Lịch sử Quân sự Việt Nam
Tin tức: Lịch sử quân sự Việt Nam
 
*
Chào Khách. Bạn có thể đăng nhập hoặc đăng ký. 19 Tháng Tư, 2024, 03:07:47 pm


Đăng nhập với Tên truy nhập, Mật khẩu và thời gian tự động thoát


Trang: 1 2 3 4 5 6 7 8 9 »   Xuống
  In  
Tác giả Chủ đề: Lịch sử Quảng Trị kháng chiến chống Mỹ cứu nước (1954-1975)  (Đọc 2732 lần)
0 Thành viên và 2 Khách đang xem chủ đề.
macbupda
Trung tá
*
Bài viết: 11970


Lính của PTL


« vào lúc: 08 Tháng Chín, 2022, 08:33:32 am »

Tên sách: Lịch sử Quảng Trị kháng chiến chống Mỹ cứu nước (1954-1975)
Thường vụ Đảng ủy và Bộ chỉ huy quân sự tỉnh Quảng Trị
Năm xuất bản: 1998
Số hóa: macbupda


Chỉ đạo nội dung:

   THƯỜNG VỤ ĐẢNG ỦY VÀ
   BỘ CHỈ HUY QUÂN SỰ TỈNH


Chủ biên:

   Trung tá NGUYỄN VĂN HÓA

Biên soạn:
   
   TRẦN BIÊN - NGUYỄN VĂN HÓA

LỜI GIỚI THIỆU

Trong dịp kỷ niệm 50 năm ngày thành lập Quân đội nhân dân Việt Nam (22-12-1944 - 22-12-1994), chấp hành chủ trương của Thường vụ Tỉnh ủy, Bộ chỉ huy quân sự tỉnh Quảng Trị đã phát hành cuốn sơ thảo “Quảng Trị kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược (1945 -1954)” phổ biến rộng rãi trong lực lượng vũ trang nhân dân, nhằm góp phần giáo dục truyền thống cho cán bộ, chiến sĩ và đồng bào trong cả nước, đặc biệt là quê hương Quảng Trị vươn lên hoàn thành tốt nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.

Cùng với cuốn “Quảng Trị kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược (1945 - 1954)”, cuốn “Quảng Trị - lịch sử kháng chiến chống Mỹ cứu nước (1954 - 1975) "được xuất bản nhân dịp kỷ niệm lần thứ 53 cách mạng Tháng 8 và Quốc khánh 2-9 (2/9/1945 - 2/9/1998) hợp thành bộ sử chiến tranh, phản ảnh sự đóng góp của Đảng bộ và nhân dân Quảng Trị trong suốt 2 cuộc kháng chiến vĩ đại của dân tộc Việt Nam trong 30 năm dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam đứng đâu là Chủ tịch Hồ Chí Minh kính mến, đã cùng quân và dân trong cả nước đánh thắng 2 tên đế quốc Pháp và Mỹ, hoàn thành sự nghiệp giải phóng dân tộc, đưa, cả nước bước vào thời kỳ mới, thời kỳ xây dựng xã hội chủ nghĩa trên đất nước Việt Nam thống nhất, thời kỳ công nghiệp hóa - hiện đại hóa đất nước.

Cuốn sử ra mắt bạn đọc với sự đóng góp quý báu của Ban tuyên giáo tỉnh ủy, Ban nghiên cứu lịch sử, Phòng khoa học công nghệ và môi trường quân khu 4, các đồng chí cán bộ cách mạng lão thành, các tướng lĩnh, các nhà khoa học và toàn thể cán bộ, chiến sĩ, nhân dân đã trực tiếp chiến đấu trên quê hương Quảng Trị. Nhân dịp cuốn “Lịch sử Quảng Trị kháng chiến chống Mỹ cứu nước (1954 - 1975)” xuất bản, chúng tôi xin chân thành cảm ơn tất cả các tổ chức và cá nhân đã góp phần vào sự thành công của cuốn sử này. Tuy nhiên do trình độ nghiên cứu biên soạn có hạn, không sao tránh khỏi những thiếu sót.

Chúng tôi kính mong bạn đọc cùng đồng bào và chiến sĩ trong cả nước tiếp tục đóng góp nhiều ý kiến để có điều kiện xuất bản lần sau ngày càng hoàn thiện hơn.


THƯỜNG VỤ ĐẢNG ỦY
                                                                                                     
BỘ CHỈ HUY QUÂN SỰ TỈNH QUẢNG TRỊ
Logged

Tự hào thay, mác búp đa
Khởi đầu những bản hùng ca lẫy lừng.
Thô sơ, gian khổ đã từng
Chính quy, hiện đại, không ngừng tiến lên.
macbupda
Trung tá
*
Bài viết: 11970


Lính của PTL


« Trả lời #1 vào lúc: 08 Tháng Chín, 2022, 08:35:57 am »

Chương I

CỦNG CỐ HÒA BÌNH, XÂY DỰNG LỰC LƯỢNG
(1954-1960)

Sau chín năm trường kỳ kháng chiến, ngày 20/7/1954 hiệp định Giơnevơ về chấm dứt chiến tranh, lập lại hòa bình ở Đông Dương đã được ký kết. Các nước tham gia hội nghị long trọng tuyên bố tôn trọng độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ 3 nước: Việt Nam, Lào và Campuchia. Theo hiệp định này, quân đội nước ngoài phải rút khỏi Đông Dương và sau 2 năm kể từ ngày ký hiệp định sẽ tổ chức tổng tuyển cử tự do để thống nhất nước Việt Nam.

Trong thời gian chờ tổng tuyển cử, hiệp định đình chiến quy định: ở Việt Nam lấy vĩ tuyến 17 làm giới tuyến quân sự tạm thời để lực lượng vũ trang hai bên tập kết. Lực lượng quân đội nhân dân Việt Nam ở phía Bắc, lực lượng quân “Liên hiệp Pháp” ở phía Nam giới tuyến. Giới tuyến chỉ có tính chất tạm thời hoàn toàn không thể coi là một ranh giới về chính trị hoặc lãnh thổ. Nhưng với hiệp định này, sông Bến Hải của tỉnh Quảng Trị đã trở thành giới tuyến quân sự tạm thời ngăn cách hai miền đất nước. Theo hiệp định, thực dân Pháp phải rút hết quân khỏi Vĩnh Linh, còn lực lượng vũ trang ta từ bờ Nam sông trở vào tập kết ra miền Bắc.

Ngày 25-8-1954, tên lính Pháp cuối cùng rời khỏi Vĩnh Linh. Phía bắc sông Bến Hải gồm hầu hết huyện Vĩnh Linh được hoàn toàn giải phóng cùng với miền Bắc bước vào thời kỳ quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội. Một phần huyện Vĩnh Linh và các huyện còn lại của tỉnh Quảng Trị ở phía Nam vĩ tuyến 17 cùng với miền Nam biến thành thuộc địa kiểu mới của đế quốc Mỹ. Hai khu vực Vĩnh Linh - Quảng Trị cùng với cả nước làm hai nhiệm vụ chiến lược. Vừa tiến hành cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc, vừa tiến hành cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở miền Nam. Sự nghiệp đấu tranh giải phóng quê hương của nhân dân tỉnh ta chưa hoàn thành trọn vẹn.

Vốn có âm mưu xâm lược nước ta từ lâu, đế quốc Mỹ không chịu ký vào bản tuyên bố chung của Hội nghị Giơnevơ. Tổng thống Mỹ Axenhao còn trắng trợn tuyên bố “Mỹ không bị những hiệp nghị này ràng buộc”. Lo sợ sư thất bại của Pháp ở Việt Nam sẽ dẫn đến sự phát triển chủ nghĩa Cộng sản ở Đông Nam Á và Tây Thái Bình Dương, Mỹ ráo riết thực hiện việc hất cẳng Pháp, âm mưu chia cắt lâu dài đất nước ta, biến miền Nam Việt Nam thành căn cứ quân sự của chúng.

Từ đó trở đi cùng với cả nước, lực lượng vũ trang và nhân dân Quảng Trị một lần nữa lại vùng lên viết tiếp trang sử vẻ vang của mình - trang sử vàng chống Mỹ, cứu nước.

I. CỦNG CỐ HÒA BÌNH, KHÔI PHỤC VÀ PHÁT TRIỂN KINH TẾ XÃ HỘI,
XÂY DỰNG LỰC LƯỢNG VŨ TRANG, GIỮ VỮNG QUAN HỆ HAI MIỀN

Hai tuần lễ sau khi ký hiệp định Giơnevơ, ngày 3-8-1954, đại diện quân đội nhân dân Việt Nam và Pháp họp Hội nghị Trung Giả ký thỏa thuận về Ủy ban liên hợp. Ban liên hợp chiến trường Bình Trị Thiên ra đời từ hội nghị này, đến ngày 2-8-1955 được ban liên hợp Trung ương đổi thành ban liên hợp khu phi quân sự. Ngày 18/8/1954, Ủy ban liên hợp Trung ương ra quyết định số 06 nêu lên những nét lớn về việc vạch ranh giới giới tuyến quân sự tạm thời, việc phi quân sự hóa, tổ chức hai đội liên hợp cố định ở hai bờ Nam - Bắc giới tuyến, về số lượng Công an mỗi bên trong khu phi quân sự.

Giới tuyến quân sự tạm thời được quy định từ Đông sang Tây, từ cửa sông Bến Hải (Cửa Tùng) và dòng sông đó (ở miền núi sông này gọi là rào Thanh) đến làng Bồ Hồ Sừ biên giới Việt - Lào. Ranh giới khu phi quân sự mỗi bên xa nhất 5km. Khu phi quân sự phía Bắc gồm các xã: Vĩnh Sơn, Vĩnh Hòa, Vĩnh Thành, Vĩnh Giang, Vĩnh Quang và Hướng Lập.

