Lịch sử Quân sự Việt Nam
Tin tức: Lịch sử quân sự Việt Nam
 
*
Chào Khách. Bạn có thể đăng nhập hoặc đăng ký. 28 Tháng Ba, 2024, 11:50:13 pm


Đăng nhập với Tên truy nhập, Mật khẩu và thời gian tự động thoát


Trang: « 1 2 3 4 5 6 7 8 9 »   Xuống
  In  
Tác giả Chủ đề: Lịch sử Quảng Trị kháng chiến chống Mỹ cứu nước (1954-1975)  (Đọc 2639 lần)
0 Thành viên và 1 Khách đang xem chủ đề.
macbupda
Trung tá
*
Bài viết: 11970


Lính của PTL


« Trả lời #60 vào lúc: 13 Tháng Chín, 2022, 10:57:15 am »

Cuộc chiến đấu tại Thành Cổ Quảng Trị kéo dài 81 ngày đêm. Từ một thị xã nhỏ ít ai biết đến, Quảng Trị đã trở thành trung tâm thu hút sự chú ý của nhân dân cả nước và thế giới bởi tính chất hung bạo của kẻ thù và tinh thần anh dũng vô song của đồng bào, chiến sĩ ta. Địch đã huy động vào đây những sự đoàn thiện chiến nhất, những đơn vị binh chủng được trang bị tối tân, hiện đại nhất lại được quân Mỹ chi viên tối đa về hỏa lực với khối lượng bom đạn tương đương “7 quả bom nguyên tử ném xuống Hyrôsima”. Nhưng ta đã làm chủ thị xã trong một thời gian dài diệt hơn 24.000 tên địch, phần lớn là quân dù và thủy quân lục chiến, bắn rơi 180 máy bay, phá hủy 140 xe quân sự (có 90 xe tăng, xe bọc thép, 20 khẩu pháo cùng nhiều đồ dùng quân sự khác). Riêng lực lượng vũ trang tỉnh từ 28-6 đến 16-9-1972 đã đánh 642 trận diệt 6.604 tên, bắn rơi 28 máy bay, bắn cháy 29 xe quân sự, thu và phá hủy nhiều phương tiện chiến tranh.

Cuộc chiến đấu giữ Thành cổ còn phối hợp tích cực và có hiệu quả rõ rệt vào cuộc đấu tranh ngoại giao kiên trì và bền bỉ của ta trên bàn hội nghị Paris góp phần tích cực dẫn tới sự kiện ký hiệp định Paris chấm dứt chiến tranh, quân Mỹ cút về nước. Đồng thời tạo điều kiện cho toàn mặt trận chuyển sang thế trận mới thích hợp, đánh địch phản kích, bảo vệ vùng mới giải phóng.

Sau khi chiếm được Thành cổ địch mở nhiều cuộc hành quân mở rộng bàn đạp ra phía đông và tây thị xã. Từ đó cho đến tháng 1-1973 quân ta tiếp tục bẻ gãy nhiều cuộc hành quân của địch nhằm vượt sông Thạch Hãn tràn sang phía bắc, diệt gọn tiểu đoàn 6 thủy quân lục chiến, phá tan âm mưu “tràn ngập lãnh thổ” của Mỹ - Thiệu nhằm hợp pháp hóa những vùng đất đã chiếm khi hiệp định Paris có hiệu lực.

Suốt 8 năm kiên trì chiến đấu, lực lượng vũ trang toàn tỉnh ở Vĩnh Linh cũng như các huyện phía nam sông Bến Hải dù trong hoàn cảnh cam go, ác liệt nào cũng sẵn sàng chấp nhận mọi gian khổ, hy sinh, vượt qua mọi khó khăn ác liệt nắm vững quan điểm bạo lực cách mạng của Đảng không ngừng chăm lo xây dựng phát triển lực lượng. Trải qua nhiều biến động nhưng lực lượng vũ trang trưởng thành từng bước một cách vững chắc cả về số lượng, chất lượng, cả bộ đội địa phương cũng như dân quân du kích, hoàn thành xuất sắc mọi nhiệm vụ được giao phó.

Quá trình chiến đấu đầy biến động đó, lực lượng vũ trang luôn luôn nắm chắc phương châm vừa chiến đấu vừa xây dựng, đã kiên trì bám đất bám dân, bám phong trào, không sợ gian khổ, hy sinh, giành giật với địch từng thôn làng, từng người dân, ra sức giành quyền làm chủ để tiến công, tiến công để giành quyền làm chủ. Từ chò địch chiếm đất (nông thôn, đồng bằng, thị xã, thị trấn) đẩy lực lượng ta lên núi nhưng bằng phương thức tác chiến linh hoạt và kiên quyết, lực lượng vũ trang nhân dân các huyện đồng bằng vẫn cơ bản giữ được đất nhen nhúm, gây dựng và phát triển phong trào ngày một cao.

Đối với lực lượng vũ trang Vĩnh Linh bao gồm cả bộ đội địa phương và dân quân tự vệ luôn luôn xứng đáng với vị trí tuyến đầu miền Bắc XHCN đã chống trả kiên cường góp phần cùng cả nước đánh bại hai cuộc chiến tranh phá hoại bằng không quân và hải quân của đế quốc Mỹ ác liệt nhất, tàn bạo nhất trên toàn miền Bắc, kề vai sát cánh chia lửa cùng quân và dân Gio - Cam trong suốt quá trình đấu tranh, xây dựng, là chỗ dựa vững chắc cho quân và dân bờ Nam chiến đấu và chiến thắng quân thù.

Với tất cả sự phấn đấu nỗ lực của mình, lực lượng vũ trang toàn tỉnh đã góp phần xứng đáng cùng cả nước đánh bại chiến lược “chiến tranh cục bộ” và “Việt Nam hóa chiến tranh” của hai đời tổng thống Mỹ, buộc Mỹ phải chấm dứt chiến tranh Việt Nam cam kết từ bỏ mọi dính líu quân sự ở miền Nam Việt Nam, dẫn đến một thắng lợi có ý nghĩa trọng đại trong lịch sử chống Mỹ, cứu nước. Lần đầu tiên trên một tỉnh ở miền Nam, tuyến đầu rắn chắc nhất của chế độ Sài Gòn được giải phóng nối liên với miền Bắc XHCN, đã nhanh chóng xây dựng thành căn cứ địa cách mạng trên lãnh thổ miền Nam, nơi đặt trụ sở của Chính phủ cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam, tạo thế đấu tranh ngoại giao mới, cổ vũ mạnh mẻ niềm tin và ý chí chiến đấu của cả nước. Tuy nhiên trong 8 năm đó (1965- 1972) lực lượng vũ trang cũng bộc lộ nhiều hạn chế, khuyết điểm về tư tưởng hữu khuynh, chưa đánh giá hết bản chất ngoan cố, hiếu chiến của địch, còn mơ hồ, thiếu cảnh giác trong đấu tranh giai cấp nên có lúc, có nơi trong tổ chức đánh địch còn chậm, giản đơn, cá biệt có lúc không đánh được, bỏ lỡ thời cơ diệt địch. Phong trào chiến tranh du kích chưa thật sự đều và sâu rộng, có vùng còn quá yếu. Trong đánh địch tiến công chính diện thì mạnh nhưng thọc sâu, bám trụ chưa được lâu dài, liên tục, biện pháp tổ chức chưa chặt chẽ nên hiệu suất chiến đấu thấp. Công tác tổ chức phát triển lực lượng tuy làm liên tục nhưng còn chạy theo số lượng chưa thật sự coi trọng chất lượng nên trong ác liệt có một số du kích, dân quân không hoàn thành nhiệm vụ, giao động, giảm sút ý chí chiến đấu. Tất cả những khuyết điểm ấy đã hạn chế không ít đến kết quả thực hiện nhiệm vụ của lực lượng vũ trang tỉnh nhưng nhìn toàn cục thì thắng lợi của ta vẫn là cơ bản và toàn diện. Đặc biệt là thắng lợi trong cuộc tiến công chiến lược năm 1972 tạo ra một bước ngoặt mới trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của dân tộc ta.
Logged

Tự hào thay, mác búp đa
Khởi đầu những bản hùng ca lẫy lừng.
Thô sơ, gian khổ đã từng
Chính quy, hiện đại, không ngừng tiến lên.
macbupda
Trung tá
*
Bài viết: 11970


Lính của PTL


« Trả lời #61 vào lúc: 14 Tháng Chín, 2022, 09:59:51 pm »

Chương IV

KIÊN CƯỜNG CHIẾN ĐẤU GIẢI PHÓNG 15% PHẦN ĐẤT VÀ 13 VẠN DÂN
CÒN LẠI Ở QUẢNG TRỊ, GÓP PHẦN CÙNG QUÂN DÂN CẢ NƯỚC
GIẢI PHÓNG HOÀN TOÀN MIỀN NAM (1973-1975)

Sau khi Hiệp định Pari được ký kết, huyện Vĩnh Linh thực sự có hòa bình, các huyện từ Gio Linh trở vào 85% đất đai và 1/3 dân số đã được giải phóng, cuộc đấu tranh cách mạng của quân và dân tỉnh ta bước qua một giai đoạn mới, có nhiều đặc điểm mới.

