Lịch sử Quân sự Việt Nam
Tin tức: Lịch sử quân sự Việt Nam
 
*
Chào Khách. Bạn có thể đăng nhập hoặc đăng ký. 16 Tháng Tư, 2024, 05:54:52 pm


Đăng nhập với Tên truy nhập, Mật khẩu và thời gian tự động thoát


Trang: « 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 16 17 »   Xuống
  In  
Tác giả Chủ đề: Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân - Tập 5  (Đọc 6506 lần)
0 Thành viên và 2 Khách đang xem chủ đề.
quansuvn
Moderator
*
Bài viết: 6599



WWW
« Trả lời #120 vào lúc: 30 Tháng Mười Một, 2022, 07:50:19 pm »

ANH HÙNG PHẠM MINH TƯ


Phạm Minh Tư, sinh năm 1948, dân tộc Re, quê ở xã Nghĩa Minh, huyện Nghĩa Hành, tỉnh Quang Ngãi, nhập ngũ tháng 8 năm 1965. Khi được tuyên dương Anh hùng đồng chí là trung úy, chính trị viên đại đội 2 bộ binh, bộ đội địa phương huyện Đức Linh, tỉnh Binh Thuận, đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam.


Năm 13 tuổi (1961), Phạm Minh Tư đã tham gia hoạt động giúp đỡ và đưa đường cho bộ đội đánh địch có kết quả tốt.


Tháng 5 năm 1965, Phạm Minh Tư tham gia quân đội. Từ đó đến nay đồng chí đã trưởng thành từ chiến sĩ lên cán bộ đại đội, huyện đội phó. Ở cương vị nào đồng chí cũng phấn đấu hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ. Phạm Minh Tư đã tham dự 91 trận đánh, tự tay diệt hơn 90 tên địch.


Trong trận đánh Ấp Dua, xã Lạc Tánh (huyện Đức Linh) ngày 3 tháng 7 năm 1968 Phạm Minh Tư phụ trách 2 mũi dự bị của trung đội trinh sát. Khi mũi chủ yếu vào trinh sát chiếm lĩnh trận địa bị lộ không tiến lên được, đồng chí nhanh chóng đưa 2 mũi dự bị lên. Một mũi đánh thẳng vào sở chỉ huy địch, một mũi tạt sườn. Sau 30 phút chiến đấu 2 mũi do đồng chí chỉ huy đã chiếm được sở chỉ huy địch, diệt 18 tên.


Ngày 25 tháng 8 năm 1968, Phạm Minh Tư cùng hai người đi trinh sát thì phát hiện thấy 4 quả mìn định hướng của địch bố trí để phục kích quân ta. Đồng chí đã bí mật quay mìn hướng về phía địch và cho nổ. Kết quả đã diệt và bắt 30 tên, thu 13 súng, phá hỏng 2 máy thông tin, ta rút ra an toàn.


Ngày 8 tháng 11 năm 1968, sau khi hoàn thành nhiệm vụ điều tra sân bay Tánh Linh, trên đường về Phạm Minh Tư thấy địch đang ngủ trong một trường học, thời cơ thuận lợi, đồng chí tổ chức cho anh em bất ngờ tiến công diệt hầu hết quân địch (52 tên), thu 8 súng, 1 máy thông tin PRC - 25.


Đông Xuân 1974 - 1975, Phạm Minh Tư làm nhiệm vụ dẫn đường cho đơn vị bạn đi nghiên cứu tình hình địch. Bất kỳ lúc nào, có yêu cầu là đồng chí vui vẻ lên đường làm nhiệm vụ, tuy bị thương nặng nhưng vẫn không rời vị trí.


Đồng chí đã xây dựng được nhiều cơ sở tốt. Thời kỳ năm 1969 đến Xuân 1975, Phạm Minh Tư đã góp phần chuyển biến phong trào du kích chiến tranh trong huyện.


Đồng chí đã được tặng thưởng 1 Huân chương Chiến công giải phóng hạng nhất, 1 Huân chương Chiến công giải phóng hạng ba, 2 lần là Chiến sĩ thi đua, 23 bằng và giấy khen.


Ngày 6 tháng 11 năm 1978, Phạm Minh Tư được Chủ tịch nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam tặng danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân.
Logged

Ai công hầu, ai khanh tướng, vòng trần ai, ai dễ biết ai
Thế Chiến Quốc, thế Xuân Thu, gặp thời thế, thế thời phải thế
quansuvn
Moderator
*
Bài viết: 6599



WWW
« Trả lời #121 vào lúc: 30 Tháng Mười Một, 2022, 07:51:07 pm »

ANH HÙNG DƯƠNG VĂN THÌ


Dương Văn Thì, sinh năm 1936, dân tộc Kinh, quê ở xã Phú Hữu, huyện Nhân Trạch, tỉnh Đồng Nai. Nhập ngũ tháng 4 năm 1966. Khi được tuyên dương Anh hùng, đồng chí là trung úy, đại đội trưởng bộ binh, bộ đội địa phương huyện Thủ Đức, thành phố Hồ Chí Minh, đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam.


