Lịch sử Quân sự Việt Nam
Tin tức: Lịch sử quân sự Việt Nam
 
*
Chào Khách. Bạn có thể đăng nhập hoặc đăng ký. 28 Tháng Ba, 2023, 04:15:36 pm


Đăng nhập với Tên truy nhập, Mật khẩu và thời gian tự động thoát


Trang: « 1 2 3 4   Xuống
  In  
Tác giả Chủ đề: Thượng tướng Trần Văn Trà và những chặng đường lịch sử B2 Thành Đồng  (Đọc 1119 lần)
0 Thành viên và 1 Khách đang xem chủ đề.
hoi_ls
Thượng tá
*
Bài viết: 4890



« Trả lời #30 vào lúc: 18 Tháng Ba, 2023, 10:12:30 pm »



BỐI CẢNH LỊCH SỬ
“VÌ CÓ LỬA NÊN CÓ KHÓI”


    Điện Biên Phủ - ngày 07/5/1954, chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ lẫy lừng, đỉnh cao của chiến cuộc Đông Xuân 1953 - 1954, đã quyết định số phận của thực dân Pháp ở Đông Dương.

    Điện Biên Phủ thực sự là đài vinh quang của dân tộc Việt Nam anh hùng, ghi dấu một thời kỳ lịch sử hiện đại vẻ vang của Tổ quốc Việt Nam hùng vĩ.

    Từ đó đến nay và mãi mãi sau này, những âm thanh đẹp, hào hùng: “Việt Nam -Điện Biên Phủ - Hồ Chí Minh” sẽ mãi mãi ngân vang không dứt khắp bốn phương trời, mỗi khi loài người còn nhắc đến những trang sử đấu tranh bất khuất của các dân tộc vì độc lập tự do, vì phẩm giá con người.

    “Tinh thần Điện Biên Phủ ngày nay là ánh đèn pha chiếu rọi cho hàng triệu người bị áp bức trên thế giới” - Nhà thơ yêu nước Haiiti Rone Depextoro đã phát biểu như vậy năm 1960.

    “Điện Biên Phủ được coi như là thắng lợi to lớn của các dân tộc nhỏ yếu đang đấu tranh chống chủ nghĩa đế quốc, chủ nghĩa thực dân cũ và mới, giành lại tự do và độc lập. Điện Biên Phủ đã trở nên niềm tự hào của các dân tộc bị áp bức, là một cống hiến lớn lao của nhân dân ta vào cao trào giải phóng dân tộc đang dâng lên mạnh mẽ từ sau Chiến tranh thế giới thứ hai, báo hiệu sự sụp đổ của chủ nghĩa thực dân cũ trên toàn cõi hoàn cầu.

    Điện Biên Phủ còn là thắng lợi to lớn của các lực lượng hòa bình trên thế giới. Không có thắng lợi Điện Biên Phủ thì chắc chắn Hội nghị Giơnevơ không thu được kết quả, hòa bình không được lập lại ở Đông Dương”
  1.

    Điện Biên Phủ đúng là đã đóng góp quyết định vào thắng lợi của Hội nghị Giơnevơ năm 1954.

    Khi yêu cầu Mỹ viện trợ và giúp đỡ, Thủ tướng Pháp Bidault đã nhận định: Hay dở gì thì vận mệnh của Đông Nam Á bây giờ nằm ở Điện Biên Phủ... Thắng hoặc thua ở Giơnevơ là tùy thuộc ở kết quả tại Điện Biên Phủ”  2.

    Chiến dịch Điện Biên Phủ kết thúc thì Hiệp nghị Giơnevơ cũng ngã ngũ.

    Ngày 21/7/1954, Hiệp nghị Giơnevơ được ký kết, hòa bình được lập lại ở Đông Dương trên cơ sở tôn trọng chủ quyền, độc lập, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của một nước Việt Nam và hai nước Campuchia và Lào. Hiệp định đã quy định việc chấm dứt chiến sự, quy định giới tuyến quân sự tạm thời và khu phi quân sự giữa hai miền Nam - Bắc ở vĩ tuyến 17 (sông Bến Hải) và việc chuyển quân tập kết của hai bên. Hiệp định cũng cấm đem vào Việt Nam mọi quân đội và vũ khí đạn dược, cấm thành lập các căn cứ quân sự của một nước ngoài nào, cả ở miền Bắc cũng như ở miền Nam. Hiệp định cũng giành cho nhân dân Việt Nam quyền tự do bày tỏ ý muốn rằng cuộc tổng tuyển cử sẽ tổ chức vào tháng 7/1956 và có những điều khoản bảo vệ tính mệnh và tài sản của mọi người, để cho mọi người được tự do lựa chọn vùng mình muốn sinh sống, cấm những hành động trả thù cá nhân hoặc tập thể, bất cứ hình thức nào, đối với những người và với gia đình họ, đã từng hợp tác trong chiến tranh với bên này hay bên kia.

    Bản “Tuyên bố cuối cùng” đề ngày 21/7/1954, một văn kiện quan trọng, thành phần chính thức của Hiệp định Giơnevơ, có những điều khoản rõ ràng như sau:

    “... 2. Hội nghị hài lòng về việc chấm dứt chiến sự ở Cao Miên, Lào và Việt Nam. Hội nghị tỏ lòng tin tưởng rằng việc thi hành những điều khoản ghi trong bản tuyên bố này và trong những Hiệp định đình chỉ chiến sự sẽ làm cho ba nước Cao Miên, Lào và Việt Nam từ nay có thể đảm nhận với độc lập và chủ quyền hoàn toàn vai trò của mình trong tập thể hòa bình của các nước.

    “... 4. Hội nghị chứng nhận những điều khoản trong Hiệp định đình chỉ chiến sự ở Việt Nam và việc cấm đem vào Việt Nam quân đội và nhân viên quân sự ngoại quốc, cũng như tất cả các thứ vũ khí, đạn dược...

    5. Hội nghị chứng nhận những điều khoản trong Hiệp định đình chỉ chiến sự ở Việt Nam quy định rằng không được thành lập một căn cứ quân sự nào của một nước ngoài trong những vùng tập kết của đôi bên. Đôi bên có nhiệm vụ không để những vùng được trao cho mình tham gia bất cứ một khối liên minh quân sự nào và dùng vào việc gây lại chiến sự hoặc phục vụ cho một chính sách xâm lược...

    6. Hội nghị chứng nhận rằng mục đích căn bản của Hiệp định về Việt Nam là giải quyết các vấn đề quân sự để đình chỉ chiến sự, và giới tuyến quân sự chỉ có tính chất tạm thời, hoàn toàn không thể coi là một ranh giới về chính trị hay về lãnh thổ. Hội nghị tin tưởng rằng việc thi hành những điều khoản định trong bản tuyên bố này và trong những Hiệp định đình chỉ chiến sự tạo ra cơ sở cần thiết để giải quyết vấn đề chính trị ở Việt Nam trong một thời gian ngắn.

    7. Hội nghị tuyên bố rằng đối với Việt Nam, việc giải quyết các vấn đề chính trị thực hiện trên cơ sở tôn trọng nguyên tắc độc lập, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ, sẽ phải làm cho nhân dân Việt Nam được hưởng những tự do căn bản, bảo đảm bởi những tổ chức dân chủ thành lập sau tổng tuyển cử tự do và bỏ phiếu kín. Để cho việc lập lại hòa bình tiến triển đến mức cần thiết, và để thực hiện tất cả những điều kiện cần thiết cho nhân dân Việt Nam có thể tự do bày tỏ ý muốn, cuộc tổng tuyển cử sẽ tổ chức vào tháng 7/1956, dưới sự kiểm soát của một Ban Quốc tế gồm đại biểu những nước có chân trong Ban Giám sát và kiểm soát quốc tế đã nói trong Hiệp định đình chỉ chiến sự. Kể từ ngày 20/7/1955, những nhà đương cục có thẩm quyền trong hai vùng sẽ có cuộc gặp gỡ để thương lượng về vấn đề đó.

    8. Phải triệt để thi hành những điều khoản trong Hiệp định đình chỉ chiến sự nhằm mục đích bảo vệ tính mệnh và tài sản của mọi người và nhất là phải để cho tất cả mọi người ở Việt Nam tự do lựa chọn vùng mình muốn sinh sống.

