Lịch sử Quân sự Việt Nam
Tin tức: Lịch sử quân sự Việt Nam
 
*
Chào Khách. Bạn có thể đăng nhập hoặc đăng ký. 26 Tháng Tư, 2024, 06:50:50 am


Đăng nhập với Tên truy nhập, Mật khẩu và thời gian tự động thoát


Trang: « 1 2 3 4 5 6 7 »   Xuống
  In  
Tác giả Chủ đề: Phòng chống diễn biến hòa bình ở Việt Nam - Mệnh lệnh cuộc sống  (Đọc 2151 lần)
0 Thành viên và 1 Khách đang xem chủ đề.
saoden
Thành viên
*
Bài viết: 1075



« Trả lời #40 vào lúc: 08 Tháng Mười Một, 2022, 07:46:04 pm »

VI- QUAN ĐIỂM VŨ KHÍ LUẬN "CHỈ NHÌN THẤY CÂY MÀ KHÔNG THẤY RỪNG"

Luận bàn về chiến tranh có sử dụng vũ khí công nghệ cao, đã và đang có quan điểm nhấn mạnh rằng, ngày nay khoa học và công nghệ phát triển như vũ bão, vũ khí, trang bị quân sự rất tối tân, hiện đại nên chiến tranh và cục diện thắng thua trên chiên trường rất sớm được định đoạt bởi bên nào có vũ khí, trang bị nhiều hơn, hiện đại hơn đối phương thì bên đó sẽ giành chiến thắng. Thực hư quan điểm này như thế nào, nó có quan hệ gì với "diễn biến hòa bình", xin hãy nhìn vào các cuộc chiến tranh do NATO và Mỹ gây ra cuối thế kỷ XX, đầu thế kỷ XXI ở Việt Nam, Nam Tư, Ápganixtan, Irắc..., bạn đọc phần nào sẽ hiểu rõ hơn bản chất của vấn đề này.


Chúng ta đều biết, vũ khí, trang bị quân sự là công cụ để tiến hành đấu tranh vũ trang, bộ phận quan trọng cấu thành, tạo nên sức mạnh chiến đấu của quân đội. Sự phát triển của vũ khí, trang bị quân sự hiện đại, một mặt phụ thuộc vào tiềm lực kinh tế, quốc phòng của mỗi quốc gia, dân tộc; mặt khác, phụ thuộc vào nhu cầu chuẩn bị cho chiến tranh, hiện đại hóa quân đội, tăng cường sức mạnh quân sự, quốc phòng, an ninh, bảo vệ đất nước của mỗi quốc gia, dân tộc trong bối cảnh tình hình thế giới có nhiều diễn biến phức tạp, khó lường.


Sau chiến tranh lạnh, do sự biến đổi cục diện chính trị thế giới và sự tác động mạnh mẽ của cuộc cách mạng khoa học và công nghệ hiện đại, các quốc gia, dân tộc đều tiến hành điều chỉnh chiến lược quốc phòng, an ninh, bảo vệ đất nước theo hướng sát hợp với tình hình mới, trong đó, điều chỉnh chiến lược, hiện đại hóa vũ khí, trang bị quân sự được xác định là một trong những nhiệm vụ trọng tâm, mang ý nghĩa then chốt để phòng thủ quốc gia, bảo vệ đất nước trước sự biến động mau lẹ của tình hình chính trị, quân sự trên thế giới. Gần đây, chiến tranh khu vực, xung đột vũ trang, xung đột sắc tộc, dân tộc, tôn giáo và những cuộc đảo chính, khủng bố, chạy đua vũ trang liên tục xảy ra làm cho tình hình chính trị, quân sự trên thế giới vốn đã rất căng thẳng, phức tạp lại càng căng thẳng, phức tạp hơn.


Để bảo vệ lợi ích của dân tộc, giữ vững an ninh quốc gia, hầu hết các nước, đặc biệt là các nước lớn đã đầu tư những khoản tiền lớn để mua sắm vũ khí, hiện đại hóa quân đội, tăng cường củng cố quốc phòng, an ninh. Với tư cách là một siêu cường, Mỹ và đồng minh của họ là NATO đã tự cho mình cái quyền "đánh đòn phủ đầu", sẵn sàng tham gia các cuộc chiến tranh cục bộ và khu vực, hỗ trợ các nước đồng minh chống lại các nước thù địch nhằm ngăn chặn và tiêu diệt chủ nghĩa khủng bố, đồng thời hạn chế sức mạnh quân sự đang gia tăng của các nước có quan điểm đối lập với Mỹ và NATO.


Vì vậy, Chính phủ Mỹ đã dành cho ngân sách quốc phòng những khoản "kinh phí" đồ sộ. Vào thời điểm mà cuộc khủng hoảng kinh tế - tài chính toàn cầu suy thoái nghiêm trọng (9-2008), gây cho Mỹ những thiệt hại nặng nề về kinh tế và đời sống, thế nhưng, Chính phủ Mỹ vẫn chi cho ngân sách quốc phòng trên 600 tỷ USD, chiếm khoảng 3,5% GDP, bằng tổng chi phí quốc phòng của 20 nước sau Mỹ gộp lại1 (Đồng Đức: "Tam giác Mỹ - Nga - Trung Quốc trong cục diện thế giới đa cực hiện nay", tạp chí Quốc phòng toàn dân, số 7, năm 2010, tr.49). Với khoản ngân sách quốc phòng khổng lồ ấy, Mỹ tiếp tục sản xuất các loại vũ khí mới, tăng cường hiện đại hóa quân đội nhằm bảo vệ khả năng vượt trội của Mỹ về quân sự, duy trì lực lượng hạt nhân với quy mô đủ mạnh để răn đe đối phương bằng cách củng cố, nâng cấp và tiến tới thay thế vũ khí hạt nhân hiện có.


Đồng thời, tiếp tục phát triển máy bay chiến đấu hỗn hợp F35, nâng cấp các máy bay B52, phát triển hệ thống vệ tinh, tăng cường khả năng tấn công hạt nhân trên toàn cầu; tích cực triển khai chương trình phát triển vũ khí chiến đấu mới với đặc điểm "gọn nhẹ hóa", "chính xác hóa", "mạng hóa", phá hủy lớn, gây sát thương cao. Bất chấp sự phản đối của Nga, Mỹ tiếp tục thúc đẩy kế hoạch xây dựng hệ thống phòng thủ tên lửa quốc gia (NMD) tại Cộng hòa Séc và Ba Lan, tăng cường hệ thống phòng thủ tên lửa chiến trường (TMD) tại Nhật Bản và các khu vực xung quanh Nhật Bản, tiến hành kết nối hệ thống cảnh báo tên lửa đạn đạo giữa Mỹ và Ixaren; thúc đẩy việc mở rộng NATO về phía Đông, đẩy mạnh chống khủng bố ở Ápganixtan. Song song với các hoạt động trên, Mỹ đã loại khỏi biên chế số lượng lớn vũ khí, trang bị hết niên hạn sử dụng như máy bay chiến đấu chiến thuật F14, 12, 117, v.v...


Nhằm ứng phó với những động thái mới của cuộc chạy đua vũ trang, hiện đại hóa vũ khí, quân đội của Mỹ và NATO, nước Nga trong thực hiện chính sách cải cách và chống lại sự cấm vận của Mỹ và phương Tây sau sự kiện Crưm, xung đột ở miền Đông Ucraina đã và đang có những bước phục hồi ngoạn mục cả về kinh tế, chính trị, ngoại giao lẫn quốc phòng, an ninh. Cuộc chiến tranh 5 ngày ở Nam Cápcadơ (8-2008) và sáp nhập bán đảo Crưm trở lại lãnh thổ Nga (2014) là minh chứng đầy thuyết phục về sự khôi phục vị thế cường quốc của Nga trên vũ đài chính trị thế giới, là sự thách thức đanh thép, quyết liệt của Nga đối với các nước phát triển trong cuộc chạy đua vũ trang, hiện đại hóa quân đội và vũ khí giữa các nước hiện nay.


Trước những thách thức của Mỹ về việc mở rộng NATO sang phía Đông, triển khai các hệ thống tên lửa đánh chặn Patriôt ở Ba Lan, Cộng hòa Séc và ở nhiều nước Đông Âu khác cũng như trên biển, Nga tuyên bố tự cho phép mình quyền được "đánh đòn phủ đầu" kể cả bằng hạt nhân nếu an ninh quốc gia bị đe dọa; sẵn sàng rút khỏi START-2 (Mỹ và Nga ký Hiệp định START-2 tháng 4-2010 về cắt giảm vũ khí tiến công chiến lược mới). Đồng thời, Nga khẳng định sẽ bố trí các tên lửa đạn đạo tại Caliningrat, triển khai các căn cứ quân sự tại vùng biển Caribê nếu Mỹ triển khai các NMD ở Đông Âu. Gần đây, Chính phủ Nga đã tăng ngân sách quốc phòng, an ninh lên tới 39 tỷ USD để chế tạo hàng loạt các loại xe tăng mới như T90, xe bọc thép BMP3, BMP4, xe tăng thế hệ mới T95, tên lửa tầm xa thế hệ mới; sản xuất các máy bay tiêm kích Su35, trực thăng chiến lược MI28H và các tàu sân bay, tàu ngầm nguyên tử, v.v... Những động thái nêu trên đã góp phần "khuếch trương" quan điểm vũ khí luận, làm tăng thêm sức sống của nó trong thế giới hiện đại.


Với việc thực hiện chính sách cải cách và mở cửa, "trỗi dậy hòa bình", Trung Quốc đã đạt những tiến bộ vượt bậc trên các mặt, đặc biệt là về kinh tế quân sự. Trong vài thập niên gần đây, Trung Quốc luôn giữ được mức tăng trưởng kinh tế cao nhất thế giới từ 8 -13%. Các năm 2008, 2009, cuộc khủng hoảng kinh tế - tài chính toàn cầu đã làm cho thế giới chao đảo, thế nhưng Trung Quốc vẫn đạt mức tăng trưởng hơn 8%, với dự trữ ngoại tệ khoảng 2.300 tỷ USD, làm cho Trung Quốc vượt Đức và Nhật Bản, trở thành nền kinh tế lớn thứ hai trên thế giới. Hơn thế Trung Quốc trở thành nước xuất khẩu lớn nhất trên thế giới với tổng giá trị lên tới gần 2.000 tỷ USD, giữ vị trí số 2 toàn cầu về trao đổi thương mại. Sự phát triển về kinh tế đặt ra hàng loạt vấn đề mới về quốc phòng, an ninh, phát triển khoa học và công nghệ quân sự, hiện đại hóa quân đội.
Logged
saoden
Thành viên
*
Bài viết: 1075



« Trả lời #41 vào lúc: 08 Tháng Mười Một, 2022, 07:46:59 pm »

Những năm gần đây, Chính phủ Trung Quốc liên tục tăng ngân sách quốc phòng nhằm duy trì chiến lược quân sự, phòng ngự tích cực trong điều kiện kỹ thuật cao, thực hiện tốt "chiến tranh ngăn chặn", kiềm chế, tiến tới giảm thiểu những nhân tố gây mất ổn định, đến giữa thế kỷ XXI hoàn thành mục tiêu chiến lược xây dựng quân đội tin học hóa, có thể đánh thắng cuộc chiến tranh tin học hóa của mọi đối phương. Chính phủ Trung Quốc đã chi những khoản tiền lớn đế phát triển công nghệ thống tin; nghiên cứu, chế tạo hàng loạt vũ khí tấn công tầm xa như các loại tên lửa đạn đạo, các máy bay tấn công "đặc biệt hiện đại"; đồng thời, Trung Quốc không quên nhiệm vụ phòng, chống "diễn biến hòa bình", kế cả việc triển khai thực hiện chiến lược "săn bắt cáo" kiên quyết đấu tranh chống tham nhũng với việc chi một khoản ngân sách lớn để thực hiện nhiệm vụ này.


Với việc thử nghiệm thành công tên lửa bắn hạ vệ tinh, đưa người ra ngoài khoảng không vũ trụ, Trung Quốc đã vươn lên cùng với Nga và Mỹ trong tốp các nước dẫn đầu về trình độ công nghệ vũ trụ hiện đại. Nhân dịp kỷ niệm 60 năm nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa, Chính phủ Trung Quốc đã công bố hàng chục loại vũ khí mới. Hiện nay, Trung Quốc đang đẩy mạnh chuyến đổi loại hình huấn luyện tác chiến tin học hóa kết hợp với cơ giới hóa, nâng cao tính chuyên nghiệp hóa của các lực lượng không quân, hải quân chiến lược, đồng thời nghiên cứu, sản xuất máy bay chiến đấu J-14, tên lửa "Đông Phong-25" có tầm bắn từ 3.500-4.000 km và tên lửa "Đông Phong-41" có tầm bắn 12.000 km1 (Đồng Đức: "Tam giác Mỹ - Nga - Trung Quốc trong cục diện thế giới đa cực hiện nay", tạp chí Quốc phòng toàn dân, số 7, năm 2010, tr.51), v.v...