Từ năm 1959 đến năm 1965, Dương Văn Thì tham gia du kích. Tuy gặp nhiều khó khăn do địch đóng trong xã dày đặc và tìm cách bắt bớ, đồng chí vẫn kiên trì bám đất, bám dân, ngày nằm hầm, đêm bám địch, đưa đón cán bộ về hoạt động.


Từ khi nhập ngũ (tháng 4 năm 1966) đến Xuân 1975, Dương Văn Thì đã chiến đấu trên 100 trận. Đồng chí đã chỉ huy tiểu đội, trung đội diệt gần 600 tên địch, bắn rơi và phá hủy 3 máy bay lên thẳng, bắn chìm 2 tàu chiến, phá hủy 5 xe quân sự. Riêng đồng chí diệt 68 tên, có 25 Mỹ, 2 ác ôn, phá hủy 1 xe tăng, 1 xe ui.


Tháng 4 năm 1970, Dương Văn Thì dùng mìn phá hủy 1 xe bọc thép, 1 xe ủi, ngăn chặn được âm mưu địch cày ủi ruộng vườn.


Tháng 5 năm 1970, đồng chí chỉ huy tổ đánh tan 1 đại đội địch đi càn tại Tây Hòa.


Ngày 6 tháng 3 năm 1971, đồng chí chỉ huy tổ táo bạo mang mìn vào giữa đội hình cụm quân địch diệt 12 tên, làm bị thương một số tên khác. Bọn địch ở bốt Bà Mung hốt hoảng phải rút chạy.


Ngày 25 tháng 4 năm 1971, Dương Văn Thì thấy địch đi càn, đồng chí đặt mìn phục kích địch, diệt 13 tên.


Ngày 27 tháng 4 năm 1975, Dương Văn Thì chỉ huy đại đội đánh chiếm cầu Tân Cảng, sáng ngày 25 tháng 4, đồng chí trụ lại đánh địch phản kích từ 9 giờ đến 15 giờ, diệt và bắt nhiều tên, tạo điều kiện cho các đơn vị bạn tiến vào Sài Gòn theo đường từ Thủ Đức được thuận lợi.


Dương Văn Thì luôn nêu cao tinh thần thương yêu đồng đội, có lần trong chiến đấu đả mang vác 3 tử sĩ từ trận địa về nơi chôn cất chu đáo, được quần chúng tín nhiệm.


Đồng chí đã được tặng thưởng 1 Huân chương Chiến công giải phóng hạng ba, 10 bằng và giấy khen, 1 lần là Chiến sĩ thi đua, 3 lần là Dũng sĩ.


Ngày 6 tháng 11 năm 1978, Dương Văn Thì được Chủ tịch nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam tặng danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân.
Logged

Ai công hầu, ai khanh tướng, vòng trần ai, ai dễ biết ai
Thế Chiến Quốc, thế Xuân Thu, gặp thời thế, thế thời phải thế
quansuvn
Moderator
*
Bài viết: 6599



WWW
« Trả lời #122 vào lúc: 21 Tháng Mười Hai, 2022, 06:30:19 pm »

ANH HÙNG ĐOÀN VĂN THẮNG


Đoàn Văn Thắng, sinh năm 1949, dân tộc Kinh, quê ở xã Tân Nhuận Đông, huyện Châu Thành, tỉnh Đồng Tháp, nhập ngũ tháng 2 năm 1967. Khi được tuyên dương Anh hùng, đồng chí là trung úy, phân đội trưởng thông tin, thuộc tiểu đoàn 857, bộ đội địa phương tỉnh Cửu Long, đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam.


Từ năm 1967 đến tháng 4 năm 1975, Đoàn Văn Thắng làm nhiệm vụ bảo đảm thông tin của tiểu đoàn. Đồng chí luôn nêu cao quyết tâm, dũng cảm, mưu trí, vượt qua mọi khó khăn nguy hiểm, không ngại gian khổ hy sinh, bám sát đơn vị phục vụ chiến đấu.


Đoàn Văn Thắng đã trực tiếp phục vụ trên 80 trận đánh, bảo đảm thông tin thông suốt. Khi được giao phụ trách thông tin vô tuyến điện đồng chí đã tích cực chuyển, nhận hàng ngàn bức điện chính xác, kịp thời.


