Lịch sử Quân sự Việt Nam
Tin tức: Lịch sử quân sự Việt Nam
 
*
Chào Khách. Bạn có thể đăng nhập hoặc đăng ký. 20 Tháng Tư, 2024, 09:16:16 pm


Đăng nhập với Tên truy nhập, Mật khẩu và thời gian tự động thoát


Trang: « 1 2 3 4 5 6 7 8 9 »   Xuống
  In  
Tác giả Chủ đề: Nguồn sức mạnh và những ký ức không quên  (Đọc 3014 lần)
0 Thành viên và 1 Khách đang xem chủ đề.
vnmilitaryhistory
Moderator
*
Bài viết: 1830



« Trả lời #60 vào lúc: 07 Tháng Mười Một, 2022, 08:16:10 pm »

THẮM TÌNH KHU B


Lê Miên


Ngày 5 tháng 8 năm 1964, sau khi dựng ra cái gọi là "Sự kiện vịnh Bắc Bộ", đế quốc Mỹ tiến hành cuộc tập kích đường không đầu tiên đánh "trả đũa" miền Bắc nước ta. Tiếp đó, trước nguy cơ phá sản của chiến lược "Chiến tranh đặc biệt" cùng với việc đưa quân ào ạt vào miên Nam, từ ngày 7 tháng 2 năm 1965, đế quốc Mỹ bắt đầu mở cuộc chiến tranh "leo thang" bằng không quân và hải quân đánh phá miền Bắc. Quân chủng Phòng không - Không quân từ trạng thái thời bình chuyển sang thời chiến. Các cơ quan của Bộ Tư lệnh Quân chủng được lệnh chuẩn bị dời vào khu sơ tán (gọi là khu B) để làm việc.


Tuy nhiên, căn cứ vào mức độ "leo thang" của địch, mà các cơ quan của quân chủng khi thì làm việc ở khu A (sân bay Bạch Mai), lúc thì dời vào khu B.

Khu sơ tán (tức khu B) là một dãy núi đất, cây cối rậm rạp, chạy dài từ đầu Chúc Sơn trên đường số 6, thuộc huyện Chương Mỹ (Hà Đông), tới tận làng So thuộc huyện Quôc Oai (Sơn Tây). Một con đường đất đỏ quạch lượn theo chân núi, kề bên là ruộng trồng lúa và dãy núi đá chùa Trầm. Phong cảnh ở đây nom thật hữu tình.


Song, có một điều mà tôi nhớ nhất là con đường đất đỏ này, hễ trời nắng thì bụi đất bám đầy quần áo, cổ sơ-mi luôn luôn hằn lên một vết bẩn không thể che giấu được. Gặp phải trời mưa mà đang rong ruổi trên con đường này thì thật là khốn khổ. Đất ở đây được hoà với nước thành chất bùn nhẽo nhoét, dính như keo, bám chặt vào hai bánh xe đạp, gạt đi không nổi. Chân đi giày hay đi dép cao su cũng bị thứ đất tai quái này níu chặt không cho bước. Chỉ còn cách duy nhất là vác xe lên vai, cởi giày dép ra mà cuốc bộ. Đó là xe đạp khung nam, chứ nếu là xe khung nữ thì thật khóc dở, mếu dở.


Đối với các trợ lý chúng tôi, hầu như ai cũng được nếm mùi vị "tra tấn" này, không phải chỉ một lần. Nhưng ai cũng chấp nhận và vượt qua, vì "thời chiến" mà!

Mật độ dân cư khu vực này còn thưa thớt. Nhà cửa tuy phần lớn là nhà gạch lợp ngói, nhưng nhỏ, nằm rải rác trên núi. Nhà nào cũng có vườn tược rộng rãi để trồng chè xanh. Trám và mít là những đặc sản nổi tiếng ở vùng bán sơn địa này.


Cục Chính trị quân chủng được phân công sơ tán trên địa bàn xã Tiên Phương, thuộc huyện Chương Mỹ. Phòng tuyên huấn được bố trí ở rải từ trên đỉnh núi kéo xuống tận sát đường cái xóm Đỗi, cuối thôn Tiên Lữ, xã Tiên Phương.


Năm 1967, khi địch "leo thang" đánh phá ác liệt vào Hà Nội, Phòng Tuyên huấn lại được lệnh kéo dãn đội hình sơ tán vào tận Thạch Thán, Quốc Oai (gọi là khu C). Có lúc, có bộ phận vào tận Cấn Xá (gọi là khu C phẩy).


Tháng chạp năm 1972, khi địch dùng máỵ bay B-52 đánh phá ác liệt Hà Nội, các bộ phận tuyên truyền, giáo dục và văn hoá phải tạt sang sườn phía Tây của dãy núi xã Tiên Phương. Anh em vẫn gọi vui là "Trường Sơn Tây". Những bộ phận ở phía Đông, gọi là "Trường Sơn Đông!".


Tổ giáo dục chúng tôi lúc đó có bốn người, được bố trí ở tại hai gia đình. Các anh Quốc Hanh, Trần Hùng ở nhà con trai ông bà đồ. Anh Phạm Quyết và tôi ở nhà ông bà Kỷ.
 
Quan hệ giữa bộ đội với nhân dân khu sơ tán thật chan hoà, cởi mở. Bà con coi chúng tôi như những người thân trong gia đình. Tuy đi sơ tán không đeo quân hàm, nhưng bà con không ai bảo ai, đã kháo nhau: "Các bác, các chú đều là cán bộ cả đấy. Ai cũng thấy có xe đạp, súng lục và đài tăng-sít-to". Bọn thanh niên thì tò mò tìm hiểu cấp, chức của các chú, các bác và gọi chúng tôi là "lính quan", cấp chức thì to, nhưng không có quân.


Các gia đình anh em chúng tôi ở đều được bà con ưu ái dành cho chỗ nghỉ rộng rãi, thoáng mát, kẻ cả giường nằm và bàn ghế làm việc. Nhân dân không tiếc gì trong việc giúp đỡ bộ đội. Suốt cả khu vực sơ tán, dân không những đã nhường nhà cho ở, nhường tiện nghi cho sử dụng mà còn nhường cả đất để làm nhà tạm, nhà kho, làm hội trường và cả hầm trú ẩn nữa.


Khi Phòng Tuyên huấn làm hội trường thiếu vật liệu, đã đến hỏi mua tre ở nhà ông đồ. Ông niềm nở đón tiếp và trả lời: "Các chú là bộ đội của dân, cần gì các chú nói với dân một tiếng, dân sẽ sẵn sàng giúp đỡ. Việc các chú cần tre làm hội trường tôi xin ủng hộ, không phải mua bán tiền nong gì cả!". Không những ông đã cho tre, mà còn cho con giúp chặt tre cho bộ đội.


Mùa hè, trời oi bức, tránh tập trung ở nhà ăn tập thể, chúng tôi thường mang cơm về ăn ở từng bộ phận nhỏ. Gia đình lại bổ sung cho đĩa dưa, quả cà muối hoặc bát trám om cá trê, làm cho bữa ăn thêm ngon miệng.


Do thường phải đi cơ sở nắm tình hình, anh em chúng tôi đều đi, về bất chợt. Nhiều khi nhỡ bữa do quá giờ ăn của đơn vị, lại được bà con luộc cho mấy củ khoai, củ sắn. Nếu tiện bữa cơm của gia đình thì mời bằng được ăn với gia đình. Có lần tôi và anh Hoè ở nhà ông bà Diệu, lấy cơm ở bếp về chưa kịp ăn, gia đình đã trút xuất cơm đó cho cả nhà ăn rồi đổi cho chúng tôi một liễn cơm gạo mới nóng sốt, khiến chúng tôi vừa áy náy, vừa cảm động.


Nhân dân khu B rất có ý thức giữ gìn bí mật cho bộ đội. Tất cả các thành viên trong gia đình, kể cả các cháu nhỏ đều được giáo dục, nhắc nhở ý thức cảnh giác. Có người lạ đến khu vực là báo cho các chú bộ đội biết. Ngay ai hỏi thăm các chú đều được trả lời là không có, hoặc không biết. Một lần chị Huyền, vợ anh Trương Tấn Điền đến tìm chồng, hỏi thăm dân đều không được ai cho biết, cứ đi loanh quanh mãi trong khu vực hàng giờ đồng hồ. Sau nhờ gặp anh em trong Phòng Tuyên huấn, mới tìm được đến với anh Điền.


Chúng tôi ở khu B suốt cả thời kỳ chiến tranh phá hoại. Nhưng đế quốc Mỹ và bọn gián điệp tay sai của chúng có mắt cũng như mù, không hề phát hiện ra cơ quan đầu não của Quân chủng Phòng không - Không quân ở đâu để mà oanh tạc. Khu B thực sự là một căn cứ địa tuyệt vời của chúng tôi.


Tuy ở nhà dân, nhưng chúng tôi thường đi công tác vắng. Mọi đồ đạc cá nhân đều được dân trông nom, giữ gìn cẩn thận, không hề suy suyển. Những khi họp hành hoặc sinh hoạt Đảng, chúng tôi thường tập trung từng tổ công tác hay toàn phòng nên không khí thôn xóm lại rộn ràng, vui vẻ. Các buổi tối, nhất là những tối sáng trăng, rải chiếu ngồi ngoài sân quây quần bên nhau quanh chiếc đài bán dẫn, uống bát nước chè xanh, chuyện trò râm ran thật ấm cúng, thân thiết. Đây cũng là dịp tốt để quân, dân giãi bày tâm sự, tuyên truyền chủ trương, chính sách của Đảng và Chính phủ cũng như vận động thực hiện các phong trào ở địa phương, thông tin chiến thắng ở hai miền và giải đáp thắc mắc cho bà con.
Logged
vnmilitaryhistory
Moderator
*
Bài viết: 1830



« Trả lời #61 vào lúc: 07 Tháng Mười Một, 2022, 08:16:52 pm »

Tổ giáo dục tuy chỉ ở nhà con trai ông bà Đồ và nhà ông bà Kỷ, nhưng với các gia đình xung quanh, chúng tôi đều đi lại thăm hỏi, có quan hệ thân thiết với bà con. Từ nhà này sang nhà kia đều đi tắt qua vườn chò, hoặc đường mòn nên rất thuận tiện.


Trong số người già, tuổi cao, hay thích tiếp xúc và chuyện trò với chúng tôi là ông Đồ. Năm ấy ông chạc hơn 70 tuổi. Ông có vóc người cao, to, nước da hồng hào, nom quắc thước. Trong tủ ông luôn luôn có hũ rượu ngâm thuốc bắc và tắc kè. Hễ chúng tôi đến chơi, thế nào ông cũng cố mời bằng được một ly để "tửu nhập, ngôn xuất" cho vui vẻ. So với dân địa phương cùng lứa tuổi, ông tỏ ra là người hiểu biết. Ông không những biết chữ nho, chữ quốc ngữ mà còn có thể bập bẹ được cả tiếng "Tây bồi", nên khẩu khiếu của ông lưu loát đâu vào đấy. Ông khoe ông đã được dự "la bom-nhe ghe cát-tó đít-duýt" (La première guerre mondiale 1914 - 1918: đại chiến thế giới lần thứ nhất 1914-1918). Nói đến đây ông cười khà khà và tỏ vẻ khoái chí.


Đối với chúng tôi, ông rất tôn trọng, thích chúng tôi đến chơi để có dịp đàm đạo và giới thiệu cái thời oanh liệt của mình. Cách nói năng của ông rất từ tốn, lịch lãm. Ông coi vai vế giữa chúng tôi với ông là bình đẳng ngang nhau nên thường gọi chúng tôi là các ông, mặc dầu chúng tôi còn kém ông trên 30 tuổi.


