*
* *
Thế là sau ngót chín năm chiến tranh, nhân dân ba nước Việt Nam, Lào, Campuchia sắp sửa hưởng một nền hòa bình chân chính, được quốc tế thừa nhận. Quân hai bên chuẩn bị tập kết về miền được quy định, nhân dân Việt Nam chuẩn bị một cuộc sống hòa bình nơi nào mình muốn ở và được tự do lựa chọn những người đại diện tin cậy của mình, chế độ chính trị nào đem lại hạnh phúc cho mình, vào ngày 20/7/1956, sau hai năm ký kết Hiệp định Giơnevơ. Quý báu biết bao một nền hòa bình đạt được bằng xương máu, bằng cả nước mắt đau thương và những trận cười chiến thắng của cả một dân tộc đã ý thức rõ rệt được quyền làm chủ bờ cõi non sông của ông cha để lại, đã nối dõi được truyền thống nghìn đời đấu tranh cho độc lập tự do và thống nhất.
Thế nhưng sự thật việc đời thường rất phức tạp, chưa bao giờ lại chỉ diễn biến đơn giản theo một chiều suôn sẻ. Cùng với nhân dân Việt Nam, nhân dân tiến bộ trên toàn thế giới nhiệt liệt hoan nghênh Điện Biên Phủ, hòa bình, hữu nghị, dân chủ, trong lúc đó đế quốc Mỹ mà bản chất của chúng không hề thay đổi là gây chiến và xâm lược, là thôn tính đất đai và tài nguyên người khác, là áp đặt lối sống và chế độ chính trị mà chúng muốn lên đầu lên cổ các dân tộc, gấp rút chuẩn bị một dòng nước ngược tàn phá, độc ác, chống lại hạnh phúc tự do của người dân Việt, chống lại hòa bình ở Đông Dương và trên thế giới.
“... Bốn ngày sau khi ký Hiệp định Giơnevơ năm 1954, Hội đồng an ninh quốc gia của chính quyền Eisenhower (Mỹ) đã khẳng định rằng Hiệp định đó là “một thảm họa” và đã chấp thuận các hành động nhằm ngăn cản sự bành trướng thêm nữa của cộng sản ở Việt Nam.
... Các quyết định đó của Hội đồng an ninh quốc gia có nghĩa là Mỹ đã giữ một vai trò trực tiếp trong việc cuối cùng phá hoại giải pháp Giơnevơ”
1.
Việc trước tiên mà chính quyền Mỹ gấp rút tiến hành cả trước và sau Hiệp định Giơnevơ, không đếm xỉa gì đến Hiệp định Giơnevơ và bản tuyên bố long trọng của chính mình, quyết gây chiến tranh, phá hòa bình chia cắt lâu dài đất nước Việt Nam là cố dựng nên một chính quyền tay sai mạnh ở miền Nam Việt Nam
2, phá hoại và làm suy yếu rối loạn miền Bắc của Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, ra sức ngăn chặn cuộc tổng tuyển cử tự do, thống nhất đất nước Việt Nam vào tháng 7/1956.
Muốn làm như vậy Mỹ phải hất cẳng Pháp chiếm lấy miền Nam Việt Nam.
“... Hội đồng an ninh quốc gia (Mỹ) trong cuộc họp ngày 03/8/1954, sau Hiệp định Giơnevơ, đã ra lệnh là phải có một chương trình khẩn cấp viện trợ kinh tế và quân sự, thay thế cố vấn Pháp bằng cố vấn Mỹ - cho Chính phủ Ngô Đình Diệm mới thành lập ở miền Nam Việt Nam.
... Các mục tiêu do Hội đồng đề ra là duy trì Nam Việt Nam thân thiện không cộng sản và ngăn chặn cộng sản thắng lợi thông qua cuộc tổng tuyển cử ở Việt Nam”
3.
