Lịch sử Quân sự Việt Nam
Tin tức: Lịch sử quân sự Việt Nam
 
*
Chào Khách. Bạn có thể đăng nhập hoặc đăng ký. 29 Tháng Ba, 2024, 06:36:45 pm


Đăng nhập với Tên truy nhập, Mật khẩu và thời gian tự động thoát


Trang: « 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 »   Xuống
  In  
Tác giả Chủ đề: Thượng tướng Trần Văn Trà và những chặng đường lịch sử B2 Thành Đồng  (Đọc 6034 lần)
0 Thành viên và 1 Khách đang xem chủ đề.
hoi_ls
Thượng tá
*
Bài viết: 5098



« Trả lời #10 vào lúc: 04 Tháng Chín, 2022, 05:20:29 pm »

*
*       *


    Ngày 27/9/1945, cơ quan Xứ ủy và Ủy ban kháng chiến Nam Bộ dời về Mỹ Tho để tương đối xa vùng có chiến sự, có thể đứng chân lâu.

    Trước hôm lên đường, bỗng một ý nghĩ day dứt trong lòng tôi: “Sài Gòn đang khói lửa ngút trời, hay mình hãy ở lại để trực tiếp tham gia cuộc chiến...?”. Suy nghĩ rồi đi đến quyết định dứt khoát, tôi trao đổi với anh Nguyễn Văn Nguyễn. Anh đồng ý, chúng tôi lưu luyến chia tay.

    Vậy là tôi ở lại. Nhưng nên làm việc gì, ở ngành nào, thoạt đầu tôi cũng chưa nghĩ đến. Trước tiên, móc nối với anh em quen biết cũ đã.

    Sau khi gặp gỡ và bàn bạc với nhau, tôi cùng các anh Hoàng Dư Khương, Huỳnh Văn Một, Tô Ký..., hình thành một ý định chung là đứng ra tổ chức một đơn vị vũ trang đặt dưới sự lãnh đạo trực tiếp và toàn diện của Đảng.

    Ý định này có cơ sở là thực tế đang cho thấy bốn sư đoàn “dân quân cách mạng”, tuy quân đông, súng nhiều nhưng sức chiến đấu quá yếu kém nếu không nói là quá bê bết, đang tự phân rã dữ dội.

    Riêng đệ nhị sư đoàn đã tan rã ngay từ đầu: Vũ Tam Anh - “Tổng tư lệnh” đệ nhị sư đoàn về đầu hàng đệ nhị phòng (2e bureau) của Pháp, rồi bày mưu cho Pháp nắm Chi đội 8 Cao Đài trở súng chống lại kháng chiến, móc nối một loạt phần tử cơ hội cùng ra làm tay sai cho giặc như Lâm Văn Phát, Trần Quang Vinh, Dương Quang Đặng, Phạm Công Tắc. Vì vậy không thể tin cậy, hy vọng ở họ nữa mà phải có những đơn vị vũ trang có hệ thống lãnh đạo, chỉ huy chặt chẽ do Đảng tổ chức.

    Một số đơn vị do những phần tử cơ hội, lưu manh lợi dụng tình hình đứng ra tự lập và chỉ huy nay không chiến đấu mà lui về phía sau quậy phá. Điển hình là “bộ đội H.T.29” của Hồng Tảo, bỏ chạy trước khi giặc đến, nhưng chạy đến đâu đều bắt dân đóng tiền cho “công quỹ”. Ở Thủ Đức, Ba Nhỏ rủ cò Tổng (trưởng công an) mang tiền, vàng và vũ khí của quận rồi dẫn “bộ đội” rút chạy. Còn những đơn vị khác cần được chấn chỉnh nhanh chóng.

    Trong khi cuộc chiến đấu ở nội đô Sài Gòn đang tiếp diễn, cuối tháng 9/1945, Ủy ban kháng chiến Nam Bộ quyết định thành lập thêm ba mặt trận vòng ngoài.

    Mặt trận tiền tuyến Sài Gòn - Gia Định, còn gọi là Chiến tuyến phía bắc, kéo dài từ ngã ba sông Thị Nghè đến cầu Bông, chặn quân địch bung ra trên các trục đường 13, đường xe điện và đường bộ qua cầu Bến Phân lên Lái Thiêu, Thủ Dầu Một, đường 1 qua cầu Tham Lương. Lực lượng chiến đấu có các đơn vị Nam tiến và các đơn vị địa phương khoảng 50 tay súng.

    Mặt trận tiền tuyến Sài Gòn - Chợ Lớn, còn gọi là Chiến tuyến phía nam hay mặt trận đường 4, án ngữ địch tiến quân xuống miền Tây. Tại đây có bộ đội Bình Xuyên (lực lượng vũ trang thống nhất Nhà Bè), bộ đội Ba Bang (Cần Giuộc), bộ đội Bảy Trân (Bình Chánh).

    Mặt trận tiền tuyến phía tây, còn gọi là chiến tuyến Phú Lâm.

    Ngoài ra trên thực tế hình thành thêm Mặt trận tiền tuyến phía tây bắc, còn gọi là Mặt trận Tham Lương vì nhiều trận đánh quyết liệt đã diễn ra ở khu vực này. Tại đây có bộ đội Huỳnh Tấn Chùa, Phạm Văn Ngói và nhiều lực lượng nhỏ của Hóc Môn, Bà Điểm, Tân Sơn Nhì, Phú Thọ Hòa, Bà Quẹo.

    Các mặt trận vòng ngoài tạo thành một vòng cung gần khép kín bao quanh Sài Gòn với thế “ngoại kích nội công” lợi hại của chiến tranh nhân dân. Có người đã ví vòng cung này chẳng khác nào “vành đai đỏ” trong những năm đấu tranh giành độc lập trước Cách mạng Tháng Tám.

    Nghe các danh từ “mặt trận”, “chiến tuyến”, có thể ai đó hình dung các thành trì kiên cố, hào rộng và sâu, các phòng tuyến bố trí đủ loại vũ khí từ súng máy đến đại bác và xe tăng hạng nặng. Nhưng thực chất đây chỉ là những tuyến chiến đấu với công sự làm bằng gỗ và đất cùng mọi thứ vật dụng mà đồng bào tự nguyện lấy từ nhà mình khiêng, vác, mang đến góp cho bộ đội.

    Còn người chiến sĩ, lúc đó được gọi là Vệ quốc quân, nếu chỉ căn cứ vào hình thức bên ngoài thì thật khó nói đó là con nhà binh. Quần áo thì đủ bộ: Xanh công nhân, bà ba đen, quần soọc áo sơ mi cộc tay... Giày dép cũng đủ loại: Giày da đi dạo phố, dép xe kéo, lại không ít anh em đi chân đất (ở đây không nói tới chỉ huy các sư đoàn mặc cả quân phục của sĩ quan Pháp và Nhật, đi ủng cao cổ, kiếm Nhật kè kè bên hông).

    Vũ khí cũng hỗn hợp của đủ các nước trên thế giới, từ Pháp, Nhật, Nga đến Mỹ, Anh, Tiệp..., dài có, ngắn có và đặc biệt rất ít đạn. Đại bộ phận cán bộ cũng như chiến sĩ trang bị lựu đạn chày, sang lắm thì được khẩu hai nòng, còn không thì gậy tầm vông vạt nhọn kèm theo cuộn dây thừng.

    Với Sài Gòn - Chợ Lớn và cả Nam Bộ là “máu của máu Việt Nam, thịt của thịt Việt Nam”, nên trước hành động xâm lược của thực dân Pháp, cả nước cùng hướng về đây như hướng về phần máu thịt thiêng liêng nhất của mình. Sài Gòn - Chợ Lớn trở thành nơi hội tụ của cả nước.

    Về sau mấy cán bộ từ miền Bắc vào công tác nói lại cho tôi biết: Sáng ngày 23/9/1945, đông đảo đồng bào Hà Nội đã hay tin giặc Pháp gây chiến ở Sài Gòn, ùn ùn đổ ra các phố, đến trước các phòng thông tin đợi nghe thêm tin tức, gặp nhau thì câu đầu miệng là hỏi về tình hình trong đó. Ở các địa phương khác cũng vậy. Không khí chung là hừng hực căm thù. Nhiều người, không cứ là thanh niên, không cứ là nam giới, rạo rực muốn có mặt ngay tại Sài Gòn để moi gan móc ruột quân thù.

    Ngày 26/9/1945, Hồ Chủ tịch ra lời kêu gọi đồng bào Nam Bộ, trong đó Người không quên nói đến tấm lòng ruột thịt tha thiết của đồng bào toàn quốc đối với Sài Gòn - Chợ Lớn và Nam Bộ.

    Hồ Chủ tịch và Chính phủ lâm thời quyết định cử những đoàn quân Nam tiến, nhanh chóng chi viện cho Sài Gòn.

    Muốn tổ chức các đoàn quân Nam tiến, phải lo giải quyết hai vấn đề chính là người và vũ khí. Còn một số vấn đề khác cũng cần chú ý như nguồn cung cấp, huấn luyện kỹ thuật, chiến thuật, nhưng không quan trọng bằng.

    Về người, có thể nói vắn tắt là “cần một, có mười”. Các “Phòng Nam Bộ” đầy ắp người đến ghi tên tình nguyện Nam tiến. Họ thuộc đủ các thành phần xã hội, các lứa tuổi. Hai nhà sư Nguyễn Châu và Giác Thuyên từ Đông Triều (Quảng Ninh) lên Hà Nội yết kiến Hồ Chủ tịch để xin cho trung đội sư tăng lên đường giết giặc 1. Bà Trần Thị Thanh Lệ ở Hà Nội, cắt búi tóc cho ngắn gọn để xin được tòng quân. Học sinh nhiều trường bãi học vì phong trào “Xếp bút nghiên” đang dấy lên rầm rộ.

    Ngày 26/9, đơn vị Nam tiến đầu tiên đã có thể xuất phát từ ga xe lửa Hàng Cỏ (Hà Nội). Từ đó, ngày nào cũng có chuyến tàu chở quân hối hả băng về phương Nam. Suốt cuộc hành trình, anh em hát vang bài: Tiếng súng vang sông núi miền Nam, Ầm đất nước Việt Nam, Ta muốn băng mình tới phương Nam, Xé xác quân tham tàn... Tàu dừng ở ga nào cũng có đồng bào đón sẵn và tặng bánh trái, lương thực.

    Chỉ một thời gian ngắn, mỗi tỉnh phía Bắc đều có một, hai chi đội Nam tiến. Quân số mỗi chi đội thường tương đương trung đoàn sau này, nhưng cũng có chi đội chỉ tương đương tiểu đoàn, đại đội.

    Cũng không quên nhắc đến tỉnh Quảng Ngãi, quê hương của đội du kích Ba Tơ, với sự nỗ lực cao nhất đã xin được gửi vào Nam mười chi đội đã qua huấn luyện cơ bản 2.

    Chi đội Nam Long vào sớm nhất, đã tham gia chiến đấu ở mặt trận tiền tuyến Sài Gòn - Gia Định. Năm đó anh Nam Long cũng mới hăm mấy tuổi, là chiến sĩ bảo vệ tin cẩn của Hồ Chủ tịch từ Việt Bắc cho đến khi về Hà Nội. Anh hăng lắm nên đánh bạo xin Bác vào Nam tiến. Bác đồng ý. Vậy là anh lên đường ngay và được chỉ định làm Chi đội trưởng, vừa hành quân, vừa nắm tình hình đơn vị. Hiện nay anh là Trung tướng, nghỉ hưu ở quận Tân Bình, Thành phố Hồ Chí Minh. Tuy là một lão tướng từng trải với ba mươi mấy năm trận mạc, anh vẫn thích nhắc đến những trận đánh vỡ lòng ở căn cứ Việt Bắc và ở thành phố mang tên Bác với nhiều kỷ niệm sâu sắc không thể quên.

    Cũng trong cuối tháng 9/1945, lực lượng vũ trang của các tỉnh miền Tây đang lúc mới hình thành cũng cấp tốc cử một tiểu đội đến một trung đội lên góp lửa với Sài Gòn - Chợ Lớn, chủ yếu ở mặt trận đường 4 và mặt trận phía tây. Do chưa có kinh nghiệm chiến đấu và tổ chức chặt chẽ, anh em không trụ lại được lâu.

    Đầu tháng 10/1945, Ủy ban kháng chiến Nam Bộ huy động các phân đội của Tân An, Mỹ Tho, Cần Thơ và Rạch Giá theo quốc lộ 4 đánh vào Phú Lâm nhưng trận đánh không thành công.

    Các tỉnh miền Đông, càng gần gũi với Sài Gòn - Chợ Lớn đã sát cánh chiến đấu ngay từ những ngày đầu.

    Tỉnh Biên Hòa với thành tích một tháng mở được hai lớp đào tạo cán bộ tiểu đội, trung đội tại Trại huấn luyện du kích Bình Đa - Vĩnh Cửu, cử một phân đội chiến đấu tại cầu Bình Lợi bên cạnh bộ đội Nam tiến.

    Ở chiến tuyến cầu Bến Phân và chiến tuyến cầu Bông, trong lực lượng chi viện cho Sài Gòn - Chợ Lớn của tỉnh Thủ Dầu Một có nhiều anh em “Việt Nam mới” người Xtiêng, Chăm, Khmer bên cạnh anh em người Việt. Vũ khí của anh em là cung ná.

    Có một việc xảy ra, lúc đó hơi căng thẳng, nhưng bây giờ gần một nửa thế kỷ trôi qua nhắc lại coi như một mẩu chuyện vui. Số là trong một trận đánh, quân Pháp bắn đạn đum đum nên nghe tiếng nổ ở phía sau. Vậy mà anh em “Việt Nam mới” cho là đồng đội người Việt chơi không tốt, bắn vào lưng mình, bèn rủ nhau bỏ về. Lúc ấy tôi đang có mặt tại đó, tôi cùng các đồng chí chỉ huy giải thích hồi lâu anh em mới thông và ở lại tiếp tục đánh giặc. Giặc rất ngán những mũi tên bay đến mục tiêu “không cần lên tiếng” của chiến sĩ “Việt Nam mới”.




-----------------------------------------------------------------
1. Trung đội sư tăng này thuộc đệ tứ chiến khu, đã được huấn luyện quân sự và hoạt động trong thời kỳ tiền khởi nghĩa.

2. Từ ngày 23/10/1945, quân Pháp mở rộng chiến tranh, do đó các đơn vị Nam tiến phần lớn dừng lại chiến đấu ở cực Nam Trung Bộ và Tây Nguyên chứ không vào Nam Bộ nữa.

Logged
hoi_ls
Thượng tá
*
Bài viết: 5098



« Trả lời #11 vào lúc: 04 Tháng Chín, 2022, 05:23:20 pm »

*
*      *


    Ngày 15/10/1945, Xứ ủy lâm thời tiến hành hội nghị tại ấp Cầu Vẽ, ngoại vi thị xã Mỹ Tho. Tham gia cuộc hội nghị có Hoàng Quốc Việt - đại diện Ban Thường vụ Trung ương Đảng, Ung Văn Khiêm - Bí thư Xứ ủy, Nguyễn Văn Nguyễn, Nguyễn Văn Kỉnh, Nguyễn Thị Thập, Lê Văn Sô, Huỳnh Phan Hộ, Tôn Đức Thắng, Lê Duẩn, Trần Ngọc Danh, Phạm Hùng và Nguyễn Văn Vịnh. Trần Văn Giàu không có mặt.

    Ý nghĩa lịch sử của hội nghị này là cho tới hôm nay, Nam Bộ mới có được một xứ ủy thống nhất trên cơ sở giải thể cả hai xứ ủy Tiền phong, Giải phóng và bầu cử dân chủ. Xứ ủy mới gồm 11 ủy viên, trong đó có các đồng chí ở hai xứ ủy cũ và các đồng chí vừa từ Côn Đảo về. Theo một số đồng chí nói lại thì lần đó hội nghị nhất trí cử bác Tôn làm Bí thư Xứ ủy, nhưng bác khiêm tốn từ chối không muốn nhận trọng trách này.

    Hội nghị cũng quyết định thống nhất các tỉnh ủy ở những nơi đang có hai tỉnh ủy và chỉ định một số bí thư tỉnh ủy 1.

    Mặt trận Việt Minh cũng được kiện toàn, trong đó Thanh niên Tiền phong coi như đã hoàn thành nhiệm vụ lịch sử, giới thanh niên được tập hợp trong Đoàn Thanh niên cứu quốc.

    Nội dung thứ hai được thảo luận kỹ là vấn đề tác chiến. Hội nghị phê phán cách đánh lập phòng tuyến, dàn hàng ngang cản địch là không thích hợp và quyết định lấy “đấu tranh du kích” làm chính.

    Đúng như vậy. Và trường hợp chiến đấu đến viên đạn cuối cùng và người cuối cùng tuy đáng khâm phục về tinh thần nhưng không lợi cho việc xây dựng, phát triển lực lượng, như trường hợp tiểu đội bảo vệ cột cờ Thủ Ngữ hay như hai phân đội của Hổ và Bảy Thưởng ở chiến tuyến Thị Nghè.

    Còn cách đánh du kích thật ra đã xuất hiện ở mặt trận nội đô từ ngày đầu có chiến tranh. Có thể nêu vài ba trận đánh, chủ yếu bằng mưu mẹo:

    - Một tài xế người Việt, nhận làm việc cho một viên chức cao cấp Pháp - Một hôm, anh chở nó qua Cầu Kho có việc, đến con hẻm, anh giả đò nghẹt xăng và ngưng xe lại. “Việt Minh” là đồng đội của anh đã phục sẵn, cùng anh kết liễu đời tên Pháp thực dân rồi mò lưng lấy súng.

    - Còn Sáu Cúc là gái điếm ở Chợ Đũi, dùng kế mỹ nhân dụ một tên lính Pháp đi theo. Một tự vệ đã đợi sẵn, lụi ngay mũi mác nhọn vào rốn nó. Nó ôm mũi mác mà té chúi nhũi trước khi chết.

    Trở lại những ngày đầu tháng 10.

    Sau một tuần lễ chiếm đóng được dăm bảy công sở trong thành phố và nhiều lần định dựa vào lực lượng quân Anh, quân Nhật cùng phá vỡ vòng vây Sài Gòn - Chợ Lớn nhưng đều thất bại, bọn Pháp tự thấy đã lâm vào cảnh khốn đốn, nguy nan với chiều hướng ngày một tăng. Ngày 02/10/1945, bọn Pháp phải nhờ quân Anh đứng làm trung gian điều đình với ta. Tuy thừa biết Pháp điều đình chỉ cốt để hoãn binh chờ cứu viện đang trên đường đến Đông Dương mà Đại tá Cédihe đại diện cho Pháp ở Sài Gòn không đủ thẩm quyền điều đình, nhưng ta vẫn nhận lời để tỏ cho Đồng minh biết là ta có thiện chí.

    Trước đó, Bộ trưởng Bộ Tuyên truyền Trần Huy Liệu, thay mặt Chính phủ lâm thời, đã có chỉ thị cho Ủy ban kháng chiến Nam Bộ trong khi điều đình phải đòi cho được ba điều:

    1/ Thừa nhận Việt Nam độc lập.

    2/ Thừa nhận Chính phủ dân chủ cộng hòa do Cụ Hồ Chí Minh làm Chủ tịch.

    3/ Đình chỉ các vụ bắn giết.

    Sáng 02/10, hai đại diện bên ta là Phạm Văn Bạch và Phạm Ngọc Thạch gặp Cédille và Repiton Preneuf, cả hai cùng là đại tá Pháp. Tướng Gracey - Trưởng phái bộ Anh được mời dự.

    Vào đầu cuộc họp, hai bên thỏa thuận là sẽ ngưng bắn ngay để tạo điều kiện cho việc điều đình. Nhưng khi thật sự đi vào thảo luận, thì ý kiến thường khác nhau xa. Cédille đưa ra một danh sách những tên Pháp bị ta bắt giữ và xin được thả (kỳ thật số đông đã tử trận). Ta cho biết, chính quân Pháp khai chiến trước nên những người Pháp bị chết, bị mất tích hay bị bắt thì Ủy ban kháng chiến Nam Bộ đều hoàn toàn không chịu trách nhiệm. Nhưng nếu cuộc điều đình tiến triển tốt thì ta sẽ điều tra giúp số người Pháp còn sống sót đang bị giam giữ.

    Cédille thừa nhận sáng 23/9 Pháp đã nhờ quân Anh giúp đỡ để đánh úp ta. Ta đòi thiết lập lại chính quyền ở Sài Gòn - Chợ Lớn nguyên như trước ngày 23/9 và phải có một đội cảnh binh toàn người Việt Nam. Cédille xin để trả lời sau.

    Ta cho biết trong khi chờ đợi bên Pháp trả lời, Ủy ban kháng chiến Nam Bộ vẫn tiếp tục chủ trương triệt để tổng đình công và bất hợp tác.
    Đêm 06/10/1945, lại gặp gỡ nhau lần thứ hai, ta nêu mấy yêu sách:

    - Đưa tình hình trở lại như trước ngày 23/9.

    - Định rõ trách nhiệm cuộc xung đột này thuộc về ai.

    - Quân Pháp phải giải giáp và người Pháp phải ở cả vào một khu quy định nhất định như trước ngày 23/9.

    - Quân đội Pháp không được đổ bộ thêm lên Việt Nam.

    - Thả ngay những người bị Pháp bắt.

    Cédille lại nêu vấn đề những người Pháp bị bắt, bị mất tích và ngỏ ý muốn giữ chủ quyền Pháp ở Sài Gòn - Chợ Lớn.

    Về các yêu sách của ta, Cédille ngần ngừ, đoàn đại biểu ta cho biết ngay là nếu hai bên không thỏa thuận được thì sẽ không có cuộc gặp gỡ lần thứ ba nữa, chiến tranh lại tiếp tục. Cédille nài thêm 48 tiếng đồng hồ đình chiến nữa với cớ để có đủ thì giờ nghiên cứu các yêu sách của ta. Như vậy đến 10 giờ ngày 08/10 sẽ hết hạn đình chiến.

    Tuy vậy, 15 giờ ngày hôm đó, đại biểu ta lại đồng ý gặp Cédille lần thứ ba. Cédille vẫn tiếp tục giữ lập trường cũ, còn đối với những yêu sách của ta thì cho biết ý định sẽ đề đạt lên thượng cấp ở Calcutta (Ấn Độ) xét sau. Một lần nữa Cédille lại tìm cách hoãn chiến.

    Hỗ trợ đắc lực cho Cédille, tướng Anh Gracey hết hăm dọa sẽ dùng võ lực đàn áp Quân đội Việt Nam nếu có việc gì xảy ra đối với quân Anh, lại quay ra mềm dẻo vì thấy đoàn đại biểu ta rất “cứng cựa”. Gracey đề nghị kéo dài thời gian đình chiến thêm 48 tiếng đồng hồ nữa, ta chấp thuận và nói rằng đây là lần cuối cùng.

    Đúng là bọn Pháp điều đình chỉ cốt để hoãn binh.

    Ngày 03/10, một tiểu đoàn thuộc Trung đoàn bộ binh thuộc địa số 5 (5e RIC) đến Sài Gòn.

    Ngày 05/10, Đại tướng Leclerc, với chức danh Tổng Tư lệnh quân đội viễn chinh Pháp tại Đông Dương, từ bản doanh ở Chandernagor (Ấn Độ), đáp máy bay tới Sài Gòn. Chức danh này của Leclerc được De Gaulle phong cho ngày 17/8/1945, hai ngày sau khi nước Nhật đầu hàng Đồng minh.

    Báo chí tường thuật, Leclerc hạ cánh xuống phi trường Tân Sơn Nhất trong lúc trời mưa tầm tã. Nhưng sau đó họ lờ không tường thuật những hành động hiếu chiến của y như thế nào. Leclerc lập tổng hành dinh trong vòng rào của quân Anh, không quan tâm gì đến cuộc đàm phán cả. Việc làm tiếp ngay sau đó là vạch kế hoạch phá vòng vây và tấn công ta.

    Trong thời gian này, lữ đoàn cuối cùng của Sư đoàn 20 Hoàng gia Anh do Gracey chỉ huy cũng đến Sài Gòn. Tương quan lực lượng lại thay đổi lớn có lợi cho địch, vì từ ngày 10/10 trở đi cả quân Anh và quân Nhật theo lệnh của Gracey bắt đầu ra mặt phối hợp tác chiến với quân Pháp mà không cần che đậy như trước.

    Ngày 12/10, quân Anh đã dùng lực lượng mạnh tiến chiếm Gia Định và Gò Vấp.

    Ngày 17/10, quân Anh lại tấn công lên Gò Vấp, nhưng lần này bị đánh đau, bỏ lại chiến trường hơn 100 xác chết, 5 xe thiết giáp và tháo chạy.

    Cũng từ ngày 10 trở đi, hoạt động của ta dồn dập hơn trước.

    Ngày 13/10, quân ta đánh ở Cầu Hang (Gò Vấp) diệt được nhiều tên và đoạt 2 xe thiết giáp.

    Ngày 14/10, ta kịch chiến với quân Nhật tại Chợ Lớn và Phú Lâm, quân Nhật bị thiệt hại lớn.

    Đêm 15/10, ta tập kích các đội quân Anh canh gác sân bay Tân Sơn Nhất và đốt cháy chiếc tàu Pháp Alerte vừa cập bến Sài Gòn.

    Ngày 18/10, hai phân đội của Hai Hổ và Bảy Trường chiến đấu hy sinh đến người cuối cùng, bẻ gãy nhiều đợt tiến công của quân Pháp có tàu chiến, xe tăng và pháo binh yểm trợ định chọc thủng phòng tuyến ta ở Thị Nghè. Cuối cùng địch phải rút quân. Báo chí lúc đó đưa ra số quân Pháp bị diệt là 500 tên.

