108 nắm vững thời cơ thuận lợi, bất chấp ngày đêm, mưa nắng, thừa thắng xông lên, ngày 7 tháng 2 năm 1954 dũng mãnh đánh chiếm và làm chủ thị xã Kon Tum. Thế là, chỉ trong vòng 10 ngày sau khi mở màn chiến dịch, toàn tỉnh Kon Tum rộng trên 14.000 km2 với 20 vạn dân đã hoàn toàn được giải phóng. Chiến trường Tây Nguyên rung chuyển dữ dội. Lần đầu tiên trong kháng chiến chống Pháp, Liên khu 5 với 2 trung đoàn chủ lực đã giải phóng một tỉnh. Tin chiến thắng lan nhanh làm nức lòng quân dân Liên khu 5, đồng bào và chiến sĩ cả nước. Mất tỉnh Kon Tum là tín hiệu báo trước cho Na-va kế hoạch bước 3 của chiến dịch Át-lăng đã bị bẻ gãy ngay từ đầu. Thế ta lên như nước vỡ bờ. Còn địch, không thể bỏ chiến dịch Át-lăng, cũng không có quân để chi viện cho Gia Lai đang kêu cứu. Anh Chánh rất phấn chấn, động viên các lực lượng chiến dịch hành động với tinh thần "Một ngày bằng hai mươi năm!", tức tốc tiến vào Gia Lai. Bộ đội, dân công hỏa tuyến nô nức bám theo nhau hành quân, vừa đi vừa chạy, quên ăn quên ngủ.

Mười ngày sau, tức vào trung tuần tháng 2 năm 1954, hai trung đoàn 108, 803 đã hình thành thế trận bao vây chia cắt An Khê với Plây Ku, chia cắt cô lập tỉnh Gia Lai với hai tỉnh Đắc Lắc, Bình Định. Tiếp đó, ta lần lượt tiêu diệt các cứ điểm Đắc Đoa, Plây Ring bảo vệ vòng ngoài thị xã Plây Ku và các cứ điểm Tú Thủy, Cửu An bảo vệ vòng ngoài của căn cứ quân sự An Khê, khiến cho binh lính ở Gia Lai, Đắc Lắc và GM100 vô cùng hoang mang, khiếp sợ. Thế chủ động chiến trường đã thuộc về ta. Chiến dịch Át-lăng rơi vào thế bế tắc, bị động, tiến thoái lưỡng nan. Bị các lực lượng địa phương chặn đánh liên tục, suốt 55 ngày đêm, chiến dịch Át-lăng chỉ dậm chân tại chỗ ở Phú Yên, không tiến lên được, cho đến ngày 12 tháng 3 năm 1954, để gỡ thế bí, địch liều mạng đổ bộ lên Quy Nhơn 8 tiểu đoàn lính Âu Phi phối hợp với 2 binh đoàn cơ động 41 và 42 đánh ra, chiếm Diêu Trì. GM100 được lệnh hành quân xuống Diêu Trì để thực hiện bước 2 của "Kế hoạch Na-va" đánh chiếm toàn tỉnh Bình Định. E108 đã sẵn sàng đón đánh GM100.

Không ngờ, ngày hôm sau - ngày 13 tháng 3 năm 1954 không thể nào quên, ta mở màn chiến dịch lịch sử Điện Biên Phủ. Vô cùng hốt hoảng, Na-va lệnh cho GM100 dừng cuộc hành quân, rút hết các lực lượng dù đưa ra Hà Nội. Ngày 6 tháng 4 năm 1954, ngày nhục nhã nhất của Na-va trên chiến trường Liên khu 5. Ở Điện Biên Phủ, ta mở cuộc tấn công dữ dội vào khu trung tâm. Na-va bí mật rút hết các lực lượng cơ động đang chiếm đóng ở Diêu Trì về Quy Nhơn và đưa ra tàu biển. Chiến dịch Át-lăng kết thúc không kèn không trống.