Đường ranh giới Bắc và Nam khu phi quân sự được đánh dấu bằng các cọc gỗ đặt những nơi dễ nhận thấy có ghi “Khu phi quân sự”. Từ biển lên phía Tây mỗi bên đóng 150 cột, mỗi cột cách nhau 20 mét. Cách 12km đóng hai đồn cảnh sát và công an đối diện nhau. Từ Cửa Tùng đến Hói Cụ có 10 đồn. Bản quy chế quy định: Nhiệm vụ của công an và nhân viên hành chính là bảo đảm an ninh trật tự và tôn trọng quy chế trong vùng mình quản lý. Tổng số mỗi đội công an tối đa là 100 người được trang bị 50 súng ngắn, số còn lại 1/3 súng cácbin, hai phần ba tiểu liên, không có lựu đạn. Mỗi khẩu tiểu liên hoặc cácbin 200 viên đạn, súng ngắn 50 viên. Tuyệt đối cấm nhân dân ra vào khu phi quân sự, dọc giới tuyến quy định 10 địa điểm được phép qua lại: Đó là cầu Hiền Lương và 9 bến đò: Cửa Tùng - Cát Sơn; Tùng Luật - Xuân Mỵ; Phước Lý - Bạch Lộc; Chòi - Xuân Long; Hiền Lương - Xuân Hòa; Huỳnh Thượng - Võ Xá; Tiên An - Kinh Môn; Minh Hương - Hói Cụ và Bến Tắt - Cẩm Sơn.
Logged

Tự hào thay, mác búp đa
Khởi đầu những bản hùng ca lẫy lừng.
Thô sơ, gian khổ đã từng
Chính quy, hiện đại, không ngừng tiến lên.
macbupda
Trung tá
*
Bài viết: 11970


Lính của PTL


« Trả lời #2 vào lúc: 08 Tháng Chín, 2022, 08:37:39 am »

Một đồn kiểm soát liên hợp đặt tại Cửa Tùng, một tuần bờ phía Bắc và một tuần bờ phía Nam, quân số mỗi đồn gồm hai chỉ huy và ba chiến sĩ hoặc hai chỉ huy sáu nhân viên làm nhiệm vụ từ sáu giờ đến 21 giờ (giờ Sài Gòn). Mỗi bên đều có một sổ kiểm soát ghi nội dung như nhau, mỗi ngày đồn trưởng xác nhận một lần và ký tên đóng dấu. Sau một tuần đổi vị trí một lần, hai đồn trưởng lập biên bản chứng kiến việc thay nhau kiểm soát ở liên hợp. Tuy vậy, từ tháng 7-1954 đến tháng 2-1955 ta và Pháp chưa kiểm soát trong khu phi quân sự.

9 giờ 30 phút ngày 25-8-1954, đồng chí Ngô Tiến Quân - sĩ quan liên lạc đại diện ban liên hợp chiến trường Bình Trị Thiên cùng đại úy Delatin, đại diện quân đội Pháp ký biên bản chấm dứt sự tồn tại của quân Pháp và bọn tay sai ở Vĩnh Linh đồng thời hoàn thành việc rút quân khỏi khu phi quân sự. Vĩnh Linh được hoàn toàn giải phóng.

Ngày 2-9-1954 Huyện ủy, ủy ban kháng chiến hành chính huyện Vĩnh Linh tổ chức cuộc mít tinh trọng thể tại sân vận động Trạng Cù có đông đảo các tầng lớp nhân dân và lực lượng quân đội Trung đoàn 95, Trung đoàn 270 tham gia chào mừng quốc khánh nước Việt Nam dân chủ cộng hòa và quê hương giải phóng. Để thực hiện nhiệm vụ bảo vệ giới tuyến, ngày 14-8-1954, đội công an được thành lập gồm 100 cán bộ chiến sĩ lựa chọn từ các đại đội 354, 340, 348 của Gio Linh, Cam Lộ, Vĩnh Linh do đồng chí Trần Tình làm đội trưởng, đồng chí Lê Văn Bản (ủy viên thường vụ Huyện ủy Vĩnh Linh) làm chính trị viên.

Ngày 7-11-1954, Bộ tư lệnh Quân khu 4 ra quyết định thành lập đại đội 2 công an giới tuyến do đồng chí Nguyễn Bang làm đại đội trưởng, đồng chí Trần Hữu Thanh (nguyên cán bộ Ty công an Thừa Thiên) làm chính trị viên. Cán bộ chiến sĩ được lựa chọn từ hai đại đội 269 và 271 của Trị Thiên tập kết, đơn vị đã được Đại tướng Võ Nguyên Giáp trực tiếp chỉ thị nhiệm vụ tại Vinh (Nghệ An) nhân dịp kỷ niệm ngày thành lập quân đội (22-12). Cuối tháng 12-1954, đơn vị về nhận nhiệm vụ tại Vĩnh Linh. Các đơn vị khác làm nhiệm vụ bảo vệ nội địa, biên giới, bờ biển ở Vĩnh Linh còn có đại đội 6 thuộc Trung đoàn 270 bảo vệ bờ biển, đơn vị quan sát bờ biển Vịnh Mốc, đại đội 4 thuộc công an Vĩnh Linh làm nhiệm vụ cảnh vệ, đại đội 354 thuộc huyện đội Vĩnh Linh đảm nhiệm vùng biên giới miền tây.

Ngày 5-9-1954, Bộ chính trị ra Nghị quyết về “Tình hình mới, nhiệm vụ mới và chính sách mới của Đảng”. Nghị quyết nhấn mạnh nhiệm vụ trước mắt của quân và dân hai miền Nam - Bắc là đấu tranh thực hiện hiệp định Giơnevơ, ra sức củng cố miền Bắc, giữ vững và đẩy mạnh cuộc đấu tranh chính trị của nhân dân miền Nam nhằm củng cố hòa bình, thực hiện thống nhất hoàn thành độc lập và dân chủ trong toàn quốc.

Giữa tháng 9-1954 tại chợ Tro (Nghệ An), Khu ủy Liên khu 4 triệu tập hai ban Tỉnh ủy Quảng Trị và Thừa Thiên để phổ biến nghị quyết của Bộ chính trị. Đồng thời hội nghị còn kiểm điểm lại việc củng cố Đảng sau ngày có hiệp định, đề ra nhiệm vụ lãnh đạo việc khôi phục các mặt sinh hoạt bình thường của nhân dân sau ngày giải phóng.

Dưới sự lãnh đạo tập trung thống nhất của Ban chấp hành Trung ương Đảng, trực tiếp là Tỉnh ủy Quảng Trị, quân và dân ta ở hai bờ giới tuyến khẩn trương củng cố sắp xếp lại lực lượng chuẩn bị bước vào cuộc đấu tranh mới.

Ở Vĩnh Linh do sự thống trị lâu dài của đế quốc phong kiến và hậu quả chiến tranh, tình hình kinh tế xã hội có nhiều khó khăn phức tạp, nông nghiệp lạc hậu, công nghiệp hầu như không có gì, thị trấn, nông thôn bị chiến tranh tàn phá nặng hề, tiêu điều xơ xác. Đời sống nhân dân vô cùng cực khổ, cơm không đủ ăn, áo không đủ mặc, 90% số dân mù chữ. Trước khi rút quân khỏi Vĩnh Linh giặc Pháp còn âm mưu phá hoại gây thêm nhiều khó khăn cho nhân dân ta khi tiến hành phục hồi sản xuất.

Ngay sau khi hòa bình được lập lại, quán triệt Nghị quyết của Đảng, Đảng bộ nhân dân Vĩnh Linh quyết tâm xây dựng huyện nhà thành một huyện điển hình của chế độ xã hội chủ nghĩa, quyết làm cho “Đời sống nhân dân Vĩnh Linh phải hơn bên kia bờ sông Bến Hải”.

Do điều kiện bị chia cắt, để tăng cường sự lãnh đạo tập trung thống nhất theo yêu cầu nhiệm vụ mới, ngày 28/5/1955, Ban chấp hành Trung ương Đảng ra nghị quyết số 16 thành lập Đảng ủy khu vực Vĩnh Linh. Đồng chí Lê Thanh Liêm, nguyên ủy viên thường vụ Tỉnh ủy Quảng Trị được cử làm Bí thư Đảng ủy khu vực.

Ngày 16/6/1955, Thủ tướng Chính Phủ ra Nghị định số 551/TTg thành lập đặc khu Vĩnh Linh. Nghị định nêu rõ: “Khu Vĩnh Linh thuộc tỉnh Quảng Trị từ nay được tổ chức thành một đơn vị hành chính riêng ngang với một tỉnh dưới sự chỉ đạo trực tiếp của Chính phủ Trung ương”.

Ủy ban hành chính khu vực được thành lập do đồng chí Hoàng Đức Sản làm Chủ tịch. Sự chỉ đạo kịp thời và sâu sát của Trung ương đã giúp cho Vĩnh Linh nhanh chóng ổn định đời sống và vững bước đi lên.

