Lịch sử Quân sự Việt Nam
Tin tức: Lịch sử quân sự Việt Nam
 
*
Chào Khách. Bạn có thể đăng nhập hoặc đăng ký. 20 Tháng Tư, 2024, 05:59:55 am


Đăng nhập với Tên truy nhập, Mật khẩu và thời gian tự động thoát


Trang: « 1 2 3 4 5 »   Xuống
  In  
Tác giả Chủ đề: Góp phần chống diễn biến hòa bình trong lĩnh vực Quân sự Quốc phòng  (Đọc 1895 lần)
0 Thành viên và 1 Khách đang xem chủ đề.
saoden
Thành viên
*
Bài viết: 1075



« Trả lời #10 vào lúc: 10 Tháng Chín, 2022, 09:22:33 pm »

TƯ DUY CỦA ĐẢNG VỀ PHƯƠNG THỨC ĐẤU TRANH
BẢO VỆ TỔ QUỐC TRONG THỜI KỲ ĐỔI MỚI


Trong thời kỳ đổi mới, hòa bình xây dựng đất nước, bàn về phương thức đấu tranh bảo vệ Tổ quốc không phải không có nhận thức còn cho rằng, hiện nay nói đến đấu tranh, đặc biệt là đấu tranh vũ trang là chúng ta "vẫn theo tư duy cũ" như thời kỳ chống xâm lược, là không phù hợp, không thích ứng với tình hình, mà cần phải động viên mọi người hăng say lao động, phát triển kinh tế, làm cho đất nước giàu mạnh. Do đó, quân đội không có việc gì phải làm, cần phải "giảm lương" và "giảm biên chế" quân đội mạnh mẽ hơn! Nhận thức không đúng này về phương thức đấu tranh bảo vệ Tổ quốc là sự biểu hiện của tư tưởng "hòa bình chủ nghĩa", không thấy hết tính chất quyết liệt và phức tạp của cuộc đấu tranh giai cấp, đấu tranh dân tộc, không thấy được tầm quan trọng của nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc trong thời kỳ mới. Nhận thức đó lại được "hỗ trợ" bởi tư tưởng cần phải "chuyên nghiệp hóa" quân đội một cách khẩn trương và tư tưởng làm giàu bằng mọi giá trong điều kiện kinh tế thị trường, làm cho nó càng trở nên phức tạp và nguy hiểm.


Trong quá trình đổi mới, trên cơ sở nhận thức đúng đắn mục tiêu, nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa, Đảng ta đã có những phát triển mới trong tư duy về phương thức đấu tranh bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa. Đảng ta đã nhận thức đúng đắn và sử dụng tổng hợp các phương thức đấu tranh vũ trang và phi vũ trang; kết hợp chặt chẽ các phương thức đấu tranh ấy; làm phong phú các hình thức đấu tranh phi vũ trang bảo vệ Tổ quốc; kết hợp bảo vệ với xây dựng, lấy xây dựng để bảo vệ, coi xây dựng là một phương thức hữu hiệu để bảo vệ. Tư duy của Đảng không những đã khắc phục một cách căn bản những nhận thức không đúng, những quan điểm lệch lạc, sai trái, mà còn luận chứng sáng rõ nhiều vấn đề mới về phương thức đấu tranh bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa trong thời kỳ mới.


Trong Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội năm 1991, tư tưởng về phương thức đấu tranh bảo vệ Tổ quốc được biểu hiện trong các nội dung về nhiệm vụ quốc phòng, an ninh, bảo vệ Tổ quốc. Tại Đại hội VIII, Đảng ta nêu vấn đề: "Xây dựng vững chắc thế trận quốc phòng toàn dân kết hợp chặt chẽ với thế trận an ninh nhân dân; quán triệt tư tưởng cách mạng tiến công, tích cực, chủ động, sẵn sàng đánh bại mọi âm mưu và hoạt động chống phá ta"1 (Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1996, tr.119).


Tại Đại hội IX của Đảng, đặc biệt trong Nghị quyết Hội nghị lần thứ tám Ban Chấp hành Trung ương khóa IX về Chiến lược bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới, phương thức đấu tranh bảo vệ Tổ quốc được Đảng ta nhìn nhận một cách đầy đủ và cụ thể hơn.


Báo cáo Tổng kết một sốvấn đề lý luận - thực tiễn qua 20 năm đổi mới (1986 - 2006) của Đảng chỉ rõ: "Kết hợp chặt chẽ đấu tranh vũ trang và phi vũ trang, kết hợp bảo vệ với xây dựng, lấy xây dựng để bảo vệ"1 (Báo cáo Tổng kết một số vấn đề lý luận - thực tiễn qua 20 năm đổi mới (1986 - 2006), Sđd, tr.100).


Đây là nhận thức đúng đắn và phù hợp với tình hình thực tiễn, cũng như yêu cầu của sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc trong điều kiện mới, điều kiện hòa bình, hợp tác, phát triển, xây dựng đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa.


Phương thức đấu tranh vũ trang là "Hình thức đấu tranh giai cấp, đấu tranh dân tộc bằng sử dụng lực lượng vũ trang và biện pháp quân sự nhằm thực hiện mục đích chính trị nhất định, hình thức đặc trưng của chiến tranh, giữ vai trò quyết định trực tiếp trong việc tiêu diệt lực lượng quân sự của đối phương"2 (Từ điển Bách khoa quân sự Việt Nam, Nxb. Quân đội nhân dân, Hà Nội, 2004, tr.346), sử dụng lực lượng vũ trang và biện pháp quân sự là đặc trưng của phương thức đấu tranh vũ trang. Tuy nhiên, cần phải hiểu là việc sử dụng lực lượng vũ trang và biện pháp quân sự ấy trong mỗi thời điểm, mỗi giai đoạn khác nhau lại có sự khác nhau; điều đó đòi hỏi cần phải có sự nhận thức mới khi tình hình, nhiệm vụ có sự thay đổi.


Trong bối cảnh lịch sử mới, quan niệm về phương thức đấu tranh vũ trang ngoài ý nghĩa cơ bản, truyền thống nêu trên, nội hàm của nó đã được mở rộng hơn trên nền tảng của tư duy mới về bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa. Việc sử dụng lực lượng vũ trang và biện pháp quân sự trong điều kiện có chiến tranh, ngoài quan niệm chung, cần nhấn mạnh thêm trong điều kiện hiện nay, chiến tranh đối với nước ta nếu xảy ra sẽ là chiến tranh xâm lược của các thế lực đế quốc, hiếu chiến, phản động chống độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, với việc sử dụng vũ khí công nghệ cao. Trong điều kiện đó, phương thức đấu tranh vũ trang bảo vệ Tổ quốc có những nội dung đồng nhất với phương thức tiến hành chiến tranh; yêu cầu thực hiện phương thức đấu tranh này là phát huy sức mạnh tổng hợp, không bị cuốn theo cách đánh của đối phương, mà nhanh chóng "bắt" đối phương đánh theo cách đánh của mình, đánh bại ý chí xâm lược của kẻ thù.


Trong điều kiện hòa bình, vấn đề đấu tranh vũ trang phải tuân theo những yêu cầu, nội dung và hình thức mới, thích ứng với điều kiện hòa bình, đang tập trung cho nhiệm vụ phát triển kinh tế, xây dựng đất nước. Vấn đề xây dựng, nâng cao chất lượng tổng hợp và sức mạnh chiến đấu của các lực lượng vũ trang nhân dân, của quân đội nhân dân vẫn là yêu cầu quan trọng, không thể xem nhẹ. Trong tình hình mới, các hoạt động huấn luyện, sẵn sàng chiến đấu của quân đội, của lực lượng vũ trang; việc xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân, quân đội nhân dân cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại... nếu được đẩy mạnh, tăng cường, có chất lượng, đáp ứng tốt yêu cầu của sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc sẽ tạo cơ sở vững chắc cho sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc. Những đòi hỏi giảm chi phí cho quốc phòng, cho quân đội đẽn mức tối thiểu, xem nhẹ nhiệm vụ xây dựng quân đội là không thấy được tầm quan trọng của nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc và yêu cầu của việc thực hiện phương thức đấu tranh vũ trang bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới.
Logged
saoden
Thành viên
*
Bài viết: 1075



« Trả lời #11 vào lúc: 10 Tháng Chín, 2022, 09:23:31 pm »

Phương thức đấu tranh phi vũ trang ngày càng giữ vị trí quan trọng và được Đảng ta nhìn nhận một cách đầy đủ hơn trong quá trình đổi mới đất nước. Đấu tranh trên các lĩnh vực kinh tế, chính trị, tư tưởng, văn hóa là những nội dung và là phương thức đấu tranh quan trọng trong sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa. Vấn đề giữ vững ổn định chính trị - xã hội, môi trường hòa bình, ngăn chặn, đẩy lùi mọi nguy cơ chiến tranh, sẵn sàng đánh thắng chiến tranh xâm lược của kẻ thù trong mọi tình huống, với mọi quy mô và trình độ là nhiệm vụ quan trọng, đồng thời là nhiệm vụ trực tiếp của phương thức đấu tranh bảo vệ Tổ quốc trong điều kiện mới. Thực hiện phương thức đấu tranh phi vũ trang bảo vệ Tổ quốc đòi hỏi phải phát huy cao độ sức mạnh tổng hợp trong nước và quốc tế, của tất cả các lực lượng, trên tất cả các lĩnh vực, tạo nên sức mạnh tổng hợp lớn nhất cho sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc.


Phương thức đấu tranh phi vũ trang bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới có những hình thức, biện pháp mới và cách thức thể hiện mới. Đó là tổng thể các hình thức, biện pháp đấu tranh trên tất cả các lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, quốc phòng, an ninh và đối ngoại; nhưng là những biện pháp phi quân sự, phi vũ trang, trong đó đấu tranh trên lĩnh vực tư tưởng, lý luận, văn hóa, ngoại giao có tầm quan trọng đặc biệt, ngày càng trở thành mặt trận đấu tranh mũi nhọn, then chốt. Đấu tranh tư tưởng văn hóa và tính chất quan trọng của nó là một trong những nét đặc trưng cơ bản của phương thức đấu tranh phi vũ trang bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa trong tình hình mới. Yêu cầu quan trọng trong thực hiện phương thức này là phải kết hợp chặt chẽ giữa "xây" và "chống", lấy "xây" làm chính, "cổ vũ mạnh mẽ các nhân tố tích cực, tạo môi trường, nếp sống, lối sống lành mạnh có văn hóa; lấy cái tích cực, cái tốt đẩy lùi cái tiêu cực, cái xấu"1 (Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Hội nghị lần thứ năm Ban Chấp hành Trung ương khóa IX, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002, tr.138).


