Lịch sử Quân sự Việt Nam
Tin tức: Lịch sử quân sự Việt Nam
 
*
Chào Khách. Bạn có thể đăng nhập hoặc đăng ký. 16 Tháng Tư, 2024, 08:15:11 pm


Đăng nhập với Tên truy nhập, Mật khẩu và thời gian tự động thoát


Trang: « 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 16 17 »   Xuống
  In  
Tác giả Chủ đề: Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân - Tập 5  (Đọc 6507 lần)
0 Thành viên và 1 Khách đang xem chủ đề.
quansuvn
Moderator
*
Bài viết: 6599



WWW
« Trả lời #100 vào lúc: 16 Tháng Mười Một, 2022, 02:56:42 pm »

ANH HÙNG CAO VĂN HƯỞNG


Cao Văn Hưởng, sinh năm 1930, dân tộc Kinh, quê ở xã An Hiệp, huyện Ba Tri, tỉnh Bến Tre, nhập ngũ tháng 3 năm 1950. Khi được tuyên dương Anh hùng đồng chí là thượng úy, xưởng phó xưởng Quân giới, Quân khu 7, đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam.


Từ tháng 11 năm 1964 đến Xuân 1975, Cao Văn Hưởng làm nhiệm vụ sản xuất vũ khí phục vụ chiến đấu, trong hoàn cảnh khó khăn, thiếu thốn nhiều mặt, đồng chí đã nêu cao tinh thần tích cực tìm cách khẳc phục, dám nghĩ, dám làm phát huy sáng kiến, sản xuất được nhiều vũ khí cung cấp cho đơn vị chiến đấu.


Trong 2 năm 1967 - 1968, đơn vị vừa sản xuất, vừa vận chuyển vũ khí ra phía trước. Mặc dù sức khỏe có hạn, nhưng Cao Văn Hưởng vẫn củng anh em vượt qua nhiều tuyến đường khó khăn, nguy hiểm địch ngăn chặn để chở vũ khí đến nơi nhanh chóng an toàn. Nhiều chuyến đồng chí thồ tới 300 ki-lô-gam, khi trở về lại đưa thương binh về tuyến sau an toàn.


Năm 1970, địch nhiều lần đánh phá vào khu vực sản xuất của xường gây nhiều khó khăn cho sản xuất, trong khi đó nguyên vật liệu để sản xuất vũ khí lại thiếu thốn, đồng chí xung phong đi tìm bom đạn lép của địch về làm mìn, lựu đạn. Nhiều khi thức trắng đêm đề chuyên chở vật liệu.


Cao Văn Hưởng tích cực động viên đơn vị tăng gia sản xuất, hàng năm thu hoạch trên 10 tấn gạo, 30 tấn sắn... Nhờ đó đã giải quyết được nhiều khó khăn, thiếu thốn, bảo đảm đời sống cho anh em trong xưởng.


Cao Văn Hưởng sống gương mẫu, khiêm tốn, giản dị được anh em yêu mến.


Đồng chí đã được tặng thưởng 1 Huân chương Chiến công giải phóng hạng nhất, 2 Huân chương Chiến công giải phóng hạng ba, 5 năm là Chiến sĩ thi đua.


Ngày 6 tháng 11 năm 1978, Cao Văn Hưởng được Chủ tịch nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam tặng danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân.
Logged

Ai công hầu, ai khanh tướng, vòng trần ai, ai dễ biết ai
Thế Chiến Quốc, thế Xuân Thu, gặp thời thế, thế thời phải thế
quansuvn
Moderator
*
Bài viết: 6599



WWW
« Trả lời #101 vào lúc: 16 Tháng Mười Một, 2022, 02:57:23 pm »

ANH HÙNG NGUYỄN THANH HÒA


Nguyễn Thanh Hòa, sinh năm 1939, dân tộc Kinh, quê ở xã Vĩnh Phước, huyện Gò Quao, tỉnh Kiên Giang, nhập ngũ tháng 3 năm 1961. Khi được tuyên dương Anh hùng, đồng chí là thượng úy chính trị viên huyện đội Hà Tiên, tỉnh Kiên Giang, đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam.


Từ năm 1961 đến tháng 4 năm 1975, Nguyễn Thanh Hòa đã bám trụ chiến đấu liên tục ở một chiến trường có nhiều khó khăn. Đồng chí luôn nêu cao tinh thần tiến công địch, không ngại nguy hiểm hy sinh, chiến đấu 120 trận, diệt gần 200 tên địch, phá hủy 3 xe bọc thép, thu 30 súng các loại.