Vì biết rằng nếu tiến hành tổng tuyển cử thì chắc chắn các bè lũ Việt gian theo Mỹ sẽ thất bại, nhân dân Việt Nam sẽ bỏ những lá phiếu cho những người yêu nước chân chính, cho hòa bình độc lập và thống nhất Tổ quốc và như vậy đế quốc Mỹ sẽ bị tống cổ ngay từ ngày ấy nên Mỹ tìm mọi mưu mô không diễn ra tổng tuyển cử.
“Ngay từ ngày 07/7/1954, trong thời gian Hội nghị Giơnevơ, Bộ trưởng Dulles đã gợi ý là Mỹ cần phải tìm cách trì hoãn cuộc tổng tuyển cử và đòi có những điều kiện đảm bảo mà chắc là cộng sản sẽ bác bỏ”.
Trong bức điện mật gửi Thứ trưởng Ngoại giao Walter Bedel Smith thay thế khi ông rút khỏi Hội nghị Giơnevơ, Bộ trưởng Dulles viết:
“Vì chắc chắn tổng tuyển cử thì cuối cùng có nghĩa là thống nhất nước Việt Nam dưới quyền ông Hồ Chí Minh nên điều quan trọng hơn hết là trì hoãn tuyển cử càng lâu càng tốt sau khi ký Hiệp định đình chiến và chỉ tuyển cử trong những điều kiện không có sự đe dọa để tạo cho các phần tử dân chủ có cơ hội tốt nhất”.
Như thế có nghĩa là chỉ tuyển cử sau khi có thời gian để tiến hành mọi mưu kế gian xảo đen tối hầu đưa lại thắng lợi cho bọn tay sai Mỹ, không được như vậy thì không tổng tuyển cử. Thật là dân chủ tự do theo kiểu Mỹ!
Cũng không đợi đến Hội nghị Giơnevơ mới hành động, trong tháng 6/1954 chính quyền Eisenhower đã phái một phái đoàn Mỹ sang Việt Nam để bắt đầu tiến hành những hành động bí mật chống Việt Minh, trong khi hội nghị đang họp.
Phái đoàn này do Đại tá Lansdale cầm đầu, Lansdale là nhân vật CIA nổi tiếng là chuyên gia hàng đầu của Mỹ về chiến tranh chống du kích ở Philíppin là nơi ông đã giúp Tổng thống Romon Masaysay đàn áp những người khởi loạn Hukbalahap do cộng sản lãnh đạo.
Nhà Trắng đã hấp tấp tiến hành phá hoại Việt Nam bằng hoạt động bán quân sự - mở màn cho cuộc chiến tranh của Mỹ ở Việt Nam - của phái đoàn quân sự Sài Gòn (viết tắt SMM) được vội vã thành lập và điều Lansdale từ Philíppin sang cầm đầu phái đoàn này vào cuối tháng 5/1954. Lansdale kể: “Một điện văn từ Oasinhtơn đã chấm dứt công việc của tôi ở đây (Philíppin). Tôi phải sang Sài Gòn ngay bằng phương tiện chuyên chở nào sớm nhất”
4.
Nhiệm vụ của phái đoàn Lansdale là “phải tiến hành các hoạt động bán quân sự chống kẻ địch và tiến hành chiến tranh chính trị tâm lý”.
“Sau đó, sau Giơnevơ, phái đoàn được thay đổi để chuẩn bị các phương tiện tiến hành các hoạt động bán quân sự ở các khu vực cộng sản chứ không phải tiến hành chiến tranh không chính quy”.
Khi thời hạn - 09/10 - ấn định cho phép rút khỏi Hà Nội tới gần, phái đoàn đã tìm cách phá hoại một số cơ sở then chốt ở Hà Nội.
Bản báo cáo (của phái đoàn Lansdale) kể lại là: “Người ta được biết nhà in lớn nhất ở miền Bắc có ý định ở lại Hà Nội và làm việc cho Việt Minh. Phái đoàn SMM đã đề ra kế hoạch phá hủy các phương tiện ấn loát hiện đại nhưng các nhân viên an ninh của Việt Minh đã vào nhà máy và đã làm thất bại kế hoạch này”
4.