    Tóm lại, tình hình quân Pháp ở Sài Gòn - Chợ Lớn vẫn căng thẳng, khốn đốn, mặc dầu vòng vây của ta có nới rộng chút ít. Quân Pháp đã phải tổ chức một số cuộc đột kích chớp nhoáng ra các vùng ngoại thành như Tân Bình, Bà Chiểu, Gò Vấp, Thủ Đức để cướp gà, vịt, heo, bò rồi rút nhanh về. Đồng bào ở các vùng này vì vậy cũng được hướng dẫn tản cư đi nơi khác an toàn hơn phòng khi chiến sự lan tới.

    Cho tới ngày 23/10/1945, binh đoàn thiết giáp do tướng Massu chỉ huy, chủ lực quân của đội quân viễn chinh Pháp ở Viễn Đông, đặt gót đến Sài Gòn. Quân Anh trang bị thêm cho binh đoàn này các phương tiện chiến đấu trên sông như chiến hạm nhỏ, canô, phao...

    Leclerc tuyên bố rằng đây chưa phải là những đơn vị cuối cùng đến Sài Gòn. Nhưng với lực lượng đang có trong tay, quân Pháp cộng cả quân Anh và quân Nhật, đã mạnh hơn ta gấp bội.

    Ngày 23/10, Leclerc cho thực hiện ngay kế hoạch tấn công đã vạch ra.

    Từ 23/9 đến 23/10, đúng một tháng, quân dân ta vây hãm địch trong Sài Gòn -Chợ Lớn và đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ với tinh thần chủ động, quyết tâm chiến đấu cao.

    Toàn quốc tin tưởng, thương yêu hướng về Sài Gòn - Chợ Lớn, thành phố phương Nam “đi trước” để “về sau”.

    Trong một tháng quân dân Sài Gòn - Chợ Lớn vây hãm địch, các địa phương khác trong toàn Nam Bộ cũng như cực Nam Trung Bộ, Tây Nguyên có được một thời gian quý báu để ra sức chuẩn bị mọi mặt đối phó với tình hình khi chiến tranh lan đến. Đó là đóng góp rất lớn của quân dân Sài Gòn - Chợ Lớn thân thương.




------------------------------------------------------------------
1. Nguyễn Thành A - Bí thư Tỉnh ủy Tân An, Nguyễn Văn Trọng - Bí thư Tỉnh ủy Mỹ Tho, Nguyễn Văn Côn - Bí thư Tỉnh ủy Gò Công, Nguyễn Tẩu - Bí thư Tỉnh ủy Bến Tre, Trần Thị Nhung - Bí thư Tỉnh ủy Sa Đéc...
Logged
hoi_ls
Thượng tá
*
Bài viết: 5098



« Trả lời #12 vào lúc: 04 Tháng Chín, 2022, 05:25:37 pm »

CHƯƠNG III
Nam Bộ trong cuộc tấn công ồ ạt của quân Pháp


    Cuộc tấn công của quân Pháp khởi đầu từ ngày 23/10/1945.

    Khi binh đoàn thiết giáp Massu đến Sài Gòn, lực lượng quân Pháp lên tới 6.000. Bên cạnh đó là 20.000 quân Anh và 40.000 quân Nhật, cộng lại gấp mười lần lực lượng Pháp. Số quân này đủ đảm bảo cho việc thực hiện kế hoạch tấn công ba giai đoạn của Leclerc:

    -  Phá vỡ vòng vây Sài Gòn - Chợ Lớn, làm chủ thành phố.

    -  Mở rộng chiếm đóng toàn Nam Bộ và Nam Trung Bộ.

    -  Tiến hành bình định.

    Theo Leclerc, đây không phải là một kế hoạch phiêu lưu mà có tính toán, hoạch định hẳn hoi. Tin tưởng với kế hoạch của mình và với chiến lược cổ truyền của các đội quân xâm lược “tốc chiến, tốc thắng”, ông ta tuyên bố “Sau ba tháng sẽ bình định xong Nam Kỳ”.

    Sơ lược diễn biến những ngày đầu như sau:

    23/10: Quân Anh khởi sự cho việc phá vây bằng trận đánh thốc lên Thủ Dầu Một, phía bắc Sài Gòn.

    25/10: Quân Pháp đánh chiếm Biên Hòa, phía đông bắc Sài Gòn.

    Cùng ngày, cuộc hành quân mang tên Moussac về hướng đồng bằng sông Cửu Long, bắt đầu do Đại tá Massu chỉ huy.

    Quân Nhật được phân công đi trước dọn đường dọc quốc lộ 4. Để hoàn thành nhiệm vụ, chúng sục vô nhà dân lôi người ra sửa lộ và tiện thể cướp của luôn. Chúng được phép tự do đốt nhà, vì vậy chúng đi tới đâu là lửa cháy ngùn ngụt tới đó.

    Xe tăng quân Pháp đi sau, vượt qua hỏa lực súng nhẹ của ta không khó khăn lắm mặc dầu ở cầu Bình Điền, cầu Bến Lức..., ta đều có những tổ mai phục.

    Theo đường sông, hai chiến hạm Pháp là Richelieu và Triomphant từ Cần Giờ qua sông Soài Rạp tiến xuống Gò Công, hợp điểm tại đây với một mũi bộ binh hành quân từ Sài Gòn theo liên tỉnh lộ 5.

    Đêm 25/10, hai chiến hạm vừa nói ở trên chở quân lên đánh chiếm thị xã Mỹ Tho. Mũi bộ binh, xe tăng đi theo lộ 4 mãi 10 giờ sáng ngày hôm sau mới đến, do cầu Tân Hương đã bị ta gỡ hết ván.

    Đến đây, các cánh quân bộc lộ rõ nhược điểm là hành quân rất chậm và thường bị tiêu hao nhiều lần trước khi đến đích, quân Pháp cấp tốc thành lập một binh chủng mới là “hạm đội nhỏ trên sông” (Flottille Fluvide). Hạm đội nhỏ trên sông sẽ đóng vai trò chủ công trong việc đánh chiếm các tỉnh còn lại ở châu thổ sông Cửu Long. Chính vai trò của binh chủng thủy quân dã chiến trên hai chiến hạm Richelieu và Triomphant đã thể hiện rõ trong đợt tiến công đầu tiên.

    29/10: Sau hai ngày cho tàu chiến từ Mỹ Thuận chạy dọc theo sông Cổ Chiên thăm dò, chúng đổ bộ đánh chiếm Vĩnh Long.

    30/10: Cũng bằng tàu chiến, chúng đổ quân đánh chiếm Cần Thơ.

    Tất nhiên, địch đã gặp sự chống cự của quân và dân ta, có nơi quyết liệt. Nhưng với lực lượng mạnh áp đảo, nhìn chung cuộc chinh phạt của chúng gọn ghẽ, đúng bài bản đã được định trước.

    Ta thử coi lại một tháng Sài Gòn - Chợ Lớn bao vây địch, các tỉnh miền Tây đã làm được những gì để chuẩn bị vào cuộc chiến.

    Có nhiều việc phải làm và đã làm được. Nhưng hãy chỉ nói riêng về mặt chuẩn bị lực lượng.

    Ở Chợ Lớn cũng như ở Tân An, hàng chục ngàn người đã mang dao, cuốc, leng ra đốn cây, xẻ rãnh, đắp mô trên quốc lộ 4 và liên tỉnh lộ 5. Năm, sáu chục chiếc ghe chài chở đất làm cản trên kênh Nước Mặn và Rạch Cát. Hàng trăm xuồng ghe được kết lại bằng dây cáp chặn ngang sông. Trạm tù và ở các cầu và từng đoạn lộ sẵn sàng báo động khi có địch.

    Mỹ Tho lập khoảng 15 phòng tuyến ngăn địch, đánh sập hoặc gỡ ván các cầu, phá hoại lộ 4 đi Sài Gòn, lộ 24 đi Gò Công, lộ 28 đi Cai Lậy, nhận chìm một số ghe chài, xà lan và một trăm cây giá tị (lấy được của Nhật) ở sông Ba Rày để cản tàu. Các binh công xưởng thành lập, bắt tay sản xuất lựu đạn chày và sửa súng ngay. Đồng Tháp Mười được chọn làm căn cứ. Còn nhân dân sẵn sàng tiêu thổ kháng chiến, tản cư khỏi các thị xã, thị trấn.

    Gò Công được Ủy ban kháng chiến Nam Bộ giao cho nhiều vật liệu, máy móc lấy ở hãng Xáng Mỹ Tho để thành lập binh công xưởng (binh công xưởng này hơi cồng kềnh), đã sản xuất được nhiều lựu đạn. Ngoài lực lượng chiến đấu tại chỗ là du kích tự vệ, cộng hòa tự vệ và cộng hòa vệ binh tỉnh, Gò Công được tăng cường một bộ phận Cộng hòa vệ binh Nam Bộ (Đệ nhất sư đoàn dân quân cách mạng) do Phó Tư lệnh Trương Văn Giàu chỉ huy. Theo lệnh của Ủy ban kháng chiến Nam Bộ, bộ phận này có nhiệm vụ cản bước tiến của địch trên lộ 5 cũng như trên đường thủy đi Hậu Giang. Trong các phòng tuyến đã được xác lập, Cộng hòa vệ binh Nam Bộ chọn Cầu Nổi làm điểm phòng ngự chủ yếu.

    Anh Trương Văn Giàu chính quê ở chợ Giồng Gò Công. Anh lưu lạc lên Sài Gòn tìm kế sanh nhai, hết làm loong toong cho các hãng dầu Shell lại làm thợ cho hãng ôtô Citroen rồi vào lính khố xanh lên tới chức quản. Nhưng nay anh trở về quê cũng còn rất trẻ, mới tuổi hăm ba.
    Nội bộ cán bộ Gò Công không nhất trí với nhau trong việc thực hiện vườn không nhà trống, nên cuối cùng chỉ phá một số ngôi nhà lớn ở thị xã, cầu đường vẫn còn nguyên vẹn.

    Ngược lại, công tác phá hoại ở Vĩnh Long được thực hiện triệt để với tinh thần “không chừa lại một thứ gì địch có thể lợi dụng được”. Trên các trục đường bộ, cây lớn, cây nhỏ đều bị hạ chặt làm vật ngăn địch; mặt đường bị đào đứt hoặc thành nhiều hố nham nhở. Trên từng đoạn sông Cổ Chiên, Long Hồ, Măng Thít, nhân dân làm một số cản rất chắc chắn. Trong lúc các cơ quan dời về ngã tư Long Hồ (trên lộ Vĩnh Long - Trà Vinh), dân chúng được lệnh tản cư, thì lực lượng vũ trang được chuẩn bị trước về vũ khí và lương thực, kiên quyết ở lại nghinh chiến với địch. Anh em bố trí thành nhiều phòng tuyến trên cả ba trục lộ Vĩnh Long - Cần Thơ, Vĩnh Long - Trà Vinh, Vĩnh Long - Sa Đéc.

    Nếu ở một số tỉnh còn tình trạng các đơn vị độc lập tác chiến không phối hợp chặt chẽ với nhau thì ở Cần Thơ lúc này có “Bộ tham mưu” là cơ quan chỉ huy thống nhất các lực lượng cộng hòa vệ binh, du kích, các bộ đội. Thực chất “Bộ tham mưu” là Ban Chỉ huy quân sự.

    Trong Ủy ban kháng chiến Hậu Giang (gồm tất cả các tỉnh miền Tây), anh Trần Văn Khéo làm Chủ tịch, còn anh Huỳnh Phan Hộ làm Phó Chủ tịch kiêm Ủy viên quân sự. Anh Hộ rất xông xáo, thời gian phần nhiều dành để đi kiểm tra các phòng tuyến, kiểm tra việc di chuyển máy móc, cơ sở binh công xưởng về nông thôn.

    Khi địch chiếm Mỹ Tho thì Cần Thơ bắt đầu có lệnh tản cư và có kế hoạch phá hoại nhà đèn, nhà máy nước, nhà bưu điện... Tiếc rằng đêm 29/10, quân Nhật được lệnh của quân Anh đã đến gác ở những nơi đó nên ta không thể thực hiện được việc phá hoại.

    Như vậy, có thể khẳng định là khi địch tấn công đến ta không bị bất ngờ. Duy có chiến thuật phòng ngự theo kiểu dàn hàng ngang thành nhiều chiến tuyến là cách đánh không phù hợp.

    Mặt trận đường 4 bị vỡ sớm, nhưng Tư lệnh Dương Văn Dương kêu gọi binh sĩ Bình Xuyên “Hãy tỏ rõ mình là người chiến sĩ cách mạng”, nên đơn vị Bình Xuyên vẫn còn nguyên, sau đó thì lui xuống Rừng Sác lập căn cứ kháng chiến.

    Trên quốc lộ 4, quân Nhật tiến với tốc độ chậm như rùa vì phải đối phó với quân ta. Trong một ngày, mới đầu chúng chỉ đi được 20km. Ở khu vực Cần Giuộc - Cần Đước (Tân An), địch bị chặn đánh cả trên bộ và dưới sông, một tuần lễ sau chúng mới hoàn thành việc chiếm đóng.

    Ở Gò Công, hai chiến hạm Richelieu và Triomphant đến lởn vởn ở bến phà Cầu Nổi (cách thị xã 12km) rồi tiến vào định đổ bộ nhưng lại phải lùi ra giữa sông vì gặp phải hỏa lực của ta. Hơn một tiếng đồng hồ sau đó chúng thấy bên ta im ắng nên lại cho tàu cập bờ đổ bộ. Nhưng mới đặt chân lên bờ, chúng phải xô đẩy nhau nhảy ào xuống tàu trở lại, vì ta bắn tới tấp. Ít nhất có ba lính Pháp đền mạng, một tàu đổ bộ của chúng bị lật chìm.

    Sau đó, do cân nhắc lực lượng ta mỏng, địch đông và hỏa lực mạnh, dẫu tiếp tục chiến đấu cũng khó giữ vững phòng tuyến, trên cho các đơn vị rút về sau. Vì vậy sáng hôm sau địch đổ quân lên được Cầu Nổi.

    Ngày 26/10, địch từ Cầu Nổi vào và từ Mỹ Tho xuống chiếm được thị xã Gò Công. Chúng bị chặn đánh ở nhiều nơi. Ngay đêm đó cộng hòa tự vệ táo bạo tập kích bằng cách dỡ ngói ném lựu đạn vào các nhà có lính ngủ (góc nhà thương thị xã) gây thương vong cho chúng.

    Hơn một tháng sau khi chiếm được thị xã, địch chỉ loanh quanh tại khu vực trung tâm, vài ba lần dè dặt hành quân ra vùng ngoại ô đều bị du kích chặn đánh. Ngày 20/12/1945, hai tên lính Pháp vô làng Tân Duân Trung cướp heo, một tên bị đồng bào ta giết chết. Hôm sau, để trả thù, chúng phải mở cuộc càn lớn giết sáu đồng bào ta, cắt đầu bêu cọc và đốt trụi hơn 200 căn nhà làng Tân Duân Đông.

    Lực lượng vũ trang Vĩnh Long bám địch đánh gần ba tháng trời chúng mới hoàn toàn chiếm được thị xã. Trận Cầu Lầu là trận đánh trên đường ta rút quân, 2 tên Pháp bị diệt và 3 tên khác bị thương. Trận Cầu Ông Me (Long Hồ) sau đó, ta đánh địch suốt một ngày trời diệt một tiểu đội lính Pháp và làm bị thương nhiều tên khác, đoạt 10 súng trường, 1 súng cối 60 ly và 6 trái lựu đạn.

    Tại Cần Thơ, 1 trung đội cộng hòa vệ binh chống cự quyết liệt với cánh quân địch ở Cầu Đôi Cái Khế. Khi chúng tiến vào thành phố, 1 đại đội cộng hòa vệ binh và du kích phòng thủ tại cầu Tham Tướng cầm cự suốt cả tiếng đồng hồ, chúng không dám lên. Về sau địch tăng thêm quân đánh bọc hậu và cho pháo hạm bắn bên hông trận địa, trên cho đơn vị rút về phía Cái Răng để bảo toàn lực lượng.

    Chừng đó sự việc, chừng đó trận đánh không thể nói lên đầy đủ tinh thần chiến đấu của quân ta. Ở đâu cũng có gương dũng cảm ngoan cường rất đáng cảm phục. Nhưng qua đó ta cũng nhận thấy đúng là lực lượng vũ trang ta lúc này còn quá non kém. Rồi đây cùng với thời gian, ta phải dần dần khắc phục những mặt non kém, chuyển yếu thành mạnh, đặng đưa cuộc kháng chiến tiến tới.
Logged
hoi_ls
Thượng tá
*
Bài viết: 5098



« Trả lời #13 vào lúc: 04 Tháng Chín, 2022, 05:31:40 pm »

*
*      *


    Tuy muốn đánh nhanh và giải quyết nhanh, đến đây quân Pháp vẫn buộc phải dừng nửa chừng để củng cố và chờ thêm viện binh. Nhiều vùng nông thôn của ta, kể cả các tỉnh đã tạm bị chiếm, vẫn chưa bị địch đặt chân đến. Trong điều kiện như vậy, trong ba tháng cuối năm 1945, bên ta có mấy sự kiện quan trọng cần ghi lại.

    Ngày 25/10/1945, Xứ ủy Nam Bộ mở hội nghị đại biểu các tỉnh, thành gần chợ Thiên Hộ (làng Hậu Mỹ, quận Cái Bè, tỉnh Mỹ Tho). Đây là hội nghị đông nhất so với trước. Ngoài đồng chí Hoàng Quốc Việt - Đại diện Ban Thường vụ Trung ương Đảng, còn có một số đồng chí vừa ở nhà tù Côn Đảo về.

    Hội nghị nhận định tình hình và rút ra những ưu điểm, khuyết điểm về chỉ đạo kháng chiến từ sau hội nghị Cây Mai (23/9/1945). Nhiều ý kiến phê phán những lệch lạc trong việc xây dựng lực lượng vũ trang sau Cách mạng Tháng Tám và đề ra nguyên tắc Đảng phải nắm chắc lực lượng vũ trang. Hội nghị quyết định phải gấp rút xây dựng lực lượng quân sự, chính trị rộng khắp lấy du kích chiến là chính, làm vườn không nhà trống, đẩy mạnh công tác trừ gian, xây dựng cơ sở bí mật trong các thành phố, thị xã bị địch chiếm, khôi phục chính quyền ở những nơi bị tan vỡ.

    “Những lệch lạc trong việc xây dựng lực lượng vũ trang sau Cách mạng Tháng Tám” mà hội nghị nêu ra, chủ yếu nói về bốn sư đoàn dân quân cách mạng. Trước đây chưa lâu có người chưa nhận ra hoặc bênh vực, bào chữa cho nó. Nhưng đến nay thì mọi việc đều rõ ràng.

    Đệ nhất sư đoàn, còn gọi là cộng hòa vệ binh do Kiều Công Cung và Trương Văn Giàu chỉ huy, có khoảng 10.000 quân và 2.600 súng 1. Gốc của nó là ba lữ đoàn bảo an binh, sau đó thu nhận thêm công nhân, nông dân, học sinh, cựu binh sĩ. Cộng hòa vệ binh có hệ thống xuống các tỉnh là những đơn vị bảo an binh cải tổ 2.

    Qua thử lửa đoàn quân này bị phiêu bạt lung tung, nhiều phân đội nhỏ chạy về sáp nhập vô các bộ đội khác của địa phương.

    Một bộ phận do Trương Văn Giàu đưa về hoạt động ở Gò Công, như đã có nói ở phần trước.

    Một bộ phận do Kiều Công Cung dẫn về Sa Đéc, có một số hành động mất lòng địa phương như buộc lực lượng vũ trang của tỉnh sáp nhập vào cộng hòa vệ binh, bắt chính quyền cung ứng lương thực, thực phẩm đúng thời hạn, dung túng cho binh lính đi quấy nhiễu. Khi quân Pháp uy hiếp thị xã Sa Đéc, bộ phận này tiếp tục rút xuống U Minh, Cà Mau.

    Đệ nhị sư đoàn, thành phần là giáo dân Cao Đài, phái Tây Ninh, có 10.000 quân nhưng vũ khí thì kém, khoảng 100 súng mà thôi. Sự tan rã của sư đoàn này xảy ra quá sớm, từ đầu tháng 9/1945, ngay khi quân Anh lên tiếng đòi tước vũ khí bộ đội Việt Nam. Tên Vũ Tam Anh - đảng viên Đại Việt, chỉ huy sư đoàn đầu hàng địch, làm việc cho phòng nhì Pháp (2e bureau) rồi trở lại móc nối, lôi cuốn một loạt phần tử cơ hội cùng ra làm tay sai cho địch như: Lâm Văn Phát, Trần Quang Vinh, Dương Quang Đặng, Phạm Công Tắc...

    Đệ tam sư đoàn, do Nguyễn Hòa Hiệp - một nhân viên hiến binh cũ của Nhật chỉ huy. Quân số 6.000 3, súng trên 400. Nói cho công bằng, sư đoàn này có đánh được vài trận ở vùng ngoại ô, nhưng sau đó thì cứ rút lui mãi từ trước khi địch đến và biến thành thổ phỉ!

    Bằng chứng thì quá nhiều, có thể ghi thành một cuốn sách nói về những nét hằn của một đội quân “thua làm giặc”.

    Rút chạy mà Nguyễn Hòa Hiệp còn sung công cả gánh cải lương Nhạn Trắng và một số kịch sĩ đi theo để hưởng lạc. Đồ đạc cồng kềnh thì bắt xe lam chở. Rút chạy mà chúng còn ra oai, cướp không 40 khẩu súng của du kích Hóc Môn, đi đến đâu cũng “rượt hành chính, đánh công an”, bắt dân cống nạp heo gà và phục dịch mọi thứ.

    Tháng 11/1945, lúc này tôi đã thay anh Hoàng Dư Khương làm Chính trị viên Giải phóng quân liên quận Hóc Môn - Bà Điểm - Đức Hòa, đóng quân ở làng Mỹ Hạnh. Một hôm anh em báo cho biết có Phạm Hữu Đức - “Phó Tư lệnh Đệ tam sư đoàn” đến gặp. Tôi cho một trung đội trang bị súng bén phục chung quanh nhà, rồi mời Đức vào tiếp đón đàng hoàng. Đức mặc quần áo sĩ quan Pháp, đeo kiếm Nhật ngang hông, chân mang bốt, trông có vẻ dữ dằn. Còn trang phục của tôi là bộ bà ba đen, trang phục phổ biến của bộ đội ta lúc này. Đức đòi Giải phóng quân liên quận trả số anh em “công binh điện xa”, khoảng hai tiểu đội mới từ trong thành ra tình nguyện gia nhập Giải phóng quân, với lý do đó là người của Đệ tam sư đoàn. Đây là một cớ thôi, tôi chắc Đức còn muốn đòi hỏi Giải phóng quân nhiều thứ khác nữa kia, và hễ được đàng chân sẽ lân đàng đầu. Tôi trả lời Đức một cách cứng rắn là Giải phóng quân không tranh người của ai cả, rồi nói thêm cho y cứng họng luôn: “Pháp đang đánh rộng ra, nếu các anh là người kháng chiến thì hãy sát cánh cùng chúng tôi chiến đấu vì Tổ quốc”. Quả nhiên Đức cảm thấy đuối lý hoàn toàn, đành cáo từ ra về.

    Đệ tam sư đoàn rút chạy một lèo từ Hóc Môn qua Đức Hòa, Đức Huệ, băng qua Cai Lậy, Cao Lãnh. Đi đến đâu chúng cướp không xuồng ghe đến nấy, đó là thứ tư liệu sản xuất và phương tiện vận chuyển, đi lại không thể thiếu của người dân. Đã vậy, có những khúc kênh cạn, chúng còn bắt dân lội xuống đẩy xuồng ghe nữa.

    Cuối cùng, đám binh lính đã biến thành thổ phỉ cũng tan tác mỗi nhóm đi một phương, những người có tinh thần dân tộc thật sự thì bỏ đi tìm những đơn vị khác tiếp tục chiến đấu. Riêng “Tư lệnh” Nguyễn Hòa Hiệp còn một trung đội tay chân, đi ghe từ Cao Lãnh về Đức Huệ rồi ra hàng Pháp ở Bến Lức (Trung Quận, Chợ Lớn). Hay tin, phòng nhì Pháp từ Sài Gòn cho xe xuống chở về thành phố ngay. Còn Phạm Hữu Đức về với kháng chiến, được chỉ huy một trung đoàn, nhưng sau đó y bị bắt và xử lý vì làm gián điệp cho địch.

    Đệ tứ sư đoàn, do Lý Huê Vinh, tay sai cũ của Nhật, chỉ huy với 5.000 quân và 100 súng. Với danh nghĩa “giữ phòng tuyến Tham Lương”, sư đoàn này toàn đùn đẩy các đơn vị khác lên phía trước, còn bản thân ở lại sau để ăn chặn đồ tiếp tế và quấy nhiễu.

    Giải phóng quân liên quận Hóc Môn - Bà Điểm - Đức Hòa tiến hành công tác vận động binh sĩ, lấy được một số vũ khí và làm tan rã đệ tứ sư đoàn.

    Bộ tam “Tư lệnh” Lý Huê Vinh, “Phó Tư lệnh” Trần Xuân Nam, “Tham mưu trưởng” Nguyễn Thành Long cùng ra đầu hàng Pháp.