Trận đánh Tân Hội (Rạch Giá) ngày 20 tháng 8 năm 1969, Nguyễn Thanh Hòa phụ trách một tổ 3 người chặn đánh hơn 2 đại đội địch. Tuy địch đông, có máy bay, pháo binh yểm trợ nhưng đồng chí bình tĩnh, động viên anh em bám chắc công sự để địch đến gần mới nổ súng. Khi sắp hết đạn, Nguyễn Thanh Hòa mưu trí dùng lựu đạn đánh gần thu hút địch để đồng đội nhảy lên cướp súng đạn địch đánh địch. Kết quả trong 1 ngày, tổ đồng chí đã đánh lui các đợt tấn công của địch diệt 50 tên, giữ vững trận địa.


Tháng 6 năm 1973, Nguyễn Thanh Hòa chỉ huy đơn vị có 30 người đánh địch trên đường Cái Sắn (Tân Hiệp) để bảo vệ tuyến hành lang của khu và hỗ trợ cho địa phương chống phá bình định của địch.


Ngày 26 tháng 6, địch huy động 2 tiểu đoàn bộ binh có chi đoàn cơ giới yểm trợ đánh vào trận địa ta. Đồng chí bình tĩnh chỉ huy anh em ngoan cường bám trụ, chịu đựng bom đạn của địch để chiến đấu, mặt khác tổ chức một số anh em tim đạn địch sửa thành mìn đánh xe. Đơn vị bám địch, đánh địch liên tục 12 ngày đêm, nơi nào khó khăn, nguy hiểm đồng chí đều có mặt, động viên anh em chiến đấu. Kết quả diệt gần 100 tên địch, phá hủy 7 xe bọc thép, bẻ gãy ý đồ của địch đóng thêm đồn bốt, đơn vị đã thu hút địch đảm bảo cho 2 đoàn tân binh của quân khu vượt qua đường Cái Sắn ra căn cứ an toàn. Đơn vị hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ.


Trận đánh ngày 18 tháng 2 năm 1968, đơn vị có 36 người, làm nhiệm vụ giữ địa bàn vùng ven thị xã Rạch Giá. Địch dùng 1 tiểu đoàn chủ lực và nhiều trung đội địa phương quân có chi đoàn cơ giới yểm trợ đánh vào khu vực đóng quân của đơn vị. Nguyễn Thanh Hòa chỉ huy đơn vị bình tĩnh quyết tâm chờ địch đến gần mới nổ súng tiêu diệt. Đồng chí luôn có mặt ở hướng chủ yếu chỉ cho anh em từng mục tiêu, yểm trợ cho nhau chiến đấu trong 1 ngày đánh lui 10 đợt tấn công của địch, diệt trên 140 tên, phá hủy 7 xe bọc thép, buộc địch phải lui quân, đơn vị giữ vững địa bàn đứng chân.


Đồng chí có tác phong gương mẫu, nghiêm chỉnh chấp hành chính sách, kỷ luật, đoàn kết tốt, được anh em tin yêu.


Đồng chí đã được tặng thưởng 1 Huân chương Chiến công giải phóng hạng nhất, 1 Huân chương Chiến công giải phóng hạng nhì, 1 Huân chương Chiến công giải phóng hạng ba.


Ngày 6 tháng 11 năm 1978, Nguyễn Thanh Hòa được Chủ tịch nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam tặng danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân.
Logged

Ai công hầu, ai khanh tướng, vòng trần ai, ai dễ biết ai
Thế Chiến Quốc, thế Xuân Thu, gặp thời thế, thế thời phải thế
quansuvn
Moderator
*
Bài viết: 6599



WWW
« Trả lời #102 vào lúc: 23 Tháng Mười Một, 2022, 07:31:45 pm »

ANH HÙNG PHAN TRUNG KIÊN


Phan Trung Kiên, dân tộc Kinh, sinh năm 1946, quê ở xã Tân Phú Trung, huyện Củ Chi, thành phố Hồ Chí Minh, nhập ngũ tháng 5 năm 1965. Khi được tuyên dương Anh hùng đồng chí là thượng úy, tiểu đoàn trưởng tiểu đoàn 2 bộ binh thuộc trung đoàn 4, Quân khu 7, đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam.


Cha Phan Trung Kiên là liệt sĩ chống Pháp, mẹ mất sớm. Năm 10 tuổi (1956) Phan Trung Kiên đi theo cần bộ địa phương hoạt động. Năm 1965 đồng chí nhập ngũ. Từ khi vào bộ đội đến tháng 6 năm 1974, Phan Trung Kiên được phân công hoạt động ở vùng địch tạm chiếm (đông huyện Hóc Môn) làm nhiệm vụ tuyên truyền, vận động quần chúng, xây dựng lực lượng vũ trang địa phương, đánh địch phá thế kìm kẹp. Phan Trung Kiên luôn nêu cao tinh thần kiên trì bám đất, bám dân, dũng cảm vượt qua mọi khó khăn. Khi hoạt động bí mật, lúc hoạt động công khai, nhiều lần giả trang vào đồn địch hoặc thị trấn để diệt bọn ác ôn. Đến xã nào, ấp nào, đồng chí cũng xây dựng và củng cố được đội du kích, Phan Trung Kiên còn trực tiếp chỉ huy đánh địch, hỗ trợ cho quần chúng đấu tranh. Trong chiến đấu, Phan Trung Kiên đã nêu cao tinh thần dũng cảm, táo bạo, chỉ huy linh hoạt, bình tĩnh, lập nhiều chiến công xuất sắc. Đơn vị đồng chí đã diệt hàng nghìn tên địch. Riêng đồng chí diệt 110 tên.