“Chính là đội công tác của phái đoàn ở Hà Nội đã bỏ ra nhiều đêm cho thuốc vào các động cơ của hãng xe hơi ở Hà Nội để cho các xe hơi của họ dần dần bị hư hỏng sau khi Việt Minh tiếp quản thành phố”.
“Đồng thời đội công tác của phái đoàn đã thực hiện cái mà bản báo cáo gọi bằng “những cuộc tấn công tâm lý chiến trong bóng tối”. Nghĩa là cuộc chiến tranh bằng những tài liệu giả là của đối phương. Đội đã in những cái gọi là những tờ truyền đơn ký tên Việt Minh chỉ thị cho người Bắc Bộ phải xử sự như thế nào khi Việt Minh tiếp quản Hà Nội vào đầu tháng 10 trong đó có những vấn đề tài sản, cải cách tiền tệ và cho công nhân nghỉ việc ba ngày lúc tiếp quản”.
“Kế hoạch này nhằm đe dọa dân chúng đã thành công”.
“Bản báo cáo cho biết một ngày sau khi phân phát những tờ truyền đơn đó, số đăng ký di cư (muốn thoát khỏi Bắc Việt Nam) đã tăng lên gấp ba...”.
“Ở miền Nam, phái đoàn đã thuê những nhà chiêm tinh học Việt Nam - mà nghề nghiệp của họ được nhiều người châu Á rất tin tưởng - để tập hợp những niên dịch đoán định những điều không lành đối với Việt Minh và những điều tốt lành với chính phủ mới của thủ tướng Diệm”.
“Bản báo cáo cho biết thêm để tiến hành những hoạt động ở Bắc Việt Nam sau khi đoàn đã rút khỏi Hà Nội, Thiếu tá Lucion Conein - một sĩ quan của phái đoàn SMM đã tuyển dụng một nhóm nhân viên Việt Nam mang tên mật mã là Bình”.
“Nhóm này đã được Mỹ huấn luyện và giúp đỡ coi như những người Việt Nam yêu nước, để cuối cùng giao cho một chính phủ khi chính phủ đã sẵn sàng tiến hành những hoạt động như vậy. 13 người trong nhóm Bình này đã được bí mật đưa ra ngoài qua cảng Hải Phòng và trong giai đoạn đầu đã được các tàu hải quân Mỹ đưa tới khu vực huấn luyện của họ”.
“Trước khí rút khỏi Hải Phòng vào tháng 5/1955 cơ quan vận tải hàng không dân dụng (CAT) - một hãng hàng không đặt trụ sở ở Đài Loan và do tướng Claire Chennault điều khiển, đã bí mật chuyển vũ khí từ Sài Gòn đến Hải Phòng cho nhóm Bình”...
“Bản báo cáo cho biết tiếp là một đội khác gồm 21 người, mang bí danh là nhóm HAO được tuyển mộ từ Sài Gòn đã được bí mật đưa ra một chiếc tàu của hải quân Mỹ và được ngụy trang thành những người culi rồi đưa đến một địa điểm bí mật để huấn luyện”.
“Vũ khí để cung cấp cho nhóm HAO được không quân Mỹ bí mật chuyển tới Sài Gòn”.
“Chúng tôi đã chuyển bí mật vào Việt Nam khoảng tám tấn rưỡi đồ tiếp tế cho nhóm quân sự HAO. Số hàng này gồm 14 máy vô tuyến, 300 súng cạcbin, 90.000 viên đạn cácpin, 50 súng lục, 10.000 viên đạn súng lục và 300 pound chất nổ. Hai tấn rưỡi cung cấp cho nhóm HAO ở Bắc Kỳ, số còn lại được SMM cất giấu dọc sông Hồng với sự giúp đỡ của hải quân”...
“Theo bản báo cáo trong năm tài chính 1955 chi phí của phái đoàn quân sự Sài Gòn (SMM) đã lên tới 228.000 đôla. Đó là chưa kể tiền lương của các sĩ quan Mỹ hoặc phí tổn về vũ khí lấy ở các kho của Mỹ”...