    9. Những nhà đương cục có thẩm quyền ở vùng Bắc và vùng Nam cũng như ở Lào và Cao Miên không được dung thứ những hành động báo thù cá nhân hoặc tập thể đối với những người đã hợp tác, bất cứ dưới hình thức nào, với một trong hai bên trong thời gian chiến tranh, hoặc đối với gia đình những người đó...”.

    Sau khi Hiệp định Giơnevơ được ký kết, Chính phủ Mỹ đã long trọng đưa ra bản tuyên bố trong đó có một số điểm chủ yếu như sau:

    “Chính phủ Mỹ kiên quyết đem hết cố gắng của mình để củng cố hòa bình phù hợp với các nguyên tắc và mục đích của Liên hợp quốc, ghi nhận các Hiệp định đã ký kết tại Giơnevơ ngày 20 và 21/7/1954.

    1. Mỹ sẽ không dùng đe dọa và vũ khí để phá hoại nó, phù hợp với khoản 2 (4) của Hiến chương Liên hợp quốc, liên quan đến nghĩa vụ của các hội viên là không đe dọa hoặc dùng vũ lực trong các quan hệ quốc tế của họ.

    2. Mỹ sẽ coi bất cứ việc diễn ra lại hành động xâm lược nào vi phạm các Hiệp định đã nói ở phần trên với sự lo ngại sâu sắc coi như là đe dọa nghiêm trọng nền hòa bình và an ninh quốc tế.

    Chúng tôi tán thành hy vọng là các Hiệp định sẽ cho phép Campuchia, Lào và Việt Nam giữ vai trò của họ, trong độc lập và chủ quyền hoàn toàn, ở trong cộng đồng hòa bình của các dân tộc và sẽ tạo điều kiện cho các dân tộc ở khu vực đó quyết định tương lai của họ”.

    Ngoài ra, chín nước tham gia Hội nghị Giơnevơ đã ra một tuyên ngôn bảo vệ hòa bình ở Đông Dương.




---------------------------------------------------------------------
1. Trích sách Điện Biên Phủ của Đại tướng Võ Nguyên Giáp, Nxb. Quân đội nhân dân, Hà Nội, 1979. Đại tướng Võ Nguyên Giáp năm 1954 là Tổng Tư lệnh Quân đội nhân dân Việt Nam và là người chỉ huy trực tiếp chiến dịch Điện Biên Phủ.

2. Điện của Douglas Dillon - Đại sứ Mỹ tại Pháp gửi Bộ trưởng Ngoại giao Mỹ John Foster Dulles, ngày 05/4/1954.

Logged
hoi_ls
Thượng tá
*
Bài viết: 4890



« Trả lời #31 vào lúc: 19 Tháng Ba, 2023, 06:32:42 am »

*
*     *


    Thế là sau ngót chín năm chiến tranh, nhân dân ba nước Việt Nam, Lào, Campuchia sắp sửa hưởng một nền hòa bình chân chính, được quốc tế thừa nhận. Quân hai bên chuẩn bị tập kết về miền được quy định, nhân dân Việt Nam chuẩn bị một cuộc sống hòa bình nơi nào mình muốn ở và được tự do lựa chọn những người đại diện tin cậy của mình, chế độ chính trị nào đem lại hạnh phúc cho mình, vào ngày 20/7/1956, sau hai năm ký kết Hiệp định Giơnevơ. Quý báu biết bao một nền hòa bình đạt được bằng xương máu, bằng cả nước mắt đau thương và những trận cười chiến thắng của cả một dân tộc đã ý thức rõ rệt được quyền làm chủ bờ cõi non sông của ông cha để lại, đã nối dõi được truyền thống nghìn đời đấu tranh cho độc lập tự do và thống nhất.

    Thế nhưng sự thật việc đời thường rất phức tạp, chưa bao giờ lại chỉ diễn biến đơn giản theo một chiều suôn sẻ. Cùng với nhân dân Việt Nam, nhân dân tiến bộ trên toàn thế giới nhiệt liệt hoan nghênh Điện Biên Phủ, hòa bình, hữu nghị, dân chủ, trong lúc đó đế quốc Mỹ mà bản chất của chúng không hề thay đổi là gây chiến và xâm lược, là thôn tính đất đai và tài nguyên người khác, là áp đặt lối sống và chế độ chính trị mà chúng muốn lên đầu lên cổ các dân tộc, gấp rút chuẩn bị một dòng nước ngược tàn phá, độc ác, chống lại hạnh phúc tự do của người dân Việt, chống lại hòa bình ở Đông Dương và trên thế giới.

    “... Bốn ngày sau khi ký Hiệp định Giơnevơ năm 1954, Hội đồng an ninh quốc gia của chính quyền Eisenhower (Mỹ) đã khẳng định rằng Hiệp định đó là “một thảm họa” và đã chấp thuận các hành động nhằm ngăn cản sự bành trướng thêm nữa của cộng sản ở Việt Nam.

    ... Các quyết định đó của Hội đồng an ninh quốc gia có nghĩa là Mỹ đã giữ một vai trò trực tiếp trong việc cuối cùng phá hoại giải pháp Giơnevơ”  1.

    Việc trước tiên mà chính quyền Mỹ gấp rút tiến hành cả trước và sau Hiệp định Giơnevơ, không đếm xỉa gì đến Hiệp định Giơnevơ và bản tuyên bố long trọng của chính mình, quyết gây chiến tranh, phá hòa bình chia cắt lâu dài đất nước Việt Nam là cố dựng nên một chính quyền tay sai mạnh ở miền Nam Việt Nam  2, phá hoại và làm suy yếu rối loạn miền Bắc của Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, ra sức ngăn chặn cuộc tổng tuyển cử tự do, thống nhất đất nước Việt Nam vào tháng 7/1956.

    Muốn làm như vậy Mỹ phải hất cẳng Pháp chiếm lấy miền Nam Việt Nam.

    “... Hội đồng an ninh quốc gia (Mỹ) trong cuộc họp ngày 03/8/1954, sau Hiệp định Giơnevơ, đã ra lệnh là phải có một chương trình khẩn cấp viện trợ kinh tế và quân sự, thay thế cố vấn Pháp bằng cố vấn Mỹ - cho Chính phủ Ngô Đình Diệm mới thành lập ở miền Nam Việt Nam.

    ... Các mục tiêu do Hội đồng đề ra là duy trì Nam Việt Nam thân thiện không cộng sản và ngăn chặn cộng sản thắng lợi thông qua cuộc tổng tuyển cử ở Việt Nam”  3.

    Vì biết rằng nếu tiến hành tổng tuyển cử thì chắc chắn các bè lũ Việt gian theo Mỹ sẽ thất bại, nhân dân Việt Nam sẽ bỏ những lá phiếu cho những người yêu nước chân chính, cho hòa bình độc lập và thống nhất Tổ quốc và như vậy đế quốc Mỹ sẽ bị tống cổ ngay từ ngày ấy nên Mỹ tìm mọi mưu mô không diễn ra tổng tuyển cử.

    “Ngay từ ngày 07/7/1954, trong thời gian Hội nghị Giơnevơ, Bộ trưởng Dulles đã gợi ý là Mỹ cần phải tìm cách trì hoãn cuộc tổng tuyển cử và đòi có những điều kiện đảm bảo mà chắc là cộng sản sẽ bác bỏ”.

    Trong bức điện mật gửi Thứ trưởng Ngoại giao Walter Bedel Smith thay thế khi ông rút khỏi Hội nghị Giơnevơ, Bộ trưởng Dulles viết:
    “Vì chắc chắn tổng tuyển cử thì cuối cùng có nghĩa là thống nhất nước Việt Nam dưới quyền ông Hồ Chí Minh nên điều quan trọng hơn hết là trì hoãn tuyển cử càng lâu càng tốt sau khi ký Hiệp định đình chiến và chỉ tuyển cử trong những điều kiện không có sự đe dọa để tạo cho các phần tử dân chủ có cơ hội tốt nhất”.

    Như thế có nghĩa là chỉ tuyển cử sau khi có thời gian để tiến hành mọi mưu kế gian xảo đen tối hầu đưa lại thắng lợi cho bọn tay sai Mỹ, không được như vậy thì không tổng tuyển cử. Thật là dân chủ tự do theo kiểu Mỹ!

