Lịch sử Quân sự Việt Nam
Tin tức: Lịch sử quân sự Việt Nam
 
*
Chào Khách. Bạn có thể đăng nhập hoặc đăng ký. 28 Tháng Ba, 2024, 10:47:52 pm


Đăng nhập với Tên truy nhập, Mật khẩu và thời gian tự động thoát


Trang: « 1 2 3 4 5 6 7 »   Xuống
  In  
Tác giả Chủ đề: Phòng chống diễn biến hòa bình ở Việt Nam - Mệnh lệnh cuộc sống  (Đọc 2012 lần)
0 Thành viên và 1 Khách đang xem chủ đề.
saoden
Thành viên
*
Bài viết: 1075



« Trả lời #30 vào lúc: 03 Tháng Mười Một, 2022, 08:33:29 pm »

II- HÃY CẢNH GIÁC VỚI "TỰ DIỄN BIẾN", "TỰ CHUYỂN HÓA"

Sau gần 30 năm tiến hành công cuộc đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, nhân dân ta dưới sự lãnh đạo của Đảng, đã vượt qua muôn ngàn khó khăn, thử thách, giành được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử. Thế nhưng, một số người có quan điểm đối lập với Đảng, Nhà nước và nhân dân ta đã và đang lợi dụng quá trình đổi mới, mở cửa, hội nhập quốc tế đế thực hiện "diễn biến hòa bình", chống phá Việt Nam với biện pháp mới rất tinh vi, xảo quyệt và thâm độc: gây "tự diễn biến", "tự chuyển hóa" nội bộ ta, đòi "phi chính trị hóa" lực lượng vũ trang nhân dân.


Chúng ta nhận thức sâu sắc rằng, dù chúng có "thay hình đổi dạng như thế nào" thì bản chất, mục tiêu cơ bản, âm mun lâu dài, xuyên suốt, không hề thay đổi của chúng là xóa bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, làm sụp đổ chế độ xã hội chủ nghĩa mà nhân dân ta đang xây dựng, đưa Việt Nam phát triển theo quỹ đạo tư bản chủ nghĩa, có lợi cho phương Tây.


Trước đây, để chống phá Việt Nam, các thế lực thù địch thường sử dụng những biện pháp "cứng rắn", từ việc đem quân trực tiếp xâm lược đến việc đổ tiền của giúp bè lũ tay sai chống phá cách mạng nước ta; bằng các phương pháp vũ trang là chủ yếu, chúng đều thất bại thì ngày nay, chúng chuyển sang dùng biện pháp phi vũ trang là chính với việc đẩy mạnh "diễn biến hòa bình", thúc đẩy "tự diễn biến", "tự chuyển hóa" nội bộ ta nhằm chiến thắng Việt Nam mà không cần chiến tranh.


Với các biện pháp "mềm dẻo", "linh hoạt", chúng đẩy mạnh hợp tác vừa để lôi kéo các phần tử bất mãn và giới trẻ đứng về phía chúng, vừa răn đe quân sự, gây sức ép từ bên ngoài để tạo "bão từ bên trong", gây tác động, "chuyển hóa" chế độ chính trị ở Việt Nam thông qua "tự diễn biến", "tự chuyển hóa" nội bộ Đảng, Nhà nước và nhân dân; làm cho Đảng, Nhà nước và nhân dân ta nảy sinh mâu thuẫn, mất đoàn kết, xuất hiện các phe phái đối lập nhau; nội bộ "lục đục", từng bước "mục ruỗng từ bên trong". Đây là "ngón đòn ác hiểm" hòng gây mất ổn định chính trị, làm cho xã hội ta rối loạn, cuối cùng sẽ tự sụp đổ. Chiều sâu của mọi ẩn ý được che giấu kỹ lưỡng trước những lời tung hô mỹ miều, tốt đẹp của các thế lực thù địch là sử dụng chiến lược "diễn biến hòa bình" để giành chiến thắng mà không cần chiến tranh.


Những năm gần đây, phương Tây đã gác lại những bất đồng, ra sức cải thiện và tích cực thực hiện chính sách "ngoại giao thân thiện" đối với Việt Nam; lên tiếng ủng hộ Việt Nam nhiều hơn trên các diễn đàn quốc tế; cử nhiều đoàn chuyên gia đến thăm và làm việc với Việt Nam; đồng thời, mời nhiều đoàn cán bộ Việt Nam đến thăm và làm việc với các đối tác của nước họ để ký kết các dự án đầu tư, hợp đồng kinh tế, thương mại, tích cực giao lưu, quan hệ hợp tác trên nhiều lĩnh vực: văn hóa, giáo dục, đào tạo; khoa học, công nghệ; ngoại giao, môi trường; quân sự, quốc phòng, an ninh...


Chúng ta ý thức sâu sắc rằng, việc điều chỉnh một số chính sách ngoại giao đối với Việt Nam, phương Tây muốn tạo ra các điều kiện thuận lợi để qua đó xâm nhập sâu hơn, leo cao hơn, thúc đẩy nhanh hơn quá trình "tự diễn biến", "tự chuyển hóa" nội bộ Việt Nam theo hướng tư bản chủ nghĩa, có lợi cho họ. Hướng tới mục tiêu đã xác định, họ đã và đang dùng tài trợ, cố vấn, chuyên gia tác động trực tiếp hoặc gián tiếp đến các chiến lược, chương trình, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội của Việt Nam. Chúng ta cần ý thức rõ điều này, hết sức đề cao cảnh giác, phân biệt rõ ràng đâu là thật, đâu là giả để có đối sách hợp lý, cách ứng xử linh hoạt, mềm dẻo, khôn ngoan, không để đất nước bị động, bất ngờ.


Quá trình "tự diễn biến", "tự chuyển hóa" nội bộ Việt Nam, theo họ, cần đẩy mạnh những "cái hích từ bên ngoài", gắn chặt với "lộ trình dân chủ" bên trong một cách toàn diện, thông qua các bước:

- Thiết lập hệ thống và cơ cấu kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa tại Việt Nam, làm cho thành phần kinh tế nhà nước và tập thể mất vai trò chủ đạo; dần dần chệch hướng xã hội chủ nghĩa.

- Thúc đẩy quá trình hình thành, phát triển "xã hội dân sự", tạo điều kiện thuận lợi cho các "tổ chức chính trị đối lập" xuất hiện và hoạt động công khai, làm cho Đảng Cộng sản bị phân hóa, rối loạn, tự mâu thuẫn, không thể kiểm soát được tình hình; không thể lãnh đạo Nhà nước và xã hội.

- "Dân chủ hóa chính quyền các cấp", từng bước cô lập, tách các tổ chức đảng và đảng viên ra khỏi quần chúng; gây áp lực đối với Bộ Chính trị, Ban Chấp hành Trung ương, tiến tới lật đổ Đảng Cộng sản.

Các chiến lược gia phương Tây cho rằng, "tự diễn biến", "tự chuyển hóa" nội bộ Việt Nam theo quỹ đạo phương Tây là mắt xích quan trọng nhất trong chiến lược "diễn biến hòa binh", bạo loạn lật đổ ở Việt Nam. Họ xác định rằng, "lực lượng bên ngoài là tác nhân kích thích quan trọng; lực lượng "ngầm" bên trong nội bộ Đảng, Nhà nước Việt Nam đóng vai trò quyết định, là hạt nhân nòng cốt cho sự "chuyển hóa", thúc đẩy "tự diễn biến", "tự chuyển hóa" trong nội bộ Đảng, Nhà nước, làm biến chất chế độ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam.


Vì vậy, thực hiện "chuyển hóa" nội bộ Đảng, Nhà nước thông qua con đường "tự diễn biến", "tự chuyển hóa" nội bộ phải hướng đến xây dựng "đội ngũ cán bộ mới", tức là những người đối lập với Đảng, Nhà nước, có tinh thần "đổi mới", luôn đề cao giá trị văn hóa, lối sống phương Tây. Để quá trình "tự diễn biến", "tự chuyển hóa" diễn ra thuận lợi, đạt hiệu quả; phương Tây đang tìm cách "đưa các nhân tố cốt cán thân cận phương Tây", vào trong nội bộ Đảng, Quốc hội, Chính phủ; từng bước hình thành các phe phái, khuynh hướng đối lập với Đảng Cộng sản Việt Nam.


Nham hiểm hơn, các thế lực thù địch đang tìm mọi cách thâm nhập vào các cơ quan hoạch định đường lối, chính sách, pháp luật của Quốc hội Việt Nam để vừa tác động nhằm thay đổi chính sách, luật pháp, vừa xây dựng "ngọn cờ", "điểm tựa" để thực hiện mưu đồ "tự diễn biến", "tự chuyển hóa" nội bộ Quốc hội vì nơi đây có nhiều đại biểu của dân.


Với kinh nghiệm lật đổ, hỗ trợ hoặc tiếp tay cho các cuộc "cách mạng màu" tại một số nước trên thế giới, gần đây phương Tây đẩy mạnh các hoạt động "ngầm" chống phá Việt Nam bằng cách thông qua tổ chức phi chính phủ (NGO) để tránh sự chú ý của các cơ quan chức năng Việt Nam.


Xâm nhập, tác động, lái thông tin, truyền thông Việt Nam theo ý đồ "tự diễn biến", "tự chuyển hóa" rất tinh vi, thâm độc. Các chiến lược gia của phương Tây cho rằng, để đẩy nhanh quá trình "dân chủ hóa" ở Việt Nam phải đồng thời đẩy mạnh quá trình "tự diễn biến", "tự chuyển hóa" trong nội bộ Đảng, Nhà nước và các cộng đồng dân cư Việt Nam.
Logged
saoden
Thành viên
*
Bài viết: 1075



« Trả lời #31 vào lúc: 03 Tháng Mười Một, 2022, 08:35:36 pm »

Theo đó, con đường thực hiện dân chủ hóa thông tin, truyền thông và xã hội Việt Nam là hiệu quả nhất, trước tiên là thực hiện "tự diễn biến", "tự chuyển hóa" đội ngũ cán bộ, nhân viên ngành thông tin, truyền thông. Bằng con đường này, các thế lực thù địch hy vọng sẽ gây nhiễu loạn dư luận xã hội, "pha loãng" nền tảng tư tưởng của Đảng và kích động tư tưởng tự do, dân chủ theo hình mẫu phương Tây.


Nhằm đạt mục tiêu này, chủ nghĩa đế quốc và các thế lực thù địch đã chi một khoản tiền "kếch xù" để hỗ trợ công tác thông tin, truyền thông châu Á. Trong đó, chúng đã ưu tiên đầu tư cho đài Á châu tự do (RFA); giúp nhà đài nâng cấp hệ thống phát thanh truyền hình vệ tinh, nâng cao hiệu quả truyền bá "tự do, dân chủ, nhân quyền" đến các nước mà chúng cho rằng "thiếu dân chủ", "vi phạm nhân quyền", trong đó có Việt Nam.


Trong bối cảnh tình hình hiện nay, chủ nghĩa đế quốc và các thế lực thù địch đang triệt để lợi dụng vấn đề dân tộc và tôn giáo để đẩy mạnh việc cổ súy cho cái gọi là phát huy "dân chủ, nhân quyền" ở Việt Nam. Họ đã dùng nhiều "chiêu bài", biện pháp để tuyên truyền, thậm chí xuyên tạc tình hình, vu cáo Việt Nam "không có dân chủ", thiếu công khai, minh bạch; vi phạm nhân quyền, không tôn trọng tự do tôn giáo; rằng Đảng, Nhà nước ta đối xử không công bằng với đồng bào các dân tộc thiểu số; không quan tâm đến đời sống vật chất, tinh thần của đồng bào ở vùng sâu, vùng xa, biên giới, hải đảo,...