Lực lượng tham gia đấu tranh tư tưởng văn hóa không chỉ là những lực lượng trực tiếp làm công tác tư tưởng văn hóa, tuy lực lượng này đóng vai trò nòng cốt nhưng không phải là duy nhất, mà là lực lượng của toàn xã hội. Điều đó được quy định bởi tính chất toàn dân của sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa. Vai trò nòng cốt của lực lượng làm công tác tư tưởng văn hóa biểu hiện cụ thể trên hai vấn đề chính là: thứ nhất, là lực lượng trực tiếp, trực diện đấu tranh trên mặt trận tư tưởng văn hóa, chống các quan điểm thù địch, sai trái, làm thất bại âm mưu, thủ đoạn của các thế lực thù địch; thứ hai, là lực lượng định hướng tư tưởng, tổ chức toàn xã hội trong đấu tranh trên lĩnh vực tư tưởng văn hóa.


Trong đấu tranh phi vũ trang bảo vệ Tổ quốc, đấu tranh trên mặt trận tư tưởng văn hóa, quân đội có vai trò rất quan trọng. Sẽ là sai lầm cả về lý luận và thực tiễn nếu cho rằng quân đội, lực lượng vũ trang là những tổ chức quân sự, cho nên không có trách nhiệm, "không có vai trò" gì trong đấu tranh phi vũ trang, đãu tranh trên mặt trận tư tưởng văn hóa; rằng, đấu tranh trên mặt trận tư tưởng văn hóa không nằm trong phạm trù chức năng, nhiệm vụ của quân đội, quân đội là công cụ bạo lực nên đấu tranh vũ trang là chức năng, nhiệm vụ duy nhất! Đó là sự nhận thức không đúng, không đầy đủ, sai lệch về nội hàm của bạo lực cách mạng, về chức năng, nhiệm vụ của quân đội kiểu mới của giai cấp công nhân, không phản ánh đúng thực tiễn quá trình thực hiện chức năng, nhiệm vụ của Quân đội nhân dân Việt Nam, không thấy hết tầm quan trọng của đấu tranh phi vũ trang bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới.


Quân đội và lực lượng vũ trang tham gia đấu tranh trên lĩnh vực tư tưởng văn hóa là vấn đề hoàn toàn không hề mâu thuẫn, trái lại càng trở nên quan trọng và cần thiết hơn bao giờ hết trong điều kiện hiện nay. Quân đội với ưu thế, vai trò và chức năng, nhiệm vụ của mình phải trở thành một lực lượng hùng mạnh trong đấu tranh tư tưởng văn hóa, trong thực hiện phương thức đấu tranh phi vũ trang bảo vệ Tổ quốc. Với ưu thế là lực lượng có tổ chức thống nhất và chặt chẽ, quân đội không những phải có trách nhiệm tham gia mà điều quan trọng phải thực sự là lực lượng mạnh, là một lực lượng mũi nhọn trong đấu tranh trên lĩnh vực tư tưởng văn hóa. Để tham gia đấu tranh tư tưởng văn hóa có hiệu quả, quân đội cần nhận thức đầy đủ hơn vai trò, trách nhiệm của mình, nâng cao bản lĩnh, trình độ và khả năng đấu tranh; cần phải xây dựng lực lượng trực tiếp đấu tranh với sự tổ chức và chỉ đạo thống nhất, chặt chẽ; cần có cơ chế, chính sách khuyến khích, động viên và bảo vệ các tập thể và cá nhân trong đấu tranh trên lĩnh vực tư tưởng văn hóa.


Suốt thời kỳ đổi mới đất nước và hiện nay, các thế lực thù địch không ngừng xuyên tạc, bôi nhọ, công kích, phủ nhận chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối, quan điểm của Đảng, nhằm phá vỡ trận địa tư tưởng vô sản của chúng ta, tạo ra "khoảng trống" về tư tưởng, từ đó truyền bá tư tưởng phản động, tư sản vào xã hội và quân đội, gây hỗn loạn về nhận thức tư tưởng, làm cho quân đội mất phương hướng hành động, mơ hồ về mục tiêu, lý tưởng chiến đấu. Chúng cố tình lập luận: "Trong thời đại toàn cầu hóa, Việt Nam muốn là bạn với tất cả các nước, không phân biệt chế độ chính trị. Vì vậy, lực lượng vũ trang cần xem xét lại việc xác định kẻ thù"1 (Diễn biến hòa bình và đấu tranh chống diễn biến hòa binh, Sđd, tr.95).


Tình hình đó càng cho thấy tầm quan trọng của phương thức đấu tranh phi vũ trang, của cuộc đấu tranh trên mặt trận tư tưởng văn hóa và vai trò của quân đội trong thực hiện phương thức đấu tranh này trong tình hình mới.


Kết hợp đấu tranh vũ trang với đấu tranh phi vũ trang vừa là yêu cầu, nội dung vừa là tư tưởng, phương châm chỉ đạo của phương thức đấu tranh bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa trong tình hình mới. Sự kết hợp các phương thức đó không phải là vấn đề hoàn toàn mới. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng dẫn những tư tưởng quân sự của Tôn Tử để giáo dục, rèn luyện cán bộ, chiến sĩ quân đội: "Phải biết phối hợp mọi phương pháp ấy mới có thể đi tới thắng lợi hoàn toàn"1 (Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội, 2011, t.4, tr.283); phải "... biết sử dụng các hình thức đấu tranh cách mạng tuỳ theo tình hình cụ thể..."2 (Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.15, tr.396). Những quan điểm tách rời các phương thức đấu tranh, hoặc tuyệt đối hóa một phương thức đấu tranh nào đều là không đúng với tư tưởng Hồ Chí Minh và tư duy của Đảng ta về phương thức đấu tranh bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới.
Logged
saoden
Thành viên
*
Bài viết: 1075



« Trả lời #12 vào lúc: 10 Tháng Chín, 2022, 09:24:08 pm »

Tư duy của Đảng không tách rời phương thức đấu tranh vũ trang và đấu tranh phi vũ trang, cũng không tuyệt đối hóa một phương thức nào dù trong tình huống có chiến tranh hay trong điều kiện hòa bình. Tuyệt đối hóa một phương thức nào đó không chỉ làm cho phương thức đó trở nên kém hiệu quả, mà còn có thể dẫn đến những nguy hại cho sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc bởi tính chất phức tạp của việc sử dụng các phương thức đấu tranh trong tình hình mới. Các phương thức đấu tranh bảo vệ Tổ quốc đều có vị trí, vai trò quan trọng của mình; kết hợp chặt chẽ các phương thức đấu tranh ấy là yêu cầu và là phương châm chỉ đạo cơ bản của phương thức đấu tranh bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa trong tình hình mới.


Yêu cầu của việc kết hợp đấu tranh vũ trang với đấu tranh phi vũ trang là phải tạo nên được sức mạnh tổng hợp cao nhất, tạo sự tác động, hỗ trợ lẫn nhau tốt nhất nhằm phục vụ thắng lợi mục tiêu, nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa. Phạm vi và nội dung của sự kết hợp đó là toàn diện, thể hiện trong cả lĩnh vực quân sự và trong cả lĩnh vực phi quân sự, trong hoạt động quân sự và trong hoạt động dân sự, trong các lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, quốc phòng, an ninh, đối ngoại; bao gồm từ việc xác định mục tiêu, nhiệm vụ đấu tranh, hoạch định chiến lược, tổ chức lực lượng, xây dựng cơ chế phối hợp... đến việc thực hiện các hình thức, biện pháp đấu tranh trong từng giai đoạn, từng thời điểm, cũng như trong suốt quá trình thực hiện nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc. Một yêu cầu quan trọng của việc kết hợp đấu tranh vũ trang với đấu tranh phi vũ trang trong tình hình mới là phải "thấy hết các tình huống phức tạp để có phương án chủ động phòng ngừa, tránh bị động, đối đầu, cô lập; kiên quyết không để xảy ra những diễn biến xấu. Trong bất cứ tình huống nào cũng không để lâm vào bị động, đảm bảo đủ sức đối phó thắng lợi"1 (Tài liệu học tập Nghị quyết Hội nghị lần thứ tám Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa IX, Sđd, tr.45).


Tư duy của Đảng về phương thức đấu tranh bảo vệ Tổ quốc còn chỉ ra rằng, xây dựng là phương thức hữu hiệu để bảo vệ, là cách bảo vệ chủ động, tích cực nhất và có hiệu quả nhất; bảo vệ trong xây dựng, xây dựng trong bảo vệ, bảo vệ là một bộ phận hợp thành của xây dựng, xây dựng cũng là một bộ phận hợp thành của bảo vệ. Đây là một nhận thức rất quan trọng của Đảng ta về phương thức đấu tranh bảo vệ Tổ quốc trong bối cảnh lịch sử mới, phản ánh mối quan hệ khăng khít giữa xây dựng đất nước và bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới. Điều đó làm tăng khả năng phát huy nội lực của đất nước để bảo vệ Tổ quốc, cũng như để xây dựng đất nước; đồng thời làm sâu sắc thêm tính chất toàn dân, toàn diện của sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.


Những quan điểm cho rằng, xây dựng chỉ là để xây dựng, còn "bảo vệ là nhiệm vụ riêng của lực lượng vũ trang", nhiệm vụ quốc phòng, an ninh là của quân đội và công an, là những quan điểm, nhận thức sai trái, cần phải khắc phục, cần nhận thức rõ thêm rằng, trong điều kiện hiện nay, khắc phục sự tụt hậu về kinh tế, khắc phục sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống và tình trạng tham nhũng, xây dựng đất nước mạnh lên, gia tăng nội lực đất nước, nâng cao đời sống của nhân dân, giải quyết tốt các vấn đề xã hội, đó cũng chính là bảo vệ, là sự bảo vệ vững chắc nhất. Mọi lực lượng xây dựng đều phải có trách nhiệm bảo vệ và phải phát huy trách nhiệm tốt nhất của mình trong thực hiện nhiệm vụ quốc phòng, an ninh, bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa.