Là một tỉnh giải phóng tương đối hoàn chỉnh có địa hình thuận lợi nối liên giữa ba vùng đồng bằng, giáp ranh, rừng núi, có hải cảng, đường giao thông thủy, bộ thuận tiện lại là nơi tiếp giáp với miền Bắc XHCN. Vì vậy Quảng Trị trở thành một địa bàn có giá trị về chiến lược, chiến thuật. Là nơi diễn ra cuộc đọ sức cuối cùng giữa hai thế lực cách mạng và phản cách mạng được thể hiện sinh động bằng cuộc chiến đấu của quân và dân ta với kẻ thù để thực hiện bằng được mục tiêu cách mạng của mình. Đồng thời còn có nghĩa vụ và trách nhiệm của một tỉnh hậu phương của tiền tuyến lớn trực tiếp là Thừa Thiên, là bàn đạp tấn công của chiến trường quân khu.

Mọi nỗ lực và hành động cách mạng của quân và dân Quảng Trị lúc này đều có tác dụng và ảnh hưởng trực tiếp đến nhiệm vụ chung của cách mạng Trị - Thiên và toàn miền. Bởi vậy nhiệm vụ lực lượng vũ trang đặt ra lúc này là phát huy cao độ tinh thần cách mạng tiến công, bảo vệ và giữ vững vùng giải phóng đồng thời kiên quyết giải phóng 15% đất đai và 2/3 dân số còn bị địch kiểm soát.

Với vị trí, tính chất quan trọng của địa bàn nên từ sau khi ký kết Hiệp định Pari, kẻ địch tìm mọi cách thực hiện âm mưu lấn chiếm, phá hoại, hòng lấn đất, giành dân, thực hiện mục tiêu chiến lược lâu dài của chúng. Vì vậy cuộc chiến đấu bảo vệ vùng giải phóng, bảo vệ thành quả cách mạng của quân và dân Quảng Trị diễn ra vô cùng quyết liệt, phức tạp trên các mặt trận quân sự, chính trị, kinh tế, ngoại giao trong suốt quá trình phát triển cách mạng.

I - XÂY DỰNG BẢO VỆ VỮNG CHẮC VÙNG GIẢI PHÓNG
GIỮ VỮNG THÀNH QUẢ CÁCH MẠNG,
KIÊN QUYẾT ĐÁNH PHÁ BÌNH ĐỊNH CỦA ĐỊCH.

Qua 8 tháng tiến công và nổi dậy, năm 1972 ta đánh bại một bước quan trọng âm mưu, thủ đoạn chiến lược của địch làm thay đổi tương quan so sánh lực lượng có lợi cho ta trên nhiều mặt. Song chiến trường Quảng Trị lực lượng địch còn khá đông (25.000 tên tương đương với 50 tiểu đoàn) và nhiều vũ khí phương tiện chiến tranh là chỗ dựa cơ bản để chúng thực hiện việc phân tuyến, phân vùng đối phó với ta.

Ớ tuyến giáp ranh, chúng tổ chức hệ thống công sự, hỏa lực, rải quân đóng chốt, hình thành tuyến phòng ngự từ Thanh Hội lên tây Hải Lăng dài trên 50 km. Đồng thời tiến hành các hoạt động lấn chiếm, khiêu khích, chiến tranh tâm lý vừa phá hoại ta về tư tưởng vừa ổn định tinh thần binh lính của chúng.

Ở vùng kiểm soát sau khi đưa dân về chúng thực hiện chính sách phát xít hóa chống lại nguyện vọng hòa bình, tự do, dân chủ, hòa giải, hòa hợp dân tộc của nhân dân ta, tăng cường bình định, kìm kẹp nhân dân một cách quyết liệt với nhiều hình thức, thủ đoạn xảo quyệt (xăm lục, phục kích, thanh lọc, khống chế, hăm dọa...) để đánh phá cơ sở cách mạng. Thực hiện dồn dân, bắt lính, vơ vét của cải nhân dân.

Ở vùng giải phóng, chúng thực hiện hành quân lấn chiếm vùng lõm hòng xóa thế da báo nhằm phân tuyên, phân vùng. Tăng cường hoạt động gián điệp, biệt kích, trinh sát, phá hoại, móc nối các phần tử xấu gây rối loạn trị an, dụ dỗ vận động quần chúng chạy vào vùng địch.

Tất cả thủ đoạn trên địch hoạt động táo bạo, ráo riết từ khi chuẩn bị ký Hiệp định Pari cho đến cả quá trình sau này.

Về phía ta sau khi Hiệp định Pari được ký kết, Quảng Trị đã trở thành hai vùng, hai nhiệm vụ cụ thể: Phía trước tiếp tục đánh phá bình định và chống lấn chiếm, triệt phá phân tuyến, phân vùng giành quyền làm chủ; phía sau phòng thủ chiến đấu bảo vệ vững chắc vùng giải phóng, xây dựng và bảo vệ lực lượng cách mạng. Hai nhiệm vụ đó liên quan mật thiết với nhau, hỗ trợ bổ sung cho nhau.
« Sửa lần cuối: 14 Tháng Chín, 2022, 10:06:58 pm gửi bởi macbupda » Logged

Tự hào thay, mác búp đa
Khởi đầu những bản hùng ca lẫy lừng.
Thô sơ, gian khổ đã từng
Chính quy, hiện đại, không ngừng tiến lên.
macbupda
Trung tá
*
Bài viết: 11970


Lính của PTL


« Trả lời #62 vào lúc: 14 Tháng Chín, 2022, 10:00:29 pm »

Nhằm tổ chức thắng lợi nhiệm vụ mới mẻ đó, Đảng ủy quân sự tỉnh kịp thời ra Nghị quyết cụ thể hóa những nhiệm vụ cấp bách:

- Khẩn trương xây dựng, tổ chức lực lượng, chuẩn bị đầy đủ về mọi mặt, coi trọng công tác tổ chức, tư tưởng, bảo đảm cho bộ đội luôn sẵn sàng thế phòng thủ trên tuyến, thực hiện công tác phòng không nhân dân và trật tự trị an bảo vệ vững chắc vùng giải phóng trong bất cứ hoàn cảnh nào.

- Tích cực đánh phá bình định vùng sau lưng địch, tạo thế, tạo lực xây dựng địa bàn, bàn đạp, hành lang hỗ trợ cho phong trào quần chúng, cùng với lực lượng chính trị xây dựng cơ sở vùng lõm.

- Tranh thủ mọi điều kiện, thời gian củng cố, xây dựng lực lượng, huấn luyện, nâng cao chất lượng ba thứ quân đáp ứng nhu cầu nhiệm vụ của địa phương trong tình hình mới.

- Đẩy mạnh gia tăng sản xuất, tiết kiệm, xây dựng hậu cần tại chỗ, xây dựng các khu căn cứ đồng thời làm tốt vai trò nòng cốt cùng với nhân dân xây dựng vùng giải phóng vững mạnh về mọi mặt.

- Tham gia làm công tác đối ngoại, đấu tranh thi hành Hiệp định Pari.

Tranh thủ lúc Hiệp định Pari đã ký kết nhưng chưa có hiệu lực, tỉnh đã triển khai toàn bộ lực lượng đồng loạt tấn công địch nhằm lập một số vùng lõm ở đồng bằng cài thế xen kẽ với địch và giữ thế có lợi cho ta ở giáp ranh. Trong đợt hoạt động này thời gian tuy ngắn nhưng địch bị bất ngờ, tinh thần bạc nhược, trong lúc đó lực lượng ta cả quân sự và chính trị nêu cao tinh thần chiến đấu ngoan cường, mưu trí, táo bạo và mau lẹ nên chúng không chống cự nổi, hầu hết các căn cứ của chúng bị tấn công đều bỏ chạy tán loạn. Do đó ta đã chiếm được 32 thôn hoàn chỉnh và 28 thôn khác (chiếm một nửa số thôn ở hai huyện Triệu Phong và Hải Lăng).