Trong hoàn cảnh chiến trường đồng bằng trống trải, địch thường xuyên đánh phá ác liệt, Đoàn Văn Thắng luôn xông xáo vượt qua bom đạn để rải và nối dây phục vụ cho các trận đánh của đơn vị, đồng chí phải xông ra nối dây tới 13 lần. Đặc biệt có những lần phải dò đi nối chỗ đứt nằm trên mặt cầu giữa lúc máy bay, pháo địch đang bắn dữ dội vào điểm đó. Đồng chí 2 lần bị thương vẫn bám đường dây để giữ vững liên lạc. Trong phục vụ chiến đấu, Đoàn Văn Thắng còn tỏ ra rất am hiểu tình hình. Có trận đi cùng mũi chủ yếu đánh vào tung thâm, gặp tình huống khó khăn, đồng chí đã báo cáo kịp thời và đề xuất với trên xin cho đội dự bị bước vào chiến đấu đúng thời cơ, giành thắng lợi. Ngoài ra, đồng chí còn tích cực theo dõi điện đài, nắm chắc tình hình địch trên địa bàn hoạt động của đơn vị. Đồng chí đã ghi nhận được 1.300 bức điện của địch, chịu khó suy nghĩ, phân tích từng mẩu tin, chủ động đề xuất ý kiến giúp trên kịp thời có biện pháp đối phó.


Đồng chí sống cần cù, mẫu mực, chấp hành chính sách kỷ luật nghiêm, được cấp trên tin tưởng, anh em yêu mến.


Đoàn Văn Thắng đã được tặng thưởng 1 Huân chương Chiến công giải phóng hạng nhất, 1 Huân chương Chiến công giải phóng hạng nhì, 1 Huân chương Chiến công giải phóng hạng ba, 14 bằng và giấy khen.


Ngày 6 thấng 11 năm 1978, Đoàn Văn Thắng được Chủ tịch nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam tặng danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân.
Logged

Ai công hầu, ai khanh tướng, vòng trần ai, ai dễ biết ai
Thế Chiến Quốc, thế Xuân Thu, gặp thời thế, thế thời phải thế
quansuvn
Moderator
*
Bài viết: 6599



WWW
« Trả lời #123 vào lúc: 21 Tháng Mười Hai, 2022, 06:31:13 pm »

ANH HÙNG TRỊNH XUÂN THIỀU


Trịnh Xuân Thiều, sinh năm 1947, dân tộc Kinh, quê ở xã Định Tiến, huyện Yên Định, tỉnh Thanh Hóa, nhập ngũ tháng 12 năm 1967. Khi được tuyên dương Anh hùng đồng chí là chính trị viên đại đội đặc công, đại đội 11, tiểu đoàn 3, trung đoàn 316, Quân khu 7, đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam.


Từ tháng 3 năm 1968 đến cuối năm 1974, Trịnh Xuân Thiều làm nhiệm vụ đánh tàu địch ớ Trị-Thiên, Nam Bộ và giúp cách mạng Cam-pu-chip... đã chỉ huy tố đánh chim 7 tàu, có 1 tàu trọng tải 8.000 tấn.


Đêm 18 tháng 5 năm 1972, Trịnh Xuân Thiều và một người nữa đánh tàu tại cảng Nông-pênh (Cam-pu-chia), ở đây địch phòng thủ rất chặt chẽ, tuần tiễu, bắn pháo sáng liên tục... đồng chí vẫn động viên đồng đội cùng mình tìm cách lọt vào cảng, lựa thế đặt khối nổ đánh chìm 2 tàu địch (1 tàu vận tải, 1 tàu tuần tiễu).


Ngày 4 tháng 8 năm 1972, Trịnh Xuân Thiều đánh cảng Nông-pênh lần thứ 2, tuy gặp khó khăn hơn lần trước vi địch tăng cường phòng thủ, phải bơi xa 20 ki-lô-mét mới tới mục tiêu... đồng chí đã đưa cả tổ vào đúng như phương án. Riêng Trịnh Xuân Thiều cùng 1 đồng đội đánh chim 1 tàu 8.000 tấn.


Từ sau ngày miền Nam hoàn toàn giải phóng đến năm 1978 Trịnh Xuân Thiều là chính trị viên đại đội 11. Đồng chí đã góp phần tích cực xây dựng đơn vị làm tốt công tác truy quét tàn binh địch, bảo vệ trị an, tuyên truyền vận động quần chúng chấp hành nghiêm các chinh sách, kỷ luật, được nhân dân tín nhiệm.


Đồng chí sống giản dị, khiêm tốn, được đơn vị yêu mến.


Trịnh Xuân Thiều đã được tặng thưởng 1 Huân chương Chiến công giải phóng hạng nhì, 2 Huân chương Chiến công giải phóng hạng ba, nhiều bằng và giấy khen.