    Cũng không đợi đến Hội nghị Giơnevơ mới hành động, trong tháng 6/1954 chính quyền Eisenhower đã phái một phái đoàn Mỹ sang Việt Nam để bắt đầu tiến hành những hành động bí mật chống Việt Minh, trong khi hội nghị đang họp.

    Phái đoàn này do Đại tá Lansdale cầm đầu, Lansdale là nhân vật CIA nổi tiếng là chuyên gia hàng đầu của Mỹ về chiến tranh chống du kích ở Philíppin là nơi ông đã giúp Tổng thống Romon Masaysay đàn áp những người khởi loạn Hukbalahap do cộng sản lãnh đạo.

    Nhà Trắng đã hấp tấp tiến hành phá hoại Việt Nam bằng hoạt động bán quân sự - mở màn cho cuộc chiến tranh của Mỹ ở Việt Nam - của phái đoàn quân sự Sài Gòn (viết tắt SMM) được vội vã thành lập và điều Lansdale từ Philíppin sang cầm đầu phái đoàn này vào cuối tháng 5/1954. Lansdale kể: “Một điện văn từ Oasinhtơn đã chấm dứt công việc của tôi ở đây (Philíppin). Tôi phải sang Sài Gòn ngay bằng phương tiện chuyên chở nào sớm nhất”  4.

    Nhiệm vụ của phái đoàn Lansdale là “phải tiến hành các hoạt động bán quân sự chống kẻ địch và tiến hành chiến tranh chính trị tâm lý”.

    “Sau đó, sau Giơnevơ, phái đoàn được thay đổi để chuẩn bị các phương tiện tiến hành các hoạt động bán quân sự ở các khu vực cộng sản chứ không phải tiến hành chiến tranh không chính quy”.

    Khi thời hạn - 09/10 - ấn định cho phép rút khỏi Hà Nội tới gần, phái đoàn đã tìm cách phá hoại một số cơ sở then chốt ở Hà Nội.

    Bản báo cáo (của phái đoàn Lansdale) kể lại là: “Người ta được biết nhà in lớn nhất ở miền Bắc có ý định ở lại Hà Nội và làm việc cho Việt Minh. Phái đoàn SMM đã đề ra kế hoạch phá hủy các phương tiện ấn loát hiện đại nhưng các nhân viên an ninh của Việt Minh đã vào nhà máy và đã làm thất bại kế hoạch này”  4.

    “Chính là đội công tác của phái đoàn ở Hà Nội đã bỏ ra nhiều đêm cho thuốc vào các động cơ của hãng xe hơi ở Hà Nội để cho các xe hơi của họ dần dần bị hư hỏng sau khi Việt Minh tiếp quản thành phố”.

    “Đồng thời đội công tác của phái đoàn đã thực hiện cái mà bản báo cáo gọi bằng “những cuộc tấn công tâm lý chiến trong bóng tối”. Nghĩa là cuộc chiến tranh bằng những tài liệu giả là của đối phương. Đội đã in những cái gọi là những tờ truyền đơn ký tên Việt Minh chỉ thị cho người Bắc Bộ phải xử sự như thế nào khi Việt Minh tiếp quản Hà Nội vào đầu tháng 10 trong đó có những vấn đề tài sản, cải cách tiền tệ và cho công nhân nghỉ việc ba ngày lúc tiếp quản”.

    “Kế hoạch này nhằm đe dọa dân chúng đã thành công”.

    “Bản báo cáo cho biết một ngày sau khi phân phát những tờ truyền đơn đó, số đăng ký di cư (muốn thoát khỏi Bắc Việt Nam) đã tăng lên gấp ba...”.

    “Ở miền Nam, phái đoàn đã thuê những nhà chiêm tinh học Việt Nam - mà nghề nghiệp của họ được nhiều người châu Á rất tin tưởng - để tập hợp những niên dịch đoán định những điều không lành đối với Việt Minh và những điều tốt lành với chính phủ mới của thủ tướng Diệm”.

    “Bản báo cáo cho biết thêm để tiến hành những hoạt động ở Bắc Việt Nam sau khi đoàn đã rút khỏi Hà Nội, Thiếu tá Lucion Conein - một sĩ quan của phái đoàn SMM đã tuyển dụng một nhóm nhân viên Việt Nam mang tên mật mã là Bình”.

    “Nhóm này đã được Mỹ huấn luyện và giúp đỡ coi như những người Việt Nam yêu nước, để cuối cùng giao cho một chính phủ khi chính phủ đã sẵn sàng tiến hành những hoạt động như vậy. 13 người trong nhóm Bình này đã được bí mật đưa ra ngoài qua cảng Hải Phòng và trong giai đoạn đầu đã được các tàu hải quân Mỹ đưa tới khu vực huấn luyện của họ”.

    “Trước khí rút khỏi Hải Phòng vào tháng 5/1955 cơ quan vận tải hàng không dân dụng (CAT) - một hãng hàng không đặt trụ sở ở Đài Loan và do tướng Claire Chennault điều khiển, đã bí mật chuyển vũ khí từ Sài Gòn đến Hải Phòng cho nhóm Bình”...

    “Bản báo cáo cho biết tiếp là một đội khác gồm 21 người, mang bí danh là nhóm HAO được tuyển mộ từ Sài Gòn đã được bí mật đưa ra một chiếc tàu của hải quân Mỹ và được ngụy trang thành những người culi rồi đưa đến một địa điểm bí mật để huấn luyện”.

    “Vũ khí để cung cấp cho nhóm HAO được không quân Mỹ bí mật chuyển tới Sài Gòn”.

    “Chúng tôi đã chuyển bí mật vào Việt Nam khoảng tám tấn rưỡi đồ tiếp tế cho nhóm quân sự HAO. Số hàng này gồm 14 máy vô tuyến, 300 súng cạcbin, 90.000 viên đạn cácpin, 50 súng lục, 10.000 viên đạn súng lục và 300 pound chất nổ. Hai tấn rưỡi cung cấp cho nhóm HAO ở Bắc Kỳ, số còn lại được SMM cất giấu dọc sông Hồng với sự giúp đỡ của hải quân”...

     “Theo bản báo cáo trong năm tài chính 1955 chi phí của phái đoàn quân sự Sài Gòn (SMM) đã lên tới 228.000 đôla. Đó là chưa kể tiền lương của các sĩ quan Mỹ hoặc phí tổn về vũ khí lấy ở các kho của Mỹ”...

     “Thiếu tá Conein báo cáo tình hình cho nhóm hoạt động bán quân sự Bình biết và cho từng người thâm nhập miền Bắc”.

     “Ngày 16/5 Việt Minh tiếp quản Hải Phòng. Các đội Bình và HAO của chúng tôi ở miền Bắc đã có mặt, trang bị đầy đủ... Làm việc này công khai thật là khó khăn nhưng giữ bí mật không cho Việt Minh, Ủy ban quốc tế gồm những người Canađa, người Ba Lan và người Ấn Độ đầy nghi kỵ và thậm chí cả người Việt Nam bạn bè được biết. Việc chuyển người và trang bị phải tiến hành trên quãng đường dài hàng nghìn dặm...”.