Đây là một thắng lợi có ý nghĩa quan trọng thực hiện thắng lợi bước đầu ý định chiến lược của ta, đẩy địch lún sâu vào thế bị động. Trong lúc đó địch rất xảo quyệt cũng tranh thủ lúc Hiệp định chưa có hiệu lực, tập trung lực lượng thực hiện kế hoạch “Tràn ngập lãnh thổ”, mở đầu là chiến dịch “Sóng thần lần thứ tư” phản kích đánh chiếm Cửa Việt.

Trong các ngày 25, 26 tháng 1 năm 1973 địch dùng 72 lần chiếc B52 ném bom và bắn 45.000 viên đạn pháo vào vùng Cửa Việt. Vào hồi 4 giờ sáng ngày 27/1/1973 lợi dụng mưa to gió lớn biển động, hàng trăm xe tăng và xe bọc thép địch từ Long Quang phối hợp với lữ đoàn 147 thủy quân lục chiến, liên đoàn 15 biệt động quân, 2 chiến đoàn thiết giáp, 3 tiểu đoàn pháo binh bám theo mép biển tiến ra cắm cờ ở Cửa Việt.

Phát hiện địch ra đến Cửa Việt, Sư đoàn 320 lập tức cùng với các đơn vị địa phương và dân quân du kích đang làm nhiệm vụ ở đây đã phát động nhân dân làm công tác binh vận và tổ chức phản công tiêu diệt địch. Đến ngày 31/1/1973 địch bị thất bại nặng nề, những tên sống sót vội vàng tháo chạy thục mạng về Long Quang. Chiến dịch tái chiếm Cửa Việt hoàn toàn thất bại. Ta đã tiêu diệt hơn 1.500 tên địch, bắt sống 160 tên, bắn cháy gần 100 xe tăng và xe bọc thép, thu 13 xe tăng, bắn rơi 5 máy bay, bắn cháy 3 tàu chiến và phá hủy 10 khẩu pháo lớn.

Phối hợp với trận Cửa Việt, một bộ phận lực lượng vũ trang tỉnh tổ chức đánh mạnh trên nhiều điểm khác, chiếm thêm một số địa bàn, cắt đường 68, uy hiếp đường 1, buộc địch phải phân tán lực lượng đối phó, tạo điều kiện cho bộ đội chủ lực đánh bại cuộc lấn chiếm quy mô lớn của địch giành thắng lợi.

Chiến thắng Cửa Việt là đòn trừng trị kịp thời và đích đáng hành động lấn chiếm của địch, bước đầu đánh bại kế hoạch “Tràn ngập lãnh thổ” của Mỹ-ngụy. Với chiến thắng đó vùng giải phóng của ta được giữ vững, lòng tin của nhân dân đối với cách mạng được củng cố.

Sau thất bại ở Cửa Việt, địch hốt hoảng co về củng cố lực lượng, phản kích ta ở vùng “lõm” nhằm xóa thế “da báo” và đẩy lực lượng ta ra xa để ổn định tinh thần cho ngụy quân ngụy quyền.
Logged

Tự hào thay, mác búp đa
Khởi đầu những bản hùng ca lẫy lừng.
Thô sơ, gian khổ đã từng
Chính quy, hiện đại, không ngừng tiến lên.
macbupda
Trung tá
*
Bài viết: 11970


Lính của PTL


« Trả lời #63 vào lúc: 14 Tháng Chín, 2022, 10:02:33 pm »

Cùng trong thời gian này, địch huy động trên 2.500 quân, đa số là chủ lực, có xe tăng, pháo binh và máy bay chi viện, tổ chức nhiều đợt hành quân đánh bật lực lượng ta ra khỏi 8 xã trong vùng chúng kiểm soát ở Hải Lăng, Triệu Phong và chúng phải trả giá đắt: 760 tên bỏ mạng và 22 xe quân sự bị phá hủy. Cùng với việc lấn chiếm các “lõm” giải phóng ở đồng bằng, địch liên tiếp mở các cuộc hành quân quy mô lớn lấn chiếm giáp ranh của ta ở Tích Tường, Như Lệ, các điểm cao 15, 55. Tại đây quân và dân ta kiên quyết đánh trả đẩy lui tất cả các cuộc lấn chiếm gây cho địch nhiều tổn thất nặng nề, bảo vệ vững chắc vùng giải phóng.

Trong đợt hoạt động chống địch lấn chiếm, đơn vị nào của lực lượng vũ trang tỉnh cũng đánh tốt và lập công. Các tiểu đoàn 814, 808, 10, đại đội 24 công binh của tỉnh, đại đội 15 Cam Lộ, bộ đội địa phương và dân quân du kích Triệu Phong, Hải Lăng liên tục chiến đấu trên một địa bàn khá rộng, lực lượng địch dày đặc dưới sự chi viện đắc lực của máy bay và pháo binh, ồ ạt phản kích hòng mở rộng địa bàn nhưng lực lượng vũ trang ta bằng nhiều cách đánh sáng tạo, mưu trí đã tiêu diệt, tiêu hao sinh lực địch, đẩy lùi địch từng bước chiếm lĩnh từng thôn xóm, mở ra một thế trận liên hoàn, chia cắt và uy hiếp địch.

Lực lượng vũ trang tỉnh chuyển phương thức hoạt động, rút ra ngoài tiến hành củng cố tổ chức lãnh đạo, chỉ huy, học tập chính trị, huấn luyện quân sự, bổ sung lực lượng, trang bị cơ sở vật chất... Sau khi củng cố tương đối hoàn chỉnh, chấp hành mệnh lệnh của Quân khu, các tiểu đoàn của tỉnh liền vào thay thế cho bộ đội chủ lực ở một hướng quan trọng từ Thanh Hội đến Sãi dài 25 km và sau đó thay thế tiếp từ Sãi đến động Ông Do (Hải Lăng). Như vậy là trên tuyến phòng thủ dài trên 50 km này lực lượng vũ trang tỉnh hoàn toàn đảm nhiệm công tác phòng thủ sẵn sàng chiến đấu đánh địch phản kích, lấn chiếm.

Trên tuyến phòng thủ này ta đã bố trí lực lượng khá mạnh ngoài lực lượng bộ đội ta còn mạnh dạn đưa 260 du kích cùng trực tiếp phòng thủ với bộ đội, hình thành thế trận chiến tranh nhân dân ba thứ quân, hai lực lượng (quân sự, chính trị) đồng thời từng bước nghiên cứu thiết bị hệ thống công sự chiến đấu, hỏa lực, phương án, kế hoạch tác chiến tại chỗ và khi phát triển tiến công. Củng cố các chế độ trực ban, trực chiến, diễn tập, chế độ chỉ huy, lãnh đạo tập trung thống nhất giữa cấp ủy địa phương và các cơ quan quân sự tỉnh, huyện đối với các lực lượng hoạt động trên tuyến. Qua đó mà sung, điều chỉnh kế hoạch, phương án thích hợp hơn. Thực hiện chủ trương của Quân khu và Tỉnh ủy, Tỉnh đội lập ra ban lãnh đạo chỉ huy phía trước, tiến hành điều chỉnh lại lực lượng, rút bớt du kích về phía sau, rút tiểu đoàn 8 ra làm lực lượng cơ động.

Đi đôi với nhiệm vụ phòng thủ ta đẩy mạnh các hoạt động quân sự, chính trị, binh vận kịp thời trừng trị những vụ khiêu khích, phá hoại của địch, ngăn chặn một số phần tử xấu ở vùng giải phóng vượt tuyến sang vùng địch.

Ở phía sau lực lượng vũ trang cùng với chính quyền và nhân dân địa phương tích cực xây dựng cơ sở chính trị, làng chiến đấu, cụm chiến đấu ở một số địa bàn quan trọng như Triệu Vân, Triệu Thành (Triệu Phong), Gio Hải (Gio Linh), Cam Mỹ (Cam Lộ). Xây dựng kế hoạch tác chiến ở các khu vực trọng điểm, Ái Tử, Đông Hà, Cửa Việt. Du kích các xã Hải Thượng, Hải Vĩnh, Hải Ba, Hải Phú, luồn sâu đánh sau lưng địch hỗ trợ cho quân chủ lực. Bộ đội tỉnh, huyện, thị xã áp sát giáp ranh tấn công địch.