Ngày 6 tháng 11 năm 1978, Trịnh Xuân Thiều được Chủ tịch nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam tặng danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân.
Logged

Ai công hầu, ai khanh tướng, vòng trần ai, ai dễ biết ai
Thế Chiến Quốc, thế Xuân Thu, gặp thời thế, thế thời phải thế
quansuvn
Moderator
*
Bài viết: 6599



WWW
« Trả lời #124 vào lúc: 21 Tháng Mười Hai, 2022, 06:32:05 pm »

ANH HÙNG BÙI VĂN VIẾT


Bùi Văn Viết (tức Tư Thắng), sinh năm 1927, dân tộc Kinh, quê ở xã Hưng Hội, huyện Vĩnh Lợi, tỉnh Minh Hải, nhập ngũ tháng 1 năm 1962. Khi được tuyên dương Anh hùng đồng chí là trung úy, cán bộ Đoàn 804 vận tải thuộc Cục hậu cần, Quân khu 9, đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam.


Từ tháng 4 năm 1962 đến tháñg 4 năm 1968, Bùi Văn Viết được giao phụ trách một cụm kho vũ khí trong rừng đước Năm Căn. Ở đây khí hậu khầc nghiệt, đầm lầy, nước mặn, muỗi bọ nhiều, dễ sinh bệnh tật, Bùi Vản Viết đã gương mau và động viên đồng đội vượt qua, báo vệ tốt kho tàng không để mất mát, han gỉ, ẩm ướt một thứ vũ khí nào. Những khi địch lùng sục, càn quét vào khu vực kho, đồng chí đã cùng anh em nhanh chóng sơ tán kho tàng, vót chông, đào hầm, gài mìn... để ngăn chặn địch không cho chúng đến khu vực kho tàng. Dù khó khăn đến dâu, cụm kho của đồng chí phụ trách cũng vẫn đảm bảo phục vụ kịp thời cho bộ đội chiến đấu.


Từ giữa năm 1968 đến cuối năm 1971, Bùi Văn Viết được phân công về Viện quân y quân khu làm công tác nuôi dưỡng thương binh, bệnh binh. Đồng chí đã tận tụy phục vụ không kể ngày đêm, được anh em thương bệnh binh yêu mến. Đồng chí cùng đơn vị tổ chức tăng gia sản xuất, đã thu hoạch hàng chục tấn gạo, thực phẩm góp phần nuôi dưỡng thương bệnh binh nhất là trong lúc vận chuyển, tiếp tế của trên khó khăn. Đặc biệt trong thời gian địch mở chiến dịch "Nhổ cỏ U Minh", càn quét dài ngày ác liệt vào khu vực đóng quân. Đồng chí được giao nhiệm vụ tiếp tế, phải qua lại vùng địch rất khó khăn, nguy hiểm, nhưng đồng chí luôn cố gắng vượt qua.


Từ cuối năm 1971 đến tháng 4 năm 1975, Bùi Văn Viết chuyển sang công tác vận tải bằng thuyền. Phải chở vũ khí, cán bộ qua những quãng đường dài hàng trăm cây số, nhiều đồn bốt địch kiểm soát gắt gao và thường diễn ra những trận đánh, đồng chí đã khắc phục khó khăn, động viên cả vợ, con tham gia, do đó đã vượt mức quy định trên giao. Tính chung đồng chí đã chuyển hàng trăm tấn hàng và đưa đón nhiều đoàn cán bộ đi lại an toàn.


Bùi Văn Viết có phẩm chất đạo đức tốt; gương mẫu về mọi mặt, ở đâu đồng chí cũng được anh em tín nhiệm.


Đồng chí đã được tặng thưởng 1 Huân chương Chiến công giải phóng hạng nhất, 1 Huân chương Chiến công giải phóng hạng nhì, 1 Huân chương Chiến công giải phóng hạng ba.


Ngày 6 tháng 11 năm 1978, Bùi Văn Viết được Chủ tịch nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam tặng danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân.
Logged

Ai công hầu, ai khanh tướng, vòng trần ai, ai dễ biết ai
Thế Chiến Quốc, thế Xuân Thu, gặp thời thế, thế thời phải thế
quansuvn
Moderator
*
Bài viết: 6599



WWW
« Trả lời #125 vào lúc: 21 Tháng Mười Hai, 2022, 06:33:30 pm »

ANH HÙNG CAO VĂN BẾ


Cao Văn Bé (tức Cao Bé), sinh năm 1944, dân tộc Rắc Lây, quê ở xã Ba Cụm 2, huyện Khánh Sơn, tỉnh Khánh Hòa. Nhập ngũ tháng 9 năm 1963. Khi được tuyên dương Anh hùng đồng chí là thiếu úy, đại đội trưởng đại đội 548 bộ binh, bộ đội địa phương, tỉnh Khánh Hòa, đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam.