Cuộc chạy đua vũ trang trước đây giữa các siêu cường, giờ đây được khởi động lại, phát triển với tốc độ nhanh, quy mô lớn, đặc biệt nguy hiểm đã chính thức bắt đầu, trước hết giữa Nga và Mỹ. Nhân tố con người vốn là rất quan trọng song đã bị dìm xuống hàng thứ yếu để nhường chỗ cho các loại vũ khí mới đầy sức cạnh tranh, đua nhau xuất hiện, "tác oai, tác quái" trên thị trường mua bán, chuyển nhượng đang rất sôi động hiện nay, dù rằng, trong ý thức, người ta không những không từ bỏ nhân tố con người mà ngược lại, tận dụng tối đa trí tuệ con người nhằm "trí tuệ hóa" các loại vũ khí, tạo ra mọi kiêu loại vũ khí tối tân, hiện đại nhất.


Theo đó, người ta đã và đang sử dụng các kiểu loại vũ khí tối tân, hiện đại vừa tạo ra để răn đe, khống chế, dọa nạt đối phương, coi đó là phương thức tối ưu nhất, hữu hiệu nhất để giải quyết các bất đồng, mâu thuẫn, các quan điểm đối lập về lợi ích kinh tế, chính trị, quyền thống trị về lãnh thổ do không đạt được mục đích bằng "ngoại giao thân thiện", đàm phán, thương lượng hòa bình.


Việc tuyệt đối hóa tính năng, tác dụng, quyền uy, sức mạnh của các loại vũ khí giết người hàng loạt trong thế giới đương đại phản ánh rõ sự bạc nhược, ươn hèn về mặt chính trị, sự vô lương tâm, suy thoái đạo đức, nhân phẩm của giới chính trị gia, các nhà quân sự lão luyện và cả giới tài phiệt tư bản. Họ đã dùng sức mạnh của đồng đôla, thông qua con đường chạy đua vũ trang, mua bán, chế tạo vũ khí, hiện đại hóa quân đội để răn đe, khống chế nhau, áp đặt lề thói cửa quyền, những hành vi "phi nhân tính", vô nhân đạo lên người khác, bất kể đó là ai, dù là người dân lương thiện, người nghèo, phụ nữ và trẻ em hay là các chính trị gia lão luyện.
Logged
saoden
Thành viên
*
Bài viết: 1075



« Trả lời #42 vào lúc: 08 Tháng Mười Một, 2022, 07:47:45 pm »

Quan điểm vũ khí luận như một chiêu bài hấp dẫn đã và đang lôi cuốn giới tài phiệt quân sự và tài chính tư bản tạo nên một thị trường mua bán, chuyển nhượng vũ khí sôi động với những khoản lợi nhuận kếch xù. Các vũ khí giết người hàng loạt, bằng nhiều phương thức đều nói lên tiếng nói của sự công phá, hủy diệt, là sự tố cáo tội ác "không còn nhân tính" của giới chóp bu là chính quyển nhà nước tư sản thôi nát, phản động.


Dù rằng, lúc tỉnh táo, có thể họ biết đó là hành động vô lương tâm, phi nhân tính, nhưng các khoản lợi nhuận kếch xù với hàng tỷ đôla thu được từ các vụ chế tạo, sản xuất, buôn bán, chuyển nhượng vũ khí đã làm những người này tối mắt, phớt lờ dư luận, sự can ngăn phản đối nguy cơ chiến tranh, bạo lực của cả cộng đồng, nhân loại. Đó cũng là điều giải thích: tại sao thuyết vũ khí luận mặc dù chứa đựng đầy rẫy khiếm khuyết, mang bản chất "phi nhân tính", độc ác là vậy, song nó vẫn tồn tại, được phổ biến, tuyên truyền rộng rãi, được người ta đón nhận, sùng bái, thậm chí tạo mọi điều kiện cho nó phát triển, lây lan trong xã hội.


Đó cũng là điều giải thích tại sao nhân tố con người, kể cả lương tâm, nhân phẩm, trí tuệ, đạo đức và pháp luật lại bị coi thường. Các cuộc đánh bom liều chết, các vụ khủng bố quốc tế, các cuộc xung đột vũ trang, chiến tranh xâm lược đã ngang nhiên hoành hành, trở thành "cơm bữa hằng ngày" ở một số khu vực, làm cho nhiều người dân yêu chuộng hòa bình lên án, phản đối nhưng các giới cầm quyền phương Tây không hề đếm xỉa đến. Chính điều này đã và đang lôi cuốn nhiều quốc gia, dân tộc cả phương Đông, phương Tây "rơi vào vòng xoáy" thời cuộc, buộc họ phải chạy đua vũ trang, hiện đại hóa quân đội, tăng cường vũ khí, kể cả những loại vũ khí đắt tiền nhất, nếu muốn tồn tại, bảo vệ được mình và phát triển.


Cũng giống như Mỹ, Nga và Trung Quốc, nhiều quốc gia, dân tộc trong thế giới đương đại đều đã và đang điều chỉnh chiến lược quốc phòng, an ninh. Các khoản tiền lớn mà lẽ ra được dùng vào phát triển sản xuất, cải thiện đời sống dân sinh, văn hóa, giáo dục, đào tạo... đã và đang dùng cho việc mua sắm, hiện đại hóa vũ khí, quân đội. Từ nhà chính trị, quân sự gia đến người dân bình thường đều hiểu rõ, thậm chí nhận thức sâu sắc tác hại ghê gớm của việc sản xuất vũ khí giết người hàng loạt. Thế nhưng, cách hành xử của mỗi loại người lại rất khác nhau. Đối với giới cầm quyền, những kẻ thống trị thì chiến tranh, xung đột vũ trang, khủng bố, đảo chính... lại là những cơ hội tốt để họ làm ăn, mặc dù những đồng tiền ấy thấm đẫm máu và nước mắt của đồng loại, nó mang bản chất "phi nhân tính".


Đối với các thế lực thù địch, chỉ có lợi nhuận, tiền bạc, đôla là trên hết. Vì lợi nhuận, tiền bạc, đôla, họ có thể gây nhiều tội ác, kể cả giết người thân, thậm chí tự chui đầu vào thòng lọng. Chúng ta không ngạc nhiên trước những hành vi tàn ác của giai cấp thống trị, những điều mà C. Mác, Ph. Ăngghen và V.I. Lênin đã nêu trong nhiều tác phẩm của mình. Nguyên nhân sâu xa của những hành vi tội ác, bất công, bất bình đẳng trong xã hội đương thời không hề khác mấy nghìn năm trước đây, khi mà trong xã hội vẫn còn tồn tại những sự khác biệt về lợi ích, sự bất công, bất bình đẳng về quyền con người do chế độ tư hữu tư nhân về tư liệu sản xuất sản sinh ra, do sự khác biệt, đối lập về lợi ích giai cấp giữa người "ngồi mát ăn bát vàng" và những người "bán sức lao động, làm thuê", tạo ra sản phẩm nhưng không được hưởng. Sự đối lập về lợi ích giai cấp, trước hết là đối lập về lợi ích kinh tế và quyền lực chính trị là cái "hố ngăn cách" không thể nào lấp được giữa bọn đi áp bức bóc lột, thống trị đang chiếm đặc lợi, đặc quyền và những người dân lao động trước đây cũng như hiện nay.


Khẳng định điều này, cả C. Mác, Ph. Ăngghen và V.I. Lênin đều chỉ rõ: chừng nào trong xã hội còn tồn tại chế độ tư hữu, giai cấp và đối lập lợi ích giai cấp, thì chừng ấy, chẳng thể có công bằng, bình đẳng và nền hòa bình. Vì vậy, giai cấp vô sản đừng vứt bỏ vũ khí khi còn bọn áp bức, bóc lột trên trái đất này. Quan điểm vũ khí luận thực chất chỉ là một luận thuyết của giới chính luận gia tư sản nhằm bênh vực, bảo vệ những thói "ngông cuồng, ngạo mạn" của giới tài phiệt chính trị, quân sự tư sản, những kẻ luôn đề xướng, nâng cao, tuyệt đối hóa vai trò của vũ khí, coi vũ khí là phương thức duy nhất, hữu hiệu nhất để giải quyết những bất đồng, mâu thuẫn giữa các phe phái nhằm bảo vệ lợi ích của các nhà tư bản và đồng minh của họ.


Việc sùng bái đến mức tuyệt đối hóa các loại vũ khí giết người được coi là một phương thức kiếm lời trên xương máu của đồng loại, là thứ lý luận phi nhân tính, cực kỳ hiểm độc. Sự truyền bá luận thuyết này trong thế giới đương đại chẳng khác gì sự châm ngòi, kích động chiến tranh. Nói cách khác, thế giới càng điên đảo, chiến tranh liên tục xảy ra thì càng có lợi cho giới tài phiệt, lái súng bất lương.


Tất cả những việc làm ấy đã và đang khẳng định sự bế tắc, sự khốn cùng của một chế độ đầy rẫy mâu thuẫn và tội ác trong xã hội tư bản hiện thời. Và chính nó bộc lộ rõ bản chất phản động, phản khoa học cần phải loại bỏ để tìm lại những gì vốn là lẽ phải, công bằng, bình đẳng, là quyền sống chính đáng của mọi người trong một thế giới hòa bình, không có chiến tranh.


Đấu tranh bác bỏ những quan điểm sai trái, trực tiếp là phê phán quan điểm vũ khí luận là nghĩa vụ, trách nhiệm của mọi người dân, đúng về phía công lý trên thế giới, kiên quyết giành lại quyền được sống làm người chân chính và gìn giữ nền hòa bình thế giới. Có nhiều con đường đấu tranh đê loại bỏ điều ác, thực hiện điều tốt. Song, trước hết và quan trọng nhất, cả loài người tiến bộ hãy đoàn kết lại, kiên quyết đấu tranh xóa bỏ tệ người áp bức, nô dịch người, xóa bỏ tệ bất công, bất bình đẳng, xóa bỏ chế độ tư hữu tư nhân về tư liệu sản xuất, thực hiện cuộc đấu tranh giải phóng giai cấp, giải phóng xã hội và giải phóng con người.


Mục tiêu và con đường đấu tranh không thể nào khác là làm cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản. Bằng phương thức ấy, với con đường đấu tranh cách mạng, chúng ta mới tìm ra và bảo vệ được chân lý; những người yêu chuộng hòa bình trên thế giới mới có thể giành lại cuộc sống hòa bình, ấm no, tự do, hạnh phúc từ tay giai cấp thống trị, bóc lột. Cùng với việc xóa bỏ tệ người áp bức, bóc lột người, quan điểm vũ khí luận và hàng loạt các quan điểm sai trái, phản động khác sẽ tự sụp đổ.


Vì lẽ đó, mỗi người cần nhận thức lại chính mình, thấy rõ vai trò, trách nhiệm CON NGƯỜI trong thế giới đương đại. Bởi vì, con người là chủ thể sáng tạo và sử dụng vũ khí và vũ khí ấy chỉ có ý nghĩa khi nó được thực hiện vào việc bảo vệ lẽ phải, công bằng, thực hiện tiến bộ xã hội. Hãy lên án, phản đối chiến tranh bằng những việc làm thiết thực để bảo vệ hòa bình. Hãy tỉnh táo, khôn ngoan trong nghiên cứu, chế tạo và sản xuất các loại vũ khí thật sự cần thiết để nó có thể bảo vệ lẽ phải, công bằng và chính nghĩa. Có như vậy, chúng ta mới kiểm soát và sử dụng vũ khí để chống lại các hành vi tội ác do các thế lực thù địch dùng chiến tranh gây ra, chống lại nghèo nàn, bệnh tật, bảo vệ nền hòa bình thế giới và quyền sống làm người của chúng ta.