Tình hình ngày càng phức tạp, Mỹ - Diệm ngày càng trắng trợn vi phạm hiệp định Giơnevơ, khu vực Vĩnh Linh trở thành trọng điểm phá hoại của địch. Trước tình hình đó, tháng 5/1955, Thường vụ Đảng ủy Vĩnh Linh họp quán triệt chủ trương của liên khu đối với khu vực giới tuyến. Hội nghị chủ trương: Thực hiện đấu tranh chính trị, dựa vào pháp lý hiệp định tạo ra nhiều hình thức đấu tranh phong phú. Hội nghị bàn biện pháp phối hợp hành động giữa nhân dân, lực lượng vũ trang khu vực với các đơn vị của trung đoàn 270, tiểu đoàn 57.
Logged

Tự hào thay, mác búp đa
Khởi đầu những bản hùng ca lẫy lừng.
Thô sơ, gian khổ đã từng
Chính quy, hiện đại, không ngừng tiến lên.
macbupda
Trung tá
*
Bài viết: 11970


Lính của PTL


« Trả lời #3 vào lúc: 08 Tháng Chín, 2022, 08:39:17 am »

Việc xây dựng lực lượng vũ trang địa phương được đặc biệt quan tâm. Cuối năm 1955, Huyện đội được tăng cường cán bộ. Tổng quân ủy Trung ương quyết định thành lập tiểu đoàn 25 bảo vệ giới tuyến trực thuộc quân khu 4 tăng cường cho Vĩnh Linh do đồng chí Vân Hùng (Đoàn Quang Đán) làm tiểu đoàn trưởng, đồng chí Lưu Quế Ngữ làm chính trị viên.

Năm 1955, toàn khu vực Vĩnh Linh có 1731 người tham gia lực lượng dân quân tự vệ. Đến cuối năm 1957, ngoài những đơn vị chủ lực gồm: (trung đoàn 270, tiểu đoàn 57 phòng không phối hợp, tiểu đoàn 25 công an nhân dân vũ trang bảo vệ giới tuyến), lực lượng dân quân tự vệ của Vĩnh Linh đã lên đến 3084 người. Trước những âm mưu và thủ đoạn của kẻ thù, thực hiện chủ trương của liên khu và thường vụ Đảng ủy khu vực Vĩnh Linh, nhân dân và lực lượng vũ trang đã có nhiều hoạt động đấu tranh phong phú.

Thể theo nguyện vọng của nhân dân và cán bộ chiến sĩ ta ở hai bờ Nam - Bắc sông Bến Hải, việc xây dựng và bảo vệ cột cờ Hiền Lương để đấu tranh với địch là cả một kỳ công lớn. Tháng 10/1954, ta dựng cột cờ cao 12 mét. Bọn địch dựng cột cờ ở bờ Nam cao hơn. Ta lại dựng cột cờ cao 18 mét. Cột cờ của chúng đặt trên nóc lô cốt Xuân Hòa cao 25 mét. Đồng bào và chiến sĩ nhất thiết không chịu thua bọn chúng. Ngày 19/7/1957, ta xây trụ cờ bằng sắt cao 34,5 mét. Bọn địch lại nâng cột cờ của chúng lên 35 mét. Năm 1962, Chính phủ ta lại cho nâng cấp trụ cờ vì vậy cột cờ ta cao 38,6 mét, cao hơn hẳn cờ ngụy. Lá cờ rộng 108 mét vuông bay phấp phới trên bầu trời bờ Bắc sông Bến Hải là biểu tượng cho ý chí quyết chiến quyết thắng, cho độc lập tự do, thống nhất Tổ quốc, làm nức lòng nhân dân hai miền Nam - Bắc. Đồng bào ta ở Cồn Tiên, Dốc Miếu, Cam Lộ, Gio Linh hằng ngày luôn hướng về lá cờ đỏ sao vàng nơi giới tuyến với tấm lòng son sắt thủy chung và niềm tin yêu hy vọng.

Để chống lại các hoạt động về chiến tranh tâm lý của địch, công tác tuyên truyền giáo dục được Đảng uỷ khu vực đặc biệt chú trọng. Cùng với các mặt hoạt động khác về văn hóa giáo dục như xây dựng phòng thông tin, nhà triển lãm, câu lạc bộ, đội chiếu bóng, nhân dân Vĩnh Linh còn xây dựng hệ thống truyền thanh dài 10 km dọc giới tuyến với hàng chục cột bắc loa phóng thanh có công suất lớn chĩa sang bờ Nam để tuyên truyền chủ trương chính sách của Đảng.

Mặt khác chúng ta còn tổ chức 3 cửa khẩu ở Thủy Ba.,Hiền Lương và Mũi Si để đi lại buôn bán, xuất nhập khẩu hàng hóa và làm công tác công khai vận động quần chúng. Từ cuối năm 1955 đến hết năm 1956 việc đi lại buôn bán trao đổi có bị gián đoạn vì bị địch kiểm soát gắt gao. Năm 1957, do ta có sai lầm trong cải cách ruộng đất, địch lợi dụng để tuyên truyền xuyên tạc nhằm chia rẽ Đảng với nhân dân. Chúng chủ trương thông qua kinh tế để chống phá ta về chính trị nên lại mở rộng buôn bán trao đổi để từ đó tăng cường hoạt động gián điệp nắm tình hình. Chúng tung nhiều toán gián điệp biệt kích qua giới tuyến đồng thời quản lý chặt chẽ sự đi lại giữa hai miền. Lợi dụng danh nghĩa chuyến quân tập kết, chúng cưỡng bức hơn hai trăm người từ các nơi trên miền Bắc qua giới tuyến di cư vào Nam. Nắm được âm mưu đó, ta chủ động và khôn khéo cử phái đoàn phụ nữ vận động thuyết phục ngụy binh. Kết quả đã có 180 người trở về quê hương trong đó cơ quan chức năng đã phát hiện được 12 tên gián điệp.

Theo hiệp định Giơnevơ, sau khi ngừng bắn, thời gian tập kết và chuyển quân giữa hai miền được quy định là 300 ngày. Bị địch cưỡng ép và dụ dỗ 5252 người trên miền Bắc đổ dồn về Vĩnh Linh để vượt tuyến vào Nam, chủ yếu là đồng bào theo đạo thiên chúa, ở Vĩnh Linh một số linh mục cực kỳ phản động đã dụ dỗ 7.164 người trong tổng số 7.700 người theo đạo di cư vào Nam.

Trước tình hình đó, Trung ương Đảng chủ trương coi chống địch cưỡng ép dân di cư vào Nam là công tác quan trọng cấp bách. Chỉ thị 272 của Trung ương khẳng định: Công tác này là một công tác đột xuất quan trọng bậc nhất trong một thời gian nhất định. Nếu không giải quyết được nó thì mọi công tác khác không giải quyết được.

Thực hiện chủ trương của Trung ương, ngày 18/7/1955, Đảng ủy khu vực Vĩnh Linh đề ra biện pháp chống địch dụ dỗ cưỡng ép đồng bào di cư vào Nam coi đó là một nhiệm vụ quan trọng cấp bách và chỉ rõ: Phải tăng cường chỉ đạo, tập trung lực lượng, đẩy mạnh việc tranh thủ quần chúng giáo dân, tích cực đấu tranh phá âm mưu của địch với ba yêu cầu cụ thể:

- Ổn định tư tưởng quần chúng giáo dân, tranh thủ đại đa số ở lại làm cho mọi người thực sự yên tâm.

- Tổ chức cho đi đúng mức, không để địch lợi dụng và vu cáo ta vi phạm hiệp định.

- Tiếp tục tấn công địch, tố cáo vạch trần âm mưu của chúng.

Đảng ủy đã thành lập “Ban chống cưỡng ép di cư” và huy động lực lượng cán bộ, bộ đội bám trụ từng cơ sở trong nhân dân để tuyên truyền giáo dục vận động. Kết quả đã vận động được 30 gia đình và 60 người khác trở lại quê hương, đồng thời tổ chức viết 2160 lá đơn tố cáo âm mưu của địch phá hoại hiệp định gửi lên Ủy ban Quốc tế.
« Sửa lần cuối: 10 Tháng Chín, 2022, 02:52:37 pm gửi bởi macbupda » Logged

Tự hào thay, mác búp đa
Khởi đầu những bản hùng ca lẫy lừng.
Thô sơ, gian khổ đã từng
Chính quy, hiện đại, không ngừng tiến lên.
macbupda
Trung tá
*
Bài viết: 11970


Lính của PTL


« Trả lời #4 vào lúc: 08 Tháng Chín, 2022, 08:40:51 am »

Cùng với việc chống địch cưỡng ép di cư, Đảng ủy và nhân dân khu vực Vĩnh Linh đã thành lập ban đón tiếp đồng bào miền Nam tập kết. Chỉ trong một thời gian ngắn, trên 5.000 đồng bào, cán bộ, chiến sĩ miền Nam tập kết ra Bắc ở lại Vĩnh Linh đã được Đảng bộ, chính quyền và nhân dân địa phương đón tiếp chu đáo với tình cảm Nam - Bắc ruột thịt. Nhân dân Vĩnh Linh đã nhường cơm, xẻ áo giúp đồng bào miền Nam tập kết nhanh chóng ổn định nơi ăn chốn ở, an tâm tư tưởng đẩy mạnh sản xuất, công tác góp phần xây dựng quê hương. Thành tích này đã có ảnh hưởng tốt đối với đồng bào miền Nam, vào chính sách quan hệ hai miền của Đảng và Nhà nước ta.

Tháng 7/1955, được chủ Mỹ bật đèn xanh, Diệm trắng trợn tuyên bố “Không có hiệp thương tổng tuyển cử”. Sau khi toàn bộ quân Pháp rút hết khỏi miền Nam Việt Nam, Mỹ - Diệm đưa lực lượng cảnh sát ra thay thế ở khu phi quân sự. Ở bờ nam giới tuyến địch tăng cường đàn áp khủng bố. Ở bờ bắc Vĩnh Linh chúng đẩy mạnh khiêu khích, phá hoại, phô trương lực lượng và đe dọa miền Bắc bằng nhiều cuộc diễn tập trong khu phi quân sự.