    Đó là thực chất của bốn sư đoàn dân quân cách mạng. Sự tan rã và cả sự quậy phá của chúng là điều không tránh khỏi. Chỉ có điều ta không thấy trước và đánh giá chúng khác nhau.

    Tuy hình thành từ tháng 10, ngày 01/11/1945, Giải phóng quân liên quận Hóc Môn - Bà Điểm - Đức Hòa mới làm lễ thành lập tại làng Mỹ Hạnh (quận Đức Hòa, tỉnh Chợ Lớn). Đây là một trong những đơn vị vũ trang hình thành đúng như tinh thần hội nghị Thiên Hộ. Thật ra, trong một cuộc họp liên tịch giữa Tỉnh ủy “Giải phóng” Gia Định và một số đảng viên đang chỉ huy các bộ đội ở tây bắc Sài Gòn trước đây đã đề cập sát sườn đến việc này, dẫn đến sự ra đời của Giải phóng quân liên quận hôm nay. Những đảng viên đó đến nay kẻ còn người mất, kẻ còn chỉ ít thôi, tôi muốn nhắc lại họ tên họ: Hoàng Dư Khương, Tô Ký, Cao Đức Luốc, Ba Súng, Năm Râu, Phan Văn Voi, Phan Đức, Sáu Ngói, Hoàng Tường, Ba Nhỏ (thay Huỳnh Văn Một) và tôi (Trần Văn Trà). Bộ Tham mưu (tức Ban Chỉ huy) gồm: Tô Ký - Tư lệnh, Hoàng Dư Khương - Chính trị viên và bốn phó tư lệnh là Cao Đức Luốc, Huỳnh Văn Một, Huỳnh Tấn Chùa, Hoàng Tế Thế. Biên chế của đơn vị có 6 đại đội. Ngay sau đó anh Hoàng Dư Khương xin chuyển sang ngành dân chính, tôi thay anh làm Chính trị viên.

    Tôi có thể kể nhiều về cán bộ, chiến sĩ trong đơn vị, nhưng ở đây chỉ có thể nói qua một vài người.

    Anh Tô Ký, là một đảng viên hoạt động từ thời kỳ Nam Kỳ khởi nghĩa, bị Pháp bắt giam ở Tà Lài (Thủ Dầu Một). Năm 1941, anh vượt ngục, về lại quê nhà ở Hóc Môn và bắt được liên lạc với các đồng chí trong Tỉnh ủy “Giải phóng” Gia Định.

    Anh Huỳnh Tấn Chùa, vào đảng năm 1930, từng chỉ huy đội tự vệ đỏ trong các cuộc đấu tranh những năm 1931-1932. Anh trực tiếp chỉ huy một đại đội, đánh địch rất quyết liệt. Tác phong lại giản dị, sâu sát chiến sĩ, anh có uy tín cao trong đơn vị. Năm 1947, anh bị bệnh, từ trần, được truy phong trung đoàn trưởng.

    Anh Huỳnh Văn Một, cũng là một đảng viên kỳ cựu từ những năm 1930. Lực lượng vũ trang Đức Hòa do anh đứng ra tổ chức sau Cách mạng Tháng Tám có tới ba đại đội hoàn chỉnh, khả năng chiến đấu tốt.

    Lực lượng của Hóc Môn, Bà Điểm đóng góp vào cũng có những nhân vật nổi bật như chị Năm Bi - một cán bộ hậu cần xuất sắc, và sau đó là nữ đại đội trưởng duy nhất của miền Đông. Tư Thược, tức Nguyễn Tấn Hưng là cựu tù Bà Rá, ngang như cành bứa và thẳng như ruột ngựa, nhưng ai cũng nể và mến vì đức cương trực và võ nghệ cao cường. Sau đó chính Tư Thược sẽ cùng một số anh em quê nhà Phú Thọ Hòa đào hàng ngàn mét địa đạo để đánh giặc. Trong kháng chiến chống Mỹ, trước khi trở về miền Nam xoi đường cho bộ đội hành quân, Tư Thược vinh dự được Bác Hồ đặt tên là Lâm Quốc Đăng, một cái tên đầy ý nghĩa.

    Tôi nói luôn là ngày 15/12/1945, thì Mỹ Hạnh bị quân Pháp đánh tới. Giải phóng quân liên quận rút về và ngay sau đó anh Tô Ký trực tiếp chỉ huy Đại đội 2 hành quân về chiến khu Lạc An để phối hợp tác chiến với các đơn vị Biên Hòa, Thủ Dầu Một. Anh Nguyễn Văn Của là Chính trị viên của đại đội này.

    Cùng thời điểm này sự có mặt kịp thời của Nguyễn Bình tại Nam Bộ cũng là một sự kiện quan trọng. Anh được Hồ Chủ tịch và Chính phủ lâm thời cử vào với trọng trách hàng đầu là thống nhất lực lượng vũ trang trong toàn Xứ lúc này đang trở thành một yêu cầu bức bách. Loại trừ những phần tử cơ hội, quân phiệt thì những người chỉ huy quân sự chân chính lúc này mỗi người hùng cứ và có uy tín chỉ trong một địa phương. Anh Mai Văn Vĩnh, một cán bộ Bình Xuyên, đã ví von: Gần giống “thập bát phản vương” đời Đường bên Tàu hơn “thập nhị sứ quân” đời Đinh bên ta!

    Anh Bình ghé qua Bà Rịa, Biên Hòa, Thủ Dầu Một, Thủ Đức, tiếp xúc nhiều cán bộ, đảng viên, trí thức như Trần Xuân Độ (bạn tù của anh Bình ở Côn Lôn), Luật sư Thái Văn Lung, Luật sư Lê Đình Chi, Giáo sư Phạm Thiều, người thanh niên đầy nhiệt huyết Huỳnh Văn Nghệ và một người về sau giúp anh nhiều việc rất thiết thân là Luật sư Nguyễn Thành Vĩnh.

    Vào tới Gia Định, anh Bình gặp tôi tại Bình Mỹ (Hóc Môn). Anh đưa cho tôi coi giấy giới thiệu của Chính phủ lâm thời do Hồ Chủ tịch ký. Tôi trao đổi với anh: “Giải phóng quân liên quận rất tán thành chủ trương thống nhất tổ chức và chỉ huy các lực lượng vũ trang Nam Bộ. Nhưng hiện nay mỗi người nắm một đơn vị, hoạt động ở một địa phương, lại còn rất trẻ nên khó làm được việc đó lắm. Nay anh được Cụ Hồ và Trung ương cử vào, với danh nghĩa này, anh có điều kiện thuận lợi để quy tụ tất cả các đơn vị về một mối dưới sự lãnh đạo của Đảng. Giải phóng quân liên quận hoàn toàn ủng hộ anh”. Được lời như cởi tấm lòng, anh Bình yên tâm bắt tay vào chuẩn bị công việc.

    Ngày 20/11/1945, anh Bình tổ chức hội nghị quân sự Nam Bộ ở An Phú Xã, Hóc Môn (có tài liệu ghi An Phú Xã thuộc Thủ Dầu Một). Tuy nhiên thực tế chỉ có 49 đại biểu của các lực lượng vũ trang và Ủy ban kháng chiến các tỉnh miền Đông và đại biểu của bộ đội Bình Xuyên, Cộng hòa vệ binh, lại có cả đại biểu của Đệ tam sư đoàn và Đệ tứ sư đoàn (!).

    Hội nghị thảo luận và nhất trí được nhiều vấn đề. Về chính trị, củng cố lại chính quyền các cấp. Về quân sự, thống nhất lực lượng, chỉ huy và chương trình hành động. Mỗi tỉnh đều tổ chức thành một chi đội, đẩy mạnh du kích chiến tranh, xây dựng căn cứ kháng chiến, binh công xưởng, tổ chức tiếp tế do Ủy ban kháng chiến đảm trách (ngay sau hội nghị này Thủ Dầu Một là tỉnh đầu tiên thành lập chi đội và cuối tháng 11/1945, được mang phiên hiệu Chi đội 1 4).

   Hội nghị bầu anh Nguyễn Bình làm Tổng Tư lệnh giải phóng quân, anh Vũ Văn Đức phụ trách chính trị.

   Từ trước đến nay, mọi người đều đánh giá Hội nghị quân sự Nam Bộ tại An Phú Xã là một hội nghị đặc biệt thành công. Ngoài những điều đã nói ở trên, công tác chính trị trong lực lượng vũ trang được đem ra bàn bạc khá sâu, có lúc tranh luận căng thẳng. Bản tham luận của anh Nguyễn Đức Nhuận về công tác chính trị có nhiều ý kiến hay, được tán thưởng. Kết quả của hội nghị về sau cũng được thể hiện rõ trên thực tế là cảnh hỗn quân hỗn tướng, cát cứ dần dần chấm dứt, tình quân dân ngày một kết chặt.

    Chưa đến một tuần sau đó, ngày 25/11/1945, anh Đàm Minh Viễn lại cầm quyết định của Trung ương Đảng vào đưa trực tiếp cho Xứ ủy Nam Bộ. Theo quyết định này, Ủy ban kháng chiến Nam Bộ giải thể để thành lập Ủy ban kháng chiến miền Nam Việt Nam. Toàn quốc chia thành 9 chiến khu trong đó Nam Bộ có 3 chiến khu là Khu 7, Khu 8, Khu 9.

     Do trên nên có Hội nghị Xứ ủy mở rộng ngày 10/12/1945 ở xã Bình Hòa Nam, hữu ngạn sông Vàm Cỏ Đông (lâu nay có người nói là làng Hòa Khánh, có người nói làng Hiệp Hòa bên tả ngạn, nhưng chỉ là số ít). Tôi nhớ tên một số đồng chí có mặt tại hội nghị này: Hoàng Quốc Việt, Cao Hồng Lãnh, Đàm Minh Viễn, Đào Văn Trường, Võ Văn Đức, Ung Văn Khiêm, Nguyễn Văn Tây, Kiều Công Cung, Huỳnh Văn Tiểng, Nguyễn Đức Thuận, Nguyễn Bình... Hội nghị đã bầu bộ máy lãnh đạo, chỉ huy theo cơ cấu mới như sau:

     Chủ tịch Ủy ban kháng chiến miền Nam Việt Nam: Cao Hồng Lãnh

     Chủ nhiệm hậu cần: Tôn Đức Thắng

     Chủ nhiệm chính trị: Trần Ngọc Danh

     Chủ nhiệm tham mưu: Đàm Minh Viễn

   Khu 7:
     Khu bộ trưởng: Nguyễn Bình
     Khu bộ phó: Dương Văn Dương
     Chủ nhiệm chính trị bộ: Trần Xuân Độ

   Khu 8:
     Khu bộ trưởng: Đào Văn Trường
     Khu bộ phó: Trương Văn Giàu
     Chủ nhiệm chính trị bộ: Nguyễn Văn Trí

    Khu 9:
     Khu bộ trưởng: Vũ Đức (Hoàng Đình Dong)
     Khu bộ phó: Nguyễn Ngọc Bích
     Chủ nhiệm chính trị bộ: Phan Trọng Tuệ

    Cũng tại hội nghị này, anh Lê Duẩn nhận nhiệm vụ Bí thư Xứ ủy.

    Với các sự kiện trên, tình hình nội bộ ta được cải thiện một cách cơ bản. Điều này càng có ý nghĩa khi địch đang trên đà tấn công ồ ạt, ta phải ra sức chống đỡ với kinh nghiệm buổi đầu coi như chưa có gì. Việc chia Nam Bộ thành ba chiến khu là hoàn toàn hợp lý và địa giới quân sự đó vẫn được duy trì đến hết cuộc kháng chiến chống Mỹ sau này.

    Riêng Ủy ban kháng chiến miền Nam Việt Nam thì không phát huy được tác dụng. Việc chọn Tây Nguyên làm căn cứ địa chung cho ba nước Đông Dương và Ủy ban kháng chiến miền Nam Việt Nam dự định đứng chân ở đó cũng không thiết thực.

    Ngày 25/11/1945, anh Đàm Minh Viễn cũng mang vào bản chỉ thị “kháng chiến kiến quốc” của Trung ương Đảng. Bản chỉ thị nêu: “Nhiệm vụ chiến thuật của ta ở Nam Bộ và miền Nam Trung Bộ là phải cắt đứt dây liên lạc giữa các thành phố đã lọt vào tay địch, phong toả những thành phố ấy về kinh tế, bao vây về chính trị, nhiễu loạn về quân sự... Phải áp dụng chiến tranh du kích đến triệt để và cổ động nhân dân thi hành chính sách bất hợp tác ở các thành thị quân địch làm chủ và thi hành “nhà không đồng vắng” nếu quân Pháp tràn về quê”.




-----------------------------------------------------------------
1. Có tài liệu ghi 400 súng.

2. Trừ bốn tỉnh sau đây không có cộng hòa vệ binh: Biên Hòa, Sa Đéc, Rạch Giá, Hà Tiên.

3. Có tài liệu ghi quân số đệ tam sư đoàn là 5.000 - 8.000.

4. Gồm các bộ đội Lái Thiêu, Bến Cát, Bình Lý. Huỳnh Kim Trung làm Chi đội trưởng. Sau thêm Lê Đức Anh làm Chính trị viên Chi đội.
Logged
hoi_ls
Thượng tá
*
Bài viết: 5098



« Trả lời #14 vào lúc: 04 Tháng Chín, 2022, 05:41:02 pm »

*
*      *


    Trở lại Sài Gòn - Chợ Lớn sau khi quân Pháp phá được vòng vây, bung ra các tỉnh. Với ta, đây vẫn là mặt trận, mặt trận đô thị quyết không để địch biến thành cái sân sau an toàn của chúng.

    Nhất thời các tổ tự vệ, công đoàn xung phong của ta rút lui ra ngoại ô để bảo toàn lực lượng. Nhưng từ đầu tháng 11/1945, lúc này địch đang đổ quân xuống miền Tây thì anh em lại có điều kiện trở vào hoạt động. Mục tiêu chính là công sở và trại lính.

    Ngày 8/11/1945, tổng hành dinh của Cao ủy Pháp DArgenlieu (phòng thương mại cũ) bị tiến công. Thiệt hại không được thông báo, nhưng ngay sau đó quân Anh và quân Nhật ở các tỉnh liền phải hấp tấp rút bớt về Sài Gòn để đề phòng những vụ tương tợ có thể tái diễn (Cao ủy chẳng qua cũng là toàn quyền nhưng Pháp khôn khéo gọi khác đi. Thierry DArgenlieu vốn là tu sĩ đồng thời là thủy sư đô đốc, được De Gaulle chọn làm cao ủy Đông Dương từ ngày 17/8/1945, nghĩa là chỉ hai ngày sau khi Nhật đầu hàng).

    9 giờ đêm 8/12, ta lại tiến công trại lính ở đường Drouet (nay là đường Hùng Vương). Bị đánh bất ngờ, hàng ngàn quân Pháp trong trại không kịp trở tay, phải nằm tại chỗ bắn vung vãi. Địch cũng không thể thoát khỏi vòng vây, vì ta đã phóng hỏa đốt bốn phía trại. Trận đánh kéo dài hai giờ liền mới kết thúc, sau khi trại lính bị thiêu hủy.

    Báo chí đã tiết lộ số quân Pháp chết là 400 tên và số bị thương nằm chật các bệnh viện Sài Gòn.

    Ngày 11/12, một chiếc tàu lớn, một chiếc xà lan và ba chiếc ghe lớn chở lương thực và binh lính địch chạy trên sông Cần Đước (Chợ Lớn), bị quân ta dùng súng liên thanh đánh đắm. 17 lính Pháp trên tàu đền mạng, 3 tên Pháp và nhiều ngụy binh bị bắt sống.

    Địch dùng gần một trăm xe tăng đánh rộng ra vùng Đức Hòa. Ba đại đội giải phóng quân liên quận gây cho chúng thiệt hại nặng, phải lui về. Lần sau, chúng tăng thêm lực lượng tiến công lại mới chiếm được thị trấn Đức Hòa (tỉnh Chợ Lớn).

    Tân An, với vị trí bản lề giữa Sài Gòn và miền Tây đánh một trận lớn đêm 25/11/1945. Quân ta từ ngoại ô tập kích vào trung tâm thị xã, đánh thẳng vào trại lính Pháp. Hôm sau địch phải dùng 5 xe cam nhông chở xác chết và lính bị thương về Sài Gòn. Ta thu được 30 súng trường, 16 đại liên và nhiều đạn.

    Tỉnh Gia Định, trước đây gắn bó với đô thành bằng mặt trận tiền tuyến Sài Gòn - Gia Định, sau khi địch chiếm Gò Vấp, các đơn vị đã lui về lập phòng tuyến Tam Thôn (kéo dài từ ngã ba Chú Ía đến Lái Thiêu), chiến đấu với địch suốt hai tháng. Đặc biệt hai làng kế cận An Phú Đông và Thạnh Lộc, chỉ cách trung tâm Sài Gòn 4km theo đường chim bay, lại là nơi đứng chân vững chắc của các cơ quan quân dân chính đảng trong tỉnh và của cả Sài Gòn - Chợ Lớn. Tại cù lao Hạnh Phú của An Phú Đông, anh Lý Chính Thắng - Thư ký Liên hiệp Công đoàn Sài Gòn - Chợ Lớn lập trạm đón tiếp công nhân từ thành phố ra và in báo Cảm tử. Đây cũng là vị trí xuất phát của các đội du kích Lý Thường Kiệt, Ký Con, Trần Cao Vân, Quang Trung, Nguyễn An Ninh..., hoạt động ở các vùng Gò Vấp, Bà Chiểu, Phú Nhuận, Tân Định.

    Ngày 15/12/1945 trận thử thách đầu tiên và lớn nhất đến với chiến khu An Phú Đông (bao gồm cả hai làng An Phú Đông và Thạnh Lộc).

    Cũng trong bút ký viết tay của mình, anh Bích Lâm kể lại tỉ mỉ trận đó và mấy trận tiếp theo. Anh vừa kể vừa bình một cách dí dỏm và hài hước như bản chất con người nghệ sĩ của anh:

    “... Như đã nói, nỗi lo lớn nhất của Pháp lẫn Gracey là bằng mọi giá phải bắt kỳ được Nguyễn Bình. Ngày 15/12/1945, Bộ Tổng Tham mưu của Leclerc huy động hai trung đoàn thuộc Sư đoàn bộ binh thuộc địa thứ 9 (9e DIC) của tướng Valluy bảo vệ Sài Gòn với sự chi viện to lớn của quân Anh - Ấn của Gracey tấn công vào Mỹ Hạnh và căn cứ An Phú Đông mà chúng đoán là tướng Nguyễn Bình đang ở đó 1.

    Ở Mỹ Hạnh, các đơn vị của Giải phóng quân liên quận gặp địa hình không lợi, tránh né lực lượng liên quân có cơ giới mạnh của Pháp, Anh. Chúng chiếm Mỹ Hạnh khá dễ dàng. Đoán rằng chúng “đấm vào không khí”, Nguyễn Bình không có ở đó, chúng thu quân thủy lục không quân đánh vào An Phú Đông bằng nhiều mặt.

    An Phú Đông là một xã nhỏ của huyện Gò Vấp, cách trung tâm Sài Gòn 4km theo đường chim bay 2. Bởi địa hình đặc biệt và có truyền thống yêu nước cao mà ngay ngày đầu nổ súng đã mặc nhiên làm nơi hội anh tài của tỉnh Gia Định và nhiều cơ quan của thành phố.

    Đặc điểm nổi bật về địa hình mà nhiều xã quanh Sài Gòn ít có là trước kia đó là một vùng biền lầy nước triều lớn ròng ra vào thong thả. Để biến đó thành đất canh tác, đồng bào ở đó phải đắp bờ bao ngạn cao hơn mặt ruộng đến một mét rưỡi. Đất giàu phân cỏ cây mục đòi hỏi phải đào kênh xẻ rãnh, phân vùng nơi cấy lúa, nơi trồng mía và các thứ hoa màu. Sông Bến Nghé rộng và sâu chia xã thành hai bộ phận: cù lao Hạnh Phú và phần đất liền.

    Sáng 15/12, sau các đợt pháo từ Gò Vấp bắn vào, từ Lái Thiêu, Tân Sơn Nhất bắn tới, từ các pháo hạm trên sông nã lên, thủy quân lục chiến đổ bộ tràn ngập cù lao Hạnh Phú. Chúng thẳng tay tàn sát, đốt nhà dân, bắn bừa bất cứ ai, ngay những bệnh nhân nằm trên giường bệnh chúng cũng giết chết.

    Bệnh viện tỉnh Gia Định do Bác sĩ Nguyễn Văn Hóa làm Giám đốc, khi Bà Chiểu bị chiếm đã dời về đó.

    Giặc tưởng chúng tàn sát như vậy là làm cho dân chúng và cán bộ bỏ đất mà chạy để chúng dễ tung hoành.

    Sau phút bàng hoàng, chiến sĩ ta tìm ra điểm yếu của giặc mà đánh. Mương rãnh nhiều, cầu khỉ nhiều, cơ giới trở thành vô dụng mà bộ binh cũng không hoạt động theo ý muốn chúng được. Với 50 khẩu súng trường, chiến sĩ ta chia thành nhóm bám địa hình theo đường quanh nẻo tắt mà đánh.

    Đêm đến, một số xuống thuyền, số đông ở trên bộ chen chúc nhau trong nhà bạt (tente) để tránh mưa. Đó là dịp tốt để du kích lập công. Cút bắt nhau hai ngày một đêm, thương vong chúng lên đến số trăm. Cuộc điếu phạt như vậy là bất thành, chiều 16/12, chúng rút.

    Thiệt hại ta nặng, gần một trăm mái nhà bị đốt, hai mươi con trâu bị bắn chết. Cán bộ với dân, lớp bị bắn thả trôi sông, lớp bị bắt đem đi không ít hơn một trăm, vì An Phú Đông được coi là nơi hội anh hùng. Số anh em Sài Gòn ra để nhận công tác hoặc tìm chỗ tản cư khó mà nói chính xác. Đau khổ nhiều, nhưng thấy cán bộ ta, đặc biệt là cán bộ y tế, cù lao bị chiếm đóng, bịnh viện bị thiêu hủy, nhưng đêm lớp người được coi là sang cả như “quan thầy chánh” là cụ bác sĩ Hóa vẫn theo y sĩ, y tá lén thức đêm về tìm xem bịnh nhân bị tàn sát ai còn sống sót tìm cách dời qua làng khác để mà cứu chữa.

    Rất lâu sau đó, dân An Phú Đông nghe nhắc đến hai ngày một đêm khủng khiếp đó còn đem hành động đầy tính “mẹ hiền” của cụ Hóa mà kể. Dân nói: Bịnh nhân bị bắn đổ ruột nằm rên trong luống mía cháy dở, bi đát đến thế mà Bác sĩ Hóa vẫn bảo cô y tá khiêng vượt sông đưa qua Lái Thiêu gửi nhà dân, Bác sĩ Hóa động viên các cô y tá: “Còn nước còn tát, cứu một mạng người hơn lập một kiểng chùa”.

    Gương can trường của du kích lợi dụng thế đất, đêm ngày chơi trò mèo rình chuột, giết được nhiều chuột. Xong giặc, bà con dựng nhà, du kích cũng xúm lại làm giùm.

    Có trần ai mới rõ mặt kiên trung. Các ấp còn nguyên vẹn thì ca ngợi “các con các em” không còn lời mà kể.

    Đồng bào nói: Nghe bắn quá tưởng cả người lẫn của thí âm hồn các đảng, cứ ngồi lì tại nhà chờ Tây đốt chết sống với chúng nó cho rồi. Ai ngờ du kích tới dắt chỉ đường cho trốn “tụi nó” ở lại bắn riết. Tây thua, nhà mình còn nguyên. Cứu quốc từ rày dẫu hết ngày cũng đóng góp.
    Thi sĩ Xuân Miễn độ ấy vừa ra tù chẳng biết đi đâu cứ theo đường Paul Blanchy nay là Hai Bà Trưng mà đi. Ra tới An Phú Đông ghé nhà đồng bào xin cơm ăn để rồi đi nữa. Nghe kể “hai ngày một đêm khủng khiếp”, xúc động quá, mượn bút, xin giấy viết liền bài thơ:

       “An Phú Đông, ơi An Phú Đông!
       Một làng nho nhỏ ở ven sông...”

    Bài thơ được Báo Cảm tử đăng liền và trở thành bất hủ.

    Một phát kiến có giá trị làm vẻ vang cho nền quân giới nhân dân Việt Nam nghe nói là được bắt nguồn từ trận chống càn bất hủ này, chẳng biết mức độ chính xác đến đâu, xin mạnh dạn nêu ra.

    Đồng bào An Phú Đông kể: Sau trận càn thấy hai chiếc cầu khỉ gãy gọn. Một chiếc dính máu, trên bờ có một mớ bông gòn huyên thuyên là máu. Bà con với du kích xúm lại bàn: “Máu này là máu của quân ăn no to xác, chúng nó chứ dân mình nhẹ, nhanh như sóc, lại nữa, nếu có gãy cổ đổ ruột thì cứ lá sống đời hay phấn lông cây đủng đỉnh cứ mà dùng “rịch”, chứ bông gòn đâu mà bỏ trắng đường ra. Ơn ai nhà nó, ước gì có vài cây nọc cắm đó thử coi có đổ ruột lòi phèo không thì biết”. Từ đó, chông tre được dùng chống càn xã An Phú Đông, cả Hóc Môn, Củ Chi và khắp Nam Bộ.