Ngoài thời gian công tác, chúng tôi thường tranh thủ vào các buổi tối và ngày nghỉ để thăm dân, tìm hiểu tâm tư nguyện vọng của dân; nghe ngóng dư luận của dân đối với bộ đội nơi đóng quân; dạy các cháu học văn hoá, học hát, hoặc kể chuyện chiến đấu. Trong dân, nhà nào có việc hiếu hỷ chúng tôi đều có mặt để chia sẻ buồn, vui. Có những cái Tết do nhiệm vụ, không có điều kiện tranh thủ nên ở từng nhà, anh em đều vui Tết đón xuân với nhân dân như ở gia đình mình.


Trong dân có sự cố gì xảy ra, chúng tôi đều có mặt và góp phần tích cực giải quyết. Có một lần bà Đồ bỗng nhiên đau bụng quằn quại, đi lỏng liên tục hàng chục lần, người mệt lả nằm trên chiếc chõng kê ở đầu hè. Bà con họ hàng kéo đến thăm, ai cũng lo lắng cho tính mệnh của bà khó qua khỏi. Anh em tuyên huấn được tin, đã đến thăm hỏi rồi hội ý chớp nhoáng với nhau, tìm cách cứu bà. Sau khi thống nhất với gia đình, chúng tôi quyết định điều xe của đội chiếu bóng, đưa bà đi bệnh viện huyện Chương Mỹ cấp cứu. Việc làm đó được bà con rất hoan nghênh, cho là các chú đã giải quyết linh hoạt, kịp thời và tình nghĩa. Theo lời các bác sỹ của bệnh viện, nếu đế chậm vài giờ nữa thì rất nguy kịch. Mấy ngày sau, bà ra viện đã hết lời cảm ơn các chú bộ đội đã cứu sống bà.


Có thể nói những năm tháng sống ở khu B đã để lại trong anh em chúng tôi những hình ảnh cao đẹp của tình quân dân cá nước. Nhân dân đã hết lòng giúp đỡ, đùm bọc chúng tôi như những người thân trong gia đình để chúng tôi yên tâm hoàn thành nhiệm vụ. Chúng tôi càng thấm nhuần sâu sắc hơn câu nói của Bác Hồ: "Dễ trăm lần không dân cũng chịu; khó vạn lần, dân liệu cũng xong".


Sau khi chấm dứt chiến tranh phá hoại của đế quốc Mỹ, Hiệp định Pa-ri được ký kết, chúng tôi dời khỏi khu B về Hà Nội, ai nấy đều tự hào vì đã để lại hình ảnh cao đẹp của anh "Bộ đội cụ Hồ", "đi dân nhớ, ở dân thương".


Kế từ đó, anh em chúng tôi khi còn tại chức cũng như khi đã nghỉ hưu, đều có nhiều dịp về thăm lại căn cứ khu B. Có chuyến đi vài chục người, có chuyến đi từng tổ công tác dăm mười người. Có chuyển do thủ trưởng Cục, có chuyến do thủ trưởng Phòng dẫn anh em đi để cảm ơn chính quyền địa phương, cảm ơn nhân dân đã hết lòng giúp đỡ bộ đội.


Quan hệ giữa chúng tôi với nhân dân khu B tới nay vẫn khăng khít. Mùa mít, mùa trám vẫn còn cho các cháu mang tới tận nhà cho chúng tôi. Các cháu nay đã trường thành, như cháu Sinh con ông bà Hai nay là cán bộ thuế; cháu Lương con ông bà Lữ nay là công an của thị xã Hà Đông. Khi dựng vợ gả chồng cho con, các cháu đều đến mời chúng tôi tới dự. Các cháu chính là sợi dây liên lạc giữa chúng tôi với bà con khu B.


Tháng 4 năm 2009, một số anh, chị em Phòng Tuyên huấn đã nghỉ hưu ở khu vực Hà Nội lại có dịp về thăm bà con. Gặp nhau thật bất ngờ, tay bắt mặt mừng, nói cười đon đả và xúc động. Nét mặt ai nấy đều đã già đi theo thời gian, tóc có người bạc phơ, nhưng vẫn nhận ra nhau qua giọng nói, tiếng cười.


Khu B nay đã thay đổi nhiều. Con đường đất đỏ từ Chúc Sơn vào đã được rải nhựa phẳng phiu. Chợ búa họp đông đúc. Nhiều nhà đã được tân trang hoặc xây dựng mới to tát, khang trang. Những con đường mòn đi từ nhà nọ sang nhà kia đều được láng xi măng và có tường bao quanh nhà. Phía bờ ruộng đã mọc lên những nhà hai, ba tầng. Thôn xóm đã có điện. Đời sống nhân dân ngày càng được cải thiện rõ rệt. Thế hệ con cháu của các gia đình đều trưởng thành, nhiều cháu làm ăn khá giả, đã góp phần đáng kể vào việc đổi mới quê hương.


Tiên Phương ngày nay đang từng bước hoà vào không khí đổi mới chung của cả nước. Nhưng tình quân dân cá nước giữa bà con với chúng tôi vẫn còn nguyên vẹn, đậm đà, sâu sắc, mãi mãi thuỷ chung.
Logged
vnmilitaryhistory
Moderator
*
Bài viết: 1830



« Trả lời #62 vào lúc: 15 Tháng Mười Một, 2022, 09:57:58 pm »

TỔ VẼ PHÒNG KHÔNG - KHÔNG QUÂN NĂM 1972 ẤY...


Vũ Huyên


Bước sang năm 1972, lực lượng anh em vẽ của Cục Chính trị, Quân chủng Phòng không - Không quân chúng tôi tính theo đầu người đã lên tới gần một khẩu đội: Các anh Đỗ Hiển, Nguyễn Đức Thọ, Đặng Chung, Phạm Nguyên Hùng, nằm ở bộ phận Câu lạc bộ, trực thuộc Phòng Tuyên huấn. Còn tôi thuộc quân số của Đoàn văn công. Thời gian này, mới có anh Hiển, anh Thọ và tôi là tốt nghiệp trung cấp, còn đang theo học tại chức tại Trường Mỹ thuật. Chúng tôi đều là hạ sĩ quan, nên chức danh chỉ là "chiến sĩ vẽ", chứ chưa được coi là hoạ sĩ chính thống, "oai phong" như bây giờ. Gọi là "chiến sĩ vẽ", vì chúng tôi biết vẽ chứ thực ra công việc chính của chúng tôi có thể tóm tắt cho dễ nhớ trong 8 chữ "Đóng đinh-leo thang-cờ- đèn-kèn-trống". Nghĩa là cắt chữ, dán khẩu hiệu, kẻ vẽ bảng biểu và treo lên để trang trí, cho các loại hội nghị, từ tổng kết thành tích, rút kinh nghiệm chiến đấu đến liên hoan văn hoá văn nghệ, hội diễn. Riêng tôi, do ở Đoàn văn công, còn có thêm chức trách "thiết kế phục trang tiết mục và vẽ phông cảnh". Song do hoàn cảnh chiến tranh, hoạt động biếu diễn của đơn vị chủ yếu là xung kích nhỏ gọn ở ngay trận địa, nên thực chất chỉ là chạy may quần áo tiết mục (tôi vẫn hãnh diện gọi là "chạy may váy" cho các cô). Khi Đoàn biểu diễn, tôi còn có nhiệm vụ làm chân bê bục, căng phông màn (thường chỉ là một cái phông hậu nhâu nát). Chính vì thế mà mỗi khi có dịp may mắn được cấp trên cho đi xuống các trận địa để vẽ, chúng tôi sung sướng như chim được sổ lồng!


Đông - Xuân năm 1971 - 1972, chúng tôi lần lượt được chia thành các mũi nhỏ từ 2 đến 5 người, kết hợp với các đồng chí phóng viên báo, quay phim, bảo tàng xuống công tác ở các đơn vị làm nhiệm vụ bảo vệ vùng trời hậu phương chiến dịch, hoặc chiến đấu trong đội hình quân, binh chủng hợp thành trong chiến dịch Trị - Thiên 1972. Mũi của anh Đặng Chung vào sâu nhất và cũng là mũi bị thương vong nặng nề nhất (mũi có 5 người thì 2 người hy sinh, 2 người bị thương, trong đó có anh Chung). Rất may là Chung vẫn còn giữ lại được phần lớn các ghi chép và ký hoạ. về sau những tư liệu này đã giúp anh xây dựng một số tác phẩm sơn dầu khổ lớn như: Đường mang tên Bác, Hành quân xa ... Theo tôi, đó là những tác phẩm vào loại thành công nhất của anh.


Bị đánh mạnh trên khắp chiến trường miền Nam và trước nguy cơ phá sản của chiến lược "Việt Nam hoá chiến tranh", Ních-xơn phát động cuộc chiến tranh phá hoại lần thứ hai đánh ra miền Bắc ngay từ đầu tháng 4 năm 1972. Tới đầu tháng 7 năm 1972, máy bay địch đã đánh thẳng vào khu vực sân bay Bạch Mai là nơi đóng quân của chúng tôi. Lúc này, tôi đang một mình một súng AK, một bếp dầu, một hầm cá nhân làm nhiệm vụ trông giữ doanh trại của Đoàn văn công ở gần đường băng máy bay. Gọi là doanh trại, nhưng chỉ là mấy dãy nhà lá đã xiêu vẹo, và tốc gần hết mái do bị chấn động của tiếng nổ và hơi bom. Bỗng nhiên đêm 4 tháng 7 năm 1972, tôi được lệnh vào ngay khu B của Cục Chính trị quân chủng, công tác. Tới khi gặp các anh Thọ, Hiển, Hùng tôi mới biết nhiệm vụ của mình là phối hợp cùng với các anh ấy sáng tác tranh cổ động, tổ chức in lưới phát hành xuống đơn vị. Thì ra trong khi tôi còn ở trong chiến trường, ba anh ra trước đã kịp được theo học một lớp in lưới của Tổng cục Chính trị mở, do chuyên gia Cu-ba dạy. Chúng tôi kẻ các khẩu hiệu động viên chiến đấu, vẽ tranh cổ động (đón trước) chiến công bắn rơi chiếc máy bay Mỹ thứ 4000. Kẻ vẽ và được duyệt xong cái nào, lại tự làm khuôn lưới và in đến đấy. Do kỹ thuật còn thô sơ (khuôn in được trổ thủng bằng giấy Đạo Lâm, Trung Quốc và mực in tự chế mua của anh Thế làm ở Cục Xuất bản - Bộ Văn hoá). Mỗi lần in chỉ được tối đa 200 bản là khuôn in đã bị thấm mực, mủn nát hết. Tôi vì không được tham gia lớp học in lưới nên đành phải đóng vai "thợ phụ" kéo lưới, gạt mầu lần lượt cho các anh Thọ, Hiển, Hùng cho tới khi học lỏm được nghề và tự in được tranh của mình. Toàn bộ số khẩu hiệu và tranh cổ động in được đều gửi hết xuống đơn vị. Nhớ lại những bức tranh cổ động được vẽ trước đây bằng bột màu chỉ vẽ độc bản, thì nay chúng tôi đã có một bước tiến xa, nhân được nhiều bản bằng phương pháp in lưới, đã phát hành được rộng rãi hơn tới các đơn vị trong quân chủng. (Những bức tranh cổ động in lưới này về sau đã được trưng bày tại Phòng tranh của bộ đội Phòng không - Không quân lần thứ hai tại Câu lạc bộ Thống Nhất tháng 11 năm 1973).


