Lịch sử Quân sự Việt Nam
Tin tức: Lịch sử quân sự Việt Nam
 
*
Chào Khách. Bạn có thể đăng nhập hoặc đăng ký. 17 Tháng Tư, 2024, 12:40:19 am


Đăng nhập với Tên truy nhập, Mật khẩu và thời gian tự động thoát


Trang: 1 2 3 4 »   Xuống
  In  
Tác giả Chủ đề: Diễn biến hòa bình và cuộc đấu tranh chống diễn biến hòa bình ở Việt Nam  (Đọc 1590 lần)
0 Thành viên và 1 Khách đang xem chủ đề.
saoden
Thành viên
*
Bài viết: 1075



« vào lúc: 20 Tháng Sáu, 2022, 05:20:27 pm »

- Tên sách: Diễn biến hòa bình và cuộc đấu tranh chống diễn biến hòa bình ở Việt Nam
- Tác giả: 
- Nhà xuất bản: Quân đội Nhân dân
- Năm xuất bản: 2005
- Người số hóa: giangtvx, saoden

 
BAN BIÊN SOẠN:

   Đại tá PHẠM QUANG ĐỊNH - Chủ biên
   Đại tá ĐỖ ĐỨC ĐIỂN
   Đại tá LÊ HẢI TRlỀU
   Đại tá NGUYỄN HỮU ĐỨC
   Thượng tá ĐẬU XUÂN LUẬN


LỜI NHÀ XUẤT BẢN


"Diễn biến hòa bình" là chiến lược phản cách mạng của chủ nghĩa đế quốc và các thế lực thù địch dùng phương thức "phi vũ trang" tiến hành công phá trên tất cả các lĩnh vực nhằm thủ tiêu chủ nghĩa xã hội. Chiến lược "diễn biến hòa bình" của chủ nghĩa đế quốc và các thế lực thù địch đã gây tổn thất nghiêm trọng cho chủ nghĩa xã hội và phong trào cách mạng trên thế giới. Sự sụp đổ của chủ nghĩa xã hội ở Đông Âu và Liên Xô có sự tác động lớn của chiến lược "diễn biến hòa bình" và cho thấy tính chất đặc biệt nguy hiểm của chiến lược này đối với vận mệnh của chủ nghĩa xã hội.


Trong mấy thập kỷ qua, Việt Nam là một mục tiêu chống phá của chiến lược "diễn biến hòa bình". Sau khi các nước xã hội chủ nghĩa ở Đông Âu và Liên Xô sụp đổ, chủ nghĩa đế quốc coi Việt Nam là một trọng điểm của chiến lược "diễn biến hòa bình", ráo riết tiến hành nhiều thủ đoạn rất thâm độc, vừa tinh vi vừa trắng trợn chống phá độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Đây thực sự là một trong những nguy cơ lớn đối với nền độc lập dân tộc và chế độ xã hội chủ nghĩa của nhân dân ta.


Nhận rõ sự nguy hại của "diễn biến hòa bình", trong những năm qua toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta đã đề cao cảnh giác, tích cực đấu tranh phòng, chống chiến lược "diễn biến hòa bình" của các thế lực thù địch, giữ vững ổn định chính trị - xã hội, đưa đất nước phát triển từng bước vững chắc. Tuy nhiên, trong đấu tranh chúng ta còn bộc lộ không ít hạn chế. Còn có những biểu hiện mơ hồ, chưa nhận rõ âm mưu, thủ đoạn "diễn biến hòa bình" của các thế lực thù địch, cũng như tính chất quyết liệt, gay go, phức tạp, khó phân định ranh giới đâu là thủ đoạn của "diễn biến hòa bình", đâu là thiếu sót, sai lầm do ta gây ra để có biện pháp đấu tranh phù hợp, nhằm làm thất bại chiến lược "diễn biến hòa bình" của chủ nghĩa đế quốc.