    Sau ngày Đồng khởi, Nhạc sĩ Nguyễn Trí Thanh sáng tác thành tiết mục tấu hài mà Đoàn Văn công Giải phóng đã dùng tiếp khách nước ngoài, mà sau khi được xem, nhà văn lại là nữ ký giả Madeleine Riffaud đã viết thành một chương phóng sự có cái tựa rất là độc đáo: “Le pal de bambou” (Cây chông tre), khởi sự bằng mấy câu vừa chân phương vừa duyên dáng và rất Nam Bộ là:

         “Cây chông là cây chông tre
         Rõ ràng đây nè, máu giặc còn loang...”.

    Thua rát quá do chọn lầm địa điểm, nhè cái đất chằng chịt mương ao, bờ lớn bờ nhỏ, sình lầy mà đưa cơ giới làm chiến cụ chủ công, do chọn lầm mặt người - người Hóc Môn, Mười tám thôn vườn trầu thua hiệp này gầy hiệp khác, dai như da tê giác, làm cho lính đã mất tinh thần lại càng sa sút tinh thần hơn nữa. Bộ Tổng Tham mưu nghĩ cách lấy lại nhuệ khí cho lính phần đông là thanh niên từ Pháp mới qua. Rút khỏi An Phú Đông rồi cho quân về trại nghỉ ngơi củng cố tinh thần, Bộ Tổng Tham mưu của Leclerc tìm một điểm tấn công khác để lấy thắng lợi giòn giã lấy lại nhuệ khí cho binh sĩ.

    Đêm 24/12, dự lễ chào mừng Chúa hài đồng nằm trong máng cỏ xong, chúng cắm trại sau nửa đêm và hừng sáng 25/12, bằng nhiều ngả: từ Phú Thọ Hòa, Bà Quẹo vào; từ Phú Lâm, Bình Trị Đông vô; từ Đức Hòa xuống, phục binh dài theo tỉnh lộ 10 từ Cầu Xáng đến Bà Lác, Pháp tấn công hình chữ U bằng bộ binh chiến xa và máy bay vào Ngã Năm, Gò Mây, Gò Cát, Vĩnh Lộc, Bà Hom căn cứ địa của Tổng Công đoàn của các đơn vị công tác thành mới thành lập. Một cuộc càn quét quy mô theo lối kinh điển quân sự diễn ra từ 6 giờ sáng bằng cách nã pháo tầm xa 105 ly và 75 ly dọn đường trước xe tăng, xe bọc sắt có máy bay trợ lực dẫn đường cho bộ binh súng gắn lưỡi lê lính dàn hàng ngang mà tìm diệt và đột phá.

     Lực lượng tay không của ta quá đông vì từ 23/9 đến nay cả vùng rộng lớn này được coi là chiến khu nên mọi thứ cơ quan cấp quận của thành phố đều chạy ra đây, kho lẫm hậu cần đều đưa về đây. Cả dân tản cư cũng được đồng bào nuôi ở đây do đó trong gần suốt buổi sáng tình hình vô cùng rối rắm. Dân tay không cứ trước mặt co giò chạy, cơ giới chúng cứ rượt, cứ bắn, cứ đốt, cứ cướp, cứ quần nát nhừ nhiều đám ruộng, hàng bông mới lên.

     Dân chúng vùng này rất gan góc. Về lịch sử, đây là bãi chiến trường đẫm máu của mấy thế kỷ trước. Trong cuộc xâm lăng lâu trước khi Pháp chưa ổn định thì đây là huyện sở của Hồ Huân Nghiệp và chịu ảnh hưởng đậm của Mười tám thôn vườn trầu. Phong trào hoãn thuế năm 1930, phong trào chống khủng bố trắng sau Nam Kỳ 1940 vừa là hổ cứ của cậu Hai Đống trước kia và liền đây của các bậc anh chị Mười Trí, Sáu Thành, Sáu Hâm, Ba Tròn...

     Về cư dân, đây là vùng khá đặc biệt. Họ nào sống theo họ nấy, đất ai nấy ở, đất canh tác mà lại là đất xám, không sông, không suối, không kênh đào, người ta canh tác bằng nước trời mưa, chủ yếu bằng nước giếng, nhà nào cũng có giếng. Đã vậy mà phong tục canh tác ở đây coi hàng bông vụ Tết là nguồn thu hoạch chính nên chi giải quyết xong lúa “sà mo”, lúa “tiêu”, là nông dân đào giếng, mỗi đám ruộng ít ra cũng vài ba giếng thọc sâu ba, bốn thước để cho du kích núp mà khó cho địch hành quân, lơ đễnh là sa xuống giếng.

     Hộ dân thì hộ nào cũng có lũy tre dày đặc cách nhau chừng một đường tên tạo thành một thế liên hoàn tự nhiên. Vuông tre này dễ giúp cho vuông tre khác, luồn qua trở lại, tiện cho thế đánh vu hồi. May mắn hơn nữa là thời kỳ Mỹ ném bom Sài Gòn, nhà nào cũng có hầm trú ẩn hoặc giao thông hào để nhỡ nhà bị oanh tạc thì theo giao thông hào tìm nơi ẩn trú khác. Đường làng ở đây hầu như không có. Xóm nọ qua xóm kia bằng những đường xe bò rào hai bên bằng hai hàng dứa ngập đầu thuận cho du kích. Cả vùng rộng lớn đó từ Phú Thọ Hòa (Gò Vấp) đến Cầu Tre, Tân Hòa Đông (Quận 6) chạy lên đến Vĩnh Lộc, Gò Mây được coi là hậu cứ của Sài Gòn. Các đội cảm tử, sau này đổi là các ban công tác, đánh thì phóng nhanh vào thành phố, nghỉ hay tập huấn thậm chí đưa gia đình di tản cũng đưa ra đây gửi gắm cho đồng bào.

     Trang bị vũ khí dĩ nhiên phải thích hợp cho công tác đó. Súng lục, mì tháo bá, lựu đạn nói chung nhẹ gọn dễ thay hình đổi dạng... Có khi một chiếc khăn rằn để khi ra chợ giả làm phu vác gạo dùng khăn che đỡ rách áo, khi tấn công thì khăn đó là dây xiết cổ vặn họng địch thủ. Một ưu thế khác nữa là hầu hết anh em này là dân chợ: thợ nhà máy, phu khuân vác, học sinh, tiểu viên chức trẻ từng đối mặt với kẻ địch.

    Tảng sáng chưa nắm tình hình địch thắng, pháo dữ dội, khí thế chúng sắc sảo, anh em bình tĩnh lánh địch. Trưa lại nắng, khí hậu oi bức, chúng tọng no nước nên uể oải, đó là lúc tốt cho anh em ra tay.

    Đất cát pha, đầu mùa khô cơ giới hoạt động dễ nhưng không dễ nào chạy càn qua những vuông tre để đuổi theo những con người nhanh như sóc, nhẹ như gió. Anh em xé lẻ từng tổ ba người khi cần thì thành tiểu đội, phân đội hạ lẻ từng đứa bằng lối thủ công rồi chôn nó xuống giếng cũng bằng cách thủ công.

    Muốn thành trận lớn thì mỗi tiểu đội bám một vuông tre đánh trực diện, bắn xuyên hông, lòn ra sau bắn vén ót. Vũ khí nhẹ đánh theo tính năng của vũ khí...

    Qua bữa ăn trưa, giấy gói lương khô, lon hộp đựng “ration complète” (khẩu phần hoàn bị) bị vung vãi trắng đất, có cái chúng chẳng buồn đập nát hay đốt bỏ theo lệnh. Sức đâu mà làm. Ăn cũng biếng nhai vì mệt mỏi...

    Mặt trời ngả chưa tới trán, xe pháo lính tráng kéo thành hàng dài nhắm đình Gò Cát, Gò Mây, Ngã Năm, chợ cổng Bình Trị Đông, đình Tân Tạo, chợ Bà Hom mà co cụm tốp dựng lều, tốp canh gác, lính khỏe tắm giặt, lính mệt bao quanh cái xe hồng thập tự. Mắt trinh sát ta không nhắm trước các chi tiết đó.

    Đúng mười giờ đêm, các đội cảm tử, các ban công tác, các đơn vị vũ trang Tổng Công đoàn của Hai Râu (Huỳnh Đình Hai), của Triệu Cải, của Chín Heo (Nguyễn Đình Chính) phối hợp với bộ đội của Hai Luông (Nguyễn Văn Luông) ở Bình Trị với bộ đội Bà Hom của Hai Bào, Hai Miêng, Tư Bốn, của Tổng hành dinh Bà Quẹo của Mười Trí (Huỳnh Văn Trí)..., mở các đợt tấn công các nơi co cụm của Pháp.

    Pháo sáng rực trời. Trái phá, “tromblon VB”, bazooka, súng cối, đại liên, tiểu liên thỉnh thoảng chen những tràng lựu đạn với tiếng “xungphong” của ta, tiếng “kura! kura!” của Nhật Bổn giả với năm bảy anh Nhật Bổn thiệt ngả theo quân ta từ những ngày đầu tháng chín.

    Thiệt hại của đôi bên, bao nhiêu đố ai biết. Giữa đêm tối dễ ai đếm được, vả lại bên ta, bên địch bên nào cũng giấu, cũng vừa thổi phồng...

    Điều biết chắc là cuộc bố ráp gọi là để lấy lại tinh thần binh sĩ sau trận An Phú Đông hôm 15/12 nay dự tính là ba ngày thì mới một ngày một đêm sáng sớm 26/12 thì rút.

    Nhật ký hành quân của lính Pháp lượm được trong một trận phục kích vén ót tại bưng bốn xã phía Tân Hòa Đông Quận 6 có ghi ba chữ Pháp “Drôle de Noel” nghĩa là “Noel gàn dở”.

    Tuy nhiên, Bà Hom, chợ cổng Bình Trị Đông là điểm yết hầu Pháp phải liều chết đóng bót.

    Trong vòng mười ngày, Pháp chủ động đánh ta ba trận.

    ... Số thiệt hại của kẻ địch về vật chất, nhất là tinh thần tính ra là lớn”
(trích từ trang 54-60).

    Ta lưu ý kế hoạch tiến công của Leclerc là chọc hai mũi dùi: một mũi đánh xuống Mỹ Tho, rồi với tay xuống miền Hậu Giang; một mũi đánh lên Tây Ninh để “phá tan lực lượng Cao Đài” (tuyên bố của Leclerc).

    Sáng sớm 08/11/1945, quân Anh - Pháp với lực lượng 204 xe quân sự (theo tư liệu của Ban Nghiên cứu lịch sử Đảng Tây Ninh là 75 xe), trong đó có cả xe tăng và xe bọc thép từ Sài Gòn tiến lên Tây Ninh. Xe tăng đi trước có nhiệm vụ ủi phá các chướng ngại vật. Lực lượng quận Trảng Bàng ở mặt trận Suối Sâu (thuộc xã An Tịnh giáp ranh với huyện Củ Chi hiện nay) dùng lựu đạn, chai cháy, súng trường, tên ná đánh đoàn xe địch, nhưng cũng không ngăn chặn được bước tiến của chúng. Tại mặt trận Trâm Vàng (Trảng Bàng), du kích dùng mủ cao su đốt giữa lộ, một xạ thủ trung liên bắn chết tên lái xe và ba tên khác.

    Một đại đội commăngđô từ Campuchia theo quốc lộ 1 tiến sang Gò Dầu. Hai cánh hợp điểm tại đây rồi theo quốc lộ 22 lên thị xã Tây Ninh. Đến khu rừng Bến Kéo, xe tăng địch lại phải ủi phá để mở đường vì ta hạ nhiều cây to ngang lộ. Đạn súng trường cùng mũi tên ná có tẩm thuốc độc bắn vào những chiếc xe GMC mui trần. Địch chết nhiều, nhưng lực lượng chúng đông nên vẫn tổ chức đánh bọc hậu ta được. Ta đành rút lui, có hai chiến sĩ ở lại chiến đấu đến viên đạn cuối cùng để bảo vệ anh em rút lui, sau đó mới rời trận địa.

    Đến chiều, địch đến được thị xã Tây Ninh, lọt vô được Thánh thất Cao Đài sau khi đã bỏ mạng dọc đường gần 100 xe và bị bắn hỏng một số xe. Đoàn xe địch đi giữa thị xã vắng ngắt vì đồng bào ta đã thực hiện khẩu hiệu “vườn không nhà trống”, bất hợp tác với địch. Ba, bốn ngày sau, đồng bào vẫn không ra đường, cửa nhà đóng kín, chợ búa không họp.

    Điều đáng chú ý là sau khi đứng chân được ở Thủ Dầu Một và Tây Ninh, địch vội vã kéo đến chiếm lại ngay những đồn điền cao su lớn, nguồn lợi kếch xù trước đây của chúng. Công nhân ở nơi này đều bãi công, đốt máy, đốt từng lô cao su.

    Lực lượng vũ trang làng An Tịnh nổi lên những ngày đầu kháng chiến. Để xây dựng mặt trận Suối Sâu, các tiểu đội vũ trang của làng An Tịnh cùng hàng ngàn thanh niên, nhân dân trong quận đào hào chống tăng, đắp ụ chiến đấu suốt 12 ngày đêm liên tục. Khi mặt trận Suối Sâu vỡ, anh em lui vào Rừng Rong lập căn cứ tiếp tục hoạt động vũ trang tuyên truyền, địch vận và tác chiến. Ngoài ra còn đưa một trung đội sang Mỹ Hạnh tăng cường lực lượng cho Giải phóng quân liên quận Hóc Môn - Bà Điểm - Đức Hòa, cùng đi với người là 20 khẩu súng bén.

    Nhiều chiến sĩ Rừng Rong năm xưa đã trưởng thành qua hai cuộc chiến tranh giải phóng. Nguyễn Thanh Tùng - Đại tá Lữ đoàn trưởng các lữ đoàn đặc nhiệm 367 và 316, Phó Chỉ huy trưởng Bộ Chỉ huy Quân sự tỉnh Đồng Nai đã nghỉ hưu. Trung tướng Nguyễn Thới Bưng hiện là Thứ trưởng Bộ Quốc phòng, Phó Tổng Tham mưu trưởng. Trung tướng Bùi Thanh Vân (Tư lệnh Quân khu 7).

    Một số lực lượng của Sài Gòn - Chợ Lớn đã lui về Tây Ninh, kết hợp với lực lượng tại chỗ để tiếp tục chiến đấu như công an cảm tử (hơn 400 quân và 40 súng) và một bộ phận của Đệ nhất sư đoàn.

    Cũng ngay từ những ngày đầu kháng chiến, Tây Ninh phải đối phó khá vất vả với nạn “cáp duồng” (giết người Việt) do Pháp kích động người Khơme và nạn Chi đội 8 Cao Đài phá phách, thủ tiêu cán bộ cách mạng 3.

    Biên Hòa là một tỉnh của tam giác Sài Gòn - Thủ Dầu Một - Biên Hòa, Leclerc có ý đồ đánh chiếm sớm để tạo “thế chân vạc” đó. Biên Hòa cũng là tỉnh rộng nhất miền Đông với diện tích 11.300km2, một đầu mối giao thông thủy và bộ quan trọng phía đông Sài Gòn.

    Rất dở, khi quân Anh mượn danh nghĩa giải giáp quân Nhật kéo ra Biên Hòa, Ủy ban kháng chiến miền Đông, đứng đầu là Lương Văn Tương không tổ chức đánh địch mà lại rút chạy ra Xuân Lộc. Ủy ban kháng chiến tỉnh Biên Hòa trong hoàn cảnh nước sôi lửa bỏng đó cũng tan tác!

    Thừa thắng, mờ sáng ngày 30/10, một trung đội Nhật theo lệnh quân Anh từ An Lộc tiến về Xuân Lộc theo đường xe lửa. Ở Xuân Lộc, lúc đó Ủy ban kháng chiến miền Đông mải lo huy động dân chúng ra tiếp đón phái bộ Trung Hoa từ ngoài Bắc vào tìm hiểu tình hình Hoa kiều ở Nam Bộ, quân Anh - Nhật giở trò bao vây và đánh úp ta. Chỉ trong nháy mắt, tiếng súng liên thanh và đại bác nổ rền. Nhưng suốt trong nửa giờ địch vẫn bị quân ta chặn đứng. Chúng phải điều thêm 43 xe camnhông chở quân và nhiều đại bác từ An Lộc đến. Ta tạm lui khỏi Xuân Lộc 5km và bố trí thế trận mới. Khi địch đến, ta đánh mãnh liệt. Từ 11 giờ ngày 30 đến chiều 31/10, quân Anh - Nhật phải rút về lại Xuân Lộc, từ bỏ ý định kéo ra Phan Thiết. Báo Cứu quốc số ra ngày 01/10/1946, đánh giá: “Trận đánh ở Xuân Lộc là một thắng lợi lớn của quân đội ta, vũ khí thô sơ thiếu thốn mà đánh lùi được cả một liên quân Anh - Nhật”.

    “Quân đội ta” mà tờ báo của Tổng bộ Việt Minh biểu dương ở đây, chính là một đơn vị Nam tiến. Sau trận này, đơn vị không ở lại Nam Bộ mà được lệnh quay trở ra chiến đấu ở cực Nam Trung Bộ. Trong chiến đấu, đơn vị bị tiêu hao nhiều vì đánh theo lối dàn trận. Nhưng những địa danh Xuân Lộc, Núi Thị, Bình Lộc mãi mãi gắn liền với chiến công đầu của các anh.

    Lực lượng vũ trang của tỉnh Biên Hòa lúc này vẫn phân tán nhỏ trên từng khu vực. Châu Thành có 5 tiểu đội và 30 súng, một đội xung phong cảm tử 30 thiếu niên do Lê Văn Ngọc chỉ huy. Long Thành có 3 phân đội của Lương Văn Nho, Huỳnh Văn Đạo, Nguyễn Văn Lung, về sau thêm một phân đội ở thành Tuy Hạ. Chiến sĩ đa số là công nhân các sở cao su. Cán bộ có một số đã qua trại huấn luyện du kích Bình Đa - Vĩnh Cửu.

    Huỳnh Văn Nghệ vốn là một người của Ủy ban kháng chiến miền Đông, không rút chạy mà gom hơn 30 tay súng trở về quê nhà ở làng Dân Tịch, quận Tân Uyên (hiện nay huyện Tân Uyên thuộc tỉnh Sông Bé), xây dựng một đơn vị. Anh quy tụ được 17 người của Chín Quỳ, là bộ phận vũ trang lưu lạc từ sau cuộc khởi nghĩa Nam Kỳ; một phân đội công nhân hàng hải do Đào Văn Quang đưa từ Sài Gòn lên và các thanh niên tự vệ chiến đấu của quận. Cao Văn Bổ - nguyên Tổng Thư ký Ủy ban kháng chiến quận Tân Uyên cũng không rút chạy, chỉ huy một bộ phận nhỏ với 7 cây mút Pháp cùng nhập đơn vị Tám Nghệ.

    Đơn vị lấy tên Vệ quốc đoàn Biên Hòa, nhưng thực tế chỉ hoạt động trong địa bàn Tân Uyên. Mảnh đất Tân Uyên là đất rừng, địa thế hiểm yếu, có sông Đồng Nai và sông Bé bao bọc nối liền với Xuân Lộc, một lưng dựa dải rừng mênh mông trải dài lên tận Mã Đà, đường 14. Dân cư thưa thớt và sống chủ yếu bằng nghề trồng mía, làm đường, khai thác gỗ. Tân Uyên lại cách Sài Gòn không xa, cách thị xã Biên Hòa khoảng 15km đường chim bay, có thể nối sang cả đông lẫn tây, khi cần có thể rút lên hướng bắc. Từ căn cứ ban đầu của Vệ quốc đoàn Biên Hòa, dần dần nó thể hiện rõ tính chất của một địa bàn chiến lược và dẫn đến sự hình thành Chiến khu Đ nổi tiếng.

    Một trận đánh hợp lực của nhiều đơn vị, trận tiến công vào thị xã Biên Hòa vào đêm 31/12/1945 4. Về ý nghĩa đó là trận đánh ngay sau khi Hội nghị quân sự An Phú Xã và Hội nghị Xứ ủy mở rộng thành công, Bộ Tư lệnh Quân khu 7 hình thành, là trận đánh cảnh cáo địch đã tàn sát dã man đồng bào ta trong các cuộc càn vô An Phú Đông, Bình Trị Đông, Bà Hom, Gò Cát vừa qua.

    Giải phóng quân Biên Hòa phụ trách phần do thám, trinh sát. Anh Huỳnh Văn Nghệ chỉ huy chung.

    Các đơn vị tham gia chiến đấu có: 1 phân đội của Chi đội 1 Thủ Dầu Một, 1 phân đội pháo của Thủ Đức (do Luật sư Thái Văn Lung chỉ huy), 1 phân đội của Mười Trí ở Bà Quẹo, 1 phân đội của Hai Dung, 1 phân đội của Đào Sơn Tây, 1 phân đội của Công, 1 phân đội của Tô Ký, 1 phân đội của Huỳnh Tấn Chùa. Lực lượng tại chỗ có phân đội của Huỳnh Văn Nghệ và 10 phân đội Bình Xuyên của Dương Văn Dương 5. Bộ đội Ba Dương như ta đã biết, sau khi rời mặt trận đường 4, Sài Gòn vẫn giữ nguyên được lực lượng, về đứng chân ở Bàu Bông - Vũng Gấm vùng Rừng Sác. Một số tự vệ Công đoàn Nam Bộ bị tản lạc bây giờ cũng tự nguyện gia nhập bộ đội Ba Dương.

    Như vậy tổng cộng có 21 phân đội.

    Đúng 0 giờ, quân ta bí mật luồn vào thành phố an toàn, địch không hay biết. Mục tiêu công kích gồm các trạm gác, công sở, nhà lao, đầu cầu và trại binh.

    Kết quả thành Xăng Đá và sân bay Tân Phong trúng đạn moọcchê và đại liên rất nhiều.

    Một bồn xăng gần thành Xăng Đá cháy, ngọn lửa bốc rất cao. Dinh tỉnh trưởng sập mái trước và một phần sân thượng. Cổng sở bưu điện bể một mảng, bay mất bảng hiệu. Mái nhà kho bạc bay ngói. Trại lính Pháp ở Tân Mai cũng trúng nhiều đạn moọcchê. Chợ Biên Hòa bị tromblon VB từ bên kia sông Đồng Nai bắn qua, đạn lép không nổ nhưng làm lủng mái.

    Sinh lực địch bị diệt không nhiều, nhưng tiếng vang của trận đánh thì rất lớn. Trận đánh bất ngờ và táo bạo này nhanh chóng dội về Sài Gòn và các tỉnh miền Tây. Báo và đài một số nước có đưa tin, có báo phản bác lại lời tuyên bố ngày nào của Đại tướng Leclerc: “Sau ba tháng sẽ bình định xong xứ Nam Kỳ”.

    Huỳnh Văn Nghệ - người chỉ huy trận đánh, cũng là một tâm hồn thơ lai láng. Xưa nay người ta vẫn nhắc nhiều đến anh, với những chiến công của Vệ quốc đoàn Biên Hòa và Chi đội 10 sau này do anh chỉ huy, và với hai câu thơ tiêu biểu nhất của anh:

        “Từ độ mang gươm đi mở cõi
        Trời Nam thương nhớ đất Thăng Long...”
.

    Sau trận tập kích vô thị xã Biên Hòa vào đúng đêm Tết Tây này, có thể anh đã cao hứng làm thơ và đọc cho bạn bè, đồng đội cùng thưởng thức.

    Trên chiến trường, địch vẫn đang ở thế tiến công. Ngày 25/01/1946, chúng huy động 4.000 quân cùng một lúc mở ba mũi tấn công vào chiến khu Tân Uyên. Dưới thủy có tàu, xuất phát trước ba ngày, bắn phá làng mạc ven sông để mở đường. Trên bộ, xe cơ giới từ Biên Hòa theo quốc lộ 1 tiến thẳng ra.

    Hai phân đội Vệ quốc đoàn Biên Hòa chặn đánh địch từ sáng đến trưa tại Bình Thạnh và cầu Rạch Cốc diệt một số địch trong đó có tên quan ba Pháp.

    Đặc biệt trận đánh của hai phân đội này ở Xóm Đèn rất xuất sắc. Khoảng 4 giờ chiều hôm đó, quân địch từ Mỹ Lộc quay về Tân Uyên, khi chúng đang lò dò tìm cách qua một cây cầu đã bị phá sập thì quân ta từ mé rừng bất ngờ nổ súng rồi nhảy ra mặt đường dùng lưỡi lê, gươm, mã tấu, gậy tầm vông đánh giáp lá cà. Có lưỡi gươm chém sả vai địch. Có chiếc gậy vót nhọn xuyên thẳng ngực địch. Yểm hộ cho bộ phận đánh giáp lá cà, một khẩu trung liên bắn quét địch đang dồn sát phía bờ sông. Tiểu đội du kích Tân Hòa không có súng thì khua phèng la, đập thùng thiếc giả làm tiếng súng máy uy hiếp tinh thần địch. Chúng khiếp đảm, hàng ngũ rối loạn, một số tên phải giơ tay hàng. Lần đầu tiên trên chiến trường miền Đông, bộ đội ta bắt được tù binh Pháp.

    Như vậy cuộc tấn công của quân Pháp bị thất bại hoàn toàn, mặc dù chúng đã huy động một lực lượng đông gồm nhiều binh chủng và vũ khí hiện đại. Tinh thần dũng cảm, tác phong linh hoạt cộng với cách đánh thích hợp của quân ta mang lại thắng lợi đáng khích lệ: 220 tên Pháp bị diệt, 6 xe quân sự và 2 xuồng của địch bị phá hỏng.