Tôi vốn theo học điêu khắc trung cấp ở Trường Mỹ thuật, vào bộ đội làm pháo thủ pháo cao xạ, rồi mới chuyển sang làm trang trí sân khấu cho văn công. Những lần theo Đoàn xuống phục vụ đơn vị, trong lúc chờ đợi giữa hai đợt biểu diễn, tôi thường hết sức tranh thủ ký hoạ. Thế nhưng cái chuyện muôn thủa của "vẽ giống hay không giống", rồi các câu hỏi chả biết trả lời thế nào như "vẽ cái này để làm gì?" và mức độ hiểu biết, đồng cảm của mọi người đối với công việc của mình v.v... làm cho tôi thấy việc vẽ ký hoạ cũng như các bức ký hoạ còn có vẻ xa lạ với bộ đội. Mà có lẽ cũng xa lạ với cả chính tôi, vì tôi cũng chẳng biết đến bao giờ mình mới có điều kiện chuyển những ký hoạ đó thành tranh tác phẩm? Liệu mình có còn sống qua cuộc chiến tranh đến ngày đó không? Nhưng hàng ngày, hàng giờ, tinh thần anh dũng hy sinh của cán bộ, chiến sĩ trong quân chủng đã luôn luôn làm cho chúng tôi thấy mình cần phải làm việc nhiều hơn, cố gắng nhiều hơn. Và tôi đã tìm thấy ở tranh cổ động, một thể loại gần gũi với mọi người, gắn bó trực tiếp tới nhiệm vụ chiến đấu và công tác chính trị tư tưởng của đơn vị. Nó như một phương tiện thiết thực và hữu hiệu giúp tôi góp sức cùng đồng đội. Có lẽ chính từ những ngày làm tranh cổ động như thế, đã mở đường cho tôi tiếp tục theo đuổi việc vẽ tranh cổ động cho tới bây giờ.


Công việc vừa kẻ vẽ, vừa in lưới được chúng tôi thay phiên nhau làm từ tháng 7 năm 1972, đến đầu năm 1973. Trong chiến dịch "Điện Biên Phủ trên không" 12 ngày đêm cuối tháng 12 năm 1972, các đơn vị tên lửa đã bắn hàng trăm quả đạn, có đêm bắn ba bốn chục quả. Nhiệm vụ lắp ráp đạn của các tiểu đoàn kỹ thuật để kịp cung cấp cho các tiểu đoàn hoả lực rất nặng nề. Anh em phải làm việc liên tục 24/24 giờ, trong suốt chiến dịch. Thế là hàng trăm khẩu hiệu động viên chiến đấu đã được Tổ vẽ in lưới gửi xuống các tiểu đoàn kỹ thuật tên lửa. Rồi tiếp ngay sau đó, những tranh cổ động in lưới lại kịp thời ra mắt phục vụ mừng công chiến thẳng ...


Với riêng tôi, tháng 12 năm 1972 còn mang nhiểu kỷ niệm sâu nặng hơn nữa. Đêm 18 tháng 12, khi tôi đang ngồi hý hoáy viết thiếp mời cho đám cưới của mình thì tiếng máy bay địch gầm rít, tiếng bom nổ và tiếng các loại hoả lực phòng không của ta nổ ầm ầm chát chúa. Thế là chẳng còn cưới xin gì nữa. Tôi đem số kẹo, bánh và thuốc lá ít ỏi được mua theo tiêu chuẩn cưới chia cho mọi người. Ngày 25 tháng 12, vợ tôi khi ấy công tác ở Hà Bắc, vượt qua chặng đường đất đỏ quạch đầy hố bom rải thảm từ chỗ làm việc về gặp tôi ở nơi trú quân sơ tán. Kho quân nhu của Bộ Tham mưu Quân chủng đóng quân ngay bên cạnh, cho tôi mượn một căn nhà lá dã chiến, quây lại làm "nhà hạnh phúc". Chiều ngày 28/12, các anh Chung, Hùng, Hiển, quân phục mới tinh xúng xính, chả biết mượn ai được đôi giầy da sĩ quan bóng loáng, trịnh trọng mang lễ vật là một cái liễn sắt tráng men Trung Quốc, cuốc bộ gần chục cây so đến chúc mừng hai vợ chồng tôi. Đó là món quà cưới duy nhất và các anh, những đồng đội cùng trong một tổ vẽ cũng là những người khách duy nhất trong lễ cưới không tổ chức của chúng tôi. Mọi người đều đùa: "Sau này nên đặt tên con đầu lòng là thằng Bê (B-52) để ghi nhớ không quên những ngày tháng này...".


Hết năm 1972, tôi được phong quân hàm chuẩn uý. Điều này nghe có vẻ buồn cười, nếu bây giờ nhìn vào quân hàm trung, thượng, đại tá của các hoạ sĩ quân đội từng cùng thời với tôi. Bản thân tôi cũng biết là mình mới chỉ được là 3/4 sĩ quan thôi. Ấy vậy mà đã là quân hàm cao nhất trong anh em tổ vẽ khi đó rồi. Và tôi vẫn lấy thế làm hãnh diện, vênh váo lắm. Tuổi trẻ mà...


30 năm qua, nhóm anh em chúng tôi ở Tổ vẽ năm 1972 ấy đều đã ra quân, hầu hết đã nghỉ hưu. Chỉ có anh Đặng Chung, đã mất hơn chục năm. Nhưng từ 25 năm nay, cứ vào tối ngày 22 tháng 12 hàng năm, chúng tôi, các thế hệ chiến sĩ vẽ Phòng không - Không quân nối tiếp nhau, kể cả các đồng chí còn tại ngũ, những người sống ở Hà Nội, lại quây quần gặp mặt, thắp nén hương tưởng nhớ những đồng đội đã hy sinh, ngồi bên ly rượu, chén trà, cùng nhau ôn lại những kỷ niệm vui, buồn...
Logged
vnmilitaryhistory
Moderator
*
Bài viết: 1830



« Trả lời #63 vào lúc: 15 Tháng Mười Một, 2022, 09:59:03 pm »

THỰC HIỆN "3 TRỰC TIẾP" TRONG CÔNG TÁC NHÂN SỰ CÁN BỘ


Phan Trọng Đồng


Tôi về Phòng Cán bộ Quân chủng Phòng không - Không quân cuối năm 1966. Thời kỳ đầu được giao quản lý hồ sơ cán bộ, một công việc không đến nỗi xa lạ, bỡ ngỡ. Bởi vì trước đó, khi làm trợ lý tôi đã từng làm tổ trưởng lưu trữ hồ sơ của Ban bảo mật từ thời còn là Bộ Tư lệnh Phòng không. Hàng ngày thường tiếp xúc với hồ sơ tài liệu liên quan đến các đối tượng cán bộ trong quân chủng, nhất là cán bộ trung, cao cấp. Tôi hiểu được nhiều cán bộ, nhớ được nhiều người. Với những đồng chí có đặc điểm nổi bật cả mặt tích cực hoặc tiêu cực tôi nắm được kỹ hơn, bổ sung kịp thời vào hồ sơ tài liệu, cung cấp đầy đủ theo yêu cầu của các cấp, các ngành liên quan; giúp cho Thủ trưởng Phòng và các bộ phận trong phòng có tài liệu nghiên cứu, đề xuất các phương án bố trí, sử dụng cán bộ. Tuy vậy, sự hiểu biết cán bộ của tôi cũng chỉ là gián tiếp, còn xa mới đạt đến yêu cầu thực chất trong công tác quản lý cán bộ.


Khoảng giữa năm 1971, tôi được Phòng chuyển sang làm công tác nhân sự, giúp phòng quản lý, đề xuất việc bố trí , sắp xếp, sử dụng cán bộ ở một số đơn vị chiến đấu phòng không, lúc đầu là Sư đoàn 363, sau thêm Sư đoàn 375 rồi Sư đoàn 361 và một vài trung đoàn trực thuộc. Đối tượng chủ yếu là cán bộ trung đoàn; nguồn trực tiếp là cán bộ tiểu đoàn tên lửa, đại đội cao xạ; nguồn cơ bản lâu dài là sĩ quan điều khiển tên lửa. Anh em trong tổ nhân sự chúng tôi thường xuyên thay nhau bám sát đơn vị, đi xuống cơ sở mỗi tháng ít nhất 1 tuần, có lúc đi xa phải mất cả tháng, công việc ở nhà do đồng chí khác trong tổ hỗ trợ.


Thời kỳ này chi bộ và thủ trưởng Phòng đề ra yêu cầu thực hiện "3 trực tiếp" trong công tác nhân sự. Cứ mỗi lần đi xuống đơn vị, chúng tôi phấn đấu làm theo 3 yêu cầu đó.

Một là: "Trực tiếp gặp cán bộ" hỏi han, nghe anh em trao đổi tình hình gia đình, vợ con, hoàn cảnh đời sống, sức khoẻ, tâm tư nguyện vọng có gì vướng mắc cần giải quyết.

Hai là: "Trực tiếp nghe cán bộ nói", với cán bộ chỉ huy thì nghe trong lúc truyền đạt mệnh lệnh, hạ quyết tâm chiến đấu ra sao; với các chính trị viên thì nghe nói trong lúc truyền đạt chỉ thị nghị quyết lãnh đạo, giáo dục chính trị động viên tư tưởng cho bộ đội ra sao?

Ba là: "Trực tiếp thấy cán bộ làm". Đó là làm trong tác nghiệp nhiệm vụ, từ cách làm và trình bày kế hoạch tác chiến, huấn luyện của cán bộ chỉ huy, nếu là tiểu đoàn trưởng tên lửa thì xem khả năng tổng hợp các phần tử, phán đoán tình huống, xác định thời cơ phóng đạn; nếu là đại đội trưởng cao xạ thì xem việc xác định thời cơ hạ lệnh bắn và xử lý tình huống trực tiếp trên trận địa. Còn với các chính trị viên thì xem việc cùng với người chỉ huy xác định quyết tâm và thời cơ thực hành bắn và khả năng xử lý tình huống thiệt hại khi địch gây ra ...


Một lần đi công tác dài ngày vào đầu năm 1972, tôi theo Sư đoàn tiền phương 363, có Trung đoàn 267 tên lửa và Trung đoàn 213 cao xạ vào triển khai chiến đấu trên địa bàn huyện Bố Trạch - tỉnh Quảng Bình, làm nhiệm vụ bảo vệ hậu phương trực tiếp chiến dịch Quảng Trị và bảo vệ tuyến hành lang vận tải cho chiến dịch. Tôi đã lần lượt đi hết 4 tiểu đoàn hoả lực Trung đoàn 267 ở bốn trận địa cách nhau từ 5 - 10km. Mặc dầu 4 tiểu đoàn đã chiến đấu bắn rơi máy bay Mỹ bảo vệ Thành phố Hải Phòng với thành tích khác nhau. Bốn tiểu đoàn trưởng đã dày dạn kinh nghiệm chiến đấu, nhưng qua "3 trực tiếp", tôi mới hiểu ra nhiều điều cần quan tâm hơn. Có 2 đồng chí trưởng thành từ sĩ quan điều khiển rồi đại đội trưởng C1 lên làm tiểu đoàn trưởng thì việc chỉ huy chiến đấu thuận lợi hơn, bắn rơi nhiều máy bay hơn. Một đồng chí khác tuy cũng là đại đội trưởng C1 lên, cũng đánh rơi một số máy bay nhưng kết quả không nhiều. Còn một đồng chí vốn là đại đội trưởng C2 (bộ đạn) lên làm tiểu đoàn trưởng thì khả năng tổng hợp các phần tử hạn chế, phán đoán tình huống và hạ quyết tâm chậm nên mỗi lần phóng đạn chỉ được 1 quả, anh em hay gọi "đánh mổ cò", hiệu suất chiến đấu không cao, đánh rơi ít máy bay nhất.


Tìm hiểu cá nhân, mỗi đồng chí mang theo một hoàn cảnh khác nhau nhưng đều có tác động nhất định đen công việc và cuộc sống hàng ngày. Có đồng chí chiến đấu rất tốt nhưng sức khoẻ yếu, đau dạ dày nặng, luôn luôn lo lắng khó đảm bảo chiến đấu dài ngày liên tục. Có đồng chí lập nhiều chiến công, chiến đấu vững vàng, nhưng vợ ở quê không chung thuỷ sinh ra buồn nản, ít hoà đồng với đồng đội. Có đồng chí quê ở miền Nam, chiến đấu không sợ hi sinh nhưng tuổi đã lớn, lấy vợ miền Bắc lâu chưa có con, luôn luôn trăn trở muốn có điều kiện ổn định gia đình...