Và điều này nữa, rất cần ghi nhớ: dù vũ khí có tối tân hiện đại đến đâu, nó cũng đều phải do con người điều khiển, sử dụng. Người ta có thể kiểm soát được chúng về số lượng và chất lượng, nhưng "diễn biến hòa bình" thì tinh vi, tinh quái hơn nhiều; nó có lắm thủ đoạn, âm mưu bí hiểm, không hề nhận thức dễ dàng. Chế độ xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô và các nước Đông Âu đã sụp đổ do quá ỷ lại vào vũ khí, trang bị hiện đại nên đã mắc mưu "diễn biến hòa bình" do chủ nghĩa đế quốc và các thế lực thù địch gây nên. Do đó, quân đội Liên Xô có gần 3 triệu quân tinh nhuệ với đầy đủ vũ khí tối tân hiện đại, song không thể bảo vệ được chế độ xã hội chủ nghĩa.
Logged
saoden
Thành viên
*
Bài viết: 1075



« Trả lời #43 vào lúc: 17 Tháng Mười Một, 2022, 07:34:36 pm »

VII- PHÒNG, CHỐNG SẢN PHẨM VĂN HÓA ĐỘC HẠI VÀ CÁC TỆ NẠN XÃ HỘI XÂM NHẬP VÀO CÁC CƠ QUAN, ĐƠN VỊ HIỆN NAY

Các sản phẩm văn hóa độc hại, phản văn hóa, phản động và các tệ nạn xã hội nếu thâm nhập vào các cơ quan, đơn vị sẽ gây tác hại khôn lường. Nó không chỉ làm cho đời sống văn hóa - tinh thần của cán bộ, chiến sĩ và nhân dân ta bị vẩn đục mà còn dẫn đến tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống ở một bộ phận cán bộ, chiến sĩ, người dân; là mảnh đất màu mỡ để các thế lực thù địch thực hiện âm mưu "diễn biến hòa bình", thúc đẩy "tự diễn biến", "tự chuyển hóa" nội bộ ta.


Các sản phẩm văn hóa độc hại, phản văn hóa, phản động và các tệ nạn xã hội nếu thâm nhập vào các cơ quan, đơn vị có thể làm xói mòn niềm tin vào mục tiêu, lý tưởng độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội; nghi ngờ về sự thành công của đường lối đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc; thậm chí làm hoen ố phẩm giá, nhân cách con người Việt Nam, phai mờ hình tượng "Bộ đội Cụ Hồ" trong con mắt bạn bè quốc tế, gây dư luận xấu trong lòng xã hội ta, là cơ sở "ươm mầm", "nảy nở" mọi thói hư, tật xấu, dẫn đến suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống của cán bộ, đảng viên. Và chính nó sẽ là nguy cơ dẫn đến "tự diễn biến", "tự chuyển hóa" trong nội bộ Đảng, Nhà nước và nhân dân ta.


Gần đây, không ít các vụ án xảy ra do "lây nhiễm" lối sống phương Tây, đề cao thái quá đời sống vật chất, sùng bái đồng tiền, vì tiền; coi thường nhân nghĩa, đạo lý, vi phạm pháp luật, kỷ luật rất nghiêm trọng. Phải chăng, việc phạm pháp, thoái hóa, biến chất, mất nhân cách ở một số cán bộ, chiến sĩ và người dân có nguyên nhân sâu xa từ sự "lây nhiễm" các sản phẩm văn hóa độc hại, phản văn hóa, phản động, các tệ nạn xã hội thẩm lậu vào các cơ quan, đơn vị, đời sống thường nhật của cộng đồng, người dân do không được kiếm soát, kịp thời ngăn chặn, đẩy lùi?


Thấy rõ sự nguy hại đặc biệt nghiêm trọng của các sản phẩm văn hóa độc hại, phản văn hóa, phản động và các tệ nạn xã hội đối với việc hoàn thành nhiệm vụ của cán bộ, chiến sĩ; lãnh đạo, chỉ huy, cơ quan chức năng các cấp trong hệ thống chính trị ở nước ta đã có nhiều chủ trương, giải pháp tích cực như xác định đúng và trúng mục tiêu, mô hình, nội dung, tiêu chuẩn xây dựng cơ quan, đơn vị vững mạnh toàn diện, tổ chức Đảng trong sạch, vững mạnh; duy trì liên tục phong trào thi đua quyết thắng gắn với việc thực hiện cuộc vận động "Phát huy truyền thống, cống hiến tài năng, xứng danh Bộ đội Cụ Hồ", đẩy mạnh việc học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh theo Chỉ thị số 03-CT/TW của Bộ Chính trị; đổi mới nội dung, hình thức giáo dục, xây dựng bản lĩnh chính trị, phẩm chất đạo đức, lối sống; đưa ra và thực hiện nhiều quy chế, quy định trong quản lý kiểm duyệt, sử dụng các phương tiện thông tin, truyền thông, các xuất bản phẩm, các nội dung sinh hoạt văn hóa, văn nghệ...; kiện toàn hệ thống thiết chế văn hóa, nâng cao chất lượng các hoạt động văn hóa; chủ động ngăn chặn sự thâm nhập, ảnh hưởng của các sản phẩm văn hóa độc hại, phản văn hóa, phản động như băng nhạc, đĩa hình, sách báo, phim ảnh "đen", nghiêm cấm sử dụng các xuất bản phẩm văn hóa "ngoài luồng" có nội dung thiếu lành mạnh như kích dục, kích động bạo lực, các tệ nạn xã hội: hút, hít, buôn bán, tàng trữ ma túy, cờ bạc, rượu chè tại các cơ quan, đơn vị. Nhờ đó đã góp phần ngăn chặn, đẩy lùi, khắc phục có hiệu quả những tác động, ảnh hưởng tiêu cực của văn hóa phẩm đồi trụy; không để các thế lực thù địch lợi dụng thực hiện "diễn biến hòa bình", thúc đẩy "tự diễn biến", "tự chuyển hóa" trong nội bộ ta; giữ vững, nuôi dưỡng và phát huy tốt vai trò, bản lĩnh, nhân cách cán bộ, đảng viên là "công bộc" của dân, là "đày tớ của nhân dân"; xây dựng môi trường văn hóa trong sạch, lành mạnh; làm cho đời sống văn hóa - tinh thần của cán bộ, chiến sĩ và nhân dân ngày càng tốt hơn theo hướng chân, thiện, mỹ.


Mặc dầu đã có nhiều cố gắng và đạt được những kết quả đáng ghi nhận nhưng việc triển khai phòng, chống các sản phẩm văn hóa độc hại, phản văn hóa, phản động, các tệ nạn xã hội thẩm lậu vào các cơ quan, đơn vị và xây dựng môi trường văn hóa trong sạch, lành mạnh trong từng cơ quan, đơn vị thời gian qua vẫn còn những hạn chế nhất định. Một số cấp ủy, cán bộ, chiến sĩ và người dân nhận thức chưa sâu sắc về ý nghĩa, tầm quan trọng của công tác này; năng lực nhận biết, phân loại, khắc phục tác hại của các sản phẩm văn hóa độc hại, phản văn hóa, phản động, các hủ tục, tệ nạn xã hội ở một số cơ quan, đơn vị vẫn còn có mức độ... Điều đó làm ảnh hưởng không nhỏ đến hiệu quả, sức thuyết phục trong định hướng tư tưởng, hướng dẫn hành động cho cán bộ, chiến sĩ và người dân.


Hiện nay, ở một số cơ quan, đơn vị vẫn còn có những cấp ủy, người đứng đầu cơ quan, đơn vị chưa phát huy hết vai trò trách nhiệm của mình, thiếu biện pháp tích cực, chủ động, sáng tạo trong triển khai thực hiện nhiệm vụ này; nói cách khác, chưa để tâm, quan tâm đúng mức và đầu tư thỏa đáng cho công việc này. Nội dung, hình thức một số hoạt động xây dựng đời sống văn hóa lành mạnh chậm được đổi mới, hoặc đổi mới chậm; thiếu sáng tạo, một số hoạt động chưa lôi cuốn, thu hút đông đảo cán bộ, chiến sĩ và người dân tham gia. Có nơi, có lúc, có mặt hoạt động còn nặng về phô trương hình thức, chạy theo thành tích. Một số nhà văn hóa, câu lạc bộ, bảo tàng, phòng Hồ Chí Minh, thư viện... hoạt động cầm chừng; chức năng, nhiệm vụ của cơ quan chức năng về hướng dẫn, tổ chức và quản lý nhà nước các mặt hoạt động văn hóa cơ sở chưa được phát huy đầy đủ. Một số cơ quan, đơn vị chưa kết hợp chặt chẽ với các phường, xã, thị trấn ở địa phương trong xây dựng đời sống văn hóa mới tại cơ quan, đơn vị và khu vực dân cư.


Cần nhận thức rằng, xây dựng môi trường văn hóa ở cơ quan, đơn vị thật sự trong sạch, lành mạnh là một trong những giải pháp tối ưu để phòng, chống các sản phẩm văn hóa độc hại, phản văn hóa, phản động, các tệ nạn xã hội thẩm lậu vào đời sống của từng gia đình, khu dân cư, cơ quan, đơn vị; góp phần khắc phục tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống ở một bộ phận cán bộ, đảng viên mà Nghị quyết Trung ương 4, khóa XI đã nêu ra, đồng thời, là giải pháp tốt để phòng, chống "diễn biến hòa bình", gây "tự diễn biến", "tự chuyển hóa" trong nội bộ ta của các thế lực thù địch.
Logged
saoden
Thành viên
*
Bài viết: 1075



« Trả lời #44 vào lúc: 17 Tháng Mười Một, 2022, 07:35:31 pm »

Trong bối cảnh hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng, việc phòng, chống, ngăn chặn, đẩy lùi, loại bỏ các sản phẩm văn hóa độc hại, phản văn hóa, phản động, các tệ nạn xã hội thẩm lậu vào các cơ quan, đơn vị, khu dân cư đang gặp không ít khó khăn, thách thức. Tuy nhiên, sự xâm nhập ấy đến đâu, ở mức nào là hoàn toàn do chúng ta. Vì vậy, nhận thức đúng bản chất, yêu cầu, nhiệm vụ của công tác này là hết sức quan trọng và nó phải được xác định là nhiệm vụ vừa cấp bách trước mắt, vừa là nhiệm vụ cơ bản lâu dài. Để đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ đặt ra đòi hỏi chúng ta phải thực hiện đồng bộ hệ thống giải pháp "xây" và "chống" sau đây:


Không ngừng nâng cao chất lượng các hoạt động văn hóa, văn hóa hóa toàn bộ đời sống của các cơ quan, đơn vị, khu dân cư, tạo nên sức hâp dẫn, lôi cuốn cao đối với cán bộ, chiến sĩ và người dân. Xây dựng đời sống văn hóa, văn hóa hóa toàn bộ đời sống của quân nhân và người dân là xây dựng, bồi dưỡng cho mỗi cán bộ, chiến sĩ và người dân có văn hóa, môi cơ quan, đơn vị, khu dân cư là một tập thể sống có văn hóa, toàn quân và toàn dân ta là một chế độ xã hội có văn hóa. Đó không chỉ là việc thực hiện nền nếp chính quy, xây dựng cơ quan, đơn vị, khu dân cư: xanh - sạch - đẹp... mà là sự biến đổi về chất mọi lĩnh vực của đời sống bộ đội và người dân từ nơi ăn, ở, học tập, lao động, sinh hoạt, nghỉ ngơi, vui chơi, giải trí đến quan hệ nội bộ và quan hệ gắn bó "tình làng nghĩa xóm", "tối lửa tắt đèn có nhau", cùng nhau "chia bùi sẻ ngọt"... Việc nâng cao chất lượng của các hoạt động văn hóa là một yêu cầu khách quan của nhiệm vụ xây dựng đời sống văn hóa mới. Nhờ đó mà tạo nên đời sống văn hóa mới phong phú, đa dạng, môi trường sống tinh khiết để mỗi người được hít thở không khí trong lành, có sức đề kháng, miễn dịch tốt để ngăn chặn, đẩy lùi sự tiến công của các "vi rút văn hóa" độc hại.


Trong xây dựng đời sống văn hóa mới cần đặc biệt chú trọng nâng cao chất lượng các hoạt động văn hóa, văn nghệ từ khâu tổ chức điều hành đến lựa chọn nội dung, hình thức cùng với những yếu tố bảo đảm. Điều quan trọng nhất trong công tác bảo đảm không chỉ là cung cấp phương tiện vật chất hay kinh phí mà là việc cung cấp "chất liệu văn hóa" từ nguồn sản phẩm văn hóa, chương trình văn hóa lành mạnh do các thiết chế văn hóa chuyên nghiệp của Nhà nước, của quân đội theo hướng thống nhất từ trung ương đến cơ sở. Để có nguồn này thì các thiết chế văn hóa, nghệ thuật, thông tin đại chúng chuyên nghiệp có trách nhiệm sản xuất thật nhiều sản phẩm văn hóa chất lượng tốt, xây dựng nhiều chương trình, kế hoạch hoạt động văn hóa hấp dẫn, đồng thời chuyên tải, phân phối một cách kịp thời, đúng tiêu chuẩn, chế độ cho cơ sở và có hướng dẫn thực hiện thống nhất trong xã hội ta.