     Đi đôi với những công tác phá hoại, hoạt động bán quân sự, chiến tranh tâm lý chống lại miền Bắc Việt Nam, chống lại “Việt cộng” có nghĩa là chống lại khối nhân dân yêu nước đã từng tham gia kháng chiến chống Pháp ở miền Nam Việt Nam, tên phù thủy Lansdale của đế quốc Mỹ còn ra sức xây dựng ngụy quyền Ngô Đình Diệm mạnh đủ sức làm tay sai đắc lực cho Mỹ. Hắn đã lặn lội nhiều lần lên tận núi Bà Đen (Tây Ninh) dùng tiền của, danh lợi lôi kéo, mua chuộc Trịnh Minh Thế về giúp Ngô Đình Diệm. Hắn đã dùng mưu kế và mọi khả năng làm thất bại sự chống đối quyết liệt lại bọn Ngô Đình Diệm của Nguyễn Văn Hinh, tổng tham mưu trưởng ngụy quân lúc ấy, của lực lượng Bình Xuyên, của các giáo phái Cao Đài, Hòa Hảo và những tay chân khác của Pháp như tên Le Roy, tư lệnh lực lượng gọi là tự vệ lưu động Thiên Chúa giáo (chủ yếu ở An Hóa, Bến Tre) và cả người Pháp nữa. Hắn đã thảo qua kế hoạch bình định nông thôn và các kế hoạch khủng bố “tố cộng”, “diệt cộng”... cho Diệm. Hắn không từ một thủ đoạn nào, một phương tiện nào như tiền của, uy lực, tàn sát dã man, “kỹ thuật rỉ tai”, “chiến dịch rỉ tai”  5, truyền đơn và tài liệu giả... để đạt mục đích. Tên sĩ quan cao cấp CIA Landsdale quả là người thực hành có kinh nghiệm mọi mưu mô đặt ra và chỉ huy từ Nhà Trắng có sự yểm trợ của Cơ quan tình báo Mỹ (CIA), Phái đoàn cố vấn viện trợ quân sự Mỹ (MAAG), Sở Thông tin Mỹ USIS, sứ quán Mỹ và tất cả các tổ chức khác ở trong cũng như ở ngoài Việt Nam của Mỹ.

    Như vậy là Hội nghị Giơnevơ đang còn thảo luận để chấm dứt cuộc chiến tranh xâm lược của Pháp ở Đông Dương thì Mỹ đã dùng phái đoàn của Landsdale (SMM) mở đầu thời kỳ chiến tranh xâm lược của Mỹ để thay thế (từ tháng 5, 6/1954). Hòa bình chưa kịp đến thì chiến tranh đã chồng nối chiến tranh. Nhân dân ba nước Việt Nam, Lào, Campuchia cũng như nhân dân tiến bộ trên toàn thế giới thực tình mong đợi và ra sức bảo vệ hòa bình thì đế quốc Mỹ hoảng hốt lồng lộn chống lại hòa bình.

    Người phân tích bản tài liệu cho biết Hội đồng an ninh quốc gia Mỹ phản đối việc Pháp thương lượng để chấm dứt chiến tranh mạnh đến mức “tổng thống buộc phải báo cho Paris biết rằng việc Pháp thỏa thuận cho cộng sản thôn tính Đông Dương sẽ gây tác hại đến địa vị là một trong ba nước lớn”  ...

    Sở dĩ như vậy là chính vì chính sách của Nhà Trắng định ra từ Oasinhtơn không phải căn cứ vào tình hình kinh tế ở Đông Dương, vào ý chí đấu tranh của nhân dân, vào nguyện vọng của các dân tộc ở vùng này, mà xuất phát từ chiến lược toàn cầu của đế quốc đầu sỏ Mỹ nhằm làm bá chủ hoàn cầu.

    “Một vấn đề then chốt xảy ra từ mùa đông 1949-1950 khi Mỹ làm cái bản tài liệu gọi là một quyết định rõ ràng làm ảnh hưởng chính sách của Mỹ ở Việt Nam trong 20 năm tới: Sau khi lục địa Trung Hoa rơi vào tay những người cộng sản Trung Quốc, chính quyền Truman đã chuyển sang ủng hộ vua Bảo Đại và cung cấp viện trợ quân sự cho người Pháp chống lại Việt Minh”.

    “Bản tài liệu viết: Với hành động này “đường lối chính sách của Mỹ được ấn định là ngăn chặn sự bành trướng hơn nữa của cộng sản ở châu Á”. Và sau đó Mỹ trực tiếp dính líu vào tấn bi kịch đang phát triển ở Việt Nam”...

    “Lôgic cơ bản của việc Mỹ tham gia - mà sau này được gọi bằng thuyết Đôminô - đầu tiên được Hội đồng an ninh quốc gia nêu rõ ràng vào tháng 02/1950 khi hội đồng quyết định mở rộng viện trợ quân sự cho người Pháp ở Đông Dương”.

    “Bản tài liệu cho biết thêm là trong giai đoạn thứ hai xảy ra vào tháng 5 và tháng 6 năm 1954, lúc Hội nghị Giơnevơ đang họp thì Tổng thống Eisenhower đã chỉ thị cho các phụ tá thảo ra một bản nghị quyết yêu cầu quốc hội trao cho ông quyền đưa quân Mỹ đến Đông Dương”  .

    Và từ tháng 3 năm 1954, Ngoại trưởng Mỹ Dulles đã tuyên bố: “Từ nay Đông Dương nằm trong khu vực bất khả xâm phạm của chiến lược Mỹ”.

    Mỹ đã lồng lộn chống lại cuộc thương lượng hòa bình ở Giơnevơ, làm mọi áp lực buộc Pháp phải tiếp tục chiến tranh Đông Dương nếu không Mỹ sẽ tự mình tiến hành tiếp cuộc chiến bất kể Pháp. Bị vong lục của Ủy ban đặc biệt Mỹ ngày 05/4/1954 đề nghị:

    1. Chính sách của Mỹ là không chấp nhận điều gì khác ngoài thắng lợi quân sự ở Đông Dương.

    2. Lập trường của Mỹ tranh thủ sự ủng hộ của Pháp đối với chính sách này. Mỹ cương quyết phản đối mọi giải pháp thương lượng về Đông Dương tại Giơnevơ.

    3. Lập trường của Mỹ trong trường hợp không làm được điều 2 ở trên thì đề ra những biện pháp cấp bách với chính phủ quốc gia liên kết tiếp tục cuộc chiến tranh ở Đông Dương, có sự tham gia tích cực của Mỹ mà không có sự ủng hộ của Pháp nếu cần thiết.

    Chính vì vậy, Mỹ luôn âm mưu lôi kéo nhiều nước khác cùng với Mỹ xâm lược Đông Dương. Khi Hiệp định Giơnevơ ký chưa ráo mực, ngày 08/9/1954 Mỹ đã cùng Anh, Pháp và một số nước chư hầu thành lập khối xâm lược Đông Nam Á (SEATO) và ngang nhiên đặt miền Nam Việt Nam, Lào và Campuchia vào khu vực bảo hộ của khối đó.

    Tất cả những sự việc được kể hết sức tóm tắt ra trên đây là nguồn gốc cơ bản của diễn biến tình hình ở Việt Nam và Đông Dương trong những năm 1950, 1960 và 1970. Trong những năm ấy, toàn bộ Đông Nam Á đã sôi động dữ dội, Thái Bình Dương không còn thái bình nữa mà đã dậy sóng chiến tranh. Cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam của thực dân Pháp được Mỹ tìm mọi cách nuôi dưỡng từ rất sớm:

    Ngày 08/5/1950, Oasinhtơn báo tin sẽ cung cấp viện trợ kinh tế và quân sự cho Pháp ở Đông Dương bắt đầu bằng một khoản 10 triệu đôla... cuối cùng chương trình viện trợ quân sự của Mỹ lên tới 1,1 tỷ đôla năm 1954, gánh chịu đến 78% chiến phí của Pháp.

    Mặc dầu như vậy Pháp thua vẫn hoàn thua và phải ngậm bồ hòn mà tìm cách rút lui bỏ cuộc. Nhưng Mỹ lúc ấy cho rằng Mỹ không thể nào ngậm phải bồ hòn như Pháp (thực sự sau này còn hơn bồ hòn nhiều) và vì “thiên chức” lãnh đạo thế giới nên hùng hổ nhảy vào. Mỹ nhảy bổ vào trong lúc Pháp tiếc rẻ còn muốn ở lại bằng phương pháp khác không phải chiến tranh nên Mỹ phải hất cẳng Pháp, nhanh chóng độc chiếm miếng mồi béo bở để thực hiện chiến lược toàn cầu của mình. Chiến tranh chồng nối chiến tranh là như vậy đó.

    Nhưng Mỹ phá Hiệp nghị Giơnevơ, phá tổng tuyển cử thống nhất Việt Nam, hùng hổ nhảy vào Việt Nam, muốn “biên giới Hoa Kỳ kéo dài đến vĩ tuyến 17” như đã mớm cho tên tay sai Ngô Đình Diệm tuyên bố công khai, không phải không tính toán cân nhắc. Mỹ coi thường Việt Nam là một nước nhỏ không đáng kể, chỉ gờm sự can thiệp của hai nước lớn là Liên Xô và Trung Quốc. Nhưng Liên Xô thì ở xa mà Trung Quốc ở gần, vì vậy quan trọng trước mắt là phải bắt mạch Trung Quốc, việc này không khó khăn lắm. Trong suốt quá trình Hội nghị Giơnevơ Mỹ đã chủ tâm quan sát và đặc biệt là qua Pháp, người đối thoại trực tiếp với Trung Quốc mà hiểu rõ Trung Quốc nghĩ gì và muốn gì.