Quan điểm của Đảng "Nâng cao khả năng tự bảo vệ của mỗi người, của từng tổ chức, cơ quan, đơn vị"1 (Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, Sđd, tr.109-110) là vấn đề cực kỳ quan trọng không chỉ phù hợp với quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin về một cuộc cách mạng chỉ thực sự có giá trị khi nó biết tự bảo vệ, mà còn rất phù hợp với thực tiễn cách mạng nước ta trong giai đoạn hiện nay, khi mà nước ta vừa phải sẵn sàng chuẩn bị tiến hành một cuộc chiến tranh nhân dân bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa chống lại cuộc chiến tranh xâm lược bằng vũ khí công nghệ cao của chủ nghĩa đế quốc nếu chúng liều lĩnh phát động chống nước ta, vừa đang phải hằng ngày, hằng giờ đấu tranh phòng chống "diễn biến hòa bình" và quá trình "tự diễn biến", "tự chuyển hóa" từ bên trong do tác động của "diễn biến hòa bình" và từ mặt tiêu cực của cơ chế thị trường, cộng với những "ung nhọt" nảy sinh trong quá trình xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội.

Chỉ có nâng cao khả năng "tự bảo vệ" của mỗi người, của từng tổ chức, cơ quan, đơn vị, tăng cường sức để kháng, nâng cao khả năng "tự miễn dịch" của mỗi người, của Đảng và cả cơ thể xã hội xã hội chủ nghĩa, gắn với việc khắc phục "tự diễn biến", "tự chuyển hóa", mới hy vọng đem lại cho chúng ta một sức mạnh mới, để vượt qua khó khăn, thách thức, bảo vệ vững chắc Tổ quốc xã hội chủ nghĩa. Xét từ góc độ phương thức, đây là phương thức bảo vệ đặc biệt hữu hiệu.


Thực tiễn trong những năm qua cho thấy rõ một điều là, trong điều kiện các thế lực thù địch ráo riết thực thi chiến lược "diễn biến hòa bình" để thúc đẩy quá trình "tự diễn biến", "tự chuyển hóa" từ bên trong, thì phương thức bảo vệ có hiệu quả lại chính là "tự bảo vệ". Việc nhận thức rõ tầm quan trọng của vấn đề "tự bảo vệ" và nội dung cơ bản của vấn đề là sự phát triển mới trong tư duy của Đảng ta về phương thức đấu tranh, về nội lực, về sức mạnh bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa trong suốt thời kỳ đổi mới đất nước.
Logged
saoden
Thành viên
*
Bài viết: 1075



« Trả lời #13 vào lúc: 10 Tháng Chín, 2022, 09:25:09 pm »

CHĂM LO QUỐC PHÒNG, QUÂN ĐỘI NHƯ "CHĂM LO CON NGƯƠI TRONG MẮT MÌNH" - DI HUẤN CỦA V.I.LÊNIN MÃI NHẮC NHỞ CHÚNG TA


1. V.I.Lênin đã tạc vào lịch sử nhân loại như là người "khổng lồ" của thế kỷ XX. Tầm vóc "khổng lồ" của V.I.Lênin được tạo nên bởi sự thiên tài và uyên bác của Người trên các lĩnh vực khoa học, tầm cao của tư duy chính trị và tài năng tổ chức hoạt động thực tiễn; bởi công lao to lớn của Người đối với phong trào cộng sản và công nhân quốc tế, phong trào giải phóng dân tộc, đối với tiến trình cách mạng thế giới.


V.I.Lênin đã phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác trong điều kiện lịch sử mới, điều kiện lịch sử chủ nghĩa tư bản chuyển sang giai đoạn đế quốc chủ nghĩa. Người đã phát triển một loạt vấn đề lý luận mới về cách mạng xã hội chủ nghĩa: vấn đề cách mạng vô sản ở một nước thuộc địa, phải lấy công nông làm nòng cốt, do Đảng của giai cấp công nhân lãnh đạo; vấn đề xây dựng Đảng kiểu mới của giai cấp công nhân, Đảng phải dựa trên những nguyên lý của chủ nghĩa Mác - Lênin, lấy chủ nghĩa Mác - Lênin làm nền tảng tư tưởng và kim chỉ nam cho hành động; vấn đề lực lượng và phương pháp tiến hành cách mạng vô sản, đó là lực lượng của giai cấp công nhân và nhân dân lao động bị áp bức, sử dụng bạo lực cách mạng đập tan nhà nước của giai cấp thống trị, thiết lập nhà nước chuyên chính vô sản, thực hành xây dựng chủ nghĩa xã hội đem lại hạnh phúc cho nhân dân; vấn đề xây dựng lực lượng vũ trang, xây dựng quân đội của giai cấp công nhân do Đảng Cộng sản lãnh đạo... Đây là những vấn đề rất mới mà trước đó, do hạn chẽ của lịch sử, C.Mác, Ph.Ăngghen chưa đề cập đến, hoặc đề cập chưa đầy đủ, được V.I.Lênin phát triển sáng tạo trong điều kiện lịch sử mới.


Hoạt động lý luận và thực tiễn của V.I.Lênin đã để lại di sản vô cùng quý báu đối với phong trào cộng sản, phong trào giải phóng dân tộc, giai cấp công nhân, nhân dân lao động và các dân tộc bị áp bức trên toàn thế giới. V.I.Lênin không những phát triển chủ nghĩa Mác về mặt lý luận trong điều kiện lịch sử mới, mà còn hiện thực hóa những tư tưởng cơ bản của C.Mác, Ph.Ăngghen về cách mạng vô sản trong thực tiễn cách mạng của giai cấp công nhân và nhân dân lao động Nga. Điều đó làm cho tên tuổi của V.I.Lênin gắn liền với tên tuổi của C.Mác, Ph.Ăngghen; chủ nghĩa Lênin gắn liền với chủ nghĩa Mác, trở thành chủ nghĩa Mác - Lênin.


Học thuyết V.I.Lênin về bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa là một di sản lý luận, một công hiến vô cùng quý giá vào kho tàng lý luận của chủ nghĩa Mác, đáp ứng yêu cầu bức thiết bảo vệ chế độ mới ở nước Nga sau Cách mạng Tháng Mưòi năm 1917, có giá trị to lớn đối với phong trào cách mạng thế giới, đối với sự nghiệp bảo vệ chủ nghĩa xã hội. Sau Cách mạng Tháng Mười, trước mưu đồ phản kháng của giai cấp tư sản phản động trong nước và quốc tế, V.I.Lênin đặc biệt nhấn mạnh sự cần thiết phải bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa.


Người thường xuyên chú trọng đến xây dựng lực lượng vũ trang, xây dựng Hồng quân vững mạnh, tăng cường khả năng quốc phòng đất nước, coi đó là một nhiệm vụ hệ trọng của chính quyền mới. V.I.Lênin chỉ rõ: "Hãy chăm lo đến khả năng quốc phòng của nước ta và của Hồng quân ta như chăm lo đến con ngươi trong mắt mình, và hãy nhố rằng chúng ta không được phép lơ là một giây phút nào trong việc bảo vệ công nhân và nông dân của ta và bảo vệ những thành quả của họ"1 (V.I.Lênin: Toàn tập, Nxb. Tiến bộ, Mátxcơva, t.44, tr.368-369).


Hãy chăm lo xây dựng, củng cố quốc phòng như chăm lo "con người trong mắt mình" là luận điểm quan trọng có ý nghĩa lý luận và thực tiễn to lớn. Thực chất giá trị của luận điểm trên thể hiện cụ thể ở hai nội dung chính là: thứ nhất, Đảng Cộng sản và Nhà nước xã hội chủ nghĩa phải thường xuyên nêu cao tinh thần cảnh giác cách mạng, nêu cao ý thức bảo vệ Tổ quốc, chăm lo quốc phòng, xây dựng quân đội công nông; thứ hai, đồng thời còn phải biết chăm lo xây dựng, củng cố quốc phòng với một thái độ thận trọng, chu đáo và được thực hiện bằng những biện pháp khoa học, phù hợp. Đó là hai nội dung thống nhất có quan hệ chặt chẽ với nhau trong vấn đề chăm lo khả năng quốc phòng như chăm lo "con người trong mắt mình", thể hiện xuyên suốt trong tiến trình cách mạng xã hội chủ nghĩa; đó còn là một sự biểu đạt khác về tư tưởng cách mạng phải biết tự bảo vệ của V.I.Lênin. Trong quá trình xây dựng xã hội mới, V.I.Lênin thường xuyên nhắc nhở Đảng và Nhà nước Xôviết, nếu không để cao cảnh giác, không chăm lo củng cố quốc phòng, xây dựng Hồng quân vững mạnh thì "chúng ta không thể tồn tại được"1 (V.I.Lênin: Toàn tập, Sđd, t.30, tr.165).


Di sản tư tưởng quý giá này về bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa của V.I.Lênin cần phải được nhận thức đúng đắn và tuân thủ nghiêm ngặt trong tiến trình xây dựng và bảo vệ chế độ xã hội mới.
Logged
saoden
Thành viên
*
Bài viết: 1075



« Trả lời #14 vào lúc: 10 Tháng Chín, 2022, 09:25:39 pm »

2. Lịch sử phát triển của chủ nghĩa xã hội hiện thực trên thế giới cho thấy giá trị và ý nghĩa thực tiễn to lớn của học thuyết bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa của V.I.Lênin nói chung, của bài học cách mạng phải biết tự bảo vệ, của luận điểm hãy chăm lo xây dựng, củng cố quốc phòng như chăm lo "con người trong mắt mình" của Người nói riêng.


Hơn chín thập kỷ qua kể từ năm 1917, chủ nghĩa xã hội hiện thực trên thế giới đã phải đương đầu với sự chống phá điên cuồng, quyết liệt của các thế lực đế quốc, thù địch. Đó là sự can thiệp vũ trang của các nước đế quốc sau Cách mạng Tháng Mười, bao vây chống phá Nhà nước Xôviết non trẻ; đó là cuộc tiến công của chủ nghĩa phát xít hòng tiêu diệt Liên Xô; đó là việc tiến hành chiến tranh lạnh của các thế lực đế quốc, phản động làm suy yếu tiến tới sụp đổ Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa ở Đông Âu; đó là những cuộc chiến tranh chống các nước xã hội chủ nghĩa, cùng những âm mưu, thủ đoạn chống phá chủ nghĩa xã hội và các Đảng Cộng sản bằng chiến lược "diễn biến hòa bình" của chủ nghĩa đế quốc và các thế lực thù địch. Sự chống phá chủ nghĩa xã hội bằng phương thức vũ trang và phi vũ trang nêu trên phản ánh sâu sắc tính chất gay go quyết liệt của thời đại lịch sử quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội trên phạm vi toàn thế giới, cho thấy rõ tầm quan trọng của vấn đề bảo vệ chế độ mới, tầm quan trọng của việc xây dựng chủ nghĩa xã hội phải có đủ sức mạnh và phải biết tự bảo vệ.