Tất cả những điều mắt thấy tai nghe, chúng tôi đều ghi nhận trong đầu và kín đáo ghi chép vào sổ công tác hàng ngày. Qua nhiều lần khảo nghiệm đã giúp chúng tôi có những tư duy nhận định sát thực với từng cán bộ, có tư liệu cụ thể để báo cáo khi thủ trưởng các cấp yêu cầu.


Cứ như thế, chúng tôi đã bám sát các đơn vị kể cả trong chiến tranh cũng như hoà bình. Chỉ bằng chiếc xe đạp cá nhân nhưng không nề hà vất vả, thiếu thốn, nhọc nhằn, dù đơn vị ở gần hay phải đi xa. Đã có lần tôi vào Sư đoàn 377 chiến đấu ở các huyện Thanh Chương, Đô Lương, tỉnh Nghệ An, lúc trở ra không có tàu xe, phải tự đi xe đạp hơn 300km ra Chương Mỹ - Hà Tây, nơi Cục Chính trị sơ tán.


Sau chiến tranh một thời gian ngắn, chúng tôi không làm công tác cán bộ, hầu hết trở thành cán bộ lãnh đạo trung đoàn, lữ đoàn hoặc cao hơn, nhưng mỗi lần xuống cơ sở chúng tôi vẫn giữ nếp "3 trực tiếp", sâu sát, gần gũi, lắng nghe tâm tư nguyện vọng cán bộ chiến sĩ, có tác dụng rất tốt trong thực hiện chức trách của mình.


Chiến tranh đã lùi xa hơn 30 năm, lớp chúng tôi tuổi đã trên dưới 70, những kỷ niệm, hình ảnh và ấn tượng với lớp cán bộ đơn vị mình đã tiếp cận ngày đó vẫn còn in đậm trong tâm trí của nhau, để mỗi lần gặp mặt bạn chiến đấu các đơn vị, ai nấy đều tay bắt mặt mừng thật cảm động.


Thiết nghĩ ngày nay đất nước tuy hoà bình, lớn mạnh; điều kiện phương tiện công tác hiện đại, thuận tiện và thuận lợi hơn nhiều, nhưng việc sâu sát cơ sở, gần gũi cán bộ chiến sĩ, nắm bắt và giải quyết công việc một cách cụ thể... vẫn là một tác phong quần chúng vô cùng quý báu, cần thiết mà suốt đời chúng ta phải học tập, rèn luyện theo gương Bác Hồ vĩ đại.
Logged
vnmilitaryhistory
Moderator
*
Bài viết: 1830



« Trả lời #64 vào lúc: 15 Tháng Mười Một, 2022, 10:01:20 pm »

ĐÊM CÔNG DIỄN HỤT


Trịnh Tấn


Trong những tháng cuối năm 1972, bộ đội không quân một mặt khẩn trương huấn luyện, chuẩn bị chiến đấu, sẵn sàng cùng các lực lượng phòng không trong quân chủng đánh bại mọi âm mưu xảo quyệt của đế quốc Mỹ, nhất là khi chúng dùng máy bay B-52 đánh vào Hà Nội, Hải Phòng. Mặt khác, vẫn đẩy mạnh công tác củng cố, xây dựng mọi mặt đời sống tinh thần, vật chất của bộ đội. Riêng công tác của Ban Tuyên huấn phải khẩn trương hoàn thành Hội diễn nghệ thuật quần chủng cấp binh chủng trong tháng 12 năm 1972.


Ngày 16 tháng 12 năm 1972, tại hội trường Bộ Tư lệnh Binh chủng ở sân bay Gia Lâm, hội diễn nghệ thuật quần chúng Binh chủng Không quân lần thứ hai được tiến hành.

Qua hai ngày đêm duyệt tiết mục, không khí phấn khởi của Hội diễn dâng lên rất cao. Nhiều tiết mục được đánh giá xuất sắc như: "Biên đội ta xuất kích", "Không quân nhân dân Việt Nam anh hùng" ; "Bầu trời và mặt đất"; "Tôi là anh nuôi"... và các vờ kịch, vở chèo như: "Chim chèo bẻo", "Đường mây lối núi"; hoạt cảnh quan họ "Tình quân dân"...


Đêm công diễn dự định từ 19 đến 22 giờ ngày 18 tháng 12 năm 1972.

Sau khi các tiết mục công diễn được công bố, suốt ngày 18 tháng 12, lãnh đạo và diễn viên các đơn vị đều náo nức chuẩn bị, giành nhau hội trường để chạy chương trình, nâng cao chất lượng tiết mục. Do có tình hình mới khẩn trương, Ban chỉ đạo Hội diễn quyết định công diễn khai mạc lúc 18 giờ, sớm hơn dự định 1 giờ.


18 giờ kém 15 phút. Mọi người đã tề tựu tại hội trường, trong đó có đại diện Phòng Văn hoá văn nghệ và văn công Tổng cục Chính trị; đại diện Phòng Tuyên huấn quân chủng, Báo Phòng không - Không quân và Văn công quân chủng. Đúng 18 giờ, thay mặt Ban chỉ đạo Hội diễn, tôi đọc lời chào mừng, giới thiệu đại biểu quan khách và công bố tối công diễn bất đầu.


Mở màn là các tiết mục đồng ca của các đoàn không quân Sao Đỏ, Yên Thế, Hồng Hà. Không khí đang hừng hực sôi nổi và dâng cao, bỗng đồng chí Lê Thế Thọ, Tham mưu phó binh chủng xuất hiện. Đứng trước mi-crô, với dáng vẻ khẩn trương, đồng chí truyền lệnh của Tư lệnh binh chủng.


"Các đồng chí! đế quốc Mỹ đã lật lọng xảo quyệt. Chúng không những không chịu ký vào bản hiệp định hai bên đã thoả thuận, mà nghiêm trọng hơn đã tập trung một lực lượng lớn B-52 và máy bay chiến thuật đánh phá miền Bắc nước ta. Hồi 19 giờ 10 phút, Sở chỉ huy quân chủng đã nhận được báo cáo của các trạm ra-đa: Có nhiều tốp máy bay B-52 và trên 100 lần chiếc máy bay chiến thuật đã cất cánh từ đảo Gu-am ở Thái Bình Dương và các căn cứ trên đất Thái Lan đang bay hướng tới Hà Nội và Hải Phòng. Bộ Tổng Tham mưu đã ra lệnh báo động. Sở chỉ huy quân chủng và binh chủng đã vào chiến đấu cấp 1. 19 giờ 21 phút một biên đội Mic - 21 đánh đêm đã xuất kích. Hội diễn tạm ngừng, tản ra các vị trí ẩn nấp an toàn, chờ lệnh tiếp theo".


Đang trong không khí hào hứng, sôi nổi, đoàn nào cũng náo nức chờ đến tiết mục của đơn vị mình, đều đề nghị khi có còi báo yên, ban chỉ đạo cho tiếp tục công diễn, dù có khuya đến cả đêm nay cũng được.

Tiếng còi báo động của thành phố bỗng vang lên. Tôi vội thông báo cho các đoàn để mọi trang bị, nhạc cụ nặng tại hội trường, còn diễn viên cứ để nguyên hoá trang, trang phục và các nhạc cụ cầm tay ra ngay vị trí ấn nấp đã được phân công.


Vừa lúc đó thì toàn bộ lưới điện thành phố vụt tắt. Tiếng động cơ máy bay F - 111 gầm rít trên bầu trời không vực sân bay Gia Lâm. Chúng phóng đạn rốc-két nổ rung chuyển. Đất, đá, gạch, kính, sắt thép bay vèo vèo. Cả bầu trời sáng rực. Lưới lửa của các loại súng phòng không, tên lửa đan chéo nhau từ các hướng. Chốc chốc lại có những ánh chớp từ phía Phủ Lỗ, Đông Anh, Đa Phúc của đạn tên lửa, đạn pháo cao xạ và cả bom B-52.


Khoảng 20 giờ 10 phút, còi báo yên vang lên. Toàn thể anh chị em diễn viên và khán giả lại nhanh chóng vào hội trường. Điện lưới vẫn bị mất. Tôi cho đội điện ảnh dùng máy nổ trên xe phim lấy điện phục vụ hội trường. Các đơn vị đề nghị cho tiếp tục hội diễn.


Ánh điện máy nổ vừa bật sáng, cũng vừa lúc đồng chí Ngô Ry ở sở chỉ huy về cầm ngay mi-crô, thông báo:

"Đợt đánh phá vừa rồi của máy bay B-52 và F-111 đã tập kích các sân bay Nội Bài, Gia Lâm, Hoà Lạc, Kép và một số trận địa phòng không. Đường băng, đường cất, hạ cánh của các sân bay bị hỏng nhiều. Các phi công đánh đêm tuy chưa hạ được máy bay B-52, nhưng đã về hạ cánh an toàn ngay trên cả đường lăn, dưới ánh sáng B-52 cháy. Bộ Tư lệnh Quân chủng nhận định: Đây là đợt đánh dọn đường. Ngay đêm nay có thể chúng còn tập kích vào Hà Nội, Hải Phòng và các mục tiêu trọng yếu trên miền Bẳc. Do đó, Hội diễn tới đây kết thúc. Ban chỉ đạo và giám khảo sẽ có kết luận, đánh giá sau. Nói chung hội diễn đã thành công. Các đơn vị ở xa, chỉ huy các đoàn đưa ngay anh chị em về đơn vị an toàn trong đêm nay. Còn anh chị em các cơ quan trong binh chủng và khu vực sân bay Gia Lâm thu dọn ngay hội trường rồi khẩn trương ra khu vực nhà ga sân bay Gia Lâm, tham gia sửa chữa sân bay gấp".


Chảo cháo gà thơm phức, các chậu xôi bốc khói được bày ra sân. Người dùng bát, người dùng đĩa và cả tay không tranh thủ ăn, vừa ăn vừa chia tay nhau, vẫn để nguyên trang phục và hoá trang, người thì nhảy lên xe về đơn vị, người thì lao ra khu vực chữa gấp sân bay.


Từ hội diễn đã khẩn trương chuyển thành đêm Hội chữa gấp sân bav. Vừa ra tới khu vực chữa gấp, tôi trao đổi nhanh với đồng chí Định, dùng điện trên xe phim mở máy ghi âm và hệ thống phóng thanh phát ngay các bài hát, điệu chèo vừa ghi âm được ở các buổi diễn duyệt trong Hội diễn lần này đế cố vũ, động viên quân, dân đang khẩn trương chữa gấp đường băng sân bay. Đúng là "tiếng hát át tiếng bom". Khi tiếng hát từ loa phóng thanh vừa cất lên, hàng ngàn người đang chữa gấp đều hô vang: "Hoan hô hội diễn! Hoan hô xe phim"...


Sân bay bị hỏng nặng nhất phía bên phải nhà ga, khu vực ngã ba đường cất, hạ cánh và sân đậu. Hàng chục hố bom nham nhở, bê-tông, đất đá vung vãi khắp nơi. Trong số người tham gia chữa gấp, khó mà phân biệt được quân với dân. Có cả các cụ già và học sinh, nhân dân trong phố và các làng lân cận, mang theo đủ các loại phương tiện, người đào, người xúc, người gánh, người bê. Lực lượng công binh sân đường huy động cả xe xúc, xe gạt, xe lu tới hoạt động. Lấp được hố nào, các em học sinh lại dùng chổi quét sạch đường băng đến đó.


Sau 3 giờ sáng, đường cất, hạ cánh đã cơ bản chữa xong. Chỉ huy công trường dùng xe phim làm Sở chỉ huy ra lệnh chuyến sang sửa chữa sân đậu. Bỗng còi báo động thành phố lại rú vang. Chỉ huy công trường ra lệnh: "Toàn bộ lực lượng chữa gấp cùng phương tiện di chuyển về vị trí an toàn, tìm vị trí ẩn nấp, chờ lệnh khi có còi báo yên!"...