Trước tình hình đó, nhiệm vụ bảo vệ giới tuyến, bảo vệ Vĩnh Linh đặt ra cho nhân dân và lực lượng vũ trang rất nặng nề. Ngày 16/6/1957 một vinh dự lớn đến với nhân dân và cán bộ, chiến sĩ Quảng Bình, Vĩnh Linh: Hồ Chủ tịch vào thăm vùng giới tuyến. Nhưng do tình hình phức tạp, Bác không vào được Vĩnh Linh, gặp đại diện của Quảng Bình và - Vĩnh Linh Bác ân cần căn dặn: “Quảng Bình cùng với Vĩnh Linh ở tuyến đầu miền Bắc tiếp giáp miền Nam... Nếu kẻ địch có hành động liều lĩnh gì thì Quảng Bình và Vĩnh Linh phải đương đầu với chúng trước hết. Các cô, các chú phải chăm lo xây dựng lực lượng vũ trang nhất là dân quân tự vệ...”

Thực hiện lời căn dặn của Bác, công tác tổ chức, bố trí lực lượng bước đầu của các đơn vị trên địa bàn Vĩnh Linh vừa bảo đảm phòng thủ tại chỗ, vừa sẵn sàng cơ động khi có tác chiến xảy ra. Tiểu đoàn 25 đổi thành tiểu đoàn 41, từ chỗ 4 đại đội được tăng cường lên 7 đại đội, sau đó đổi thành khu 41. Huyện đội Vĩnh Linh được tăng cường thêm cán bộ bảo đảm số lượng và chất lượng. Lực lượng dân quân các xã được biên chế thành tiểu đội, trung đội, có xã tổ chức đến đại đội, mỗi tiểu đội được trang bị từ 5 đến 6 súng trường. Thực hiện nghị quyết 12 của Trung ương về xây dựng quân đội và củng cố quốc phòng, xây dựng lực lượng dự bị hùng hậu, quân khu đẩy mạnh xây dựng toàn diện lực lượng vũ trang trong đó lấy công tác huấn luyện làm trung tâm, chú trọng các phương thức tác chiến cho mỗi loại địa hình.

Cuối năm 1958, trung đoàn 270, tiểu đoàn 41 tổ chức diễn tập phòng thủ huấn luyện chiến thuật phòng ngự cùng dân quân các địa phương, chú trọng rèn luyện năng lực chỉ huy của cán bộ. Lãnh đạo chỉ huy huyện đội được bồi dưỡng về công tác quân sự địa phương, đồng thời tổ chức huấn luyện về trình độ chỉ huy kỹ thuật, chiến thuật đến tiểu đội và cá nhân.

Cùng với huấn luyện quân sự, công tác giáo dục chính trị cũng được tiến hành đồng bộ nhằm nâng cao nhận thức cho lực lượng vũ trang về đường lối cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc, về nhiệm vụ cách mạng miền Nam, đường lối quân sự của Đảng, về quan điểm chiến tranh nhân dân, quốc phòng toàn dân...

Để đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ mới của cách mạng, chấp hành nghị quyết số 58 của Bộ chính trị và chỉ thị 100/TTg của Thủ tướng Chính phủ, ngày 25/4/1959, Bộ công an ra quyết định về việc thành lập công an nhân dân vũ trang Vĩnh Linh. Đảng bộ khu 41 chuyển từ trực thuộc Quân khu ủy 4 sang trực thuộc Đảng ủy đặc khu Vĩnh Linh. Ban chỉ huy đầu tiên do thiếu tá Vân Hùng (Đoàn Quang Đán) làm chỉ huy trưởng, đại úy Nguyễn Xuân Thông làm chính trị viên. Kể từ đây công an nhân dân vũ trang Vĩnh Linh do Bộ công an quản lý, huấn luyện và chỉ đạo.

Các cơ quan quân sự địa phương cấp tỉnh, huyện, xã thống nhất tên gọi là Tỉnh đội, Huyện đội, Xã đội. Riêng Vĩnh Linh gọi là Khu đội trực thuộc quân khu 4.

Tháng 5/1959, sau khi có Nghị quyết 15 của Trung ương Đảng ra đời, Tỉnh ủy và ủy ban mặt trận dân tộc giải phóng tỉnh Quảng Trị chọn Vĩnh Linh làm hậu phương trực tiếp. Với tình cảm anh em ruột thịt, vì quê hương Quảng Trị thân yêu, Đảng bộ, nhân dân và lực lượng vũ trang Vĩnh Linh đã làm hết sức mình cho ngày vui sum họp.

Để bảo vệ trọn vẹn chủ quyền lãnh thổ, ngày 8/8/1959, một trung đội bộ binh thuộc trung đoàn 270 do thiếu úy Dương Đức Thiện chỉ huy, bằng thuyền buồm đã vượt sóng gió ra cắm cờ lên đảo Cồn Cỏ, khẳng định chủ quyền của ta trước quân ngụy Sài Gòn một tiếng đồng hồ. Đây là một thắng lợi vừa có ý nghĩa chính trị vừa quan trọng về quân sự. Ngày 8/8 trở thành ngày truyền thống của đảo Cồn Cỏ anh hùng.

Năm 1959, thực hiện phong trào thi đua “Ba nhất” do Quân ủy Trung ương phát động:

- Nhất về huấn luyện quân sự, rèn luyện kỹ, chiến thuật

- Nhất về gương mẫu giữ gìn kỷ luật

- Nhất về lao động sản xuất.

Khắp nơi lực lượng vũ trang đã hưởng ứng nhiệt liệt. Nhiều điển hình tập thể “Ba nhất”, cá nhân “ba nhất” đã xuất hiện. Tiêu biểu cho phong trào này là đại đội 3 mang tên Lê Hồng Phong thuộc trung đoàn 270 đã được Chính phủ tặng thưởng huân chương chiến công hạng nhất.

Tháng 4/1960, luật nghĩa vụ quân sự được ban hành. Xác định rõ trách nhiệm và nghĩa vụ của mình, ở Vĩnh Linh đã có hàng trăm thanh niên ghi tên tình nguyện tham gia nghĩa vụ quân sự. Đồng thời số quân nhân được phục viên xuất ngũ hoặc chuyển ngành ra các cơ quan, xí nghiệp, nông trường của Nhà nước hay về địa phương đều đăng ký vào lực lượng dự bị động viên. Lực lượng này được Khu đội quản lý chặt chẽ và thường xuyên huấn luyện quân sự để khi cần bổ sung cho đội quân thường trực được ngay.
« Sửa lần cuối: 09 Tháng Chín, 2022, 10:44:07 pm gửi bởi macbupda » Logged

Tự hào thay, mác búp đa
Khởi đầu những bản hùng ca lẫy lừng.
Thô sơ, gian khổ đã từng
Chính quy, hiện đại, không ngừng tiến lên.
macbupda
Trung tá
*
Bài viết: 11970


Lính của PTL


« Trả lời #5 vào lúc: 08 Tháng Chín, 2022, 08:42:04 am »

Để làm tốt nhiệm vụ phòng thủ, Quân khu 4 chủ trương thực hiện kế hoạch tổ chức chiến trường. Vĩnh Linh khu vực giới tuyến là một trong những khu vực trọng yếu được quân khu quan tâm chỉ đạo sâu sát nhất. Tại các vị trí xung yếu từ Cửa Tùng đến biên giới phía Tây dọc theo sông Bến Hải, quân và dân Vĩnh Linh đã đóng góp hàng ngàn ngày công xây dựng hơn 100 công trình quốc phòng như hầm hào, công sự, đài quan sát, kho tàng, bến bãi...

Chấp hành chỉ thị của Ban bí thư và Quân ủy Trung ương, Đảng bộ, chính quyền khu vực Vĩnh Linh tập trung chỉ đạo bộ đội, công an nhân dân vũ trang, dân quân tự vệ và nhân dân tăng cường cảnh giác sẵn sàng chiến đấu, bình tĩnh không để bị địch khiêu khích, đồng thời phải hoàn chỉnh các phương án kịp thời đánh trả địch khi có lệnh. Dưới sự lãnh đạo của Đảng bộ, quân và dân Vĩnh Linh quyết tâm xây dựng quê hương thành pháo đài chiến đấu vững mạnh dựa lưng vào tỉnh Quảng Bình, bảo đảm tuyến phòng thủ có tiền duyên mạnh, trung thâm sâu, hậu phương chiến dịch vững chắc, ở phía đông, trọng điểm là các cửa sông, bãi biển, đảo Cồn Cỏ và những nơi trên bờ có thể địch đổ bộ triển khai lực lượng binh khí kỹ thuật...

Mọi người dân Vĩnh Linh đều xác định cho mình trách nhiệm vừa sản xuất giỏi, vừa tăng cường cảnh giác sẵn sàng chiến đấu cao, từng bước nâng cao đời sống vật chất tinh thần cho nhân dân và các lực lượng vũ trang, vừa thể hiện được chế độ xã hội chủ nghĩa ưu việt của miền Bắc, vừa là một hậu phương chiến lược, chiến dịch trực tiếp của chiến trường Trị Thiên.

*
*   *

Cùng với nhiệm vụ xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ vững chắc vùng giới tuyến, kết hợp giữa quan điểm đánh địch từ xa và tinh thần xả thân vì quê hương Quảng Trị thân yêu, dưới sự lãnh đạo của Khu ủy, quân và dân Vĩnh Linh luôn luôn dành cho nhân dân bờ Nam sự chi viện hết lòng và đây hiệu quả. Đặc khu ủy và Tỉnh ủy Quảng Trị có sự phối hợp chặt chẽ thống nhất chủ trương biện pháp lãnh đạo, chỉ đạo. Chính nhờ vậy mà giữa hậu phương và tiền tuyến luôn giữ được mối quan hệ khăng khít suốt cuộc hành trình chống Mỹ, cứu nước.