Đặc biệt trong chiến dịch Hồ Chí Minh, tiểu đoàn do Phan Trung Kiên chỉ huy đã diệt 3 đồn địch và diệt gọn 1 đại đội biệt động, làm tan rã 1.860 tên địch đang tháo chạy trên hướng tây bắc Gia Định không cho chúng co cụm về Sài Gòn, hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ được giao.


Đồng chí sống gương mẫu về mọi mặt, khiêm tốn, giản dị, được đồng đội và nhân dân tin yêu.


Phan Trung Kiên đã được tặng thưởng 1 Huân chương Chiến công giải phóng hạng nhất, 2 Huân chương Chiến công giải phóng hạng ba, 12 bằng và giấy khen, 3 lần là Chiến sĩ thi đua, 2 lần là Dũng sĩ.


Ngày 6 tháng 11 năm 1973, Phan Trung Kiên được Chủ tịch nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam tặng danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân.
Logged

Ai công hầu, ai khanh tướng, vòng trần ai, ai dễ biết ai
Thế Chiến Quốc, thế Xuân Thu, gặp thời thế, thế thời phải thế
quansuvn
Moderator
*
Bài viết: 6599



WWW
« Trả lời #103 vào lúc: 23 Tháng Mười Một, 2022, 07:32:17 pm »

ANH HÙNG NGUYỄN VĂN MINH


Nguyễn Văn Minh, sinh năm 1950, dân tộc Kinh, quê ở xã Tuyên Bình, huyện Mộc Hóa, tỉnh Long An, nhập ngũ tháng 4 năm 1965. Khi được tuyên dương Anh hùng đồng chí là thượng úy chính trị viên tiểu đoàn 504, bộ đội địa phương tỉnh Long An, đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam.


Từ khi nhập ngũ đèn Xuân 1975. Nguyễn Văn Minh chiến đấu ở Long An. Đồng chí đã qua các cương vị từ tiểu đội đến tiểu đoàn, hoạt động ở nơi địch thường xuyên đánh phá ác liệt, có nhiều khó khăn, gian khổ. Nguyễn Văn Minh trong chiến đấu dũng cảm, mưu trí, chỉ huy linh hoạt, nhiều lần bị thương vẫn không rời vị trí chiến đấu. Đồng chí đã chỉ huy đơn vị diệt 850 tên (có 150 tên Mỹ), bắn cháy 18 tàu, phá hủy 4 khẩu pháo 105 ly. Tự tay đồng chí diệt 105 tên địch, bắt 9 tên, bắn chìm 2 tàu, thu 22 súng, 3 máy thông tin.


Ngày 16 tháng 9 năm 1968, Nguyễn Văn Minh chỉ huy 1 tiểu đội tập kích 1 trung đội Mỹ ở xã Hiệp Thành (Châu Thành, Long An). Phần lớn chiến sĩ đều từ địa bàn khác chuyển về, chưa quen địa hình. Khi vào đánh, một mũi bị địch phát hiện, chúng nổ súng bộ đội ta thương vong. Tình hình rất khó khăn. Nguyễn Văn Minh bình tĩnh chỉ huy mũi khác vào thay thế. Một mình đồng chí vòng ra phía sau địch dùng thủ pháo diệt hỏa điểm địch tạo thuận lợi cho đơn vị xung phong chiếm lô cốt, tiêu diệt địch. Kết quả ta diệt gọn trung đội Mỹ, thu 17 súng, 1 máy thông tin, bản thân diệt 3 tên, thu 2 súng, 1 máy thông tin.


Đêm 6 tháng 4 năm 1972, Nguyễn Văn Minh chỉ huy đại đội đánh đồn Phụng Thớt (Mộc Hóa, Long An) do 1 đại đội bảo an, 1 trung đội cảnh sát dã chiến đóng. Tuy quân số đại đội chỉ có 31 người, hầu hết là tân binh nhưng đồng chí vẫn quyết tâm tiêu diệt vị trí địch. Đồng chí tổ chức đi trinh sát, nắm tình hình và cho anh em tổ chức diễn tập.... Khi đánh, địch phát hiện và bắn xối xả vào vị trí mũi 4, đồng chí đã dẫn mũi 1 đánh thẳng vào cửa ra vào của địch, nơi chúng sơ hở do đó phát triển chiến đấu tốt. Khi bị thương đồng chí vẫn tiếp tục chỉ huy trận đánh và diệt được tên đại úy, 1 lính thông tin. Bị thương lần thứ 2, đồng chí vẫn không rời vị trí, tiếp tục chỉ huy đơn vị chiếm được đồn, diệt 82 tên, thu 22 súng. Riêng đồng chí diệt 5 tên.