Đi đôi với nhiệm vụ chiến đấu, phòng thủ phía trước, công tác phòng không nhân dân, bảo đảm trật tự trị an phía sau cũng được thực hiện nghiêm túc. Tỉnh lập ra ban phòng không nhân dân từ cấp tỉnh đến thôn xã chỉ đạo hướng dẫn công tác phòng tránh. Từng khu vực trọng điểm bờ biển, miền núi, các cơ quan, kho tàng, bến bãi, chợ búa đều được tổ chức bố phòng, tuần tra canh gác có phương án đánh địch thám báo, biệt kích, đã tổ chức mạng lưới phòng không tầm thấp cho du kích, tự vệ, sớm đề ra biện pháp phòng tránh, sơ tán kho tàng, chợ búa vận động nhân dân làm hầm hào ẩn nấp, xây dựng ý thức cảnh giác với âm mưu thủ đoạn địch, sẵn sàng đánh trả máy bay bay thấp bắt giặc lái.

Đối với nhiệm vụ đánh phá bình định phá phân tuyến, phân vùng, giành đất, giành dân, giành quyền làm chủ đã được lực lượng vũ trang xác định là nhiệm vụ trung tâm hàng đầu ngay từ khi chuẩn bị ký Hiệp định Pari.
Logged

Tự hào thay, mác búp đa
Khởi đầu những bản hùng ca lẫy lừng.
Thô sơ, gian khổ đã từng
Chính quy, hiện đại, không ngừng tiến lên.
macbupda
Trung tá
*
Bài viết: 11970


Lính của PTL


« Trả lời #64 vào lúc: 14 Tháng Chín, 2022, 10:04:49 pm »

Tỉnh đã khẩn trương đưa tiểu đoàn 8 và du kích Hải Lăng vào bám lót một số địa bàn quan trọng, tạo thế xen kẻ vùng lõm nhưng do lực lượng ta lúc đầu ít, phương châm, phương thức chỉ đạo chưa sát nên gặp một số khó khăn. Địch tập trung lực lượng đánh phá quyết liệt chiếm lại một số khu lõm hình thành, thế phân tuyến, phân vùng, ta kịp thời rút kinh nghiệm tổ chức lại lực lượng tinh gọn có phương thức hoạt động thích hợp nên cài bám được một số địa bàn nhỏ, tạo được các tuyến hành lang đi về đồng bằng.

Để đáp ứng với yêu cầu phát triển của chiến trường, ngày 17/5/1974 chấp hành chỉ thị của Quân ủy Trung ương, các lực lượng vũ trang trên chiến trường Trị-Thiên được tách thành Quân đoàn 2 và Quân khu Trị-Thiên (Quân đoàn 2 gồm Sư đoàn 304, 324, 325 và một số đơn vị binh chủng. Quân khu Trị - Thiên gồm tất cả các lực lượng còn lại trên chiến trường này).

Tháng 6/1974 thực hiện Nghị quyết bổ sung của Tỉnh ủy và Chỉ thị của Bộ Tư lệnh Quân khu Trị - Thiên về việc tăng cường đánh phá bình định, tỉnh đã khẩn trương tập trung lãnh đạo, chỉ đạo tổ chức thực hiện cụ thể, sâu sát hơn. Các cấp ủy quan tâm hơn công tác giáo dục chính trị tư tưởng, đặc biệt việc quán triệt tình hình, nhiệm vụ, thời cơ cách mạng, làm cho mỗi cán bộ chiến sĩ nhận thức sâu sắc hơn quan điểm bạo lực cách mạng, qua đó giải quyết nhận thức tư tưởng không phù hợp làm chuyển biến một bước về quan điểm và hành động, xác định rõ vị trí trách nhiệm của lực lượng vũ trang.

Trong một thời gian ngắn, tỉnh đã triển khai được các lực lượng của ba thứ quân, giữ được thế đứng liên hoàn trên tuyến giáp ranh từ Mỹ Chánh đến sông Nhùng, hình thành thế chiến tranh du kích, cài thế đánh địch, mở rộng một số hành lang. Nhờ đó đã tạo nên nhiều bàn đạp tiến công địch từ giáp ranh xuống đồng bằng buộc địch phải co cụm lại từng nơi, tạo điều kiện ta đưa lực lượng xuống bám, lót nhiều nơi, xây dựng cơ sở quần chúng ở nông thôn, đồng bằng. Toàn tỉnh đã xây dựng được 310 cơ sở các loại ở 36 thôn, xã, hai Chi bộ, 200 du kích mật ở Hải Lăng và một số xã Triệu Phong.

Tháng 9 năm 1974 thực hiện kế hoạch H21 (mở một đợt hoạt động mạnh về quân sự) của Quân khu phát động, lực lượng vũ trang tỉnh phối hợp với toàn chiến trường Trị - Thiên đẩy mạnh cường độ tấn công địch trên nhiều hướng, nhiều điểm trong cả ba lực lượng bằng nhiều cách đánh thích hợp, tiêu diệt, tiêu hao nhiều sinh lực địch, giành thắng lợi có ý nghĩa, tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động mùa mưa và xuân hè năm 1975.

Tính đến tháng 2/1975 ta đã đánh 426 trận diệt 2.053 tên, bị thương 135 tên, bắt 1 giặc lái Mỹ, bắn cháy 32 xe (có 22 xe tăng), phá sập 24 nhà bạt, 25 lô cốt, 20 hầm ngầm, phá hủy 2 khẩu pháo 175 ly, thu 4 máy thông tin. Trong đợt này ta diệt gọn một ban chỉ huy đại đội, một trung đội bảo an.

Những thắng lợi quan trọng này động viên, cổ vũ quân và dân toàn tỉnh tiếp tục phấn đấu cao hơn tiến công địch mạnh mẽ hơn, làm cho địch càng lún sâu vào thế bị động lúng túng, thế của ta ngày càng vững tạo đà và thế, sẵn sàng đón nhận nhiệm vụ năm 1975 lịch sử.

Đi đôi với việc đánh phá bình định, phòng thủ chiến đấu, lực lượng vũ trang thường xuyên coi trọng củng cố xây dựng lực lượng coi đây là khâu quyết định tăng cường sức mạnh chiến đấu.

Qua tình hình thực tế và yêu cầu, nhiệm vụ của lực lượng vũ trang, ta đã điều chỉnh, củng cố bộ đội địa phương tỉnh, huyện đủ số lượng thích hợp theo yêu cầu nhiệm vụ, sát nhập một số đơn vị bộ đội địa phương huyện, rút bớt một số quân bổ sung cho bộ đội tỉnh.

Củng cố, bổ sung các đơn vị phục vụ, bảo đảm thông tin, trinh sát, quân y, hậu cần nhằm phù hợp với sự phát triển của lực lượng vũ trang. Nhằm chủ động giải quyết tình trạng thiếu hụt quân số, tỉnh đã đầu tư cho các đội điều trị, thu dung nuôi dưỡng thương binh tại chỗ (trước đây phải chuyển ra Bắc) đưa nhiều thương binh còn đủ sức khỏe trở lại chiến đấu. Đồng thời tổ chức tuyển quân lấy được 565 chiến sĩ bổ sung cho các đơn vị, bảo đảm quân số tiểu đoàn 400, đại đội 65 đến 70 đồng chí.

Những biện pháp đúng đắn đó đã giúp cho lực lượng vũ trang khắc phục dần tình trạng thiếu quân, bảo đảm cho các đơn vị đủ mạnh thực hiện thắng lợi mọi nhiệm vụ.
Logged

Tự hào thay, mác búp đa
Khởi đầu những bản hùng ca lẫy lừng.
Thô sơ, gian khổ đã từng
Chính quy, hiện đại, không ngừng tiến lên.
macbupda
Trung tá
*
Bài viết: 11970


Lính của PTL


« Trả lời #65 vào lúc: 14 Tháng Chín, 2022, 10:06:23 pm »

Chấp hành Nghị quyết Thường vụ Tỉnh ủy Tháng 1/1973 về nhiệm vụ xây dựng lực lượng vũ trang quần chúng, lực lượng vũ trang đã có bước chuyển hướng thích hợp. Trong phát triển dân quân tự vệ lấy việc nâng cao chất lượng làm chính đồng thời phải tăng cường giáo dục chính trị, huấn luyện quân sự, đưa khả năng và trình độ tác chiến của dân quân tự vệ lên một bước.