Để góp phần vào cuộc đấu tranh chống chiến lược "diễn biến hòa bình", Nhà xuất bản Quân đội nhân dân tổ chức biên soạn và xuất bản cuốn sách "Diễn biến hòa bình" và cuộc đấu tranh chống "diễn biến hòa bình" ở Việt Nam.


Hy vọng rằng, cuốn sách tham khảo này sẽ giúp bạn đọc hiểu biết một cách cơ bản, hệ thống lịch sử hình thành và tác hại của chiến lược "diễn biến hòa bình" đối với các nước xã hội chủ nghĩa, cũng như cuộc đấu tranh của nhân dân ta chống chiến lược "diễn biến hòa bình" hiện nay, nhất là trên các lĩnh vực được coi là nhạy cảm mà chủ nghĩa đế quốc và các thế lực thù địch đang tận dụng triệt để để chống phá cách mạng Việt Nam. Qua đó, nhận thức đúng mục tiêu, âm mưu, thủ đoạn chiến lược "diễn biến hòa bình" của chủ nghĩa đế quốc và các thế lực thù địch, nâng cao cảnh giác cách mạng, chủ động phòng ngừa và có phương thức đấu tranh hữu hiệu chống chiến lược "diễn biến hòa bình".


Yêu cầu mới của sự nghiệp xây dựng thành công và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa đặt ra một cách cấp thiết phải quán triệt sâu sắc hơn nữa tinh thần cảnh giác cách mạng cho toàn thể nhân dân và đặc biệt là lực lượng vũ trang, nâng cao hiệu quả cuộc đấu tranh chống chiến lược "diễn biến hòa bình" mà các thế lực thù địch đang thực hiện đối với nước ta. Đấu tranh làm thất bại chiến lược "diễn biến hòa bình" của chủ nghĩa đế quốc và các thế lực thù địch thực sự là nhiệm vụ hàng đầu của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa trong tình hình mới.


Trân trọng giới thiệu cùng bạn đọc!

NHÀ XUẤT BẢN QUÂN ĐỘI NHÂN DÂN
Logged
saoden
Thành viên
*
Bài viết: 1075



« Trả lời #1 vào lúc: 25 Tháng Bảy, 2022, 07:03:40 am »

Phần thứ nhất
QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH CHIẾN LƯỢC "DIỄN BIẾN HÒA BÌNH" CỦA CHỦ NGHĨA ĐẾ QUỐC VÀ SỰ TÁC HẠI ĐỐI VỚI MỘT SỐ NƯỚC


I. QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH CHIẾN LƯỢC "DIỄN BIẾN HÒA BÌNH" CỦA CHỦ NGHĨA ĐẾ QUỐC

Chiến lược "diễn biến hòa bình" là sản phẩm của chủ nghĩa đế quốc, nhằm xóa bỏ chế độ xã hội chủ nghĩa, phản ánh tính chất phức tạp, quyết liệt của cuộc đấu tranh giai cấp giữa giai cấp vô sản và giai cấp tư sản. "Diễn biến hòa bình" là cuộc tấn công "mềm", "ngầm", sử dụng các biện pháp phi quân sự là chủ yếu, thông qua cái gọi là "tự do", "dân chủ", "nhân quyền"... kiểu Mỹ để "tấn công" vào chủ nghĩa xã hội trên các lĩnh vực kinh tế, chính trị, tư tưởng, văn hóa, lối sống và tôn giáo... nhằm làm xuất hiện ngay trong lòng các nước xã hội chủ nghĩa những nhân tố đối lập với Đảng Cộng sản, đối lập với chủ nghĩa xã hội (tư hữu hóa về kinh tế, đa nguyên về chính trị và lối sống phương Tây). Từ đó làm suy yếu Đảng Cộng sản, làm cho cách mạng mất dần bản sắc của mình, tự diễn biến, chuyển hóa khi thời cơ xuất hiện sẽ gây sức ép về kinh tế, chính trị, tư tưởng, có thể cả quân sự để xóa bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản, lái chủ nghĩa xã hội theo con đường tư bản chủ nghĩa, chịu sự chi phối của Mỹ và phương Tây.