    Ở miền Đông, tỉnh cuối cùng bị địch chiếm là Bà Rịa - Vũng Tàu. Ngày 08/02/1946, quân Anh làm nhiệm vụ mở đường cho khoảng 300 quân Pháp từ Long Thành (bị chiếm ngày 26/01) theo lộ 15 tiến xuống. Bộ đội Mười Tỷ, dân quân thanh niên cứu quốc Bà Rịa nổ súng chặn địch, nhưng chặn không nổi bước tiến của chúng.

    Tình hình nội bộ Bà Rịa không được tốt. Chủ tịch Ủy ban kháng chiến tỉnh là Lê Văn Huề đầu hàng địch ngay khi chúng mới đến cùng tất cả số vàng nhân dân đã góp vào quỹ độc lập. Bọn thổ phỉ Trịnh Ngọc Hiền - Phan Đình Tân (trước đây chỉ huy trung đội bảo vệ Ủy ban kháng chiến Nam Bộ chạy về Bà Rịa) dùng áp lực quân sự tước toàn bộ 300 khẩu súng của lực lượng vũ trang tỉnh, một tỉnh có số súng nhiều nhất ở miền Đông, để khi địch đến thì trắng tay. Chúng còn lấy một số vàng của công quỹ, còn tìm cách bắt được anh Trần Xuân Độ - Ủy viên chính trị bộ Khu 7 đang về giúp tỉnh thành lập Ban Vận động xây dựng Mặt trận Việt Minh tỉnh. Anh Tân - một chiến sĩ trong lực lượng Hiền - Tân đã giải thoát cho anh Độ, nếu không, anh sẽ bị chúng ám hại. Và cuối cùng khi địch chiếm Bà Rịa, chúng cực kỳ hèn nhát bỏ chạy ra cực Nam Trung Bộ, Trung Trung Bộ rồi tan rã.

    Ngoài nhóm Hiền - Tân, những nhóm thổ phỉ khác cũng quậy phá ghê gớm. Nhóm thổ phỉ “Đệ nhị sư đoàn” từng bao vây Quận ủy Long Thành và định bắt đồng chí Bí thư, về sau bị tòa án cách mạng đặc biệt bắt giam và tuyên xử tử hình 4 tên trong tổng số 5 tên cầm đầu. Ba Nhỏ chỉ huy một đơn vị khác từ Thủ Đức chạy về, hống hách, vô cớ giết hại một số đồng bào, “bán đinh cứu quốc” (đi tống tiền, ai không đưa thì đóng đinh vào đầu), bị Tòa án binh Khu 7 do Khu trưởng Nguyễn Bình ngồi ghế chánh án tuyên xử tử hình.

    Tình hình Bà Rịa dần dần ổn định.




-----------------------------------------------------------------
1. Năm 1948, anh Nguyễn Bình mới được phong hàm Trung tướng (T.G).

2. Từ năm 1976, An Phú Đông và Thạnh Lộc tách khỏi quận Gò Vấp trở thành hai xã ngoại thành thuộc huyện Hóc Môn.

3. Từ Tây Ninh, quân Pháp tiếp tục tiến sang chiếm Hớn Quản, Lộc Ninh, Bù Đốp (Thủ Dầu Một) và đến 01/12/1945, chiếm thị xã Buôn Ma Thuột.

4. Có tư liệu ghi là đêm 01/01/1946.

5. Có tư liệu ghi: 2 phân đội của Huỳnh Văn Nghệ. Lại có tư liệu khác ghi 2 phân đội của Dương Văn Dương.
Logged
hoi_ls
Thượng tá
*
Bài viết: 5098



« Trả lời #15 vào lúc: 05 Tháng Chín, 2022, 06:49:16 am »

*
*      *


    Còn ở miền Tây, sau khi chiếm được bốn tỉnh: Gò Công, Mỹ Tho, Vĩnh Long, Cần Thơ, quân Pháp tạm dừng lại vì chưa đủ lực lượng đánh rộng thêm. Diện tích miền Tây cò bay thẳng cánh lại là chiến trường “kênh rạch như bàn cờ”, từ đó đến cuối năm, chúng tạm bỏ ngỏ chín tỉnh còn lại. Trong khi chờ đợi tăng quân, chúng củng cố các nơi chiếm được, dung nạp bọn Việt gian đặng dựng lên bộ máy ngụy quyền các cấp. Biết được bọn Việt gian ở vùng Bảy Núi (Châu Đốc) đang rục rịch nổi lên, Pháp cho 1 đại đội commăngđô nhảy dù xuống Tri Tôn để móc nối (lúc này tỉnh Châu Đốc chưa bị chúng đánh tới). Du kích Tri Tôn vác súng, dao, gậy gộc truy lùng để tiêu diệt. Ngoài số bị diệt, có 14 tên là tù binh trong trận nhảy dù này.

    Đây là trận đầu tiên ở miền Tây ta bắt được tù binh Pháp và số tù binh tương đối nhiều.

    Ở Long Xuyên, lúc này quân Pháp cũng chưa đến, nhưng có sẵn một trung đội lính Nhật và khoảng 20 lính Pháp dân sự đang chiếm nhà thờ Thiên Chúa giáo ở Cù Lao Giêng để trú ẩn chờ khi quân Pháp trở lại thì phối hợp hành động (không kể 200 phụ nữ và trẻ con Pháp cùng trú ẩn nơi đây). Vì vậy, trung tuần tháng 11/1945, ta chủ trương dẹp trước bọn này. Anh Nguyễn Hữu Xuyến - Trung tướng Phó Tư lệnh Quân khu 9 đã nghỉ hưu, là người chỉ huy trận đánh này kể lại:

    “Cuối tháng 9/1945, tôi cùng các anh em tù nhân ở Côn Lôn được tàu đón về đất liền, lúc này quân Pháp đã gây hấn ở Sài Gòn. Quê tôi tận ngoài Bắc Ninh, anh Phạm Hữu Lầu rủ về quê anh ở Sa Đéc tham gia kháng chiến, cùng một số anh em quen biết từ hồi ở đảo là Kiều, Thái, Phúc, Quảng. Tôi được Tỉnh ủy Sa Đéc phân công chỉ huy du kích tập trung. Ngày 14/11, tôi được lệnh đưa ba đội du kích hành quân bằng tàu, phối hợp với hai đội của Châu Đốc và hai đội của Long Xuyên đánh “đồn” Cù Lao Giêng. Gọi là “đồn” Cù Lao Giêng vẫn đúng, vì đây là một điểm rộng 1 kilômét vuông, có lầu cao kiên cố, có tường thành, ụ canh, trạm gác. Chỉ huy có mấy sĩ quan Nhật. Vũ khí có hàng trăm trung liên, súng trường. Ủy ban kháng chiến Nam Bộ có cử đại diện gặp ba tỉnh chúng tôi để phân công các hướng tấn công, nhưng điều đáng tiếc là đồng chí đó không đứng ra chỉ huy hoặc chỉ định ai là chỉ huy chung.

    Lực lượng Sa Đéc chịu trách nhiệm bao vây và tấn công hướng đông, tỉnh Châu Đốc hướng bắc, tỉnh Vĩnh Long hướng tây nam. Đồng chí đại diện cùng đi với lực lượng Long Xuyên.

    Từ đêm 15/11 đến hết đêm 16/11, hai đêm và một ngày ta tấn công liên tục, nhưng chưa có kết quả. Có một vài tổ dùng thang vượt tường đột kích vào bên trong, nhưng địch bắn rát nên phải lui ra. Bên ta và bên địch đều có thương vong lẻ tẻ. Lực lượng Sa Đéc của tôi có đồng chí quận đội trưởng Lấp Vò và chú nhỏ liên lạc lọt vào bên trong, bắn nhau với địch và hy sinh. Tuy chưa dứt điểm được, nhưng ta nắm được vị trí địch rõ hơn và biết chắc chúng đang hoang mang dao động. Bên ta cũng xuất hiện tình trạng mệt mỏi, uể oải, cần uốn nắn.

    Giữa lúc cần có sự chỉ đạo của cấp trên để tiếp tục hành động thì đồng chí đại diện bỏ về Long Xuyên. Nhưng “ba tỉnh” chúng tôi vẫn giữ quyết tâm cho anh em tạm nghỉ tại chỗ để hội ý với nhau. Anh em bầu tôi làm chỉ huy, còn “hai tỉnh” kia làm cấp phó (xin lỗi lâu ngày quá tôi không còn nhớ tên hai bạn). Nhưng điều quan trọng hơn là chúng tôi nhận thấy được nếu cứ đánh theo lối cũ thì không thể thắng. Bàn qua tính lại, chúng tôi quyết định chuyển sang lối đánh bằng hỏa công.

    Lại một ngày bắn cầm chừng để lo chuẩn bị xăng, dầu, rơm, chà, giẻ rách. Đến 3 giờ sáng ngày 18/11 thì những thứ đó được đưa vào vị trí: Đó là dãy nhà lính sát liền nhà lầu bọn chỉ huy và nhà kho. Lửa bốc cháy và lan nhanh, lan rộng. Địch la ré, và có cả tiếng khóc lóc thảm thiết của bọn Tây “xivin” cùng vợ con. Nhiều ống trúc thụt thêm xăng vọt qua tường. Nhiều gói mủ dầu chai quăng liên tục vào trong. Vì vậy không chỉ có lửa nóng mà còn có cả khói mù, khét lẹt. Khói chun qua khe cửa, qua mái ngói chẳng khác gì khói công chuột. Bọn Nhật, Pháp bên trong không còn sức để bắn nữa, im re. Thấy vậy cả du kích lẫn đồng bào tràn vô phá cửa rầm rầm. Ta cũng phục sẵn ở cổng chính và phía mé sông hễ địch chạy ra là bắt sống. Bỗng có tiếng kêu “Các ông Việt Minh! Họ đã xin đầu hàng!”. Đó là tiếng của ông linh mục nhà thờ Cù Lao Dung. Vừa kêu, tay ông vừa phất qua phất lại lá cờ trắng. Trừ ông linh mục và một số người có chức phận trong nhà thờ, tất cả bọn Nhật, Pháp đều bị trói gô, chở sang đất liền giao cho cấp trên.

    Trận đánh thắng lợi mang lại phấn khởi cho các địa phương vùng đồng bằng sông Cửu Long, được cấp trên rất khen ngợi. Lực lượng Sa Đéc trở về với nhiều súng chiến lợi phẩm được chia, được anh Sáu Lầu khao quân và tặng cờ chiến thắng.

    Còn về mặt tác chiến, rõ ràng ta còn giản đơn, ấu trĩ quá. Nhưng ta cũng có những ưu điểm như biết phát huy yếu tố tinh thần, khai thác sơ hở của địch, linh hoạt xử trí tình huống. Còn chiến thuật hỏa công về sau ít dùng đến nữa, thì trận Cù Lao Dung này càng tỏ ra là trận đánh độc đáo của ta buổi đầu kháng chiến..”
(anh Nhật Quang có cung cấp một tư liệu trong đó nhiều chi tiết khác với lời kể của anh Tám Xuyến, mà thời gian xảy ra trận đánh là từ 12 đến 15/9/1945. Có lẽ nên tiếp tục nghiên cứu để đánh giá độ chính xác của từng nguồn tư liệu).

    Tôi biết anh Tám Xuyến rất tâm đắc với trận đánh vỡ lòng trên đây, mặc dầu sau này anh còn đánh dư trăm trận, ngay sau đó là Cổ Cò, Giồng Dứa, Cầu Kè rất giòn giã..., và kể cả những Tua Hai, Phước Thành... thời chống Mỹ. Thì ra “cái buổi ban đầu” thường lưu lại một cách sâu đậm trong mỗi người vậy.

    Nhắc đến anh Tám Xuyến, tôi lại nhớ đến người em ruột của anh là Nguyễn Hữu Ngoạn - liên lạc của Trung ương Đảng, bạn tù của tôi năm 1944, đã hy sinh trong Khám Lớn Sài Gòn.

    Cần Thơ - thủ phủ của miền Tây bên hữu ngạn Hậu Giang, kiên cường bao vây địch trong thị xã (có tư liệu nói ta bao vây địch trong thị xã Cần Thơ suốt ba tháng). Trong các trận đánh của thị xã và vùng ven nổi lên trận Cái Răng mà đồng bào và chiến sĩ ta thường gọi là trận Lê Bình, tên một trong năm chiến sĩ quốc gia tự vệ cuộc đã chiến đấu và hy sinh tại trận. Thị trấn Cái Răng cách thị xã Cần Thơ 5km. Tại đây có 1 đại đội lính Pháp và 1 đại đội thân binh đóng giữ dưới quyền của tên quan ba Rouen. Sáng 12/11/1945, chợ đang đông, tên quan ba đang ngồi trong nhà việc xét giấy thuế thân cũ và cấp giấy thông hành mới cho dân. Lê Bình, Bùi Quang Trinh và Cao Minh Lộc cùng cải trang mặc áo vải xá xẩu (kiểu áo của Hoa kiều) giả đến xin giấy. Lê Bình đứng trước mặt Rouen, móc súng lục bắn liền hai phát thì súng lép, nhưng Rouen bị thương nặng té sấp xuống. Súng của Bùi Quang Trinh và của Cao Minh Lộc bắn vào hai tên giúp việc, được một phát cũng đều lép. Lê Bình bị bọn lính gác phía sau nhà việc bắn trả và hy sinh. Nhưng Bùi Quang Trinh và Cao Minh Lộc đã kịp chạy ra trước sân hạ cờ tam tài xuống, kéo cờ đỏ sao vàng của ta lên đỉnh cột cờ. Sau đó hai anh cũng trúng đạn địch ngã xuống.

    Tại Cầu Tàu còn hai đồng đội là Lê Nhật Tảo và Trần Chiến. Hai anh có nhiệm vụ ném lựu đạn và xông vào giật súng bọn lính gác, chiếm Cầu Tàu để cả tổ rút lui. Nhưng lựu đạn không nổ, hai anh cũng hy sinh khi giật súng bọn lính gác. Trận đánh chỉ diễn ra trong vòng 5 phút.

    Tên quan ba Rouen bị thương nặng được đưa về Cần Thơ, Sài Gòn điều trị rồi ít lâu sau về Pháp luôn vì mất sức chiến đấu. Nhưng về mặt tinh thần, quân Pháp vô cùng kinh hoàng, từ đó đi đâu cũng sợ Việt Minh xuất hiện bất thần. Còn đồng bào thì thật hể hả, tuy vô cùng thương tiếc các liệt sĩ trẻ tuổi của quê nhà, đêm nào cũng thắp nhang cầu nguyện cho linh hồn các anh.

    Trận đánh trên dưới 5 phút đồng hồ ngay sau đó được các báo Pháp tường thuật tỉ mỉ, mỗi báo một kiểu, nhưng tất cả đều ca ngợi lòng dũng cảm tuyệt vời của các chiến sĩ Việt Nam và cách đánh táo bạo, bất ngờ (mà về sau các đội biệt động của ta càng phát huy tốt trong khi hoạt động ở thành phố).

    Đến năm 1947, Rouen viết trên báo Humanité (Nhân đạo): “Mặt trận Cái Răng do những thanh niên trẻ tuổi tiến công vào sở chỉ huy của chúng tôi, đã làm cho tôi bất tỉnh vì những vết thương trúng vào những chỗ hiểm. Tôi được cứu sống và lương tâm đã thức tỉnh, tôi thấy chính nghĩa và tinh thần dũng cảm của một dân tộc mà trước đây tôi rất xem thường. Tôi không sợ súng của họ, nhưng khiếp sợ tinh thần chiến đấu dũng cảm của họ... Tôi sẽ vận động nhân dân Pháp cùng với chúng tôi ủng hộ phong trào giải phóng dân tộc Việt Nam để sớm được thành công”.

    Số còn lại của Sư đoàn bộ binh số 9 và một tiểu đoàn dù 5.000 tên tiếp tục đổ sang Việt Nam. Tháng 01/1946, quân Pháp đánh chiếm các tỉnh miền Tây còn lại. Đánh vào vùng đồng bằng nhiều kênh rạch, sông ngòi, chúng có hai thông báo hạm Gazelle và Annamite đi kèm. Về vũ khí, quân Anh bắt đầu “bàn giao” đất “Nam Kỳ” cho Pháp để rút về nước với khá nhiều vũ khí để lại.

    Trong vòng chưa đầy một tháng, quân Pháp lần lượt chiếm được Sóc Trăng, Trà Vinh (04/01), Sa Đéc, Long Xuyên (09/01), Châu Đốc, Hà Tiên (20/01), Rạch Giá (26/01), Bạc Liêu (29/01), Cà Mau (05/02) và Bến Tre là tỉnh cuối cùng (08/02). Thương tiếc anh Dương Văn Dương đưa 500 quân về Bến Tre, mới đánh được một số trận thì anh hy sinh vì đạn máy bay ngày 16/02/1946 tại Xóm Cò, quận Ba Tri.

    Leclerc ra thông cáo tuyên bố với các nhà báo: “Công cuộc bình định Nam Bộ và Nam phần Trung Bộ như vậy là hoàn tất”. Ta miễn bình luận về lời tuyên bố trên, vì sự thật sẽ được bày tỏ một thời gian ngắn ngay sau khoảnh khắc này, khoảnh khắc mà địch tiến tới đâu, ta lui tới đó, chúng đang làm chủ các thị xã, thị trấn và trục lộ giao thông. Miền Tây có vùng rừng ngập mặn U Minh thuộc hai tỉnh Rạch Giá và Bạc Liêu. Lúc này một bộ phận lực lượng vũ trang Trung Nam Bộ (Khu 8 ) rút về Đồng Tháp Mười, còn đại bộ phận dồn cả xuống đây, trong đó có cả Khu bộ trưởng Đào Văn Trường. Khi địch đến chiếm đất, bộ máy lãnh đạo cũng như bộ máy chính quyền của các tỉnh đều rút khỏi địa phương, nhưng điều đáng nói là tình trạng phân tán mỗi người một ngả không liên lạc được với nhau, không bàn bạc quyết định được điều gì. Sự sàng lọc và phân hóa trong tình hình này cũng là điều không tránh khỏi. Xứ ủy cũng bị phân tán, không nắm được các tỉnh ủy để chỉ đạo.

    Khái quát lại, tình hình từ tháng 12/1945 đến tháng 02/1946 như sau:

    Khu 7 còn tiếng súng lẻ tẻ ở một số nơi.

    Khu 8 hầu như không còn tiếng súng kháng chiến.

    Khu 9 bị địch đánh dồn vào rừng và phong tỏa.

    Cuối tháng 02/1946, các cán bộ quân dân chính của Khu 8, Khu 9 cũng như Trung ương ủy viên, Xứ ủy viên đang có mặt ở vùng Thới Bình, Chắc Băng, An Biên, Tân Bằng... đều nhận thấy cần thiết họp nhau lại để phân tích, đánh giá tình hình, đề ra phương hướng, biện pháp hành động. Các đồng chí có mặt trong cuộc họp đó: Võ Sĩ, Cao Hồng Lãnh, Văn Viên, Ung Văn Khiêm, Vũ Đức, Phan Trọng Tuệ, Huỳnh Phan Hộ, Đào Văn Trường... Cuộc họp này có thảo luận, có tranh cãi, nhưng không có kết luận, biểu quyết, ai thấy ý kiến nào mình cho là đúng, cứ vậy làm theo. Có ý kiến, lúc này của số ít người, chủ trương ở lại chiến đấu với địch, ai ở tỉnh nào về lại tỉnh đó, gầy dựng lại cơ sở, giữ vững liên lạc với nhau và chờ chỉ thị của Trung ương. Nhưng có ý kiến phải đưa lực lượng vũ trang lộn trở ra Trung Bộ, dựa vào lực lượng chi viện của toàn quốc đánh lấy lại Nam Bộ, đường đi lựa chọn là vòng ra biển ngược lên phía bắc, nếu cứ ở lại thì sẽ ngày càng bị địch dồn vào rừng U Minh và bao vây tiêu diệt.

    Các cán bộ quân sự hầu hết không tán thành chủ trương này, chủ trương “xuyên đông” như mọi người hay gọi. Cuối cùng chỉ có Khu trưởng Khu 8 Đào Văn Trường và 1 trung đội của Khu 8 từ Sóc Trăng đi bằng ghe biển. Thật ra cũng còn một vài đơn vị “xuyên đông”, nhưng bị địch ngăn chặn nên phải chôn giấu súng tại chỗ rồi quay trở lại U Minh, Cà Mau.

    Còn một số cán bộ, cũng ít thôi, dao động định chạy qua Thái Lan để lánh. Vừa lúc ấy, các đại biểu Quốc hội vừa đắc cử được triệu tập ra Hà Nội dự kỳ họp đầu tiên của Quốc hội khóa I, định quá cảnh qua Thái Lan. Cũng lúc ấy, Bộ Tư lệnh Khu 9 cử một số cán bộ mang vàng trong “quỹ độc lập” sang Thái Lan mua súng chở về và tổ chức cho Việt kiều trở về tham gia chiến đấu. Từ đó mà có từ “xuyên tây” thỉnh thoảng ta có nghe nói đến. “Xuyên tây” có nghĩa là “qua Thái Lan” chứ không phải là chủ trương của ai cả.
Logged
hoi_ls
Thượng tá
*
Bài viết: 5098



« Trả lời #16 vào lúc: 05 Tháng Chín, 2022, 06:56:01 am »

*
*      *


    Từ 23/9/1945 đến cuối tháng 02/1946, đây chỉ là khúc dạo đầu của bản đại hùng ca kháng chiến chống Pháp mà ngay từ buổi đầu Đảng và Hồ Chủ tịch xác định là “toàn dân, toàn diện, trường kỳ, dựa vào sức mình là chính”. Chính vì tính chất “toàn dân, toàn diện, trường kỳ” đó mà tôi muốn nói thêm một vài điều sau đây, những điều chưa nhắc đến khi chúng ta điểm lại tình hình chiến sự.

    Khi cuộc kháng chiến chống Pháp bùng nổ, kẻ địch và cả rất nhiều người trên thế giới đã đi từ ngạc nhiên này đến ngạc nhiên khác. Họ không giải thích được tại sao dân “An Nam mít” vong quốc nô, lạc hậu, dốt nát, lại dám đương đầu chống lại quân Pháp, và không ít phen làm cho quân Pháp khuynh đảo?

    Đúng, mới hôm qua hai mươi lăm triệu dân Việt Nam mà thực dân Pháp khinh miệt gọi là “An Nam mít” đều là người nô lệ lầm than, đói rách và ngu dốt là bạn đồng hành của họ. Nhưng hôm nay họ đã là chủ nhân ông của một quốc gia độc lập. Sự đổi đời này làm cho toàn dân tộc Việt Nam cùng đổi về chất, nhiều cái hôm qua chưa thể có hoặc chưa hình thành rõ thì hôm nay mặc nhiên là cái “vốn có”. Một trong những cái “vốn có” đó là tinh thần yêu nước thương nòi biểu hiện bằng khí thế cách mạng sôi nổi chưa từng thấy.

    Ở phần trên, tôi đã có dịp nói đến thái độ đáng quý của một số trí thức, nhân sĩ Sài Gòn đối với Cách mạng Tháng Tám, nhưng dường như tôi thấy vẫn chưa thiệt đầy đủ. Anh Phạm Ngọc Thuần, anh Nguyễn Thành Vĩnh, anh Thái Văn Lung... và còn nhiều người khác nữa, khi chiến tranh bùng nổ, thái độ của họ càng dứt khoát và quyết liệt hơn. Hành động yêu nước của họ thật đáng ca ngợi và khâm phục.

    Chẳng hạn, anh Thái Văn Lung, một trong nhiều dẫn chứng. Là dân Tây, với tên Albert, du học bên Pháp từ nhỏ, nói tiếng mẹ đẻ không thạo, tín đồ Thiên Chúa giáo, Trung úy quân đội Pháp, đã từng tham chiến ở Xiêm (Thái Lan). Là luật sư, năm 1941 giải ngũ, Tòa thượng thẩm Sài Gòn đón vô làm việc ngay, danh vọng và giàu sang chẳng phải nhọc lòng kiếm ở đâu xa. Nhưng nay anh tuyên bố bỏ quốc tịch Pháp để hãnh diện làm người Việt Nam. Anh cùng ba nhà trí thức khác là Luật sư Phạm Ngọc Thuần, Giáo sư Phạm Thiều và Kiến trúc sư Phạm Ngọc Thảo mở trường quân chính để đào tạo cán bộ chỉ huy cho bộ đội (theo anh Bích Lâm thì anh Thái Văn Lung có lập “bộ đội các luật sư” ở Thủ Đức).

    Chẳng may trong một chuyến đi công tác, anh Thái Văn Lung bị địch bắt được. Trước tiên là chúng dụ dỗ, không được, chúng dùng cực hình tra tấn. Anh không đầu hàng, hơn vậy, còn hiên ngang chửi thẳng vào mặt quân cướp nước. Cuối cùng, địch bí mật thủ tiêu anh rồi dùng dây thừng treo cổ anh lên xà nhà, phao tin anh tự sát. Trước đó anh đã tâm sự với một đồng chí cùng bị giam một phòng: “Tôi chắc giặc Pháp không còn để tôi sống được bao lâu nữa, nhưng dù chết tôi vẫn không buồn tức gì cả. Tôi sung sướng coi như đã hoàn thành nhiệm vụ của mình đối với nước nhà. Nếu em may mắn được trở về thì hãy nói với đồng đội chúng ta cố gắng hết sức mình hướng về mục đích mà chúng ta xác định cho đến ngày chiến thắng cuối cùng”.

    Xin được miễn bình luận về thái độ sống, chiến đấu và những lời nói cuối cùng đầy lạc quan, tin tưởng, đầy tinh thần trách nhiệm của một con người từng sống trên vàng son nhung lụa như anh Lung.