Đêm 12 tháng 6 năm 1972, tuy sức còn yếu vì vết thương chưa lành, Nguyễn Văn Minh vẫn quyết tâm chỉ huy đại đội đánh 1 đại đội bảo an, 1 trung đội bình định, 1 ban tề xã chiếm giữ đồn xã Nhơn Hòa Lập (Mộc Hóa, Long An). Đơn vị bí mật lọt vào tận nơi địch ngủ, bất ngờ nổ súng, diệt 96 tên, thu 15 súng.


Đồng chí đã được tặng thưởng 1 Huân chương Chiến công giải phóng hạng nhất, 1 Huân chương Chiến công giải phóng hạng ba, 2 lần là Chiến sĩ thi đua, 31 bằng khen và giấy khen.


Ngày 6 tháng 11 năm 1978, Nguyễn Văn Minh được Chủ tịch nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam tặng danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân.
Logged

Ai công hầu, ai khanh tướng, vòng trần ai, ai dễ biết ai
Thế Chiến Quốc, thế Xuân Thu, gặp thời thế, thế thời phải thế
quansuvn
Moderator
*
Bài viết: 6599



WWW
« Trả lời #104 vào lúc: 23 Tháng Mười Một, 2022, 07:33:23 pm »

ANH HÙNG CHIÊM THÀNH TẤN


Chiêm Thành Tấn, sinh năm 1948, dân tộc Kinh, quê ở xã Vĩnh Viễn, huyện Long Mỹ, tỉnh Cần Thơ, nhập ngũ tháng 1 năm 1964. Khi được tuyên dương Anh hùng, đồng chí là thượng úy chính trị viên phó tiểu đoàn 1 (Tây Đô), bộ đội địa phương tỉnh Cần Thơ, đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam.


Từ năm 1964 đến Xuân 1975, Chiêm Thành Tấn đã tham gia chiến đấu hơn 100 trận. Đồng chí luôn nêu cao tinh thần hăng say đánh giặc, trận nào cũng dũng cảm, mưu trí, dù khó khăn ác liệt thế nào cũng kiên quyết vượt qua. Riêng đồng chí diệt và bắt 56 tên địch, thu 57 súng, 7 máy thông tin.


Trận đánh địch ở Mương Cây Đào ngày 7 tháng 6 năm 1968, đơn vị vừa đến trú quân, địch phát hiện liền cho 1 trung đoàn đânh thẳng vào đội hình ta. Chiêm Thanh Tấn dẫn tổ vượt qua bom đạn, đánh thẳng vào sườn đội hình địch, diệt một số tên, tạo điều kiện tốt cho tiểu đoàn phản công địch, buộc chúng phải tháo chạy.


Trong trận đánh địch ở Chà Đạp (16-3-1971), Chiêm Thành Tấn là chính trị viên đại đội, đồng chí luôn đi sát động viên mọi người giữ vững quyết tâm chiến đấu, khi đại đội trưởng bị thương, Chiêm Thành Tấn tổ chức lại đội hình và tiếp tục chỉ huy chiến đấu diệt 1 đại đội và 1 trung đội địch. Riêng đồng chí diệt 7 tên, thu 4 súng.


Ngày 6 tháng 4 năm 1972, đơn vị Chiêm Thành Tấn đánh cầu Cái Răng. Cầu có 5 nhịp nằm trên đường số 4, từ Cần Thơ đi Sóc Trăng. Tại đây có 1 đại đội địch canh gác, chúng thường xuyên bắn súng, ném lựu đạn vào những nơi nghi ta có thể tiếp cận đánh cầu. Khi đánh, đồng chí dẫn 1 tổ mang thuốc nổ vượt qua nhiều trạm gác, tàu xuồng tuần tiễu trên sông, khéo léo đặt thuốc nổ vào trụ cầu, phá sập 3 nhịp, tiêu diệt những tên lính gác cầu, gây nhiều khỏ khăn cho việc đi lại, vận chuyển của địch.


Đồng chí luôn chú trọng xây dựng đơn vị về mọi mặt, được anh em tin, mến.


Đồng chí đã được tặng thưởng 1 Huân chương Chiến công giải phóng hạng nhất, 2 Huân chương Chiến công giải phóng hạng nhì, 18 bằng khen và giấy khen, 6 lần là Chiến sĩ thi đua và Dũng sĩ.