1. Sự ra đời, phát triển của chiến lược "diễn biến hòa bình".

Chiến lược "diễn biến hòa bình" ra đời vào thời kỳ chiến tranh lạnh trong bối cảnh quốc tế đang biến động phức tạp. Cuộc đấu tranh giai cấp giữa giai cấp vô sản và giai cấp tư sản ngày càng diễn ra gay go quyết liệt. Chủ nghĩa đế quốc và các thế lực phản động quốc tế liên tục điều chỉnh chiến lược, thay đổi biện pháp đối phó với các nước xã hội chủ nghĩa và phong trào tiến bộ xã hội. Trong quá trình đó, chiến lược "diễn biến hòa bình" đã ra đời, phát triển cùng với sự điều chỉnh phương thức, thủ đoạn chiến lược của chủ nghĩa đế quốc và các thế lực phản động quốc tế.

a) Sự điều chỉnh chiến lược của Mỹ khi thế giới còn hai hệ thống chính trị xã hội chủ nghĩa và tư bản chủ nghĩa.

Sau Đại chiến thế giới lần thứ hai, chủ nghĩa xã hội từ một nước trong vòng vây của chủ nghĩa đế quốc đã trở thành một hệ thống trên thế giới (năm 1961 có 13 nước xã hội chủ nghĩa ở châu Âu, châu Á và châu Mỹ La-tinh), phong trào giải phóng dân tộc và phong trào công nhân phát triển mạnh mẽ. Ba dòng thác cách mạng này hình thành thế chiến lược tiến công toàn diện vào chủ nghĩa đế quốc, thực dân. Cuộc đấu tranh giai cấp giữa giai cấp vô sản và giai cấp tư sản trở nên gay gắt, quyết liệt, biểu hiện tập trung ở cuộc đấu tranh giữa hai hệ thống xã hội chủ nghĩa và tư bản chủ nghĩa.


Trước tình hình so sánh lực lượng bất lợi, chủ nghĩa đế quốc, đứng đầu là đế quốc Mỹ ráo riết tìm kiếm giải pháp chiến lược nhằm ngăn chặn "làn sóng cộng sản" từ Đông Âu và Liên Xô. Đầu năm 1946, khi còn là đại diện lâm thời của Mỹ ở Liên Xô, G. Ken-nan đã kiến nghị với Nhà Trắng, nhân tố cơ bản nhất trong chính sách ngoại giao của Mỹ đối với Liên Xô là phải kiềm chế khuynh hướng "bành trướng", phải thực thi chính sách "ngăn chặn" lâu dài, kiên nhẫn nhưng kiên quyết và luôn luôn cảnh giác. Ken-nan cho rằng "kiềm chế và giải phóng là hai mặt của một đồng tiền, là hai phần của một vấn đề tương đối lớn", đồng thời khuyến cáo với Nhà Trắng, phải thực hiện giải pháp ngăn chặn bằng thủ đoạn gieo vào trong lòng chế độ Xô-viết những mầm mống tự thủ tiêu, làm "mềm hóa từng bước" để cuối cùng tan rã. Với ý tưởng này, Ken-nan trở thành lý luận gia đầu tiễn của chiến lược "ngăn chặn" và chiến lược "diên biến hòa bình".