Với nhiều hình thức trá hình, họ đã và đang tìm cách đưa người của họ vào Việt Nam với các danh nghĩa rất khác nhau đế xúc tiên việc tìm hiểu tình hình, thu thập thông tín, móc nối, lôi kéo, hỗ trợ các lực lượng "ngầm" gây rối ở một số địa bàn thuộc các địa phương, phản ánh sai lệch sự thật, gây hoang mang, nghi ngờ, đố kỵ, mâu thuẫn trong nội bộ các dân tộc; tạo môi trường thúc đẩy "tự diễn biến", "tự chuyển hóa", chống phá Đảng, Nhà nước và bài xích, bôi nhọ chế độ ta.


Đẩy mạnh "diễn biến hòa bình" trên lĩnh vực giáo dục - đào tạo, ráo riết thực hiện "tự diễn biến", "tự chuyển hóa" ngành giáo dục Việt Nam là một "ngón đòn" thâm độc của chủ nghĩa đế quốc và các thế lực thù địch. Họ xác định giáo dục - đào tạo là một trong những mũi đột phá, là con đường ngắn nhất, hiệu quả nhất để thực hiện "tự diễn biến", "tự chuyển hóa", lái nền giáo dục Việt Nam đi theo quỹ đạo của phương Tây. Họ công khai rằng, để thay đổi Việt Nam, họ cần dựa vào quy luật toàn cầu về kinh tế và chất xám của thế hệ trẻ Việt Nam được học tập, đào tạo ở phương Tây.


Thực hiện mục tiêu này, trong các chính sách ngoại giao của mình, chủ nghĩa đế quốc và các thế lực thù địch đã chủ động đề ra nhiều biện pháp thắt chặt hơn nữa quan hệ với Việt Nam trên tinh thần "dân chủ, công khai, thân thiện". Họ luôn luôn khẳng định trách nhiệm cao cả của họ là "phải giúp đỡ Việt Nam" đào tạo thế hệ trẻ để họ sớm trở thành những "chủ nhân thật sự của đất nước", có trình độ học vấn cao, văn hóa hiện đại với các điều kiện cần thiết để đưa Việt Nam trở thành quốc gia giàu đẹp, văn minh theo hình mẫu của họ. Song mặt khác họ đẩy mạnh tuyên truyền xuyên tạc chủ trương, đường lối của Đảng và Nhà nước ta, phủ nhận kết quả nền giáo dục - đào tạo Việt Nam, cho rằng nền giáo dục - đào tạo nước ta đang ở tình trạng khủng hoảng, bế tắc; chất lượng đào tạo nhân lực rất đáng lo ngại, không thể đáp ứng nhu cầu phát triển kinh tế - xã hội; rằng nền đại học Việt Nam lạc hậu hơn các nước láng giềng, v.v... Từ đó, họ quy kết trách nhiệm quản lý yếu kém, chính sách giáo dục - đào tạo lạc hậu; tệ hại hơn, họ cho rằng nguyên nhân sâu xa là do Đảng, Nhà nước ta không đủ sức lãnh đạo nền giáo dục - đào tạo Việt Nam. Đó là cái cớ để họ kêu gọi phải thay đổi hiện trạng nền giáo dục Việt Nam bằng con đường mới sáng sủa "tây học". Rõ ràng là, họ đã và đang nhằm thẳng vào các bộ óc "trí tuệ nhất" của dân tộc Việt Nam với hy vọng tạo thế, tạo lực cho những người này tham gia vào các cơ quan hoạch định chiến lược, quản lý vĩ mô Nhà nước Việt Nam sau này. Điều đó sẽ giúp cho tiến trình chuyển hóa Việt Nam nhanh hơn, chắc chắn hơn, hiệu quả hơn và đây là một biện pháp hữu hiệu để thực hiện ý đồ "tự diễn biến", "tự chuyển hóa" nội bộ Việt Nam.


Lôi kéo, chuyển hóa, gây "tự diễn biến", "tự chuyển hóa" quân đội nhân dân và công an nhân dân nhằm làm suy yếu, thực hiện "phi chính trị hóa" lực lượng vũ trang - một trong những âm mưu, thủ đoạn vô cùng thâm độc của các thế lực thù địch trong chống phá Việt Nam. Chủ nghĩa đế quốc và các thế lực thù địch nhận định rằng, ở nước ta, chừng nào Đảng Cộng sản Việt Nam còn đứng vững nghĩa là chừng ấy họ còn nắm chắc quân đội nhân dân và công an nhân dân. Nếu làm cho hai lực lượng này thoái hóa, biến chất, mất sức chiến đấu, thì Đảng Cộng sản Việt Nam, theo đó cũng sẽ mất chỗ dựa và lúc đó chế độ cộng sản ở Việt Nam sẽ tan rã giống như Liên Xô và Đông Âu trước đây. Vì vậy, thực hiện "phi chính trị hóa" lực lượng vũ trang là một mũi nhọn trọng điểm công kích trong chiến lược đánh sập chế độ xã hội chủ nghĩa Việt Nam của các thế lực thù địch. Trong nhận thức và hành động của phương Tây, luôn luôn cho rằng, chỉ có tách rời Đảng Cộng sản ra khỏi lực lượng vũ trang, gạt bỏ sự lãnh đạo của Đảng đối với quân đội nhân dân và công an nhân dân thì mới có thể chuyển hóa thành công chế độ chính trị ở Việt Nam theo quỹ đạo của họ.


Trong mọi phương sách, từ trước đên nay, chủ nghĩa đế quốc và các thế lực thù địch đều hướng đến một đích duy nhất: tìm mọi cách để gạt bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản, sự quản lý của nhà nước xã hội chủ nghĩa đối với quân đội nhân dân và công an nhân dân. Đó là điều lý giải tại sao, họ ra sức mở rộng quan hệ, thúc đẩy hợp tác quân sự, an ninh; tìm cách tiếp cận gần hơn, can dự sát hơn vào công việc chuyển hóa quân đội, công an, lôi kéo Việt Nam vào cơ chế an ninh khu vực, mở rộng cuộc chiến chống khủng bố, khuếch trương sức mạnh quân dự, khả năng răn đe của họ, làm cho cán bộ, chiến sĩ quân đội ta "choáng ngợp", lo sợ vũ khí tối tân, hiện đại của phương Tây; từ đó gây sự hoang mang, dao động, giảm sút sức mạnh bảo vệ Đảng, Nhà nước, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa.


Thực hiện "diễn biến hòa bình" trên lĩnh vực kinh tế đã và đang được chủ nghĩa đế quốc và các thế lực thù địch xác định là giải pháp căn cơ, chính yếu để thực hiện "tự diễn biến", "tự chuyển hóa" nội bộ Việt Nam. Họ cho rằng, cái gì tuột khỏi tay Đảng Cộng sản, họ đều khuyến khích thực hiện và cố tình đạt đến. Vì vậy, xâm nhập, chiếm lĩnh các ngành kinh tế trọng yếu của Việt Nam là một trong những cái đích cần đạt tới để chuyển hóa chế độ chính trị, xã hội Việt Nam theo ý đồ của họ. Về điểm này, bằng nhiều biện pháp, họ thúc đẩy phát triển kinh tế tư nhân tư bản chủ nghĩa, lái nền kinh tế Việt Nam chệch khỏi định hướng xã hội chủ nghĩa. Đó là điều cốt lõi, bản chất nhất, phương thức hữu hiệu nhất để họ thực hiện mưu đồ làm thay đổi thể chế chính trị - xã hội Việt Nam.
Logged
saoden
Thành viên
*
Bài viết: 1075



« Trả lời #32 vào lúc: 03 Tháng Mười Một, 2022, 08:38:01 pm »

Lợi dụng những yếu kém của Việt Nam khi tham gia WTO, họ cho rằng WTO là phép màu nhiệm có thể làm biến dạng, chệch hướng xã hội chủ nghĩa của nền kinh tế Việt Nam, thúc đẩy sự thay đổi cơ chế, chính sách mở cửa, hội nhập quốc tế ở Việt Nam nhanh hơn. Để thực hiện điều đó, họ tìm mọi cách "nhấn chìm" thành phần kinh tế nhà nước, khoét sâu vào những yếu kém của các doanh nghiệp nhà nước, khuyến khích cổ phần hóa triệt để hoặc giải thể các doanh nghiệp, tập đoàn kinh tế nhà nước, tiến tới tư nhân hóa nền kinh tế Việt Nam.


Về thực chất, họ mong muốn thành phần kinh tế nhà nước lụi tàn, phá hỏng cơ sở, chỗ dựa của chế độ xã hội chủ nghĩa; làm suy yếu và tiến tới gạt bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản, sự quản lý, điều hành của nhà nước xã hội chủ nghĩa về lĩnh vực này, hướng Việt Nam đi theo nền kinh tế tư bản chủ nghĩa, phụ thuộc phương Tây.


Tăng tốc, mở rộng quy mô, đổi mới hình thức chống phá Đảng, Nhà nước ta, chủ nghĩa đế quốc và các thế lực thù địch, phản động đã và đang tiến hành nhiều thủ đoạn, biện pháp mới, rất tinh vi, thâm độc. Về chính trị tư tưởng, họ tiếp tục xuyên tạc nền tảng tư tưởng của Đảng là chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh. Cái mới của thủ đoạn này là tấn công nhằm đánh đô thần tượng Hồ Chí Minh, các lãnh tụ của Đảng. Nhằm đạt mục đích, họ không từ một thủ đoạn nào, thậm chí tạo dựng chứng cớ giả để xuyên tạc "bôi đen" đời tư, tâm gương đạo đức của Chủ tịch Hồ Chí Minh, của một số lãnh tụ của Đảng nhằm tạo sự nghi ngờ, băn khoăn, gây dư luận xấu trong xã hội Việt Nam. Gần đây nhất, với mưu đồ gây rối, phá hoại đại hội đảng bộ các cấp, gây bất lợi cho Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII của Đảng, nhất là vấn đề nhân sự của đại hội; các thế lực thù địch đã tung lên mạng xã hội chuyên mục "chân dung quyền lực" để bôi nhọ đời tư, hạ thấp uy tín của một số đồng chí lãnh đạo chủ chốt của Đảng, Nhà nước ta; gây sự nghi ngờ, mất lòng tin của nhân dân đối với Đảng, Nhà nước và chế độ xã hội chủ nghĩa. Lợi dụng việc Đảng, Nhà nước ta sửa đổi Hiến pháp năm 1992, tổ chức các ngày lễ lớn của quốc gia, dân tộc; lấy ý kiến nhân dân về văn kiện đại hội đảng bộ các cấp, các thế lực thù địch đưa ra các yêu sách đòi "đa nguyên chính trị, đa đảng đối lập" để "gây bầu không khí dân chủ" ở Việt Nam mà thực chất là thực hiện âm mưu "diễn biến hòa bình", chống phá Việt Nam theo phương thức "rượu cũ bình mới".


Âm mưu, thủ đoạn "diễn biến hòa bình" của các thế lực thù địch đối với cách mạng Việt Nam là rất nguy hiểm; trong đó, "tự diễn biến", "tự chuyển hóa" nội bộ Đảng, Nhà nước là những ngón đòn "độc chiêu" đang được các thế lực thù địch triệt để lợi dụng, rất cần phải đề cao cảnh giác, hết sức đề phòng.


Vì vậy, xây dựng ý thức bảo vệ Tổ quốc trong bối cảnh tình hình hiện nay nhất thiết phải giúp cán bộ, chiến sĩ và nhân dân nhìn rõ bộ mặt thật của kẻ thù đang "giâu mặt", hiểu rõ bản chất, âm mưu, thủ đoạn, tác hại của "diễn biến hòa bình" để họ không mắc mưu "tự diễn biến", "tự chuyển hóa"; đó là trách nhiệm, nghĩa vụ của mỗi cán bộ, đảng viên hiện nay. Ý thức rõ ràng về quyền lợi và trách nhiệm thiêng liêng trong bảo vệ Tổ quốc thì cán bộ, đảng viên mới thực sự gương mẫu thực hành, làm tròn bổn phận của mình. Đó là phương cách tốt nhất để nâng cao chất lượng, hiệu quả giáo dục ý thức bảo vệ Tổ quốc cho mọi người dân hiện nay.