    Ở miền Tây, gia đình cụ Trương Công Thiện là dẫn chứng khác. Cụ từng làm Chủ quận hàm Đốc phủ sứ rồi Chủ tỉnh Bạc Liêu. Cách mạng đến, cụ từ giã quan trường về sống ở Cái Vồn (Cần Thơ). Chính trong thời điểm thiêng liêng này của đất nước, cụ khuyên tất cả bốn người con trai của mình gia nhập bộ đội cách mạng. Người con út lúc này đang học bên Pháp, tự tay cụ biên thư gọi anh về với mục đích vừa nói trên. Năm 1983, cụ từ trần với cương vị Ủy viên Mặt trận Tổ quốc tỉnh Tiền Giang, thọ 87 tuổi.

    Còn bốn người con trai của cụ, hiện nay đều là cán bộ khoa học tài năng:

    Trương Công Trung - Giáo sư bác sĩ, Hiệu trưởng Trường Đại học Y - Dược Thành phố Hồ Chí Minh.
    Trương Công Cán - Bác sĩ, Phó Giám đốc Bệnh viện Thống Nhất Thành phố Hồ Chí Minh.
    Trương Công Kháng - Kỹ sư, Phó Giám đốc Xí nhiệp Sinco Thành phố Hồ Chí Minh.
    Trương Công Tín - Kỹ sư, Phó Viện trưởng Viện Khoa học nông nghiệp miền Nam.

    Ở Bến Tre, cụ Nguyễn Ngọc Tương, là Đức giáo tông, người sáng lập ra Hội thánh Ban Chỉnh đạo Cao Đài (tôn giáo Cao Đài có ba phái: Tiên Thiên, Ban Chỉnh, Tây Ninh) vào năm 1925. Dưới sự lãnh đạo của cụ, Hội thánh Ban Chỉnh đạo có sự đóng góp tích cực cho kháng chiến. Hội thánh tặng Ủy ban kháng chiến tỉnh Bến Tre một xưởng in với toàn bộ máy móc, lò đúc bản chữ, chữ in, giấy và mực. Chiến sĩ ngoài mặt trận nhận được nhiều áo lạnh, khăn choàng, khăn tay do các nữ tu và các giáo hữu gửi tặng.

    Hai anh con trai của cụ Nguyễn Ngọc Tương đều là kỹ sư du học ở Pháp về, tham gia công tác từ những ngày đầu cách mạng thành công. Anh Nguyễn Ngọc Bích là Khu bộ phó Khu 9. Anh Nguyễn Ngọc Nhựt bị địch bắt được và đem về Sài Gòn giam ba năm. Anh ra tù được ba ngày thì từ trần vì cơ thể đã tàn tạ, được truy tặng Huân chương Kháng chiến hạng Nhất.

    Anh em công nhân trong thành phố Sài Gòn - Chợ Lớn, như ta đã biết, từ tay búa tay kềm chuyển tay súng rất nhanh chóng không hề ngỡ ngàng. Những đội cảm tử công đoàn, tự vệ công đoàn đã chứng tỏ điều đó. Khi vòng vây Sài Gòn - Chợ Lớn của ta bị phá thủng, đại đa số anh em đã rời thành phố ra đi, sáp nhập cùng bộ đội của các tỉnh và bộ đội Bình Xuyên. Còn công nhân của các tỉnh, chủ yếu là công nhân cao su, cũng thực hiện chính sách bất hợp tác với địch một cách triệt để. Cuốn Lịch sử nông trường cao su Cẩm Mỹ (tức đồn điền cao su Courtenay trước đây) có đoạn ghi:

    “Ngày 25/01/1946, giặc Pháp đánh chiếm các vùng cao su ở Biên Hòa và Bà Rịa. Courtenay là một đồn điền lớn của Công ty Đất Đỏ, nơi có xưởng máy, xưởng chế biến mủ, sớm muộn gì giặc Pháp cũng sẽ đánh đến. Với ý thức không để bọn chủ Tây trở lại bóc lột, trước đó mấy ngày Ban tự quản đồn điền quyết định cho công nhân “tiêu thổ kháng chiến”. Công nhân nhà mủ, chất mủ bành, mủ cờ, xếp thành đống và nổi lửa. Công nhân nhà máy, tháo gỡ máy tiện, lấy những bộ phận máy cần cho kháng chiến, đập phá máy móc. Anh em văn phòng, mang hết máy chữ và vật dụng cần thiết đi nơi khác. Lớp bồng bế con thơ, lớp gánh gồng nồi soong, bỏ sở ra đi. Một số ra rẫy làm ăn, một số về Bà Rịa, Long Thành, ra khu kháng chiến. Có nhiều anh em sau này trở thành công nhân xưởng quân giới Nam Bộ đóng tại Phú Mỹ (Bà Rịa)”.

    Số đông các công nhân đồn điền vùng Xuân Lộc (Biên Hòa) gia nhập quân đội hoặc kéo vào rừng tổ chức thành các đội du kích. Vì vậy khi chiếm xong được đồn điền nào là địch bố ráp ngay. Ở đồn điền An Lộc, địch bắn chết một lúc gần một trăm công nhân để uy hiếp tinh thần những người khác. Nhưng trước họng súng quân thù số anh em không hề run sợ, đã hô vang trước khi ngã xuống: “Đả đảo xâm lược! Việt Nam muôn năm!”.

    Vùng cao su của tỉnh Thủ Dầu Một cũng vậy. Công nhân phá hoại các cơ sở sản xuất của đồn điền một cách triệt để. Khi địch hành quân đánh chiếm đồn điền Dầu Tiếng, Quản Lợi và Lộc Ninh, hàng chục tên bỏ mạng vì vũ khí thô sơ của công nhân và nhân dân.

    Chắc chúng ta đều biết trong những ngày đầu Chính phủ lâm thời chỉ có hai triệu đồng bạc Đông Dương lấy trong kho bạc của Pháp - Nhật. Đó là số tiền quá ít ỏi so với nhu cầu chi tiêu của một quốc gia. Vì vậy Tổng bộ Việt Minh phát động “Tuần lễ vàng” từ ngày 10 đến ngày 17/9/1945 để lập “Quỹ Độc lập” xây dựng đất nước và mua sắm vũ khí trang bị cho bộ đội. Kết quả thật mỹ mãn và về mặt tinh thần yêu nước của đồng bào thật đáng tự hào.

    Dù ở nơi đô hội hay vùng hẻo lánh của đất nước đều có những mẩu chuyện cảm động. Những người vợ hiến đôi bông tai hoặc cái nhẫn cưới, vật kỷ niệm thiêng liêng của mình. Những cụ già neo đơn, nhờ người bán cỗ hậu sự của mình để lấy tiền góp vào quỹ. Những bà mua thúng bán bưng cứ sau mỗi buổi chợ lại gọi nhau bớt một ít tiền lời góp vào quỹ...

    Tiếp theo là “Tuần lễ đồng”. Nói là tuần lễ, nhưng ở nhiều nơi kéo dài cả tháng. Một khẩu hiệu kêu gọi khá văn vẻ và dễ nhớ:

          “Đem đồng, đem đỉnh đi đâu?
          Đem đi đúc đạn, đập đầu Đờ Gôn”


    Cần nhiều đồng để đúc đạn đánh giặc, đồng bào đâu tiếc, nô nức góp không biết bao nhiêu lư hương, chân đèn, mâm thau, tiền đồng, nồi đồng..., trong đó có cả hàng trăm ngôi chùa.

    Sau đó ở một số tỉnh còn “Tuần lễ áo rách”, “Tuần lễ thuốc tây”, rồi phong trào “Hũ gạo cứu đói”, “nhường cơm sẻ áo”. Chủ trương nào, phong trào nào cũng được đồng bào hưởng ứng sôi nổi và hoàn toàn tự nguyện. Năm 1945, “nạn đói Ất Dậu” cướp đi sanh mạng của hơn hai triệu người ngoài Bắc, là hậu quả tội ác tày trời của bọn thống trị Pháp - Nhật. Gần mười triệu dân trong Nam tuy chưa đói lả nhưng cũng vô cùng nheo nhóc: Ăn cơm gạo hẩm, mặc quần áo bao tời, thắp đèn dầu u, miền Tây bị dịch tả hoành hành. Nhờ lá lành đùm lá rách mà dần dần đồng bào vượt qua được.

    Nam Bộ có hàng ngàn kilômét bờ biển và nhiều làng chài ven biển. Bà con ngư dân đã vượt biển cả ra Côn Lôn đón tù chính trị về đất liền và liền sau đóng góp thêm nhiều ghe chài cho cách mạng chở súng từ Trung Bộ về, chở cán bộ qua Thái Lan công tác, và dùng làm cản qua các dòng sông, dòng kênh làm chậm bước tiến của địch.

    Các đơn vị vũ trang, nếu ví như những bông hoa, thì lúc này đang nở rộ trong vườn xuân đất nước. Loại trừ một số đơn vị ung thối do người cầm đầu là phần tử cơ hội, hàng trăm, hàng trăm đơn vị tự lập ở thành thị và nông thôn, miền xuôi và miền ngược, ngay lúc ra đời đã mang rõ tính nhân dân đậm đà. Những thanh niên công nhân, nông dân, trí thức, viên chức, sinh viên, học sinh cầm súng đó, chỉ huy cũng như chiến sĩ, tất cả đều từ nhân dân mà ra. Họ được gia đình khích lệ, xóm ấp nuôi nấng, đùm bọc, dựa vào dân tồn tại và đánh giặc.

    Đây là quận Long Thành (Bà Rịa), khắp các làng ấp vang lên khẩu hiệu “thà chết không chịu làm nô lệ”. Trong sân nhà hội Long Thành - trụ sở của Ủy ban nhân dân lâm thời quận, từ sáng đến sẩm tối vang dậy tiếng bước chân đi đều, tiếng hô “một, hai” của các chiến sĩ cộng hòa vệ binh. Anh em tập đội ngũ, tập tháo ráp, sử dụng súng, tập các động tác cơ bản trong chiến đấu, tập võ thuật, đánh đao, bắn ná...

    Để phục vụ việc ăn uống cho cộng hòa vệ binh, Ủy ban nhân dân lâm thời quận thành lập một ban tiếp tế do ủy viên tài chính phụ trách. Gạo, mì, khoai, bắp, cá, rau, thịt đều do ban tiếp tế lãnh của đồng bào đem đến. Mỗi ngày có tới vài ba chục chị em phụ nữ tham gia vận chuyển và nấu nướng.

    Ở quận Chợ Lách, tỉnh Vĩnh Long (đến năm 1946, thì thuộc Bến Tre), khí thế cách mạng sôi sục trong toàn dân. Ban ngày, đồng bào kêu nhau đi hàn sông phá lộ, sản xuất vũ khí, vận động quyên góp tiền bạc, lương thực... Đêm đến khắp xóm ấp đèn đuốc lửa trại nổi lên. Nơi học ca hát, nơi học võ dân tộc, học động tác chiến đấu. Đặc biệt ở những bãi tập lớn có bàn thờ Tổ quốc rất trang nghiêm. Nhiều cán bộ lãnh đạo và nhiều bậc cha mẹ đến khuyến khích con em mình học hành luyện tập. Những lúc nghỉ tập, các mẹ, các chị dọn bánh trái ra để giải lao, còn người lớn tuổi thì ngồi bên chung trà đàm đạo, mỗi người một câu góp vào đề tài chống xâm lược. Cũng có nhiều ý lo lắng rằng chí có thừa nhưng lực lại yếu và thiếu súng đạn, nhưng khi bàn đến chỗ khó khăn này thì nhiều cụ nhìn lên ảnh Bác Hồ rồi nói: “Cứ tin lời cụ, làm theo lời cụ thì xong tất cả, đánh Tây lấy súng”. Đoạn miêu tả trên đây mà tôi cho là khá sinh động, được trích trong cuốn Lịch sử đấu tranh cách mạng của nhân dân Chợ Lách, in năm 1989.

    Làng Mỹ Tú cùng với 76 làng khác của tỉnh Sóc Trăng, trước khi bị quân Pháp chiếm đóng, là trạm hậu cần của một số tỉnh miền Tây. Anh Hai Bùi - Bí thư Chi bộ năm 1946 kể lại:

    “Năm ấy ở quê nhà có một số gia đình nghèo bị đói. Chính quyền đã tịch thu lúa của địa chủ và muối trong kho cấp cho bà con, cả người Việt và người Khơme. Bà con đáp lại bằng những câu rất cảm động: Đây là gạo muối của Cụ Hồ, Việt Minh thương dân thiệt tốt”.

    Giáp Tết Bính Tuất (1946), Mỹ Tú nhận lãnh mười hai thương binh về nuôi dưỡng. Tuy là một làng nghèo, nhưng sự chăm sóc anh em rất tận tình. Các má, các chị thay phiên nhau lo từng miếng cơm, tô cháo, đến viên thuốc, gói quà. Tết năm đó anh em đón xuân trong tình cảm đầm ấm, thương yêu nhất mà đồng bào dành riêng cho mình.

    Các cơ quan Quận ủy Châu Thành đóng dọc theo Kinh Xáng, các cơ quan Tỉnh ủy Sóc Trăng đóng ở Ba Rẹt, Trà Cú, đều trên địa bàn Mỹ Tú. Vì vậy, thư chúc Tết của Hồ Chủ tịch nhân dịp Tết Bính Tuất được phổ biến đến từng gia đình, từng người đến kịp thời, mang lại niềm vui lớn:

    “Hỡi đồng bào cả nước!

    Hôm nay là mồng một Tết năm Bính Tuất. Ngày Tết đầu tiên của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Tôi thay mặt Chính phủ chúc đồng bào năm mới muôn sự tốt lành.

    Tôi riêng chúc các gia quyến của các chiến sĩ thân yêu, năm mới vui vẻ.

    Năm mới, đồng bào ta sẽ phấn đấu cho một đời sống mới, ai cũng góp sức vào cuộc kháng chiến lâu dài, để làm cho nước ta được hoàn toàn tự do độc lập.

    Năm mới đồng bào ta đoàn kết càng chặt, tranh đấu càng mạnh, sản xuất càng nhiều. Chúc đồng bào:

   Trong năm Bính Tuất mới
    Muôn việc đều tiến tới.
    Kiến quốc chóng thành công,
    Kháng chiến mau thắng lợi.


    Trong dịp Tết này, đồng bào khắp nơi, từ các cụ già đến các em trẻ, đã gửi cho tôi nhiều thơ từ và quà bánh. Tiếc rằng tôi không thể trả lời từng người được. Vậy tôi xin trân trọng cảm ơn chung hết thảy đồng bào yêu mến.

    Hỡi các chiến sĩ yêu quý!

    Trong khi đồng bào ở hậu phương đốt hương trầm để thờ phụng Tổ tiên, thì các chiến sĩ ở tiền phương dùng súng đạn để giữ gìn Tổ quốc. Trong khi đồng bào ở hậu phương rót rượu mừng xuân, thì các chiến sĩ ở tiền phương tuốt gươm giết giặc. Các chiến sĩ hăng hái chống địch, để cho đồng bào được an toàn mừng xuân.

    Trong mấy ngày Tết, đồng bào ở hậu phương ai cũng đoàn tụ sum vầy chung quanh những bình hoa, mâm bánh. Mà các chiến sĩ thì ăn gió nằm mưa, lạnh lùng ở chốn sa trường. Song, hình dung các bạn thì ấm áp trong lòng thân ái của mỗi một quốc dân.

    Hiện nay, bọn thực dân Pháp ra sức tấn công, chúng nó mưu chiếm nước ta từ 16 độ trở vào Nam. Tình thế tuy nghiêm trọng, nhưng chắc các chiến sĩ quyết ra sức chống giữ để phá tan âm mưu của chúng, đồng thời Chính phủ và toàn quốc đồng bào quyết đem tất cả tinh thần, lực lượng để giúp các chiến sĩ. Chúng ta quyết không để cho bọn thực dân Pháp trở lại đè nén chúng ta.

    Tôi thay mặt Chính phủ và toàn quốc đồng bào chúc các chiến sĩ năm mới mạnh khỏe và thắng lợi”.

    Trên chiến trường sông nước miền Tây, đồng bào chèo ghe đưa bộ đội sang sông đánh giặc là một hình ảnh đẹp thường được đưa vào thơ nhạc, đôi khi được miêu tả có phần thơ mộng. Nhưng trong cuộc hành quân của bộ đội Ba Dương từ Rừng Sác về chi viện cho mặt trận Bến Tre, trong mười hai ngày (từ 05/02 đến 16/02/1946) vừa đi vừa đánh địch để mở đường tiến, đoàn quân đó đã vượt qua biết bao con sông: Soài Rạp, Rạch Cốc, Vàm Cỏ, Tra, Rạch Kiến, Ba Lai... Đồng bào ở những vùng đó đã rất khôn khéo và dũng cảm để đảm bảo cho bộ đội khi tập kết, trú quân, vượt sông cách đồn bót địch chỉ trong gang tấc, nhất là đồng bào hai làng Châu Hòa và Châu Bình, thuộc quận Tán Kế tỉnh Bến Tre (quận Tán Kế thành lập sau Cách mạng Tháng Tám đến cuối năm 1949 thì giải thể, các xã sáp nhập vào hai quận Ba Tri và Châu Thành). Rồi ngày 16/02/1946, chính tại xóm Cò làng Châu Bình, Tư lệnh Bình Xuyên Dương Văn Dương trúng đạn từ máy bay địch bắn xuống và hy sinh trong sự thương tiếc của quân và dân. Vì địch đã tràn đến nên việc an táng anh Ba Dương phải tiến hành hết sức bí mật, nhưng tên tuổi, hình ảnh của anh còn đọng mãi trong lòng người dân miền sông nước.

    Có một điều cũng rất thú vị là người chiến sĩ và người dân như đã hòa vào nhau. Giặc đến, người dân xông ra đánh giặc với bất cứ vũ khí nào có trong tay, để rồi sau đó họ lại trở về làm người dân thường một cách hết sức tự nhiên. Thú vị nhưng hoàn toàn dễ hiểu, vì tục ngữ đã có câu: “Giặc đến nhà đàn bà cũng đánh”. Tuy nhiên không phải ở bất cứ mảnh đất nào, ở thời đại nào cũng có được.

    Năm 1985, về An Giang dự hội nghị thông qua công trình lịch sử của tỉnh, tôi ghi nhớ một hình ảnh: “tháng 11/1945, hòa thượng chùa Sân Tiên (Núi Cấm) cùng cán bộ địa phương chỉ huy lực lượng nhân dân vây bắt toàn bộ 14 tên địch ngay sau khi chúng nhảy dù xuống Tua Tà Men (Tri Tôn) để móc nối với bọn phản động, chuẩn bị cho quân Pháp đánh tới”. Hình ảnh vị hòa thượng xưa nay chỉ quen việc kinh kệ, ra khỏi cổng chùa để hòa nhập vào cuộc đấu tranh chung của toàn dân tộc, để lại trong tâm trí tôi một ấn tượng mạnh mẽ khó quên.

    Ở Tam Phước (Bà Rịa) trung tuần tháng 9/1945, có cô hàng nước xinh đẹp chịu đùa cợt nhả nhớt với hai tên lính Nhật để mấy anh trai làng có đủ thời gian lấy hai khẩu súng của chúng để trên buồng lái ôtô mang đi. Chuyện tưởng như dễ ợt nhưng nếu không có bản lãnh và mưu trí cao, vị tất đã làm được.

    Người liệt sĩ đầu tiên của chiến khu Xuyên Phước Cơ (Xuyên Mộc - Bà Rịa) là anh Kéo, đoàn viên Thanh niên Tiền phong. Tháng 10/1945, hai tiểu đội lính Pháp và Nhật đổ bộ vào đất liền, nổ súng bừa bãi và bắt đi 12 thanh niên dẫn theo lên sở cao su Láng Lớn. Lợi dụng lúc địch đang ăn nhậu, anh Kéo trèo lên mái nhà ném chai xăng châm lửa xuống ngay giữa mâm rượu của chúng. Anh trúng đạn địch, hy sinh sau khi diệt được một số tên trong bọn chúng, buộc chúng phải hoảng hốt rút lên phía lộ 1.

    Ở làng Bình Hòa thuộc chiến khu Thuận An Hòa (Thủ Dầu Một) có chuyện khó tin nhưng có thật. Bốn anh thanh niên với bốn cây tầm vông vạt nhọn dàn hàng ngang dọc lộ chặn một chiếc xe tăng Nhật đang đi tới. Nếu chiếc xe tăng tiếp tục chạy thì bốn con người tay không tấc sắt đó sẽ bị nghiền nát. Nhưng nó đã dừng lại, trù trừ trong phút chốc rồi quay đầu trở lại hướng cũ! Không có gì khác, chính khí thế của đồng bào ta lúc đó buộc chúng phải hành động ngoan ngoãn như vậy, mặc dầu chúng là những tên phátxít chính hiệu.

    Địch chiếm đất nhưng không chiếm được lòng dân.

    Ông Hồ Nguyên trước là Giám đốc Sở Thí nghiệm nông lâm Trảng Bom. Địch kêu ông trở lại làm việc cho chúng, hết dụ dỗ lại hăm dọa. Nhưng tâm niệm nghĩa vụ người dân là phải bất hợp tác với quân cướp nước, ông một mực từ chối. Bà con trong vùng đều tỏ lòng cảm phục ông, một trí thức yêu nước.

    Tháng 01/1946, quân Pháp phục kích bắt được anh Điểu Xiên, người dân tộc Chơ Ro, vừa đắc cử đại biểu Quốc hội tỉnh Biên Hòa. Chúng cũng giở trò mua chuộc, hứa cho chức cho tiền. Anh hiên ngang nói: “Thà chết tao không đầu hàng Tây”. Chúng cột anh sau xe jeep mở máy chạy cho đến khi thi thể anh bầm dập nát bét.

    Khắc sâu thù giặc và noi gương người cán bộ anh hùng của dân tộc mình, ngay sau đó đồng bào Chơ Ro ở Xuân Lộc cắt máu ăn thề, đổi họ Điểu, lấy họ Hồ Chí hoặc Nguyễn Ái với tinh thần nguyện là con cháu Cụ Hồ kính yêu.

    Ông Tài là nhà trí thức và tư sản chủ hãng xe đò chạy đường Gò Công - Sài Gòn, khi giặc chiếm Gò Công, quê nhà ông, ông bỏ tất cả sản nghiệp để tham gia kháng chiến. Tháng 02/1946, địch bắt được ông ở Bình Đại (Bến Tre). Tên quan một Tây lai Lơ Roa biết ông là tầng lớp trên nên muốn thả ông với điều kiện ông phải ra chợ Bình Đại hô: “Đại Pháp vạn tuế!”. Nhưng chúng không ngờ khi ra giữa buổi chợ đông người, ông dõng dạc hô to: “Cụ Hồ muôn năm! Việt Nam độc lập muôn năm!”. Ông điềm nhiên lãnh đủ mấy viên đạn của địch.

    Tinh thần đấu tranh của đồng bào Sa Đéc trước tội ác man rợ của địch cũng nên nhắc lại. Cuối tháng 01/1946, sau khi chiếm được thị xã Sa Đéc, quân Pháp đi đến đâu thả cửa bắn giết trâu, bò, heo, gà, vịt, cướp lúa gạo đến đó. Chúng còn giết người, chặt đầu, moi gan ăn và xẻ thịt bắt ép dân mua. Bến chợ Sa Đéc và nhà Hội đồng Tư ở Lấp Vò là hai điểm đón ghe, bắt mỗi chiếc phải mua lkg với giá 1 đồng. Đồng bào mua xong, chèo ghe đi kiếm đèn nhang khấn vái vong hồn người bị giết hại và chôn miếng thịt. Đêm 29/02/1946, quân Pháp chở 10 người đến chặt đầu tại nhà lồng chợ Sa Đéc. Sáng hôm sau đồng bào kéo đến đông nghẹt chửi rủa, lên án địch. Chúng bắn súng chỉ thiên để giải tán, nhưng đồng bào không sợ. Về sau địch phải chấm dứt hành động man rợ này để xoa dịu lòng căm phẫn của dân.

    Qua một số sự việc nêu trên, ta thấy rõ con người Việt Nam, ý chí Việt Nam như thế nào. Rất anh hùng!

    Ngày 02/9/1945, Hồ Chủ tịch long trọng đọc bản Tuyên ngôn độc lập, báo hiệu sự ra đời của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Ngay ngày hôm sau, 03/9/1945, Hồ Chủ tịch lên tiếng phát động đồng bào cả nước tiến công vào ba mặt trận: Diệt giặc đói, diệt giặc dốt, diệt giặc ngoại xâm.

    Cuối tháng 9, Trung ương Đảng cũng có Chỉ thị Kháng chiến và kiến quốc, đề ra những nhiệm vụ có tính chất toàn diện cho Đảng bộ và nhân dân Nam Bộ. Vì vậy, Nam Bộ không chỉ tập trung đánh giặc mà còn tranh thủ làm nhiều việc khác, nhất là ở những vùng chiến sự lan tới sau.

    Cùng với việc thiết lập bộ máy chính quyền các cấp, Mặt trận Việt Minh công bố 10 chính sách ích nước lợi dân, mọi người đều tán thành. Các giới đồng bào đều có đoàn thể của mình: Công nhân Cứu quốc, Nông dân Cứu quốc, Phụ nữ Cứu quốc, Thanh niên Cứu quốc... Tuổi nhỏ có Đội Thiếu niên Tiền phong, Đội Nhi đồng cứu vong. Ai ai cũng được tập họp, cũng được tổ chức đặng có điều kiện phục vụ kháng chiến.
    Công cuộc “diệt giặc đói” đi liền với chủ trương giảm tô, giảm tức từ 25% đến 50%, chủ trương khai hoang, đào kênh. Một số nơi thành lập tổ hợp rèn, tổ sản xuất, góp tiền mua trâu luân phiên sử dụng.