Từ năm 1963 đến năm 1975, Cao Văn Bé đã qua các nhiệm vụ chiến sĩ liên lạc, tiều đội trưởng trinh sát, trung đội trưởng, đại đội trướng bộ binh, ở các cương vị đồng chí đều nêu cao tinh thần dũng cảm, mưu trí vượt qua mọi khó khăn ác liệt, kiên quyết hoàn thành xuất sắc mọi nhiệm vụ được giao. Đồng chí đã nhiều lần đưa được công văn, tài liệu, dẫn đường cho hàng trảm cán bộ tới đích an toàn. Ngoài ra đồng chí còn điều tra, nắm chắc tình hình và cách bố phòng của địch, phục vụ cho đơn vị chiến đấu được tốt. Đồng chí đã trực tiếp chiến đấu 30 trận, góp phần chỉ huy đơn vị diệt hơn 500 tên địch, phá hủy nhiều phương tiện chiến tranh. Tự tay đồng chí diệt 150 tên, phá hủy 8 xe quân sự, thu 11 súng.


Năm 1966, địch đóng đồn và thường xuyên phục kích ngăn chặn, cắt đứt đường liên lạc giữa khu bắc và khu nam của tỉnh. Cao Văn Bé xung phong nhận nhiệm vụ bám địch, theo dõi hoạt động của chúng, đồng chí đã đưa được nhiều đoàn cán bộ đi công tác giữa hai khu được an toàn.


Năm 1968, một lần địch càn vào khu căn cứ, trong lúc chúng đang triển khai đội hình bao vây bệnh xá của ta, Cao Văn Bé dũng cảm, tìm mọi cách vượt qua đội hình địch đến bệnh xá để truyền lệnh của trên cho di chuyển vị trí. Sau đó đồng chí lại dẫn đường đưa cán bộ và chiến sĩ bệnh xá vượt ra khỏi khu vực địch càn được an toàn.


Tháng 9 năm 1971, Cao Văn Bé phụ trách 1 tổ phục kích đoàn xe địch trên đường 21. Khi đoàn xe lọt vào trận địa, đồng chí bắn 2 quả đạn B40, phá hủy 2 chiếc (có 1 chiếc chở xăng).


Trong trận phục kích bọn gác đường 21 ngày 11 tháng 1 năm 1974, sau khi dẫn đơn vị bố trí xong, đồng chí thấy địch đứng gác quá thưa. Cao Văn Bé động viên anh em chờ đến. trưa bọn địch tập trung dưới một gốc cây để ăn cơm mới cho nổ súng, diệt tại chỗ 35 tên. Trận đánh thắng làm bọn địch rất hoang mang, không dám đi gác đoạn đường đó nữa.


Cao Văn Bé chú trọng xây dựng đơn vị tiến bộ về mọi mặt. Hết lòng thương yêu đồng đội, nhiều lần cõng thương binh vượt qua bom đạn địch rất ác liệt về phía sau an toàn. Cao Văn Bé sống khiêm tốn, giản dị được đồng đội tin yêu.


Đồng chí đã được tặng thưởng 1 Huân chương Chiến công giải phóng hạng nhất, 1 Huân chương Chiến công giải phóng hạng nhì, 2 Huân chương Chiến công giải phóng hạng ba, 11 bằng và giấy khen, 7 lần là Chiến sĩ thi đua và là Dũng sĩ.


Ngày 6 tháng 11 năm 1978, Cao Văn Bé được Chủ tịch nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam tặng danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân.
Logged

Ai công hầu, ai khanh tướng, vòng trần ai, ai dễ biết ai
Thế Chiến Quốc, thế Xuân Thu, gặp thời thế, thế thời phải thế
quansuvn
Moderator
*
Bài viết: 6599



WWW
« Trả lời #126 vào lúc: 21 Tháng Mười Hai, 2022, 06:34:22 pm »

ANH HÙNG ĐẶNG VĂN DẦY


Đặng Văn Dầy, sinh năm 1944, dân tộc Kinh, quê ở xã Phong Hòa, huyện Lấp Vò, tỉnh Đổng Tháp, nhập ngũ tháng 2 năm 1962. Khi được tuyên dương Anh hùng, đồng chí là thiếu úy, đại đội trưởng thuộc Cục hậu cần, Quân khu 9, đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam.


Từ năm 1962 đến tháng 4 năm 1975, Đặng Văn Dầy làm nhiệm vụ giữ kho ở vùng U Minh, nơi có nhiều khó khăn, gian khổ. Do địa hình phức tạp phải bố trí kho phân tán trên địa bàn rộng, có nhiều sông rạch chia cắt, đi lại rất khó khăn, đồng chí thường xuyên kiểm tra từng kho, đôn đốc và cùng anh em sửa chữa sàn, mái bảo đảm không để hàng bị ấm ướt, hư hỏng.