Ngày 6 tháng 11 năm 1978, Chiêm Thành Tấn được Chủ tịch nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam tặng danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân.
Logged

Ai công hầu, ai khanh tướng, vòng trần ai, ai dễ biết ai
Thế Chiến Quốc, thế Xuân Thu, gặp thời thế, thế thời phải thế
quansuvn
Moderator
*
Bài viết: 6599



WWW
« Trả lời #105 vào lúc: 23 Tháng Mười Một, 2022, 07:35:26 pm »

ANH HÙNG HOÀNG VĂN THƯỢNG


Hoàng Văn Thượng, sinh năm 1948, dân tộc Tày, quê ở xã Lăng Hiếu, huyện Trùng Khánh, tỉnh Cao Bằng. Khi được tuyên dương Anh hùng đồng chí là thượng úy, chính trị viên tiểu đoàn 13 đặc công, trung đoàn 429, sư đoàn 2, Quân khu 7, đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam.


Từ năm 1971, Hoàng Văn Thượng chiến đấu ở miền Đông Nam Bộ. Trưởng thành từ chiến sĩ lên cán bộ tiểu đoàn, ở cương vị nào đồng chí củng chiến đấu dũng cẩm, mưu trí hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ.


Hoàng Văn Thượng đã trực tiếp chỉ huy 11 trận đánh, diệt 2.000 tên địch, 1 sở chỉ huy tiểu đoàn, phá hủy 1 khu thông tin. Riêng đồng chí diệt 62 tên. Trong nhiệm vụ trinh sát, Hoàng Văn Thượng đã trực tiếp điều tra, nghiên cứu 31 mục tiêu phục vụ cho đơn vị đánh đạt kết quả tốt.


Trong trận đánh căn cứ Âm Púc (trên đất Cam-pu-chia) tháng 4 năm 1971, Hoàng Văn Thượng đã chỉ huy tổ cát rào, đánh chiếm lô cốt đầu cầu, tạo điều kiện cho đơn vị phát triển đánh địch được nhanh chóng. Riêng đồng chí đánh sập 1 lô cốt, 3 nhà lính, diệt một số địch.


Trận đánh căn cứ Dầu Tiếng (Sông Bé) ngày 20 tháng 6 năm 1971, Hoàng Văn Thượng là chính trị viên phó đại đội, trực tiếp chỉ huy một bộ phận vượt qua nhiều hệ thống canh phòng của địch cắt rào, mở cửa và dẫn bộ đội vào đánh địch trong đồn. Trận này đơn vị diệt 400 địch. Riêng đồng chí diệt 26 tên, đánh sập 4 nhà lính.


Trận đánh căn cứ Lai Khê (Sông Bé), là căn cứ lớn được phòng thủ kiên cố. Hoàng Văn Thượng sau khi chỉ huy tổ cắt rào mở đường, đồng chí dẫn đầu đơn vị đánh thẳng vào sở chỉ huy địch, diệt 100 tên, đánh sập 5 lô cốt, 26 căn nhà lính.


Ngày 3 tháng 11 năm 1973, Hoàng Văn Thượng làm nhiệm vụ điều tra, nghiên cứu phục vụ tốt cho đơn vị diệt căn cứ Bù Bông có 500 tên địch, mở màn chiến dịch mùa khô 1973, giải phóng hàng chục ngàn dân trong vùng.


Đồng chí sống gương mẫu về mọi mặt, khiêm tốn, giản dị, luôn chăm lo xây dựng đơn vị tiến bộ.


Hoàng Văn Thượng đã được tặng thưởng 1 Huân chương Chiến công giải phóng hạng nhất, 3 Huân chương Chiến công giải phóng hạng ba.


Ngày 6 tháng 11 năm 1978, Hoàng Văn Thượng được Chủ tịch nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam tặng danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân.
Logged

Ai công hầu, ai khanh tướng, vòng trần ai, ai dễ biết ai
Thế Chiến Quốc, thế Xuân Thu, gặp thời thế, thế thời phải thế
quansuvn
Moderator
*
Bài viết: 6599



WWW
« Trả lời #106 vào lúc: 23 Tháng Mười Một, 2022, 07:37:09 pm »

ANH HÙNG PHẠM VĂN TRỌNG


Phạm Văn Trọng (tức Trân), sinh năm 1944, dân tộc Kinh, quê ở xã An Tây, huyện Bến Cát, tỉnh Sông Bé, nhập ngũ tháng 2 năm 1962. Khi được tuyên dương Anh hùng đồng chí là thượng úy, bác sĩ Viện quân y 2 thuộc Bộ tư lệnh thành phố Hồ Chí Minh, đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam.