Bằng sự nhạy cảm chính trị và tầm nhìn chiến lược sáng suốt, thực hiện chủ trương của Đảng, ngay sau khi có hiệp định Giơnevơ, Vĩnh Linh đã chủ trương mở các con đường liên lạc hợp pháp và bất hợp pháp nối liền giữa miền núi, đồng bằng ven biển, giữa Vĩnh Linh với Gio Linh và Liên khu 5 để đưa cán bộ ra vào hoạt động xây dựng cơ sở, xây dựng phong trào với tinh thần “Ngày Bắc đêm Nam”. Tuyến ven biển từ Cửa Tùng qua Cửa Việt đến Thuận An vào Liên khu 5 đã đưa đón hàng trăm cán bộ cốt cán qua lại hoạt động. Tuyến này tồn tại cho đến ngày toàn thắng. Tuyến miền núi từ Bãi Hà vào Gio Linh qua Cam Lộ, Triệu Phong... vào Liên khu 5 và sau này sát nhập vào đường Hồ Chí Minh.

Cuối năm 1958 đầu năm 1959, Mỹ - Diệm đưa quân đến Hướng Lập (Hướng Hóa) cấu kết với bọn phản động Lào, gây khiêu khích tranh chấp ranh giới. Một số phần tử xấu trong dân tộc Vân Kiều bị địch dụ dỗ, mua chuộc theo chúng chống lại ta. Để tránh gây xung đột căng thẳng, dưới sự chỉ đạo của Quân khu và Đảng ủy khu vực, đại đội 3 tiểu đoàn 41 thuộc lực lượng vũ trang Vĩnh Linh đã dựa vào nhân dân đấu tranh bằng lý lẽ thẳng thắn, tôn trọng chủ quyền biên giới lãnh thổ buộc quân ngụy và bọn phản động Lào phải rút về, giữ vững an ninh chính trị trong khu vực ba biên giới.

Để kịp thời đáp ứng nhu cầu cán bộ cho chiến trường miền Nam, Khu ủy Vĩnh Linh đã mở nhiều lớp đào tạo phục vụ cho trước mắt và lâu dài.

Sau khi có Nghị quyết 15 của Trung ương, Vĩnh Linh chủ trương thành lập các đội công tác sang bờ Nam hoạt động. Tháng 1/1959, Ban 8 được thành lập có nhiệm vụ tìm cách móc nối liên lạc với các tổ chức Đảng trong vùng địch, nắm bám dân xây dựng cơ sở. Bộ phận này xuất phát từ Vĩnh Ô, Vĩnh Trường vượt tuyến bắt liên lạc với Huyện ủy Hướng Hóa, Cam Lộ.

Đầu năm 1960, trước yêu cầu phát triển của chiến trường, Vĩnh Linh đã tổ chức 4 đội trinh sát chính trị sang bờ Nam hoạt động. Đội K1 gây dựng cơ sở và phong trào ở khu đông vùng Gio Linh, Đông Hà, Cửa Việt. Đội K2 hoạt động ở khu tây Gio Linh, Cam Lộ. Đội K3 ở đường 9, Ba Trăng, Đầu Mầu. Đội K4 vùng Khe Sanh và lân cận. Các đội hoạt động độc lập dưới sự chỉ đạo của cấp ủy Đảng Gio Linh, Cam Lộ, Hướng Hóa. Với phương châm hoạt đồng “Xuất quỷ nhập thần”, bí mật bất ngờ, các đội đã nhiều phen làm cho bọn địch khiếp vía kinh hồn, nhiều tên ác ôn có nợ máu với nhân dân phải đền tội.

Trên tuyến biển, công an nhân dân vũ trang Vĩnh Linh phối hợp với dân quân du kích tổ chức đội thuyền B6 vượt tuyến đưa cán bộ vào ra hoạt động sau lưng địch.

Dựa vào sự giúp đỡ và che chở của nhân dân, các đội đã thực hiện tốt nhiệm vụ bảo vệ cán bộ, xây dựng cơ sở, diệt ác phá kìm, mở đường đưa đón cán bộ và các lực lượng vũ trang từ Bắc vào Nam hoạt động.
Logged

Tự hào thay, mác búp đa
Khởi đầu những bản hùng ca lẫy lừng.
Thô sơ, gian khổ đã từng
Chính quy, hiện đại, không ngừng tiến lên.
macbupda
Trung tá
*
Bài viết: 11970


Lính của PTL


« Trả lời #6 vào lúc: 08 Tháng Chín, 2022, 08:43:31 am »

*
*   *

Cùng với nhiệm vụ xây dựng lực lượng vũ trang, củng cố an ninh quốc phòng, đấu tranh thi hành hiệp định Giơnevơ, bảo vệ quy chế khu phi quân sự, thực hiện quan hệ Nam - Bắc... thực hiện chủ trương của Đảng, Đảng bộ và nhân dân Vĩnh Linh còn ra sức củng cố và xây dựng về chính trị, kinh tế, văn hóa xã hội, chủ yếu là cải thiện nâng cao đời sống của nhân dân.

Từ năm 1955, Đảng bộ Vĩnh Linh đã lãnh đạo nhân dân khôi phục và phát triển kinh tế văn hóa, đẩy mạnh công cuộc cải tạo xã hội chủ nghĩa và xây dựng chủ nghĩa xã hội.

Thực hiện chủ trương giảm tô và cải cách ruộng đất của Trung ương, cuối năm 1955 toàn khu vực đã hoàn thành cuộc vận động giảm tô đợt 8 và bước vào thực hiện cải cách ruộng đất đợt 5. Đến giữa năm 1956 cuộc vận động cải cách ở Vĩnh Linh căn bản đã hoàn thành và giành thắng lợi hết sức to lợn: Đánh đổ toàn bộ giai cấp địa chủ, phong kiến, trưng thu 2942 mẫu ruộng, 1137 con trâu bò, 323 cái nhà và nhiều tài sản khác chia cho dân nghèo. Đây là một cuộc cách mạng có ý nghĩa chính trị sâu sắc. Các tầng lớp nhân dân đặc biệt là giai cấp nông dân vô cùng phấn khởi. Mơ ước bao đời của người nông dân Vĩnh Linh được có ruộng cày, được tự do làm chủ vận mệnh của mình đã thành hiện thực. Tuy nhiên, trong quá trình thực hiện do chỉ đạo không sát đặc điểm tình hình nên đã phạm phải một số sai lầm nghiêm trọng. Tại Hội nghị Trung ương lần thứ 10, tháng 9/1956, Đảng ta đã khẳng định thắng lợi quan trọng của cải ruộng đất, đồng thời nghiêm khắc kiểm điểm những sai lầm thiếu sót và đề ra những biện pháp sửa chữa kịp thời. Đảng bộ và nhân dân Vĩnh Linh rất vinh dự được đồng chí Nguyễn Chí Thanh, ủy viên Bộ chính trị, vào trực tiếp chỉ đạo công tác sửa sai trong cải cách ruộng đất. Nhờ vậy, công việc sửa sai ở Vĩnh Linh kết thúc nhanh gọn, bảo đảm chủ trương chính sách của Đảng, được nhân dân đồng tình ủng hộ. Cải cách ruộng đất thành công là một thắng lợi có ý nghĩa chiến lược trong cách mạng dân tộc dân chủ ở Vĩnh Linh.

Cùng với cuộc cải cách ruộng đất, Đảng bộ và nhân dân Vĩnh Linh tiến hành thực hiện kế hoạch khôi phục và phát triển kinh tế văn hóa. Từ năm 1955 đến năm 1957 toàn khu vực dấy lên phong trào thi đua hàn gắn vết thương chiến tranh, khôi phục và phát triển kinh tế xã hội, củng cố an ninh quốc phòng. Dưới sự lãnh đạo của Đảng bộ khu vực, nhân dân và các lực lượng vũ trang tập trung vào việc phục hồi và phát triển nông nghiệp với phong trào khai hoang phục hóa “tấc đất, tấc vàng”, phát triển ngành nghề tiểu thủ công nghiệp, đánh bắt hải sản, sửa chữa và xây dựng bưu điện, trường học, bệnh viện đường giao thông và nhiều cơ sở hạ tầng khác, ổn định đời sống vật chất tinh thần, tăng cường công tác an ninh quốc phòng. Sau 3 năm hàn gắn vết thương chiến tranh, khôi phục và phát triển kinh tế, văn hóa xã hội, bộ mặt Vĩnh Linh đã có nhiều biến đổi sâu sắc, đời sống nhân dân ngày càng được cải thiện, thể hiện tính ưu việt của chế độ xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc, có tác dụng trực tiếp cỗ vũ phong trào đấu tranh của đồng bào miền Nam.

Từ năm 1958, cùng với miền Bắc, Vĩnh Linh bước vào thực hiện nhiệm vụ cải tạo xã hội chủ nghĩa, tiến hành cuộc cách mạng sâu sắc nhất, triệt để nhất do Hội nghị Trung ương lần thứ 14 đề ra. Đường lối cải tạo xã hội chủ nghĩa của Đảng đối với nông nghiệp là đưa nông dân từ làm ăn riêng lẽ đi vào tổ đổi công, tiến lên thành lập hợp tác xã bậc thấp và dần dần phát triển hợp tác xã bậc cao. Từ hai hợp tác xã thí điểm ở Vĩnh Kim và Vĩnh Hòa, đến cuối năm 1958 toàn khu vực cơ bản đã hoàn thành việc xây dựng hợp tác xã nông nghiệp và ngư nghiệp.