Về phát triển, chú trọng xây dựng du kích thôn, xã làm cơ sở, phát triển lực lượng dân quân rộng rải, bảo đảm nơi nào có dân là có lực lượng vũ trang quần chúng. Ở các xã đều xây dựng được trung đội du kích cơ động, trung đội hỏa lực (một số xã) làm lực lượng nòng cốt cơ động chiến đấu trên địa bàn. Đối với nhiệm vụ xây dựng lực lượng tự vệ trong tình hình mới được mọi cấp, mọi ngành quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo tổ chức thực hiện nghiêm túc cho nên trong các ty, ngành, cơ quan đều xây dựng được đội ngũ tự vệ khá mạnh.

Đến tháng 12/1974, sau hai năm xây dựng toàn tỉnh có 9.274 du kích, 11.072 dân quân, 3.993 tự vệ. Dân quân du kích chiếm tỷ lệ 17,5% so với dân số.

Trong quá trình xây dựng, phát triển lực lượng thường xuyên quan tâm đào tạo đội ngũ cán bộ cơ sở thôn, xã đội, trung đội du kích luôn đủ số lượng được bồi dưỡng chuyên môn nghiệp vụ, có năng lực lãnh đạo, chỉ huy hoàn thành nhiệm vụ. Trong điều kiện chiến đấu khẩn trương, liên tục, tỉnh vẫn tranh thủ mở nhiều lớp bồi dưỡng tại chức cho cán bộ cơ sở. Trường huấn luyện củng mở nhiều lớp đào tạo, bồi dưỡng ngắn ngày, kết hợp giữa cán bộ đi đào tạo, bồi dưỡng, bổ túc tại các trường của Bộ, Quân khu và gửi các Sư đoàn chủ lực. Do đó trong hai năm đã có 170 cán bộ cấp trung đoàn, tiểu đoàn, 235 cán bộ đại đội, trung đội, 174 cán bộ tiểu đội, 229 cán bộ xã đội, 1.225 cán bộ thôn đội, trung đội du kích được bồi dưỡng chuyên môn, nghiệp vụ, chính trị, nhờ vậy đã thực sự nâng cao trình độ, năng lực đội ngũ cán bộ. Công tác huấn luyện bộ đội, dân quân tự vệ, coi trọng khâu huấn luyện cơ bản, hệ thống, lấy việc học tập kỹ thuật phục vụ cho yêu cầu chiến thuật, kết hợp chặt chẽ giữa yêu cầu nhiệm vụ chiến đấu với các quy tắc, chế độ sẵn sàng chiến đấu, nhờ vậy chất lượng huấn luyện được tiến bộ rõ rệt.

Trên cơ sở quán triệt nhiệm vụ của địa phương và chức năng nhiệm vụ của lực lượng vũ trang, các đơn vị bộ đội địa phương tỉnh, huyện mặc dầu phải thường xuyên chiến đấu, sẵn sàng chiến đấu, huấn luyện nhưng vẫn chủ động tham gia với địa phương ổn định nơi ăn ở cho nhân dân sơ tán về, xây dựng trường học, trạm xá, bệnh viện, rà phá bom mìn, chống bão lụt, khai hoang phục hóa, làm thủy lợi v.v... Có lúc do yêu cầu nhiệm vụ đã phải sử dụng tới 50% quân số và thời gian vào những việc trên. Đã đóng góp 17.069 ngày công khai hoang phục hóa, thủy lợi. Riêng ở khu vực Dốc Miếu hoàn thành vượt mức chỉ tiêu với 4.018 ngày công giải phóng 45,5 héc ta ngập tràn cỏ dại và bom mìn trả lại cho nhân dân sản xuất.

Thấm nhuần tư tưởng tự lực tự cường, tuy nhiệm vụ chiến đấu khẩn trương, cơ động, phân tán nhưng lực lượng vũ trang khéo kết hợp nên nhiệm vụ sản xuất vẫn được thực hiện nghiêm túc và hiệu quả. Khắc phục hàng loạt khó khăn về giống, phân bón, dụng cụ, kỹ thuật v.v... Trong năm 1973 các đơn vị đã gieo cấy 160 héc ta thu hoạch 46,5 tấn lúa, ngoài ra chăn nuôi thu hoạch được 2.800 kg thịt các loại. Năm 1974 diện tích gieo trồng tăng lên, thu 350 tấn, tự túc hơn một tháng trong đó có đơn vị đạt 2 đến 4 tháng. Ngoài những khu sản xuất ở các đơn vị cơ sở, lực lượng vũ trang còn lập những khu sản xuất tập trung ở Ba Lòng và thành lập đội đánh cá ở vùng biển Cửa Việt được trang bị một phần máy móc, từng bước cải tiến phương pháp canh tác, áp dụng kỹ thuật nên đưa lại hiệu quả kinh tế cao: Thu hoạch 162 tấn ngô; 15 tấn lạc đậu, chăn nuôi 190 bò 180 lợn, đánh bắt 17.374 kg cá.

Tất cả kết quả sản xuất đều trích lại một phần cho tái sản xuất còn phần lớn đưa vào cải thiện bữa ăn hàng ngày cho bộ đội.

Đây là những cố gắng lớn của lực lượng vũ trang tỉnh, góp phần vào việc xây dựng vùng giải phóng, giảm bớt một phần khó khăn cho nhân dân, nâng cao sức mạnh chiến đấu của các lực lượng vũ trang tỉnh nhà.

*
*   *

Phối kết hợp chặt chẽ với lực lượng vũ trang và nhân dân các huyện phía nam tỉnh bảo vệ xây dựng vùng giải phóng, đánh phá bình định, lực lượng vũ trang huyện Vĩnh Linh đã nỗ lực hoàn thành nhiệm vụ cấp bách, dồn dập cùng một lúc.

Từ 27/1/1973 (ngày ký Hiệp định Pari) toàn miền Bắc nói chung và Vĩnh Linh nói riêng đã có hòa bình thực sự nhưng một nửa nước còn chiến tranh, mục tiêu thực hiện giải phóng miền Nam chưa được thực hiện trọn vẹn. Trong bối cảnh đó lực lượng vũ trang nêu cao cảnh giác củng cố, xây dựng lực lượng làm vai trò nòng cốt cùng với nhân dân địa phương hàn gắn vết thương chiến tranh, khôi phục sản xuất và sẵn sàng chiến đấu.

Thực hiện Nghị quyết Đảng ủy khu vực “Quyết tâm chung của Đảng bộ và quân dân toàn khu vực Vĩnh Linh là sẵn sàng đánh bại mọi âm mưu và hành động ngoan cố, liều lĩnh của địch, bảo vệ tốt địa bàn, kho tàng, tính mạng và tài sản của nhân dân. Làm tốt công tác giao thông vận tải, phục vụ kịp thời tiền tuyến, “các đơn vị lực lượng vũ trang Vĩnh Linh huy động cao nhất cùng nhân dân tiến hành chiến dịch khai hoang phục hóa, làm thủy lợi. Ở tiểu đoàn 47, đại đội 1, 2, 19 các chiến sĩ phát huy nhiều sáng kiến, cải tiến công cụ tăng năng suất. Nhiều đơn vị làm thêm giờ, nhiều kỷ lục đào đất phá đã đạt năng suất cao. Nhờ vậy lực lượng vũ trang huyện đã đóng góp 4.000 ngày công cùng với nhân dân đào đắp 170.669m3 đất đá. Nhiều đập chắn nước mặn, đê, kênh mương bị tàn phá trong chiến tranh đã được tu bổ lại, 1000 hécta ruộng đất hoang hóa đã được đưa vào gieo cấy, 46.000 tấn phân bón được đưa vào sử dụng cho vụ đông xuân và hè thu.

Lực lượng dân quân du kích ở khắp 23 xã và thị trấn toàn khu vực với tình nghĩa thủy chung tổ chức đưa tiễn 8 vạn đồng bào K15 sơ tán ra Vĩnh Linh năm 1972 trở về quê hương Gio Linh, Cam Lộ, Triệu Phong Hải Lăng, Đông Hà đồng thời đón nhận 4 vạn học sinh và 4 vạn đồng bào Vĩnh Linh sơ tán ra các tỉnh phía bắc trở về quê cũ. Để giúp nhân dân ổn định đời sống, lực lượng vũ trang đã lao động quên mình giúp nhân dân rà phá bom mìn, dựng nhà, khai hoang phục hóa v.v... 5.000 héc ta ruộng đất của các xã vùng trọng điểm đánh phá của địch như Vĩnh Giang, Vĩnh Quang, Vĩnh Thạch, Vĩnh Thành, Vĩnh Tân, Vĩnh Thủy, Vĩnh Sơn... đã được phục hóa trong đợt này.