Hơn 10 năm kiên trì làm nhiệm vụ, Đặng Văn Dầy đã tiếp nhận, bảo quản và cấp phát hàng tấn vũ khí chu đáo, nhất là trong các đợt hoạt động lớn như Xuân 1968, chiến dịch năm 1972, Xuân 1975... tiếp nhận và cấp phát khối lượng hàng rất lớn, phải làm việc liên tục ngày đêm nhưng Đặng Văn Dầy vốn vui vẻ cùng anh em làm đến nơi, đến chốn. Có đợt trong vòng 10 ngày đồng chí đã tiếp nhận và cấp phát tới 300 tấn hàng.


Đặc biệt trong những năm địch càn quét, đánh phá kho tàng ở vùng căn cứ U Minh, Đặng Văn Dầy đã nêu cao tinh thần tích cực tấn công, chiến đấu dũng cảm đánh trên 30 trận diệt gần 300 tên dịch, góp phần bảo vệ kho an toàn. Những trận tiêu biểu:

- Tháng 12 năm 1970, địch đóng chốt ở Rạch Bà Thầy uy hiếp khu vực kho, Đặng Văn Dầy chỉ huy đơn vị liên tục đánh nhiều trận và chủ động tìm cách làm nhiều đạn phóng. Đồng chí đã diệt trên 100 tên, phá hủy 5 khẩu pháo, buộc địch phai bỏ vị trí.

- Tháng 4 năm 1971, dịch dùng tàu chở quân đánh vào căn cứ. Đặng Văn Dầy kiên trì phục kích, chịu đựng khó khăn, ác liệt trong hơn 10 ngày và cuối cùng đồng chí đã dùng mìn đánh chìm 1 tàu, diệt trên 30 tên địch, thu toàn bộ vũ khí. Những ngày tiếp sau đó đồng chí chỉ huy đơn vị liên tạc đánh chìm 3 chiếc tàu khác, bẻ gãy các cuộc càn quét của địch, bảo vệ kho an toàn.


Đặng Văn Dầy sống gương mẫu, cần cù, nghiêm chỉnh chấp hành chinh sách, kỷ luật, được anh em mến.


Đồng chí đã được tặng thưởng 1 Huân chương Chiến công giải phóng hạng nhất, 1 Huân chương Chiến công giải phóng hạng nhì, 2 Huân chương Chiến công giải phóng hạng ba, 23 băng và giấy khen, 14 lần đạt. danh hiệu Dũng sĩ.


Ngày 6 tháng 11 năm 1978, Đặng Văn Dầy được Chủ tịch nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam tặng danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân.
Logged

Ai công hầu, ai khanh tướng, vòng trần ai, ai dễ biết ai
Thế Chiến Quốc, thế Xuân Thu, gặp thời thế, thế thời phải thế
quansuvn
Moderator
*
Bài viết: 6599



WWW
« Trả lời #127 vào lúc: 21 Tháng Mười Hai, 2022, 06:37:56 pm »

ANH HÙNG NGUYỄN VĂN TRUNG


Nguyễn Văn Trung (tức Nguyễn Văn Giầu), sinh năm 1946, dân tộc Kinh, quê ở xã Thạnh An, huyện Châu Thành, tỉnh Cần Thơ, nhập ngũ tháng 2 năm 1963. Khi được tuyên dương Anh hùng, đồng chí là thiếu úy, quân y sĩ thuộc tỉnh đội Cần Thơ, đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam.


Hoạt động trên địa bàn Cần Thơ, là nơi địch đánh phá ác liệt Nguyễn Văn Trung luôn nêu cao quyết tâm, vượt mọi khó khăn bám sát đơn vị chiến đấu, cấp cứu kịp thời, điều trị, chăm sóc thương binh, bệnh binh, phục vụ hàng trăm trận chiến đấu. Trong điều kiện thiếu thốn về mọi mặt, đồng chí đã động viên anh em cùng mình tảng gia sản xuất lấy lương thực, thực phẩm để nuôi dưỡng thương binh.


Đóng quân ở đâu, Nguyễn Văn Trung cũng tích cực tuyên truyền công tác vệ sinh, phòng bệnh, tổ chức khám và chữa bệnh giúp dân nên được nhân dân yêu mến, đùm bọc và giúp đỡ đơn vị trong việc chăm sóc thương binh.