"Diễn biến hòa bình" là một "căn bệnh" nguy hiểm, có thể đánh hỏng chế độ, phá tan thành quả cách mạng. Tuy nhiên, các thế lực thù địch có thực hiện được ý đồ đen tối của chúng hay không, có thực hiện được "diễn biến hòa bình" hay không, điều đó lại hoàn toàn phụ thuộc vào chúng ta. Tình hình mới đang vận động, biến đổi khôn lường, để bảo vệ vững chắc Tổ quốc, giữ vững môi trường hòa bình, ổn định để phát triển kinh tế - xã hội, toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ra sức thực hiện thắng lợi Nghị quyết Đại hội XI của Đảng; chủ động, tích cực tham gia thảo luận, đóng góp ý kiến, bổ sung, hoàn thiện các văn kiện đại hội đảng bộ các cấp; đặc biệt là văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII của Đảng. Đồng thời, đổi mới nội dung, hình thức giáo dục chính trị, đặc biệt là giáo dục chủ nghĩa yêu nước cho cán bộ, chiến sĩ và mọi người dân Việt Nam, trước hết là triển khai thực hiện có hiệu quả tìiến pháp năm 2013; thực hiện tốt pháp luật nhà nước, kỷ luật "thép" trong lực lượng vũ trang. Trong đó, tiếp tục triển khai thực hiện thống nhất, đồng bộ Luật quốc phòng và an ninh có ý nghĩa rất quan trọng. Xây dựng ý thức bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa nhất thiết phải gắn chặt với phòng, chống "diễn biến hòa bình". Đó là phương cách hiệu quả nhất để đất nước ta đổi mới, ổn định và phát triển.
Logged
saoden
Thành viên
*
Bài viết: 1075



« Trả lời #33 vào lúc: 03 Tháng Mười Một, 2022, 08:39:03 pm »

III- TÁC HẠI CỦA "BỆNH" SUY THOÁI TƯ TƯỞNG CHÍNH TRỊ, ĐẠO ĐỨC, LỐI SỐNG

Là kết quả của quá trình tư duy được thể hiện thành quan điểm, lập trường, chính kiến của chủ thể, tư tưởng luôn là một "đặc quyền" của con người, do một loại vật chất có tổ chức cao nhất, hoàn thiện nhất là bộ óc người sinh ra, có chức năng phản ánh hiện thực khách quan bằng sự suy nghĩ, hoạt động trí tuệ, thể hiện dưới những hình thức: suy nghĩ trong đầu óc người về đối tượng cần biết và toàn bộ những sản phẩm của trí tuệ do con người tạo ra, hợp thành phong cách tư duy, phong cách lãnh đạo, chỉ huy, quản lý, v.v... biểu đạt bằng các khái niệm, phạm trù, quy luật; được con người đúc kết, khái quát từ thực tiễn, hình thành tư tưởng, hệ tư tưởng, ý thức hệ. Vì vậy, nói đến tư tưởng, là nói đến tư tưởng của con người và chỉ có con người mới có tư tưởng; tức là nói đến sự suy nghĩ, quan điểm của họ về thế giới và những sản phẩm tinh thần do hoạt động trí tuệ của "bộ óc" người tạo nên. Tư tưởng là "tấm gương phản chiếu hiện thực khách quan", được dùng làm nguyên tắc để giải thích các hiện tượng bên ngoài, bao gồm các mục đích, ý định và triển vọng, giúp con người tiếp tục nhận thức sâu sắc hơn, có những giải pháp tối ưu để cải tạo thực tiễn vì lợi ích của mình.


Suy thoái tư tưởng chính trị, về thực chất, là sự phản ánh sai lệch hiện thực khách quan từ việc phai nhạt mục tiêu, lý tưởng cách mạng, xa rời chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối của Đảng, do tuyệt đối hóa cái chủ quan, làm cho nhận thức về con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ớ nước ta, những cái tốt, ưu việt của chế độ ta bị méo mó, thực hư, thật giả, trắng đen lẫn lộn. Đó là cái gốc đẻ ra các chứng bệnh: phát ngôn thiếu trách nhiệm, thực hiện pháp luật, kỷ luật không nghiêm; quan liêu, gia trưởng, độc đoán, chuyên quyền; áp đặt quan điểm chủ quan, duy ý chí, phiến diện, siêu hình trong quan hệ đạo đức, lối sống, nên các hành vi, biểu hiện của nó hết sức phức tạp.


Sống, sinh hoạt trong một tổ chức tốt, một người có tư tưởng chính trị lành mạnh, đúng đắn thì họ luôn kiên định, vũng vàng trước mọi khó khăn, thử thách, không bao giờ nao núng tinh thần, làm những điều sai trải. Mọi cám dỗ, mua chuộc không thể chuyển lay, không vì lợi ích cá nhân mà hy sinh lợi ích tập thể và do đó, luôn thanh thản, có cuộc sống trong sạch, lành mạnh, nêu tấm gương sáng để mọi người học tập, noi theo.


Rõ ràng là, tư tưởng chỉ đạo hành động. Tư tưởng đúng thì hành động đúng, tư tưởng sai thì hành động sai. Khẳng định vai trò to lớn của tư tưởng, công tác tư tưởng trong quân đội, cán bộ, chiến sĩ ta thường nói "tư tưởng không thông, mang bình tông cũng nặng" và nhân dân ta cũng thường hay nói "thỏa lương tâm lạng vàng không tiếc". Điều đó cho thấy, tư tưởng và công tác tư tưởng có vai trò đặc biệt quan trọng trong đời sống xã hội và trong quân đội, không thể xem thường và khi nó đã bị thoái hóa, biến chất thì tác hại của nó thật ghê gớm, để lại hậu họa khôn lường, rất khó khắc phục.


Muốn không bị suy thoái tư tưởng chính trị dẫn đến các loại suy thoái khác thì chính trị của ta phải mạnh lên, đạo đức, lối sống của chúng ta phải thật sự trong sạch lành mạnh, cán bộ, đảng viên phải nêu tấm gương sáng: "đảng viên đi trước, làng nước theo sau". Một vấn đề có tính nguyên tắc (bất di bất dịch) là phải quan tâm chăm lo công tác giáo dục chính trị tư tưởng; ra sức xây dụng môi trường văn hóa chính trị lành mạnh; làm cho chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tướng Hồ Chí Minh, quan điểm, đường lối của Đảng, pháp luật của Nhà nước chiếm vị trí thống trị trong đời sống văn hóa - tính thần xã hội ta. Đồng thời, phải làm tốt hơn nữa công tác kiểm tra, giám sát, giáo dục cán bộ, đảng viên; kiên quyết xử lý nghiêm minh những người vi phạm pháp luật, kịp thời đưa những cán bộ, đảng viên không đủ tư cách ra khỏi tổ chức Đảng; làm cho Đảng ta ngày càng trong sạch, vững mạnh; kiên quyết không đê các thế lực thù địch lợi dụng tình hình, thổi phồng, bóp méo sự thật, chống phá chế độ xã hội chủ nghĩa mà chúng ta đang xây dựng; hạ thấp vai trò, uy tín của Đảng, Nhà nước ta.


Rõ ràng là, suy thoái tư tưởng chính trị là một căn bệnh có nguồn gốc từ sự coi thường vai trò của công tác chính trị, môi trường chính trị, nhất là giáo dục tư tưởng chính trị. Phải khẳng định rằng, ở đâu, nơi nào, môi trường chính trị không tốt, trước hết là cấp ủy đảng, người chỉ huy ở đó đã để tuột hoặc buông lỏng công tác kiểm tra, giám sát, chất lượng sinh hoạt tổ đảng, sinh hoạt chi bộ và sinh hoạt của các tổ chức quần chúng thấp; đấu tranh tự phê bình và phê bình bị coi nhẹ hoặc bị thủ tiêu, thiếu dân chủ, công khai, minh bạch; người đứng đầu thiếu tinh thần trách nhiệm, v.v... thì ở nơi đó, có nhiều người vi phạm kỷ luật, thậm chí lâm vào tình trạng thoái hóa về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống. Sự thoái hóa tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống giống như một căn bệnh lây nhiễm nêu không sớm phát hiện và chữa trị kịp thời. Cho nên, ngăn chặn, đẩy lùi, tiến tới cắt bỏ căn bệnh này phải đồng thời khắc phục cả suy thoái tư tưởng chính trị, suy thoái đạo đức và suy thoái lối sống; đồng thời, đẩy mạnh công tác đấu tranh tư tưởng, lý luận, phê phán các quan điểm sai trái, phản động; khôi phục niềm tin trong nhân dân. Vấn đề quan trọng hàng đầu là đề cao công tác phòng ngừa; có niềm tin trong đấu tranh chống tiêu cực, chống quan điểm sai trái; không nên để "bệnh tật" xảy ra rồi mới tìm thầy thuốc bắt mạch, kê đơn, bốc thuốc, tìm cách cứu chữa.


Nghị quyết Trung ương 4, khóa XI đã chỉ ra tác hại của sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống ở một bộ phận cán bộ, đảng viên; những biểu hiện của nó và các giải pháp khắc phục. Đây là dịp tốt để chúng ta nhận diện ngày càng rõ hơn những người mắc "căn bệnh" này, có liệu pháp "hạ nhiệt" cho những người thường hay ác cảm và nói xấu chế độ xã hội chủ nghĩa mà nhân dân ta đang xây dựng; hay ca ngợi và muốn đi theo con đường tư bản chủ nghĩa, thích sống theo kiểu văn hóa phương Tây, đề cao vật chất, sùng bái đồng tiền; coi thường tình nghĩa, đạo lý; phủ nhận truyền thống lịch sử dân tộc...


Tình hình đang đặt ra nhiều việc phải làm, nhất là trong công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng; đặc biệt vào thời điểm trước, trong và sau Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII của Đảng ta. Trong bối cảnh tình hình hiện nay, từng tổ chức Đảng cần có những giải pháp giúp đỡ những cán bộ, đảng viên sửa chữa sai lầm, khuyết điểm do "bị thương" bởi "viên đạn bọc đường", bị mua chuộc bởi bọn làm ăn phi pháp. Công việc này có giá trị rất tốt là khi các đồng chí ấy nhận ra lỗi lầm, kiên quyết sửa chữa khuyết điểm, quay về đội ngũ và chính các đồng chí ây sẽ là nhân cốt tích cực trong cuộc đấu tranh chống các quan điểm sai trái, phản động; ngăn chặn, đẩy lùi tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống trong tổ chức Đảng và trong xã hội ta hiện nay.    Mối quan hệ giữa suy thoái tư tưởng chính trị, suy thoái đạo đức và suy thoái lối sống là môi quan hệ giữa "kẻ tung người hứng", cùng nhau đi đến một chỗ sai là phá bỏ chế độ, nền nếp, trật tự, kỷ cương; rũ bỏ luân thường đạo lý, vi phạm kỷ luật, làm sai luật pháp; gây tiêu cực cho xã hội, cản trở tiến bộ lịch sử. Cho nên, cần hiểu rằng, suy thoái tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống là một cơ thể mang mầm bệnh ghép gồm ba chứng bệnh: suy thoái về tư tưởng chính trị, suy thoái về đạo đức, suy thoái về lối sống; cả ba căn bệnh ấy đều bám nhau, dính chặt trên một cơ thể người bị "lệch chuẩn"; rất khó phân biệt một cách rạch ròi bản chất, nguyên nhân của từng loại bệnh. Ai đó chỉ cần mắc một chứng bệnh là có thể bị lây nhiễm, mắc các chứng bệnh khác. Tuy nhiên, không phải bất cứ ai suy thoái tư tưởng chính trị cũng dẫn đến suy thoái đạo đức, lối sống. Song, nguyên nhân gây bệnh chủ yếu vẫn là suy thoái về tư tưởng chính trị nếu xét một cách toàn cục.