Song song với việc xây dựng hợp tác xã nông, ngư nghiệp, hợp tác xã thủ công nghiệp, mua bán tín dụng củng dần dần được thành lập và phát triển. Từ đây quan hệ sản xuất mới với hai hình thức sở hữu Nhà nước và sở hữu tập thể về tư liệu sản xuất được xác lập. Cơ sở vật chất kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội bước đầu được xây dựng. Đầu năm 1960, Vĩnh Linh cơ bản hoàn thành kế hoạch cải tạo xã hội chủ nghĩa, chế độ người bóc lột người bị xóa bỏ. Sau sáu năm xây dựng, bộ mặt của Vĩnh Linh và đời sống của nhân dân đã hoàn toàn khởi sắc. Về nông nghiệp, toàn khu vực đã tiến lên xây dựng hợp tác xã bậc cao, thu nhập bình quân của xã viên hàng năm gần 300 kg thóc (gấp 10 lần thời thuộc Pháp), một nông trường quốc doanh trồng cà phê, cao su, chè, tiêu ra đời. Hai công trình thủy lợi lớn là đại thủy nông La Ngà và đập Bàu Nhum được xây dựng bảo đảm tưới tiêu cho hàng ngàn héc ta ruộng đất. Các lực lượng vũ trang Vĩnh Linh vừa làm nhiệm vụ xây dựng bảo vệ giới tuyến, vừa tích cực tham gia lao động sản xuất góp phần khôi phục kinh tế, hàn gắn vết thương chiến tranh. Trên mặt trận cải tạo và xây dựng kinh tế, các đơn vị trung đoàn 270, tiểu đoàn 57... dân quân du kích các địa phương đã khai hoang phục hóa được hàng trăm héc ta đất, đóng góp hàng ngàn ngày công xây dựng các công trình thủy lợi, các nông trường quốc doanh...

Về công nghiệp và tiểu thủ công nghiệp đã xây dựng một số xí nghiệp vừa và nhỏ để sản xuất và chế biến sản phẩm như chè, cơ khí điện nước, gỗ, gạch ngói, tơ tằm, đan lưới... Văn hóa xã hội ngày càng phát triển. Năm 1958, Vĩnh Linh cơ bản đã xóa xong nạn mù chữ, năm 1960 đã phổ cập văn hóa cấp hai. Thị trấn Hồ Xá được xây dựng từ năm 1956 có nhà hát nhân dân chứa hàng nghìn người xem, trường học, bệnh viện, trạm y tế, bảo tàng, thư viện, công trình thể thao... được xây dựng đáp ứng nhu cầu đời sống của nhân dân.

Công tác xây dựng Đảng và các đoàn thể phụ nữ, thanh niên, thiếu nhi... được đặc biệt chú trọng. Trường Đảng Nguyễn Thị Minh Khai đã đào tạo được hàng trăm, cán bộ của địa phương. Phong trào văn hóa văn nghệ, thể dục thể thao phát triển sôi nổi và đều khắp.

Từ năm 1961 sau khi hoàn thành kế hoạch khôi phục và cải tạo kinh tế, Vĩnh Linh bắt đầu bước vào thực hiện kế hoạch 5 năm xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội. Phong trào thi đua xã hội chủ nghĩa ở Vĩnh Linh diễn ra rầm rộ báo hiệu một giai đoạn phát triển mới của quê hương.
Logged

Tự hào thay, mác búp đa
Khởi đầu những bản hùng ca lẫy lừng.
Thô sơ, gian khổ đã từng
Chính quy, hiện đại, không ngừng tiến lên.
macbupda
Trung tá
*
Bài viết: 11970


Lính của PTL


« Trả lời #7 vào lúc: 08 Tháng Chín, 2022, 08:45:40 am »

II - CHUYỂN HƯỚNG ĐẤU TRANH ĐÒI THI HÀNH HIỆP ĐỊNH GIƠNEVƠ

Sau hiệp định Giơnevơ, miền Nam nói chung và các huyện của Quảng Trị ở bờ Nam giới tuyến nói riêng tạm thời do đối phương kiểm soát. Hòa bình được lập lại, nhưng nhân dân ở bờ Nam chưa được hưởng một ngày trọn vẹn. Pháp chưa đi Mỹ đã nhảy vào. Sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc, tiến tới thống nhất Tổ quốc của nhân dân ta còn nhiều hy sinh gian khổ.

Cuối tháng 5/1954, khi Hội nghị Giơnevơ chưa kết thúc, Mỹ đã phái Et uốt Lênxđên sang Sài Gòn chuẩn bị đón Ngô Đình Diệm về nước. Ngày 25/6, Diệm về đến Sài Gòn. Mặc dù lúc này cuộc hòa đàm chưa kết quả, nhưng những gì được quyết định trong cuộc gặp gỡ với Lênxđên chỉ vài ngày sau khi Diệm về nước đánh dấu mốc bắt đầu của quá trình người Pháp chưa đi, người Mỹ đã vào.

Sau khi tuyên bố Mỹ không bị ràng buộc bởi hiệp định Giơnevơ, ngày 8/8/1954 Hội đồng an ninh quốc gia Mỹ đưa ra bốn chính sách lớn: Mỹ trực tiếp viện trợ cho ngụy quyền Sài Gòn; trực tiếp chỉ huy và huấn luyện quân đội ngụy; buộc Pháp phải rút hết khỏi miền Nam đồng thời loại bỏ Bảo Đại và những ảnh hưởng của Pháp.

Ngày 8/9/1954, Mỹ lôi kéo các nước đồng minh ký hiệp ước Manila thành lập Khối liên minh quân sự Đông Nam Á (Gọi tắt là SEATO) đặt Nam Việt Nam, Lào, Cămpuchia vào trong “Khu vực bảo hộ” của khối đó.

Ngày 17/11/1954 Mỹ cử tướng Côlin làm đại sứ ở Sài Gòn. Côlin đề ra kế hoạch 6 điểm để thực thi chủ nghĩa thực dân mới gọi là “kế hoạch Côlin”. Nội dung cơ bản của kế hoạch này là Mỹ viện trợ thẳng cho chính quyền Sài Gòn không qua Pháp, lập quốc hội để hợp pháp hóa chính quyền Sài Gòn, xây dựng quân đội do Mỹ trang bị, huấn luyện chỉ huy, đào tạo đội ngũ tay sai mới, định cư cho số đồng bào công giáo miền Bắc di cư và vạch kế hoạch cải cách điền địa, thay đổi chế độ thuế khóa, dành ưu tiên hàng hóa và tư bản Mỹ vào miền Nam.

Về phía Pháp do tình hình kinh tế bị kiệt quệ, chính trị rối ren, nội bộ mâu thuẫn lại phải đối phó với cuộc chiến tranh giành độc lập của nhân dân Angiêri nên buộc phải hợp tác với Mỹ, hỗ trợ và khuyến khích Ngô Đình Diệm đàn áp nhân dân miền Nam, cưỡng ép giáo dân miền Bắc di cư và tổ chức những vụ phá hoại gây rối trật tự trị an ở miền Bắc, phá hoại hiệp định Giơnevơ mà Pháp đã ký kết.

Trước sức ép của Mỹ, thực dân Pháp nhanh chóng nhượng bộ và bỏ trách nhiệm thi hành hiệp định Giơnevơ. Cuối tháng 4/1956 đơn vị cuối cùng của quân đội Pháp rút khỏi miền Nam, chấm dứt sự tồn tại của chủ nghĩa thực dân cũ trên đất Việt Nam.

Ngay sau khi đến miền Nam Việt Nam, Côlin vội vã bay ra Quảng Trị nghiên cứu tình hình vạch cho Diệm kế hoạch phòng thủ khu vực giới tuyến để ngăn chặn sự tiến công của ta từ miền Bắc vào. Với mưu đồ thâm độc của Mỹ - Diệm, vĩ tuyến 17 - giới tuyến quân sự tạm thời đã cắt đôi địa bàn tỉnh Quảng Trị. Huyện Vĩnh Linh tiến lên xây dựng chủ nghĩa xã hội trở thành hậu phương trực tiếp của các huyện phía Nam. Các huyện còn lại của tỉnh trở thành nơi đụng đầu quyết liệt giữa hai thế lực cách mạng và phản cách mạng.

Được Mỹ viện trợ và điều hành, nhưng chính quyền họ Ngô ngay từ buổi đầu vẫn bị uy hiếp từ nhiều phía. Các thế lực thân Pháp, các giáo phái được Pháp ủng hộ, đặc biệt là lực lượng cách mạng đang có mặt khắp nơi ở miền Nam luôn luôn đe dọa sự tồn tại của chúng. Để đối phó với tình hình đó, Mỹ - Diệm đã tổ chức xây dựng quân đội ngụy tay sai với một lực lượng hùng hậu, gạt bỏ những phần tử không ăn cánh, điều ba trung đoàn Âu -Phi, sáu tiểu đoàn ngụy về Trị - Thiên, tổ chức thêm hàng chục đại đội “Nghĩa dũng đoàn”, “Bảo chính đoàn”, mở rộng sân bay Đông Hà, xây dựng hệ thống công sự, hầm hào phòng thủ nam giới tuyến, vùng đường 9, Khe Sanh, tập trung đánh phá phong trào cách mạng đồng thời tung gián điệp, biệt kích ra Vĩnh Linh móc nối với bọn phản động phá hoại hậu phương ta.

Đi đôi với việc xây dựng quân ngụy, gạt bỏ các thế lực thân Pháp, Mỹ - Diệm tiến hành truy quét tiêu diệt các lực lượng vũ trang giáo phái. Ở Quảng Trị, lực lượng Đại Việt có khoảng một tiểu đoàn lên vùng Ba Lòng lập căn cứ chống Diệm và chống cả cách mạng. Tháng 3/1955, Diệm huy động bốn tiểu đoàn tiến công tiêu diệt lực lượng này. Bọn Đại Việt tháo chạy lên Trại Cá, Tà Rụt gây ra vụ thảm sát đẫm máu ở Hướng Điền giết hại 94 đồng bào rất dã man, một thời gian sau bị các lực lượng vũ trang và nhân dân miền núi Trị Thiên tiêu diệt và làm cho tan rã.