Vừa điều trị nuôi dưỡng tốt thương binh, bệnh binh, đồng chí vừa tích cực chiến đấu bảo vệ căn cứ. Năm 1969 địch đổ 4 đại đội xuống vị trí đóng quân của ban quân y, Nguyễn Văn Trung cùng một số anh em trong ban đánh lùi các đợt tấn công của địch, bảo vệ an toàn căn cứ. Riêng đồng chí diệt 10 tên, bắn rơi 1 máy bay lên thẳng. Có lần địch đưa 2 tiểu đoàn càn vào khu vực bệnh xá. Nguyễn Văn Trung đã chỉ huy số anh em thương binh đã khỏi chiến đấu suốt 2 ngày với địch, bảo vệ an toàn cho bệnh xá.


Nguyễn Văn Trung sống giản dị, khiêm tốn, hết lòng thương yêu đồng đội.


Đồng chí đã được tặng thưởng 1 Huân chương Chiến công giải phóng hạng nhất, 5 lần là Chiến sĩ thi đua, 5 lần đạt danh hiệu Dũng sĩ.


Ngày 6 tháng 11 năm 1978, Nguyễn Văn Trung dược Chủ tịch nước Cộng hòa xà hội chủ nghĩa Việt Nam tặng danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân.
Logged

Ai công hầu, ai khanh tướng, vòng trần ai, ai dễ biết ai
Thế Chiến Quốc, thế Xuân Thu, gặp thời thế, thế thời phải thế
quansuvn
Moderator
*
Bài viết: 6599



WWW
« Trả lời #128 vào lúc: 21 Tháng Mười Hai, 2022, 06:38:30 pm »

ANH HÙNG ĐỖ ĐÌNH VÂN


Đỗ Đình Vân, sinh năm 1953, dân tộc Kinh, quê ở xã Văn Phú, huyện Mỹ Văn, tỉnh Hải Hưng, nhập ngũ tháng 8 năm 1970. Khi được tuyên dương Anh hùng, đồng chí là thiếu úy, chính trị viên phó đại đội trinh sát thuộc trung đoàn 2, sư đoàn 3, Quân khu 5, đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam.


Từ tháng 4 năm 1971 đến tháng 4 năm 1975, Đỗ Đình Vân tham gia chiến đấu ở chiến trường Khu 5. Đồng chí luôn nêu cao tinh thần dũng cảm, táo bạo, khi làm nhiệm vụ trinh sát nâm tình hình địch, góp phần tích cực cho đơn vị hạ quyết tâm chiến đấu chính xác, giành thắng lợi "trong các trận đánh. Đồng chí đi trinh sát 22 vị trí địch, trực tiếp chiến đấu 4 trận, tự tay diệt 14 tên, bắt 7 tên, thu 11 súng (có 1 đại liên).


Tháng 7 năm 1973, địch tập trung lực lượng càn quét lấn chiếm vùng Mỹ Lộc (Bình Định), đã 4 ngày luồn lách theo dõi địch nhưng vì địch tung lực lượng tuần tiễu nhiều, vị trí đóng quân của chúng lại phân tán. Đỗ Đình Vân đã bàn bạc và cùng tiểu đội quyết tâm đánh địch, buộc chúng co lại để xác định vị trí trú quân của chúng. Tự tay đồng chí dùng mìn diệt 6 tên, thu 3 súng. Đúng như dự kiến, chúng co lại, tiểu đội đồng chí đã kịp thời dẫn tiểu đoàn vào tập kích diệt hơn 100 tên.


Từ ngày 10 đến ngày 25 tháng 7 năm 1973, Đỗ Đình Vân đã 8 lần ra vào vị trí Núi Nùng (Mỹ Trinh, Bình Định) điều tra tình hình địch cụ thể, dẫn cán bộ vào khu vực chiến đấu của đơn vị mình chính xác, an toàn, góp phần cùng đơn vị diệt 1 đại đội địch trong đêm 26 tháng 7.


Trận đánh Phan Rang ngày 15 tháng 4 năm 1975, vừa hành quân tới nơi, Đỗ Đình Vân phụ trách một tổ đi trinh sát chuẩn bị cho trận đánh ngay. Tuy địa hình mới lạ, nhiệm vụ khẩn trương, đồng chí táo bạo giả trang đi điều tra nắm tình hình địch giữa ban ngày. Do điều tra được tỉ mỉ, cụ thể Đỗ Đình Vân đã góp phần cùng trung đoàn diệt và bắt hơn 900 tên địch (có 2 cấp tướng).


Đồng chí luôn gương mẫu về mọi mặt, tích cực giúp đỡ đồng đội, động viên giáo dục tốt chiến sĩ mới, sống khiêm tốn, giản dị, được đồng đội tin yêu.


Đỗ Đình Vân đã được tặng thưởng 1 Huân chương Chiến công giải phóng hạng nhất, 2 Huân chương Chiến công giải phóng hạng ba, 8 bằng khen và giấy khen, 3 lần là Chiến sĩ thi đua, 5 lần là Dũng sĩ.