------------------------------------------------------------------
1. Trích sách Các văn kiện của Lầu Năm Góc về lịch sử bí mật cuộc chiến tranh ở Việt Nam do Thời báo Niu Oóc in thành sách và phát hành trong tháng 7/1971. Thông tấn xã Việt Nam dịch, phát hành năm 1971. Chương 1 đề “Những năm dưới thời Truman và Eisenhower 1945-1960”.

2. Hai tuần trước khi ký Hiệp định Giơnevơ, ngày 07/7/1954, Mỹ đã đưa Ngô Đình Diệm từ Mỹ về thành lập chính phủ bù nhìn (công cụ tay sai của Mỹ). Ngô Đình Diệm là một tên đầu sỏ phong kiến, đã từng làm tay sai cho đế quốc Pháp và đế quốc Nhật, được Mỹ nuôi dạy từ tháng 11/1951 ở trường thần học tiểu bang Niudali, dưới sự bảo trợ của Giáo sư Spenman.

3. Các văn kiện của Lâu Năm Góc về lịch sử bí mật cuộc chiến tranh ở Việt Nam, Sđd, Chương I.

4. Hồi ký của E.G. Lansdale do Nhà xuất bản Harper of Now (Mỹ) phát hành năm 1972, nhan đề In the Midst of Wars, Chương I.

5. Những từ chính Landsdale dùng trong hồi ký của y, đã nói ở phần trên, khi huấn luyện và chỉ đạo công tác của Phòng 5 Bộ Tổng Tham mưu ngụy năm 1954.
Logged
hoi_ls
Thượng tá
*
Bài viết: 4890



« Trả lời #32 vào lúc: 19 Tháng Ba, 2023, 06:33:49 am »

*
*      *


   Các dân tộc thuộc ba nước Đông Dương mà lịch sử đấu tranh hàng trăm năm đã từng gắn bó với nhau trong tình láng giềng hữu nghị, hiện đang đứng trước nguy cơ làm những con tốt đen trên bàn cờ quốc tế. Đế quốc Pháp thất bại nặng nề nhưng vẫn tiếc rẻ con mồi thuộc địa không muốn thả ra, còn muốn dùng thủ đoạn khác để ở lại. Đế quốc Mỹ với tinh thần chống cộng điên cuồng, muốn dập tắt phong trào cách mạng giành độc lập của các dân tộc, muốn dùng Đông Dương làm lá chắn chiến lược chặn đứng ảnh hưởng của chủ nghĩa xã hội. Không buộc được Pháp trụ vững ở Đông Dương, Mỹ muốn tự mình nhảy vào, biến Đông Dương làm đầu cầu chiến lược trên đất liền châu Á, để nô dịch các dân tộc. Đi đôi với dùng biện pháp quân sự, Mỹ ra sức dùng biện pháp ngoại giao gây sức ép và ve vãn hòng làm cho Liên Xô và Trung Quốc không tích cực ủng hộ Việt Nam, đồng thời lôi kéo nhiều nước khác cùng Mỹ góp tiền và máu thực hiện tội ác xâm lược. Ba nước Đông Dương có vị trí chiến lược quan trọng về nhiều mặt ở vùng Đông Nam Á và Thái Bình Dương, đang trở thành sân khấu diễn biến các mưu đồ đen tối dồn dập của các cường quốc và chư hầu của họ. Nhưng nhân dân Việt Nam, một nước nhỏ, nghèo mà không hèn yếu, đã có truyền thống đấu tranh bất khuất hàng nghìn năm, được lãnh tụ kính yêu là Chủ tịch Hồ Chí Minh cùng Đảng cách mạng chân chính lãnh đạo vững vàng, đoàn kết chiến đấu cùng các dân tộc anh em Lào, Campuchia “thà chết chứ không chịu làm nô lệ”, được bạn bè khắp năm châu giúp đỡ cổ vũ đã quyết tâm bảo vệ nền độc lập, tự do của mình đến cùng.

   Trong bối cảnh lịch sử vô cùng phức tạp, cuộc đấu tranh vì độc lập, tự do, vì chủ nghĩa xã hội của các dân tộc trên bán đảo Đông Dương, đặc biệt là Việt Nam cũng vô cùng phức tạp và lâu dài.

   Ai có ngờ đâu bầu trời hầu như hửng sáng của mùa thu năm 1954 ở ba nước Đông Dương lúc ấy lại sắp sửa vẩn đục hơn lên vì khói lửa của chiến tranh tàn khốc, tàn khốc gấp nhiều lần chín năm đã qua.
Logged
hoi_ls
Thượng tá
*
Bài viết: 4890



« Trả lời #33 vào lúc: 19 Tháng Ba, 2023, 06:42:16 am »

CHƯƠNG I
Đi và ở


    Đồng Tháp Mười trong những ngày tháng 9, tháng 10 cuối mùa mưa, nước ngập mênh mông tràn đầy sông rạch. Những trận mưa như trút nước vào buổi chiều hạ thấp vòm trời u ám. Ngược lại những buổi sáng trời cao xanh, nắng rọi dòng kênh thẳng tắp, cây cối tươi mát của làng mạc tiếp nối nhau vẽ nên một cảnh đồng quê êm đềm bát ngát. Cảnh vậy buồn hay vui? Nào ai đã xác minh được dứt khoát. Có lẽ lẫn lộn vừa buồn lại vừa vui, có phiền lo, cũng có phấn khởi của lòng người rộn ràng phức tạp đầy mâu thuẫn vào những tháng ngày lịch sử ấy của năm 1954 mà kẻ đi xây dựng tương lai và người ở đấu tranh cho hòa bình thống nhất.

    Từ giữa tháng 8/1954, chiến trường đã im tiếng súng khi lệnh ngừng bắn theo Hiệp định Giơnevơ quy định đã có hiệu lực. Thật là tuyệt diệu, kỷ luật tự giác của những người cách mạng. Khắp rừng sâu, bưng lầy hẻo lánh, khắp làng mạc phố phường, từng chiến sĩ du kích, từng đơn vị vũ trang lớn, nhỏ đang thừa thắng xông lên diệt địch, khí thế bừng bừng sông núi, tiếng kèn xung trận vang lừng; có đêm hạ hàng tá đồn bót giặc, có ngày diệt và rã đến hai ba tiểu đoàn địch; vùng giải phóng mở rộng thênh thang, cờ đỏ sao vàng Việt Minh tung bay tứ phía; nhân dân vui mừng nô nức đi dân công tiếp tế, các má, các chị đi úy lạo bộ đội và săn sóc thương binh; quân địch thì khiếp vía kinh hồn, bị diệt ít mà chạy và rã nhiều. Nhưng đúng ngày giờ quy định ngừng bắn thì chiến trận mọi nơi ngừng hẳn. Bầu trời bỗng nhiên êm ả lạ lùng. Người trong cuộc như vừa tỉnh một giấc mơ, như ngỡ ngàng trước cảnh thanh bình vụt đến khiến ta chưa kịp nghĩ rồi đây cuộc sống sẽ thế nào, trong lúc tâm tư người chiến sĩ còn đang hướng tới những chiến thắng đang chờ họ. Không, sao lại ngừng tấn công nhỉ? Ta đang thắng lợi kia mà? Sức ta còn đủ để nỗ lực thừa thắng xông lên giải phóng hoàn toàn Tổ quốc thân yêu. Thời cơ này hết sức thuận lợi sao ta không nắm lấy mà ngừng lại nửa chừng? Và vì sao lại vĩ tuyến 17 mà không 13 hay ít hơn 16? Mừng vui thật sự vì hòa bình đang đến. Đất nước rồi đây độc lập, dân ta tự do xây dựng hạnh phúc lâu dài. Nhưng ấm ức trong lòng ta bị thiệt thòi, kết quả đạt được của Hiệp nghị Giơnevơ chưa tương xứng với thắng lợi của ta! Nhưng niềm tin tưởng to lớn vào Đảng, Bác Hồ đã giúp chúng ta tự giải đáp. Chẳng qua ta chưa hiểu hết ngọn nguồn, phải đâu chỉ có chiến trường ta mà còn tình hình cả nước và tình hình quốc tế vô cùng phức tạp nữa chứ.