Thường xuyên đưa các hoạt động văn hóa, văn nghệ quần chúng vào nền nếp, có hiệu quả, đẩy mạnh các hoạt động phong trào sáng tác, biếu diễn với chất lượng ngày càng tốt hơn; giữ gìn, phát huy và có kế hoạch nuôi dưỡng hạt nhân nòng cốt, "khuyến khích sáng tạo nhiều tác phẩm văn học, nghệ thuật tiêu biểu có giá trị cao về tư tưởng và nghệ thuật, tương xứng với sự nghiệp giữ nước và dựng nước, đổi mới và phát triển của dân tộc. Nâng cao chất lượng và mở rộng diện phổ biến các sản phẩm văn hóa đáp lóng nhu cầu hưởng thụ văn hóa ngày càng cao và đa dạng"1 (Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2007, tr.213-214) của cán bộ, chiến sĩ và nhân dân; chú trọng hiệu quả của nó trong nhiệm vụ văn hóa - giáo dục toàn diện nhân cách, phẩm giá con người Việt Nam thời đại Hồ Chí Minh, có tác dụng tích cực đối với xã hội.


Vì vậy, cần gắn hoạt động văn hóa, văn nghệ với các hoạt động tư tưởng chính trị, huấn luyện, sẵn sàng chiến đấu và chiến đấu; học tập và công tác..., không tạo ra khoảng trống để các sản phẩm văn hóa độc hại, phản văn hóa, phản động, các tệ nạn xã hội có cơ hội thâm nhập vào đời sống của cán bộ, chiến sĩ và nhân dân.


Nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện cho cán bộ, chiến sĩ và mọi người dân gắn liền với việc chủ động ngăn chặn, đẩy lùi, xóa bỏ các sản phẩm văn hóa độc hại, phản văn hóa, phản động, các tệ nạn xã hội xâm nhập từ ngoài vào và các biểu hiện tiêu cực nảy sinh trong từng cơ quan, đơn vị. Trong phòng, chống các sản phẩm văn hóa độc hại, phản văn hóa, phản động, các tệ nạn xã hội thì yêu cầu, nội dung, biện pháp phòng, chống có ý nghĩa đặc biệt quan trọng, là khâu quyết định. Bởi vì, xây dựng đời sống văn hóa mới luôn luôn có yêu cầu tự thân là phải gắn liền với việc bồi dưỡng, giáo dục, nâng cao trình độ mọi mặt của quân nhân và người dân; trong đó, nâng cao ý thức chính trị, đạo đức, luật pháp, trình độ thẩm mỹ cùng với việc bồi dưỡng, rèn luyện tri thức và kỹ năng cần thiết về quân sự chiếm vị trí hàng đầu. Cần đẩy mạnh truyền bá, giáo dục, làm cho mọi quân nhân và người dân có trình độ hiểu biết nhất định về lý luận Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, giúp họ giác ngộ sâu sắc về mục tiêu, lý tưởng chiến đấu cũng như nhận thức đầy đủ về nhiệm vụ chính trị, về các giá trị văn hóa tiêu biểu của Đảng, của dân tộc và địa phương là cơ sở nền tảng bảo đảm tính định hướng chính trị cho quá trình xây dựng đời sống văn hóa mới trong xã hội ta. Đồng thời là cơ sở cho việc phát triển năng lực thẩm mỹ của quân nhân và người dân, nhất là thế hệ trẻ.


Vì thế, quá trình xây dựng đời sống văn hóa mới phải hướng tới mục đích bồi dưỡng thế giới quan khoa học, nhân sinh quan cách mạng cho cán bộ, chiến sĩ và người dân, nâng cao trình độ nhận thức và hưởng thụ các giá trị văn hóa cho họ. Cần chú trọng bồi dưỡng cho cán bộ, chiến sĩ và người dân về cảm xúc, thị hiếu và lý tưởng thẩm mỹ lành mạnh, từ đó nâng cao khả năng xem xét, đánh giá các giá trị thẩm mỹ: cái đẹp, xấu, bi, hài, cái tích cực, cái tiêu cực... theo quan điểm mỹ học mácxít, biết phân biệt và đấu tranh ngăn ngừa, loại bỏ những thị hiếu thẩm mỹ lệch lạc, phản động, trái với thuần phong mỹ tục và truyền thông văn hóa tốt đẹp của dân tộc.


Trong xây dựng đời sống văn hóa mới, cần tập trung khắc phục triệt để những hiện tượng thiếu lành mạnh trong sinh hoạt của một số ít quân nhân và người dân như thái độ thờ ơ về chính trị, phát ngôn bừa bãi, tệ cờ bạc, rượu chè, quan hệ nam nữ bất chính, lén lút tiếp nhận, sử dụng các phim ảnh ngoài luồng, độc hại, các tài liệu tuyên truyền phản động, sử dụng internet, v.v.., sai mục đích, về vấn đề này, cán bộ, đảng viên phải đi đầu, nêu gương sáng để quần chúng noi theo, làm theo.


Quản lý chặt chẽ các hoạt động sáng tác văn học - nghệ thuật, nhất là đầu vào và đầu ra của các ấn phẩm sáng tác; ngăn chặn các ấn phẩm văn học - nghệ thuật có nội dung độc hại, chống lại quan điểm, đường lối văn hóa, văn nghệ của Đảng, xuyên tạc, bôi nhọ chế độ và lãnh tụ thẩm lậu vào các cơ quan, đơn vị, khu dân cư và từng gia đình. Tổ chức và quản lý tốt đội ngũ cán bộ làm công tác sáng tác, biên tập, xuất bản, phát hành các ấn phẩm văn học - nghệ thuật, các loại sách báo, nhất là các báo điện tử và người sử dụng nó; kết hợp tốt việc định hướng nội dung đề tài với đặt hàng trong sáng tác văn học - nghệ thuật phục vụ bộ đội và nhân dân sát với sở thích, tâm tư, nguyện vọng; yêu cầu, nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Logged
saoden
Thành viên
*
Bài viết: 1075



« Trả lời #45 vào lúc: 17 Tháng Mười Một, 2022, 07:36:39 pm »

Tăng cường công tác bảo mật, quản lý tài liệu, sách báo, văn hóa phẩm theo đúng quy định, quy chế ban hành, ngăn chặn có hiệu quả việc lưu truyền, phát tán các tài liệu, văn hóa phẩm độc hại, phản động, từ "chợ đen" vào cơ quan, đơn vị. Thường xuyên kiểm tra, giám sát, phân loại, nắm vững đối tượng "chậm tiến" ở các cơ quan, đơn vị và khu dân cư, đặc biệt chú ý tới các hoạt động sản xuất, kinh doanh, các đơn vị nhỏ lẻ, phân tán trên địa bàn phức tạp. Khi phát hiện sách, báo, băng hình, băng nhạc văn hóa phẩm mà cá nhân tự mua có nội dung thiếu lành mạnh phải thiêu hủy ngay. Quản lý chặt chẽ các đổi tượng có tiền án, tiền sự, vi phạm pháp luật... cả lúc ngoài giờ, trên đường công tác và nơi sống trong các khu dân cư và cách thức sử dụng thời gian nhàn rỗi của họ...


Nâng cao chất lượng bảo đảm đời sống vật chất, tinh thần cho nhân dân và bộ đội, tăng mức đầu tư công sức, tiền của để xây dựng cảnh quan môi trường xanh, sạch, đẹp, hâp dẫn, lôi cuốn mọi người tham gia các hoạt động văn hóa. Cải thiện và không ngừng nâng cao mức sống vật chất, tinh thần của nhân dân và bộ đội là giải pháp quan trọng hàng đầu trong nâng cao chất lượng đời sống văn hóa - tinh thần cho họ, góp phần tích cực vào việc ngăn chặn, đẩy lùi sự thẩm lậu của các sản phẩm văn hóa độc hại, phản văn hóa, phản động, các tệ nạn xã hội. Bởi lẽ, đời sống văn hóa nghèo, chưa bảo đảm ở mức tối cần thiết, tự nó sẽ làm nảy sinh nhiều tiêu cực trong suy nghĩ và hành động của bộ đội và người dân, là mảnh đất tốt để các thế lực thù địch đẩy mạnh thực hiện âm mưu, thủ đoạn "diễn biến hòa bình", thúc đẩy "tự diễn biến", "tự chuyển hóa". Muốn thực hiện tốt công tác này cần gắn với việc khắc phục tình trạng lãng phí, thất thoát kinh phí, hư hỏng phương tiện vật chất, các biểu hiện làm nghèo đời sống văn hóa, tinh thần của bộ đội và người dân. Rà soát, bổ sung, đổi mới công tác xây dựng nếp sống văn hóa, thực hiện tốt hơn yêu cầu xây dựng cơ quan, đơn vị, khu dân cư, gia đình văn hóa mới, gắn với xây dựng cảnh quan môi trường xanh, sạch, đẹp, an toàn, làm cho cơ quan, đơn vị, khu dân cư vừa khang trang, đẹp đẽ, hài hòa với khung cảnh thiên nhiên, vừa thuận lợi cho sinh hoạt, học tập, công tác. Xây dựng cho được mối quan hệ mật thiết giữa cơ quan, đơn vị với địa phương trong phòng, chống các sản phẩm văn hóa độc hại, phản văn hóa, phản động, các tệ nạn xã hội thẩm lậu vào các cơ quan, đơn vị, cùng với địa phương, khu dân cư nâng cao đời sống văn hóa của nhân dân. Cần lồng ghép, kết hợp chặt chẽ cuộc vận động xây dựng môi trường văn hóa với cuộc vận động lớn "Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa" ở địa phương. Xây dựng kế hoạch và tăng cường giao lưu văn hóa với nhân dân, đơn vị, trường học, các đoàn thể xã hội, các cơ quan văn hóa - nghệ thuật của địa phương, tạo ra bầu không khí ấm áp, tin yêu, hiểu biết, giúp đỡ lẫn nhau cùng hoàn thành nhiệm vụ. Đối với các đơn vị vùng sâu, vùng xa, vùng căn cứ địa cách mạng... cần chú trọng hơn nữa việc xây dựng đơn vị thành điểm sáng văn hóa ở khu vực, giúp đỡ địa phương xóa mù chữ, tuyên truyền nếp sống văn hóa mới, giáo dục y tế cộng đồng, xây dựng gia đình văn hóa, khu dân cư văn hóa, đẩy mạnh các hoạt động xóa đói, giảm nghèo, nhất là tham gia hướng dẫn đồng bào đẩy mạnh tăng gia lao động sản xuất, khắc phục các tệ nạn, hủ tục, xây dựng đời sống văn hóa tốt đẹp.


Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, công tác đảng, công tác chính trị, vai trò của người đứng đầu các cơ quan, đơn vị, đặc biệt là cơ quan chức năng về quản lý nhà nước các hoạt động văn hóa, văn nghệ nói chung; phòng, chống các sản phẩm văn hóa độc hại, phản văn hóa, phản động, các tệ nạn xã hội thẩm lậu vào các cơ quan, đơn vị, khu dân cư nói riêng.


Các sản phẩm văn hóa độc hại, phản động, các tệ nạn xã hội tự bản thân nó là những "vi rút độc hại", phi nhân tính; luôn sinh sôi, nảy nở trong môi trường xã hội thiếu lành mạnh và những cá nhân thiếu rèn luyện, tu dưỡng, coi thường pháp luật, kỷ cương phép nước. Thực tế chỉ ra rằng, ở đâu, nơi nào, cấp ủy Đảng, người đứng đầu cơ quan, đơn vị, khu dân cư buông lỏng công tác lãnh đạo, chỉ đạo, quản lý công tác tư tưởng - văn hóa, chưa quan tâm đến đời sống văn hóa - tinh thần của bộ đội và nhân dân thì ở những nơi đó các sản phẩm văn hóa độc hại, phản động, các tệ nạn xã hội có cơ hội xâm nhập. Vì vậy, tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, công tác đảng, công tác chính trị, vai trò của người đứng đầu cơ quan, đơn vị, khu dân cư và cơ quan chức năng về quản lý nhà nước các hoạt động văn hóa, văn nghệ nói chung; phòng, chống các sản phẩm văn hóa độc hại, phản văn hóa, phản động, các tệ nạn xã hội thẩm lậu vào các cơ quan, đơn vị nói riêng là một giải pháp đặc biệt quan trọng, nếu không nói là đóng vai trò quyết định đến chất lượng đời sống văn hóa - tinh thần của cán bộ, chiến sĩ và nhân dân trong bôi cảnh mà cuộc "xâm lăng văn hóa phương Tây" ngày càng diễn ra phức tạp như hiện nay. Trong một chuỗi các công việc cẩn phải làm để nâng cao hiệu quả công tác xây dựng môi trường văn hóa lành mạnh là việc đánh giá đúng thực trạng của nó và đề xuất được các giải pháp lãnh đạo tối ưu trong các nghị quyết của từng tổ chức Đảng. Đồng thời, đẩy mạnh công tác nghiên cứu, xây dựng hệ thống quy phạm pháp luật chuẩn mực về hoạt động văn hóa, văn nghệ; các hướng dẫn của cơ quan chức năng về triển khai thực hiện công tác này thống nhất trong toàn quân, toàn quốc; sớm khắc phục tình trạng lộn xộn trong một số hoạt động văn hóa, văn nghệ gần đây; kể cả hoạt động sáng tác, biểu diễn, biên tập, xuất bản, phát hành các sản phẩm văn hóa, văn nghệ. Nói cách khác là phải tăng cường hơn nữa hiệu lực quản lý nhà nước về mặt này; mọi hoạt động văn hóa, văn nghệ phải làm đúng luật pháp.