4. ĐÒN TRỜI GIÁNG CUỐI CÙNG VÀO GM100

Tình hình chiến trường diễn biến đúng như anh Chánh đã nhận định trong cuộc nói chuyện vào Thu Đông 1953. Thời cơ lớn đã đến. Như một động viên lệnh thiêng liêng: "Tất cả cho Điện Biên Phủ giành toàn thắng!", anh Chánh thay mặt Đảng ủy và Bộ chỉ huy chiến dịch Tây Nguyên kêu gọi toàn thể cán bộ, chiến sĩ, dân công hỏa tuyến đạp bằng mọi khó khăn gian khổ, chiến đấu anh dũng hơn nữa, táo bạo hơn nữa, phối hợp tốt hơn nữa với chiến trường chính. Hai trung đoàn 108, 803 liên tục chiến đấu tiêu diệt các cứ điểm ở Đầu Đèo, Thượng An, phá vỡ phòng tuyến địch trên đường số 7 ở Đắc Lắc, khiến cho An Khê, Plây Ku và GM100 hoàn toàn bị cô lập và tuyệt vọng. Ta sẵn sàng giải phóng Gia Lai và tiến đánh Đắc Lắc.

Chủ động đi trước tình hình một bước và kịp xử trí tình hình đột biến, ngày 1 tháng 5 năm 1954, anh Chánh quyết định thành lập trung đoàn chủ lực thứ ba của Liên khu 5 mang tên E96. Anh Nguyễn Minh Châu (tức anh Năm Ngà, sau này là Ủy viên Trung ương Đảng, Thượng tướng Tư lệnh Quân khu 7), một trung đoàn trưởng nổi tiếng gan dạ, mưu trí, đang chỉ huy E108, được điều về chỉ huy E96. Bảy ngày sau khi E96 ra đời, ngày 7 tháng 5 năm 1954 lịch sử, Điện Biên Phủ giành toàn thắng. Mặc dù vậy, Na-va vẫn ra lệnh cho các chiến trường cố thủ, bảo toàn lực lượng, tìm thế lợi trong thương lượng.

Tin kỹ thuật của Ban Quân báo Liên khu 5 báo cho anh Chánh biết "GM100 với toàn bộ đội hình gần 250 xe nối đuôi đậu sít nhau và quay đầu hết về hướng Plây Ku. Tinh thần binh lính địch cực kỳ hoang mang...". Đôi mắt thâm quầng rực sáng lên, anh Chánh lệnh cho anh Nguyễn Minh Châu động viên bộ đội dốc hết tốc lực băng rừng hành quân diệt gọn GM100. Mới thành lập, một tiểu đoàn chưa về kịp trong đội hình, hỏa lực đánh cơ giới đang điều động, anh Minh Châu lo lắng là việc hoàn thành nhiệm vụ sẽ gặp nhiều khó khăn, không kịp nổ súng đúng thời gian quy định. Anh Chánh phân tích: Điện Biên Phủ thất thủ, GM100 đã mất hết tinh thần chiến đấu, đang chuẩn bị rút chạy. Bằng mọi lực lượng có trong tay và bằng mọi giá tiêu diệt những chiếc xe đi đầu và khóa chặt đuôi, kiên quyết không cho một xe nào chạy thoát. Nổ súng là nhất định thắng lớn!...

Quả thật, tại khu vực Đắc Pơ trên đường 19, sáng 24 tháng 6 năm 1954, với một lực lượng nhỏ hơn địch nhiều lần nhưng hơn hẳn về tinh thần dũng cảm, mưu trí, từ hai hướng nam bắc đường, cán bộ chiến sĩ E96 tiến sát và xông thẳng vào đoàn xe, bất thần nổ súng đánh giáp lá hô xung phong vang dậy. Bọn lính Âu Phi không kịp trở tay và sợ chết, nhanh chóng tán loạn như ong vỡ tổ. Chúng giơ súng đầu hàng cả với dân công hỏa tuyến. Ta xóa sổ binh đoàn cơ động số 100, bắn chết và bị thương 700 tên, bắt sống 1.200 tên, trong đó có tên đại tá Barrou chỉ huy binh đoàn. Đây là trận đánh giao thông lớn nhất nước ta trong cả hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ. Ta thu rất nhiều vũ khí, quân trang, quân dụng, có 20 khẩu đại bác, 229 xe quân sự, trong đó có 20 xe hồng thập tự mới toanh. Tù binh gom lại từng đám lớn ngồi đầy các cánh rừng, không đủ dây để trói, nhưng chúng đều ngoan ngoãn tuân lệnh vì bộ đội, dân công ta đối xử rất tử tế và còn vì chúng sợ chạy trốn sẽ bị lạc đường, trúng chông, đói khát, bỏ mạng trong rừng. Đòn trời giáng cuối cùng vào GM100 đã góp phần làm cho các lực lượng cơ động chiến lược tinh nhuệ của địch ngã gục, không gượng dậy nổi. Ý chí xâm lược của giặc Pháp hoàn toàn tan rã. Ngày 20 tháng 7 năm 1954, chúng buộc phải hạ bút ký Hiệp định Giơ-ne-vơ, chấp nhận đình chiến ở Đông Dương. Liên khu 5 là chiến trường đã giành chiến thắng to lớn, rực rỡ nhất trong nhiệm vụ phối hợp với Mặt trận Điện Biên Phủ, được xem là "Điện Biên Phủ thứ hai" của quân đội Pháp. Đây cũng là đỉnh cao nhất thắng lợi của quân và dân Liên khu 5 trong 9 năm chống Pháp.