Với sự cố gắng đó một lần nữa lực lượng vũ trang Vĩnh Linh lại ghi thêm một chiến công vào trang sử vẻ vang của mình.
Logged

Tự hào thay, mác búp đa
Khởi đầu những bản hùng ca lẫy lừng.
Thô sơ, gian khổ đã từng
Chính quy, hiện đại, không ngừng tiến lên.
macbupda
Trung tá
*
Bài viết: 11970


Lính của PTL


« Trả lời #66 vào lúc: 14 Tháng Chín, 2022, 10:11:20 pm »

II - TIẾN LÊN GIẢI PHÓNG NỐT 15% PHẦN ĐẤT VÀ 13 VẠN DÂN
TỪ THỊ XÃ QUẢNG TRỊ ĐẾN MỸ CHÁNH VÀ GÓP PHẦN
GIẢI PHÓNG HOÀN TOÀN TRỊ - THIÊN - HUẾ,
KẾT THÚC VẺ VANG CUỘC KHÁNG CHIẾN CHỐNG MỸ, CỨU NƯỚC.

Trên cơ sở phân tích tình hình, so sánh thế và lực của ta và địch trên chiến trường miền Nam, tháng 10/1974 tiếp đến tháng 1/1975, Bộ Chính trị Trung ương Đảng ra Nghị quyết lịch sử giải phóng miền Nam trong hai năm 1975 - 1976.

Thực hiện Nghị quyết Bộ Chính trị, Quân ủy Trung ương giao nhiệm vụ cho chiến trường Trị - Thiên - Huế năm 1975 là “Đánh bại về cơ bản bình định của địch, tạo ra ở Trị - Thiên một tình thế mới có ý nghĩa quyết định để giành thắng lợi trong năm 1976, giải phóng hoàn toàn Trị - Thiên - Huế(1).

Đầu tháng 12-1974, Khu ủy Trị - Thiên họp đề ra nhiệm vụ năm 1975 là đẩy mạnh tiến công tổng hợp trên cả ba vùng tiêu diệt, tiêu hao lực lượng địch, phá hẳn thế phân tuyến và đánh bại về cơ bản kế hoạch bình định của địch giành dân, giành quyền làm chủ ở nông thôn và đồng bằng, nhằm thay đổi cục diện chiến trường trên toàn địa bàn Quân khu. Nếu có thời cơ đột xuất thì tận dụng một cách có hiệu quả nhất, giành thắng lợi một bước nhảy vọt.

Về nhiệm vụ quân sự, Quân khu ủy và Bộ Tư lệnh Quân khu xác định: “Tập trung toàn bộ lực lượng tranh thủ thời cơ thuận lợi của năm 1975 đẩy mạnh tiến công tiêu diệt một bộ phận quan trọng sinh lực địch, đánh bại về cơ bản kế hoạch bình định của địch ở Trị - Thiên, giành từ 35 vạn dân ở nông thôn đồng bằng, phát động cao trào đấu tranh chính trị ở thành phố, đánh mạnh kho tàng hậu cứ, triệt phá giao thông, tích cực sáng tạo thời cơ và sẵn sàng chớp thời cơ tiến lên giành thắng lợi lớn hơn kể cả giải phóng Huế(2).

Cuối tháng 12-1974 sau khi quán triệt nghiên cứu Nghị quyết của Khu ủy Trị - Thiên, Hội nghị Tỉnh ủy đã ra Nghị quyết lãnh đạo toàn Đảng bộ, quân và dân trong tỉnh: “Quyết tâm phá vỡ từng mảng tuyến ngăn chặn hai vùng của địch, giành và giữ dân, giải phóng đại bộ phận nông thốn đồng bằng còn bị địch kiểm soát(3).

Bước vào năm 1975,. trên chiến trường miền Nam, địch bị thất bại toàn diện và liên tiếp, âm mưu đánh phá, lấn chiếm vùng giải phóng đã bị phá sản buộc chúng phải quay về phòng ngự trong thế bị động, lúng túng. Khả năng lấn chiếm vùng giải phóng đã giảm đi rõ rệt. Âm mưu bình định vùng chúng kiểm soát đã bị đẩy lùi một bước quan trọng. Nhiều kế hoạch bình định của chúng bị phá sản hoàn toàn.

Tại chiến trường Quảng Trị, sau hai năm lực lượng vũ trang ta đẩy mạnh các hoạt động tập kích diệt chốt, phục kích diệt bọn lùng sục, đánh phá giao thông, trừng trị bọn khiêu khích, bọn ác ôn tâm lý chiến trên chốt cùng với các hoạt động binh vận nên đã chặn đứng được âm mưu thủ đoạn lấn chiếm bình định của địch, ở nhiều nơi địch tò ra cầu an ít đi lùng sục, một số lính đã ra hàng hoặc bắt liên lạc với ta. ở vùng địch kiểm soát mặc dầu chúng rất hung hăng, áp dụng nhiều biện pháp, thủ đoạn thâm độc nhưng chúng cũng không đánh phá được cơ sở phong trào cách mạng. Hiệu lực hoạt động một số tổ chức kìm kẹp ở thôn, xã bị suy yếu dần, có tên bị quần chúng khống chế, phải bỏ trốn lên đồn bốt địch không dám ở lại địa phương. Nhìn chung bọn ngụy quân ngụy quyền ở cơ sở và binh lính rất hoang mang, chán ghét chiến tranh, mong muốn hòa bình, hòa hợp dân tộc.

Tuy nhiên địch vẫn còn nhiều chỗ mạnh: Quân đông, vũ khí nhiều, chốt giữ tại chỗ vừa chốt giữ địa bàn quan trọng, vừa sẵn sàng cơ động đối phó khi ta hoạt động. Chỉ có 15% đất đai Quảng Trị còn tạm bị chiếm nhưng địch bố trí một lực lượng dày đặc: 7 tiểu đoàn thủy quân lục chiến, 8 tiểu đoàn và 4 đại đội bảo an, biệt lập, 1 thiết đoàn xe tăng, 1 chi đoàn M48, 4 tiểu đoàn pháo cùng với lực lượng ở tiểu khu Quảng Trị, chi khu Hải Lăng, Mai Lĩnh, Triệu Phong và 102 trung đội dân vệ, hơn 3.000 phòng vệ dân sự ở các phân chi khu đóng chốt co cụm dày đặc(4).


(1) Lê Tự Đồng: Trị - Thiên - Huế Xuân 1975 - Nxb QĐND Hà Nội 1983, tr 45
(2) Lê Tự Đồng: - sđd - Tr 45
(3) Quảng Trị 60 năm - những chặng đường. Sở VHTT - 1989 - Tr 202
(4) Quảng Trị - 60 năm những chặng đường. Sở VHTT xuất bản - Tr 203
Logged

Tự hào thay, mác búp đa
Khởi đầu những bản hùng ca lẫy lừng.
Thô sơ, gian khổ đã từng
Chính quy, hiện đại, không ngừng tiến lên.
macbupda
Trung tá
*
Bài viết: 11970


Lính của PTL


« Trả lời #67 vào lúc: 14 Tháng Chín, 2022, 10:13:52 pm »

Chấp hành Nghị quyết của Bộ Chính trị và Khu ủy các chỉ thị, mệnh lệnh của Bộ Tư lệnh Quân khu về phương hướng và nhiệm vụ của năm 1975, Tỉnh ủy kịp thời ra Nghị quyết lãnh đạo quân và dân toàn tỉnh “Phát huy hơn nữa tinh thần cách mạng tiến công, động viên toàn dân, toàn quân kiên quyết thực hiện hai nhiệm vụ:

- Đẩy mạnh phong trào đấu tranh của quần chúng ở vùng địch kiểm soát, cả nông thôn và thành thị nhằm chống phá các kế hoạch bình định của địch, từng bước phá hỏng, phá rã thế kìm kẹp, ra sức giành và giữ dân, giành quyền làm chủ, tích cực khôi phục và phát triển lực lượng cách mạng, từng bước làm thay đổi so sánh tương quan lực lượng tại chỗ, giành và giữ quyền làm chủ tại tuyến giáp ranh, tạo những điều kiện cơ bản để phối hợp với mọi lực lượng của ta ở vùng giải phóng tấn công địch, đưa phong trào vùng địch tạm kiểm soát tiến lên, phối hợp đắc lực với phong trào toàn miền.