Từ năm 1962 đến tháng 4 nắm 1975, Phạm Văn Trọng tham gia phục vụ chiến đấu ở ven thành phố Sài Gòn. Trưởng thành từ y tá lên bác sĩ (qua học đào tạo từng bước ở chiến trường), khi ở đội phẫu, khi làm quân y sĩ tiểu đoàn, đội trưởng đội phẫu thuật, đại đội trưởng quân y sư đoàn, đồng chí luôn nêu cao quyết tâm vượt mọi khó khăn thiếu thốn, ác liệt, hoàn thành xuất sắc mọi nhiệm vụ. Đồng chí đả góp phần tích cực cùng đơn vị cứu sống cho hơn 1.000 trường hợp thương, bệnh binh nặng. Trong đó có hàng trăm trường hợp vết thương hiểm nghèo.


Từ năm 1969 đến năm 1972, Phạm Văn Trọng làm quân y sĩ phụ trách đội phẫu thuật trung đoàn 268, bám trụ ở củ Chi, nơi địch đánh phá vô cùng ác liệt, đội phẫu thuật phải làm việc dưới địa đạo. Phạm Văn Trọng đã cùng đồng đội khắc phục khó khăn, ác liệt, bám trụ địa bàn, tiếp nhận kịp thời, cứu chứa chu đáo cho thương binh. Tuy trình độ chuyên môn hạn chế, sức khỏe kém, nhưng đồng chí luôn chịu khó nghiên cứu, học tập và làm việc không kể ngày đêm. Nhiều trường hợp vết thương thủng 4 đoạn ruột, vỡ thành bụng... vượt quá khả năng, nhưng vì không đưa được lên tuyến trên, Phạm Văn Trọng đã quyết tâm cùng đồng đội phẫu thuật thành công, cứu sống thương binh. Hàng chục lần trong lúc đang mổ cho thương binh thì địch cho xe tăng càn tới, Phạm Văn Trọng vẫn bình tĩnh động viên mọi người vừa quyết tâm đánh địch, vừa tiếp tục mổ bằng xong rồi đưa thương binh vượt qua vòng vây an toàn. Có lần đồng chí bị thương ở bụng chưa lành, nhưng vẫn kiên trì đứng mổ hàng giờ liền để cứu sống thương binh - Hành động của đồng chí đả có tác dụng cổ vũ động viên đơn vị hăng hái làm nhiệm vụ.


Ngoài nhiệm vụ chuyên môn, Phạm Văn Trọng còn chỉ huy đơn vị tích cực đánh địch, kiên quyết bảo vệ thương binh an toàn, đơn vị đã diệt 30 tên địch, phá hủy 16 xe tăng, xe bọc thép. Tự tay đồng chí diệt 2 xe tăng.


Phạm Văn Trọng đã được tặng thưởng 1 Huân chương Chiến công giải phóng hạng nhì, 22 bằng khen và giấy khen, 2 lần là Chiến sĩ thi đua, 8 lần được tặng danh hiệu Dũng sĩ.


Ngày 6 tháng 11 năm 1978, Phạm Văn Trọng được Chủ tịch nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam tặng danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân.
Logged

Ai công hầu, ai khanh tướng, vòng trần ai, ai dễ biết ai
Thế Chiến Quốc, thế Xuân Thu, gặp thời thế, thế thời phải thế
quansuvn
Moderator
*
Bài viết: 6599



WWW
« Trả lời #107 vào lúc: 23 Tháng Mười Một, 2022, 07:38:30 pm »

ANH HÙNG LÊ VĂN VÀNG


Lê Văn Vàng (tức Ba Bứng), sinh năm 1929, dân tộc Kinh, quê ở xã Tân Xuân, huyệĩi Ba Tri, tỉnh Bến Tre, trú quán xã An Quy, huyện Thạnh Phú, tỉnh Bến Tre, nhập ngũ tháng 6 năm 1949.


Khi được tuyên dương Anh hùng đồng chí là thượng úy, chính trị viên huyện đội Thạnh Phú, tỉnh Bến Tre, đảng viên Đảng Cộng sản Việt Lê Văn Vàng trưởng thành từ chiến sĩ du kích lên cán bộ huyện đội. Phụ trách công tác quân sự ở một huyện chiến đấu gian khổ, ác liệt, ở cương vị nào đồng chí cũng hoàn thành ịốt nhiệm vụ. Lê Văn Vàng chiến đấu dũng cảm, mưu trí, tích cực tấn công địch, 6 lần bị thương   vẫn không rời vị trí. Đồng chí chỉ huy linh hoạt, kiên quyết, trong tình huống khó khăn, ác liệt thế nào cũng bình tĩnh tổ chức đánh địch giành thấng lợi. Đơn vị đồng chí đã diệt hàng ngàn tên dịch, thu nhiều vũ khí, quân trang, quân dụng. Riệng đồng chí diệt hàng trăm tên.


Tháng 1 năm 1969, Lê Văn Vàng nhận nhiệm vụ chỉ huy tiểu đoàn hành quân từ Mỏ Cày xuống Ba Tri. Trong vòng 5 ngày, đồng chí đã chỉ huy đơn vị 2 lần chặn đánh địch quyết liệt, bảo vệ được lực lượng ta đến đích an toàn.