   Thế là những ngày tháng 8 còn lại, rộn rịp hành quân từ mọi ngả tập trung về các khu được Hiệp định quy định để rồi tập kết ra miền Bắc: Chiến trường Nam Bộ có khu 80 ngày Hàm Tân - Xuyên Mộc, khu 100 ngày Đồng Tháp Mười và khu 200 ngày Cà Mau.

   Tôi đã cùng một số lực lượng vũ trang ra đi tập kết từ khu Đồng Tháp Mười tại bến Cao Lãnh. Nam Bộ vào thời kỳ cuối cuộc chiến tranh chống Pháp ta chia làm hai phân liên khu: miền Đông và miền Tây. Các lực lượng từ các tỉnh Biên Hòa, Bà Rịa và một phần của Thủ Dầu Một hành quân về Hàm Tân - Xuyên Mộc và xuống tàu từ đây ra Bắc. Số lực lượng còn lại từ Thủ Dầu Một, Tây Ninh đến Chợ Lớn, Tân An, Gò Công, Mỹ Tho, Long Châu Sa thì về Đồng Tháp Mười để xuống tàu ở bến Cao Lãnh. Các tỉnh thuộc Phân liên khu miền Tây đi tập kết tại bến Cà Mau.

   Các đồng chí trong Đảng ủy và Bộ Tư lệnh Phân liên khu miền Đông Nam Bộ được Trung ương và Trung ương Cục chỉ định mỗi người phụ trách một công việc: anh Phạm Hùng - Ủy viên Trung ương Đảng, Bí thư, Chính ủy Phân liên khu miền Đông, người nhiều tuổi nhất trong chúng tôi và đã từng lãnh hai án tử hình một lúc của thực dân Pháp trước đây vì đã dám làm cách mạng chống Tây (nhưng chưa kịp thi hành), cùng anh Nguyễn Văn Vịnh - Phó Tư lệnh, đảm nhận Trưởng và Phó Tiểu ban Liên hợp lãnh thổ phía Nam đóng ở Phụng Hiệp (Cần Thơ), sau dời về Sài Gòn - Gia Định. Anh Hoàng Dư Khương (Hoàng Xang) - Phó Bí thư Đảng ủy thì lãnh đạo các bộ phận ở lại và phong trào quần chúng đấu tranh thi hành Hiệp nghị. Còn tôi - Tư lệnh, thì phụ trách tổ chức và chỉ huy các lực lượng vũ trang tập kết ra miền Bắc. Chúng tôi chia tay nhau hết sức cảm động tại khu rừng căn cứ Dương Minh Châu phía bắc Tây Ninh. Không phải cảnh mưa dầm lê thê cuối mùa trong những ngày ấy làm nẫu lòng người mà chính lòng người, tình đồng chí thân yêu, vui buồn lẫn lộn trong cảnh chia tay bắt buộc, đã khiến cảnh trời có phần u ám. Nào ai đã học hết chữ ngờ. Trong lúc tạm xa nhau vì công việc sau bao ngày chung sống và chiến đấu gian khổ gay go trong chiến tranh, chúng tôi đâu có hình dung được mỗi người rồi đây gặp riêng một cảnh ngộ rất khác nhau. Có bao giờ lại nghĩ đến tương lai của riêng mình trong những ngày tháng ấy. Tương lai của mỗi người gắn chặt với tương lai của đất nước và dân tộc với nhiệm vụ của Đảng giao phải hoàn thành một cách xuất sắc nhất, không mảy may suy tính.

    Hôm nay chia tay để ngày mai gặp lại trong cảnh huy hoàng của Tổ quốc thân yêu, chỉ có lòng tin sắt đá ấy mới gạt mọi ưu tư.

    Anh Phạm Hùng và tôi may mắn hơn, lại được cùng công tác chung trong Trung ương Cục và Bộ Tư lệnh Miền những năm đánh Mỹ cho đến thắng lợi hoàn toàn. Anh Hoàng Dư Khương ở lại miền Nam trong Xứ ủy Nam Bộ. Nhưng một thời gian không lâu anh đã bị địch ngang ngược bắt đày đi Côn Đảo suốt 19 năm trời và vì cương cường bất khuất nên giặc đã nhốt anh nhiều năm trong “chuồng cọp”  1. Năm 1974, thấy anh đã tàn tạ, không còn ra ngoài nữa, địch mới thả anh ra giữa Sài Gòn với âm mưu để rồi bí mật thủ tiêu cho êm thấm. Nhưng nhanh tay hơn, chúng tôi đã tổ chức đón anh về căn cứ và thật là mừng mừng tủi tủi khi gặp lại nhau, cùng sống bên nhau một số thời trước xa xôi rồi, ngỡ ngàng trước thời cuộc, lạ lùng trước mọi sự việc. 19 năm hay gần 7.000 ngày bị giam cầm ở Côn Đảo rồi còn gì, cách biệt mịt mù với cuộc sống và đấu tranh diễn ra quyết liệt và nhanh chóng lạ thường. Tình đồng chí của chúng tôi càng thắm thiết và có lẽ đây là những ngày tôi rất sung sướng được vỗ về an ủi, chăm lo từng miếng ăn, viên thuốc cho những người bạn cùng chí hướng từ những ngày khổ cực xa xưa và có lẽ anh cũng được sung sướng nhiều trong sự săn sóc trìu mến của đồng chí giữa bầu trời tự do, nhìn rõ cảnh thắng lợi đi lên chắc chắn của cách mạng.

    Sau những ngày được Đảng săn sóc tận tình ở Hà Nội, anh trở về miền Nam khi hoàn toàn giải phóng, lấy bệnh viện làm nhà, bác sĩ và y tá làm gia đình thân thuộc trong những ngày cuối đời, thay thế cho vợ con đều đã hy sinh trong thời kỳ kháng chiến...

    Cũng cần nói thêm, vợ anh chúng tôi thường gọi là chị sáu Kim Nguyên, là một đảng viên cộng sản đấu tranh kiên cường trong cả hai cuộc chiến tranh. Chị đã dũng cảm chịu đựng mọi cực hình tra tấn dã man khi bị địch bắt, không hé răng để giữ vẹn toàn bí mật và tổ chức của Đảng. Chị đã từ giã cõi đời do vết thương tra tấn tàn bạo của Mỹ - Diệm trong lúc anh đang quằn quại trong chuồng cọp Côn Đảo. Vinh quang thay cuộc đời của một chiến sĩ, vẻ vang thay sự hy sinh dâng hiến của cả một gia đình cách mạng cho sự nghiệp Tổ quốc, cho hạnh phúc của toàn dân.

    Còn anh Nguyễn Văn Vịnh, sau khi hết nhiệm kỳ ở Tiểu ban Liên hiệp quân sự một thời gian, anh được bổ nhiệm Thứ trưởng Bộ Quốc phòng nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa với quân hàm Trung tướng, được bầu vào Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa III và làm Chủ nhiệm Ủy ban Thống nhất của Chính phủ ở Hà Nội, theo dõi và bảo đảm cho cuộc đấu tranh của nhân dân miền Nam...