Lúc này đã 4 giờ 20 phút sáng ngày 19 tháng 12, tất cả anh chị em trong Ban Tuyên huấn Binh chủng Không quân và bộ phận phục vụ Hội diễn chất chặt dụng cụ lên chiếc xe phim, tranh thủ qua cầu phao sông Hồng để về khu sơ tán. Xe phim vừa chuyến bánh thì tiếng rít của máy bay chiến thuật Mỹ cũng gầm rú trên bầu trời Hà Nội. Liên tục, liên tục, lưới lửa phòng không đan chéo nhau chằng chịt từ nhiều hướng lên bầu trời. Xe chúng tôi tắt đèn pha, vượt cầu phao Chương Dương chạy thẳng về khu sơ tán của đơn vị. Gần 5 giờ sáng, đã qua thị xã Hà Đông mà những vệt lửa trên bầu trời vẫn còn sáng, về đến sở chỉ huy mới biết đó là những bồn lửa B-52 cháy rơi ngay ở Phủ Lỗ và phía Tây sân bay Nội Bài.


Từ đây cho đến 30 tháng chạp, suốt 12 ngày đêm kể sao cho xiết cuộc chiến đấu anh hùng của quân và dân ta. Đặc biệt ở Hà Nội, Hải Phòng, cuộc chiến đấu đánh trả cuộc tập kích chiến lược của máy bay B-52 Mỹ đã lập nên chiến công hiển hách "Điện Biên Phủ trên không!"...


Hội diễn nghệ thuật quần chúng lần thứ hai của bộ đội không quân tiến hành trong bối cảnh đó. Song, sau 12 ngày đêm ác liệt, đanh sách đội Tuyên văn không chuyên của không quân vẫn được thành lập; chương trình, tiết mục vẫn được hoàn thiện và nâng cao.


Để chào mừng chiến dịch "Điện Biên Phủ trên không" đại thắng, mừng Hiệp định Pa-ri được ký kết, Hội diễn nghệ thuật quần chúng Quân chủng Phòng không - Không quân được triệu tập ngay cuối tháng 1 năm 1973. Đội Tuyên văn không chuyên của Binh chủng Không quân được giải nhất. Nhiều tiết mục đạt giải A, được Cục Chính trị quân chủng lựa chọn cùng với những tiết mục xuất sắc của Sư đoàn phòng không Hà Nội làm nòng cốt cho Đoàn nghệ thuật quần chúng của quân chủng đi dự Hội diễn nghệ thuật toàn quân và đi biểu diễn báo cáo với các đơn vị, địa phương trong và ngoài quân chủng...
Logged
vnmilitaryhistory
Moderator
*
Bài viết: 1830



« Trả lời #65 vào lúc: 15 Tháng Mười Một, 2022, 10:03:56 pm »

"TÔI CẦN NHỮNG ĐIỀU MẮT THẤY TAI NGHE"


Nguyễn Khắc Chuẩn


Đầu năm 1965, tôi được chuyển từ cán bộ quân sự sang cán bộ chính trị, về làm trợ lý Phòng cán bộ, Cục Chính trị. Cuối tháng 4 năm 1965, tôi được giao nhiệm vụ xuống Trung đoàn 236, vừa làm phái viên nắm toàn bộ tình hình chuyển binh chủng tên lửa của đơn vị, vừa phải học như một cán bộ chỉ huy tiểu đoàn, trung đoàn, để khi cần thiết có thể xuống chiến đấu được ngay.


Mới học được một tháng, tôi lại được Cục gọi về, để sáng hôm sau lên Bộ Tổng Tham mưu báo cáo trực tiếp với Tổng tham mưu trưởng về tình hình học tập của Trung đoàn tên lửa 236. Đêm đó tôi thức chuẩn bị đề cương báo cáo rất kỹ, chọn lọc từng câu chữ, gạch đi viết lại nhiều lần, đến 12 giờ đêm mới thấy tạm ổn.


Sáng hôm sau lên Tổng hành dinh, trong phòng chờ rộng rãi, lòng tôi thấp thỏm một mối lo. Hồi chiến đấu ở Điện Biên Phủ, tôi mới là đại đội trưởng, cấp cao nhất tôi phải báo cáo là Trung đoàn trưởng, về phòng cán bộ, tôi làm trợ lý với nhiệm vụ tổng hợp tình hình, viết báo cáo và lập kế hoạch công tác cán bộ trình thủ trưởng Phòng để báo cáo Cục. Nay tôi phải tự mình trực tiếp báo cáo với một trong những đồng chí lãnh đạo cao nhất của quân đội, không hiểu sẽ ra sao?


Suy đi tính lại, tôi tự trấn tĩnh. Hãy can đảm. Tôi hít một hơi thở dài, nhịp tim dần dần trở lại bình thường. Tôi tự tin hơn.

Cánh cửa phòng rộng mở? Một đồng chí trung tá bước ra: "Mời đồng chí vào làm việc". Bước qua cửa, tôi nhìn thấy Thượng tướng Văn Tiến Dũng dáng người oai vệ, đang ngồi trước bàn làm việc. Để khẳng định mình, tôi đứng nghiêm báo cáo rành rọt: "Tôi, Đại uý Nguyễn Khắc Chuẩn, trợ lý Phòng Cán bộ, Cục Chính trị, Quân chủng Phòng không - Không quân lên báo cáo Thượng tướng Tổng tham mưu trưởng về tình hình triển khai học tập chuyển binh chủng của Trung đoàn 236 tên lửa. Xin đợi lệnh!"...


Ông chỉ chiếc ghế trước mặt: "Đồng chí ngồi xuống" - "Xin cảm ơn Thượng tướng!". Tôi ngồi xuống ghế, lấy ra bản đề cương báo cáo để trước mặt. Trong lúc đang chuẩn bị, tôi nghe tiếng ông: "Trong kế hoạch, tôi làm việc với đồng chí 30 phút. Nay vì có việc đột xuất, nên chỉ làm việc 20 phút. Cái tôi cần nghe là những điều mắt thấy tai nghe của đồng chí, không cần giấy tờ".


Nội dung báo cáo, tôi cứ nghĩ sẽ theo bài bản như vẫn báo cáo ở Cục. Nhưng không ngờ lại chuyển sang gần như buổi toạ đàm. Khi tôi nói, ông lắng nghe và hỏi cặn kẽ về kết quả học tập của cán bộ chỉ huy và các kíp trắc thủ, những đánh giá của bạn và của thủ trưởng đơn vị.


Nhìn nét mặt, tôi thấy ông tỏ ý hài lòng. Ông nói: "Thực tế chứng tỏ quyết tâm làm chủ vũ khí kỹ thuật của cán bộ, chiến sỹ ta rât tốt. Mọi thứ vũ khí kỹ thuật dù hiện đại đến đâu, quân đội các nước anh em sử dụng được, thì chúng ta cũng sử dụng được tốt, với thời gian ngắn hơn. Tôi rất an tâm".


Ông đứng dậy nhìn về phía tôi, nhẳc nhủ: "Đồng chí nắm được tình hình. Riêng về nghiệp vụ công tác cán bộ, cần sâu sát đơn vị hơn, nhất là trong chiến đấu mới phát hiện được nhiều nhân tài đáp ứng cho yêu cầu chiến đấu và xây dựng của quân đội". Ghi sâu lời ông, tôi quyết tâm phấn đấu để không ngừng nâng cao trình độ nghiệp vụ và hoàn thành tốt chức trách.


Qua 15 năm công tác ở Cục Chính trị quân chủng, những tấm gương sáng sâu sát đơn vị của Chính ủy Đặng Tính, Phó chính uỷ Nguyễn Xuân Mậu, những người luôn luôn vượt qua mọi khó khăn gian khổ, ác liệt xuống các trận địa chiến đấu để nắm tình hình, chỉ đạo cụ thể. Các anh thấu hiểu hoàn cảnh và biết tên từng kíp trắc thủ, người lái máy bay, khẩu đội trưởng, nhất là điểm mạnh, điểm yếu của từng cán bộ lãnh đạo, cán bộ chỉ huy bộc lộ ra trong thực tiễn chiến đấu, càng thôi thúc chúng tôi phải làm theo.


Thực hiện chủ trương của Đảng uỷ và Thủ trưởng Cục: "Xây dựng đội ngũ cán bộ có bản lĩnh chính trị vững vàng, kiên định, chủ động, sáng tạo, khắc phục khó khăn, đoàn kết hiệp đồng, sâu sát cơ sở, hoàn thành xuất sắc mọi nhiệm vụ", Phòng cán bộ luôn luôn là một tập thể gắn bó, đoàn kết nhất trí. Việc sâu sát cơ sở thực sự trở thành tác phong tốt của cán bộ trong phòng.

   "Ý đã quyết thì gan phải quyết,
   Nhất định làm thì việc phải nên,
   Trăm hăng thua một chữ bền,
   Tấc lòng chấp hết muôn ngàn hiểm nguy"


Anh em đã ngày đêm xông xáo xuống các cơ sở, các trận địa, các đơn vị. Chính ở đây chúng tôi đã cùng sống gian nan với chiên sỹ. Chính ở đây chúng tôi thấy mình như được lột xác, dời được bốn chân bàn, bốn chân ghế, vứt bỏ được tệ quan liêu, hiểu biết được cán bộ sâu sắc hơn. Trên cương vị công tác của mình với những điều mắt thay tai nghe đã giúp chúng tôi đánh giá đúng tình hình hơn, phát hiện được những vấn đề mà thực tiễn chiến đấu và xây dựng đặt ra. Qua đó Phòng cán bộ đã cùng với các cơ quan trong Quân chủng phát hiện được những nguồn nhân tài vô giá trong cán bộ, chiến sỹ để đề đạt với Đảng uỷ, thủ trưởng Cục và Thường vụ Đảng uỷ quân chủng có chủ trương mở nhiều trường lớp đào tạo, bồi dưỡng cán bộ.


Chỉ tính từ năm 1965 đến năm 1972, hơn 29.500 lượt đồng chí cán bộ đã được đi học các trường trong và ngoài nước, đáp ứng nhu cầu cán bộ tăng rất nhanh trong một thời gian ngắn: Pháo cao xạ tăng 26 lần; tên lửa tăng 112 lần; không quân lăng 17 lần; ra-đa tăng 5-6 lần.


Trong việc làm tham mưu cho Đảng uỷ và thủ trưởng về bố trí và sử dụng cán bộ, chúng tôi đã giữ đúng được đường lối, thực hiện nghiêm chỉnh chỉ thị, nghị quyết, giúp cho việc sử dụng cán bộ ngày càng tốt hơn, đáp ứng mọi yêu cầu chiến đấu và xây dựng quân chủng.

   "Bản thân cần đi sâu tiếp xúc
   Dù có khi bực tức phải nén lòng
   Bất kỳ ai mình vẫn phải công tâm
   Không thiên vị, hết lòng cho sự nghiệp
   Người trách móc, cũng vui lòng, vì việc..."


Và điều mà bản thân tôi thanh thản là cả cuộc đời công tác cán bộ, không hề tư tủi cá nhân.

   "Ai biếu xén, dù gói chè, điếu thuốc,
   Không mồ hôi, tiêu chuẩn của mình,
   Một lòng một dạ phân minh,
   Quyết tâm không nhận, của mình mình xơi".
Logged
vnmilitaryhistory
Moderator
*
Bài viết: 1830



« Trả lời #66 vào lúc: 15 Tháng Mười Một, 2022, 10:05:14 pm »

NHỚ ANH HOÀNG TẠO VỚI KHÚC HÁT
"TÊN LỬA VỀ BÊN SÔNG ĐÀ"


Nguyễn Thường Tín


Tôi biết Hoàng Tạo từ những năm 1959 - 1960. Ngày ấy chúng tôi đều vừa tròn 25 tuôi. Hoàng Tạo là chiến sĩ miền Nam tập kết ra Bắc, vừa tốt nghiệp khoá đào tạo sĩ quan cấp tốc, được về nhận công tác tại Ban Tài vụ, Phòng Hậu cần, Bộ Tư lệnh Phòng không. Tôi làm biên tập tờ tin in rô-nê-ô của binh chủng, kiêm chạy mua sắm vật tư công tác câu lạc bộ của Ban Tuyên huấn, nên thường phải sang Ban Tài vụ lĩnh tiền hoặc thanh, quyết toán kinh phí.