Tóm lại, kết hợp chặt chẽ giữa "xây" và "chống" nhằm xây dựng môi trường văn hóa lành mạnh có ý nghĩa rất thiết thực trong xây dựng đời sống văn hóa mới ở nước ta; là giải pháp hữu hiệu để loại bỏ các sản phẩm văn hóa độc hại, phản văn hóa, phản động, các tệ nạn xã hội; góp phần đánh bại chiến lược "diễn biến hòa bình", bạo loạn lật đổ, "tự diễn biến", "phi chính trị hóa" quân đội của các thế lực thù địch.


Để thực hiện tốt giải pháp nêu trên, các cơ quan, đơn vị, khu dân cư cần tích cực, chủ động đổi mới sáng tạo nội dung, phương thức, hình thức hoạt động văn hóa, văn nghệ cho phù hợp với tình hình mới. Hy vọng và tin tưởng rằng, cuộc đấu tranh chống lại các phản giá trị văn hóa và xây dựng môi trường văn hóa trong sạch, lành mạnh sẽ gặt hái được những "mùa vàng bội thu"; góp phần tích cực vào cuộc đấu tranh phòng, chống "diễn biến hòa bình" và các biểu hiện mới của nó là "tự chuyển biến", "tự chuyển hóa", gây chia rẽ nội bộ ta của các thế lực thù địch.
Logged
saoden
Thành viên
*
Bài viết: 1075



« Trả lời #46 vào lúc: 17 Tháng Mười Một, 2022, 07:39:15 pm »

Phần thứ ba
ĐẨY MẠNH ĐẤU TRANH PHÒNG, CHỐNG "DIỄN BIẾN HÒA BÌNH" TRONG TÌNH HÌNH MỚI -
TRÁCH NHIỆM CỦA CHÚNG TA


I- TỔ QUỐC LÀ THIÊNG LIÊNG, BẤT KHẢ XÂM PHẠM

Hiến pháp là đạo luật cơ bản, đạo luật gốc của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Các điều khoản, quy định trong Hiến pháp là cơ sở pháp lý quan trọng để xây dựng, hoàn thiện hệ thống pháp luật và thể chế chính trị - xã hội, để xây dựng ý thức cho mọi người dân "sống và làm việc theo Hiến pháp và pháp luật"; là cơ sở để xây dựng Quân đội nhân dân Việt Nam cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại. Hiến pháp năm 2013 có nhiều điểm mới hiến định về quân đội, mới cả về cách tiếp cận, nội dung, yêu cầu, nhiệm vụ; mới cả về hình thức trình bày, phương pháp diễn đạt.


Nhìn chung, các điểm mới hiến định về quân đội đều toát lên tính ưu việt của chế độ xã hội chủ nghĩa ở nước ta và phản ánh sâu sắc quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong thực hiện quyền và nghĩa vụ quân sự, bảo vệ Tổ quốc, khẳng định rõ hơn vai trò ngày càng tăng lên của quân đội ta trong bảo vệ Tổ quốc thời kỳ mới: toàn cầu hóa, hội nhập quốc tếvà phát triển kinh tế tri thức. Sự hiến định của Hiến pháp năm 2013 đối với Quân đội nhân dân Việt Nam là đòn chí tử đánh sập quan điểm, thủ đoạn "phi chính trị hóa" quân đội của các thế lực thù địch với mưu đồ phủ nhận vai trò Đảng lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt đối với Quân đội nhân dân Việt Nam.


Một trong những nội dung trọng điểm, rất mới được hiến định; mang tính thời sự nóng bỏng, có tính hấp dẫn lớn, thu hút sự quan tâm theo dõi, bàn luận của nhiều người cả ở trong nước và bạn bè quốc tế, thậm chí cả các thế lực thù địch cũng quan tâm vì nó liên quan trực tiếp đến sinh mệnh, sự sống còn của quốc gia dân tộc Việt Nam trong bối cảnh phức tạp hiện nay; đó là nội dung Chương IV về bảo vệ Tổ quốc và một số điều khoản khác trong bản Hiến pháp năm 2013 có quan hệ mật thiết với Chương IV về bảo vệ Tổ quốc, về xây dựng Quân đội nhân dân Việt Nam cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại, về mục tiêu, nhiệm vụ, sức mạnh, lực lượng, phương thức tác chiến và tổ chức, biên chế của quân đội ta hiện nay như vai trò nòng cốt của Quân đội nhân dân Việt Nam trong xây dựng nền quốc phòng toàn dân; cùng toàn dân xây dựng đất nước; xây dựng và phát triển nền công nghiệp quốc phòng; tham gia một số hoạt động quốc tế như cứu hộ, cứu nạn mang tính nhân đạo, tham gia các hoạt động gìn giữ hòa bình trong khu vực và thế giới, v.v...


Có thể khẳng định rằng, các nội dung mới về quân đội, chứa đựng hàm lượng khoa học sâu sắc, tính chân thực, chính xác, rõ ràng, góp phần làm cho bản Hiến pháp năm 2013 toát lên sức sống mới, tinh thần mới, rất sinh động, sáng tạo; phản ánh đúng đắn tình hình thực tiễn công cuộc đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc gần 30 năm qua và những năm tới; đó là tinh thần phấn đấu, vươn lên "phát huy truyền thống, cống hiến tài năng, xứng danh "Bộ đội Cụ Hồ" của cán bộ, chiến sĩ; là ý chí quyết tâm vượt qua mọi khó khăn, gian khổ, hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ được giao; bảo vệ vững chắc thành quả cách mạng; không để mất đất, mất biển, đảo, mất dân.


Để giữ vững môi trường hòa bình, sự ổn định chính trị, trật tự an toàn xã hội; bảo vệ vững chắc Tổ quốc, nhân dân, bảo vệ Đảng, Nhà nước, chế độ xã hội chủ nghĩa và hoàn thành xuất sắc mọi nhiệm vụ được giao, trong Chương IV, tại các điều 64, 65 và 66 của bản Hiến pháp năm 2013 đã nhấn mạnh việc củng cố và tăng cường nền quốc phòng toàn dân và an ninh nhân dân; trong đó ba lần nhấn mạnh vai trò nòng cốt của lực lượng vũ trang nhân dân nói chung, của quân đội ta nói riêng. Điều 64 viết: "Tăng cường nền quốc phòng toàn dân và an ninh nhân dân mà nòng cốt là lực lượng vũ trang nhân dân"; Điều 66 viết: "Nhà nước xây dựng Quân đội nhân dân cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại, có lực lượng thường trực hợp lý, lực lượng dự bị động viên hùng hậu, lực lượng dân quân tự vệ vững mạnh và rộng khắp, làm nòng cốt trong thực hiện nhiệm vụ quốc phòng".


Ngoài 5 điều nêu trong Chương IV về bảo vệ Tổ quốc, có nhiều nội dung mới được hiến định liên quan trực tiếp đến xây dựng quân đội, trong Hiến pháp năm 2013 còn có một số điều, khoản có nội dung mới liên quan đến tổ chức quân đội; quyền và nghĩa vụ công dân khi tham gia quân đội được trình bày ở các chương khác. Chẳng hạn: Điều 15, khoản 1 viết: "Quyền công dân không tách rời nghĩa vụ công dân". Điều 45 khẳng định: "1- Bảo vệ Tổ quốc là nghĩa vụ thiêng liêng và quyền cao quý của công dân. 2- Công dân phải thực hiện nghĩa vụ quân sự và tham gia xây dựng nền quốc phòng toàn dân". Đây không chỉ là quyền lợi và nghĩa vụ chân chính của công dân mà còn là niềm vinh dự, tự hào của tuổi trẻ khi được khoác lên mình bộ quân phục màu xanh áo lính, mang danh hiệu "Bộ đội Cụ Hồ", thực hiện nhiệm vụ thiêng liêng bảo vệ Tổ quốc, bảo vệ quê hương. Đó là giá trị và ý nghĩa của cuộc sống, mang đậm tính nhân văn sâu sắc.


Hiến pháp năm 2013 còn có điểm mới được hiên định liên quan trực tiếp đến quân đội là, tại khoản 5, Điều 88 khẳng định: Chủ tịch nước có những nhiệm vụ và quyền hạn: "Thống lĩnh lực lượng vũ trang nhân dân, giữ chức Chủ tịch Hội đồng quốc phòng và an ninh, quyết định phong, thăng, giáng, tước quân hàm cấp tướng, chuẩn đô đốc, phó đô đốc, đô đốc hải quân; bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức Tổng Tham mưu trường, Chủ nhiệm Tổng cục Chính trị Quân đội nhân dân Việt Nam".


Về bản chất, chức năng, nhiệm vụ của Quân đội nhân dân Việt Nam và yêu cầu, nội dung nhiệm vụ xây dựng quân đội, góp phần củng cố quốc phòng - an ninh được hiến định trong Hiến pháp năm 2013. Quân đội ta do Đảng Cộng sản Việt Nam và Bác Hồ kính yêu sáng lập, tổ chức, giáo dục và rèn luyện; được nhân dân đùm bọc, nuôi dưỡng, giúp đỡ và gọi bằng cái tên thân thương, trìu mến "Bộ đội Cụ Hồ", "Bộ đội của dân". Kể từ khi ra đời cho đến nay, hơn 70 năm xây dựng và phát triển, chiến đấu và trưởng thành, quân đội ta luôn tận trung với nước, tận hiếu với dân; tuyệt đối trung thành với sự nghiệp cách mạng vẻ vang của Đảng, nhiệm vụ nào cũng hoàn thành, khó khăn nào cũng vượt qua, kẻ thù nào cũng đánh thắng. Lời dạy của Bác đã phản ánh sâu sắc bản chất truyền thống tốt đẹp của quân đội ta.


Tuy không có điều, khoản nào trong Chương IV của Hiến pháp bàn riêng về bản chất, chức năng, nhiệm vụ của Quân đội nhân dân Việt Nam, song ở từng nội dung, từng luận điểm của cả 5 điều: 64, 65, 66, 67, 68 trong Chương IV đều hàm chứa và toát lên nội dung bản chất, chức năng, nhiệm vụ của quân đội ta. Về bản chất, Chương IV của Hiến pháp đã thể hiện rõ: Quân đội ta mang bản chất của giai cấp công nhân, tính nhân dân và tính dân tộc sâu sắc; tuyệt đối trung thành với sự nghiệp cách mạng vẻ vang của Đảng, về chức năng, nhiệm vụ, Hiến pháp năm 2013 đã khẳng định rõ: Quân đội ta là một đội quân chiến đấu, một đội quân công tác và là một đội quân sản xuất.


Điều 64 khẳng định, cùng với Công an nhân dân, Quân đội nhân dân Việt Nam là lực lượng nòng cốt để củng cố và tăng cường nền quốc phòng toàn dân và an ninh nhân dân; phát huy sức mạnh tổng hợp của đất nước để bảo vệ vững chắc Tổ quốc, góp phần bảo vệ hòa bình ở khu vực và trên thế giới.


Điều 65 khẳng định rõ nhiệm vụ của Quân đội nhân dân Việt Nam là "tuyệt đối trung thành với Tổ quốc, Nhân dân, với Đảng và Nhà nước, có nhiệm vụ bảo vệ độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc,... bảo vệ Nhân dân, Đảng, Nhà nước và chế độ xã hội chủ nghĩa, cùng toàn dân xây dựng đất nước và thực hiện nghĩa vụ quốc tế.


Điều 66 Hiến pháp năm 2013 khẳng định lại và nhấn mạnh vai trò "làm nòng cốt trong thực hiện nhiệm vụ quốc phòng", xây dựng nền quốc phòng toàn dân, phát triển nền công nghiệp quốc phòng trong thời kỳ mới của quân đội ta. Để tạo điều kiện cho Quân đội nhân dân Việt Nam hoàn thành tốt chức năng, nhiệm vụ của mình, Điều 68 của Hiến pháp năm 2013 hiến định vai trò của Nhà nước trong giáo dục, bồi dưỡng kiến thức quốc phòng toàn dân; xây dựng công nghiệp quốc phòng; bảo đảm trang bị cho lực lượng vũ trang có đủ sức mạnh bảo vệ Tổ quốc; tạo điều kiện thuận lợi để quân đội làm tốt nhiệm vụ kết hợp quốc phòng, an ninh, đối ngoại với kinh tế và ngược lại, kết hợp kinh tế với quốc phòng, an ninh, đối ngoại; thực hiện chính sách hậu phương quân đội; bảo đảm đời sống vật chất, tinh thần của cán bộ, chiến sĩ, công nhân, viên chức phù hợp với tính chất hoạt động, lao động đặc biệt của quân đội; xây dựng Quân đội nhân dân, Công an nhân dân hùng mạnh, không ngừng tăng cường khả năng bảo vệ Tổ quốc.