Nói cách khác, sự suy thoái vể tư tưởng chính trị thường được che giấu, ngụy trang kín đáo, tinh vi, rất khó nhìn thấy, nhất là đối với những người từng trải, có nhiều kinh nghiệm thực tế; song sự "hư đốn" lại thấy dễ dàng hơn bởi sự buông thả ở những người này như: tham nhũng, vun vén lợi ích cá nhân, v.v...


Vì vậy, phải kiên quyết hơn nữa trong triển khai thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ trong sinh hoạt Đảng; kiên quyết đấu tranh, xử lý kỷ luật những cán bộ, đảng viên suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống; không để những cán bộ, đảng viên vi phạm kỷ luật, suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống trong tổ chức Đảng.


Đồng thời, đẩy mạnh hơn nữa việc tiếp tục học tập và làm theo tâm gương đạo đức Hồ Chí Minh; xây dựng hệ thống pháp luật, các chế độ, quy định thật cụ thể, rõ ràng, chặt chẽ để ngăn ngừa, đẩy lùi tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống; làm tốt công tác quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng, sử dụng cán bộ; chọn đúng người có đức, có tài bố trí vào các vị trí quan trọng, nhất là các vị trí chủ trì cơ quan, đơn vị. Đổi mới cơ chế, chính sách, chế độ đãi ngộ để cán bộ, đảng viên có đủ điều kiện "bảo liêm", làm tốt việc nêu gương cho quần chúng học tập, noi theo. Chân lý là khách quan và luôn luôn cụ thể. Người dân lao động chỉ thật sự tin tưởng, đặt niềm tin, hy vọng vào ai, tổ chức nào nếu tổ chức đó, người nào đó sống, chiến đấu, lao động hết lòng vì họ; thật sự chăm lo cho cuộc sống ấm no, hạnh phúc của họ. Thực tế đã khẳng định rằng, chỉ có Đảng Cộng sản Việt Nam, Bác Hồ kính yêu và những cán bộ, đảng viên chân chính của Đảng mới làm tốt điều đó và xứng đáng được nhân dân ngưỡng mộ, tin yêu. Giải quyết tốt sự suy thoái tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống nhằm gột rửa cho sạch thói hư, tật xấu để uy danh của Đảng ta sống mãi trong lòng nhân dân, dân tộc; là cách tốt nhất để thực hiện thành công mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội vì dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh, vững bước tiến lên chủ nghĩa xã hội.
Logged
saoden
Thành viên
*
Bài viết: 1075



« Trả lời #34 vào lúc: 08 Tháng Mười Một, 2022, 07:30:46 pm »

IV- PHÒNG, CHỐNG THAM NHŨNG VỚI VIỆC NGĂN CHẶN, ĐẨY LÙI "TỰ DIỄN BIẾN", "TỰ CHUYỂN HÓA" TRONG NỘI BỘ TA

Trong tác phẩm Đường cách mệnh xuất bản năm 1927, lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc đã vạch ra con đường đấu tranh cho cách mạng Việt Nam. Một trong những vấn đề quan tâm hàng đầu của Người là tư cách một người cách mạng. Trong tác phẩm này, tiêu chuẩn đầu tiên của người cách mạng, theo Người, là cần, kiệm, vị công, vong tư (điều thứ 8 ) và ít lòng tham muốn về vật chất (điều thứ 13). Nhấn mạnh điều đó vì Người đã nhìn thấy trước tác hại của tệ nạn tham nhũng, lãng phí và sự cần thiết phải nêu gương trước quần chúng về mặt đạo đức, nhân cách của người cách mạng. Đây là phương cách tốt nhất để họ không bị vương vấn bởi lòng ham muốn vật chất, không bị "mắc bẫy" bởi lòng tham, sự ham muốn thôi thúc. Đồng thời, trong tác phẩm này, Người đã đề ra biện pháp phòng ngừa tham nhũng, lãng phí, nhất là đối với những cán bộ có chức, có quyền; coi tham nhũng, lãng phí là thứ "giặc nội xâm" phải dẹp bỏ nó và đó là công việc cần kíp như chống giặc ngoại xâm.


Khi Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ra đời, Người cho rằng, Nhà nước ta là nhà nước của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân. Cán bộ cách mạng tham gia chính quyền nhà nước là làm phận sự "công bộc của dân", tức là những người được dân tin yêu cử ra gánh vác những công việc chung, từ việc nước, việc làng đến việc lo "miếng cơm, manh áo" cho nhân dân, kể cả việc học hành của con trẻ. Người luôn luôn căn dặn: Cán bộ cách mạng phải hết lòng vì cách mạng, nhân dân tín nhiệm thì đứng ra lo giúp công việc của nhân dân chứ không phải là để "đè đầu, cưỡi cổ" nhân dân, cai trị nhân dân. Tuy nhiên, trong bộ máy chính quyền nhà nước thời kỳ sau cách mạng, ở một số địa phương, bộ, ngành đã xuất hiện không ít vụ việc: cán bộ sách nhiễu nhân dân, thậm chí đã xuất hiện tệ nạn tham nhũng, quan liêu, hách dịch ở một số làng, xã, huyện, tỉnh; gây bất bình trong nhân dân.


Vì vậy, trong Thư gửi ủy ban nhân dân các kỳ, tỉnh, huyện và làng, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ rõ những khuyết điểm mà một số cán bộ mắc phải, đó là trái phép, cậy thế, hủ hóa, tư túng, chia rẽ, kiêu ngạo... Người cho rằng, đó là điều đáng tiếc đối với những cán bộ cách mạng đã từng "vào sinh ra tử", sẵn sàng hy sinh vì nước, vì dân; song nay, trong độc lập, hòa bình lại muốn "ăn trên, ngồi trốc", chỉ lo chuyện ăn ngon, mặc đẹp, sống xa xỉ... trong lúc nhân dân còn đói khổ, đất nước còn nghèo. Vậy thì, tiền bạc dùng để mua sắm, tiêu pha, ăn chơi xa xỉ, những cán bộ ấy lấy đâu ra nếu như không biến của công thành của tư thì cũng bóp nặn dân chúng bằng cách này, cách khác. Chủ tịch Hồ Chí Minh coi đó là điều đáng buồn, đáng chê trách. Vì vậy, Người yêu cầu tổ chức đảng phải thải loại "những sâu mọt ấy" ra khỏi đội ngũ những người cách mạng; kiên quyết không để "con sâu làm rầu nồi canh", làm tổn hại thanh danh của Đảng.


Người đã viết "tiền là mạch máu cho mọi công việc, tiền là cần thật nhưng không phải vì cần tiền mà cứ đi đè đầu bóp cổ hay dùng những thủ đoạn không chính đáng để vơ vét lấy tiền"1 (Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội, 2011, t.4, tr.62) của nhân dân. Người nhấn mạnh: Đối với một nước còn nghèo, nhân dân còn đói khổ thì việc một số cán bộ tham nhũng, sống xa xỉ là một việc làm phi nhân tính, là có tội với các anh hùng, liệt sĩ, là phản bội nhân dân. Họ không những không nêu tâm gương sáng về việc cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư để cho dân chúng noi theo, làm theo mà ngược lại, còn làm tổn hại uy tín, thanh danh của người cách mạng. Vì vậy, Người dạy rằng, trong lúc cách mạng gặp khó khăn thì tư cách đạo đức của người cách mạng chân chính phải được đặc biệt đề cao; trong gian khó, đạo đức người cách mạng phải sáng trong như gương. Khi viết tác phẩm sửa đổi lối làm việc, năm 1947, Người nêu 12 điều về tư cách của đảng chân chính cách mạng; trong đó nêu rõ trách nhiệm của cán bộ, đảng viên là phải gìn giữ thanh danh người cách mạng, tuyệt đối đề cao đức tính: Nhân, Nghĩa, Trí, Dũng, Liêm; tận trung với nước, tận hiếu với dân.


Người khẳng định: "Người cách mạng phải có đạo đức, không có đạo đức thì dù tài giỏi mấy cũng không lãnh đạo được nhân dân"1 (Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.5, tr.292). Người phê phán bệnh tham lam, tắt mắt, hay lấy của công làm của riêng ở một số cán bộ, những người mà làm việc gì cũng chỉ lo thu vén cho riêng mình, hạ thấp, coi thường lợi ích của tập thể, của Đảng, của dân tộc. Theo Người, tính "tự tư, tự lợi" là mầm mống đẻ ra bệnh tham ô, tham nhũng, quan liêu. Những người dựa vào thế lực của Đảng, cậy chức, dùng quyền lực mà mình đang nắm giữ đế thu vén cho lợi ích của riêng mình thì nhất thiết phải dùng đến biện pháp kỷ luật, thậm chí phải loại bỏ họ ra khỏi hàng ngũ của Đảng.


Nhiều lần, Người nhắc nhở cán bộ ta, khi xã hội còn lạc hậu, tàn dư của chế độ thực dân, phong kiến còn ảnh hưởng nặng thì bệnh hám danh, hám lợi phải hết sức đề phòng, nhất là những người có chức, có quyền; những người đứng đầu các cơ quan, đơn vị, có điều kiện nắm giữ vật chất, tài chính, tài sản công; đừng vì công việc có chút ích lợi là sinh lòng tham, tự cho phép mình đứng trong cuộc, gọi là chỉ đạo nhưng thực chất là để trục lợi, kiếm lời. Người chỉ rõ: Nhân dân có trăm tai ngàn mắt, cán bộ làm gì, họ đều biết rõ. Vì vậy, cán bộ cách mạng hãy hết sức cảnh giác về điều ấy; thấy lợi cho cá nhân mình thì phải tránh xa. Có như vậy, nhân dân mới nể phục, tin yêu. Nếu cán bộ không dứt ra khỏi vòng danh lợi thì chắc chắn dễ mắc phải căn bệnh tham ô, tham nhũng và như vậy, cán bộ ây sẽ trở thành nô lệ của đồng tiền, của thứ vật chất thấp hèn; không nói được ai, đã tự làm hư hỏng mình, thậm chí làm hư hỏng con cái, gia đình và làm hỏng cả tổ chức.
Logged
saoden
Thành viên
*
Bài viết: 1075



« Trả lời #35 vào lúc: 08 Tháng Mười Một, 2022, 07:32:45 pm »

Cùng với việc đề ra chính sách cải tạo xã hội, Đảng cũng cần đề ra chính sách cải tạo cán bộ, nhất là cán bộ có dâu hiệu vi phạm kỷ luật, mắc khuyết điểm; đề cao tinh thần trách nhiệm, có biện pháp phòng tránh từ xa, không để cán bộ mắc bệnh tham ô, lãng phí rồi sau mới kiểm điểm bởi không chỉ mất thời gian, công sức của tổ chức mà còn gây nên sự đố kỵ, nghi ngờ, mất đoàn kết trong cơ quan, đơn vị; mất niềm tin của nhân dân đối với Đảng, Nhà nước. Đồng thời, Người căn dặn: Đảng phải có chính sách khuyến khích, bảo vệ mọi người phát hiện những cán bộ có dâu hiệu tham ô, lãng phí, quan liêu để có biện pháp xử lý thích đáng cũng như có chính sách khen thưởng kịp thời, thỏa đáng đối với những người có công phát hiện, giới thiệu người tài, đức trong dân chúng để Đảng bồi dưỡng, đưa họ vào tổ chức để chăm lo công việc của Nhà nước, của nhân dân. Người nhấn mạnh: cán bộ cách mạng phải là những người biết thương yêu nhân dân, quý trọng sức lao động của nhân dân, thực sự vì nhân dân thì mới tránh được bệnh tự tư, tự lợi, lấy của công làm của riêng. Muốn vậy, Người yêu cầu các cấp, các ngành, cán bộ từ trung ương đến cơ sở phải đề cao tự phê bình và phê bình. Theo Người, ở đâu và nơi nào làm tốt việc tự phê bình và phê bình thì ở đó có nhiều tấm gương tiêu biểu về lãnh đạo, quản lý và lao động giỏi; ở đó hạn chế được những hiện tượng tiêu cực: tham ô.