Tôi thân Hoàng Tạo không chỉ vì mối quan hệ công tác, mà còn vì cả hai chúng tôi đều yêu văn nghệ. Hoàng Tạo ít nói, không hay hát nhưng rất say sưa tập đàn vi-ô-lông. Tôi đang tập đàn ghi-ta, lại còn tranh thủ theo lớp học đàn ắc-coóc-đê-ông vào các buổi tối. Vì thế các buổi trưa chúng tôi thường không nghỉ. Tôi và Hoàng Tạo vẫn cùng nhau ra tập đàn dưới bóng cây xà cừ, ngay góc sân cơ quan.


Năm 1961, tờ tin Phòng không được phép nâng cấp in ti-pô với lượng phát hành rộng hơn, nên tôi ít có thời gian tập đàn với Hoàng Tạo. Nhất là khi hợp nhất giữa hai lực lượng Phòng không và Không quân thành Quân chủng Phòng không - Không quân, các cơ quan đều phát triển với biên chế đông hơn, công việc nhiều hơn. Chính lúc này Hoàng Tạo chia tay với tôi. Anh nói thể theo nguyện vọng, trên đã đồng ý cử anh đi học Trường âm nhạc. Anh khuyên tôi hãy cố gắng phấn đấu rèn luyện, hăng say công tác để luôn luôn có "mắt sáng, lòng trong, ngòi bút sắc" trong nghề làm báo...


Năm 1965, đế quốc Mỹ mở rộng cuộc chiến tranh "leo thang" bằng không quân và hải quân ra miền Bắc. Quân chủng Phòng không - Không quân vừa chiến đấu vừa xây dựng, phát triển không ngừng với nhiệm vụ chiến đấu ngày càng khẩn trương, địa bàn chiến đấu ngày càng rộng. Giữa những ngày sôi động đánh Mỹ ấy, Hoàng Tạo trở về Cục Chính trị Quân chủng Phòng không - Không quân cùng một số học sinh thực tập của Trường Âm nhạc.


Hoàng Tạo đã sống với các chiến sĩ tên lửa ngay từ những ngày đầu ra quân, qua "bao lần hành quân đi đặt bệ phóng", cùng chứng kiến những phút đầu khi "đạn vút cảnh bay" lên diệt thù. Nỗi xúc động về chiến công đầu của bộ đội tên lửa Việt Nam mà chiến công ấy lại được ghi ngay bên "con sông xưa ngàn xanh sóng dậy", nhấn chìm tàu chiến của giặc Pháp trong chiến dịch Hoà Bình 1951 của quân ta, đã cho Hoàng Tạo dòng tình cảm sâu lắng để viết "Tên lửa về bên sông Đà".


"Đêm nay ta về bên sông Đà. Rừng phấp phới nở hoa. Gió vẫy lá rung bánh xe xích sắt..." Hoàng Tạo mở đầu bài hát bằng những lời kể tâm tình, mộc mạc về trận đầu ra quân đánh thắng, bắn rơi tại chỗ máy bay phản lực Mỹ của bộ đội tên lửa Việt Nam. "Tên lửa về bên sông Đà" không hẳn là tác phẩm đầu tay của Hoàng Tạo, nhưng bài hát được ra đời đúng lúc, đầy "sức sống chiến đấu như ánh lửa hồng bav lên", đã được dư luận hoan nghênh, bộ đội và thanh niên đều yêu thích. Lời ca bài hát giản dị, chân tình mà ấm áp. Nét nhạc của giai điệu thong dong và khúc triết, có tình người, sâu lắng nhưng trầm hùng, chứa đựng cả niềm tin, càng làm cho "Tên lửa về bên sông Đà" nhanh chóng trở thành bài ca của quần chúng, bài hát truyền thống của Bộ đội tên lửa Việt Nam.


"Tên lửa về bên sông Đà" đã theo tiếng hát của Đoàn văn công Phòng không - Không quân tới nhiều địa phương, trên nhiều trận địa, khắp các chiến trường của cả nước, góp phần nêu cao chủ nghĩa anh hùng cách mạng, động viên và cổ vũ ý chí quyết tâm chiến đấu của quân và dân ta suốt những năm dài đánh Mỹ.


Giờ đây anh Hoàng Tạo không còn nữa. Mỗi khi nhớ đến anh, trong lòng tôi cũng như bao bạn chiến đấu năm xưa lại càng thêm rạo rực. Mọi người lại như đang cùng Hoàng Tạo cất cao giọng: "Dồn dập tiếng hát... Đoàn ta, Đoàn Sông Đà!"...
Logged
vnmilitaryhistory
Moderator
*
Bài viết: 1830



« Trả lời #67 vào lúc: 15 Tháng Mười Một, 2022, 10:06:28 pm »

ÂM VANG TRẬN NÉM BOM SÂN BAY TÂN SƠN NHẤT


Xuân Mai


Đã 35 năm qua kể từ ngày miền Nam hoàn toàn giải phóng, âm vang trận ném bom sân bay Tân Sơn Nhất thời chống Mỹ của Không quân nhân dân ta, vẫn rung động trong lòng mọi người. Cuốn băng ghi âm do anh Văn Bích, cán bộ Đoàn văn công Phòng không - Không quân và nhóm phóng viên báo Phòng không - Không quân chúng tôi ghi được tại sân bay trước và sau giờ xuất kích, vẫn còn nguyên vẹn.


Nay nghe lại băng ghi âm thấy rõ ngày ấy, sau khi giải phóng Đà Nẵng và các sân bay tiếp theo, ta đã thu được nhiều máy bay địch, trong đó có loại máy bay A-37, vốn là máy bay huấn luyện của Mỹ, được Mỹ cải tiến thành máy bay phản lực ném bom tấn công cỡ nhỏ, trang bị cho không quân nguỵ. Quân chủng Phòng không - Không quân được giao nhiệm vụ tổ chức nhanh chóng làm chủ kỹ thuật những chiếc máy bay A-37 này, để dùng máy bay địch đánh địch trong cuộc tiến công thần tốc. Các kỹ sư, thợ máy của Binh chủng Không quân được điều đến nghiên cứu, kiểm tra, sửa chữa những chiếc máy bay A-37, do Phó tiến sĩ Hồ Thanh Minh phụ trách. Nhưng việc cấp tốc phục hồi những chiếc A-37 trong đống máy bay đổ nát của quân ngụy Sài Gòn, đâu có phải chuyện dễ. Phó tiến sĩ Hồ Thanh Minh cho chúng tôi biết đồng chí được giao phụ trách tổ đặc nhiệm đi thu gom, kiểm tra, sửa chữa kỹ thuật máy bay địch trên các sân bay vừa được giải phóng. Hầu hết máy bay thu được đều hỏng nặng, đều phải sửa chữa hoặc dồn ghép nhiều chiếc lấy một. Có nơi quân địch vẫn rình rập, sẵn sàng tấn công ta để cướp máy bay chạy trốn. Đồng chí Hồ Thanh Minh nói:

"Khi tiếp quản sân bay Đà Nẵng, chúng tôi đã thu được nhiều máy bay của Mỹ, trong đó có những máy bay hỏng. Chúng tôi đã tổ chức sửa chữa được hai chiếc máy bay A- 37 tốt, bàn giao cho các phi công lái máy bay Mích của trung đoàn 923 luyện tập để làm nhiệm vụ chiến đấu. Sau đó, Bộ Tư lệnh lại giao nhiệm vụ cho chúng tôi phải đi lấy thêm máy bay của địch để chiến đấu và chúng tôi đã vào Phù Cát, được biết địch vẫn còn lẩn khuất trong sân bay. Làm việc ở đây phải rất cẩn thận, nếu không thì sẽ có trở ngại. Chúng tôi đã tổ chức sửa chữa, cứ mỗi đêm 3 máy bay, 3 đêm 9 máy bay. Sau đó tổ chức bay thử được 5 máy bay tốt và chúng tôi đã bàn giao cho 6 phi công của Phi đội Quyết thắng" ...


Một số nhân viên kỹ thuật và phi công nguỵ vừa ra trình diện, đã tình nguyện xin được phục vụ cách mạng, tham gia phục hồi và sử dụng những chiếc máy bay A-37 nói trên. Một người lính thợ, chuyên sửa chữa động cơ máy bay có tên là Nguyên, kể:

"Quân giải phóng vừa vô, các ông lớn đều đi hết, tôi không biết đi đâu? Bộ đội Giải phóng kêu tất cả anh em hãy trở về trình diện cách mạng... Tôi có ra trình diện và sau đó Binh chủng Không quân của bộ đội Giải phóng kêu vô làm việc để phục hồi tất cả phi cơ của địch bỏ lại, dù hư hại rất nặng... Ở Đà Nẵng nó bỏ lại mười mấy chiếc rất xấu, toàn phải sửa chữa lớn... Tôi sửa chữa hai chiếc bay được tạm thời... Khi vào Phù Cát, tôi sửa được 5 chiếc luôn... Được gọi vô đây làm việc, tôi sung sướng, lắm... Ân huệ của cách mạng đối với mình quá tử tế và rộng rãi...".


Lúc này, một số chiến sĩ lái máy bay Mích có kinh nghiệm chiến đấu, được đưa đến luyện tập sử dụng máy bay A-37. Trong đó có Nguyễn Thành Trung, người của ta nằm trong không quân ngụy vừa dùng máy bay phản lực F5E trút bom xuống dinh Độc Lập của ngụy ngày 8 tháng 4 năm 1975 và đã trở về hàng ngũ cách mạng. Phi đội A-37 được thành lập, mang tên "Phi đội Quyết thắng" gồm 6 chiến sĩ lái máy bay, do Nguyễn Thành Trung dẫn đầu. Các chiến sĩ lái máy bay Mích vừa tập chuyển loại chưa đầy một tuần lễ có Từ Đễ, Nguyễn Văn Lục, Hoàng Văn Vượng, Hán Văn Quảng. Ngoài ra còn có Trần Văn On, trung uý hoa tiêu huấn luyện phản lực ném bom A-37 của không quân ngụy vừa ra trình diện, đã tình nguyện tham gia trận đánh.


Sáng 28 tháng 4 năm 1975, Phi đội Quyết thắng và 5 chiếc máy bay A-37 được lệnh chuyển từ sân bay Phù Cát vào sân bay Thành Sơn, còn được gọi là sân bay Phan Rang. Tổ đặc nhiệm của Phó tiến sĩ Hồ Thanh Minh cũng vào theo làm nhiệm vụ lắp bom, chuẩn bị và kiếm tra kỹ thuật an toàn lừng chiếc A-37 trước giờ xuất kích.


Chiều 28 tháng 4, toàn phi đội và cán bộ chỉ huy, cán bộ kỹ thuật có mặt trong căn nhà nhỏ trên một quả đồi thấp trong sân bay, nghe đồng chí Thiếu tướng Lê Văn Tri, Tư lệnh Quân chủng Phòng không - Không quân giao nhiệm vụ. Đồng chí Lê Văn Tri nói: "Trước giờ phút lịch sử rất vĩ đại, để tham gia cùng các lực lượng giải phóng miền Nam và nhân dân miền Nam, để góp phần giải phóng toàn miền Nam yêu quý của chúng ta, hôm nay, tôi thay mặt Bộ Tư lệnh giao nhiệm vụ cho phi đội chiến đấu: Một, các đồng chí phải hoàn thành nhiệm vụ trên giao một cách xuất sắc nhất; Hai, mục tiêu các đồng chí tập trung toàn bộ lực lượng của phi đội đánh vào khu tập trung máy bay của quân ngụy ở sân bay Tân Sơn Nhất; thời gian xuất kích: 16 giờ 30 ngày 28 tháng 4 năm 1975; Chúc các đồng chí hoàn thành nhiệm vụ và kiên quyết hoàn thành nhiệm vụ"...