-----------------------------------------------------------------
1. Chuồng cọp: Là một loại buồng giam chật hẹp dưới hầm tối âm u ở Côn Đảo. Mỹ đã cố vấn cho ngụy tiếp tục “truyền thống” của thực dân Pháp mở rộng và củng cố khu giam cầm địa ngục này. Chuồng cọp để giam những người mà địch cho là nguy hiểm nhất, cứng đầu nhất nhằm làm cho người bị giam ngày một tàn tạ cả sức khỏe và trí tuệ tâm hồn, nếu có ra khỏi tù cũng thành một người không còn có tác dụng gì cho xã hội nữa.
Logged
hoi_ls
Thượng tá
*
Bài viết: 4890



« Trả lời #34 vào lúc: 19 Tháng Ba, 2023, 06:46:20 am »

*
*      *

    Sau khi ngừng bắn có hiệu lực, các cuộc chuyển quân rộn rịp tiến hành thường xuyên qua nhiều làng mạc suốt trong những ngày tháng 8. Có những đơn vị từ căn cứ Long Nguyên, Bến Cát, từ Hố Bò, An Nhơn Tây, Dương Minh Châu ở miền Đông Nam Bộ rầm rầm rộ rộ kéo ngang gần thị xã Tây Ninh, thị trấn Gò Dầu, Đức Hòa để về Đồng Tháp. Có đơn vị từ rừng Gia Thuận, từ Bình Ninh, An Thạnh Thủy, Gò Công từ rừng Thạnh Phú vượt sông, vượt lộ hiên ngang diễu qua cạnh thị xã Mỹ Tho, thị trấn Cai Lậy để về Cao Lãnh. Rồi từ Mộc Hóa, Đức Huệ, từ Hồng Ngự, Lai Vung tiến về Mỹ Trà, Mỹ Ngãi. Thật là đội ngũ chỉnh tề rầm rập bước chân chiến thắng. Ở các vùng yếu, vùng sâu, ở thị xã, thị trấn lớn, đồng bào lâu nay dễ gì công khai gặp được anh Vệ quốc, có chăng chỉ là tưởng tượng ra những người khổng lồ, oai phong lẫm liệt, đánh ngã một lúc hàng loạt tên lính Pháp to con, sau khi nghe được trận chiến thắng của ta. Hay khó hình dung nổi khi địch tuyên truyền rằng lính Việt Minh “bảy người đeo cọng đu đủ không gãy”. Giờ đây các ông già, các bà, các chị đặc biệt là các cô nữ sinh thành thị, các em thiếu niên, từ trong vườn nhà hay kéo nhau ra một góc đường phố nhìn bộ đội Cụ Hồ hành quân ngang qua: “Ồ! Đủ cả súng nhỏ súng to, có đạn gì mà hai người khiêng cũng còn có vẻ nặng. Mà anh em khỏe quá, đẹp quá, người nào cũng tươi vui, hành quân mà như trẩy hội”. Nhưng bà con không thể biết hết được cái đẹp cao quý từ bên trong của mỗi một con người. Anh chiến sĩ Vệ quốc đoàn, người lính của Bác Hồ, mới hôm qua còn hăng say rượt giặc đầy khí phách “bầu trời xông thẳng, chín tầng chửa thấy là cao” (Cao Bá Quát) mà hôm nay được lệnh tập trung đã lưng quảy nóp  1, súng ngang vai về nơi quy định.

    Mới hôm qua vừa ngừng tiếng súng anh đã mơ về xóm ấp quê hương: Mẹ già bao năm xa cách hẳn đang mong đợi bên rào bông bụt, hay anh chị, bà con láng giềng đang ngóng ở rặng trâm bầu đầu làng. Người Việt Nam nào lại không gắn bó tình cảm của mình với bà con làng mạc, một mảnh cụ thể của Tổ quốc bao la, vì tình cảm ấy mà quyết tâm ra đi chiến đấu đến thắng lợi rồi thì được lệnh chuyển quân tập kết về miền Bắc xa xôi, cách trở cả nghìn cây số. Đành rằng miền Bắc, miền Nam vẫn là Tổ quốc của ta, vì Tổ quốc thống nhất ấy mà ta sẵn sàng hy sinh cả tính mệnh. Nhưng bụi trúc, bờ tre, con kênh, cụm chuối, mẹ già, vợ trẻ, cô bác bên nhà, em trai, cháu gái vẫn là hình ảnh sao mà thân thương, sao mà bịn rịn. Đi hay ở? Lòng anh chiến sĩ thật bâng khuâng xao xuyến. Có đêm nào trong những đêm đang chiến đấu mà nằm trăn trở suốt năm canh vì chuyện ở hay đi như những đêm này. Đi hay ở? Đi để học tập huấn luyện, xây dựng một quân đội hùng mạnh cho đất nước sau này - ta đã được hoàn toàn giải phóng đâu. Đi để xây dựng miền Bắc yêu thương, nửa nước đầu tiên được độc lập, công lao xương máu của mọi người, nhất là những người đã ngã xuống. Đi còn được biết Thủ đô, còn được gặp Bác Hồ - Người cha thân yêu của cả dân tộc, mà từ lâu mơ ước trông chờ. Nhưng ở cũng phải đâu là ngừng, nghỉ. Quân thù đâu phải là người có tín, nghĩa. Chúng có trăm phương nghìn kế để không chịu thi hành hiệp nghị thì sao? Ai mà tin được bọn đã từng đi cướp nước và bán nước. Phải ở thôi, ở cùng bà con đấu tranh hoàn thành cuộc cách mạng giải phóng buộc chúng thi hành hiệp nghị cho nước non về một mối, Nam - Bắc một nhà. Lý lẽ này thật hấp dẫn, xử sự như vậy ắt là hợp lý hợp tình...

    Không biết bao nhiêu những khó khăn giằng xé tim gan, nát lòng, nát ruột trong đi và ở. Mẹ già ở lại côi cút, con trẻ ra đi. Chồng thì tập kết mà vợ thì mới cưới vài ngày, vài tuần, vài tháng thì ở lại, hoặc ngược lại người cha thì ở lại mà mẹ và con bồng bế xuống tàu. Biết bao gia đình chia năm xẻ bảy. Vợ chồng nhà văn Lưu Quý Kỳ đi tập kết nhưng mẹ già bắt phải để hai con nhỏ lại để bà nuôi. Trong bài viết “Trên tàu tập kết”, nhà văn đã kể lại lời bà khăng khăng: “Tao già rồi tao không muốn sống đơn chiếc. Con Hai bỏ nhà đi theo kháng chiến tám, chín năm trời. Bây giờ ta đánh Tây thắng lợi rồi, chúng bây ra Bắc có đôi, có anh em bạn bè, có Cụ Hồ, có Chánh phủ mình... chúng bay phải để hai đứa nhỏ ở lại với tao cho khuây khỏa tuổi già. Hai năm nữa chúng bay về..”  2.




-------------------------------------------------------------------
1. Nóp: Là một đồ dùng của dân nghèo và chiến sĩ Vệ quốc vùng đồng bằng sông Cửu Long trước đây, đan thủ công bằng cọng bàng giã dẹt phơi khô. Cây bàng mọc nhiều ở vùng sâu vùng trũng Đồng Tháp Mười. Nóp dùng làm chiếu trải nằm, dùng làm mùng ngủ chống muỗi, làm mền chống lạnh. Bộ đội hành quân thời chống Pháp gói quần áo vào trong nóp mang trên vai thay cho ba lô. Trong chiến trận nóp là bệ tì của súng để bắn. Khi đóng quân nóp là bàn kê để chép bài học hay viết thư về nhà, cho người yêu mong đợi. Như vậy chỉ một chiếc nóp thôi, anh chiến sĩ Vệ quốc đoàn đã thay thế được nhiều: mùng, mền, ba lô, bàn, bệ... Vừa giản tiện vừa nhẹ nhàng lại rẻ tiền mà ai cũng có thể sắm. Chiếc nóp trở thành vật bất ly thân, là gia tài trên lưng của người chiến sĩ Vệ quốc nghèo mà dũng cảm chịu đựng mọi khó khăn.

                                    “Chiều hôm em đứng giã bàng,
                              Thương anh quảy nóp trong hàng quân đi”.

    Chưa hết, chiếc nóp còn thủy chung theo người chiến sĩ đến cùng vào tận lòng đất: Khi chiến sĩ ngã xuống, đồng đội sẽ dùng nó làm quan tài, khâm liệm thi hài chôn cất ở nơi nào đó của đất nước thân yêu.

2. Bài “Trên tàu tập kết” của Lưu Quý Kỳ in trong sách Nước về biển cả, Nxb. Thanh niên, Hà Nội, 1975.
Logged
hoi_ls
Thượng tá
*
Bài viết: 4890



« Trả lời #35 vào lúc: 19 Tháng Ba, 2023, 06:50:30 am »

    Những chuyện như vậy là phổ biến. Không phải chỉ phổ biến với những người miền Nam tập kết mà có lẽ cả với những người miền Bắc bị dụ dỗ và lừa gạt vào Nam. Vì vậy mà “hai năm” đã trở thành nỗi mong chờ của hàng triệu trái tim Việt Nam thời ấy. Kẻ nào đi ngược lại ước vọng lớn lao và thiêng liêng ấy, kẻ đó nhất định sẽ bị thất bại là tất yếu rồi.