“Thiếu tá Conein báo cáo tình hình cho nhóm hoạt động bán quân sự Bình biết và cho từng người thâm nhập miền Bắc”.
“Ngày 16/5 Việt Minh tiếp quản Hải Phòng. Các đội Bình và HAO của chúng tôi ở miền Bắc đã có mặt, trang bị đầy đủ... Làm việc này công khai thật là khó khăn nhưng giữ bí mật không cho Việt Minh, Ủy ban quốc tế gồm những người Canađa, người Ba Lan và người Ấn Độ đầy nghi kỵ và thậm chí cả người Việt Nam bạn bè được biết. Việc chuyển người và trang bị phải tiến hành trên quãng đường dài hàng nghìn dặm...”.
Đi đôi với những công tác phá hoại, hoạt động bán quân sự, chiến tranh tâm lý chống lại miền Bắc Việt Nam, chống lại “Việt cộng” có nghĩa là chống lại khối nhân dân yêu nước đã từng tham gia kháng chiến chống Pháp ở miền Nam Việt Nam, tên phù thủy Lansdale của đế quốc Mỹ còn ra sức xây dựng ngụy quyền Ngô Đình Diệm mạnh đủ sức làm tay sai đắc lực cho Mỹ. Hắn đã lặn lội nhiều lần lên tận núi Bà Đen (Tây Ninh) dùng tiền của, danh lợi lôi kéo, mua chuộc Trịnh Minh Thế về giúp Ngô Đình Diệm. Hắn đã dùng mưu kế và mọi khả năng làm thất bại sự chống đối quyết liệt lại bọn Ngô Đình Diệm của Nguyễn Văn Hinh, tổng tham mưu trưởng ngụy quân lúc ấy, của lực lượng Bình Xuyên, của các giáo phái Cao Đài, Hòa Hảo và những tay chân khác của Pháp như tên Le Roy, tư lệnh lực lượng gọi là tự vệ lưu động Thiên Chúa giáo (chủ yếu ở An Hóa, Bến Tre) và cả người Pháp nữa. Hắn đã thảo qua kế hoạch bình định nông thôn và các kế hoạch khủng bố “tố cộng”, “diệt cộng”... cho Diệm. Hắn không từ một thủ đoạn nào, một phương tiện nào như tiền của, uy lực, tàn sát dã man, “kỹ thuật rỉ tai”, “chiến dịch rỉ tai”
5, truyền đơn và tài liệu giả... để đạt mục đích. Tên sĩ quan cao cấp CIA Landsdale quả là người thực hành có kinh nghiệm mọi mưu mô đặt ra và chỉ huy từ Nhà Trắng có sự yểm trợ của Cơ quan tình báo Mỹ (CIA), Phái đoàn cố vấn viện trợ quân sự Mỹ (MAAG), Sở Thông tin Mỹ USIS, sứ quán Mỹ và tất cả các tổ chức khác ở trong cũng như ở ngoài Việt Nam của Mỹ.
Như vậy là Hội nghị Giơnevơ đang còn thảo luận để chấm dứt cuộc chiến tranh xâm lược của Pháp ở Đông Dương thì Mỹ đã dùng phái đoàn của Landsdale (SMM) mở đầu thời kỳ chiến tranh xâm lược của Mỹ để thay thế (từ tháng 5, 6/1954). Hòa bình chưa kịp đến thì chiến tranh đã chồng nối chiến tranh. Nhân dân ba nước Việt Nam, Lào, Campuchia cũng như nhân dân tiến bộ trên toàn thế giới thực tình mong đợi và ra sức bảo vệ hòa bình thì đế quốc Mỹ hoảng hốt lồng lộn chống lại hòa bình.
Người phân tích bản tài liệu cho biết Hội đồng an ninh quốc gia Mỹ phản đối việc Pháp thương lượng để chấm dứt chiến tranh mạnh đến mức “tổng thống buộc phải báo cho Paris biết rằng việc Pháp thỏa thuận cho cộng sản thôn tính Đông Dương sẽ gây tác hại đến địa vị là một trong ba nước lớn” ...