Ngược lại, ở đâu, tổ chức nào coi thường, buông lỏng công tác lãnh đạo, quản lý, xa rời nguyên tắc tự phê bình và phê bình thì ở đó tham ô, lãng phí, tiêu cực sẽ đua nhau "sinh sôi, nảy nở", gây hại cho nhân dân. Người cho rằng, tham ô là hành động xấu xa nhất, tội lỗi đê tiện nhất trong xã hội. Tham ô là trộm cắp của công, chiếm của công làm của tư. Nó làm hại đến thanh danh của Đảng, làm hỏng cán bộ. Vì vậy, Đảng ta cần phải đẩy mạnh chống tham ô, lãng phí.


Theo Người, bệnh tham ô, quan liêu và lãng phí luôn gắn chặt với nhau. Người mắc bệnh quan liêu thì đồng thời dễ mắc bệnh tham ô, lãng phí. Để cán bộ không mắc khuyết điểm, sai lầm, không bị "lây nhiễm" bệnh tham ô, lãng phí, quan liêu thì Đảng cần phải có hệ thống giải pháp đồng bộ, thiết thực, cụ thể. Trong đó, đề cao tinh thần trách nhiệm của mỗi cán bộ, đảng viên, để họ có đủ sức tham gia đấu tranh ngăn chặn, đẩy lùi tham ô, lãng phí, quan liêu. Đây là vấn đề cấp bách, không thể làm nửa vời, hoặc lừng chừng. Các tổ chức đảng ở các cấp, các ngành cần phải quan tâm đặc biệt công tác giáo dục, bồi dưỡng cán bộ, đảng viên. Phải coi đó là cuộc chiến đấu sinh tử để bảo vệ Đảng, Nhà nước; là việc làm thiết thực để chống giặc nội xâm.


Trong nhiều việc phải làm thì việc nêu cao đạo đức cách mạng, quét sạch chủ nghĩa cá nhân, thực hiện cho được cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư; hết lòng hết sức phục vụ Tổ quốc, phục vụ nhân dân là giải pháp cần được ưu tiên hàng đầu. Bởi lẽ, chủ nghĩa cá nhân là một tệ nạn xã hội, nó làm hư hỏng cán bộ, phá hoại tổ chức một cách ngấm ngầm, âm ỉ như loại sâu mọt đục khoét thân cây từ bên trong, rất khó nhìn thấy, không thể diệt trừ tận gốc. Người mắc bệnh chủ nghĩa cá nhân thì làm việc gì cũng chỉ nghĩ đến lợi ích riêng, chỉ lo thu vén cho mình, không lo "mình vì mọi người mà chỉ muốn mọi người vì mình". Hơn thế nữa, bệnh cá nhân chủ nghĩa làm cho cán bộ ngại khổ, ngại khó, thấy lợi là hám, thấy tiền là thích, thấy gái là mê và nó dẫn đến bệnh tham ô, hủ hóa, lãng phí, xa hoa. Sự phát tác của căn bệnh tham ô đẻ ra tính tự cao tự đại, coi mình là tài giỏi, đứng trên tập thể, xem thường quần chúng và tất yếu nảy sinh tính độc đoán, chuyên quyền, gia ơn, ban phát. Đó cũng là nguyên nhân sâu xa dẫn đến sự mất dân chủ, thiếu công khai, minh bạch, mất tính đoàn kết, xa rời kỷ luật, ra sức chạy chức, chạy ghế, chạy quyền; kém tinh thần trách nhiệm, dẫn tới suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống; làm hư hỏng tổ chức, phá hỏng chế độ.


Rõ ràng, người mắc bệnh cá nhân chủ nghĩa thì đương nhiên, bản thân bị hư hỏng, nhân cách, đạo đức, phẩm giá người đảng viên không vẹn toàn; gia đình, con cái, người thân theo đó cũng hư hỏng và tổ chức cũng bị liên lụy, ảnh hưởng xấu. Vì vậy, trong bất luận điều kiện, hoàn cảnh nào, tổ chức Đảng, chính quyền phải nhận diện cho rõ những dấu hiệu cán bộ bị mắc những chứng bệnh ấy để kịp thời "cứu chữa", kịp thời ngăn chặn, không để bệnh lây nhiễm, ảnh hưởng đến người khác. Phê phán, tích cực chống chủ nghĩa cá nhân là cần thiết, song cũng cần phân biệt rõ chủ nghĩa cá nhân với lợi ích cá nhân chính đáng. Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn luôn chú trọng, đề cao lợi ích cá nhân, khẳng định lợi ích cá nhân nằm trong lợi ích tập thể, là bộ phận của lợi ích tập thể. Vì lẽ đó, chăm lo, bảo vệ lợi ích tập thể thì lợi ích riêng, lợi ích cá nhân sẽ có điều kiện phát triển, đáp ứng và thỏa mãn nhu cầu nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân.


Tham nhũng ở nước ta hiện nay rất phức tạp, biểu hiện của nó muốn hình muốn vẻ với nhiều sắc thái, loại hình khác nhau; mức độ, phạm vi và hậu quả khôn lường. Biểu hiện của tham nhũng tập trung chủ yếu ở một bộ phận quan chức, công chức sa sút phẩm chất, nhân cách người cách mạng trong bộ máy công quyền của Đảng, Nhà nước thậm chí tham nhũng có cả trong lĩnh vực tư pháp, trong điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án. Mức độ tham nhũng cũng rất khác nhau, có tham nhũng nhỏ, lặt vặt như sự sách nhiễu, gây phiền hà cho người dân hoặc cố tình dây dưa, buộc người dân muốn nhanh, được việc thì phải bỏ tiền để bôi trơn, "nhờ giúp đỡ". Vì vậy, đáng chú ý là các vụ việc tham nhũng lớn, mức độ hệ trọng cao, thường xảy ra ở việc cất nhắc, đề bạt, bổ nhiệm chức vụ, thuyên chuyển công tác, xin cho, quản lý, sử dụng ngân sách. Đây là những loại hình rất khó kiểm soát, phát hiện. Tình trạng này thường diễn ra "kín đáo" với sự "thông đồng", ngầm hiểu "tiền nào của ấy", "được việc người được việc ta", hai bên cùng có lợi, chỉ thiệt hại cho tập thể, Nhà nước. Điều này dễ xảy ra đối với các vị trí có khả năng sinh lợi cao, liên quan trực tiếp đến các vấn đề kinh tế, thương mại, tài chính. Có thể coi đây là luật bất thành văn, thường được coi là một quy định ngầm, phổ biến diễn ra qua khâu trung gian, có người môi giới, "bắn tin", "làm cò mồi", kiểu "rung chà cá nhảy" hoặc trực tiếp giao dịch, thỏa thuận theo phương thức "được người, được việc, được quan hệ", nghĩa là các bên cùng có lợi. Người chạy chức, chạy ghế thường hào phóng, làm trước khâu "ứng trước" để sau khi có chức vụ thì thu hồi sau. Hiện tượng này khá phổ biến, mang tính toàn cầu, có ở mọi quốc gia, dân tộc. Một trong những biểu hiện của tham nhũng lớn là tham nhũng nhóm, lợi ích nhóm với những hành vi trục lợi cực lớn thông qua làm ăn theo kiểu "đánh quả", "một vốn bốn mươi lời". Đây là hình thức tham nhũng có tổ chức, có người đứng ra làm "đầu nậu", chủ mưu, thao túng các tổ chức, một số người có quyền cao, chức trọng và nó thường diễn ra ở các hoạt động dự án, đầu tư, đất đai, tài chính, ngân hàng, xây dựng cơ bản, xuất nhập khẩu, xây dựng đô thị, xây dựng nông thôn mới, v.v... Đây là điều giải thích tại sao nhiều vụ khiếu kiện tập thể kéo dài, vượt cấp, rất khó điều tra, chưa thể giải quyết dứt điểm, gây khó khăn cho tổ chức, làm giảm sút niềm tin của nhân dân đối với Đảng, Nhà nước và chế độ ta.
Logged
saoden
Thành viên
*
Bài viết: 1075



« Trả lời #36 vào lúc: 08 Tháng Mười Một, 2022, 07:34:03 pm »

Rõ ràng, tham nhũng đang là một căn bệnh nan y, nhức nhối trong xã hội ta, gây bất bình trong nhân dân, làm xói mòn niềm tin của nhân dân đối với Đảng, Nhà nước; làm hoen ố những hình ảnh, biểu tượng tốt đẹp mà nhân dân cả nước dưới sự lãnh đạo của Đảng đã bằng mồ hôi, công sức sáng tạo nên. Tham nhũng đã và đang tạo ra những vòng xoáy của tiền bạc, quyền lực, lôi cuốn không ít người lao vào việc chạy chức, chạy quyền, mua danh, đổi chác, phạm tội và làm tăng tiêu cực, tệ nạn xã hội.


Đó là những việc làm bất lương, bất chính, bất nghĩa, thậm chí gây tội ác, mất tính người. Nếu không kịp thời chặn đứng, đẩy lùi, tẩy rửa sạch nó thì xã hội ta rồi sẽ ra sao? Các thế hệ con cháu sẽ nhìn các thế hệ cha chú như thế nào? Nếu không muốn nói là họ nghi ngờ, mất niềm tin và héo mòn hy vọng tốt đẹp về một xã hội tương lai, để tự tin phấn đấu, tiến lên phía trước với mục đích, động cơ lành mạnh, trong sáng, quyết tằm thực hiện ước mơ, hoài bão: mang tài năng, trí tuệ, công sức xây dựng một chế độ xã hội tốt đẹp, văn minh, thịnh vượng, hạnh phúc.


Có thể khẳng định rằng, dưới các vỏ bọc khác nhau, các phương cách che đậy tinh vi rất khác nhau, song xét về bản chat, tham nhũng là những hành vi ăn cướp, tước đoạt tiền của, tài sản của Nhà nước và của nhân dân, lấy của chung biến thành của riêng, làm giàu và mưu lợi bất chính nhờ lợi dụng chức quyền, quan hệ "cánh hẩu" kiểu đôi bên cùng có lợi. Điều đó đã và đang biến dạng thành "văn hóa phong bì", "thúc đẩy tiến độ" hay nói theo kiểu thông thường "làm luật rừng", "bôi trơn", v.v...


Với quyết tâm cao của Ban Chấp hành Trung ương Đảng ta, của các cấp ủy đảng, chính quyền và nhân dân cả nước, công tác phòng, chống tham nhũng thời gian qua đã có những bước tiến bộ rất đáng khích lệ. Đặc biệt là việc đẩy nhanh tiến độ xây dựng, hoàn thiện thế chế, thành lập, củng cố các tổ chức, sự ra mắt Ban Chi đạo Trung ương về phòng, chống tham nhũng, cũng như việc thành lập các ban nội chính cấp tỉnh, thành phố, thực hiện dân chủ, công khai, minh bạch trong các cơ quan, tổ chức, đơn vị; đẩy mạnh công tác thông tin, tuyên truyền, giáo dục phòng, chống tham nhũng. Mặt khác, những tác động tích cực của Nghị quyết Trung ương 4, khóa XI đã làm một số người chùn chân, không dám lún sâu vào vòng tham nhũng; đồng thời, chúng ta đã khởi tố và xét xử một số vụ án tham nhũng lớn đã có tác dụng răn đe, phòng ngừa các hiện tượng tham nhũng mới phát sinh.


Tuy nhiên, tình hình tham nhũng không vì thế mà chấm dứt ngay, thậm chí nó bị biến dạng, thay hình, đổi dạng, lột xác với nhiều chiêu bài tinh vi, khôn khéo hơn. Đáng chú ý là một số cấp ủy đảng và người đứng đầu cơ quan, đơn vị vẫn chưa tích cực vào cuộc, chưa có những quyết sách đủ mạnh để phòng, chống tham nhũng. Công tác tuyên truyền, giáo dục pháp luật tuy có chuyển biến tiến bộ, song chưa đạt kết quả như mong muốn. Việc ban hành một số văn bản dưới luật về phòng, chống tham nhũng còn chậm, chưa đủ mạnh để răn đe, ngăn chặn, tiến tới chấm dứt tệ nạn này. Công tác kiểm tra, giám sát các khâu, các lĩnh vực, các địa bàn trọng điểm chưa được thường xuyên, liên tục. Tiến độ xử lý một số vụ án tham nhũng nghiêm trọng, phức tạp, mà dư luận xã hội quan tâm còn chậm trễ. Công tác giám định tư pháp phục vụ xử lý án tham nhũng, án kinh tế có dấu hiệu tham nhũng còn nhiều bất cập.