Lần thứ nhất ngày 16 t.háng 1, đơn vị đến An Khánh (Châu Thành), địch cho 2 tiểu đoàn Mỹ đánh vào đội hình trú quân của bộ đội ta. Tuy lực lượng địch đông, phi pháo ác liệt, chúng sử dụng 20 đợt máy bay ném bom yểm trợ cho bộ binh mở 10 đợt tấn công. Đồng chí đã động viên anh em, quyết chiến đấu đẩy lùi tất cả các đợt tấn công của địch, giữ vững trận địa. Đơn vị diệt hơn 100 tên Mỹ.


Lần thứ hai ngày 20 tháng 1, đơn vị vừa hành quân đến Châu Bình (Giồng Trôm) lại gặp 1 tiểu đoàn Mỹ và 1 tiểu đoàn ngụy. Bị thất bại lần trước, địch liên tiếp mở 12 đợt tấn công vào lực lượng ta, có 5 lần chọc thung trận địa. Lê Văn Vàng đã chỉ huy đơn vị chiến đấu đánh trả quyết liệt. Tuy hai lần bị ngất, vì sức ép của pháo, đồng chí vẫn dũng cảm cùng đồng đội 5 lần đánh bật địch ra khỏi vị trí. Một lần địch vào đông, Lê Văn Vàng dùng đại liên diệt nhiều hỏa điểm địch, tạo điều kiện cho đơn vị diệt 300 tên (có 200 tên Mỹ), sau đó lại tiếp tục chỉ huy đơn vị đến đích đúng thời gian quy định.


Tháng 4 năm 1975, Lê Văn Vàng là chính trị viên huyện đội Thạnh Phú, được phân công trực tiếp đi xuống vùng Thứi Thạnh, nghiên cứu nắm địch, đề ra phương án chính xác, tổ chức đơn vị diệt đồn, diệt viện, buộc chúng rút chạy. Ta giải phóng 2 ấp, góp phần nâng cao khí thế đấu tranh của quần chúng.


Đồng chí đã được tặng thưởng 1 Huân chương Chiến công giải phóng hạng nhất, 2 Huân chương Chiến công giải phóng hạng ba, 4 lần được tặng danh hiệu Chiến sĩ thi đua, Dũng sĩ, 26 bằng và giấy khen.


Ngày 6 tháng 11 năm 1978, Lê Văn Vàng được Chủ tịch nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam tặng danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân.
Logged

Ai công hầu, ai khanh tướng, vòng trần ai, ai dễ biết ai
Thế Chiến Quốc, thế Xuân Thu, gặp thời thế, thế thời phải thế
quansuvn
Moderator
*
Bài viết: 6599



WWW
« Trả lời #108 vào lúc: 23 Tháng Mười Một, 2022, 07:40:04 pm »

ANH HÙNG LÊ VĂN VỊNH


Lê Văn Vịnh, sinh năm 1936, dân tộc Kinh, quê ở xã An Thạnh, huyện Bến Lức, tỉnh Long An, nhập ngũ tháng 6 năm 1960. Khi được tuyên dương Anh hùng đồng chí là thượng úy, huyện đội phó huyện Bến Lức, tỉnh Long An, đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam.


Từ khi nhập ngũ đến Xuân 1975, Lê Văn Vịnh đã qua các cương vị đội trưởng trinh sát, đội trưởng vận tải, tiểu đoàn phó bộ binh, huyện đội phó, ở cương vị nào đồng chí cũng hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ được giao.


Từ năm 1962 đến năm 1966, Lê Văn Vịnh là đội trưởng trinh sát, trong những lần đi trinh sát trận địa, đồng chí luôn nêu cao tinh thần dũng cảm, mưu trí, bám sát địch nắm tình hình cụ thể, chính xác theo yêu cầu của trên. Đồng chí đã phục vụ tốt cho trên hạ quyết tâm đảm bảo cho các đơn vị chiến đấu giành thắng lợi.


Lê Văn Vịnh đã trực tiếp tham gia chiến đấu, điệt được 85 tên địch (có 47 tên Mỹ), bắn rơi 1 máy bay lên thẳng, thu 13 súng.


Từ năm 1967 đến năm 1972, đồng chí làm nhiệm vụ vận chuyển vũ khí, đạn dược. Việc đi lại nhiều khó khăn do địch đánh phá ngăn chặn rất khốc liệt. Đồng chí nhiều lần xung phong đi. Những lần gặp địch, Lê Văn Vịnh bình tĩnh chỉ huy đơn vị vòng tránh hoặc đánh địch, mở đường để đi.