Sở dĩ như vậy là chính vì chính sách của Nhà Trắng định ra từ Oasinhtơn không phải căn cứ vào tình hình kinh tế ở Đông Dương, vào ý chí đấu tranh của nhân dân, vào nguyện vọng của các dân tộc ở vùng này, mà xuất phát từ chiến lược toàn cầu của đế quốc đầu sỏ Mỹ nhằm làm bá chủ hoàn cầu.
“Một vấn đề then chốt xảy ra từ mùa đông 1949-1950 khi Mỹ làm cái bản tài liệu gọi là một quyết định rõ ràng làm ảnh hưởng chính sách của Mỹ ở Việt Nam trong 20 năm tới: Sau khi lục địa Trung Hoa rơi vào tay những người cộng sản Trung Quốc, chính quyền Truman đã chuyển sang ủng hộ vua Bảo Đại và cung cấp viện trợ quân sự cho người Pháp chống lại Việt Minh”.
“Bản tài liệu viết: Với hành động này “đường lối chính sách của Mỹ được ấn định là ngăn chặn sự bành trướng hơn nữa của cộng sản ở châu Á”. Và sau đó Mỹ trực tiếp dính líu vào tấn bi kịch đang phát triển ở Việt Nam”...
“Lôgic cơ bản của việc Mỹ tham gia - mà sau này được gọi bằng thuyết Đôminô - đầu tiên được Hội đồng an ninh quốc gia nêu rõ ràng vào tháng 02/1950 khi hội đồng quyết định mở rộng viện trợ quân sự cho người Pháp ở Đông Dương”.
“Bản tài liệu cho biết thêm là trong giai đoạn thứ hai xảy ra vào tháng 5 và tháng 6 năm 1954, lúc Hội nghị Giơnevơ đang họp thì Tổng thống Eisenhower đã chỉ thị cho các phụ tá thảo ra một bản nghị quyết yêu cầu quốc hội trao cho ông quyền đưa quân Mỹ đến Đông Dương” .
Và từ tháng 3 năm 1954, Ngoại trưởng Mỹ Dulles đã tuyên bố: “Từ nay Đông Dương nằm trong khu vực bất khả xâm phạm của chiến lược Mỹ”.
Mỹ đã lồng lộn chống lại cuộc thương lượng hòa bình ở Giơnevơ, làm mọi áp lực buộc Pháp phải tiếp tục chiến tranh Đông Dương nếu không Mỹ sẽ tự mình tiến hành tiếp cuộc chiến bất kể Pháp. Bị vong lục của Ủy ban đặc biệt Mỹ ngày 05/4/1954 đề nghị:
1. Chính sách của Mỹ là không chấp nhận điều gì khác ngoài thắng lợi quân sự ở Đông Dương.
2. Lập trường của Mỹ tranh thủ sự ủng hộ của Pháp đối với chính sách này. Mỹ cương quyết phản đối mọi giải pháp thương lượng về Đông Dương tại Giơnevơ.
3. Lập trường của Mỹ trong trường hợp không làm được điều 2 ở trên thì đề ra những biện pháp cấp bách với chính phủ quốc gia liên kết tiếp tục cuộc chiến tranh ở Đông Dương, có sự tham gia tích cực của Mỹ mà không có sự ủng hộ của Pháp nếu cần thiết.
Chính vì vậy, Mỹ luôn âm mưu lôi kéo nhiều nước khác cùng với Mỹ xâm lược Đông Dương. Khi Hiệp định Giơnevơ ký chưa ráo mực, ngày 08/9/1954 Mỹ đã cùng Anh, Pháp và một số nước chư hầu thành lập khối xâm lược Đông Nam Á (SEATO) và ngang nhiên đặt miền Nam Việt Nam, Lào và Campuchia vào khu vực bảo hộ của khối đó.