Tóm lại, Hiến pháp năm 2013 không chỉ khẳng định bản chất, chức năng, nhiệm vụ của Quân đội nhân dân Việt Nam mà còn chỉ rõ từng bước xây dựng Quân đội nhân dân Việt Nam cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại, phù hợp với điều kiện, hoàn cảnh của đẩt nước, của tổ chức, biên chế, lịch sử truyền thống của quân đội ta, nhân dân ta.
Logged
saoden
Thành viên
*
Bài viết: 1075



« Trả lời #47 vào lúc: 17 Tháng Mười Một, 2022, 07:40:32 pm »

Vai trò của Hiến pháp năm 2013 trong đấu tranh vạch trần những luận điệu xuyên tạc, phản động, đòi "phi chính trị hóa" quân đội, thực hiện "diễn biến hòa bình" của các thế lực thù địch. Như đã trình bày, Hiến pháp năm 2013 đã khẳng định rõ bản chất, chức năng, nhiệm vụ của quân đội ta: là đội quân chiến đấu, đội quân công tác và là đội quân sản xuất; xây dựng Quân đội nhân dân Việt Nam cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại, bảo vệ Tổ quốc là sự nghiệp của toàn dân. Mọi hoạt động của lực lượng vũ trang, bảo vệ Tổ quốc nói chung, hoạt động của quân đội ta nói riêng phải đặt dưới sự lãnh đạo trực tiếp, tuyệt đối về mọi mặt của Đảng Cộng sản Việt Nam. Sự hiến định như thế là hoàn toàn đúng đắn, mang ý nghĩa nhân văn, nhân đạo sâu sắc, rất hợp lòng dân; phản ánh rõ ý Đảng - lòng dân; quân với dân một ý chí.


Đó là bản chất truyền thống tốt đẹp của quân đội ta, là nét đẹp văn hóa của "Bộ đội Cụ Hồ", là sự kết tinh chủ nghĩa yêu nước của dân tộc ta trong thời đại Hồ Chí Minh; bão táp không thể chuyển lay, cám dỗ không thể mua chuộc, khó khăn, thử thách không bao giờ làm nhụt ý chí hoặc bị lung lạc tinh thần, mọi sự chống phá của kẻ thù không thể chuyến dời. Chính điều đó đã vạch mặt những luận điệu xuyên tạc, phản động, đòi "phi chính trị hóa" quân đội của các thế lực thù địch; đồng thời, góp phần đập tan mọi âm mưu, thủ đoạn "diễn biến hòa bình" chống phá cách mạng Việt Nam, cho dù các thế lực thù địch có thay hình đổi dạng, sử dụng mọi thủ đoạn tinh vi, xảo quyệt, nham hiểm đến mức nào, dù chúng có tham vọng đến mức nào cũng không thể phủ nhận, tách sự lãnh đạo của Đảng ra khỏi quân đội, biến quân đội ta thành lực lượng trung lập, đứng ngoài chính trị.


Bài học kinh nghiệm rút ra từ sự đổ vỡ của chế độ xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô và các nước Đông Âu, từ sự mất sức chiến đấu của quân đội các nước ấy dù họ có "quân hùng tướng mạnh, vũ khí tối tân hiện đại", song đã mắc mưu kẻ địch dẫn đến vô dụng, chế độ sụp đổ, Đảng mất vai trò lãnh đạo, đất nước hỗn loạn. Hiện nay, sự mất ổn định chính trị ở Ucraina, Thái Lan và nhiều nước trên thế giới do bạo loạn, biểu tình dài ngày và mâu thuẫn không thể giải quyết giữa các phe phái, các đảng đã nói rõ vai trò của quân đội quan trọng như thế nào khi nó là lực lượng trung lập, đứng ngoài cuộc, bị phi chính trị.


Cho nên nghiên cứu, suy ngẫm và nắm vững từng nội dung của 5 điều trong Chương IV "Bảo vệ Tổ quốc" mà Hiến pháp năm 2013 đã hiến định, chúng ta mới thấm thìa chiều sâu, ý nghĩa sâu sắc giá trị được sống trong hòa bình, Tổ quốc an lành, bình yên. Cho nên trong bất luận điều kiện, hoàn cảnh nào cũng vậy cần quán triệt và nhận thức sâu sắc: bảo vệ Tổ quốc là thiêng liêng, là bảo vệ chính hạnh phúc của mỗi gia đình, của dòng họ, quê hương và bảo vệ cuộc sống an bình của chúng ta. Đó là sức đề kháng tốt nhất, giúp chúng ta vững mạnh, không cho bất cứ loại "vi rút": "phi chính trị hóa" quân đội, "diễn biến hòa bình", gây "tự diễn biến, tự chuyển hóa" xâm nhập vào nội bộ ta.


Nhiệm vụ của Quân đội nhân dân Việt Nam trong thực thi và bảo vệ Hiến pháp năm 2013. Điều 119 của Hiến pháp năm 2013 hiến định: Hiến pháp là đạo luật cơ bản của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, là văn bản pháp lý có hiệu lực pháp lý cao nhất. Mọi hành vi vi phạm Hiến pháp đều bị xử lý. Điều đó có nghĩa là thực thi và bảo vệ Hiến pháp là quyền lợi, trách nhiệm và là nhiệm vụ của mỗi công dân Việt Nam. Trên tinh thần "thượng tôn Hiến pháp", "thượng tôn pháp luật", Quân đội nhân dân Việt Nam với tính cách là công cụ bạo lực sắc bén của Nhà nước, là chỗ dựa tin cậy của chế độ, là lực lượng nòng cốt của nền quốc phòng toàn dân thì đương nhiên, quân đội phải là lực lượng tiên phong, gương mẫu, đi đầu thực thi và bảo vệ Hiến pháp nói chung, pháp luật nhà nước có liên quan đến công tác quân sự, quốc phòng, an ninh, kỷ luật quân đội nói riêng.


Việc thực thi và bảo vệ Hiến pháp của quân đội thể hiện ở chỗ: Trước hết là hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa; thực hiện tốt ba chức năng của mình: là một đội quân chiến đấu, một đội quân công tác, và là một đội quân sản xuất; chủ động, tích cực tham gia giúp dân xóa đói giảm nghèo, cứu hộ, cứu nạn trong bão lũ, giúp ngư dân gặp hoạn nạn trên biển, giữ vững môi trường hòa bình, ổn định chính trị, tạo điều kiện thuận lợi để nhân dân an tâm sản xuất, kinh doanh, doanh nhân nước ngoài đầu tư vào phát triển kinh tế - xã hội; không để mất đất, mất đảo, biển, mất dân, mất chế độ. Đó là nhiệm vụ hết sức vẻ vang, song hết sức nặng nề.


Để hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ của mình, mỗi cán bộ, chiến sĩ phải gương mẫu thực hiện pháp luật của Nhà nước, kỷ luật của quân đội, quy định của địa phương, đơn vị, thực hiện tốt 10 lời thề danh dự của quân nhân; 12 điều kỷ luật. Nói cách khác, nếu buông lỏng kỷ luật, xa rời hoặc vi phạm nguyên tắc, quân đội không thể hoàn thành nhiệm vụ mà Đảng, Nhà nước và nhân dân giao phó.


Tóm lại, để hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ của mình, quân đội nói chung, mỗi cán bộ, chiến sĩ Quân đội nhân dân Việt Nam nói riêng phải luôn nêu cao tinh thần trách nhiệm trong thực thi và bảo vệ Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam; đồng thời, xung kích, đi đầu trong tuyên truyền, phổ biến Hiến pháp, pháp luật trong nhân dân, cùng nhân dân, người thân, gia đình nghiêm túc thực thi Hiến pháp, pháp luật; trước hết là Luật nghĩa vụ quân sự, Luật giáo dục quốc phòng - an ninh vừa được Quốc hội khóa XIII thông qua.


Các hoạt động cứu hộ, cứu nạn nhân đạo, góp phần gìn giữ hòa bình ờ khu vực và trên thế giới của Quân đội nhân dân Việt Nam hiện nay. Lần này, trong bản Hiến pháp năm 2013, Quốc hội bổ sung cụm từ mới và khẳng định rõ vai trò của lực lượng vũ trang nhân dân là: "cùng toàn dân xây dựng đất nước và thực hiện nghĩa vụ quốc tế"1 (Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2014, tr.31) (Điều 65). Đây là cơ sở để Quân đội nhân dân và Công an nhân dân triển khai các công việc tham gia một số hoạt động gìn giữ hòa bình, cứu hộ, cứu nạn nhân đạo, "góp phần bảo vệ hòa bình ở khu vực và trên thế giới"2 (Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2014, tr.31) (Điều 64).


Cần khẳng định rõ hơn quan điểm, lập trường của Đảng, Nhà nước ta về vấn đề này: Quân đội nhân dân Việt Nam kiên quyết chống chiến tranh, cực lực phản đối xâm lược và không cho phép bất cứ thế lực thù địch nào can thiệp vào công việc nội bộ của mình hoặc có hành vi xâm phạm độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ quốc gia dân tộc Việt Nam, đe dọa nền hòa bình thế giới. Tuy nhiên, trong điều kiện cho phép, quân đội ta có thể tham gia một số hoạt động gìn giữ hòa bình, cứu hộ, cứu nạn mang tính nhân đạo với mục đích góp phần bảo vệ hòa bình ở khu vực và trên thế giới, củng cố, phát triển tình đoàn kết, hợp tác, hữu nghị vì lợi ích chung; không tham gia, không can thiệp vào các công việc nội bộ của các nước khác.


Để làm tốt việc này phải có bước đi, lộ trình thích hợp, bắt đầu từ việc nghiên cứu, có hiểu biết luật pháp quốc tế, các vấn đề có liên quan, học tập ngoại ngữ, chuẩn bị cơ sở vật chất, các điều kiện bảo đảm và sau đó phải huấn luyện thật kỹ chuyên môn nghiệp vụ. Về điều này, "Sách trắng quốc phòng Việt Nam" đã khẳng định rất rõ. Đối với nhân dân ta, việc trải qua hai cuộc chiến tranh thần thánh chống quân xâm lược, hy sinh hàng triệu người để có giang sơn gấm vóc ngày nay, chúng ta thiết tha yêu chuộng hòa bình, độc lập, tự do. Vì vậy, sẽ làm hết sức mình để bảo vệ độc lập, chủ quyền của đất nước và góp phần bảo vệ nền hòa bình thế giới, bảo vệ giá trị Việt Nam.
Logged
saoden
Thành viên
*
Bài viết: 1075



« Trả lời #48 vào lúc: 17 Tháng Mười Một, 2022, 07:41:56 pm »

II- VÌ HẠNH PHÚC CỦA NHÂN DÂN VÀ CỘNG ĐỒNG CÁC DÂN TỘC VIỆT NAM

1. Từ trước đến nay, Đảng và Nhà nước ta luôn xác định vấn đề dân tộc, đoàn kết các dân tộc có vị trí chiến lược đặc biệt quan trọng trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa; giải quyết vấn đề dân tộc vừa là mục tiêu, vừa là động lực của cách mạng nước ta. Vì vậy, công tác dân tộc luôn được xác định là một bộ phận quan trọng của đường lối cách mạng Việt Nam; các chủ trương, chính sách dân tộc luôn gắn chặt với các chủ trương, chính sách phát triển kinh tế - xã hội của Đảng, Nhà nước và sự quan tâm của cả hệ thống chính trị nhằm chăm lo hạnh phúc của nhân dân.


Hiện nay ở nước ta, đồng bào các dân tộc thiểu số chiếm hơn 14% tổng dân số cả nước, cư trú trên 52 tỉnh, thành phố, chủ yếu là sinh sống ở các vùng, miền đặc biệt khó khăn như miền núi, vùng sâu, vùng xa, biên giới và hải đảo. Đây là địa bàn có vị trí chiến lược quan trọng về kinh tế quốc phòng, an ninh...