Ngày 17 tháng 3 năm 1967, địch phát hiện thấy ta, chúng cho 10 máy bay lên thẳng đổ quân, bao vây, đánh chặn để cướp hàng. Đồng chí bình tĩnh đánh trả, bắn rơi tại chỗ 1 chiếc, 9 chiếc còn lại hốt hoảng bay đi. Hàng được bảo vệ an toàn.


Ngày 30 tháng 6 năm 1969, địch dùng máy bay lên thẳng đổ quân xuống Bình Đức (Bến Lức, Long An), Lê Văn Vịnh chỉ huy đơn vị đánh trả quyết liệt, diệt 47 tên Mỹ, thu 8 đại liên và tiểu liên. Riêng đồng chí diệt 3 tên, số còn lại bỏ chạy, đơn vị và hàng hóa an toàn.


Từ sau ngày giải phóng Lê Văn Vịnh là huyện đội phó đã góp phần tích cực chỉ huy các đơn vị dân quân du kích xã truy quét tàn binh, bảo đảm an ninh trật tự ở địa phương được tốt.


Đồng chí sống khiêm tốn, giản dị, chú trọng xây dựng lực lượng vũ trang trong huyện ngày càng trưởng thành.


Đồng chí đã được tặng thưởng 1 Huân chương Chiến công giải phóng hạng nhất, 2 Huân chương Chiến công giải phóng hạng ba.


Ngày 6 tháng 11 năm 1978, Lê Văn Vịnh được Chủ tịch nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam tặng danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân.
Logged

Ai công hầu, ai khanh tướng, vòng trần ai, ai dễ biết ai
Thế Chiến Quốc, thế Xuân Thu, gặp thời thế, thế thời phải thế
quansuvn
Moderator
*
Bài viết: 6599



WWW
« Trả lời #109 vào lúc: 23 Tháng Mười Một, 2022, 07:40:53 pm »

ANH HÙNG LÊ VĂN BÉ


Lê Văn Bé, sinh năm 1936, dân tộc Kinh, quê ở xã Bình Phú, huyện Càng Long, tỉnh Trà Vinh, nhập ngũ tháng 3 năm 1968. Khi được tuyên dương Anh hùng, đồng chí là trung úy, trưởng ban quân sự huyện Càng Long, tỉnh Cửu Long, đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam.


Trưởng thành từ chiến sĩ du kích lên, Lê Văn Bé liên tục bám trụ chiến đấu ở địa phương, đã tham dự trên 100 trận, tự tay diệt trên 200 tên địch, thu 20 súng.


Ngày 10 tháng 9 năm 1969, Lê Văn Bé chỉ huy đại đội bộ binh huyện chặn đánh 2 tiểu đoàn địch càn vào xã Nhị Long. Dù lực lượng địch đông gấp bội, Lê Văn Bé vẫn bình tĩnh chỉ huy nhiều mũi xuất kích đẩy lùi hàng chục đợt tấn cóng của địch, diệt hơn một đại đội địch, giữ vững địa bàn.


Ngày 18 tháng 12 năm 1971, địch dùng 2 tiểu đoàn bộ binh có pháo binh và máy bay yểm trợ tấn công vào khu chùa Ấp Sóc (xã Huyền Hội). Đồng chí chỉ huy trung đội đặc công chặn đánh địch bẻ gãy hàng chục đợt tấn công của chúng. Địch đổ thêm quân chiếm hai phần ba ngôi chùa. Tuy bị thương, Lê Văn Bé vẫn kiên quyết tổ chức lực lượng đánh bật địch ra khỏi chùa, khôi phục lại trận địa, diệt 65 tên, thu 2 súng.


Tháng 4 năm 1974, đồng chí chỉ huy đơn vị tấn công tiêu diệt 8 đồn dân vệ và đánh địch phản kích diệt trên 130 tên, thu 30 súng, góp phần giải phóng một vùng rộng ven đường số 6 thuộc các xã Bình Phú, Nhị Long.


Đồng chí sống khiêm tốn, giản dị, được anh em yêu mến.


Lê Văn Bé đã được tặng thưởng 1 Huân chương Chiến công giải phóng hạng nhất, 1 Huân chương Chiến công giải phóng hạng nhì, 1 Huân chương Chiến công giải phóng hạng ba, 4 bằng khen và giấy khen.


Ngày 6 tháng 11 năm 1978, Lê Văn Bé được Chủ tịch nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam tặng danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân.
Logged

Ai công hầu, ai khanh tướng, vòng trần ai, ai dễ biết ai
Thế Chiến Quốc, thế Xuân Thu, gặp thời thế, thế thời phải thế
Trang: « 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 16 17 »   Lên
  In  
 
Chuyển tới:  

Powered by MySQL Powered by PHP Powered by SMF 1.1.21 | SMF © 2006-2008, Simple Machines

Valid XHTML 1.0! Valid CSS! Dilber MC Theme by HarzeM