Tất cả những sự việc được kể hết sức tóm tắt ra trên đây là nguồn gốc cơ bản của diễn biến tình hình ở Việt Nam và Đông Dương trong những năm 1950, 1960 và 1970. Trong những năm ấy, toàn bộ Đông Nam Á đã sôi động dữ dội, Thái Bình Dương không còn thái bình nữa mà đã dậy sóng chiến tranh. Cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam của thực dân Pháp được Mỹ tìm mọi cách nuôi dưỡng từ rất sớm:
Ngày 08/5/1950, Oasinhtơn báo tin sẽ cung cấp viện trợ kinh tế và quân sự cho Pháp ở Đông Dương bắt đầu bằng một khoản 10 triệu đôla... cuối cùng chương trình viện trợ quân sự của Mỹ lên tới 1,1 tỷ đôla năm 1954, gánh chịu đến 78% chiến phí của Pháp.
Mặc dầu như vậy Pháp thua vẫn hoàn thua và phải ngậm bồ hòn mà tìm cách rút lui bỏ cuộc. Nhưng Mỹ lúc ấy cho rằng Mỹ không thể nào ngậm phải bồ hòn như Pháp (thực sự sau này còn hơn bồ hòn nhiều) và vì “thiên chức” lãnh đạo thế giới nên hùng hổ nhảy vào. Mỹ nhảy bổ vào trong lúc Pháp tiếc rẻ còn muốn ở lại bằng phương pháp khác không phải chiến tranh nên Mỹ phải hất cẳng Pháp, nhanh chóng độc chiếm miếng mồi béo bở để thực hiện chiến lược toàn cầu của mình. Chiến tranh chồng nối chiến tranh là như vậy đó.
Nhưng Mỹ phá Hiệp nghị Giơnevơ, phá tổng tuyển cử thống nhất Việt Nam, hùng hổ nhảy vào Việt Nam, muốn “biên giới Hoa Kỳ kéo dài đến vĩ tuyến 17” như đã mớm cho tên tay sai Ngô Đình Diệm tuyên bố công khai, không phải không tính toán cân nhắc. Mỹ coi thường Việt Nam là một nước nhỏ không đáng kể, chỉ gờm sự can thiệp của hai nước lớn là Liên Xô và Trung Quốc. Nhưng Liên Xô thì ở xa mà Trung Quốc ở gần, vì vậy quan trọng trước mắt là phải bắt mạch Trung Quốc, việc này không khó khăn lắm. Trong suốt quá trình Hội nghị Giơnevơ Mỹ đã chủ tâm quan sát và đặc biệt là qua Pháp, người đối thoại trực tiếp với Trung Quốc mà hiểu rõ Trung Quốc nghĩ gì và muốn gì.
------------------------------------------------------------------
1. Trích sách Các văn kiện của Lầu Năm Góc về lịch sử bí mật cuộc chiến tranh ở Việt Nam do Thời báo Niu Oóc in thành sách và phát hành trong tháng 7/1971. Thông tấn xã Việt Nam dịch, phát hành năm 1971. Chương 1 đề “Những năm dưới thời Truman và Eisenhower 1945-1960”.
2. Hai tuần trước khi ký Hiệp định Giơnevơ, ngày 07/7/1954, Mỹ đã đưa Ngô Đình Diệm từ Mỹ về thành lập chính phủ bù nhìn (công cụ tay sai của Mỹ). Ngô Đình Diệm là một tên đầu sỏ phong kiến, đã từng làm tay sai cho đế quốc Pháp và đế quốc Nhật, được Mỹ nuôi dạy từ tháng 11/1951 ở trường thần học tiểu bang Niudali, dưới sự bảo trợ của Giáo sư Spenman.
3. Các văn kiện của Lâu Năm Góc về lịch sử bí mật cuộc chiến tranh ở Việt Nam, Sđd, Chương I.
4. Hồi ký của E.G. Lansdale do Nhà xuất bản Harper of Now (Mỹ) phát hành năm 1972, nhan đề In the Midst of Wars, Chương I.
5. Những từ chính Landsdale dùng trong hồi ký của y, đã nói ở phần trên, khi huấn luyện và chỉ đạo công tác của Phòng 5 Bộ Tổng Tham mưu ngụy năm 1954.