Sự sụp đổ của chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô và Đông Âu, mà một trong những nguyên nhân chủ yếu là do sai lầm của các Đảng Cộng sản ở đó trong quá trình cải tổ, cải cách, đổi mới, đã chứng minh tính đúng đắn và hết sức nóng hổi của luận điểm nổi tiếng của V.I.Lênin về cách mạng phải biết tự bảo vệ, về chăm lo xây dựng, củng cố quốc phòng như chăm lo "con ngươi trong mắt mình". Bài học lớn về chăm lo quốc phòng mà V.I.Lênin đã từng giáo huấn cho những người cách mạng đã không được Đảng Cộng sản Liên Xô nhận thức và thực hiện đúng trong quá trình cải tổ. "Công khai hóa", "dân chủ hóa", "tư duy chính trị mới", "đa nguyên chính trị" tưởng như là "liều thuốc thần" của cải tổ, đã không thể làm cho chủ nghĩa xã hội phát triển; trái lại, còn dẫn đến thủ tiêu chế độ đó. Ban lãnh đạo Liên Xô "say sưa" với dân chủ đã làm cho tình hình phát triển đến mức chính họ cũng không thể kiểm soát nổi. Thầy "phù thủy" triệu "âm binh" lên nhưng đã không trị được những "âm binh"; trái lại, những "âm binh" ấy lại treo cổ chính những thầy "phù thuỷ". Chính những đơn thuốc mà Đảng Cộng sản Liên Xô đưa ra đã tạo "thời cơ", điều kiện cho các thế lực thù địch ráo riết hơn, quyết liệt hơn trong âm mưu thủ tiêu chủ nghĩa xã hội, thủ tiêu chế độ Xôviết. Đó là bức tranh diễn biến của xã hội Xôviết mà Ban lãnh đạo Liên Xô đã "vẽ lên" khi thực hành cải tổ.


Sự sụp đổ chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô để lại một bài học đau xót về sự mất cảnh giác, về sự xao nhãng củng cố quốc phòng, về sự tự làm suy yếu, làm mất sức đề kháng bản thân mình của Đảng Cộng sản Liên Xô trước âm mưu, thủ đoạn và các đòn tiến công quyết liệt của các thế lực thù địch.


Thực tế lịch sử phát triển của chủ nghĩa xã hội hiện thực trên thế giới đòi hỏi những người cộng sản, các nước xã hội chủ nghĩa phải nêu cao tinh thần cảnh giác cách mạng, càng phải nhận thức sâu sắc bài học cách mạng phải biết tự bảo vệ, càng phải có ý thức và biết chăm lo đến khả năng quốc phòng, gia tăng sức mạnh đất nước, để có thể đủ sức đương đầu với mọi thử thách của tình hình. Không có ý thức cao trong bảo vệ, không biết tự bảo vệ, thì đó là nguy cơ to lớn đối với chính sự tồn vong của Đảng Cộng sản và chế độ xã hội chủ nghĩa.


Giành chính quyền đã khó, nhưng giữ chính quyền còn khó hơn. Luận điểm mácxít cơ bản này cần phải hiểu sâu sắc hơn trong điều kiện lịch sử mới. Ở đây, vấn đề "giữ chính quyền" không chỉ thuần tuý là chống những hành động và mưu toan chống phá của thù trong, giặc ngoài, mà còn cần phải hiểu theo nghĩa rộng lớn hơn, đó là xây dựng và sử dụng chính quyền đó để kiến tạo một xã hội mới trong suốt tiến trình cách mạng xã hội chủ nghĩa. Giữ chính quyền "còn khó hơn", thì sử dụng chính quyền để xây dựng và bảo vệ chế độ xã hội xã hội chủ nghĩa còn là vấn đề khó hơn rất nhiều.


Trong quá trình đó, Đảng Cộng sản, giai cấp công nhân và nhân dân lao động không thể "mải mê" xây dựng xã hội mới mà buông lỏng việc bảo vệ Tổ quốc, bảo vệ chế độ, bảo vệ thành quả của mình, dẫn đến mất cảnh giác. Đổi mới, phát triển đất nước, xây dựng chủ nghĩa xã hội nhưng không được khi nào lơi lỏng nhiệm vụ củng cố quốc phòng, an ninh, bảo vệ Tổ quốc, bảo vệ Đảng và chế độ xã hội chủ nghĩa. Vấn đề có ý nghĩa sống còn này cần phải được tuân thủ nghiêm ngặt.
Logged
saoden
Thành viên
*
Bài viết: 1075



« Trả lời #15 vào lúc: 10 Tháng Chín, 2022, 09:26:07 pm »

3. Hiện nay, các thế lực thù địch vẫn tiếp tục thực hiện âm mưu "diễn biến hòa bình", gây bạo loạn lật đổ, sử dụng các chiêu bài "dân chủ", "nhân quyền" hòng làm thay đổi chế độ chính trị ở nước ta. Chúng sử dụng tất cả các thủ đoạn có thể, kể cả thủ đoạn vũ lực, tiến công xâm lược vũ trang nếu thấy "cần thiết" để thực hiện mưu đồ đó. Trong điều kiện đó, hơn lúc nào hết, chúng ta càng phải thấm nhuần sâu sắc và vận dụng sáng tạo những di sản tư tưởng của V.I.Lênin về bảo vệ Tổ quốc, cũng như luận điểm của Người về chăm lo khả năng quốc phòng như chăm lo "con ngươi trong mắt mình" nhằm tăng cường hơn nữa sức mạnh bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa.


Nước ta đang đẩy nhanh quá trình chủ động hội nhập quốc tế và đã gia nhập Tổ chức Thương mại thế giới. Điều đó vừa tạo cơ hội cho sự phát triển, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa nước nhà, vừa đặt ra nhiều vấn đề mới trong việc giữ vững độc lập tự chủ của nền kinh tế non trẻ và còn kém phát triển, trong việc bảo đảm quốc phòng, an ninh, độc lập, chủ quyền, sự lãnh đạo của Đảng và chế độ xã hội chủ nghĩa. Quá trình hội nhập không chỉ có "hoa thơm và trái ngọt" mà còn có cả những "rác rưởi", những "nọc độc" về văn hóa, chính trị thâm nhập vào bằng nhiều con đường với nhiều hình thức tinh vi khác nhau, làm cho tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống con người dễ bị nhiễm độc. Những công ty tư bản xuyên quốc gia, những thế lực chủ yếu chi phối "luật chơi" của kinh tế thế giới không phải không mong muôn kiến tạo "một thế giới theo hình ảnh của nó" - như cách diễn đạt của C.Mác, Ph.Ănghen cách đây hơn 160 năm. Với góc tiếp cận này, việc nước ta là thành viên của Tổ chức Thương mại thế giới lại là một "thời cơ" lớn cho các thế lực thù địch trong việc thực thi chiến lược "diễn biến hòa bình" chống phá cách mạng Việt Nam. Sự chống phá đó lại được ẩn náu, che giấu trong các quan hệ kinh tế, thương mại, hợp tác, đầu tư, văn hóa, du lịch, làm cho chúng ta khó nhận mặt chỉ tên và cuộc đấu tranh chống "diễn biến hòa bình", do đó, càng trở nên phức tạp, khó khăn. Trong điều kiện đó, nếu khống có chiến lược phù hợp thì sẽ dẫn đến những hậu quả khó lường.


Để phát triển đất nước, cần phải đẩy mạnh hơn nữa quá trình chủ động hội nhập quốc tế; cần gia tăng hợp tác với các nước tư bản phát triển, coi đó là những đối tác làm ăn quan trọng. Tuy nhiên, bài học về cảnh giác vẫn phải khắc sâu ghi lòng, tạc dạ. Càng đẩy mạnh hợp tác, làm ăn với nước ngoài, càng phải nâng cao tinh thần cảnh giác cách mạng, càng phải tăng cường sức mạnh bảo vệ Tổ quốc. Say sưa tìm kiếm sự phát triển kinh tế mà không quan tâm đúng mức đến vấn đề quốc phòng, an ninh, bảo vệ Tổ quốc trong chiến lược phát triển thì đó là một hành động tự làm suy yếu sức mạnh của bản thân mình và sẽ dẫn đến hậu quả nguy hại cho cách mạng.


Tuân theo tư tưởng của V.I.Lênin, chiến lược quốc phòng, an ninh nước ta trong điều kiện mới cần phải tập trung giải quyết hai nội dung cơ bản và cấp thiết có quan hệ biện chứng, không tách rời nhau: thứ nhất, giữ vững hòa bình, ổn định để thực hiện thắng lợi sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước; thứ hai, tăng cường sức mạnh, khả năng ngăn ngừa, đẩy lùi, loại trừ nguy cơ chiến tranh và khả năng đối phó thắng lợi các tình huống chiến tranh nếu xảy ra, vâi mọi quy mô và trình độ. Yêu cầu cơ bản của việc củng cố quốc phòng, an ninh, bảo vệ Tổ quốc trong bối cảnh mới là: khi chưa xảy ra chiến tranh, thì thực hiện "cả nước một lòng, toàn dân giữ nước", mọi công dân đều có trách nhiệm xây dựng và bảo vệ Tổ quốc; khi xảy ra chiến tranh thì thực hiện chiến tranh nhân dân "cả nước một lòng, toàn dân đánh giặc", quân với dân một ý chí quyết tâm chiến thắng quân thù.


Ý nghĩa thực tiễn to lớn hiện nay của luận điểm chăm lo khả năng quốc phòng như "chăm lo con ngươi trong mắt mình" là phải tự nâng cao khả năng tự bảo vệ; từng tổ chức, từng đơn vị, mỗi con người và cả đất nước, từng đảng viên và toàn Đảng phải nâng cao khả năng tự bảo vệ, nâng mình lên đủ sức ứng phó với những biến động của tình hình như Đại hội X, Đại hội XI của Đảng đã chỉ rõ. Hiện nay, tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống trong một bộ phận cán bộ, đảng viên, tệ quan liêu, tham nhũng... đang thực sự là vấn đề nhức nhối, ảnh hưởng nghiêm trọng đến uy tín của Đảng, làm suy yếu khả năng tự vệ và sức đề kháng của cơ thể xã hội chủ nghĩa của nhân dân ta, cùng với "diễn biến hòa bình" sẽ tạo nên "hợp lực" thật sự nguy hiểm đe dọa đến chính sự tồn vong của chế độ và sự lãnh đạo của Đảng. Do đó, vấn đề chống quan liêu, tham nhũng, khắc phục tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống trong một bộ phận cán bộ, đảng viên cần phải được xem xét như là một nội dung, yêu cầu đặc biệt quan trọng của vấn đề tự bảo vệ, của việc xây dựng, củng cố, chăm lo khả năng quốc phòng nước ta hiện nay.