    Công cuộc “diệt giặc dốt” ở nhiều nơi diễn ra như ngày hội. Thiệt vậy, thanh niên đi học đã đành, mà người lớn tuổi, ông già, bà lão đều náo nức đến những lớp mở ngay gần nhà mình. Các lớp học mở ra tấp nập. Đêm đêm ánh đèn dầu lấp lánh như đom đóm theo bà con đến lớp học. Giáo viên không thiếu vì không cần trình độ cao, người biết chữ dạy cho người chưa biết. Chuyện nơi nào cũng có là đặt kiểm tra ở ngã ba, ngã tư các bà hay đi chợ qua để hỏi mặt chữ. Ai chưa biết đều phải dừng lại học năm mười phút rồi mới được đi tiếp.

    Sự dốt nát cũng như các nỗi cực nhục trong lòng người và các tệ mê tín dị đoan, cờ bạc, trộm cắp như được luồng gió cách mạng cuốn đi tất cả. Tất nhiên không thể tuyệt đối, nhưng còn một số ít du đãng quậy phá, chính quyền cách mạng đã nghiêm khắc trừng trị.

    Một thành quả lớn của cách mạng vừa đem tới: ngày 06/01/1946, tất cả mọi công dân từ 18 tuổi trở lên không phân biệt nam nữ, tôn giáo, dân tộc, thành phần, đều được đi bầu cử đại biểu Quốc hội nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Quyền lợi to lớn đồng thời là nghĩa vụ thiêng liêng này, trước đây nằm mơ cũng không có được. Ý thức công dân của đồng bào thể hiện rõ trong ngày bầu cử (ở một số nơi do tình hình khẩn trương địch sắp đánh tới nên ngày bầu cử là 25/12/1945). Ở những vùng tự do, tỷ lệ đi bầu suýt soát 100%. Còn vùng bị địch tạm chiếm, tỷ lệ đó là trên 90%. Phải nói đó là một tỷ lệ kỳ diệu. Đồng bào đã vượt qua sự ngăn cản của địch, bất chấp mũi súng, ngọn lê của chúng, đến nơi quy định để tự tay cầm lá thăm cử người thay mặt mình tại Quốc hội. Thành công của cuộc bầu cử còn do cán bộ ta, trong một số nơi bị địch o ép mạnh, đã mang hòm thăm đến từng hộ dân để thu gom đầy đủ. Hòm thăm ở đây cũng phải hiểu một cách linh hoạt, có khi chỉ là một cái bao tời cầm tay không cần phải niêm phong gì cả. Do đó, một số cán bộ đã hy sinh trong khi làm nhiệm vụ... Tổn thất nặng nhất là Sài Gòn có đến 42 cán bộ hy sinh, trong đó có anh Lê Văn Tư - Chủ tịch Ủy ban kháng chiến Sài Gòn.

    Một điểm khác cũng cần ghi nhận là tất cả mọi người ứng cử do Mặt trận Việt Minh từng tỉnh giới thiệu, trong đó có cán bộ, đảng viên, trí thức, nhân sĩ tiến bộ đều trúng cử.

    Phải chăng vì vậy ngay trong một lá thư gửi đồng bào Nam Bộ trong tháng 02/1946 này, Hồ Chủ tịch thay mặt đồng bào cả nước tặng quân và dân Nam Bộ danh hiệu “THÀNH ĐỒNG TỔ QUỐC”.

    Ngay từ lúc địch mới khởi hấn gây chiến, quân và dân Nam Bộ đã tỏ ra xứng đáng với danh hiệu vẻ vang đó và làm đúng lời Người căn dặn: “Còn một tấc đất, còn một người dân thì còn chiến đấu”.



Logged
hoi_ls
Thượng tá
*
Bài viết: 5098



« Trả lời #17 vào lúc: 07 Tháng Mười, 2022, 03:41:14 pm »

QUÂN GIẢI PHÓNG MIỀN NAM


     Ngày 15/02/1961, nhằm mùng 1 Tết Tân Sửu, lễ ra mắt quân đội cách mạng thống nhất ở miền Nam - Quân giải phóng -được tổ chức trọng thể... Từ hôm đó, trong bước đường đi lên của đất nước ta, thêm một thành viên lừng lẫy: Quân giải phóng miền Nam.


    Tây Bắc Nam Bộ (Bắc Tây Ninh) - cách Sài Gòn khoảng 100km - từ năm 1957 đã lấy lại “phong độ thời kháng Pháp”: chiến khu Dương Minh Châu, nối liền căn cứ Bờ cảng Long Nguyên của Bến Cát, núi Cậu của Dầu Tiếng (Thủ Dầu Một), Hố Bò (Gia Định), Bời Lời, Bàu Cỏ (Nam Tây Ninh), lan sang Chiến khu Đ cũ, men quốc lộ 14 lên tận Bù Đăng, Bù Nho giáp Quảng Đức và tỏa xuống Mã Đà... Ba tháng trước, ngày 20/12/1960, Mặt trận Dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam tuyên cáo thành lập trên địa bàn lịch sử này; và ngày 15/02/1961, nhằm mùng 1 Tết Tân Sửu, lễ ra mắt quân đội cách mạng thống nhất ở miền Nam - Quân giải phóng - được tổ chức trọng thể.

    Chiều vừa xuống, trong hơi mát dịu của rừng xuân, dưới tàn cổ thụ, chỉ huy và chiến sĩ xếp hàng nghiêm chỉnh trước khán đài. Đội ngũ toát lên một hòa hợp mới khá đặc biệt: Các vệ quốc quân xưa tóc ngả màu sương, đứng cạnh những tân binh vừa rời vùng địch kiểm soát, các quân nhân từng mang danh nghĩa nào là vũ trang tự vệ Đông Nam Bộ, nào “giáo phái”, các nhóm Việt kiều tình nguyện từ Campuchia về, các nhóm học sinh từ Sài Gòn ra, do Trung tá Tăng Thiên Kim (đổi tên là Hoàng Đình Chương) chỉ huy chưa thay bộ trang phục kongle. Đồng chí Nguyễn Văn Hiếu (sau này là Bộ trưởng Bộ Văn hóa của Chính phủ Việt Nam thống nhất) xướng ngôn chính thức của cuộc lễ. Đồng chí Nguyễn Văn Linh - Bí thư Xứ ủy Nam Bộ đọc nhật lệnh thống nhất các lực lượng vũ trang cách mạng và trao cờ cho các đại diện. Đồng chí Phạm Thái Bường, Ủy viên quân sự của Xứ ủy, trở thành Chính ủy đầu tiên của Quân giải phóng và đồng chí Nguyễn Hữu Xuyến là Tư lệnh 1.

    Chiến thắng Tua Hai còn bàn bạc trong buổi lễ cùng các chiến thắng khác, trong đó có chiến thắng Đầm Dơi ở Tây Nam Bộ.

    Từ hôm đó, trong bước đường đi lên của đất nước ta, thêm một thành viên lừng lẫy: Quân giải phóng miền Nam.

    Đoàn Văn công giải phóng cũng vừa thành lập, biểu diễn ra mắt nhiều bài hát và múa, đặc biệt một tuồng cải lương dài nói về Đồng khởi, vở “Trăng lên khỏi núi”.

    Buổi lễ ngắn, nhưng cái đưa đến buổi lễ lại rất dài...





Phần thứ nhất
Bắt buộc phải tự vệ


    Năm 1954, Quân đội nhân dân Việt Nam ở miền Nam nghiêm chỉnh chấp hành Hiệp định Giơnevơ, ngừng bắn tập kết về nơi quy định trước khi xuống tàu ra Bắc. Các chiến sĩ trung thành với truyền thống “bộ đội Cụ Hồ”, ở đâu cũng đều tranh thủ giúp dân dựng trường học, sửa nhà, xây mộ liệt sĩ. Người được phân công ở lại miền Nam, trở lại đời thường chuẩn bị đấu tranh trong điều kiện hòa bình, không có súng trong tay trước một kẻ thù biết chắc là vô cùng giảo hoạt, được Mỹ trang bị mọi vũ khí tối tân và mang một ý thức phục thù giai cấp điên cuồng.

    Những cuộc khủng bố man rợ người kháng chiến bắt đầu ngay sau khi Hiệp định vừa được ký kết...

    Lúc đó Đảng chỉ thị cho anh em chuyển vùng hoạt động hoặc “điều lắng”. Nhiều người phải rời bỏ gia đình, thôn xóm vào các chiến khu bưng biền cũ để lánh né chờ lệnh của Đảng. Ở Khu 5, Tây Nguyên, miền Tây Nam Bộ tổ chức các “trại bí mật”. Ở miền Đông, các đồng chí Lâm Quốc Đăng, Lê Thanh đưa thanh niên về chiến khu Dương Minh Châu, Chiến khu Đ lập “làng chiến đấu”, “làng thoát ly”, sản xuất tự túc. Ở Đồng Tháp Mười, hình thành những túi “dân tử can” (là dân “tản cư”), theo từng đơn vị tiểu đội, trung đội... mò cua bắt ốc, câu cá, đặt lờ, xây dựng làng chiến đấu đối phó với giặc. Ở miền Tây, cán bộ chiến sĩ, du kích, thanh niên và nhân dân kéo vào rừng U Minh họp thành những “làng rừng”. Đồng bào thiểu số Xtiêng (miền Đông Nam Bộ) bỏ buôn rẫy cũ vào rừng xây dựng buôn làng mới, gọi là làng “Độc lập” bất hợp tác với giặc...

    Ngay từ năm 1955, khi Mỹ - ngụy thực hiện chính sách “tố cộng, diệt cộng” cực kỳ man rợ, thì ý thức cầm súng tự vệ đã trở thành phổ biến trong anh em. Không còn con đường nào khác. Khu 5 bắt đầu có các đội “tuần dương”, “tráng đoàn” ở một số xã ven biển. Ở miền núi có các nhóm “trả đầu”, “bảo vệ dân tộc”. Ở Nam Bộ có các đội “dân canh chống cướp”.




-----------------------------------------------------------------
1. Bộ Tư lệnh Quân giải phóng miền Nam có những thay đổi theo thời gian như sau: Năm 1962, đồng chí Trần Nam Trung làm Chính ủy, đồng chí Trần Văn Quang (Bảy Tiến) - Tư lệnh; 1964, đồng chí Nguyễn Văn Linh - Chính ủy, đồng chí Trần Văn Trà - Tư lệnh; 1966, đồng chí Nguyễn Chí Thanh - Chính ủy, đồng chí Hoàng Văn Thái - Tư lệnh... Các tướng lĩnh Lê Đức Anh, Lê Quốc Sản, Hoàng Cầm, Trần Hải Phụng, Trần Văn Danh, Trần Độ... giữ các cương vị Phó Tư lệnh, Phó Chính ủy hoặc Tư lệnh, Phó Tư lệnh các Quân khu.
Logged
hoi_ls
Thượng tá
*
Bài viết: 5098



« Trả lời #18 vào lúc: 07 Tháng Mười, 2022, 03:45:38 pm »

*
*      *

    Thực hiện chủ trương “quốc gia hóa” các lực lượng vũ trang giáo phái (thân Pháp), từ ngày 28/4/1955 Mỹ - Diệm bắt đầu tấn công Bình Xuyên ở Sài Gòn và các nơi. Ngày 21/9/1955, chúng mở cuộc hành quân “Hoàng Diệu” diệt Bình Xuyên ở Rừng Sác. Ngày 25/6/1955, mở chiến dịch “Đinh Tiên Hoàng” uy hiếp, bức hàng lực lượng vũ trang của Hòa Hảo ở miền Tây và miền Trung Nam Bộ. Ngày 11/3/1956 mở cuộc hành quân Thăng Long, thanh toán số còn lại của lực lượng vũ trang Cao Đài Tây Ninh.

    Các lãnh tụ chỉ huy quân sự chóp bu các giáo phái bị Diệm thanh toán, một số đầu hàng Diệm, một số phải tìm cách chống lại Diệm, hợp tác với lực lượng cách mạng, tuy rằng trong thâm tâm họ vẫn không hề từ bỏ ý đồ tiêu diệt cách mạng.

    Trước tình hình đó, lợi dụng mâu thuẫn giữa bọn tay sai đế quốc Pháp và Mỹ, ta vận động phối hợp đồng thời đưa người của ta vào các lực lượng vũ trang giáo phái, giác ngộ lòng yêu nước của chiến sĩ và số chỉ huy cấp dưới, hoặc tổ chức thành đơn vị vũ trang mang danh giáo phái chống lại Mỹ - Diệm.

    Bình Xuyên rút về Rừng Sác. Đồng chí Hai Văn (Phan Văn Đáng) - Phó Bí thư Xứ ủy cử đồng chí Nguyễn Trọng Tâm về Long Thành để móc nối với lực lượng Bình Xuyên. Đồng chí Bảy Khánh - Bí thư Liên tỉnh miền Đông cũng đã gặp Bảy Viễn. Trong Bình Xuyên có Thiếu tá Võ Văn Môn, nguyên Tham mưu trưởng quân Bình Xuyên, nhất trí hợp tác với cách mạng chống Diệm. Được các đồng chí Ba Thuận (Phú), Lâm Quốc Đăng, Lê Thanh hướng dẫn, Thiếu tá Môn đưa một tiểu đoàn cùng 2.000 thân nhân ra vùng Bàu Lâm và ra vùng Chiến khu Đ. Nhiều đoàn viên, đảng viên, bộ đội, du kích cũ được cử sáp nhập vào lực lượng Bình Xuyên của Bảy Môn, vận động giác ngộ anh em, hướng dẫn các đơn vị này chiến đấu chống Diệm.

    Lực lượng vũ trang Hòa Hảo có 4 phái riêng rẽ:

    - Trần Văn Soái (tự Năm Lửa) chiếm cứ vùng các tỉnh Cần Thơ, Vĩnh Long, Sa Đéc, có lực lượng mạnh hơn cả nên tự coi mình là Tổng Tư lệnh quân đội Hòa Hảo, đặt sở chỉ huy tại Cái Vồn.

    - Lâm Thành Nguyên (tự Hai Ngoán) kiểm soát tỉnh Châu Đốc và một phần tỉnh Long Xuyên, chỉ huy sở đặt tại Cái Dầu (Long Xuyên).

    - Lê Quang Vinh (tự Ba Cụt) chiếm vùng Rạch Giá và một phần Long Xuyên, chỉ huy sở đặt tại Thốt Nốt (Long Xuyên).

    - Nguyễn Giác Ngộ kiểm soát một vùng thuộc tỉnh Long Xuyên, sở chỉ huy đặt tại Chợ Mới.

    Khi Mỹ - Diệm thanh toán Hòa Hảo, Hai Ngoán và Nguyễn Giác Ngộ nhanh chóng đầu hàng. Năm Lửa và Ba Cụt chống lại. Đánh không lại quân Diệm, Năm Lửa và Bảy Út (em Ba Cụt) kéo mấy ngàn quân vào vùng căn cứ kháng chiến cũ của ta ở Đồng Tháp Mười. Hàng trăm đảng viên, bộ đội, du kích cũ được đưa vào lực lượng này. Sáu Nhỏ, người của ta còn được Năm Lửa nhận làm con nuôi, rất tin cậy, giao cho giữ cả kho súng. Ta chủ trương hòa hoãn với bọn trên, vận động giác ngộ số chỉ huy bên dưới và binh lính. Một số cán bộ ta đưa vào, được chỉ huy Hòa Hảo mời làm chính trị viên như các đồng chí Sáu Ức, Tám Bành, Sáu Chung, Tám Dần... Khi lực lượng Hòa Hảo vào hẳn Đồng Tháp Mười, ta đưa vô thêm 50 cán bộ, đảng viên, đoàn viên, phần lớn quê ở Vĩnh Thạnh như Hai Trãi, Hoàng Ba, Huỳnh Nho, Tư Khương, Hai Trung, Ba Mi... Quân Diệm đánh vào Đồng Tháp Mười, cán bộ, đảng viên của ta đã hướng dẫn và cùng lực lượng của Hòa Hảo đánh trả gây nhiều thiệt hại cho quân Diệm như trận Cỏ Ống (Mộc Hóa) diệt và bắt sống 2 trung đội, thu 30 súng; trận Tân Bửu (Bến Lức), diệt và bức rút nhiều đồn bót quân Diệm đóng sâu vào căn cứ kháng chiến cũ như ở Tân Thành, Vĩnh Thạnh, Vĩnh Đông, Bình Hòa, Hưng Phú, Tân Phú... Ta tranh thủ Hòa Hảo cho tổ chức “Ủy ban quân chính” ở nhiều xã như Mỹ Quý, Mỹ Hòa, Long Hiệp. Từ Bình Hiệp đến Bình Hòa, Thạnh Hòa, Phong Phú, Thủy Đông, Tân Đông, Thuận Nghĩa... mỗi xã đều tổ chức được một tổ du kích “giáo phái”, 2 đến 3 người, được trang bị một vài khẩu súng, lo tiếp tế cho giáo phái và dùng danh nghĩa giáo phái trừ khử ác ôn. Ngày 01/01/1956 Mỹ - Diệm tập trung 4 trung đoàn, 6 chi đoàn thiết giáp, 1 tiểu đoàn dù và nhiều lực lượng pháo binh, giang thuyền... mở cuộc hành quân lớn vào Đồng Tháp Mười hòng tiêu diệt giáo phái đồng thời triệt phá “cộng sản nằm vùng” như chúng rêu rao. Cán bộ, đảng viên, thanh niên ta cùng Hòa Hảo đã đánh trả quân Diệm, có trận như Cái Bát đánh nhau với quân Diệm suốt một ngày.

    Ngày 17/02/1956, Năm Lửa gặp Nguyễn Ngọc Thơ do Diệm cử đến và y đã chuẩn bị đầu Diệm, đưa quân ra hàng. Một số không theo Năm Lửa. Nguyên 1 đại đội do Hồng chỉ huy được ta vận động và giúp đỡ đã ở lại Đồng Tháp Mười chiến đấu, sau đó gia nhập vào bộ đội giáo phái giải phóng. Số anh em ta bí mật mang 40 súng trở về. Sáu Nhỏ giữ cả ghe súng của Năm Lửa, nhưng chưa có lệnh đành để bọn giáo phái chở ra nộp cho Diệm.

    Ở vùng Vĩnh Long, Sa Đéc, Hậu Giang, nhiều tiểu đoàn mang danh nghĩa Hòa Hảo vẫn tiếp tục hoạt động dưới sự chỉ huy của Phan Văn Thục thường được gọi là Năm Thục, thay Năm Lửa làm Tư lệnh các lực lượng Hòa Hảo chống Mỹ - Diệm. Đồng chí Sáu Ức được tín nhiệm làm Chính trị viên trong Bộ Tư lệnh. Đó là Tiểu đoàn Trần Hưng Đạo do Tám Bành làm Tiểu đoàn trưởng, Tiểu đoàn Thăng Long do Hoành chỉ huy, Tiểu đoàn Ngô Văn Sở do Tư Sơn chỉ huy. Ngoài ra còn có một số đại đội hoạt động rải rác.

    Cao Đài ở Tây Ninh, vừa hòa hoãn với Diệm vừa đưa một số đơn vị vũ trang ra rừng, gọi là ly khai chống Diệm nhưng thực chất là để mặc cả với Mỹ - Diệm. Một số đơn vị “Cao Đài ly khai” tản ra các vùng căn cứ kháng chiến cũ ở Tây Ninh, một số khác kéo về vùng Đức Hòa, Đồng Tháp Mười.

    Riêng nhóm Cao Đài của Nguyễn Bỉnh Khiêm kéo quân về đóng ở 3 xã Vĩnh Trị, Vĩnh Thạnh, Vĩnh Lợi, đặt sở chỉ huy tại lò gạch (Vĩnh Trị). Khiêm liên lạc với ta xin mộ quân để tăng cường lực lượng. Huyện ủy Mộc Hóa chủ trương đưa một số cán bộ, đảng viên và thanh niên vào lực lượng Cao Đài của Khiêm. Mười Bộ -Huyện ủy viên, trực tiếp hướng dẫn cho 7 đồng chí ở xã Bình Hòa, như Nguyễn Văn Thôi - Xã đội phó, Phạm Đình Thái - Chính trị viên xã đội, cùng mấy anh em “giáo phái vận”. Ba Tao - Huyện ủy viên, đưa anh em qua Cả Sách, Vĩnh Lợi lên gặp số chỉ huy giáo phái. Anh em được tổ chức vào một đơn vị có 1 trung úy và 1 thiếu úy Cao Đài chỉ huy, phụ trách hoạt động từ Bình Hiệp, Bình Hòa qua Thạnh Hòa, Phong Phú, Thuận Nghĩa. Ở mỗi xã có tổ chức hệ thống chính quyền “Cao Đài tự do”, gồm 3 người: Chủ tịch, xã hội, dân vận.

    Khi Mỹ - Diệm xua quân đánh vào Đồng Tháp Mười, tên trung úy chỉ huy đơn vị “Cao Đài tự do” ra lệnh toàn đơn vị tập trung về sở chỉ huy để rút về Tây Ninh. Anh em ta bàn nhau tách khỏi bọn này, mang súng trở về địa phương chờ lệnh. Anh em ta nói thẳng:

    - Các anh vì Đạo cứ về Tây Ninh. Chúng tôi quê hương xứ sở ở đây, xin ở lại cùng súng ống bảo vệ xóm làng.

    Chúng không chịu. Ta cũng dứt khoát. Cuối cùng chúng phải năn nỉ ta cho tiền và tổ chức cho chúng về Tòa thánh Tây Ninh.

    Cao Đài Khiêm rút đi, Cao Đài Phụng lại đến chiếm đóng từ Cốc Rinh đến kênh Bo Bo, Long Ngãi Thuận, kênh Trà Cú. Ta lại chủ trương đưa người nhập vào bọn này, cho anh em đến báo với bọn chỉ huy:

    - Chúng tôi thuộc đơn vị ông Khiêm chỉ huy nhưng bị mất liên lạc, có giấy chứng nhận của ông Khiêm đây, các ngài cứ cho chúng tôi gia nhập lực lượng của các ngài.

    Cao Đài Phụng tiếp nhận và đồng ý với ta cho tổ chức 1 đơn vị mang danh 1 tiểu đoàn, đưa một số sĩ quan của chúng qua chỉ huy có 1 thiếu tá và 2 trung úy. Thiếu tá Cao Đài tên Kia nên ta lấy tên Tiểu đoàn là “Văn Kia” cho dễ hoạt động. Thực ra tiểu đoàn chỉ có 2 đại đội và tiểu đoàn bộ. Ta vận động thanh niên, đưa cán bộ vào gồm trên 60 người, có 11 đảng viên và phần lớn là đoàn viên thanh niên, tổ chức 1 chi bộ (do đồng chí Thảo làm Bí thư) và 1 chi đoàn (Bảy Thôi - Phó Bí thư kiêm Chi đoàn trưởng). Tiểu đoàn về Giồng Dinh được phát 30 súng, Tiểu đoàn bộ đóng ở Trấp Tre. Đại đội 1 đóng chung với Tiểu đoàn bộ, Đại đội 2 ở Sở Văn, Bình Thạnh.

    Với danh nghĩa Tiểu đoàn Cao Đài ly khai chống Diệm, anh em tổ chức chính quyền, ủy ban giáo phái, tiến hành trừng trị và trấn áp bọn ác ôn và cảnh sát ngụy quyền. Diệm tổ chức bầu cử. Ta bàn với bọn chỉ huy Cao Đài phá bầu cử, nhưng chúng không dám làm. Ta bàn phục kích đánh 1 trận lấy danh cho quân Cao Đài ly khai, tên trung úy chỉ huy đại đội chịu đi nhưng ngồi phía sau. Ta có 12 cây súng trang bị “mituyn” và “mútmas” 1 phục kích tại vàm Rạch Xây. Dân báo cho biết địch đi trên 3 xuồng. Lúc địch lọt vào trận địa đã bố trí, ta nổ súng giết được 4 tên. Tên trung úy Cao Đài khi nghe súng nổ đã bỏ chạy mất.

    Do ta hoạt động có hiệu quả, bọn chỉ huy Cao Đài phong cho đồng chí Thảo chức thiếu tá, làm Chính trị viên Tiểu đoàn. Bảy Ngôn làm cố vấn quân sự cho Văn Kia - Tiểu đoàn trưởng.

    Tuy nhiên, Phụng lén lút móc nối để đầu hàng Diệm. Chúng dự kiến khi ra hàng sẽ quét sạch sẽ số anh em được ta đưa vào tiểu đoàn. Trong tình hình đó, trên cho chủ trương “tách quân”, lấy súng, nhưng không được giết người. Đồng chí Lâm lúc đó có đi với tên Văn Kia - Tiểu đoàn trưởng. Ta tung tin quân của Mỹ - Diệm kéo đến cách 6km, tên chỉ huy đại đội Cao Đài ủy quyền cho ta sắp xếp canh gác, còn bọn Cao Đài thì tập trung đánh cờ tướng. Mật lệnh hành động là: “Tất cả đi ngủ”. Mật lệnh vừa phát ra, anh em liền hô to: “Tất cả đâu ngồi đó”. Bọn chúng bị bất ngờ, không kịp lấy súng. Ta mượn xe trâu của dân chở súng về Nồi Cọ. Tên tiểu đoàn trưởng không hay biết gì. Sau đó bọn Cao Đài Phụng chạy về Hội đồng Sâm, giết nhiều cán bộ và đồng bào ta.