Tại sao đấu tranh chống tham nhũng lại khó khăn như vậy? Ở đây có nhiều nguyên nhân, cả khách quan và chủ quan, song nguyên nhân chủ quan là chủ yếu. Trong khi chúng ta đang ra sức phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, thì ngoài mặt tích cực là chủ yếu, chúng ta đồng thời phải đối mặt với tác động tiêu cực từ mặt trái của cơ chế thị trường mà bản thân nó chưa phải là một nền kinh tế thị trường tiên tiến, hiện đại, văn minh. Vì vậy, các chuẩn mực, giá trị của văn hóa kinh doanh, văn hóa doanh nhân chưa được hình thành rõ nét.


Với một nền kinh tế thị trường còn sơ khai thì tính hoang dã của nó còn rất mạnh, chứa đầy những tiêu cực, tệ nạn vì lợi ích cá nhân, sự sùng bái đồng tiền cũng như tính vụ lợi, ích kỷ, thích làm giàu và làm giàu bằng mọi giá trỗi dậy, không thể kiểm soát. Thêm vào đó, luật pháp của nước ta chưa đồng bộ, cơ chế chính sách còn nhiều bất cập cũng là rào cản lớn đế xây dựng xã hội dân chủ, công bằng, văn minh. Vì vậy, những hạn chế, yếu kém trong quản lý nền kinh tế cũng là một nguyên nhân dẫn đến các "khe hở", có đất cho tham nhũng tồn tại. Mặt khác, chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức ở nước ta còn thâp, môi trường dân chủ, công khai, minh bạch còn hạn chế; văn hóa và sự chênh lệch về nhận thức giữa các vùng, miền rất khó khắc phục ngay một sớm một chiều. Đó là mảnh đất "màu mỡ" dung dưỡng cho bệnh tham nhũng sinh sôi, nảy nở.

Vì vậy, cần tăng tính chuyên nghiệp cho đội ngũ công chức; đổi mới cơ chế dùng người, đặt người vào công việc, khuyến khích tài năng phát triển; hạn chế sự hám danh, hám lợi, tham chức, tham quyền, trục lợi; sự thiếu gương mẫu của cán bộ, đảng viên. Khắc phục tình trạng hệ thống thể chế pháp luật và tổ chức thực hiện, thi hành luật pháp không đồng bộ, chất lượng thấp; đồng thời, từng bước cải tiến, đổi mới chính sách tiền lương đang rất lạc hậu như hiện nay, để người lao động có thể sống được bằng tiền lương, thu nhập chính đáng, không cần và không muốn, không dám tham nhũng.


Một trong những giải pháp hữu hiệu để phòng, chống tham nhũng là ngăn chặn, đẩy lùi bệnh cá nhân chủ nghĩa, giữ nghiêm kỷ luật Đảng, thực hiện tốt pháp luật của Nhà nước, đề cao tự phê bình và phê bình. Muốn vậy phải duy trì thường xuyên chế độ sinh hoạt Đảng và thực hiện việc nghiêm túc công tác tự phê bình  và phê bình, đi đôi với tăng cường công tác kiểm tra, giám sát của Đảng.


Bởi lẽ, cán bộ tốt hay xấu chủ yếu là do công tác giáo dục trong Đảng tạo nên. Giáo dục trong Đảng bao hàm cả giáo dục kiến thức, tri thức, giáo dục đạo đức, nhân cách người cách mạng. Chủ tịch Hồ Chí Minh dạy rằng, mỗi cán bộ, đảng viên phải ra sức học tập để làm người, làm cán bộ, để phụng sự giai cấp, phục vụ nhân dân, cống hiến cho Tổ quốc và nhân loại. Người cho rằng, "muốn xây dựng chủ nghĩa xã hội phải bồi dưỡng con người xã hội chủ nghĩa"1 (Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.14, tr.140). Con người xã hội chủ nghĩa, theo Người, phải có các phẩm chất đạo đức "Cần kiệm liêm chính, chí công vô tư, một lòng một dạ phục vụ nhân dân, phục vụ cách mạng"2 (Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.14, tr.140); đồng thời phải biết đấu tranh, kiên quyết diệt trừ, loại bỏ thói hư, tật xấu của xã hội cũ còn sót lại. Công việc đó thuộc trách nhiệm của mỗi gia đình, nhà trường, xã hội và cả cộng đồng. Người luôn đề cao tinh thần trách nhiệm của cán bộ, đảng viên trong việc đẩy lùi tiêu cực, chống tham ô, tham nhũng, lãng phí; đồng thời, căn dặn mọi người tự mình tu dưỡng, thành khẩn sửa chữa khuyết điểm khi mắc phải sai lầm.
Logged
saoden
Thành viên
*
Bài viết: 1075



« Trả lời #37 vào lúc: 08 Tháng Mười Một, 2022, 07:36:24 pm »

Trong cuộc vận động ba xây, ba chống, Người nêu rõ: Cán bộ phải gương mẫu, xung phong, thật thà tự phê bình và thành khẩn phê bình, có khuyết điểm thì quyết tâm sửa chữa; đặc biệt Người lưu ý những cán bộ đứng đầu cơ quan, đơn vị; được Nhà nước, tập thể giao cho quản lý kinh phí, tài sản công, nếu không tự tu tâm, dưỡng tính thì không thể vượt qua chính mình, chiến thắng lòng tham để thỏa mãn như cầu của cá nhân và gia đình. Cho nên, cán bộ phải biết tu dưỡng theo chuẩn mực cần, kiệm, liêm, chính, chí công, vô tư. Có như vậy mới hạn chế được lòng tham muốn về vật chất, mới chế ngự được mình khi sử dụng quyền lực. Đồng thời, người cán bộ phải gần gũi, sâu sát quần chúng, biết lắng nghe ý kiến của quần chúng, kể cả những ý kiến đóng góp về khuyết điểm, sai lầm của mình, để từ đó, nghiêm khắc tự kiểm điểm, nhận thức rõ cái đúng, cái sai; kiên quyết không để bọn cơ hội lợi dụng nhằm mưu cầu lợi ích cá nhân.


Mặt khác, trong tu dưỡng, rèn luyện đạo đức cách mạng, đối với mình phải nghiêm khắc, trung thực, thật thà; đối với người mắc khuyết điểm phải có thái độ dứt khoát, rõ ràng, vừa chỉ ra khuyết điểm, sai lầm của họ, vừa chỉ ra con đường, biện pháp để họ sửa chữa khuyết điểm, sai lầm, giúp họ tiến bộ. Điều đó có nghĩa là, phê phán, đấu tranh với khuyết điểm phải thẳng thắn, phải trung thực, phải có lý, có tình; biết động viên, cổ vũ, nêu gương người tốt việc tốt; đồng thời, "lấy cái đẹp dẹp cái xấu", làm cho cái tốt, cái thiện, cái tích cực có điều kiện phát triển. Đó là phương cách tốt nhất để đề phòng, ngăn chặn, đẩy lùi tiêu cực, tệ nạn xã hội. Trong bối cảnh tình hình hiện nay, cần đặc biệt lưu tâm việc đấu tranh phòng, chống suy thoái tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống của cán bộ, đảng viên; nhờ đó mà nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của Đảng, khôi phục niềm tin của nhân dân đối với Đảng, Nhà nước và chế độ ta.


Đấu tranh phòng, chống tham nhũng là trách nhiệm của toàn Đảng, toàn quân, toàn dân và của cả hệ thống chính trị, trong đó Quốc hội nước ta có vai trò đặc biệt quan trọng. Bởi lẽ, thông qua hoạt động giám sát, đại biểu Quốc hội có trách nhiệm phát hiện tham nhũng hoặc tiếp nhận thư tố giác của nhân dân về các vụ việc về tham nhũng để kiến nghị xử lý các cá nhân, tổ chức tham nhũng theo quy định của pháp luật. Với vị trí, vai trò của mình, Quốc hội có nhiều công cụ và phương thức để đấu tranh chống tham nhũng.


Là cơ quan duy nhất có quyền lập hiến, lập pháp, giám sát tối cao và quyết định những vấn đề quan trọng của đất nước, vai trò của Quốc hội trong đấu tranh chống tham nhũng thể hiện ở chỗ: thiết lập hệ thống luật pháp đủ mạnh để phòng, chống tham nhũng. Đó là việc ban hành các đạo luật thúc đẩy việc công khai, minh bạch, bảo đảm quyền tự do thông tin để giới truyền thông có điều kiện phát hiện, phanh phui các vụ việc tiêu cực hoặc thông qua các đạo luật để tăng cường sự giám sát của các thiết chế hiện hành hoặc định chế xác lập những tiêu chuẩn xã hội tối thiểu về tiền lương và bình đẳng trong việc làm, thu nhập và hưởng các phúc lợi xã hội... nhằm hạn chế các hành vi nhũng nhiễu nhân dân, tham ô, lãng phí.


Thông qua thực tiễn phòng, chống tham nhũng, Quốc hội sẽ quyết định việc bổ sung các điều khoản của pháp luật về chống tham nhũng, hiến định rõ các biện pháp hình sự, theo dõi, điều tra và trừng trị các hành vi tham nhũng. Đồng thời, bổ sung, hoàn thiện pháp luật về mua sắm tài sản công bảo đảm một cách công khai, minh bạch, hiệu quả. Đặc biệt, đề cao vai trò, trách nhiệm của người đứng đầu có liên quan đến việc quản lý, sử dụng tài chính, tài sản công. Mặt khác, trong lĩnh vực giám sát, Quốc hội có vai trò kiểm soát quyền lực nhà nước với mục đích cơ bản là phòng, chống sự tha hóa của quyền lực nhà nước, một loại hình, một biểu hiện của tham nhũng. Hiệu quả pháp lý, giám sát tôi cao của Quốc hội được thể hiện trong nghị quyết của kỳ họp Quốc hội hay trong nghị quyết về chất vân và trả lời chất vấn. Qua đó, chỉ ra những hạn chế thiếu sót và nguyên nhân của nó; đồng thời đề ra các giải pháp khắc phục, nhất là việc sửa đổi chính sách pháp luật.


Trong lĩnh vực quyết định những vấn đề quan trọng của đất nước, như hoạch định chính sách kinh tế, ngân sách, dự toán ngân sách, chi trả nợ, mức bội chi ngân sách, v.v..., Quốc hội quyết định về chương trình, mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội, nhất là việc triển khai các dự án quốc gia, các công trình xây dựng cơ bản từ nguồn ngân sách nhà nước; qua đó giám sát việc thực hiện ngân sách để góp phần phòng, chống tham nhũng từ khâu đầu tiên của quá trình xác lập, phân bổ nguồn lực ngay từ khâu xác định mục tiêu, lựa chọn giải pháp. Có như vậy mới phòng, chống được các hành vi sai trái của các tổ chức, cá nhân chịu trách nhiệm thực thi quyết định, nghị quyết của Quốc hội.


Muốn vậy, cần nâng cao vai trò của Quốc hội trong phòng, chống tham nhũng, trước hết là củng cố, tăng cường Ban Chỉ đạo Trung ương về phòng, chống tham nhũng. Theo đó, cần khảo cứu kinh nghiệm phòng, chống tham nhũng của một số nước làm tốt công việc này trên thế giới và khu vực để lựa chọn mô hình thích hợp vận dụng vào điều kiện cụ thể của nước ta. Đồng thời, tăng cường công tác giám sát của Quốc hội trong phòng, chống tham nhũng, đặc biệt là giám sát văn bản, thực thi các luật, pháp lệnh.