Tư duy mới của Đảng về bảo vệ Tổ quốc, về tự bảo vệ, coi sức mạnh bên trong của đất nước, sức mạnh của chế độ chính trị, sự trong sạch của đội ngũ cán bộ, đảng viên và sức mạnh của đại đoàn kết dân tộc là nhân tố quyết định, trong bối cảnh hiện nay, càng trở nên gắn bó và quan hệ mật thiết, thống nhất với tư tưởng của V.I.Lênin khi Người cảnh báo những người cộng sản: "Không ai có thể tiêu diệt được chúng ta, ngoài những sai lầm của bản thân chúng ta"1 (V.I.Lênin: Toàn tập, Sđd, t.42, tr.311).
Logged
saoden
Thành viên
*
Bài viết: 1075



« Trả lời #16 vào lúc: 10 Tháng Chín, 2022, 09:27:30 pm »

XÂY DỰNG NỀN QUỐC PHÒNG TOÀN DÂN TRONG THỜI KỲ MỚI


Quốc phòng toàn dân là quan điểm cơ bản chỉ đạo việc xây dựng nền quốc phòng toàn dân, toàn diện của nước ta, một nền quốc phòng của dân, do dân, vì dân. Trong bối cảnh mới, trước tác động của cách mạng khoa học - cống nghệ hiện đại và toàn cầu hóa, xu hướng quốc phòng thâm nhập vào các lĩnh vực của đời sống dân sinh, quân sự thâm nhập vào dân sự và ngược lại, ngày càng phát triển. Sự ảnh hưởng, phụ thuộc và thâm nhập lẫn nhau giữa quân sự, quốc phòng với các lĩnh vực khác của đời sống xã hội ngày càng gia tăng. Tất cả điều đó làm cho tính toàn dân, toàn diện của nền quốc phòng trở nên sâu sắc hơn; vấn đề dựa vào dân, phát huy sức mạnh của toàn dân là lời giải cơ bản và càng trở nên cấp bách trong xây dựng nền quốc phòng toàn dân nước ta trong tình hình mới.


Trong điều kiện toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế phát triển mạnh mẽ và sâu rộng, chúng ta vừa phải thực hiện quan hệ đối tác, vừa phải tính đến các mối quan hệ với "đối tượng"; vẫn phải mở rộng hợp tác, nhưng vẫn phải giữ được độc lập, chủ quyền và bản sắc văn hóa dân tộc; vẫn phải mở cửa làm ăn với nước ngoài, nhưng vẫn phải giữ vững ổn định chính trị - xã hội và an ninh quốc gia. Nền quốc phòng toàn dân vững chắc phải là nền quốc phòng đáp ứng được yêu cầu ấy; là nền quốc phòng dựa trên sức mạnh của nhân dân, lòng dân được quy tụ thống nhất, nhân dân gắn bó với chế độ, chung sức, chung lòng bảo vệ Tổ quốc dưới sự lãnh đạo của Đảng.


Sự nghiệp củng cố quốc phòng, an ninh, bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa là sự nghiệp của dân, do dân, vì dân; sức mạnh của sự nghiệp ấy là sức mạnh tổng hợp của tất cả các lực lượng trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội, trong đó lực lượng vũ trang đóng vai trò nòng cốt. Tính chất toàn dân, toàn diện của nền quốc phòng biểu hiện cụ thể và sâu sắc ở việc mọi người dân, dù hoạt động trong lĩnh vực kinh tế, văn hóa đơn thuần, trên địa bàn nào cũng đều phải có ý thức rõ ràng hoạt động của mình và của ngành mình cũng là góp phần bảo vệ Tổ quốc; từ đó đề cao trách nhiệm công dân trong việc thực hiện nhiệm vụ quốc phòng, an ninh ở cơ sở, địa bàn hoạt động.


Xây dựng nền quốc phòng toàn dân, toàn diện đòi hỏi mọi hoạt động kinh tế không chỉ đơn thuần vì mục tiêu kinh tế, mà phải tính đến và đáp ứng những yêu cầu của quốc phòng. Các hoạt động quân sự, các công trình quốc phòng không chỉ thuần túy vì mục tiêu quốc phòng, quân sự mà cần tính đến cả yêu cầu phát triển kinh tế.


Yêu cầu cơ bản của nền quốc phòng nước ta trong điều kiện mới là phải xây dựng, không ngừng củng cố, tăng cường và phát huy vai trò của khối đại đoàn kết toàn dân tộc trong sự nghiệp củng cố quốc phòng, bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa. Điều đó đòi hỏi phải tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý của Nhà nước đối với sự nghiệp xây dựng quốc phòng. Đảng ta chỉ rõ: "Thể chế hóa kịp thời các chủ trương, chính sách về xây dựng nền quốc phòng toàn dân và an ninh nhân dân; từng bước hoàn thiện hệ thống pháp luật về bảo vệ Tổ quốc, trước hết tập trung hoàn chỉnh pháp luật về quốc phòng, an ninh..."1 (Tài liệu học tập Nghị quyết Hội nghị lần thứ tám Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa IX, Sđd, tr.55). Đại hội XI của Đảng tiếp tục nhấn mạnh thêm: "Hoàn thiện các chiến lược quốc phòng, an ninh và hệ thống cơ chế, chính sách về quốc phòng, an ninh trong điều kiện mới"2 (Đảng Cộng sản Việt Nam: Vân kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Sđd, tr.235).


Trong điều kiện hiện nay, khi mà các mối quan hệ quốc tế trở nên phức tạp, các lĩnh vực hoạt động của đời sống xã hội ngày càng đan xen và thâm nhập vào nhau; khi mà hệ thống xã hội chủ nghĩa thế giới đã bị sụp đổ không còn là chỗ dựa cho chúng ta như trước nữa, thì vấn đề độc lập tự chủ, tự lực tự cường trong xây dựng, củng cố quốc phòng, bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa càng trở nên quan trọng và đặt ra một cách gắt gao hơn. Nêu cao ý chí tự lực tự cường, dựa vào sức mình là chính để xây dựng nền quốc phòng là định hướng tư tưởng đúng đắn trong bối cảnh hiện nay. Quốc phòng là công việc phòng thủ của quốc gia để bảo vệ đất nước. Độc lập tự chủ, tự lực tự cường là nội dung cơ bản của phương châm xây dựng nền quốc phòng toàn dân. Độc lập tự chủ, tự lực tự cường, trước hết và cơ bản nhất là độc lập tự chủ về đường lối, quan điểm, phương châm xây dựng nền quốc phòng toàn dân; là tự ta phải phát huy nguồn sức mạnh tổng hợp quốc gia để củng cố quốc phòng, bảo vệ Tổ quốc. Nội dung trên biểu hiện ở hai vấn đề cụ thể: một là, độc lập tự chủ, tự lực tự cường trong quá trình xây dựng nền quốc phòng; hai là, phải xây dựng được nền quốc phòng độc lập tự chủ, tự lực tự cường. Cả hai vấn đề này là hai mặt hợp thành nội dung của phương châm trên.


Xây dựng nền quốc phòng độc lập tự chủ, tự lực tự cửờng là xây dựng nền quốc phòng tự thân đủ sức đáp ứng những mục tiêu, nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc đặt ra trong từng giai đoạn cách mạng cụ thể. Độc lập tự chủ, tự lực tự cường đòi hỏi phát huy tốt nhất nội lực để tận dụng những điều kiện thuận lợi của quốc tế phục vụ cho sự nghiệp xây dựng nền quốc phòng toàn dân, bảo vệ Tổ quốc.


Nền quốc phòng của nước ta ngày nay phải đáp ứng tốt nhất mục tiêu, nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa trong thời kỳ mới: "Bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc; bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân và chế độ xã hội chủ nghĩa; giữ vững hòa bình, ổn định chính trị, bảo đảm an ninh quốc gia và trật tự, an toàn xã hội; chủ động ngăn chặn, làm thất bại mọi âm mưu và hành động chống phá của các thế lực thù địch đối với sự nghiệp cách mạng của nhân dân ta"1 (Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Sđd, tr.81-82, 233).


Tại Đại hội IX, Đảng ta nhấn mạnh sự kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, coi đó là một tư tưởng chiến lược cơ bản xây dựng quốc phòng, gia tăng sức mạnh bảo vệ Tổ quốc trong điều kiện mới. Đại hội XI của Đảng xác định rõ và cụ thể: "Tiếp tục mở rộng quan hệ hợp tác quốc tế trong lĩnh vực quốc phòng, an ninh"2 (Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Sđd, tr.81-82, 233). Có phát huy được sức mạnh dân tộc mới kết hợp tốt và tận dụng được những yếu tố của sức mạnh thời đại; có kết hợp với sức mạnh thời đại mới làm cho nội lực của dân tộc được tăng cường, nâng cao sức mạnh quốc phòng, bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa.
Logged
saoden
Thành viên
*
Bài viết: 1075



« Trả lời #17 vào lúc: 10 Tháng Chín, 2022, 09:28:12 pm »

Tranh thủ, tận dụng các nguồn lực từ bên ngoài để phát triển kinh tế, nhưng không phải vì thê mà ảnh hưởng đến lợi ích quốc phòng, an ninh của đất nước; mà làm suy giảm sức mạnh quốc phòng. Trái lại, quá trình đó phải là quá trình tạo thêm những yếu tố, những điều kiện thuận lợi để nâng cao khả năng bảo vệ và sức mạnh quốc phòng đất nước. Đảng ta chỉ rõ: "Ra sức phát huy nội lực, đồng thời tranh thủ tối đa và khai thác mọi thuận lợi ở bên ngoài. Quán triệt đường lối độc lập, tự chủ, kiên trì chính sách đối ngoại rộng mở, đa dạng hóa, đa phương hóa theo phương châm "thêm bạn, bớt thù", vừa hợp tác, vừa đấu tranh, cố gắng gia tăng hợp tác, tránh xung đột, đối đầu; tránh bị cô lập, lệ thuộc"1 (Tài liệu học tập Nghị quyết Hội nghị lần thứ tám Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa IX, Sđd, tr.47); kết hợp chặt chẽ các nhiệm vụ kinh tế, quốc phòng, an ninh, đối ngoại; "Nâng cao hiệu quả các hoạt động đối ngoại, tiếp tục đưa các mối quan hệ quốc tế vào chiều sâu trên cơ sở giữ vững độc lập, tự chủ, phát huy tối đa nội lực, giữ gìn và phát huy bản sắc dân tộc; chủ động ngăn ngừa và giảm thiểu tác động tiêu cực của quá trình hội nhập quốc tế"2 (Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Sđd, tr.236).