Sau khi bọn Đại Việt tan rã, Ngô Đình Diệm thành lập một sư đoàn chủ lực (F1) sở chỉ huy cơ bản đóng tại Huế, nhiệm vụ cơ bản là đàn áp phong trào cách mạng Trị - Thiên - Huế và xúc tiến âm mưu đen tối lâu dài mà chúng thường rêu rao là “Bắc tiến”. Cùng với 10 đại đội bảo an, 50 trung đội dân vê, ba đại đội cảnh sát, chúng hình thành hệ thống phòng thủ dọc biên giới Việt - Lào và giới tuyến. Chúng còn lập ra các đội “Biệt kích áo đen” ngày đêm săn lùng cộng sản.

Đi đôi với việc xây dựng chính quyền Trung ương, Mỹ - Diệm ra sức củng cố chính quyền địa phương và lập các tổ chức quần chúng trá hình như “Thanh niên cộng hòa”, “Liên gia tương trợ”, “nhân dân tự vệ đoàn”, “Ngũ gia liên bảo”... để kìm kẹp dân chúng.
Logged

Tự hào thay, mác búp đa
Khởi đầu những bản hùng ca lẫy lừng.
Thô sơ, gian khổ đã từng
Chính quy, hiện đại, không ngừng tiến lên.
macbupda
Trung tá
*
Bài viết: 11970


Lính của PTL


« Trả lời #8 vào lúc: 08 Tháng Chín, 2022, 08:46:55 am »

Cùng với việc củng cố bộ máy cai trị, đầu năm 1955 Diệm ban hành dụ số 7 cải cách điền địa, ở Trị - Thiên chúng cướp lại hơn 10.000 ha ruộng đất trước đây cách mạng cấp cho dân cày. Đồng thời chúng lập ra các khu dinh điền ở Cùa, Ba Lòng, Hoàn Cát, Câu Nhi... tập trung dân vào đó để dễ bề kìm kẹp.

Tháng 4/1955, Ngô Đình Diệm ban hành sách lược “Tố cộng, diệt cộng”, lập “Khu trù mật”, “Khu dinh điền”. Chúng lập ra bộ máy “Tố cộng diệt cộng” từ Trung ương đến địa phương với khẩu hiệu “Diệt cộng là quốc sách, dung cộng là tự sát”.

Ở Quảng Trị chúng chia huyện thành quận, chia xã cũ thành hai đến ba xã mới. Mỗi quận chúng thành lập một đội tố cộng, đội này chuyên đi về từng xã để tổ chức tố cộng. Sau khi đàn áp bọn đối lập xong, chính quyền Diệm mở chiến dịch “Tố cộng diệt cộng” mang tên Phan Chu Trinh kéo dài từ tháng 4 đến mãi về sau với mục đích khủng bố, trả thù những người kháng chiến, những ai không tán thành chính sách độc tài, phát xít của chúng, phá hoại hiệp thương tổng tuyển cử. Chúng bắt người, cướp của bao vây thôn xóm không cho đi lại làm ăn, phát quang vườn tược, triệt hạ nhà cửa, tra tấn giam cầm những người có con em đi tập kết, thoát ly, chúng tuyên truyền xuyên tạc nói xấu miền Bắc và phe xã hội chủ nghĩa. Đặc biệt ở Hải Lăng, chúng tập trung trên 1000 quân cùng với các đoàn “Công dân vụ”, đội “Biệt kích áo đen”, bọn gián điệp, ác ôn đánh phá, bắt bớ tra khảo hàng ngàn người trong đó có nhiều cán bộ, đảng viên. Tiếp đó chúng xua quân chiếm đóng các khu vực thuộc miền tây Quảng Trị.

Tháng 7/1955, Ngô Đình Diệm ngang nhiên tuyên bố “không có hiệp thương tổng tuyển cử” và cho tay sai bày trò biểu tình chống hiệp định Giơnevơ. Từ cuối năm 1955 đến năm 1956 Diệm tiếp tục củng cố chính quyền bằng cách chia nhỏ quận, huyện, xã. Quảng Trị chúng chia thành 7 quận, 86 xã để dễ bề cai trị, đồng thời đưa những tên lưu manh, ác ôn cực kỳ phản động vào chính quyền các cấp, vào đảng “Cần lao nhân vị”, bắt quần chúng vào các tổ chức “Thanh niên cộng hòa”, “Phụ nữ liên đới”, “Hiệp hội nông dân”... Chúng còn lập khu công giáo di cư như La Vang, Trí Bưu... làm chỗ dựa chống phá cách mạng.

Về phía ta, quán triệt nhiệm vụ Bộ chính trị đề ra trong Nghị quyết tháng 9/1954, Liên khu ủy 4 chỉ đạo cho Quảng Trị khẩn trương ổn định đời sống nhân dân, củng cố thế đấu tranh chính trị, kiên quyết đấu tranh đòi địch thi hành hiệp định Giơnevơ. Cuối năm 1954 sau khi hội nghị ở khu 4 về, Tỉnh ủy mở hội nghị truyền đạt Nghị quyết của Bộ chính trị về tình hình nhiệm vụ mới tại Vạn Đò, Chợ Hôm - Gio Linh. Tuy được học tập và thảo luận, nhưng trong cán bộ lúc này chưa thấy hết đặc điểm tình hình, phương châm, phương pháp công tác còn nhiều lúng túng. Hình thức đấu tranh công khai trực diện bộc lộ lực lượng còn phổ biến.

Theo quy định của hiệp định Giơnevơ khi tập kết chúng ta phải đưa hết bộ đội và chuyển vũ khí ra miền Bắc. Một mặt chúng ta nghiêm chỉnh chấp hành, nhưng đồng thời cũng cảnh giác trước âm mưu thủ đoạn của kẻ thù, vì vậy chủ trương của tỉnh là chọn 100 đồng chí cán bộ lực lượng vũ trang có điều kiện hoạt động hợp pháp để lại làm nòng cốt cho hoạt động lâu dài. Đồng thời tổ chức cất giấu phần lớn số vũ khí tốt đề phòng bất trắc xảy ra. Tuy nhiên Trung ương chỉ cho để lại 30 đồng chí lực lượng vũ trang nhưng đến tháng 4/1955 lệnh cho rút nốt số này và toàn bộ vũ khí ra Bắc. Cảnh giác trước âm mưu thủ đoạn của địch, không tin địch thi hành hiệp định nên Tỉnh ủy chủ trương chọn số súng tốt cất giấu kỹ nhằm sử dụng sau này.

Sau khi tập kết xong, số đảng viên toàn tỉnh còn lại 8400 đồng chí. Đến tháng 5/1955 qua hai lần củng cố, chia thành chi bộ nhỏ theo đơn vị thôn chỉ còn lại 5.300 người. Đảng viên tuy còn rất ít, nhưng dưới sự chỉ đạo của Tỉnh ủy, các tổ chức cơ sở Đảng vẫn luôn luôn bám sát cơ sở, lãnh đạo nhân dân khắc phục hậu quả chiến tranh, đẩy mạnh tăng gia sản xuất ổn định cuộc sống đồng thời đấu tranh chống Mỹ - Diệm và bè lũ tay sai phá hoại hiệp định.

Mở đầu thời kỳ đấu tranh của nhân dân bờ Nam đòi Mỹ - Diệm thi hành hiệp định là cuộc biểu tình của bà con Cam Lộ đấu tranh chống việc địch bắt đòi dời chợ Tam Hiệp ngày 9/9/1954 ở Cam Thủy. Bọn địch bắt dời chợ Tam Hiệp với âm mưu phá ảnh hưởng của lực lượng kháng chiến cũ, phá việc tiêu dùng đồng bạc Việt Nam. Trước sức ép của kẻ thù, nhân dân Cam Lộ nhất định không dời chợ đi nơi khác. Cuộc đấu tranh ban đầu từ giằng co về sau trở nên quyết liệt. Địch cho bọn “nghĩa dũng đoàn” đến đập phá lều quán, hàng hóa của nhân dân và đánh hai người bị thương nặng. Căm thù trước hành động tàn bạo của chúng, đồng bào bao vây đánh trả làm cho bọn chúng khiếp sợ bỏ chạy về quận lỵ. Bà con cáng hai người bị thương đuổi theo và vận động các xã lân cận kéo lên quận đấu tranh. Lo sợ trước uy lực của quần chúng, tên quận trưởng và bọn tay sai chạy trốn. Đến chiều, bọn địch ở tỉnh lên nhận lỗi, xin bồi thường và đưa hai người bị thương đi cấp cứu. Nhưng đồng bào không chấp nhận, vẫn tiếp tục đấu tranh. Trước tình hình đó bọn chúng liền huy động một tiểu đoàn lê dương và tay sai ác ôn đến đàn áp, bắn chết hai người, đánh bị thương 5 người và bắt đi 45 người khác. Đồng bào ở vào thế tay không bất lợi nên cuộc đấu tranh tạm giải tán.