Trong những năm qua, nhờ quán triệt và thực hiện tốt chủ trương, chính sách dân tộc và miền núi của Đảng, Nhà nước; sự phấn đấu vươn lên không ngừng của các cấp, các ngành ở trung ương, địa phương và sự nô lực vượt bậc của đồng bào các dân tộc, đời sống vật chất, tinh thần của đồng bào các dân tộc thiểu số có nhiều chuyển biến, tiến bộ; kinh tế - xã hội phát triển, kết cấu hạ tầng và những vấn đề xã hội bức xúc ở miền núi, vùng sâu, vùng xa từng bước được giải quyết. Đó là điều kiện vật chất cần thiết để thu hẹp dần khoảng cách giữa các vùng, miền và các dân tộc. Nhiều mô hình sản xuất, kinh doanh hộ gia đình, trang trại, hợp tác xã sản xuất giỏi, có hiệu quả đã hình thành và phát triển. Sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng sản xuất hàng hóa gắn chặt với công nghiệp hóa, hiện đại hóa đã được khẳng định và ngày càng mở rộng. Bộ mặt nông thôn mới ở hầu hết các địa bàn miền núi, vùng sâu, vùng xa hình thành rõ nét, trở thành các điểm sáng văn hóa - xã hội đang xuất hiện ngày càng nhiều, đem lại luồng sinh khí và sức sống mới trên khắp các vùng miền của Tổ quốc.


Phát triển kinh tế - xã hội ở các tỉnh miền núi, vùng sâu, vùng xa không chỉ có ý nghĩa đối với việc nâng cao đời sống vật chất, văn hóa, tinh thần cho đồng bào các dân tộc mà còn góp phần giữ vững ổn định chính trị, an ninh, quốc phòng ở địa bàn chiến lược; củng cố lòng tin của đồng bào đối với chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách của Nhà nước; đồng thời, nâng cao ý thức phòng gian, cảnh giác cách mạng trước các âm mưu, thủ đoạn "diễn biến hòa bình" và phá hoại của địch.


Tuy nhiên, so với mặt bằng của đời sống xã hội, nhất là các thành phố và các tỉnh đồng bằng thì các tỉnh miền núi, nơi có đồng bào dân tộc thiểu số sinh sống còn gặp nhiều khó khăn như: tỷ lệ hộ nghèo còn cao; nạn mù chữ (chủ yếu là những người từ 50 tuổi trở lên) chưa thể khắc phục; trình độ dân trí, mức hưởng thụ văn hóa, giáo dục còn thấp; việc chăm sóc sức khỏe cho đồng bào còn hạn chế; tình hình an ninh chính trị, trật tự, an toàn xã hội còn tiềm ẩn những nhân tố gây mất ổn định... Vì vậy, các thế lực thù địch đang triệt để lợi dụng các "kẽ hở", thiếu sót của ta về vấn đề dân tộc để đẩy mạnh "diễn biến hòa bình", nhất là sử dụng các chiêu bài "dân chủ", "nhân quyền", "tôn giáo" và "dân tộc" để chống phá cách mạng Việt Nam.


Gần đây, nhất là sau khi Hiến pháp năm 2013 có hiệu lực và việc chuẩn bị đại hội đảng bộ các cấp, tiến tới Đại hội đại biếu toàn quốc lần thứ XII của Đảng, các thế lực thù địch càng ráo riết đẩy mạnh thực hiện "diễn biến hòa bình", bạo loạn lật đổ đối với Việt Nam. Một trong những thủ đoạn thâm độc của chúng là lợi dụng những sơ hở, thiếu sót của ta về vấn đề dân tộc để tuyên truyền kích động, gây hoang mang, chia rẽ, phá hoại khối đại đoàn kết toàn dân tộc, làm giảm lòng tin của đồng bào các dân tộc với Đảng, Nhà nước và quân đội ta. Chúng tập hợp những phần tử bất mãn với chế độ, hình thành lực lượng đối lập, đối trọng với chính quyền nhằm tạo ra một cơ sở xã hội không ổn định, suy yếu từ bên trong; từ đó gây ra mâu thuẫn nội bộ, dẫn tới ta "tự diễn biến" rất nguy hiểm.


Lợi dụng những khó khăn của đồng bào các dân tộc thiểu số, chúng vu khống, nói xấu chế độ, xuyên tạc chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách của Nhà nước; sử dụng miếng mồi "đầu tư vật chất", "hỗ trợ trọn gói" nhằm thu hút lực lượng để thành lập "khu tự trị" của người dân tộc thiểu số; đồng thời, kích động, hỗ trợ, chỉ đạo những phần tử phản động trong người dân tộc thiểu số hoạt động chống đối chính quyền, tạo ra các "điểm nóng dân tộc", lấy cớ can thiệp để lái Việt Nam đi chệch hướng xã hội chủ nghĩa.


Để thực hiện tốt chủ trương, đường lối, chính sách dân tộc của Đảng, chúng ta cần: Tăng cường sự lãnh đạo của cấp ủy đảng, người chỉ huy các cấp, nhất là đội ngũ cán bộ trực tiếp làm công tác dân tộc đối với việc cụ thể hóa các chủ trương, chính sách dân tộc của Đảng, Nhà nước thành các chương trình hành động, các biện pháp cụ thể, quyết tâm đưa đường lối, chủ trương của Đảng và Hiến pháp năm 2013 vào đời sống. Đầu tư thỏa đáng để thực hiện có hiệu quả chiến lược phát triển kinh tế - xã hội và các chỉ tiêu đã xác định để không ngừng cải thiện đời sống vật chất, tinh thần đối với đồng bào dân tộc thiểu số. Xây dựng môi trường văn hóa lành mạnh, giữ gìn và làm giàu tiếng nói của mỗi dân tộc, phát huy bản sắc văn hóa, truyền thống yêu nước; tạo mọi điều kiện để các dân tộc đóng góp vào xây dựng nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc. Đổi mới công tác quy hoạch, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội các vùng miền; xây dựng phong trào bảo vệ an ninh Tổ quốc ở vùng dân tộc thiểu số; có các phương án khả thi để kịp thời phát hiện, đấu tranh, cải tạo các đối tượng ngoan cổ, lợi dụng vấn đề dân tộc để thực hiện "diễn biến hòa bình", bạo loạn lật đổ, chống phá cách mạng Việt Nam.


2. Trong lịch sử hàng ngàn năm đấu tranh dựng nước và giữ nước, dân tộc ta luôn phải đương đầu chống chọi với thiên tai, lụt bão cũng như phải gồng lên chiến đấu chống quân xâm lược và bè lũ tay sai để cứu nước, cứu nhà, ông cha ta đã rút ra quy luật sinh tồn: Đoàn kết là sức mạnh. Đoàn kết thì đất nước ổn định, phát triển; mất đoàn kết thì đất nước lâm nguy, nhân dân cực khổ. Khẳng định giá trị to lớn của sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc, Bác Hồ kính yêu đã dạy rằng: Đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết; Thành công, thành công, đại thành công. Đây là ngọn nguồn bí mật, là bí quyết thành công của dân tộc Việt Nam. Các thế hệ ngày nay cần thâu triệt, gìn giữ và phát huy truyền thống dân tộc trong thời kỳ mới.


Nhờ phát huy sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân tộc, biết "đồng cam, cộng khổ", "chung sức, đồng lòng", triệu người như một, ông cha ta đã làm nên những chiến công hiển hách, đánh bại mọi kẻ thù hung bạo, dù chúng có quân hùng, tướng mạnh, lắm tiền, nhiều của, vũ khí tối tân, hiện đại hơn ta nhiều lần. Có thể khẳng định rằng, đoàn kết là một truyền thống quý báu của dân tộc ta, là tài sản tinh thần vô giá mà ông cha ta để lại cho con cháu muôn đời. Vì vậy, chúng ta cần nâng niu, gìn giữ và phát huy, coi đó là hành trang cần thiết để xây dựng và bảo vệ Tổ quốc và chính nó là cội nguồn sức mạnh để Đảng và nhân dân ta chiến thắng mọi loại kẻ thù: giặc ngoại xâm, giặc đói, giặc dốt...


Từ ngày Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời cho đến nay, khối đại đoàn kết toàn dân tộc, đoàn kết trong Đảng, đoàn kết quốc tế luôn được Đảng ta quan tâm, chăm lo xây dựng, bồi đắp và phát triển trên nền tảng vững chắc là chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh. Với mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, Đảng ta luôn luôn đặt lợi ích dân tộc, lợi ích Tổ quốc lên trên hết. Ngoài lợi ích của Tổ quốc, của dân tộc, của nhân dân, Đảng ta không có lợi ích nào khác. Qua các thời kỳ cách mạng, đặc biệt là những lúc hiểm nghèo, cách mạng gặp khó khăn, thử thách; những người cộng sản đã nêu cao tâm gương sáng ngời về sự thống nhất ý chí, hành động, giữ gìn sự đoàn kết, thống nhất trong Đảng như giữ gìn con ngươi của mắt mình; nhiều đồng chí đã anh dũng hy sinh vi độc lập, tự do của Tổ quốc, vì hạnh phúc của nhân dân. Chính sự thống nhất ý chí và hành động, tính tổ chức và kỷ luật trong Đảng đã hòa quyện, rèn đúc nên "ý Đảng, lòng dân" thành một khối vững chắc, thống nhất, không sức mạnh nào có thể chuyển lay, làm nên sự đoàn kết, thống nhất trong nhân dân và toàn dân tộc, xây đắp nên tình đoàn kết quốc tế trong sáng, son sắt, thủy chung.


Trong bối cảnh tình hình phức tạp hiện nay, đấu tranh để xây dựng, củng cố và bảo vệ sự đoàn kết, nhất trí trong Đảng cũng là truyền thống tốt đẹp, là quy luật vận động, phát triển và trưởng thành của Đảng và nhân dân ta. Sự kiên trung, vũng vàng, tuyệt đối trung thành với lý tưởng cách mạng của Đảng, trọn đời vì dân, vì nước, gắn bó máu thịt với nhân dân, sự trong sạch về phẩm chất đạo đức, lối sống của cán bộ, đảng viên là hạt nhân của khối đại đoàn kết, thống nhất trong toàn Đảng, toàn dân, là cội nguồn sức mạnh đế chúng ta chiến thắng giặc ngoại xâm, giặc đói, giặc rét, giặc dốt... Và khi ý Đảng, lòng dân đã là một khối thống nhất vững chắc thì chẳng có khó khăn, trở ngại nào có thể cản bước, chặn đường. Các thế lực thù địch và bè lũ tay sai của chúng dù có lắm "mưu ma chước quỷ", dùng mọi thủ đoạn chống phá cũng không thể ngăn đường, cản trở sự nghiệp cách mạng vẻ vang của Đảng, của nhân dân ta.


Có thể khẳng định rằng, thành tựu của cách mạng Việt Nam hơn 85 năm qua là thắng lợi của sự đoàn kết, thống nhất ý chí và hành động của toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta. Đó là nhân tố chính trị - tinh thần mang ý nghĩa quyết định để Đảng, Nhà nước ta xây dựng, củng cố và phát huy khối đại đoàn kết toàn dân tộc, đoàn kết quốc tế đưa sự nghiệp đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa đi đến thành công.


Đoàn kết, thống nhất không chỉ là truyền thống quý báu, tài sản vô giá của Đảng và nhân dân ta mà còn là sức mạnh vô địch của Đảng, Nhà nước ta. Những bài học thành công của việc xây dựng khối đoàn kết, thống nhất trong Đảng hơn 85 năm qua là kinh nghiệm quý báu và là niềm tin yêu để chúng ta vượt qua mọi khó khăn, thử thách, vững tin tiến lên phía trước; ra sức củng cố và phát huy sức mạnh của sự đoàn kết, thống nhất trong Đảng, trong nhân dân thời kỳ mới; lấy nó làm hành trang gắn chặt hơn nữa ý Đảng, lòng dân để tạo nên sức mạnh nội lực, giúp chúng ta hoàn thành xuất sắc mọi chỉ tiêu, nhiệm vụ và chiến lược phát triển kinh tế - xã hội mười năm 2011-2020; làm cho nước ta ngày càng "đàng hoàng hơn, to đẹp hơn" đúng như điều Bác Hồ kính yêu mong muốn.
Logged
saoden
Thành viên
*
Bài viết: 1075



« Trả lời #49 vào lúc: 17 Tháng Mười Một, 2022, 07:44:18 pm »

III- XÂY DỰNG NỀN KINH TẾ NƯỚC TA ĐỘC LẬP, TỰ CHỦ VÀ PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG

Nhận thức sâu sắc tiến trình có tính quốc tế của toàn cầu hóa và khẳng định nó là một "cơn lốc", một xu thế lớn của thời đại, đã và đang lôi cuốn tất cả các quốc gia, dân tộc và mọi người trên hành tinh vào vòng xoáy của nó, ngay từ những năm 90 của thế kỷ XX, Đảng ta đã chủ trương từng bước đưa nền kinh tế nước ta chủ động hội nhập vào nền kinh tếkhu vực và thế giới.