Xây dựng nền quốc phòng toàn dân từng bước hiện đại, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ trong tình hình mới. Trong quá trình xây dựng quốc phòng, Chủ tịch Hồ Chí Minh luốn quan tâm đến hiện đại hóa nền quốc phòng, coi đó là nhiệm vụ quan trọng của Đảng, Nhà nước, quân đội và nhân dân ta. Ngày nay những thành tựu của cuộc cách mạng khoa học - công nghệ hiện đại, đặc biệt là công nghệ thống tin đã và đang được khai thác triệt để vào việc hiện đại hóa vũ khí, trang bị, tăng lên một cách nhảy vọt hàm lượng kỹ thuật, công nghệ của các phương tiện chiến tranh. Sự phát triển có tính chất cách mạng về vũ khí, trang bị, phương tiện chiến tranh ở thập kỷ 90 của thê kỷ trước vẫn được gia tăng tốc độ ở thế kỷ này, dẫn đến những thay đổi về nghệ thuật, phương thức tiến hành chiến tranh, cách đánh, làm biến đổi cơ cấu tổ chức quân đội, quy mô, thời gian tiến hành chiến tranh. Chiến tranh công nghệ cao, chiến tranh điện tử, chiến tranh thông tin, chiến tranh kỹ thuật số... được các nhà quân sự nói đến như là những mũi nhọn đặc trưng của chiến tranh tương lai.


Sự hiện đại và những thay đổi mới ấy của chiến tranh đặt ra những vấn đề mới về hiện đại hóa nền quốc phòng của nước ta, đòi hỏi phải có lộ trình hợp lý, bước đi phù hợp để hiện đại hóa nền quốc phòng. Để đáp ứng yêu cầu sẵn sàng đánh thắng chiến tranh xâm lược có sử dụng vũ khí công nghệ cao mà các cuộc chiến tranh gần đây đã cung cấp những dữ liệu cơ bản, có người muốn thực hiện hiện đại hóa quốc phòng, hiện đại hóa quân đội một cách nhanh chóng. Theo họ, nếu không có vũ khí trang bị hiện đại thì không thể chiến thắng đối phương được trong điều kiện chiến tranh có sử dụng vũ khí công nghệ cao. Đúng là để chiến thắng địch trong điều kiện chiến tranh đó, cần phải có phương tiện hiện đại nhất định. Thế nhưng, không phải nhất thiết đối phương có loại vũ khí trang bị gì thì chúng ta phải có vũ khí trang bị tương ứng. Hiện đại hóa nền quốc phòng không chỉ về vũ khí, kỹ thuật, dù đó là vấn đề hết sức quan trọng, không thể coi nhẹ.


Không thể hiểu đơn giản, cứ tập trung phát triển kinh tế thì tự nhiên sẽ tạo ra tiềm lực quốc phòng. Đúng là tiềm lực quốc phòng, nhất là tiềm lực vật chất, tiềm lực khoa học kỹ thuật của nền quốc phòng, phụ thuộc rất lớn vào trình độ phát triển của nền kinh tế đất nước. Nhưng cũng cần phải thấy rằng, tự thân sự phát triển kinh tế chưa hẳn đã tạo ra sức mạnh quốc phòng tương ứng nếu không có chiến lược phát triển hợp lý, nếu không gắn với xây dựng, củng cố quốc phòng. Kinh tế tăng trưởng, nhưng phân hóa xã hội phát triển, khoảng cách giàu nghèo giữa các giai tầng trong xã hội ngày càng lớn, thì đó lại là những nhân tố làm suy yếu sức mạnh quốc gia và sức mạnh quốc phòng. Trên thế giới có không ít quốc gia tuy bình quân GDP tính theo đầu người hàng năm gấp nhiều lần so với nước ta, nhưng tiềm lực quốc phòng và an ninh của họ chưa thể nói là đã mạnh, đã vững chắc. Hơn nữa, chính sự vững mạnh của quốc phòng lại là điều kiện căn bản đảm bảo cho sự phát triển của kinh tế.


Cần phải hiểu nội dung hiện đại nền quốc phòng một cách toàn diện cả về lực lượng và thễ trận, cả về vũ khí và con người, tổ chức và cơ cấu, tiềm lực vật chất và tinh thần, tiềm lực khoa học và quân sự... những bộ phận cấu thành nền quốc phòng toàn dân của nước ta. Hiện đại nền quốc phòng phải dựa trên tư tưởng, quan điểm xây dựng quốc phòng, bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa, chiến tranh nhân dân, xây dựng Quân đội nhân dân Việt Nam cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại... của Đảng ta thể hiện ở các Đại hội Đảng, nhất là ở Đại hội XI. Như vậy, xét về tính hiện đại, đây là điểm khác nhau căn bản của nền quốc phòng toàn dân nước ta với nhiều nền quốc phòng của các nước khác trên thế giới.


Chúng ta hiện đại hóa nền quốc phòng theo lộ trình: từng bước. Từng bước hiện đại vừa là bước đi, yêu cầu của quá trình hiện đại hóa nền quốc phòng vừa là đặc điểm cơ bản của nền quốc phòng toàn dân của nước ta.


Riêng về hiện đại hóa vũ khí trang bị, cũng cần phải có bước đi phù hợp. V.I.Lênin từng khẳng định, một quân đội dù trung thành bao nhiêu vẫn lập tức bị tiêu diệt nếu không được trang bị đầy đủ và huấn luyện chu đáo. Hiện đại hóa về vũ khí trang bị, bên cạnh việc phát huy vũ khí trang bị hiện có, nâng cao hiệu quả của chúng thì cần phải có trang bị mới. Sự hiện đại về quốc phòng nói chung, về vũ khí trang bị nói riêng vừa phải đáp ứng yêu cầu đánh thắng cuộc chiến tranh xâm lược của kẻ thù ở mọi quy mô và trình độ, vừa phải phù hợp với đặc điểm Việt Nam, điều kiện kinh tế - xã hội đất nước. Đương nhiên, chúng ta có thể và cần phải đi trước đón đầu, đột phá vào những khâu, những mũi nhọn cần thiết như công nghệ thống tin, tác chiến điện tử... Đây là vấn đề to lớn phản ánh nét đặc sắc tính hiện đại của nền quốc phòng nước ta, đòi hỏi phải được thực thi với một chiến lược khoa học, một lộ trình hợp lý.


Những nội dung xây dựng nền quốc phòng toàn dân ở nước ta quan hệ chặt chẽ và thống nhất với nhau, là sự vận dụng sáng tạo tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng nền quốc phòng toàn dân, phản ánh quan điểm cơ bản của Đảng và Nhà nước ta về xây dựng, củng cố quốc phòng trong điều kiện mới. Thực hiện tốt phương châm đó, chúng ta sẽ có được nền quốc phòng toàn dân thực sự vững mạnh, đáp ứng mọi yêu cầu của phương thức đấu tranh bảo vệ Tổ quốc trong điều kiện mới.
Logged
saoden
Thành viên
*
Bài viết: 1075



« Trả lời #18 vào lúc: 10 Tháng Chín, 2022, 09:29:51 pm »

XÂY DỰNG "THẾ TRẬN LÒNG DÂN" NỘI DUNG CƠ BẢN CỦA SỰ NGHIỆP CỦNG CỐ QUỐC PHÒNG, BẢO VỆ TỔ QUỐC HIỆN NAY


Quốc phòng là công việc giữ nước của quốc gia, gồm tổng thể các hoạt động đối nội và đối ngoại trên tất cả các lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hóa, khoa học, quân sự... của Nhà nước và nhân dân nhằm bảo vệ Tổ quốc. Bất cứ quốc gia nào trên thế giới cũng đều phải quan tâm đến xây dựng, củng cố quốc phòng, đều phải chú ý xây dựng tiềm lực mọi mặt của nền quốc phòng. Tuy nhiên, do bản chất của giai cấp cầm quyền, của chế độ chính trị, kinh tế và điều kiện địa lý - lịch sử - văn hóa của các nước khác nhau, nên quan niệm về xây dựng tiềm lực quốc phòng của các nước cũng khác nhau.


Đối với nước ta, việc xây dựng "thế trận lòng dân", tiềm lực chính trị - tinh thần có tầm quan trọng đặc biệt trong xây dựng các tiềm lực và sức mạnh tổng hợp của nền quốc phòng toàn dân.

Xây dựng "thế trận lòng dân" là sự phản ánh sâu sắc quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về vũ trang toàn dân, về vai trò của quần chúng nhân dân trong lịch sử; là sự kế thừa, phát triển và nâng lên tầm cao mới truyền thông nghệ thuật quân sự của dân tộc ta trong giai đoạn cách mạng mới; đồng thời thể hiện bản chất, sự vững chắc của thế trận quốc phòng và sức mạnh của nền quốc phòng toàn dân nước ta trong tình hình mới.


Bản chất nền quốc phòng của dân, do dân, vì dân đòi hỏi phải tạo dựng được một "thế trận lòng dân" thực sự vững chắc. Đồng thời, một nền quốc phòng toàn dân, toàn diện vì mục đích chính nghĩa bảo vệ đất nước, bảo vệ cuộc sống yên bình và hạnh phúc của mọi tầng lớp nhân dân, tự bản thân nó đã có sức quy tụ lòng người, quy tụ mọi lực lượng vật chất - tinh thần, tạo nên sức mạnh to lớn. Đó là mối quan hệ biện chứng, tác động lẫn nhau giữa "thế trận lòng dân" và thế trận quốc phòng toàn dân của nước ta. Xây dựng "thế trận lòng dân" là yêu cầu, là nội dung cơ bản, là vấn đề "mấu chốt", là "nền tảng" của việc xây dựng thế trận quốc phòng toàn dân bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa trong điều kiện mới.