Cùng ngày ở Hải Lăng và Gio Linh, nhân dân cũng vùng lên đấu tranh. Tiêu biểu là cuộc đấu tranh của nông dân Long Hưng (Hải Phú) chống xáo cấp ruộng đất. Bọn địch chủ trương chia lại ruộng đất đã được cách mạng cấp cho nông dân, thu hồi ruộng đất đã chia cho phụ nữ và những người đi kháng chiến. Nông dân không chịu, đòi để nguyên như cũ. Bọn “Nghĩa dũng đoàn” ra tay khủng bố, đánh đập trên 100 người rồi bỏ chạy. Sau đó địch lập tề nhưng quần chúng không ai chịu đứng ra nhận làm tề. Địch lại tiếp tục khủng bố, không cho sáng lửa đỏ đèn, không cho ăn uống. Nhân dân lại tiếp tục đấu tranh, sau đó theo chủ trương của Đảng, ta cử người ra nắm lấy tề để cho tình hình bớt căng thẳng.

Tháng 1/1955, Liên khu ủy họp chủ trương phát động phong trào đòi địch thi hành hiệp định, giữ vững đấu tranh chính trị đồng thời cần mở rộng đấu tranh hợp pháp, nửa hợp pháp đòi dân sinh, dân chủ.
Logged

Tự hào thay, mác búp đa
Khởi đầu những bản hùng ca lẫy lừng.
Thô sơ, gian khổ đã từng
Chính quy, hiện đại, không ngừng tiến lên.
macbupda
Trung tá
*
Bài viết: 11970


Lính của PTL


« Trả lời #9 vào lúc: 08 Tháng Chín, 2022, 08:48:35 am »

Để công tác tổ chức lãnh đạo phù hợp với tình hình và nhiệm vụ mới của cách mạng, từ ngày 28/4 đến ngày 7/5/1955, liên khu ủy 4 triệu tập hai ban tỉnh ủy Quảng Trị và Thừa Thiên ra Đồng Hới (Quảng Bình), để học tập Nghị quyết lần thứ 7 của Trung ương đồng thời thông báo quyết định về việc sát nhập hai tỉnh vào liên khu 5. Mặt khác giải quyết thêm một bước vấn đề củng cố tổ chức hoàn thành việc chuyển hướng tổ chức Đảng vào hoạt động bí mật.

Dưới sự chỉ đạo của liên khu ủy 5, Quảng Trị, Thừa Thiên được chọn làm đầu cầu giới tuyến trong phong trào đấu tranh chống Mỹ - Diệm.

Tháng 3/1955 Mỹ - Diệm tổ chức trưng cầu dân ý loại bỏ chính quyền thân Pháp. Mỹ dấn sâu hơn vào can thiệp ở miền Nam Việt Nam.

Từ tháng 7/1955 sau khi được chủ Mỹ khuyến khích, Diệm tuyên bố không có hiệp thương tổng tuyển cử, phong trào đấu tranh đòi hòa bình thống nhất đất nước chống chiến dịch “Tố cộng” của nhân dân ta lan ra nhiều địa phương và kéo dài nhiều tháng về sau.

Cùng với việc gửi hàng ngàn lá đơn lên Ủy ban giám sát và kiểm soát Quốc tế tố cáo Mỹ - Diệm vi phạm hiệp định, phản đối khủng bố đàn áp đồng bào miền Nam, nhân dân hai bờ Bến Hải bằng nhiều hình thức vẫn luôn luôn sát cánh bên nhau đấu tranh với địch. Tiêu biểu là cuộc đấu tranh của nhân dân Trung Hải đòi Mỹ - Diệm không được phá chợ Bạn ở xóm rú Xuân Mỵ, ngày 23/8/1955. Chợ Bạn là nơi bà con hai bờ gặp nhau để trao đổi tin tức, cán bộ ta lui tới nắm tình hình và chỉ đạo hoạt động. Bọn địch huy động 130 tên lính do chi trưởng công an quận Trung Lương chỉ huy đốt phá chợ, chặn đường đàn áp bắt đi nhiều người ở Bạch Lộc, Xuân Mỵ đấu tranh chống lại. Cùng lúc, nhân dân Xuân Long, Hải Chữ, Thủy Bạn tăng cường tiếp sức. Trước khí thế của nhân dân, bọn chúng buộc phải thả những người bị bắt gồm 20 người Hồ Xá và 10 thanh niên Xuân Mỵ.

Cuối năm 1955 tại Vạn Đò ngã ba Triệu Phước, thường vụ Tỉnh ủy mở hội nghị để quán triệt Nghị quyết liên khu ủy 5, đồng thời nhận định đánh giá tình hình trong tỉnh, đề ra phương châm, phương hướng hoạt động trước mắt là chống “Tố cộng”, chống “Trưng cầu dân ý” chống cuộc bầu cử quốc hội riêng rẽ của Diệm. Đồng chí Nam Sinh, Ủy viên thường vụ Tỉnh ủy đã nổ súng diệt tên mật vụ lên kiểm soát đò. Đây là tiếng súng tự vệ đầu tiên trên đất Quảng Trị kể từ khi có hiệp định Giơnevơ.

Thực hiện chủ trương của tỉnh, cuộc đấu tranh chống địch “Tố cộng” giai đoạn 1 của nhân dân ta diễn ra liên tục và quyết liệt trong từng gia đình, từng thôn ấp dưới nhiều hình thức công khai, hợp pháp và cả bất hợp pháp. Bọn địch bắt nhân dân đi học “Tố cộng”, mọi người viện đủ lý do để trì hoãn không đi. Nhiều nơi đồng bào bị lùa đến chỗ tập trung đã tìm cách lẫn tránh hoặc đi không đúng thành phần. Có nơi biến buổi “Tố cộng” thành, cuộc đấu tranh tố cáo tội ác của địch, ở thị xã Quảng Trị, bọn địch chuẩn bị một bản tội ác của cộng sản rồi bắt ông Lê Chí Khiêm (trong ban trị sự hội phật giáo) lên đọc. Trước khi đọc ông tuyên bố “Bản này không phải tự tay tôi viết ra, mà nói lên tội ác của cộng sản thì chính tôi chưa bao giờ nghe và chưa bao giờ thấy, nhưng người ta đã viết ra và bắt tôi đọc thì tôi phải đọc cho bà con nghe”.

Có nơi địch bắt những người kháng chiến cũ, những đảng viên cộng sản, những gia đình có người thân đi tập kết phải ra “đầu thú” quốc gia, chào cờ ba que, xé cờ Đảng, làm giấy ly khai Đảng, xé ảnh Bác Hồ, ăn năn sám hối... nhưng đối với nhân dân Quảng Trị, cách mạng, Đảng, Bác là niềm tin và lẽ sống là độc lập, tự do, là thống nhất Tổ quốc. Dù kẻ địch có xảo quyệt thâm hiểm đến đâu cũng không khuất phục, không dập tắt được phong trào đấu tranh của nhân dân ta.

Từ tháng 10/1955 đến tháng 3/1956 nhân dân khắp nơi trong tỉnh liên tiếp đấu tranh chống lại thủ đoạn tuyên truyền lừa bịp, ngăn chợ đón đường của địch, đấu tranh không học ca dao, không đi bỏ phiếu, chống trò hề bầu cử của Diệm. Hàng vạn nhân dân Triệu Phong, Hải Lăng đấu tranh đòi hiệp thương tổng tuyển cử. Một số nơi ném thùng phiếu xuống sông, bỏ phiếu trắng hoặc bí mật bỏ truyền đơn vào thùng phiếu. Nhân dân các địa phương đã biến cuộc bầu cử của ngụy quyền thành cuộc đấu tranh vạch tội ác của Diệm.

Chủ trương của liên khu ủy là qua các cuộc đấu tranh để tập hợp lực lượng rộng rãi trong nhân dân. Nhưng “Vì lãnh đạo chưa được vững chắc nên phong trào phát triển chưa đều, nhiều nơi sớm bộc lộ lực lượng, phong trào bị tổn thất trước sự khủng bố của địch nhất là khi địch tiến hành các chiến dịch tố cộng”.

Để khắc phục những thiếu sót trên, ngày 1/12/1955, Ban bí thư Trung ương Đảng ra chỉ thị cho các Đảng bộ miền Nam trong lãnh đạo chống địch tố cộng là phải giữ gìn, củng cố cơ sở Đảng.

Đối với Quảng Trị, sau cuộc đấu tranh chống trò hề bầu cử của Diệm, lực lượng ta bộc lộ gần hết. Địch tập trung khủng bố một lần nữa, vì vậy cơ sở Đảng của ta bị tổn thất nặng nề. Sau ngày tổng tuyển cử tự do không thực hiện được, phong trào cách mạng trong tỉnh gặp nhiều khó khăn. Cơ sở Đảng tính đến cuốn năm 1956, chỉ còn lại 106 đảng viên sống hợp pháp ở thôn xóm, trong đó có 35 đảng viên trong 7 chi bộ và 71 đảng viên sinh hoạt đơn tuyến, 200 đảng viên thoát ly từ xã trở lên. Các cơ sở ở ngoại thị bị vỡ không còn ở được nữa. Đây là thời kỳ vô cùng cam go, là giai đoạn thoái trào của phong trào cách mạng trong tỉnh.

Nhưng phong trào tạm lắng, phong trào lại lên. Dưới sự lãnh đạo của Tỉnh ủy, những hạt giống đỏ còn sót lại được nhân dân đùm bọc, che chở vẫn trụ bám kiên cường trong lòng đất mẹ, sinh sôi nẩy nở gây dựng lại phong trào.
Logged

Tự hào thay, mác búp đa
Khởi đầu những bản hùng ca lẫy lừng.
Thô sơ, gian khổ đã từng
Chính quy, hiện đại, không ngừng tiến lên.
Trang: 1 2 3 4 5 6 7 8 9 »   Lên
  In  
 
Chuyển tới:  

Powered by MySQL Powered by PHP Powered by SMF 1.1.21 | SMF © 2006-2008, Simple Machines

Valid XHTML 1.0! Valid CSS! Dilber MC Theme by HarzeM