Một trong những thành công quan trọng của chiến lược đưa Việt Nam hội nhập vào cộng đồng quốc tế là nước ta đã gia nhập Khu vực mậu dịch tự do ASEAN (AFTA) và sau đó, đã ký thỏa thuận thành lập các Khu vực mậu dịch tự do ASEAN - Trung Quốc; ASEAN - Ấn Độ; ASEAN - Hàn Quốc; ASEAN - Ôxtrâylia, Niu Dilân. Tham gia vào các tổ chức ấy, một mặt, chúng ta đã thực hiện đầy đủ, đúng tiến độ các cam kết của mình và nghiêm túc thực hiện quá trình giảm thuế AFTA; nhờ đó không để xảy ra các cú "sốc" hoặc đột biến tiêu cực, giúp ta thêm tự tin bước vào thực hiện các thỏa thuận hợp tác kinh tế mới. Mặt khác, từ năm 1996, Việt Nam tích cực xúc tiến và là sáng lập viên của Diễn đàn hợp tác Á - Âu (ASEM); đến năm 1998, chúng ta đã là thành viên chính thức của Diễn đàn hợp tác Kinh tế châu Á - Thái Bình Dương (APEC).


Tích cực tham gia và làm tròn trách nhiệm của mình trong các tổ chức quốc tế và khu vực đã làm cho uy tín, vị thế của nước ta ngày càng được nâng cao trên trường quốc tế; một số sáng kiến của Việt Nam được bạn bè quốc tế đánh giá cao và nhiệt tình ủng hộ, tham gia; kết quả đạt được rất tốt đẹp. Với tư cách là chủ nhà của APEC 2006, chúng ta có nhiều lợi thế để phát huy thế mạnh của mình, đã tiến hành nhiều phiên đàm phán đa phương, song phương về mở cửa thị trường với các đối tác, kế cả với một số đối tác được coi là "khó khăn" như Hoa Kỳ và Mêhicô.


Qua thương lượng, đàm phán, ký kết các hiệp ước và mời các đối tác đến Việt Nam chứng kiến sự "thay da, đổi thịt" của Việt Nam, với nhiều tiềm năng phát triển kinh tế - xã hội, chúng ta đã làm cho bạn bè quốc tế và các đối tác chiến lược tin cậy, hiểu thêm về thiện chí, cũng như đất nước, con người, truyền thống lịch sử, văn hóa dân tộc Việt Nam, tích cực ủng hộ Việt Nam gia nhập WTO từ năm 2007 và mời chúng ta tham gia một số tổ chức kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội khác.


Trở thành thành viên thứ 150 của WTO, chúng ta chính thức hội nhập kinh tế quốc tế. Đây là thời cơ, vận hội lớn để nước ta mở cửa ra thị trường thế giới, bước vào "sân chơi" rộng lớn để quảng bá hình ảnh, con người Việt Nam với bạn bè, lôi cuốn, thu hút họ giúp ta đẩy mạnh xuất khẩu hàng hóa, dịch vụ; tạo điều kiện thuận lợi để Việt Nam tiếp nhận các nguồn vốn, công nghệ sản xuất, trao đổi chuyên gia, nắm bắt thông tin; tiếp thu, kế thừa kinh nghiệm tổ chức, quản lý, điều hành sản xuất mà các nhà đầu tư đem lại để đẩy nhanh quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước; phát triển kinh tế - xã hội, củng cố quốc phòng - an ninh; sớm đưa nước ta thoát khỏi tình trạng nước nghèo, kém phát triển; thực hiện mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.


Tuy nhiên, bên cạnh những lợi ích "sát sườn, thiết thực" mà hội nhập kinh tế quốc tế đem lại, Đảng ta đồng thời cũng chỉ ra những khó khăn, thách thức to lớn mà chúng ta phải đối mặt, phải có đối sách để vượt qua. Đó là sự cạnh tranh ngày càng quyết liệt hơn giữa các cơ sở sản xuất, doanh nghiệp nước ta vốn còn yếu kém về một số mặt với các công ty, doanh nghiệp các nước trên thị trường quốc tế để thu hút nguồn nhân lực bậc cao, xuất khẩu hàng hóa, dịch vụ, chiếm giữ được niềm tin của khách hàng.


Sức ép về tài chính, công nghệ, tay nghề và uy tín, chất lượng sản phẩm hàng hóa sẽ không hề nhỏ đối với tất cả các cơ sở sản xuất, doanh nghiệp nước ta, nhất là đối với các doanh nghiệp đã quen với sự bảo trợ, giúp đỡ của Nhà nước, các doanh nghiệp có tiềm lực tài chính, công nghệ yếu kém, sản phẩm thiếu sức cạnh tranh, v.v... Hơn thế, hội nhập quốc tế với sự chuyển dịch tự do qua biên giới các yếu tố của quá trình tái sản xuất hàng hóa và dịch vụ luôn tiềm ẩn nhiều yếu tố rủi ro, nhất là sự rủi ro về mặt xã hội; trong khi đó, yêu cầu hết sức cấp bách về việc bổ sung, hoàn thiện thể chế, cải cách nền hành chính quốc gia, đào tạo đội ngũ cán bộ, nhân viên chuyên môn, kỹ thuật; cán bộ quản lý nhà nước và đội ngũ doanh nhân, chuyên gia đủ mạnh để làm tốt các yêu cầu, nhiệm vụ mà hội nhập quốc tế đặt ra, không để nước ta bị chèn ép, bắt chẹt hay rơi vào thế bị động trong ứng xử, quan hệ quốc tế, ký kết, thực hiện các hợp đồng kinh tế, thương mại, đặc biệt là các hợp đồng, hợp tác về quốc phòng, an ninh và văn hóa, giáo dục, đào tạo. Đây là những việc làm hết sức khó khăn, luôn đòi hỏi chúng ta phải khôn ngoan, tỉnh táo, không được phép sai lầm trong mỗi bước đi, quyết sách trong khi chúng ta còn thiếu kinh nghiệm quản lý nhà nước về các mặt ấy.


Trong xu thế chung của toàn cầu hóa và sự phát triển năng động, sáng tạo và đặc biệt hiệu quả của nền kinh tế tri thức, chúng ta không thể đơn độc, tự cho phép mình đứng ngoài "cuộc chơi" theo kiểu "một mình một bàn cờ", "một mình một chợ" như một số người vẫn nói. Cân nhắc mọi điều, tính toán các yếu tố, điều kiện khách quan và nhân tố chủ quan, các yếu tố "thiên thời, địa lợi, nhân hòa", Đảng ta chủ trương hội nhập kinh tế quốc tế và cam kết tham gia đầy đủ, đúng nguyên tắc các chế định kinh tế khu vực và toàn cầu. Song, để hội nhập diễn ra đúng định hướng xã hội chủ nghĩa, bảo vệ vững chắc và phát triển bền vững các lợi ích quốc gia, dân tộc, Đảng ta nhấn mạnh sự cần thiết phải tranh thủ tối đa thời cơ, vận hội do hội nhập quốc tế đem lại để đẩy nhanh quá trình phát triển kinh tế - xã hội, xây dựng và củng cố quốc phòng - an ninh; đồng thời phải có những đối sách tối ưu nhằm phòng, chống, khắc phục các ảnh hưởng, tác động tiêu cực do chính sách mở cửa, hội nhập quốc tế gây nên một cách năng động, hiệu quả.


Nguyên tắc của hội nhập là "hội nhập nhưng không hòa tan", "đổi mới nhưng không đổi hướng". Theo đó, trong bất luận điều kiện, hoàn cảnh nào, phải giữ vững độc lập, tự chủ về kinh tế; đồng thời, kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội; giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa, giữ vững chủ quyền quốc gia, dân tộc và bản sắc văn hóa, phẩm giá, đạo đức, nhân cách con người Việt Nam; nêu cao tinh thần cảnh giác cách mạng, không để các thế lực thù địch lợi dụng hợp tác, làm ăn kinh tế, hội nhập để thực hiện "diễn biến hòa bình", gây bạo loạn lật đổ, mặc cả, chèn ép ta về mặt đầu tư vốn, khoa học, công nghệ hoặc tiến hành "ngoại giao, quân sự" để phá hoại sự nghiệp đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Yêu cầu của hội nhập là bình đẳng, hai bên cùng có lợi, vừa hợp tác vừa đấu tranh, vừa kiên quyết vừa mềm dẻo; đa phương hóa, đa dạng hóa các quan hệ kinh tế văn hóa... nhưng phải giữ vững nguyên tắc ứng xử đã xác định.


Đảng ta chỉ rõ, muốn hội nhập kinh tế thành công, chúng ta không những phải chủ động thực hiện có kết quả các nguyên tắc, yêu cầu nêu trên mà quan trọng hơn là xây dựng cho được nền kinh tế độc lập, tự chủ; trước hết là độc lập, tự chủ về lựa chọn đường lối phát triển kinh tế - xã hội, nhưng trong quan hệ phụ thuộc lẫn nhau vẫn không lệ thuộc vào sự chi phối của một nước hay nhóm nước nào, có khả năng ứng phó nhanh nhạy, có hiệu quả trước những biến động của thời cuộc như nợ công hay suy thoái, khủng hoảng kinh tế khu vực hoặc toàn cầu; kiên quyết đấu tranh đòi các đối tác thực hiện nghiêm túc các hợp đồng kinh tế; chống phá giá, thay đổi hạn ngạch, làm phức tạp thêm tình hình, v.v...


Trong các văn kiện chính trị và ngoại giao của mình, Đảng ta đều nhất quán khẳng định những khả năng có thể làm được và chỉ rõ thiện chí, những điều kiện khách quan và nhân tố chủ quan Tất cơ bản để Việt Nam xây dựng thành công nền kinh tế độc lập, tự chủ. Đó là có một tiềm lực kinh tế năng động, sáng tạo; có cơ sở vật chất - kỹ thuật vững mạnh, có tiềm lực dồi dào về con người, có khoa học, kỹ thuật và công nghệ đủ mạnh để tự phát triển; nền kinh tế có sức cạnh tranh dựa trên một cơ cấu kinh tế ngành, vùng, miền hợp lý, cân đối, hiệu quả; có cơ chế quản lý kinh tế vững mạnh, kinh tế vĩ mô ổn định; có môi trường hòa bình để phát triển.


Ai đó đã cho rằng, trong điều kiện toàn cầu hóa và phát triển nền kinh tế tri thức mà Đảng ta lại chủ trương xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ là thiếu nhạy bén, không thức thời; là tự mâu thuẫn với đường lối đổi mới do Đảng vạch ra và lãnh đạo. Theo họ, thế giới đương đại là "một thế giới phẳng", không còn rào cản, ngăn cách, cả thế giới là một cái chợ "vĩ đại", hoàn toàn thống nhất; ai cần thứ gì thì mua thứ đó, thiếu tiền thì đi vay; vì thế, không nhất thiết phải xây dựng một nền kinh tế độc lập, tự chủ? Phải chăng làm như thế, Đảng ta đã rơi vào bảo thủ, bị trói buộc bởi phương thức tư duy siêu hình, trực quan, máy móc và giáo điều, Đảng ta đã tự làm khó mình vì đã "bớt bạn, thêm thù".


Luận đề nêu trên, nghe qua, không ít người cảm nhận có lý, nhưng nếu suy ngẫm sâu sắc và nhìn rõ hơn sự thật lịch sử, điều kiện, hoàn cảnh nước nhà thì chúng ta sẽ thấy nó không có cơ sở khoa học, phiến diện, một chiều. Thực tế, độc lập, tự chủ là một xu hướng phát triển của thế giới. Trong xu thế toàn cầu hóa hiện nay, người ta "bung ra làm ăn" dưới nhiều hình thức liên doanh, liên kết rất đa dạng, phức tạp nhưng không ai muốn bị đánh mất mình, bị lệ thuộc, theo đuôi người khác, bị người khác thâu tóm; mà ngược lại, từ các nhà tài phiệt quốc tế đến các quốc gia, dân tộc đều giữ thế chủ động, đề cao tính độc lập, tự chủ trong kinh tế và cả trong chính trị, xã hội và quân sự. Đó là một vấn đề có tính nguyên tắc, đã và đang chỉ đạo các mối quan hệ, ứng xử trước đây cũng như hiện nay, dù thành văn hay chưa thành văn; song bất kể ai, giai cấp, lực lượng nào, trong các quan hệ quốc tế, đều phải nhận thức và thực hiện các hành vi sao cho "đúng mực", cốt là không sai "luật" và "lệ" nhằm bảo vệ vững chắc lợi ích của quốc gia, dân tộc mình.
Logged
Trang: « 1 2 3 4 5 6 7 »   Lên
  In  
 
Chuyển tới:  

Powered by MySQL Powered by PHP Powered by SMF 1.1.21 | SMF © 2006-2008, Simple Machines

Valid XHTML 1.0! Valid CSS! Dilber MC Theme by HarzeM