Bằng giọng nói Nam Bộ trẻ trung và kiên quyết, phi công Nguyễn Thành Trung thay mặt Phi đội Quyết thắng, hứa quyết tâm với Bộ Tư lệnh: "Tôi thay mặt toàn thể Phi đội Quyết thắng rất vinh dự được nhận lãnh trách nhiệm của toàn dân giao phó nhàm đóng góp vào chiến công chung, sớm hoàn thành nhiệm vụ cách mạng giải phóng dân tộc. Chúng tôi xin hứa quyết tâm đánh thật bất ngờ, đánh trúng và mang lại kết quả nhiều nhất"...


Đúng 16 giờ 30 phút, khi hai phát pháo hiệu vút lên bầu trời tím biếc. Cả 5 chiếc A-37 đều nổ máy giòn giã, lần lượt cất cánh. Băng ghi âm có tiếng nói: "Bây giờ là 16 giờ 30, phi đội trưởng Trung số 1, Đễ số 2, Lục số 3, On và Vượng số 4, Quảng số 5 bắt đầu xuất kích"!


Để đảm bảo giữ bí mật tuyệt đối, Bộ chỉ huy quy định khi xuất kích, các máy bay A-37 không được liên lạc bằng máy vô tuyến diện. Do đó thời gian chờ đợi trên sân bay đối với chúng tôi vô cùng hồi hộp. Mọi người có mặt trên sân bay đều im lặng. Không khí trên sân bay như lắng xuống dưới cái nóng hầm hập của chiều mùa hè ở Phan Rang. Và kia rồi, Phi đội Quyết thắng đã chiến thắng trở về. Băng ghi âm lại rộn lên giọng nói đầy xúc động của anh Văn Bích: "Bây giờ là 18 giờ đúng. Chúng tôi thấy trên trời đã có 2 chiếc máy bay của ta xuất hiện, đã bật đèn đỏ xin hạ cánh.


Cả sân bay, mọi người đều chạy ùa về phía đường băng. Tiếng máy bay đã vang trên bầu trời... Chiếc thứ ba đang lượn trên bầu trời sân bay... Lần thứ ba, chúng tôi nhìn thấy hai chiếc nữa, như thế là tất cả biên đội đã về đầy đủ... Toàn biên đội đã hạ cánh an toàn trong tiếng vỗ tay vang dội của mọi người đang lao nhanh ra chào đón những người chiến thắng trở về Nguyễn Thành Trung bước lên thay mặt phi đội báo cáo kết quả trận tập kích với đồng chí Tư lệnh Quân chủng Phòng không - Không quân. Thiếu tướng Lê Văn Tri rưng rưng nước mắt vì xúc động và vui sướng, ôm chặt lấy Nguyễn Thành Trung, tiếp đó lần lượt ôm hôn từng người trong Phi đội Quyết thắng.


Băng ghi âm của chúng tôi không thể phân biệt những tiếng nói, cười, giọng Nam xen lẫn giọng Bắc là của ai, mà chỉ có thổ tóm lược những nét chính qua nghe các anh kể: Khi máy bay lên đến độ cao 2.000 mét, họ không còn nhìn rõ mặt đất vì thời tiết xấu. Có những lúc buồng lái tối sầm lại vì phải chui qua mây đen và trời đổ mưa. Nhưng Nguyễn Thành Trung vẫn bình tĩnh dẫn phi đội bay về phía Bà Rịa, rồi ngược lên Biên Hoà. Trời hửng dần, họ bắt đầu phải tránh lưới lửa phòng không của quân ta từ mặt đất bắn lên. Biên Hoà xuất hiện dưới cánh bay những đám cháy lớn. Ai nấy đều phấn khởi biết rằng quân ta đã tới sát cửa ngõ Sài Gòn. Trận tập kích của phi đội sẽ là một mũi tiến công, đánh hiệp đồng tuyệt đẹp với quân và dân ta ở mặt đất.


Đến Tân Sơn Nhất, trời bỗng hửng nắng. Họ đã nhìn rõ từng dãy dài xe ô tô và máv bay quân sự các loại. Nguyễn Thành Trung lắc cánh ra hiệu cho toàn phi đội rồi nhằm đúng khu tập trung máy bay quân sự của địch, nhào xuống cắt bom, nhưng bom không rơi. Trong ống nghe của họ dội lên những tiếng nói của lính thông tin sân bay. Bỗng có tiếng quát của một viên sĩ quan ngụy:

- A-37 của phi đoàn nào? Phi đoàn nào?

Từ Đễ vẫn bám sát bay số 2, anh nhào xuống cắt bom và buột miệng trả lời:

- Của phi đoàn A-mê-ri-can chúng mày đấy!

Tiếp theo Đễ và Lục, rồi Quảng, Vượng và On lần lượt nhào xuống cắt bom. Nguyễn Thành Trung quay lại bổ nhào tới lần thứ ba, anh cắt 4 quả bom rơi cùng một lúc. Tân Sơn Nhất rừng rực lửa khói. Họ đã đánh rất trúng khu vực để máy bay quân sự của không quân ngụy Sài Gòn. Kết quả trận đánh, 24 máy bay quân sự của địch bị phá huỷ, một kho nhiên liệu trong sân bay bị đốt cháy, hơn 100 lính ngụy bị tiêu diệt... Trận tập kích của Phi đội Quyết thắng đã phối hợp chặt chẽ với các lực lượng ta ở mặt đất làm tê liệt hoàn toàn phi trường Tân Sơn Nhất, chặt đứt chiếc cầu hàng không rút chạy cuối cùng bằng máy bay của quân ngụy Sài Gòn...


35 năm trôi qua, con người đã có nhiều đổi thay nhưng nội dung cuốn băng ghi âm vẫn còn nguyên như cũ. Tôi đã viết trung thực những gì đã thấy từ 35 năm trước và trích nguyên bản những chỗ cần trích trong cuốn băng ghi âm lịch sử và có lẽ đây là lần đầu tiên tôi đã giới thiệu cuốn băng ghi âm này trên Đài tiếng nói Việt Nam nhân dịp kỷ niệm 35 năm ngày giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước.
Logged
vnmilitaryhistory
Moderator
*
Bài viết: 1830



« Trả lời #68 vào lúc: 15 Tháng Mười Một, 2022, 10:10:30 pm »

MỘT CÁNH CHIM VỀ VỚI MẶT TRỜI


Nam Hà


Đến Mai Lĩnh, xe rẽ trái theo đê tả ngạn sông Đáy. Các cửa sổ đều mở tung, kể cả hai cửa hứng gió trên trần mà trong xe vẫn nóng hầm hập. Mùi mồ hôi của cánh đàn ông quyện với đủ mùi hương từ nhiều loại nước hoa của các "bà", không khí nồng nặc càng khó thở. Không thể trách ai được. Gần mười hai giờ trưa mới rủ nhau nhảy lên xe, về thăm nơi sơ tán. Ông trời cũng giở quẻ, từ Hà Nội vào đến đây chưa đầy hai chục cây số mà đã hai lần mưa, ba lần nắng. Cứ cái kiểu "ba sôi hai lạnh" này thì người mọc mầm là cái chẳc. Nhưng thôi, đã gọi là "hành hương" mà lại tự nguyện thì ráng mà chịu đựng kẻo tổn thiệt đến lòng thành.


Gần bốn chục năm qua, cảnh vật cũng không đổi khác bao nhiêu. Trừ con đường có vẻ rộng ra, còn tất cả như hẹp lại. Đầm sen đầu làng, ngày xưa mênh mang là thế, bây giờ toen hoẻn đến mức không nhận ra. Xa xa, một bóng người đang len lỏi lội giữa vạt sen tiêu điều. Hình ảnh đó gợi lại cho tôi nhớ đến Thanh Tùng. Hôm nay trên xe hầu hết là anh chị em đội múa ngày xưa, nhưng không có cậu ta, cây "sô lít" của đoàn.


Vào những năm sáu bảy, sáu tám, Đoàn văn công Quân chủng Phòng không Không quân sơ tán về đây. Xã Diên Hồng, huyện Chương Mỹ coi như là hậu cứ của đoàn. Cả ngày miệt mài tập luyện, chiều chiều cánh con trai hay rủ nhau ra hồ vùng vẫy. Thanh Tùng lặng lẽ bơi sang tận mé bên kia, len lỏi vào giữa những cụm sen. Sáng sớm hôm sau. Tùng cũng lại một mình mò ra đám sen. Thế rồi sau bữa sáng, cậu ta "máy" tôi sang nhà và đãi tôi một chén trà nóng hổi, thơm lừng hương sen. À thì ra, Tùng đã chia trà thành gói nhỏ, vạch cánh sen ra gửi gắm vào đó từ chiều hôm trước, sáng hôm sau lại thu về. Tôi đã nghĩ bụng: "Thằng hâm, đi tắm mà cứ sùm sụp cái mũ trên đầu!". Bây giờ mới vỡ nhẽ, đó là công cụ chuyên chở của Tùng. Tùng ghé đầu cho tôi ngửi, và hỏi tôi: "Anh có "nghe" mùi chi?". Tóc Tùng cũng sực nức mùi trà sen. May thay hồi đó chưa có những thứ "Păn-tin", "Săn-siu" dầu gội các loại như bây giờ. Cái thằng "tinh vi" thật. Đó là một tính cách của Tùng. Nhân nói đến tính cách, tôi lại muốn kể thêm một chuyện nhỏ. Ai đã sống trong một đoàn Văn công quân đội, hẳn biết đến chế độ cấp dưỡng nhiều tiêu chuẩn. Múa và kèn hơi được coi là lao động nặng nhọc nhất. Đám múa thường "làm chính sách" san sẻ cho tổ sáng tác vì các em không thể "chở" hết, vả cũng thương các anh "đại táo" kham khổ! Miếng ăn không là tất cả, nhưng thực sự cảm kích vì được các em đánh giá đúng cân, đúng lạng mồ hôi nước mắt của cái anh lao động trí óc thường được coi là "mồm miệng đỡ chân tay". Tùng là một trong số những người thường sốt sắng làm việc này. Gặp trắc trở này nọ, Tùng thường tâm sự và không hiểm lần "sụt sùi" với tôi. Như vậy là cái tâm thằng này mềm đấy chứ! Tôi kể những chuyện này ra để chúng ta hiểu thêm và đánh giá lại một con người vốn được coi là ương ngạnh. Bực bội lên, cái mặt lạnh tanh, mắt vằn dữ tợn, trông ghê chết. Trong con người Thanh Tùng tồn tại hai tính cách đổi lập nhau đến khó hiểu.


Năm 1965, Thanh Tùng, Nguyễn Bích rồi Hoàng Yến dời đội Thực nghiệm của Trường Múa Việt Nam theo yêu cầu chung là tăng cường cho quân đội và cũng còn là áp lực Liệt sĩ, nghệ sĩ ưu tú Thanh Tùng (người thứ hai từ phải sang) trong một buổi tập tại doanh trại Đoàn văn công Quân chủng riêng của quân chủng mới lập - Quân chủng Phòng không - Không quân, đối thủ đáng gờm của không lực Mỹ. Quà tặng họ mang về cho đơn vị là "Tuần đuốc" (Thanh Tùng, Văn Bích); "Cánh chim và ánh sáng mặt trời" (Thanh Tùng); "Vũ khúc Tây Ban Nha" (Tùng, Bích, Yến, Vinh). Nhất là khi trên sân khấu xuất hiện Hoàng Yến với Thanh Tùng trong màn múa đôi Di-gan, thì đến các chuyên gia nước ngoài ngồi dưới cũng không thế không trầm trồ khen ngợi.