Thực chất xây dựng "thế trận lòng dân" là quá trình khơi dậy, quy tụ và phát huy chính trị - tinh thần của mọi tầng lớp nhân dân trong một thế trận quốc phòng - an ninh chung, đáp ứng yêu cầu của nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa. Lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc ta đã chỉ ra rằng, thực hiện được "vua tôi đồng lòng, anh em hòa thuận, cả nước góp sức", thu phục được nhân tâm, lòng dân về một mối, xây dựng được "bức thành lòng dân", thì đấy là yếu tố bảo đảm chắc chắn nhất cho sự bền vững của giang sơn, yên lành của muôn dân. Sự trở ngại lớn nhất đối với những hành động phá hoại, những mưu toan thôn tính, xâm lược của kẻ thù cũng chính bởi những yếu tố trên. Một khi xao nhãng củng cố nhân tâm, không quan tâm đến dân để trăm họ ai oán, lòng dân ly tán, không xây dựng được "bức thành lòng dân", để cho "chính sự phiền hà", thì đó là nguy cơ mất nước trước họa xâm lăng của các thế lực bên ngoài. Rõ ràng, vấn đề lòng dân luôn luôn là vấn đề có tầm quan trọng hàng đầu trong công cuộc giữ nước, chống ngoại xâm, trong chiến lược xây dựng sức mạnh quốc phòng bảo vệ Tổ quốc của dân tộc ta.


Hiện nay, các thế lực thù địch đang thực hiện một cách ráo riết nhưng hết sức khéo léo, tinh vi những biện pháp "đánh vào lòng người", nhằm hủy hoại cơ sở chính trị - xã hội, gây mất ổn định, làm cho dân "xa" Đảng, đối lập dân với Đảng, thì vấn đề xây dựng "thế trận lòng dân" vừa là đòi hỏi bức thiết của tình hình, vừa đặt ra yêu cầu phải có nội dung và phương thức xây dựng mới phù hợp, hiệu quả. Để xây dựng được "thế trận lòng dân" vững chắc, chúng ta phải thực hiện rất nhiều biện pháp trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội với sự đồng tâm hiệp lực của tất cả các cấp, các ngành, của tất cả các lực lượng và của mọi tầng lớp nhân dân.


Trong tình hình mới, cần chú ý một số nội dung cơ bản sau:

Thứ nhất, vấn đề có ý nghĩa cơ bản đầu tiên là phải củng cố mối quan hệ "máu thịt" giữa Đảng với nhân dân, củng cố lòng tin của nhân dân đôì với Đảng, với chế độ xã hộ chủ nghĩa. Lịch sử cách mạng Việt Nam hơn tám thập kỷ qua cho thấy, những thắng lợi vĩ đại và huy hoàng của dân tộc ta, dưới sự lãnh đạo của Đảng đã chứng minh: nguồn sức mạnh to lớn và "bức thành" vững chắc nhất của sự nghiệp cách mạng, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa đó là mối quan hệ "máu thịt" giữa Đảng với nhân dân, lòng tin của nhân dân đối với Đảng, với cách mạng. Đảng là của dân, vì dân, dân một lòng một dạ theo Đảng; Đảng quan tâm chăm lo đến dân, dân sống chết chiến đấu dưới ngọn cờ của Đảng.

Thực chất xây dựng "thế trận lòng dân" là vấn đề "lòng người", là xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc, làm cho mọi người, không phân biệt già trẻ, gái trai, giai cấp, thành phần, dân tộc, tôn giáo... đều một lòng, một dạ vì Tổ quốc Việt Nam như Chủ tịch Hồ Chí Minh từng kêu gọi. Đó là việc xây dựng nền tảng chính trị - tinh thần của nền quốc phòng toàn dân, bảo vệ Tổ quốc trên cơ sở sự nhất trí về chính trị - tinh thần của toàn dân, lòng tin của nhân dân đối với sự lãnh đạo của Đảng, đối với Nhà nước, đối với chế độ xã hội chủ nghĩa.


Thứ hai, phải thực hiện trên thực tế và có hiệu quả chính sách hợp lòng dân. Vấn đề đặt ra ở đây không phải chỉ là giáo dục, kêu gọi, mà điều quyết định là phải có chính sách hợp lòng dân. Đảng ta đã nhiều lần nhấn mạnh phải thường xuyên quan tâm đến nhân dân, thực hiện các chủ trương, chính sách hợp lòng dân, chăm lo bảo vệ lợi ích chính đáng của nhân dân. Tư tưởng này là sự tiếp nối và phát triển lên tầm cao mới tư tưởng của cha ông: "Sửa đức để cầu mệnh trời; ngăn quyền hào để nuôi sức dân; cấm phiền hà để dân sống khá, cấm xa xỉ để dân phong túc; dẹp trận cướp để dân ở yên; sửa quân chính để bảo vệ dân sinh... thương nuôi dân mọn", "khoan thư sức dân lấy kế sâu rễ bền gốc, đó là thượng sách giữ nước" (Nguyễn Trãi).

Không có chính sách đúng đắn hợp lòng dân, không hiện thực hóa được những chính sách ấy trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội, thì không thể khơi dậy được những sức mạnh vật chất, tinh thần tiềm tàng và to lớn trong nhân dân. Chính sách hợp lòng dân không chỉ biểu hiện ở chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước, mà điều quan trọng phải thể hiện trong tất cả các chính sách cụ thể của địa phương, cơ sở, được hiện thực hóa trong đời sống hằng ngày của mọi người dân. Lòng tin của dân đối với Đảng và Nhà nước trước hết và trực tiếp biểu hiện ở lòng tin đối với tổ chức đảng và chính quyền địa phương, cơ sở, đối với mọi cán bộ, đảng viên của Đảng.


Thứ ba, giáo dục chủ nghĩa yêu nước xã hội chủ nghĩa, lòng tự hào, tự tôn dân tộc, nâng cao ý thức quốc phòng, tinh thần đoàn kết dân tộc cho mọi tầng lớp nhân dân. Yêu nước ngày nay gắn liền vâi yêu chế độ xã hội chủ nghĩa. Đây là động lực tinh thần to lớn của sự nghiệp dựng nước và giữ nước của dân tộc ta, của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa hôm nay. Yêu cầu cơ bản của việc xây dựng "thế trận lòng dân" là phải khơi dậy, phát huy mạnh mẽ tinh thần yêu nước, đoàn kết dân tộc, tình cảm gắn bó với chế độ; trên cơ sở đó, nâng cao ý thức quốc phòng, bảo vệ Tổ quốc cho mọi tầng lớp nhân dân. Phải làm cho mọi tầng lớp nhân dân, không phân biệt thành phần, giai cấp, dân tộc, tôn giáo... đều có trách nhiệm, nghĩa vụ đối với sự nghiệp củng cố quốc phòng, bảo vệ Tổ quốc. Ý thức trách nhiệm và sự tham gia của nhân dân trong thực hiện các nhiệm vụ quốc phòng, an ninh là thước đo hiệu quả của việc xây dựng "thế trận lòng dân".


Thế trận quốc phòng toàn dân của nước ta trong điều kiện mới phải là thế trận liên hoàn, có chiều sâu, nhiều tầng, nhiều lớp trên cơ sở "thế trận lòng dân" vững chắc. Xây dựng "thế trận lòng dân" phản ánh tư tưởng bảo vệ Tổ quốc là sự nghiệp của toàn dân dưới sự lãnh đạo của Đảng. Tư duy mới của Đảng ta về sức mạnh quốc phòng bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa chỉ ra rằng, sức mạnh bên trong của đất nước, sức mạnh của chế độ chính trị, sự trong sạch đội ngũ cán bộ và sức mạnh đại đoàn kết dân tộc là nhân tố quyết định. Yêu cầu cơ bản có ý nghĩa quyết định của thế trận quốc phòng toàn dân, bảo vệ Tổ quốc khi chưa xảy ra chiến tranh là thực hiện "cả nước một lòng, toàn dân giữ nước", mọi công dân đều có trách nhiệm xây dựng và bảo vệ Tổ quốc; khi xảy ra chiến tranh là thực hiện chiến tranh nhân dân "giặc đến nhà đàn bà cũng đánh", "cả nước một lòng toàn dân đánh giặc", tạo ra những "tấm lưới sắt", "bức thành đồng" đánh giặc giữ nước, như tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh về chiến tranh nhân dân Việt Nam đã chỉ ra.


Đó là sức mạnh của nền quốc phòng toàn dân nước ta, là bí quyết chiến thắng của sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa hiện nay.
Logged
saoden
Thành viên
*
Bài viết: 1075



« Trả lời #19 vào lúc: 13 Tháng Chín, 2022, 06:28:32 am »

GIÁO DỤC Ý THỨC BẢO VỆ TỔ QUỐC XÃ HỘI CHỦ NGHĨA CHO MỌI NGƯỜI DÂN HIỆN NAY - MỘT SỐ NỘI DUNG CẤP BÁCH


Bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa là một nhiệm vụ chiến lược, là nhiệm vụ "trọng yếu thường xuyên" của Đảng, Nhà nước và nhân dân ta trong giai đoạn hiện nay. Sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa trong thời kỳ mới đòi hỏi rất cao ý thức trách nhiệm công dân của mỗi con người. Ý thức bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa không những trực tiếp nâng cao tinh thần cảnh giác cách mạng, ý chí quyết tâm bảo vệ Tổ quốc, mà còn định hướng, điều chỉnh hành vi của con người trong thực hiện các nhiệm vụ quốc phòng, an ninh, bảo vệ Tổ quốc. Trong mỗi giai đoạn khác nhau, vấn đề giáo dục ý thức bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa đặt ra có sự khác nhau.


Trong tình hình mới, giáo dục nâng cao ý thức quốc phòng, ý thức bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa cho mọi tầng lớp nhân dân là vấn đề rất quan trọng và cấp thiết, trước hết cần tập trung giáo dục những nội dung chính sau:


Một là, giáo dục chú nghĩa yêu nước, ý thức bảo vệ đất nước gắn với ý thức bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa.

Ý thức dân tộc, chủ nghĩa yêu nước là cội nguồn, là "bệ đỡ" của việc hình thành, phát triển ý thức bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa. Chủ nghĩa yêu nước và ý thức dân tộc Việt Nam được nảy nỏ và phát triển từ tình yêu gia đình, làng xã, quê hương, yêu nhân dân lao động, tinh thần cố kết cộng đồng. Nhà - Làng - Nước là cái "trục chính" để từ đó nhân lên sức mạnh của ý thức bảo vệ Tổ quốc Việt Nam trong quá trình phát triển. Chủ nghĩa yêu nước Việt Nam được hình thành và nuôi dưỡng bởi ý thức dân tộc; đến lượt mình, chủ nghĩa yêu nước lại là động lực và cơ sở cho sự phát triển của ý thức dân tộc, ý thức tự bảo vệ, ý thức bảo vệ Tổ quốc của dân tộc Việt Nam.