- Tích cực tranh thủ thời gian, ra sức xây dựng vùng giải phóng và căn cứ vững mạnh về mọi mặt, làm cho lực lượng quân sự, chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội của ta lớn mạnh vượt bậc vừa làm chỗ dựa cho cuộc đấu tranh cách mạng trong giai đoạn mới, vừa làm ngọn cờ hiệu triệu cỗ vũ quần chúng trong vùng địch tạm kiểm soát, vừa đủ sức để giành thắng lợi trong mọi tình huống nhằm làm cho trước mạnh, sau vững.

Hai nhiệm vụ trên liên quan chặt chẽ với nhau, chi viện cho nhau làm thay đổi tương quan lực lượng ngày càng có lợi cho ta để tiến lên giải phóng phần đất và dân còn lại của tỉnh ta, góp phần giải phóng hoàn toàn miền Nam(1).

Căn cứ vào hai nhiệm vụ trọng yếu của Nghị quyết, lực lượng vũ trang Quảng Trị xác định quyết tâm trong cuộc tổng tiến công nổi dậy lần này phải đảm đương hướng bắc của chiến dịch, với lực lượng hiện có phải tự giải phóng lấy 15% đất đai và 13 vạn dân đang bị kiểm soát. Đây là một nhiệm vụ nặng nề và cũng là vinh dự to lớn mà lực lượng vũ trang được Đảng bộ và nhân dân tỉnh nhà tin tưởng ủy thác.

Bước vào thực hiện quyết tâm trên, công tác bảo đảm cho chiến dịch được chuẩn bị khá khẩn trương và chu đáo. Mạng lưới trinh sát các cấp được huy động tối đa điều tra nghiên cứu nắm tình hình các mục tiêu địch: Quận lỵ Mai Lĩnh, một số phân chi khu ở Triệu Sơn, Triệu Trung, Triệu Tài, Hải Hòa, Hải Tân, Hải Lăng, Hải Thượng, Hải Phú, Hải Vĩnh và khu kho Đức Tích ở Thừa Thiên, một số cầu cống trên trục quốc lộ 1A, sở chỉ huy tiểu đoàn 119 bảo an, các điểm cao 90 (bắc) 122, 118 và các trận địa pháo địch.

Một bộ phận lực lượng đã mở thông năm hành lang.

Dọc sông Mỹ Chánh về Phú Kinh, Cầu Nhi, Văn Quỹ thuộc xã Hải Tân, Hải Hòa.

Dọc theo sông Nhùng về xã Hải Lâm, Hải Phú, Hải Thượng.

Hai hành lang từ Phương Lang vào sông Nhùng và Hải Thượng.

Một hành lang từ dọc theo dãi cát Thanh Hội vào Thạnh Yên, Phương Lang.

Về hậu cần đảm bảo cho bộ đội đủ ăn từ 1 đến 3 tháng. Trong hoàn cảnh đường sá khó khăn nhưng lực lượng vũ trang đã vận chuyển ra phía trước 200 tấn hàng, thu nhặt 3.000 đạn pháo lép chế tạo thành mìn, xin các đơn vị bạn Hải quân, Vĩnh Linh 1.000 bom, 10 tấn thuốc nổ và súng đạn bộ binh kịp cấp phát cho các đơn vị bổ sung thêm vào cơ số vũ khí chiến đấu. Tiến hành một đợt huấn luyện bổ sung cho bộ đội cách đánh vây ép, vây lấn điểm cao, bao vây quận lỵ, chi khu, tập kích làng mạc, phóng bom mìn v.v...

Xuất phát từ tình hình nhiệm vụ, Tỉnh đội quyết định sử dụng và điều động hầu hết lực lượng vào chiến đấu bao gồm: Tiểu đoàn 8, tiểu đoàn 10, tiểu đoàn 34, pháo, cối, đại đội 18, đại đội 23 (bộ đội địa phương tỉnh), đại đội 15 Cam Lộ, đại đội 4 Gio Linh, toàn bộ bộ đội địa phương hai huyện Triệu Phong và Hải Lăng, 11 trung đội du kích Triệu Phong, Gio Linh, Hướng Hóa, Cam Lộ, thị xã Đông Hà và toàn bộ dân quân du kích Hải Lăng.

Trước khi bước vào chiến dịch, trên chiến trường Trị - Thiên suốt từ bờ nam sông Thạch Hãn đến đèo Hải Vân, quân và dân ta tổ chức nhiều trận đánh nhỏ vừa nghi binh vừa kết hợp triển khai chiến dịch thu được kết quả ban đầu. Từ 5 đến 7-3-1968 bộ đội tiểu đoàn 14 tập kích một chốt ở La Vang, tiểu đoàn 8 cùng với các đội vũ trang công tác chiếm lĩnh các vị trí tập kết. Các đội vũ trang công tác của Cam Lộ, Gio Linh, Triệu Phong, Hướng Hra đã bắt đầu làm công tác dân vận trong các khu tập trung dân của địch. Lực lượng du kích do tỉnh điều động đã tập kết sẵn sàng ở tây Hải Lăng, tiến hành vây ép các cao điểm 397, Động Ong Do, 200, 121, 280, 222, 122, 112. Ở vùng giải phóng tiểu đoàn 13, 14 và du kích các xã trong khu vực tham gia cuộc diễn tập thực binh kéo dài từ các xã tiếp giáp với tuyến tiếp xúc giữa ta và địch đến các vùng Cùa, Gio Linh, Đông Hà.


(1) Nghị quyết Tỉnh ủy - Lưu Ban NCLS Đảng BTT
Logged

Tự hào thay, mác búp đa
Khởi đầu những bản hùng ca lẫy lừng.
Thô sơ, gian khổ đã từng
Chính quy, hiện đại, không ngừng tiến lên.
macbupda
Trung tá
*
Bài viết: 11970


Lính của PTL


« Trả lời #68 vào lúc: 14 Tháng Chín, 2022, 10:17:43 pm »

Cùng thời gian này, ta bí mật rút Sư đoàn 325 và trung đoàn 9 Sư đoàn 304 từ bắc Quảng Trị vào đứng chân ở nam Thừa Thiên tập trung cho hướng chủ yếu của chiến dịch mà vẫn giữ được tuyến phòng thủ.

Trước tình hình hoạt động của ta địch hốt hoảng, bị động, không phán đoán được hướng tiến công chủ yếu của ta trên chiến trường Trị - Thiên. Do đó chúng vội vàng tăng cường lực lượng bố phòng trên tuyến tiếp xúc bắc Quảng Trị tạo điều kiện cho ta chuẩn bị tiến công trên hướng chủ yếu chiến dịch ở nam Thừa Thiên.

Thời gian chuẩn bị cho chiến dịch không dài nhưng từ tỉnh đến cơ sở đã huy động được một khối lượng vật chất và lực lượng lớn bảo đảm đánh thắng địch trong những tình huống khó khăn nhất. Đây là sự cố gắng rất lớn của quân và dân Quảng Trị thể hiện quyết tâm biến Nghị quyết của tỉnh thành hiện thực.

Ngày 8-3-1975, theo kế hoạch thống nhất, chiến dịch xuân - hè 75 trên chiến trường Trị - Thiên - Huế bắt đầu.

Trong suốt ngày 7-3-1975 ở hướng tây Hải Lăng các đơn vị bộ đội địa phương, du kích, các đội công tác võ trang tuyên truyền, đội công tác chính trị đã bí mật tiếp cận sát các vị trí địch, chiếm lĩnh tuyến xuất phát tiến công.

Đúng 1 giờ ngày 8-3-1975 lệnh nổ súng tiến công bắt đầu. Đại đội 24 tiểu đoàn 10 tiến công điểm cao 122 và 118. Đại đội 34 dùng DKB và cối 82 bắn phá mãnh liệt các trận địa pháo địch ở Tân Điền, điểm cao 101. Đại đội 10 tiểu đoàn 14 dùng hỏa lực đánh vào tuyến chốt của địch ở cao điểm 01, 07, 08 và 176B. Lực lượng du kích vây ép phóng bom mìn và hỏa tiến vào một loạt 9 điểm cao trong suốt ngày 8-3.

Cùng lúc ở hướng đồng bằng đại đội 2 tiểu đoàn 8 tiến công lô cốt Hà Lỗ và phối hợp với lực lượng xã Hải Tân, Hải Hòa đánh vào phân chi khu Hải Tân, Hải Hòa. Thừa thắng ta phát triển qua Hải Trường, Hải Thọ.