    Số anh em tách khỏi Cao Đài, thành lập 1 đơn vị mang tên Tiểu đoàn Phước - Dư của giáo phái, Bảy Thế làm Tiểu đoàn trưởng mang quân hàm thiếu tá, Sáu Thông làm Chính trị viên Tiểu đoàn. Hổ - Thiếu úy Đại đội trưởng. Đơn vị lúc đầu mới có 36 người với 36 súng, sau đó được bổ sung tăng quân số lên 60 người. Đồng bào thường gọi là “tiểu đoàn Cao Đài dỏm” (vì biết thực chất là bộ đội cách mạng). Trong quá trình hoạt động, các đồng chí Bảy Ngôn, Thôn, Tang... và một số anh em nữa cũng đã hy sinh.

    Đến tháng 10/1956, lực lượng giáo phái ở Đồng Tháp Mười đều đầu hàng Diệm hoặc tan rã, một số ít theo ta chống Diệm. Số anh em ta bí mật vào các lực lượng trên, sau rút ra đem về được trên 200 súng làm vốn xây dựng lực lượng giải phóng sau này.

    Trong hai năm 1955-1956, bọn thân Pháp ở Paris thành lập Mặt trận “Quốc gia giải phóng” lấy cờ đỏ có chữ vạn (chữ nhà Phật) đặt ở giữa. Chúng có bắt liên lạc với ta. Ta cũng đặt tên cho các đơn vị mình là “Cao Đài giải phóng”, “Hòa Hảo giải phóng” và dùng cờ đỏ ngôi sao xanh để hoạt động. Khi giáo phái đầu Diệm, ta vận động Đại úy Hồng (Hòa Hảo) ở lại với ta đứng lên phất cờ giáo phái chống Diệm. Đồng thời lúc này Liên tỉnh ủy miền Trung Nam Bộ chủ trương xây dựng mỗi tỉnh 1 đơn vị vũ trang mang phiên hiệu tiểu đoàn như D.502 ở Kiến Phong, D.504 ở Mỹ Tho, D.506 ở Bến Tre, D.508 ở Long An, D.510 và D.512 ở An Giang... Khu 8 có một D chủ lực lấy tên là D2 “Bình Xuyên”, trang bị bằng súng chôn giấu móc lên đã han rỉ nên nhân dân gọi đùa là Tiểu đoàn “Bình Xuyên súng sét”.

    Ở miền Đông Nam Bộ, các đơn vị vũ trang cũng lần lượt được hình thành. Khi lực lượng vũ trang Cao Đài ly khai Diệm ra rừng, ta đã đưa nhiều cán bộ, đảng viên, bộ đội, du kích cũ bí mật vào các đơn vị này. Ở Đại đội 25 Cao Đài ly khai đóng tại Bàu Cỏ, ta tổ chức được 1 chi bộ mật để lãnh đạo. Tháng 3/1956 khi Diệm bắt đầu mở cuộc hành quân đánh Cao Đài ly khai, đồng chí Đình Ba bí mật phổ biến chỉ thị của tỉnh cho chi bộ lãnh đạo anh em làm binh biến. Đồng chí Ngô Thành Sáng cùng một số đồng chí đảng viên như Thế, Tư Sùng... đã nắm được phần lớn binh lính trong đại đội, vận động nổi dậy gạt tên chỉ huy lấy được hơn 100 súng, kéo quân về Sa Nghe bổ sung thêm thanh niên thành lập 1 đại đội mang tên là “C.25 Cao Đài ly khai!”. Chỉ huy trưởng là đồng chí Ngô Thành Sáng đóng vai đại úy. Có chỉ thị Liên tỉnh ủy miền Đông cho hoạt động vũ trang, Tỉnh ủy Tây Ninh không giải thể mà phân tán đơn vị này thành từng nhóm nhỏ để tránh nổi cộm, hoạt động từ Sóc Thiết qua Dương Minh Châu, đồng thời tổ chức 1 tổ vũ trang mạnh hoạt động vùng biên giới Việt Nam - Campuchia để bảo vệ căn cứ địa cách mạng. Trong năm 1956, các nhóm vũ trang này đã bắt sống được 1 tiểu đoàn dân vệ ở Tầm Long, xóm Ruộng, diệt 8 tên gián điệp chỉ điểm ở Tà Nong, Ba Chàm.

    Đầu năm 1956, còn có Thiếu tá Cao Đài Huỳnh Thanh Mừng bất hợp tác với Diệm đưa một đơn vị chạy ra rừng liên kết với ta chống Diệm. Quân số đơn vị không nhiều nhưng tạo cho ta có danh nghĩa để tổ chức lực lượng.

    Ở trung tâm chỉnh huấn Tân Hiệp, Biên Hòa, địch giam giữ 6.000 anh chị em, trong đó có 250 đảng viên được bí mật tổ chức thành 1 đảng bộ. Đảng ủy trong nhà tù đã đề nghị trên cho tổ chức vượt ngục. Một đội tự vệ mật được thành lập gồm các đồng chí bộ đội và du kích cũ hơn 30 anh em. Chưa được chỉ thị trên nhưng tình thế khẩn trương vì được tin địch sẽ đày anh chị em ra Côn Đảo, Phú Quốc. Đúng 18 giờ ngày 02/12/1956, khi địch lùa anh chị em vào khám cũng là thời điểm ra mật lệnh nổi dậy. Ý định lúc đầu chỉ vượt ngục vài chục đồng chí, nhưng thời cơ thuận lợi, đội tự vệ diệt được 20 tên giặc, bắt trói số còn lại, anh em nhất tề xông vào kho cướp súng giặc. Gần 300 anh chị em ùa ra ngoài trại chạy thoát. Địch xả súng giết hại 22 anh chị em. Hơn 20 anh chị em đã về đến căn cứ Chiến khu Đ với 2 khẩu trung liên, 13 tiểu liên và 18 súng trường tổ chức thành 3 trung đội mạnh chờ lệnh chiến đấu. 7 anh em vượt ngục khác về Rừng Sác căn cứ của Tỉnh ủy Chợ Lớn, Tỉnh ủy quyết định sáp nhập thêm 3 đồng chí bảo vệ Tỉnh ủy tổ chức thành 1 đơn vị vũ trang mang tên “C.12 Bình Xuyên” (vì có 12 đồng chí) được trang bị 1 trung liên và 2 súng trường của anh em vượt ngục mang về.

    Ở Thủ Dầu Một, đồng chí Chín Quỳ được phân công ở lại miền Nam cùng đồng bào đấu tranh chính trị. Thời thực dân Pháp còn đô hộ, Chín Quỳ tổ chức đảng “Lục lâm” cướp của nhà giàu chia cho người nghèo, năm 1940 được Đảng giác ngộ sau đó anh trở thành đảng viên. Khi lực lượng vũ trang tập kết đi hết, đồng chí ở lại với đồng bào, công tác quần chúng. Không chịu nổi cảnh áp bức, đàn áp, đồng chí tự động tổ chức 1 lực lượng vũ trang dựa vào rừng Chiến khu Đ hiểm trở để sản xuất, săn bắn, đêm đêm bung ra vùng đông dân trừ gian, gây dựng cơ sở. Một số đảng viên, bộ đội, du kích cũ lánh vào chiến khu đã gia nhập “bộ đội Chín Quỳ”. Về sau, bộ đội này thành C.250 của miền Đông Nam Bộ.

    Ở vùng hóc Bà Tó cũng thuộc Thủ Dầu Một có hai anh em Liễu và Bờ, trước tham gia bộ đội trong chống Pháp, bỏ về nhà năm 1952 nhập vào quân Cao Đài. Năm 1955, Liễu, Bờ tụ tập 16 tay anh chị trốn địch bắt lính, mua được nhiều súng tốt, đi cướp của nhà giàu và của cả dân thường. Tỉnh ủy Thủ Dầu Một đã cử đồng chí Phó Bí thư Tỉnh ủy tìm đến thuyết phục. Liễu, Bờ nhất trí cùng ta chống Diệm, chỉ cướp của tề ác ôn, không lấy của dân thường, nhất là không cướp trâu bò của đồng bào các dân tộc. Liễu, Bờ làm nhiệm vụ trấn áp bọn phản động, cho cán bộ ta đi sâu vào xóm ấp vận động xây dựng cơ sở. Lúc đầu ta đưa 3 đảng viên và 3 du kích là đoàn viên vào cùng 16 người của Liễu, Bờ tổ chức thành 1 trung đội. Sau Liễu, Bờ xin nghỉ, các đảng viên thay chỉ huy và từ đó bộ phận này trở thành đơn vị của cách mạng.

    Ở Tân An, ngoài Tiểu đoàn Lê Phước Du còn có đại đội “Hòa Hảo giải phóng” với quân số 37 người. Lực lượng mang danh giáo phái đến cuối năm 1956 đã phát triển thành 3 đại đội 231, 233, 235. Để thống nhất chỉ huy, ta tổ chức khu bộ giáo phái đóng sở chỉ huy tại Trấp Tro do đồng chí Nguyễn Văn Khuyên tức Tám Dần mang danh Trung tá giáo phái Lưu Phước Nam làm Bộ trưởng.

    Tuy lực lượng vũ trang được tổ chức rải rác nhưng chưa có chỉ thị của Đảng cho hoạt động vũ trang nên chủ yếu là để tự vệ và tiến hành trừ khử những tên ác ôn nguy hiểm nhất. Nhiều hình thức diệt địch xuất hiện: “rút giò”, “ôm hè”, “chuốc rượu để tước súng”, diệt địch bằng phảng, dao phay, gậy gộc, rồi sau đó đưa tin là do những tên này gây thù oán nên bị giết.




-----------------------------------------------------------------
1. Mituyn: 1 loại tiểu liên cũ.
    Mútmas: 1 loại súng trường cũ.

Logged
hoi_ls
Thượng tá
*
Bài viết: 5098



« Trả lời #19 vào lúc: 07 Tháng Mười, 2022, 03:48:20 pm »

I- NHỮNG ĐỘI VŨ TRANG TUYÊN TRUYỀN ĐẦU TIÊN


    Nghị quyết của Hội nghị lần thứ hai của Xứ ủy tháng 12/1956 đã xác định: “...phải dùng bạo lực của quần chúng... phải có lực lượng vũ trang hỗ trợ cho đấu tranh chính trị”.

    Xứ ủy cũng thảo đề cương vũ trang tuyên truyền, cử đồng chí Nguyễn Hữu Xuyến - cán bộ trung đoàn trưởng có tiếng trong chống Pháp được ở lại miền Nam chuyển làm công tác dân vận - nay phụ trách ủy viên quân sự của Xứ ủy. Đồng chí đã từ U Minh về miền Đông xây dựng căn cứ địa của Xứ ủy và xây dựng các lực lượng vũ trang tập trung.

    Thanh niên ở các tỉnh miền Đông cũng như đồng bằng sông Cửu Long đều được bí mật đưa về các Chiến khu Đông Bắc và Tây Bắc miền Đông Nam Bộ bổ sung cho các đơn vị của Xứ và Miền. Đến đầu năm 1957 hàng loạt đại đội bộ binh, đặc công, trinh sát đã được thành lập: C50, C60, C70, C80A, C80B, C30, C40, C200, C300, D500, D800... đứng chân ở Tây Bắc và Đông Bắc miền Đông.

    Ở đồng bằng sông Cửu Long, ở Đồng Tháp Mười, nhiều đơn vị tập trung được hình thành từ các đơn vị mang danh giáo phái tập trung từ các xã ấp lên. Như ở Long An, với nòng cốt là D4 giáo phái bổ sung thêm “bộ đội Trâm bầu” (dùng khúc cây trâm bầu làm vũ khí), du kích để thành lập Tiểu đoàn 506 với 150 tay súng. Rồi “Đại đội 12 Bình Xuyên” làm nòng cốt tập hợp thêm du kích, bộ đội cũ và thanh niên được 70 đồng chí thành Tiểu đoàn 508. Ở Kiến Phong có Tiểu đoàn Đinh Bộ Lĩnh, sau là D502, Mỹ Tho là D504...

    Tây Ninh, sau khi rút hết phần lớn cán bộ, chiến sĩ về xây dựng đơn vị tập trung của R (Xứ), số còn lại được tổ chức thành 1 đơn vị lấy tên là D14 (vì có 14 anh em và 14 súng). Chỉ trong một thời gian rất ngắn đã phát triển thành 1 đại đội đầy đủ quân số.

    Ở Biên Hòa và Bà Rịa mỗi nơi cũng xây dựng được 1 trung đội.

    Như vậy cho đến đầu năm 1957 ở nhiều vùng của Nam Bộ đã hình thành lực lượng vũ trang tập trung của R, của tỉnh và lực lượng du kích mật mang danh các đội chống trộm cướp, dân canh...

    Ở miền Đông Nam Bộ, sau khi Xứ ủy cho tổ chức các đơn vị vũ trang tập trung, ta đã tiến hành một số trận đánh có ý nghĩa quan trọng hỗ trợ phong trào đấu tranh chính trị và xây dựng phát triển các lực lượng vũ trang.

    Ngày 10/8/1957, C60 của R, C20 của Tây Ninh cùng lực lượng Bình Xuyên và của tỉnh Thủ Dầu Một tiến công địch ở thị trấn Ninh Thạnh, diệt cảnh sát, bắt sống lính bảo vệ, lấy xe, lấy đại liên đặt lên xe tiêu diệt những ổ đề kháng của địch, chiếm thị trấn nhiều giờ, dùng ôtô và xe ngựa chở chiến lợi phẩm: gạo, muối, vải vóc, thuốc men và tiền bạc về căn cứ an toàn.

    Ngày 18/9/1957, C250 của R phối hợp lực lượng Bình Xuyên (danh nghĩa) tấn công trại Be Biên Hòa, cơ sở khai thác cây rừng của Trần Lệ Xuân, diệt và đánh tan 3 đại đội địch, giáo dục và thả về mấy ngàn đồng bào vào rừng khai thác gỗ, thu 80 xe vận tải và vũ khí đủ trang bị cho 1 trung đội. Trận đánh có tác dụng phá âm mưu của địch định chia cắt manh mún căn cứ kháng chiến của ta, củng cố được căn cứ Đông Bắc vừa mới được xây dựng.

    Tháng 12/1957, các đơn vị tập trung của R phục kích ở Lò Than diệt và làm tan tác 1 tiểu đoàn địch.

    Đầu năm 1958, Xứ ủy quyết định thành lập “khu miền Đông” đồng chí Nguyễn Hữu Xuyến - Ủy viên quân sự Nam Bộ kiêm Chỉ huy trưởng miền Đông, Lâm Quốc Đăng (Nguyễn Thược) và Lê Thanh làm Chỉ huy phó. Căn cứ miền Đông ở hai hướng tây bắc và đông bắc đều được mở rộng lên tận biên giới Việt Nam -Campuchia.

    Ở khu 5, cuối 1957, đồng chí Lê Duẩn, lúc đó là Ủy viên Bộ Chính trị Ban Chấp hành Trung ương Đảng, đã trao đổi với Thường vụ Liên khu ủy 5 những kinh nghiệm về vận dụng đường lối, phương châm đấu tranh vào thực tiễn phong trào cách mạng ở Nam Bộ. Về tổ chức lực lượng vũ trang, đồng chí nêu nên tổ chức 3 người, tiểu đội, cao nhất là trung đội nhằm giữ buôn rẫy.

    Từ thực tiễn của địa phương kết hợp ý kiến của đồng chí Lê Duẩn, Liên khu ủy 5 đã họp hội nghị mở rộng, đề ra một số phương hướng, nhiệm vụ để chuyển phong trào (giữa năm 1958), trong đó có chú trọng:

    - Xây dựng miền Tây các tỉnh đồng bằng và Tây Nguyên thành căn cứ địa cách mạng.

    - Bước đầu xây dựng lực lượng vũ trang và nửa vũ trang ở miền núi với nhiệm vụ tự vệ, bảo vệ căn cứ, bảo vệ cán bộ.

    Ngày 07/7/1958, Tỉnh ủy Quảng Ngãi tổ chức Đại hội nhân dân chống Mỹ của các dân tộc miền núi tại Gò Rô (Trà Bồng) có hơn 200 đại biểu. Đại hội nhất trí hạ quyết tâm: “Phải đánh Mỹ sớm chừng nào hay chừng đó. Đánh Mỹ - Diệm thì mới sống được, dù có cực có khổ mấy cũng quyết đánh”.

     Ở các vùng rừng núi và một số nơi ở đồng bằng lần lượt tổ chức các lực lượng vũ trang tự vệ. Một số thanh niên bí mật rủ nhau đi tìm các hầm vũ khí chôn lại từ năm 1954. Tiếng súng diệt ác từ lẻ tẻ, tự phát đến có tổ chức, có lãnh đạo. Ngày 24/10/1958, tiểu đội tự vệ mật huyện Nam An Khê do Bí thư Huyện ủy trực tiếp chỉ huy đã nổ súng chống bọn lính ngụy đi càn, bắn chết tên Kai người địa phương đầu hàng và dẫn địch đi đánh phá buôn rẫy. Ngày 15/11/1958, tổ vũ trang tự vệ của tỉnh Phú Yên do đồng chí Bí thư Tỉnh ủy trực tiếp chỉ đạo nổ súng diệt tên Thống Cường ác ôn đã đánh phá phong trào cách mạng ở địa phương. Những tiếng súng mở đầu có sự lãnh đạo trực tiếp của Đảng đã báo hiệu sự vùng dậy mạnh mẽ của đồng bào miền Trung Trung Bộ và Tây Nguyên. Nhân dân Tây Nguyên tích cực rào làng, cắm chông như hồi chống pháp. Đến cuối năm 1958, một số xã ở Gia Lai, Kon Tum, miền Tây Quảng Ngãi đã thành lập “Ban cán sự”, “Ban tự quản”. Khắp Tây Nguyên và miền Tây các tỉnh đồng bằng đã xây dựng căn cứ địa làm nơi đứng chân của cơ quan lãnh đạo và các đội du kích, vũ trang mới thành lập. Kon Tum có xã Đoàn, xã Hiêu, Tung Bung, Kô Xin, Gia Lai có 2 huyện và 7 xã (Bắc và Nam An Khê); Quảng Nam có Hiện. Khu căn cứ của Quảng Ngãi bao gồm: 22 xã nối liền nhau của vùng cao - huyện Trà Bồng và Sơn Hà, 12 xã trong khu tiếp giáp 3 huyện Sơn Hà, Đinh Long, Ba Tơ và 8 xã phía nam huyện Ba Tơ. Bình Định có khu căn cứ Vĩnh Thạnh; Phú Yên có các khu Thồ Lồ, Bắc Ma Dú; Đắk Lắk có vùng Pleiya hiểm trở; Khánh Hòa có Vĩnh Sơn, Khánh Sơn. Ninh Thuận có Bác Ái kiên cường, Bình Thuận, Lâm Đồng có Tánh Linh nối liền nhau... Đến đầu năm 1959, Khu 5 đã có 2 trung đội, tiểu đội du kích tập trung và 1 đội vũ trang công tác.

     Song song với việc xây dựng các đội vũ trang, ở Nam Bộ cũng như Khu 5 và Tây Nguyên đều có tổ chức các tổ quân y, mở trường huấn luyện tân binh, cán bộ tiểu đội, các tổ sửa chữa vũ khí và chế tạo vũ khí thô sơ, sản xuất lựu đạn, làm súng “ngựa trời”... Hậu cần nuôi quân lúc đó dựa vào trồng mì, đào củ chụp, săn bắn và sự nuôi dưỡng, đùm bọc của đồng bào các dân tộc từ Quảng Trị vào Tây Nguyên đến miền Đông Nam Bộ. “Rẫy mì cách mạng” được phát triển bạt ngàn trên rừng núi Tây Nguyên và miền Đông Nam Bộ, đã nuôi sống biết bao cán bộ, chiến sĩ trong những lúc thắt ngặt nhất.

     Bước vào năm 1958, phong trào đấu tranh chính trị ở Nam Bộ cũng như toàn miền Nam có bị núng thế. Nhiều cơ sở nội tuyến của ta trong hàng ngũ địch bị chúng phát hiện bắt bớ, giam cầm. Mỹ - Diệm đã phối hợp việc mở rộng các cuộc hành quân quy mô đánh phá các vùng căn cứ với đẩy mạnh chiến dịch “tố cộng, diệt cộng”.

    Bộ Tư lệnh miền Đông đã đề nghị với Xứ ủy cho mở một trận tấn công vào chi khu quân sự của địch ở Dầu Tiếng, cách Sài Gòn chưa đầy 70km theo đường chim bay, nhằm gây thanh thế cho cách mạng đồng thời lấy vũ khí và cơ sở vật chất để giải quyết khó khăn về hậu cần, trang bị cho các lực lượng vũ trang, củng cố và mở rộng vùng căn cứ. Đề nghị trên được chấp nhận, đồng chí Tám Dên Dên (Nguyễn Hữu Xuyến) trực tiếp thông qua kế hoạch trận đánh. Lực lượng huy động vào trận đánh gồm 2 đơn vị tương đương tiểu đoàn mang danh nghĩa Bình Xuyên và liên quân Cao Đài cùng các đơn vị của Tây Ninh, Thủ Dầu Một và Biên Hòa, tổng cộng 1.500 quân. Địch có 2 tiểu đoàn cộng hòa của Sư đoàn 13 chủ lực, 1 đại đội và 1 trung đội bảo an cùng bọn công an, dân vệ chính quyền huyện, thị. Gần Dầu Tiếng có đồn Bến Củi địch đóng 1 đại đội. Riêng ở chi khu Dầu Tiếng địch có gần 1.000 quân.

    0 giờ ngày 11/8/1958, đặc công bất ngờ nổ súng mở đầu trận đánh. Đến 2 giờ 30 phút quân ta chiếm toàn bộ quận lỵ và chi khu quân sự Dầu Tiếng, làm chủ nhiều giờ, diệt nhiều địch, bắt nhiều tù binh, thu nhiều súng đạn, trên 1 triệu đồng tiền Sài Gòn. Tên Quận trưởng Đào Sanh Khê và tên Bảy Gà Lôi (Trần Trung Bảy) rất ác ôn đã may mắn trốn thoát. Đây là lần đầu tiên, kể từ sau tháng 7/1954, các lực lượng vũ trang ở miền Nam mới hình thành đã tấn công làm chủ một chi khu quân sự và quận lỵ của Mỹ - Diệm. Trong phiếu trình đặc biệt gửi Tổng thống Diệm đề ngày 12/8/1958 của tên Đại tá ngụy Lê Khương Tống - Tổng Giám đốc bảo an trong phái đoàn quân sự đến Dầu Tiếng xem xét đã thừa nhận: Đối phương tấn công 8 mục tiêu, chiếm đồn cộng hòa lúc 2 giờ 40 phút. Tướng ngụy Nguyễn Văn Là thì cho rằng: “Đây là trận của những sĩ quan tài giỏi của quân đội miền Bắc chỉ huy... đây là trận dương đông... một trận nghiên cứu của cộng sản”. Thực tế không phải trận “dương đông” gì cả, cũng chưa có chiến sĩ miền Bắc trở về.

    Sau khi hất cẳng xong thực dân Pháp khỏi Đông Dương, đế quốc Mỹ ráo riết tăng cường nhân viên quân sự Mỹ làm cố vấn với danh nghĩa phái bộ viện trợ quân sự Mỹ M.A.A.G. Từ ý nghĩ phải giáng đòn phủ đầu vào bọn xâm lược mới, các chiến sĩ biệt động Biên Hòa đã chú ý đến một trụ sở của cơ quan quân sự M.A.A.G đóng tại trại của Biên Hòa, có 36 tên Mỹ thường lui tới, bên ngoài được canh gác cẩn mật.

    Một đội biệt động của Biên Hòa do anh em chỉ huy, có 2 đồng chí địa phương được trên giao nhiệm vụ nghiên cứu và trực tiếp đánh bọn cố vấn Mỹ ở trại cưa. Anh Lũy người địa phương đã theo dõi hoạt động của bọn Mỹ gần 1 tháng, nắm quy luật mỗi chiều có 10 xe do bọn Mỹ trực tiếp lái đến ăn uống ở nhà ăn sĩ quan. Anh lên căn cứ báo tình hình. Đơn vị biệt động lùi về sát Biên Hòa ém ngay trong nhà má ruột của anh Lũy là bà Nguyễn Thị Xuân tại ấp Long Thành, xã Bình Trước. Anh Lũy cùng vác trái đi đánh với anh em biệt động.

    Chiều ngày 25/10/1958, đúng như dự kiến có 10 xe, mỗi xe có 2 tên Mỹ chạy đến nhà ăn sĩ quan, anh Lũy vác trái lén vào đặt tại nhà ăn, không may bị tên ngụy gác phát hiện định đẩy trái ra. Anh Lũy bấm điện, trái nổ tung, anh hy sinh. Anh em tiếp thêm một trái “bêta” nữa. Trận đánh diễn ra nhanh, địch không đối phó kịp, hầu hết bọn Mỹ trong nhà ăn bị chết, bị thương. Hai tên Mỹ chết tại trận này đã được đứng đầu danh sách hơn 3 vạn tên Mỹ đã chết ở Việt Nam ghi trên bức tường chữ V tại Hoa Thịnh Đốn.

    Đây là trận diệt Mỹ đầu tiên ở miền Nam và ở cả Việt Nam của nhân dân ta trong cuộc chiến đấu chống Mỹ, cứu nước kéo dài 21 năm.
Logged
Trang: « 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 »   Lên
  In  
 
Chuyển tới:  

Powered by MySQL Powered by PHP Powered by SMF 1.1.21 | SMF © 2006-2008, Simple Machines

Valid XHTML 1.0! Valid CSS! Dilber MC Theme by HarzeM