    Nhưng rồi tất cả đều phải ngã ngũ dứt khoát. Cứ nghe theo Bác Hồ, tuân lệnh của Đảng là đúng. Cấp trên đã phổ biến cặn kẽ kế hoạch ai đi, ai ở. Đi hay ở không còn chỉ có cái nghĩa thông thường là ở lại và ra đi. Nó là nhiệm vụ thiêng liêng được giao cho mỗi cán bộ, chiến sĩ. Ta đã ký Hiệp định Giơnevơ, ta làm đúng theo quy định: Bộ đội chiến sĩ phải đi tập kết, người kháng chiến khác ở lại sống như dân thường dù người ấy là đảng viên hay đoàn viên nông hội. Ta sẽ gặp lại sum vầy sau hai năm, sau tổng tuyển cử. Gần chín năm trời xa nhà đi chiến đấu còn được thì hai năm đâu có sá gì. Thế là người đi kẻ ở đều đã xác định thái độ và đều tin tưởng mãnh liệt vào sự thắng lợi cuối cùng của cách mạng, vào sự sum họp của gia đình gắn liền với thống nhất Tổ quốc sau hai năm. Hai năm không còn chỉ là cái mốc thời gian đơn giản, mà đã trở thành niềm tin và lẽ sống: Cách mạng nhất định sẽ thành công, non sông sẽ liền một dải, gia đình nhất định phải đoàn tụ, đất nước phải độc lập tự do...

    Thế là khắp các làng xã thuộc huyện Cao Lãnh, nhà cửa dọc các sông rạch từ Mỹ An, Ba Sao ra Hòa An, Cao Lãnh, từ Phong Mỹ về An Bình, Mỹ Tho, đâu đâu cũng có “bộ đội của mình” đóng. Và nữa, có phải chỉ có bộ đội hành quân tập kết đâu. Đồng bào từ khắp chốn, từ những làng mạc xa xôi, từ các thị xã, thị trấn, cả ở Sài Gòn xuống và Cần Thơ lên cùng kéo về Đồng Tháp Mười, về Cao Lãnh hoặc về Cà Mau để tìm đứa con, người em, người cháu đã ra đi từ ngày nảo ngày nào, và giờ đây lại sắp đi xa. Còn các má chiến sĩ nữa, các má cũng đổ về Đồng Tháp Mười để tiễn các con đi bộ đội ra Thủ đô, đi gặp Cụ Hồ. Các má khi nào cũng vững niềm tin, giữ trọn nghĩa tình chung thủy và muốn gửi gắm ở những đứa con chiến sĩ ra đi nỗi niềm non nước. Các má còn gửi cho con đưa ra dâng cho Bác Hồ, Trung ương Đảng “nắm đất miền Nam”. Đất này là mồ hôi nước mắt của bao đời ông cha khai phá, là máu xương của nhiều lớp chiến sĩ quyết tâm bảo vệ đến cùng. Đất này là của những trái tim và khối óc Việt Nam, con Hồng cháu Lạc sinh ra cùng một bọc, và ngày nay có chung một Cụ Hồ. “Nước Việt Nam là một, dân tộc Việt Nam là một”; “Sông có thể cạn, núi có thể mòn, song chân lý đó không bao giờ thay đổi”.

    Lời Bác nói là tiếng vọng của non sông ngàn đời không tắt.

    Thôi thì tấp nập đường bộ, đường sông, bến xe nào cũng đông đặc, xe hàng nào cũng chật ních người. Các kênh, các rạch dập dìu thuyền nhỏ, thuyền to. Mang theo người cũng đủ thứ của ngon vật lạ, sản phẩm địa phương, món quà quê hương gây thương gây nhớ. Từ những trái bom 1 trân trọng gói từng trái bằng giấy mỏng, bình trà “Lý Thông Tích”, thuốc lá “Côtáp”, “Mêliaa” đỏ, trắng, vàng của người Sài Gòn, tới vài trăm con gà, con vịt, rổ bánh xèo, nồi canh chua cá lóc, ơ tép rang với niêu cơm nếp của bà má nghèo ở Hậu Thạch trên kênh Dương Văn Dương. Và những trái bầu dài, bí rợ hai da tận miền biển Vàm Láng, Cây Khô, tĩn nước mắm ngon, con cá đỏ của chị em Chợ Cũ - Mỹ Tho, trái dưa hấu đầu mùa xanh vỏ đỏ lòng của bà con Long Toàn, Long Vĩnh - Trà Vinh. Nhiều nhất vẫn là gạo dẻo nếp thơm, gạo nàng hương Chợ Đào, gạo nanh chồn Gò Công, những quả dừa xiêm ngọt nước cùng các thứ bánh kẹo, rồi thuốc giồng Thủ Đức, xim mẫn Cao Lãnh và xen vào đấy còn có những tá khăn thêu “tặng anh Vệ quốc đoàn Chiến khu 8” của các em nữ sinh Trường Côle Mỹ Tho nữa chứ. Tất cả là tình cảm tràn đầy, là tấm lòng chất chứa, có thủy, có chung, tình quân dân thắm thiết của kẻ ở gửi gắm người đi, và người đi nhắn nhủ người ở lại. Hai ngón tay giơ lên với cặp mắt long lanh hứa hẹn, thế thôi, không cần một lời nào, khi gặp nhau trên đường đi, khi chia tay sau một đêm liên hoan hay một cuộc míttinh quần chúng. Không ai bảo ai, mà “hai năm” đã thành khẩu hiệu hành động, đã là lời thề sắt đá.

    Cảm động nhất, gắn bó nhất là đám cưới tập thể diễn ra ngay tại Cao Lãnh trong ngày tháng 10 năm ấy. Những cô gái quê Gò Công, nơi “đám lá tối trời” của Trương Định, đã được các má dẫn lên tận nơi tập trung quân của Tiểu đoàn 309 để làm lễ cưới cùng các chiến sĩ của tiểu đoàn, trước khi các con đi tập kết  2. “Các con liệu mà trọn niềm chung thủy, sau hai năm về đây, các má sẽ giao lại tụi nó vẹn toàn”, các má đã bảo đảm như vậy.

    Thị trấn Cao Lãnh những ngày ấy thật tấp nập rộn ràng. Tình gia đình, tình quân dân, tình bè bạn dạt dào, sâu đậm. Cán bộ chiến sĩ trước khi về Bắc muốn lưu lại cái gì đối với địa phương thân yêu: Sửa lại các ngôi nhà cho đồng bào, dựng một mái trường cho các em nhỏ, bắc cầu, sửa đường... nghĩa là cái gì có ích cho dân là làm. Vì cũng không thể quên những đồng đội đã ngã xuống giờ đây hẳn cũng mỉm cười nơi chín suối. Họ cố xây nên một đài liệt sĩ “Tổ quốc ghi công” để nhớ ơn người đã hy sinh vì nghĩa cả. Nghĩ đến Bác Hồ vĩ đại, họ đã ra công xây lại ngôi mộ của cụ Phó bảng Nguyễn Sinh Huy, người đã sinh ra một anh hùng dân tộc cho đất nước đứng lên.



------------------------------------------------------------------
1. Trái táo.

2. Tiểu đoàn 309 đã hoạt động một thời gian ở Gò Công cho đến khi ngừng bắn chuyển quân tập kết. Trai anh hùng, gái thuyền quyên đã cùng nhau hứa hẹn, nhưng đột nhiên ngừng bắn chuyển quân. Sáng kiến của các má chiến sĩ là làm lễ cưới cho chúng nó để chúng nó không bao giờ quên mảnh đất truyền thống này, sau hai năm hãy trở về sum họp.

Logged
Trang: « 1 2 3 4   Lên
  In  
 
Chuyển tới:  

Powered by MySQL Powered by PHP Powered by SMF 1.1.21 | SMF © 2006-2008, Simple Machines

Valid XHTML 1.0! Valid CSS! Dilber MC Theme by HarzeM