Đã tròn 50 năm qua đi. Song, trong tôi mãi mãi lưu lại một ấn tượng sâu sắc nhất, một dấu ấn không thể phai mờ, đó là vai trò hạt nhân lãnh đạo sáng suốt, bản lĩnh chiến đấu kiên cường của Đảng ủy và Bộ tư lệnh Liên khu 5 cùng với những cống hiến xuất sắc của đồng chí Nguyễn Chánh. Anh là một nhà lãnh đạo có tầm nhìn xa trông rộng, rất sắc sảo nhưng cũng rất giản dị, dễ gần gũi, một vị tướng tài đức song toàn, luôn điềm tĩnh, quyết đoán và có quyết sách đúng đắn trước những diễn biến phức tạp nhất của thời cuộc và bước ngoặt của lịch sử.

Là một trong những người lãnh đạo, chỉ huy Đội du kích Ba Tơ nổi tiếng, tiền thân của Quân đội nhân dân Liên khu 5, anh Chánh là người anh cả kính yêu của các lực lượng vũ trang Liên khu 5. Ngay sau khi kết thúc cuộc kháng chiến chống Pháp, anh được Trung ương Đảng giao trọng trách nặng nề: Tổng cục trưởng Tổng cục Cán bộ quân đội, đặt dưới sự chỉ đạo trực tiếp của Tổng Quân ủy và Bộ Tổng tư lệnh. Do bị tù đày, tra tấn trong lao ngục của đế quốc Pháp, làm việc căng thẳng trong chiến tranh và trong thời bình, anh không thoát được căn bệnh hiểm nghèo, đã từ trần ở độ tuổi còn rất trẻ, chỉ ngoài bốn mươi. Anh mất quá sớm nhưng tên tuổi, cuộc đời và sự nghiệp của anh mãi mãi gắn kết với chiến cuộc Đông Xuân 1953-1954, chiến dịch lịch sử Điện Biên Phủ, lịch sử cách mạng vẻ vang của Liên khu 5 anh dũng và gian khổ và lịch sử quân sự Việt Nam quang vinh. Cũng xin được ghi thêm rằng có nhiều người còn chưa biết anh Chánh đã có nhiều bài thơ hay viết từ trong lao tù, những bài thơ tràn đầy khí phách kiên cường lạc quan cách mạng, chan chứa tình yêu thương đậm đà gia đình, quê hương, đất nước; được trân trọng lưu giữ trong kho tàng văn học cách mạng của Việt Nam (Tổng tập văn học Việt Nam, tập 35). Xin được bày tỏ lòng kính yêu anh nhân dịp kỷ niệm trọng thể 50 năm chiến thắng Điện Biên Phủ.

(Trích trong Tạp chí Sông Trà,
số kỷ niệm 50 năm chiến thắng Điện Biên Phủ,
tháng 5-2004)
Logged
Trang: 1 2 3 4 »   Lên
  In  
 
Chuyển tới:  

Powered by MySQL Powered by PHP Powered by SMF 1.1.21 | SMF © 2006-2008, Simple Machines

Valid XHTML 1.0! Valid CSS! Dilber MC Theme by HarzeM