Sau một ngày tấn công đồng loạt, hai tên lữ trưởng 369 và trưởng ban tác chiến lữ (ngụy) về phối hợp với tiểu khu trưởng Quảng Trị tìm cách đối phó. Chúng điều tiểu đoàn 820 bảo an đang huấn luyện ở Đống Đa (Huế) tức tốc ra đứng chân ở Hải Trường, Hải Thọ. Đồng thời dùng lực lượng dân vệ phản kích ta ở thôn Đông, đại đội 2 tiểu đoàn 110 phản kích ở điểm cao 112, 118.

Trước sức tiến công của ta địch phải bỏ 21 chốt lẻ, co cụm lại thành nhưng chốt lớn điều một đại đội của tiểu đoàn 9 và 2 xe tăng về bảo vệ lữ đoàn 369.

Ở hướng bắc, đêm 9-3 tiểu đoàn 10 đặc công tập kích chi khu quân sự Mai Lĩnh là một mắt xích quan trọng trên tuyến phòng thủ của địch ở Quảng Trị. Để ngăn chặn ta tiến công về đồng bằng địch đã tập trung ở đây lực lượng ác ôn khét tiếng nhằm kìm kẹp dân chúng, đánh phá cơ sở cách mạng một cách triệt để, gây cho ta nhiều khó khăn. Vì thế cuộc chiến giữa ta và địch diễn ra ở đây rất quyết liệt.

Sau khi bí mật vượt qua các vị trí bố phòng dày đặc của địch, áp sát các mục tiêu, tiểu đoàn 10 phối hợp với đại đội 12, đại đội 23 nổ súng tiến công căn cứ vào lúc 0 giờ ngày 9-3. Địch ngoan cố kháng cự. Cuộc chiến đấu diễn ra vô cùng ác liệt. Các chiến sĩ tiểu đoàn 10 mưu trí, dũng cảm đánh địch, diệt hết tốp này đến tốp khác, đến rạng sáng ngày 9-3 quân ta san phẳng chi khu quân sự Mai Lĩnh diệt hơn 100 tên ác ôn và bảo an.

Cùng với những chiến thắng ở hướng tây Hải Lăng, chiến thắng Mai Lĩnh đã gây tiếng vang lớn ở đồng bằng hỗ trợ cho nhân dân trong vùng địch kiểm soát ở Quảng Trị nổi dậy phá vỡ từng mảng hệ thống kìm kẹp của địch, giành quyền làm chủ.

Logged

Tự hào thay, mác búp đa
Khởi đầu những bản hùng ca lẫy lừng.
Thô sơ, gian khổ đã từng
Chính quy, hiện đại, không ngừng tiến lên.
macbupda
Trung tá
*
Bài viết: 11970


Lính của PTL


« Trả lời #69 vào lúc: 14 Tháng Chín, 2022, 10:18:40 pm »

Phối hợp với đòn tấn công chi khu quân sự Mai Lĩnh, bộ đội địa phương Triệu Phong, Hải Lăng kết hợp với lực lượng tại chỗ đánh vào phân chi khu Hải Lâm, Hải Lệ, Hải Phú, Triệu Sơn, Triệu Tài. Tiểu đoàn 3 bộ binh đánh vào chốt Bích La Trung, nam Thanh Hội.

Nhằm đối phó với quân ta và củng cố tinh thần cho ngụy quân, ngụy quyền ở Quảng Trị, từ ngày 10 đến ngày 15 tháng 3 địch đưa liên đoàn 913 và tiểu đoàn 120 bảo an, lữ đoàn 139 thủy quân lục chiến và 12 xe tăng phản kích quyết liệt hòng chiếm lại các phân chi khu đã mất, chống nổi dậy của nhân dân.

Từ tháng 11 đến 13 tháng 3, các mũi ở đồng bằng đánh vào các phân chi khu Hải Vĩnh, Hải Trường diệt một trung đội bảo an. Ở tây Hải Lăng ta tiếp tục đánh mạnh buộc địch phải bỏ chốt sông Nhùng, nam Mỹ Chánh và một số cao điểm khác.

Địch tập trung đối phó ở đồng bằng. Chúng điều hai đại đội bảo an và lực lượng dân vệ do chi khu trưởng Hải Lăng chỉ huy phản kích ta ở khu vực Hải Trường, Hải Vĩnh bị ta đánh thiệt hại nặng một đại đội. Tên chi khu phó Hải Lăng chỉ huy một đại đội và 2 xe tăng cùng lực lượng dân vệ phản kích ta. Ở giáp ranh địch dùng pháo cối đánh vào các điểm ta chiếm giữ, đồng thời điều động lực lượng chặn ta ở nhiều hướng, tăng cường bảo vệ sở chỉ huy và trận địa pháo.

Như vậy chỉ trong 5 ngày đầu của chiến dịch, địch đã bị động lúng túng xáo trộn lực lượng, rối loạn tuyến phòng thủ nhưng ở đồng bằng chúng dốc sức tập trung lực lượng đối phó phong trào nổi dậy của quần chúng và phản kích chiếm lại một số vùng đã mất.

Trước tình hình đó, ta chủ trương để lại một phần lực lượng vũ trang và chính trị bám cơ sở còn lại rút lên giáp ranh.

Trong các ngày 18 đến 19 tháng 3 ở đồng bằng và giáp ranh ta liên tục tiến công địch cả quân sự, lẫn chính trị, binh vận, tiêu diệt tiêu hao sinh lực địch, hỗ trợ quần chúng, chống bốc dân và nơi có điều kiện đưa dân sang vùng giải phóng.

Trước sức ép của ta, địch cho xe chở lính từ điểm cao 367 về hướng Tân Điền. Ở khu vực điểm cao 235, 90, động Ông Do địch dùng chất nổ phá công sự, đốt nhà, dùng pháo bắn trùm lên chốt nghi binh, bí mật rút chạy. Thời cơ quét sạch quân thù, giải phóng hoàn toàn tỉnh Quảng Trị đã tới. Sở chỉ huy tiền phương phân công các đồng chí trong ban chỉ huy trực tiếp nắm các cánh quân truy kích địch.

Đồng chí Lương Chí Hiền - Chính trị viên Tỉnh đội chỉ huy các tiểu đoàn 812 bộ binh (thiếu một đại đội), tiểu đoàn 10 đặc công và đại đội 10 bộ binh chọc thẳng xuống hướng Mỹ Chánh.

Đồng chí Phạm Ngọc Vy, Tỉnh đội trưởng chỉ huy tiểu đoàn 8 bộ binh chọc thẳng xuống Hải Trường, Hải Thọ, Bến Đá cắt đường 1.

Phối hợp với hướng tiến công trên, đại đội 1 tiểu đoàn 812, đại đội 2 bộ đội địa phương Hải Lăng và các đội công tác chính trị chọc thẳng xuống tiểu khu Quảng Trị. Tiểu đoàn 14 bộ binh được tăng cường đại đội Lê Hồng Phong (Vĩnh Linh) vượt tuyến Như Lệ vượt qua Phước Môn, La Vang, Hải Thượng. Tiểu đoàn 3 bộ binh vượt tuyến Long Quang, Thanh Hội đánh vào trục đường-68 Hải Dương.

Thực hiện quyết tâm chiến đấu trên, đúng 23 giờ ngày 18-3-1975 trên tất cả các mũi, hướng quân ta đồng loạt tấn công địch, đến 18 giờ ngày 19-3-1975 giải phóng hoàn toàn phần đất và dân còn lại của Quảng Trị ghi thêm một mốc son chói lọi đánh dấu ngày quê hương sạch bóng quân thù sau 21 năm kiên trì và anh dũng chiến đấu.

Sau khi hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ ở Quảng Trị, chấp hành mệnh lệnh của Bộ Tư lệnh Quân khu, lực lượng vũ trang tỉnh chuyển hướng tấn công vào phối hợp chiến đấu với dân quân và Thừa Thiên - Huế.

Vào lúc này trên địa bàn tỉnh Thừa Thiên, với đòn tấn công thần tốc, táo bạo, đến ngày 25-3-1975 quân đoàn II đã hình thành hai hướng tiến công kẹp chặt quân địch ở Huế và cửa Thuận An.
Logged

Tự hào thay, mác búp đa
Khởi đầu những bản hùng ca lẫy lừng.
Thô sơ, gian khổ đã từng
Chính quy, hiện đại, không ngừng tiến lên.
Trang: « 1 2 3 4 5 6 7 8 9 »   Lên
  In  
 
Chuyển tới:  

Powered by MySQL Powered by PHP Powered by SMF 1.1.21 | SMF © 2006-2008, Simple Machines

Valid XHTML 1.0! Valid CSS! Dilber MC Theme by HarzeM