Ở đây có một câu hỏi lớn đặt ra cần giải đáp: Làm thế nào để có thể "chuyển hóa", phát triển ý thức bảo vệ đất nước thành ý thức bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa? Trả lời câu hỏi này có nghĩa là phải làm cho tình yêu gia đình, quê hương, làng xã - chủ nghĩa yêu nước - ý thức dân tộc - ý thức bảo vệ Tổ quốc gắn kết chặt chẽ với nhau, hòa quyện vào nhau, phát triển thành ý thức bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa. Đó là sự thể hiện mối quan hệ truyền thống cốt yếu của lịch sử dân tộc: Nhà - Làng - Nước trong điều kiện lịch sử mới, phản ánh việc giải quyết mối quan hệ dân tộc - giai cấp trong quá trình phát triển ý thức bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa. "Chuyển hóa", phát triển ý thức bảo vệ Tổ quốc thành ý thức bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa là vấn đề chủ yếu, là cái "trục chính" của việc giáo dục nâng cao ý thức bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa cho các tầng lớp nhân dân hiện nay.


Theo đó, những kiến thức, những giá trị đặc trưng của chủ nghĩa yêu nước Việt Nam cả truyền thống và hiện đại; những kinh nghiệm, những tấm gương về chủ nghĩa yêu nước trong lịch sử và hiện tại; tình cảm yêu mến nhân dân lao động, tình yêu con người, tinh thần cố kết cộng đồng, tình làng nghĩa xóm; những yêu cầu mới về chủ nghĩa yêu nước trong điều kiện mới; tinh thần yêu nước gắn với yêu chủ nghĩa xã hội; ý thức dân tộc, ý thức tự bảo vệ gắn với ý thức trách nhiệm bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ Đảng... là những nội dung đặc biệt quan trọng tạo nên sự "chuyển hóa" đó, cần tập trung giáo dục nhằm nâng cao ý thức bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa cho mọi tầng lớp nhân dân.


Đảng ta đã chỉ rõ sự cần thiết phải nâng cao ý thức quốc phòng, bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới và nhấn mạnh: "Chú trọng giáo dục thống nhất nhận thức về đối tượng và đối tác; nắm vững đường lối, quan điểm, yêu cầu nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới; nâng cao ý thức trách nhiệm và tinh thần cảnh giác trong thực hiện nhiệm vụ quốc phòng, an ninh"1 (Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, Sđd, tr.109); "Tăng cường tuyên truyền, giáo dục tinh thần yêu nước, ý thức dân tộc, trách nhiệm và nghĩa vụ bảo vệ chủ quyền, lợi ích quốc gia và kiến thức quốc phòng, an ninh, làm cho mọi người hiểu rõ những thách thức lớn tác động trực tiếp đến nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc trong điều kiện mới, như: chiến tranh bằng vũ khí công nghệ cao, tranh chấp chủ quyền biển đảo, vùng trời, "diễn biến hòa bình", bạo loạn chính trị, khủng bố, tội phạm công nghệ cao, tội phạm xuyên quốc gia"1 (Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Sđd, tr.234).


Trong tình hình mới, độc lập dân tộc gắn bó chặt chẽ với chủ nghĩa xã hội được biểu hiện ở mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh mà Đảng và nhân dân ta đang phấn đấu. Mặc dù còn có những khó khăn, phức tạp bởi sự tác động của tình hình thế giới, khu vực trong điều kiện toàn cầu hóa và sự chống phá quyết liệt của các thế lực thù địch; mặc dù có những khó khăn của tình hình đất nước, sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống trong một bộ phận cán bộ, đảng viên và tình trạng quan liêu, tham nhũng, nhưng tuyệt đại đa số các tầng lớp xã hội vẫn tin tưởng tuyệt đối vào sự lãnh đạo của Đảng, vào sự nghiệp đổi mới đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa, vào đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước, không dao động. Đó là một biểu hiện rõ ràng về sự gắn kết giữa ý thức bảo vệ đất nước với ý thức bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa của nhân dân ta trong tình hình mới. Quyết tâm vươn lên làm giàu gắn bó chặt chẽ với quyết tâm bảo vệ và còn được thể hiện ở quyết tâm bảo vệ; quyết tâm bảo vệ góp phần củng cố quyết tâm làm giàu và còn được thể hiện ở quyết tâm làm giàu.


Mối quan hệ biện chứng đó là động lực xây dựng và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa của nhân dân ta trong thời kỳ mới.

Tuy nhiên, ở đây cần thấy rằng, một mặt chúng ta phải kiên quyết đấu tranh chống những biểu biện tách rời độc lập dân tộc với chủ nghĩa xã hội, tách rời ý thức bảo vệ quê hương đất nước, độc lập chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ với ý thức bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa và sự lãnh đạo của Đảng; song mặt khác cũng cần khắc phục khuynh hướng đồng nhất một cách máy móc giữa bảo vệ quê hương đất nước với bảo vệ chế độ.


Có nhiều người từ tình yêu đất nước, tình cảm sâu đậm đối với cội nguồn, nơi sinh ra và lớn lên, mặc dù chưa hẳn đã hiểu về chủ nghĩa xã hội, nhưng bằng hình thức này hay hình thức khác đã đóng góp công sức của mình vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Thực tế cho thấy, sự gắn kết giữa người Việt Nam ở trong nước và người Việt Nam đang định cư ở nước ngoài được củng cố, tăng cường bởi tình cảm dòng dõi con Lạc, cháu Hồng, bởi tình yêu nước và niềm tự hào là người Việt Nam. Trung tướng ngụy Đỗ Mậu trong bài "Việt Nam trên đà lột xác" trong cuốn sách Tầm thư đã thổ lộ tình cảm của mình đối với quê hương: những hình ảnh quê mùa nhưng đầy tình bà con thắm thiết nơi chôn nhau cắt rốn, hiện ra trên tivi làm cho tôi không cầm được nước mắt, tự hỏi biết bao giờ tôi có thể trở lại cố hương?


Sự mong muốn về một nước Việt Nam phồn vinh sẽ làm cho những tình cảm đối với đất nước ấy, dù là chưa đầy đủ, trở nên có ích hơn đối với Tổ quốc, góp phần củng cố sự đồng thuận, tăng cường khối đại đoàn kết giữa người Việt Nam ở nước ngoài với người Việt Nam ở trong nước, làm gia tăng sức mạnh bảo vệ Tổ quốc.


Trong thời kỳ mới, với khoảng bốn triệu người Việt Nam đang sinh sống ở nước ngoài giàu tình yêu quê hương đất nước, thì việc hướng tình cảm yêu nước ấy vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc càng có ý nghĩa đặc biệt quan trọng. Tại Đại hội X, Đảng ta chỉ rõ: "Lấy mục tiêu giữ vững độc lập, thống nhất của Tổ quốc, vì dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh làm điểm tương đồng để gắn bó đồng bào các dân tộc, các tôn giáo, các tầng lớp nhân dân ở trong nước và người Việt Nam định cư ở nước ngoài; xóa bỏ mặc cảm, định kiến, phân biệt đối xử về quá khứ, thành phần giai cấp. Tôn trọng những ý kiến khác nhau không trái với lợi ích của dân tộc. Đề cao truyền thống nhân nghĩa, khoan dung, xây dựng tinh thần cởi mở, tin cậy lẫn nhau vì sự ổn định chính trị và đồng thuận xã hội"1 (Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, Sđd, tr.116).


Đại hội XI của Đảng tiếp tục nhấn mạnh: "Lấy mục tiêu xây dựng một nước Việt Nam hòa bình, độc lập, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ, dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh làm điểm tương đồng; xóa bỏ mặc cảm, định kiến về quá khứ, thành phần giai cấp, chấp nhận những điểm khác nhau không trái với lợi ích chung của dân tộc; đề cao tinh thần dân tộc, truyền thống nhân nghĩa, khoan dung... để tập hợp, đoàn kết mọi người vào mặt trận chung, tăng cường đồng thuận xã hội"2 (Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Sđd, tr.239-240).


Giáo dục ý thức bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa trong tình hình mới, cần quán triệt và thực hiện tốt quan điểm cơ bản trên.

Ý thức bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa của mọi người dân Việt Nam hội tụ và gắn bó chặt chẽ giữa ý thức của từng người dân với ý thức xã hội, ý thức cá nhân với ý thức cộng đồng, ý thức của người dân Việt Nam ở trong nước với ý thức người Việt Nam ở nước ngoài. Dân tộc Việt Nam là một dân tộc có lòng tự hào, tự tôn dân tộc sâu sắc, có ý thức dân tộc cao, có tinh thần yêu nước nồng nàn. Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: "Dân ta có một lòng nồng nàn yêu nước. Đó là một truyền thông quý báu của ta. Từ xưa đến nay, mỗi khi Tổ quốc bị xâm lăng, thì tinh thần ấy lại sôi nổi, nó kết thành một làn sóng vô cùng mạnh mẽ, to lớn, nó lướt qua mọi sự nguy hiểm, khó khăn, nó nhấn chìm tất cả lũ bán nước và lũ cướp nước"2 (Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.7, tr.38). Truyền thống quý báu, động lực tinh thần to lớn này được nảy nở và phát triển từ tình yêu gia đình, làng xã, quê hương, yêu nhân dân lao động, tinh thần cố kết cộng đồng. Vấn đề đặt ra hiện nay là, phải trên cơ sở động lực tinh thần đó mà chuyển biến thành tình yêu chủ nghĩa xã hội, yêu nước gắn với yêu chủ nghĩa xã hội.


Cần làm cho mọi tầng lớp nhân dân hiểu rõ, có giữ vững được độc lập dân tộc thì chúng ta mới xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội; đồng thời chỉ có thể đưa đất nước phát triển theo con đường xã hội chủ nghĩa và xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội thì nền độc lập dân tộc mới được bảo đảm vững chắc. Sự gắn bó giữa độc lập dân tộc với chủ nghĩa xã hội là thuộc tính của cách mạng Việt Nam; là đặc điểm cơ bản phản ánh nội dung cốt lõi và bản chất của ý thức bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa trong thời kỳ mới. Trong các cuộc kháng chiến chống Pháp, chống Mỹ trước kia, ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội là mục đích và động lực cơ bản để giải phóng dân tộc, thống nhất Tổ quốc, đưa cả nước đi lên chủ nghĩa xã hội.
Logged
Trang: « 1 2 3 4 5 »   Lên
  In  
 
Chuyển tới:  

Powered by MySQL Powered by PHP Powered by SMF 1.1.21 | SMF © 2006-2008, Simple Machines

Valid XHTML 1.0! Valid CSS! Dilber MC Theme by HarzeM