Việc giám sát cần tập trung vào các nội dung chủ yếu như giám sát quy định của các văn bản do một số cơ quan, người có thẩm quyền ban hành, giám sát tính đúng đắn, hiệu lực, hiệu quả của các văn bản mà Quốc hội đã ban hành, giám sát tính đúng đắn, hiệu lực, hiệu quả văn bản của các cơ quan bộ, ngành ban hành; đặc biệt lưu ý giám sát việc áp dụng các quy định của pháp luật trong đời sống xã hội, nhất là kết quả thanh tra, kiểm tra, kết quả kiếm toán của Quốc hội về tài chính - ngân sách.


Song song với các công việc nêu trên, cần tăng cường năng lực của các tổ chức thanh tra, kiểm tra của Chính phủ, của Kiểm toán Nhà nước và thanh tra, kiểm tra nội bộ các ngành, địa phương. Cần có quy định chặt chẽ, hợp lý về các quy trình nghiệp vụ, đặc biệt là quy trình liên quan đến tài sản công, tuyển dụng, bổ nhiệm nhân sự trong các cơ quan, đơn vị nêu trên.


Phòng, chống tham nhũng là một vấn đề phức tạp đòi hỏi toàn Đảng, toàn dân, toàn quân và cả hệ thống chính trị phải vào cuộc, trong đó Quốc hội cần tham gia tích cực, chủ động hơn nữa. Việc phát huy vai trò của Quốc hội trong phòng, chống tham nhũng phải được coi là một giải pháp hàng đầu cần phát huy mạnh mẽ, nhất là vai trò lập pháp, giám sát, quyết định các vấn đề quan trọng của đất nước để phòng, chống tham nhũng.


Có như vậy, các đại biểu Quốc hội mới phát huy được vai trò, trách nhiệm của mình trước cử tri, cùng các cơ quan chức năng kịp thời đề xuất các chủ trương, biện pháp hữu hiệu để phòng, chống tham nhũng như việc lấy phiếu tín nhiệm, bỏ phiếu bất tín nhiệm đối với các chức danh do Quốc hội bầu hoặc phê chuẩn. Nhờ đó mà giáo dục, răn đe, ngăn chặn, đẩy lùi các hành vi tham nhũng, không để cán bộ có cơ hội tham nhũng hoặc không dám tham nhũng.


Hoạt động phòng, chống tham nhũng của Quốc hội sẽ có tác dụng, ảnh hưởng tốt đến các đại biểu hội đồng nhân dân cấp tỉnh, thành phố và các cấp thuộc quyền; góp phần phòng, chống tham nhũng trong tình hình hiện nay là một trong những giải pháp hữu hiệu nhất để ngăn chặn, đẩy lùi âm mưu, thủ đoạn "diễn biến hòa bình"; không để các thế lực thù địch lợi dụng vấn đề này để chống phá ta.
Logged
saoden
Thành viên
*
Bài viết: 1075



« Trả lời #38 vào lúc: 08 Tháng Mười Một, 2022, 07:38:20 pm »

V- ĐẰNG SAU CÁI GỌI LÀ "DÂN CHỦ" VÀ "NHÂN QUYỀN"

Sau khi chế độ xã hội xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô và Đông Âu sụp đổ, phương Tây đã "hí hửng" cho rằng, cơ hội "ngàn vàng" đã đến để xóa bỏ các nước xã hội chủ nghĩa còn lại, sớm thực hiện giấc mộng "bá chủ thế giới".


Do sự biến đổi mau lẹ của thời cuộc nên phương thức "kinh điển" là dùng vũ khí, bạo lực vũ trang, gây chiến tranh, đem quân xâm lược nước khác đã trở nên kém hiệu quả, lỗi thời. Vì vậy, "diễn biến hòa bình" với các chiêu bài "dân chủ", "nhân quyền", "đa nguyên chính trị", "đa đảng đối lập",... được phương Tây coi là những "ngón đòn độc chiêu", hấp dẫn, được đưa vào các chương trình nghị sự, trở thành điểm "then chốt" của chiến lược đối ngoại thời hậu "chiến tranh lạnh" của phương Tây và là phương thức hữu hiệu nhất để họ áp đặt các giá trị dân chủ, nhân quyền tư sản "kiểu phương Tây" vào Việt Nam và nhiều nước trên thế giới với những toan tính phiêu lưu, mạo hiểm: chuyển hóa các nước vôĩi đã từng là xã hội chủ nghĩa theo quỹ đạo của phương Tây, tạo thuận lợi để họ xếp đặt lại trật tự thế giới sau khi chế độ xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô và Đông Âu sụp đổ theo hướng có lợi cho họ.


Rõ ràng, phương Tây đang ngộ nhận là họ "đứng trên người khác", là trung tâm văn hóa phát triển, đỉnh cao của nền dân chủ, có quyền ban phát cái gọi là "dân chủ, nhân quyền" cho toàn nhân loại; thực hiện công việc "nhân đạo" là đi "khai hóa văn minh" cho các dân tộc phương Đông mà theo họ là "lạc hậu", "kém cỏi", "chậm tiến". Vì thế, họ ra sức tán dương sứ mệnh "cứu vớt loài người", vạch sẵn các chương trình "can thiệp sâu vào nội bộ nhiều nước", phán xét, xếp loại các nước này về mức độ thực hiện dân chủ, nhân quyền theo "tiêu chuẩn phương Tây" và nếu quốc gia, dân tộc nào làm trái ý họ, muốn trượt ra ngoài "vòng cương tỏa" của họ, thì ngay lập tức, bị họ đưa vào danh sách "các nước còn nhiều hạn chế về quyền tự do, dân chủ", là đối tượng "cần theo dõi", "chỉnh đốn" với các thứ bậc cao, thấp khác nhau.


Thông qua hoạt động này, phương Tây ngang nhiên không chỉ tự thừa nhận mình là trung tâm của thế giới, điểm hẹn mà loài người cần gặp gỡ, vươn tới, rằng chỉ có các nước phát triển ở phương Tây mới là đại diện chân chính cho nền dân chủ, nhân quyền, là hình mẫu lý tưởng của sự phát triển kinh tế, văn hóa, khoa học và công nghệ..., mà các quốc gia, dân tộc khác cần phải làm theo; hơn thế, họ còn trắng trợn can thiệp thô bạo vào công việc nội bộ của các nước có độc lập, chủ quyền, ép buộc các nước đang phát triển "quay theo vòng xoáy", thực hiện sự sắp đặt của họ, ràng buộc các nước này, trong đó có Việt Nam bằng những điều khoản cam kết về "viện trợ kinh tế", "giúp đỡ nhân đạo" mà bất đắc dĩ, các nước nghèo phải chấp nhận, làm theo, v.v...


Phương Tây không hề "đếm xỉa" đến sự khác biệt giữa các quốc gia, dân tộc, vùng miền, giữa các nước ở phương Đông và phương Tây cũng như đặc điểm văn hóa, chính trị, kinh tế, phong tục, tập quán của mỗi quốc gia, dân tộc. Bằng văn hóa và lối sống phương Tây, họ đang phủ lên các quốc gia, dân tộc đang phát triển "làn sóng văn hóa dân chủ, nhân quyền phương Tây"; buộc mọi người phải thừa nhận rằng, chỉ có văn hóa dân chủ, nhân quyền phương Tây mới là hình mẫu chuẩn mực nhất mà nhân loại cần đạt tới, Việt Nam và các nước đang phát triển cần phải đi theo và làm theo. Và trên hết, sự giáo đầu về lý luận ấy đã và đang hợp lý hóa các hành vi bạo lực "đánh trước", "đánh phủ đầu" nhằm "phòng, chống, ngăn chặn chủ nghĩa khủng bố để bảo vệ các giá trị dân chủ, nhân quyền phương Tây", kể cả chiến lược "diễn biến hòa bình".


Phương Tây đã và đang tung ra luận thuyết cực kỳ nguy hiểm "dân chủ không biên giới", "nhân quyền cao hơn chủ quyền" và coi đó là chuẩn mực để thực hiện "chủ nghĩa can thiệp mới". Côxôvô, Irắc, Ápganixtan, Lybi, Xiri là kết quả của những cuộc thử nghiệm mà phương Tây sắm vai "vừa ăn cướp vừa la làng", "vừa là tội phạm vừa là thánh nhân".


Tuy nhiên, điều mà họ hứa hão là đem đến cho các nước này nền dân chủ, quyền con người, tự do, độc lập, sự phồn vinh thì sau nhiều năm can thiệp chẳng thấy kết quả của những lời hứa, mà chỉ thấy ở các quốc gia, dân tộc ấy máu đổ thêm nhiều, xung đột vũ trang và những vụ đánh bom liều chết, khủng bố với hàng chục ngàn người dân thường vô tội bị thiệt mạng; ở đó chẳng có một ngày yên ả, đã và đang thấm đầy máu và nước mắt, nạn đói, bệnh tật, thất học tràn lan, phụ nữ và trẻ em khổ ải đến cùng cực... Nhân dân các quốc gia, dân tộc mà người phương Tây tới "khai hóa" và cả loài người tiến bộ đang rất bất bình, đều lên tiếng phản đối quân xâm lược. Phải chăng kẻ đi phân phát dân chủ, nhân quyền lại chính là kẻ đang cướp đi quyền làm chủ, quyền sống làm người của những người dân vô tội, giày xéo lên độc lập, chủ quyền của các nước mà họ cho là đi thực hiện sứ mệnh bảo vệ dân chủ, nhân quyền.


Với Việt Nam, bằng mọi phương cách, họ đã và đang tung tin bịa đặt, nào là "Việt Nam thiếu văn hóa dân chủ, không có dân chủ, hạn chế quyền riêng tư của công dân", nào là "Việt Nam vi phạm nghiêm trọng quyền con người", v.v... Việc dựng lên những câu chuyện hoang đường, phi lý ấy đều nhằm mục đích kích động nhũng phần tử phản động, bất mãn với Đảng, Nhà nước, chế độ ta, tập hợp, tạo dựng phe cánh, gây "điểm nóng" về xung đột sắc tộc và tôn giáo, gây rối loạn tình hình chính trị, xã hội và khi có điều kiện thì tổ chức bạo loạn lật đổ, ví như các vụ bạo loạn ở Tây Nguyên các năm 2001, 2004, 2008 và một số địa phương khác.


Chúng ta ai cũng hiểu rằng, đằng sau cái gọi là "dân chủ", "nhân quyền", "viện trợ kinh tế', "giao dịch thương mại", "ngoại giao thân thiện", hợp tác là mưu đồ chính trị của họ mà mục tiêu cuối cùng là muốn chuyển hóa Việt Nam, đưa Việt Nam vào cuộc chơi với những chương trình hấp dẫn mà họ đã cài đặt sẵn; không phải và không bao giờ họ đem tiền của, công sức đến xây dựng chủ nghĩa xã hội cho chúng ta; thực hiện lời hứa đem lại hòa bình, dân chủ, nhân quyền và cuộc sống tốt đẹp cho người dân Việt Nam.


Ý đồ sâu xa của họ là làm mọi cách để lái nước ta đi theo quỹ đạo của chủ nghĩa tư bản, mà phương Tây là thế lực đứng đầu, thông qua chiêu bài "ngoại giao thân thiện", "hợp tác đầu tư, phát triển", cho vay vốn, hợp tác nghiên cứu, chuyên giao khoa học và công nghệ, trao đổi chuyên gia, nhằm biến Việt Nam thành "sân sau" của họ, phụ thuộc vào kinh tế và nền chính trị của họ.


Rõ ràng là, dùng con bài "tự do, dân chủ" là chưa đủ sức mạnh nên các nước phương Tây còn bổ sung, dùng thêm chiêu bài "nhân quyền" nhằm trợ giúp họ dễ bề tiếp cận, quay trở lại Việt Nam thuận lợi hơn, dễ bề che đậy mưu đồ lái Việt Nam theo con đường tư bản chủ nghĩa, quỹ đạo mà phương Tây đã vạch sẵn.