Ngày 6 tháng 11 năm 1978, Đỗ Đinh Vân được Chủ tịch nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam tặng danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân.
Logged

Ai công hầu, ai khanh tướng, vòng trần ai, ai dễ biết ai
Thế Chiến Quốc, thế Xuân Thu, gặp thời thế, thế thời phải thế
quansuvn
Moderator
*
Bài viết: 6599



WWW
« Trả lời #129 vào lúc: 21 Tháng Mười Hai, 2022, 06:39:07 pm »

ANH HÙNG NGUYỄN VĂN THƯƠNG


Nguyễn Văn Thương, sinh năm 1938, dân tộc Kinh, quê ở xã Lộc Hưng, huyện Trảng Bàng, tỉnh Tây Ninh, nhập ngũ tháng 5 năm 1959. Khi được tuyên dương Anh hùng đồng chí là chuẩn úy, giao thông tình báo, Bộ tham mưu B2, đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam.


Từ năm 1959 đến tháng 2 năm 1969, Nguyễn Văn Thương làm nhiệm vụ giao liên tình báo ở khu vực bắc Sài Gòn. Tuy đảm nhiệm cung đường dài (Sài Gòn - Bến Cát), địch thường xuyên kiểm soát rất ngặt nghèo, đồng chí đã luôn tìm mọi cách vượt qua khó khăn, nguy hiểm, đã hàng nghìn lần chuyển nhận tài liệu, công văn, chỉ thị và đưa đón hàng trăm cán bộ từ căn cứ vào Sài Gòn và từ Sài Gòn ra căn cứ được nhanh chóng an toàn.


Quá trình làm nhiệm vụ, nhiều lần gặp địch càn quét vào khu vực đóng quân của đơn vị, Nguyễn Văn Thương đều tích cực đánh địch, giành thắng lợi. Có lần địch tập kích vào nơi đóng quân của ta, đồng chí đã chỉ huy một tổ bắn rơi 3 máy bay lên thẳng bằng súng tiểu liên. Mặc dù quân địch đông, có xe tăng và pháo binh yểm trợ, Nguyễn Văn Thương đã cùng đồng đội kiên cường bền bỉ bám trụ cả tháng trời, nhiều lần đánh lui cả đại đội địch diệt 50 tên, phá hủy 8 xe tăng, bảo vệ khu căn cứ của ta.


Ngày 10 tháng 2 năm 1969, trên đường mang tài liệu từ Sài Gòn về vùng căn cứ thì máy bay địch phát hiện sà xuống, đồng chí đã dùng súng AK bắn trúng chiếc máy bay lên thẳng này diệt 3 tên địch. Các máy bay khác sà xuống, đổ quân vây bắt và bắn bị thương đồng chí. Thấy mình kiệt sức, không thể chống cự nổi, đồng chí bò đi cất giấu tài liệu tháo súng và vứt từng bộ phận đi (tài liệu đồng chí giấu, sau đó đơn vị tìm được). Đồng chí bị địch bắt. Hơn 4 năm trong tù (từ tháng 2 năm 1969 đến tháng 3 năm 1973), địch tra tấn đủ mọi cực hình, nhưng không khuất phục được Nguyễn Văn Thương. Chúng đã đưa đồng chí giam ở Phú Quốc, đồng chí vẫn tiếp tục đấu tranh, tham gia cấp ủy trong tù. Tấm gương bất khuất, kiên cường của đồng chí Nguyễn Văn Thương đã cổ vũ đồng đội trong nhà tù hăng hái đấu tranh với địch.


Từ khi ra tù đến nay, đồng chí sống luôn lạc quan, tích cực luyện tập, giữ gìn sức khỏe, sống giản dị, khiêm tốn, được đồng đội mến phục.


Đồng chí đã được tặng thưởng 2 Huản chương Chiến công giải phóng hạng nhất, 1 Huân chương Chiến công giải phóng hạng ba, 14 lần được công nhận danh hiệu Dũng sĩ, 2 lần là Chiến sĩ thi đua, 24 bằng khen và giấy khen.


Ngày 6 tháng 11 năm 1978, Nguyễn Văn Thương được Chủ tịch nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam tặng danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân.
Logged

Ai công hầu, ai khanh tướng, vòng trần ai, ai dễ biết ai
Thế Chiến Quốc, thế Xuân Thu, gặp thời thế, thế thời phải thế
Trang: « 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 16 17 »   Lên
  In  
 
Chuyển tới:  

Powered by MySQL Powered by PHP Powered by SMF 1.1.21 | SMF © 2006-2008, Simple Machines

Valid XHTML 1.0! Valid CSS! Dilber MC Theme by HarzeM