Để không phụ lòng tin của khán giả mới, và phản ánh tốt tình hình sinh hoạt, chiến đấu của Quân chủng hiện đại này, trong vòng ba tháng, Đoàn đã có hai chương trình có thể phục vụ các đối tượng khán giả khác nhau. Hợp xướng, tốp ca nam nữ, độc tấu nhạc cụ, tấu, chèo, kịch nói thật rôm rả.


Riêng đội múa, ngoài những tiết mục đã nói ở trên, còn có "Giặt áo", "Tân Cương", "Rông Chiêng", "Lựu đạn gỗ"... Thuở đó tập trung về quân chủng này, có đến hai biên đạo sừng sỏ: Minh Tiến và Nguyễn Việt, cộng với lớp diễn viên đã được đào tạo chuyên sâu, nên đội múa của Đoàn là điều mơ ước cho nhiều đoàn bạn cùng thời. Để có hình ảnh các chiến sĩ pháo cao xạ, biên đạo Nguyễn Việt đã dựng "Phan Đăng Cát", về đề tài Phòng không (âm nhạc Thanh Phúc). Hoạt động của một khẩu đội pháo cao xạ, cùng người chiến sĩ dũng cảm kiên cường Phan Đăng Cát, đã được Văn Bích cùng Anh Dũng, Nguyễn Long, Vũ Thông và tập thể nam nữ diễn viên tái hiện thành công. Nguyễn Việt cũng đã thi vị và lãng mạn hoá những tấm ngụy trang trên lưng các chiến sĩ ta như một mối tình gắn bó keo sơn, thuỷ chung son sắt. Múa "Mảnh vải ngụy trang" ra đời (âm nhạc Ngô Đông Hải). Nhưng dù sao, đây cũng là những tiết mục còn có "đất" để thể hiện. Đất đây là mặt đất theo đúng nghĩa đen. Cho dù đề tài sông, biển đi nữa thì cũng còn có cái "đế" là mặt nước để các nhà biên đạo có chỗ đứng. Sau nhiều lần thâm nhập với các "chiến sĩ lái" của ta, hồi đó vì bảo mật nên sự tiếp xúc với lực lượng này còn rất hạn chế, kỹ càng đến mức gần như huyền bí. Ăn cũng lạ, mặc cũng khác người, mà đến ngủ cũng lạ nốt. Cứ để nguyên trang bị vũ khí, giầy ủng, tất cả bó chặt lấy người mà nằm dài nhắm mắt trong lần trực chiến. (Cứ như là ngủ vờ để đánh lừa thằng giặc: "Đừng tưởng ông ngủ say, thử mò vào dây mà chơi thử xem sao?"). Khi pháo hiệu nổ bụp trên không trung, thì những con người tưởng như "bất động" đó đã vụt lao đến những con "én bạc" và thoắt một cái, đã gọn ghẽ trong buồng lái. Phản ánh những con người đó dưới mặt đất đã khó, huống chi khi họ tung cánh giữa bầu trời. Đâu có đơn giản? May thay, trong số đó có Phạm Ngọc Lan dám "bỗ bã" tiếp xúc với cánh văn công. Đội trưởng đội múa Xuân Cống bèn nghĩ ra trò thết Lan một bừa đặc sản chả nhái, để chuyện trò khai thác. Sau lúc Ngọc Lan ra về, chúng tôi cứ lo ngay ngáy không biết bụng dạ anh ta có yên ổn hay không? Lỡ ra là "phạm tội đầu độc phi công", khi đó thì hết ngôn! Cuối cùng, biên đạo Minh Tiến cũng liều mình cho ra mắt thơ múa "Quật ngã thần sấm" (âm nhạc Nam Hà). Phải nói rằng, nếu không có Thanh Tùng với những đồng đội sáng giá của anh thì Minh Tiến cũng chưa đủ dũng khí "sản" ra tác phẩm này. Những đoạn độc diễn đẩy tính cách của "thần sấm" do Thanh Tùng và Nguyễn Long đảm trách, cặp "én bạc" Xuân cống, Văn Bích và những "nàng mây" Hương Thư, Hoàng Yến, Thanh Tuyết, Kim Thoa, Bạch Yến, Tuyết Nhung, đã mang đến cho khán giả một cảm xúc mới lạ, khó quên. Sau cùng, tất cả cũng có thể không bay lên được, nếu không nhờ vào sự sáng tạo trong thiết kế phục trang của hoạ sĩ trẻ Vũ Huyên. Minh Tiến, sau một thời gian tu nghiệp ở Liên Xô về, anh đã đem cái thế mạnh của nghệ thuật vũ đạo Ballet ra thế nghiệm.
Logged
vnmilitaryhistory
Moderator
*
Bài viết: 1830



« Trả lời #69 vào lúc: 15 Tháng Mười Một, 2022, 10:14:03 pm »

Sau đem ra mắt chính thức ở Bộ Tư lệnh Quân chủng, Đoàn lập tức đến biểu diễn tại các trận địa pháo cao xạ, các sân bay dã chiến để phục vụ chiến đấu. Vừa phục vụ vừa xây dựng, lấy ngay những gương chiến đấu, những đề tài nóng hổi lửa đạn để sáng tác. Báo Phòng không - Không quân vừa đăng bài ở huyện Yên Mô, Ninh Bình, có thằng giặc lái bị bắn rụng đã chui vào chuồng vịt để trốn. Thanh Tùng sáng tác ngay màn múa đôi cho Ái Vinh (cô gái chăn vịt) và Nguyễn Long (tên giặc lái). Một pha múa hài nhẹ nhàng, châm biếm. Trong đợt phục vụ các trận địa quanh khu vực Hàm Rồng năm 1966, tận mắt chứng kiến tinh thần chiến đấu quên mình của các chiến sĩ ta, sự sát cánh phối hợp của nhân dân và lực lượng dân quân địa phương. Thanh Tùng lại liên tiếp cho ra đời 2 màn múa: "Trận địa kiên cường" và "Nữ pháo thủ dự bị". Tất nhiên Thanh Tùng cũng đã được các biên đạo đàn anh giúp sức. Những năm đó, các sân bay là mục tiêu được không lực Hoa Kỳ đặc biệt chú trọng nhòm ngó. Chúng ra sức ngăn chặn không cho phi đội của ta có thể tung cánh lên bầu trời. Mặt đường băng bị đánh phá, ngổn ngang những mảnh bê-tông, những mảnh bom đạn với những cạnh sắc bén. Đối phó với thủ đoạn này, không có máy móc nào bằng phương tiện thủ công. Dứt tiếng bom đạn là các chiến sĩ lại ào ra đường băng với chiếc chổi tre trong tay, quét sạch những vật chướng ngại, cùng với anh em công binh vá ngay những hố, những vật lỗ, đảm bảo an toàn cho những đợt xuất kích tiếp theo. Trong đầu Thanh Tùng lại hiện lên một điệu "Van-sơ" mà "bạn nhảy" của các chiến sĩ là cây chổi tre. Múa "Quét đường băng" ra đời. Tuy điệu múa còn chưa dẻo, nhưng cũng đem lại nét tươi mát, làm dịu phần nào cho không khí rực lửa của quân, dân ta thời ấy. Ở đó cũng toát lên sự toàn tâm toàn ý của những người làm văn nghệ trong quân chủng. Họ không nề hà khó khăn gian khổ và đã hướng tất cả tâm tư tình cảm vào cái nơi mà họ đang sống và phục vụ. Sự hoạt động của đoàn nói chung đã được cấp lãnh đạo văn nghệ của quân đội chú ý tới. Trường Nghệ thuật quân đội cũng đã dự kiến sẽ rút Thanh Tùng về, đưa đi đào tạo dài hạn ở nước ngoài.


Trong thời gian sống chung ở Đoàn Văn công Quân chủng Phòng không - Không quân, tôi với Thanh Tùng đã có mối duyên nợ. Tất cả các tiết mục múa do Thanh Tùng biên đạo đều dựa trên nền âm nhạc của tôi. Tôi đã viết với cảm xúc và sự hứng thú tột đỉnh. Tùng với tôi thường không phải trao đổi nhiều, ít phải thương lượng. Đó chính là sự thông cảm nghề nghiệp không dễ có. Tôi và Tùng thật sự tin tưởng ở nhau. Tôi cứ nghĩ đến một ngày "thằng em" này mà được đào tạo đến nơi đến chốn, thì sự nghiệp của Tùng ta sẽ đóng góp không ít cho nghệ thuật múa và sự vinh quang Tùng gặt hái sẽ không nhỏ. Phải chăng vì thế mà tôi đã mơ ước ăn theo vào cái sự vẻ vang đó của chú em?


Nghe nói lần này Đoàn được đi sâu vào tiền phương, anh chị em rất phấn khởi. Mọi yêu cầu của Đoàn đều được giải quyết vượt yêu cầu. Đời người lính trước lúc ra trận, có những sự chuẩn bị mà khi nhắc đến, người bình thường không khỏi thấy ghê ghê, như việc mỗi người được tự mình mang theo tấm vải liệm. Thanh Tùng đùa giỡn khoác tấm vải đó lên người hai chân bắt chéo, hai tay dang như đôi cánh chim run-rẩy, nghiêng nghiêng xoay một vòng giữa nhà.


Vào một ngày cuối tháng 7 năm 1968, đoàn xe chuyển bánh đưa anh chị em văn công vào tuyến lửa Quân khu 4. Xe chạy chầm chậm ven hồ. Đôi mày xếch hơi nheo lại, Tùng tư lự nhìn những vạt sen cuối mùa, không còn rào rạt như những ngày đầu hạ. Làn gió chiều từ phía hồ đưa tới khẽ mơn man đôi gò má cao của chàng trai trẻ tài hoa.


Mấy ngày sau, đoàn đã vào gần đến tiền phương. Thanh Tùng khoe với mọi người: "Có thể đêm nay xe sẽ qua quê Tùng!". Khi lên xe, Tùng đề nghị Thu Hương đổi chỗ cho Tùng ngồi sát phía ngoài để có thể nhìn quê hương cho rõ. Thu Hương vui vẻ lùi vào phía trong nhường chỗ cho Tùng. Xe đang chạy với tốc độ chậm, chợt trên nền trời đen loé lên một loạt pháo sáng. Lái xe giật mình đánh tay lái, xe rệ nghiêng xuống bên đường. Đi chiến trường đây là chuyện vặt, mọi người lục đục chui ra khỏi xe, để cho xe nhẹ, dễ dàng trườn lại mặt đường. Người đã xuống hết, nhưng không thấy Thanh Tùng? Bích cất tiếng gọi, vẫn không có tiếng đáp lại. Cát Vận, Văn Bích và Đỗ Chu trèo lên xe thì thấy chiếc phuy đầy 200 lít xăng từ phía đối diện tuột khỏi dây chằng, đè lên người Thanh Tùng. Hai tay Tùng chới với như muốn nắm bắt một vật vô hình nào đó?... Cô gái trẻ đã nhường chỗ cho Tùng, bưng mặt khóc oà lên...


Đêm đó, ngay trên quê hương mình, một lần nữa Thanh Tùng lại tái hiện trong vũ khúc đã làm anh nổi tiếng một thời, vũ khúc "Cánh chim"... Nhưng lần này cánh chim đó đã bay lên, bay đi mãi mãi trong ánh hoả châu lạnh lẽo, xuyên qua màn đêm về với mặt trời. Đó là đêm mùng tám tháng bảy năm Mậu Thân, tức là đêm 2 tháng 8 năm 1968.
Logged
Trang: « 1 2 3 4 5 6 7 8 9 »   Lên
  In  
 
Chuyển tới:  

Powered by MySQL Powered by PHP Powered by SMF 1.1.21 | SMF © 2006-2008, Simple Machines

Valid XHTML 1.0! Valid CSS! Dilber MC Theme by HarzeM