Thất bại ở Việt Nam là "cú sốc tính thần" mà sau nhiều năm, người phương Tây vẫn "chưa hoàn hồn". Sự cay cú và lòng hận thù của họ không thể nhạt phai một sớm một chiều. Vì vậy, xóa bỏ quá khứ, xóa bỏ sự ám ảnh chỉ có thể là xóa bỏ chế độ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam và "nhân quyền" đi kèm với "dân chủ" là một trong các ngón đòn họ tung ra vào thời điểm hiện nay. Chiêu bài dân chủ, nhân quyền là ngón đòn độc chiêu có thể giúp họ thực hiện mưu đồ phiêu lưu, mạo hiểm đó.


Nhân dân Việt Nam vốn đã đi qua hai cuộc chiến tranh thần thánh chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ xâm lược để tự bảo vệ mình, đã trải qua những năm tháng thăng trầm của lịch sử, đã từng đánh bại những kẻ thù hung hãn vào loại bậc nhất, nhì thế giới trong thời hiện đại; đã từng đứng lên đấu tranh tự giải phóng mình, trở thành chủ nhân đất nước; lẽ đương nhiên, biết nhìn nhận rõ ai là bạn, ai là thù, ai là tốt, ai là xấu.


Những người cổ súy cho cái gọi là dân chủ, nhân quyền phương Tây cần áp dụng nguyên mâu vào Việt Nam hãy đến các nghĩa trang Trường Sơn, Đường 9 ở Quảng Trị và hàng trăm nghĩa trang khác trên khắp mọi miền đất nước Việt Nam sẽ thấu hiểu như thế nào là đạo lý, lẽ phải, dân chủ, nhân quyền; chắc chắn tinh thần dân tộc sẽ được khơi dậy và họ sẽ biết phải sống như thế nào cho đúng lương tâm, danh dự, trách nhiệm của một công dân yêu nước.


Cùng với các chiêu bài về tự do, dân chủ, hợp tác, ngoại giao thân thiện là các chiêu bài "nhân quyền", "tự do thương mại", "hợp tác giáo dục - đào tạo"..., người phương Tây đến Việt Nam bằng nhiều cách; trong đó, có một phương cách "hiệu quả nhất", vừa tạo dựng được hình ảnh tốt đẹp, vừa thực hiện được mưu đồ "luồn thật sâu, leo thật cao" vào các tổ chức kinh tế, chính trị - xã hội ở Việt Nam; từ đó, gây dựng cơ sở, thực hiện "nội công, ngoại kích", chống phá ta trên nhiều mặt trận, cả chính trị, kinh tế, giáo dục - đào tạo, khoa học, công nghệ, cả văn hóa, ngoại giao, quốc phòng, an ninh.
Logged
saoden
Thành viên
*
Bài viết: 1075



« Trả lời #39 vào lúc: 08 Tháng Mười Một, 2022, 07:41:08 pm »

Một trong những nội dung mấu chốt, cốt lõi của vấn đề "nhân quyền ở Việt Nam" là phương Tây muốn xóa bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, tiến tới thực hiện chế độ đa nguyên chính trị, đa đảng đối lập, xóa bỏ chế độ xã hội chủ nghĩa ở nước ta.


Vì thế, hai trong nhiều vấn đề then chốt của các học thuyết "dân chủ, nhân quyền kiểu phương Tây áp dụng đối với Việt Nam" là xóa bỏ nền tảng tư tưởng của Đảng và vai trò lãnh đạo cách mạng Việt Nam của Đảng ta; từ đó, giành lại chiến thắng trong hòa bình. Sử dụng chiêu bài "dân chủ, nhân quyền" suy đến cùng là họ nhằm mục đích phá hoại Đảng, Nhà nước và chế độ xã hội chủ nghĩa ở nước ta. Nhìn tổng thể có thể thấy, các chiêu bài tự do, dân chủ, nhân quyền, đa nguyên chính trị, đa đảng đối lập, tôn giáo, dân tộc, phi chính trị hóa lực lượng vũ trang... đều nhằm vào mục đích duy nhất là xóa bỏ chế độ xã hội chủ nghĩa mà Đảng, Nhà nước và nhân dân ta đang đồng tâm, cố gắng xây đắp nên. Bởi lẽ, họ biết rằng, chừng nào ở Việt Nam còn có Đảng Cộng sản lãnh đạo thì chừng ấy ở đất nước này vẫn sẽ còn chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, vẫn sẽ đi theo con đường xã hội chủ nghĩa và điều đó là trái với ý đồ, ngược lại sự mong muốn của họ.


Một trong những nội dung quan trọng khác của học thuyết "dân chủ, nhân quyền" của phương Tây đối với Việt Nam là họ cố tình xuyên tạc, vu cáo Việt Nam "thiếu nền dân chủ", "vi phạm quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo", lấy đó làm cớ để tuyên truyền sai lệch, thiếu thiện chí khi dựng nên bức tranh u ám về Việt Nam, cho rằng, Đảng Cộng sản Việt Nam không có năng lực lãnh đạo cách mạng, không có khả năng đem lại cuộc sống hòa bình, ấm no, tự do, hạnh phúc cho đồng bào các dân tộc và tôn giáo. Với chiêu bài này, phương Tây đang tiếp tay cho các thế lực cực đoan tôn giáo, mở rộng không gian hoạt động, tạo ra môi hiểm họa đối với công cuộc đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa; qua đó, khuyến khích, kích động những phần tử bất mãn, phản động trong các tôn giáo nổi dậy chống đối Đảng, Nhà nước ta.


Sự thật của cái mà người phương Tây gọi là tự do tín ngưỡng, tôn giáo ở Việt Nam là một số tín đổ tôn giáo cực đoan đang tìm cách khôi phục lại các giáo phái đã bị đào thải trong lịch sử, cũng như phục hồi hoạt động của các tổ chức trá hình tôn giáo ở Việt Nam; đồng thời, kích động các tổ chức, lực lượng có quan điểm đối lập với Đảng, Nhà nước ta, phá hoại, chia rẽ khối đại đoàn kết toàn dân tộc, hạ thấp uy tín của Đảng. Thực chất của vấn đề "dân chủ, nhân quyền" mà các thế lực thù địch đang khuếch trương ầm ĩ là phủ nhận con đường, mục tiêu độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội mà Đảng, Bác Hồ và nhân dân ta đã lựa chọn, là sự phủ nhận nền tảng tư tưởng và vai trò lãnh đạo duy nhất của Đảng Cộng sản Việt Nam.


Làm việc đó, phương Tây đã và đang vi phạm luật pháp và các điều ước quốc tế về tôn trọng độc lập, chủ quyền của Việt Nam. Việc áp đặt các giá trị dân chủ, nhân quyền kiểu phương Tây vào Việt Nam dưới chiêu bài "dân chủ, nhân quyền, nhân đạo" chỉ là giả tạo, thực chất là vì lợi ích của họ, hoàn toàn không phải vì dân chủ, nhân quyền đích thực mang giá trị nhân đạo, nhân văn, cũng chẳng phải là lòng tốt, của giới cầm quyền các nước phát triển ở phương Tây, dành cho dân tộc Việt Nam.


Sự thật vẫn là sự thật và bản thân nó chứa đựng chân lý, không ai có thể dùng ý muốn chủ quan hoặc quyền lực chính trị, quân sự để áp đặt, chà đạp lên nó; đặc biệt là trong thế giới đương đại, khi mà giao lưu quốc tế được mở rộng, các phương tiện thông tin đại chúng đã đạt đến trình độ rất cao, không có điều gì có thể che giấu, bưng bít.


Công cuộc đổi mới toàn diện đất nước ở Việt Nam do Đảng Cộng sản khởi xướng và lãnh đạo gần 30 năm qua đã thu được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử. Bộ mặt của một đất nước sau 40 năm kết thúc chiến tranh xâm lược của đế quốc Mỹ đã hoàn toàn khác trước. Đất nước Việt Nam đã hồi sinh và đang phát triển mạnh mẽ, đời sống của hơn 90 triệu người dân Việt Nam ngày càng được cải thiện, không ngừng nâng lên, tốc độ tăng trưởng kinh tế cao, liên tục trong nhiều năm là trên 7%, riêng năm 2013, mặc dù chịu tác động, ảnh hưởng của suy thoái kinh tế toàn cầu nhưng kinh tế Việt Nam vẫn tăng trưởng 5,42%/năm, năm 2014 là 5,58%; đó là mức tăng trưởng mà nhiều nước trong khu vực không thể có được vào thời điểm suy thoái kinh tế toàn cầu.


Hằng năm, khách quốc tế, bạn bè khắp năm châu, trong đó có nhiều người phương Tây, những cựu binh Mỹ đã từng tham chiến ở chiến trường Việt Nam đến tham quan, du lịch đều nhìn thấy sự thật: Đất nước Việt Nam sau 40 năm kết thúc chiến tranh đã thay da đổi thịt, sự sống đã hồi sinh, đang phát triển; dù còn nhiều việc phải làm, đời sống chưa thật sự khá giả; song cái quý nhất là chính trị - xã hội ổn định, cuộc sống của nhân dân ta thật sự có hòa bình, an ninh tốt, nhân dân thật sự là chủ nhân xây dựng và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa.


Hiến pháp năm 2013, nhất là chương 2 với nhiều điều mới, phản ánh rất rõ tính chất ưu việt của nền dân chủ, nhân quyền của dân tộc Việt Nam, thành quả to lớn của cách mạng Việt Nam. Đó là điều hơn hẳn những người tự cho mình cái quyền đi phán xét, ban phát dân chủ, nhân quyền cho quốc gia, dân tộc khác, nhưng ở ngay nước họ, tệ nạn xã hội còn nhiều, súng đạn buôn bán tràn lan, tệ nạn khủng bố, giết người vô cớ liên tục diễn ra, biểu tình, bãi công là chuyện thường ngày như cơm bữa, v.v... Phải chăng như thế là tự do, dân chủ, là quyền con người được tôn trọng, đề cao?


Cuộc sống vẫn cứ thế, trôi đi theo quy luật vận hành của nó. Những điều giản dị ở Việt Nam là chăm lo cho nước được độc lập, nhân dân được tự do, đồng bào ta ai cũng có cơm ăn, áo mặc, ai cũng được học hành đã và đang được khẳng định. Đó là đạo lý, là lẽ sống giản dị, chân tình của người dân Việt Nam tin yêu, đi theo Đảng. Ai đó tự thừa nhận là tốt bụng, có lương tâm, biết sống vì con người thì xin hãy đừng làm những điều sai trái, phản dân, hại nước, cản trở sự tiến bộ xã hội, phủ nhận lịch sử. Giá rét sẽ qua đi, mùa xuân sẽ đến. Ai đó dù cố tình cũng chỉ có thể bóp nát được một vài bông hoa, còn muốn hủy diệt mùa xuân là không thế, không bao giờ làm được. Quy luật vận động của giới tự nhiên cũng như của xã hội ngàn đời vẫn thế. Còn nếu như ai đó vẫn cứ lên lớp về "dân chủ, nhân quyền" này nọ, thì hãy nghiên cứu kỹ lưỡng lịch sử ngàn năm đấu tranh để dựng nước và giữ nước của dân tộc Việt Nam; xin hãy đến thăm đất nước Việt Nam và tận mắt nhìn thấy những thành tựu to lớn mà nhân dân ta đã đạt được trong công cuộc đổi mới toàn diện đất nước, chắc chắn sẽ kiểm định rõ ràng đâu là phải - trái, đâu là thật - giả, trắng - đen.
Logged
Trang: « 1 2 3 4 5 6 7 »   Lên
  In  
 
Chuyển tới:  

Powered by MySQL Powered by PHP Powered by SMF 1.1.21 | SMF © 2006-2008, Simple Machines

Valid XHTML 1.0! Valid CSS! Dilber MC Theme by HarzeM