Trên cơ sở lý luận của Ken-nan, tháng 3 năm 1947, chính quyền Tru-man công bố chính thức thực hiện chiến lược "ngăn chặn" chủ nghĩa cộng sản. Chiến lược "ngăn chặn" sử dụng biện pháp quân sự là chủ yếu (chiến tranh xâm lược, chiến tranh cục bộ, chiến tranh đặc biệt, chạy đua vũ trang...), kết hợp các thủ đoạn, biện pháp khác, trong đó "diễn biến hòa bình" là một thủ đoạn nhằm "chặn đứng" sự phát triển của Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa. Văn kiện số 68 của Hội đồng An ninh quốc gia Mỹ xác định mục tiêu của chiến lược "ngăn chặn" là dùng mọi thủ đoạn để chặn đứng sự khuếch trương của Liên Xô trong điều kiện không phát động chiến tranh, phải gieo hạt giống thức tỉnh, hủy diệt chế độ Xô-viết nhằm tạo ra sự thay đổi tận gốc đối với xã hội Liên Xô.


Để đạt được mục tiêu trên, chính quyền Tru-man phát động cuộc chiến tranh lạnh, đối đầu quyết liệt, toàn diện với Liên Xô bằng chiến tranh tâm lý, chạy đua vũ trang, cấm vận kinh tế, lập vành đai bao quanh Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa, trực tiếp can thiệp vào nội bộ nhiều nước (cả can thiệp vũ trang). Ngày 12 tháng 3 năm 1947, Tru-man đề nghị Quốc hội Mỹ viện trợ cho Hy Lạp và Thổ Nhĩ Kỳ 400 triệu USD và cử nhân viên quân sự, dân sự đến giúp duy trì nền thống trị để các nước này không "ngả vào lòng cộng sản". Đồng thời, tháng 11 năm 1947, Mỹ đưa ra kế hoạch Mác-san (tháng 4 năm 1948, Quốc hội Mỹ chính thức phê chuẩn), viện trợ 14 tỷ USD, giúp các nước Tây Âu phục hồi kinh tế sau chiến tranh, ép các nước này loại bỏ những Bộ trưởng là cộng sản ra khỏi chính phủ liên hiệp và cài cắm gián điệp vào các đảng cộng sản, thúc đẩy sự phát triển của lực lượng "dân chủ" để gây chia rẽ, phá hoại tư tưởng từ bên trong các nước xã hội chủ nghĩa. Thực chất của các kế hoạch này nhằm "ngăn chặn" chủ nghĩa cộng sản và buộc các nước Tây Âu ngả theo Mỹ, chịu sự chi phối của Mỹ.


Đối với Trung Quốc, trong một bức thư gửi Tổng thống Tru-man (ngày 20 tháng 7 năm 1949), Ngoại trưởng Mỹ Ac-ke-sơn khuyến cáo, "những người theo chủ nghĩa cá nhân ở Trung Quốc (phần tử theo chủ nghĩa dân chủ cũ, thân Mỹ) có thể tạo ra sự biến đối từ bên trong, lật đổ sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Trung Quốc, làm sụp đổ chính quyền nhân dân...


Đối với các nước xã hội chủ nghĩa ở Đông Âu, Ngoại trưởng F.Đa-lét (1953-1959) xác định, cần phải "giải phóng" họ khỏi chế độ cộng sản nhưng không phải bằng một cuộc chiến tranh mà bằng "biện pháp hòa bình", phi chiến tranh. Theo Đa-lét, "sự tồn tại của chủ nghĩa xã hội không phải là vĩnh cửu và không thể thay đổi được", trong khi các nước Tây Âu phục hồi và phát triển kinh tế, chỉ cần "hé tấm màn sắt" nhân dân các nước xã hội chủ nghĩa sẽ từ bỏ chủ nghĩa cộng sản vì thấy cuộc sống tự do, tốt đẹp và sung túc ở các nước phương Tây.


Đồng thời, Mỹ câu kết với 14 quốc gia phương Tây (Anh, Pháp, Đức, Nhật...), bí mật thành lập "Ủy ban thống nhất quản lý thị trường xuất khẩu (Feria, 1949) để gây khó khăn cho việc buôn bán Đông - Tây, phá hoại thương trường thế giới, thực chất là thực hiện bao vây cấm vận đối với các nước xã hội chủ nghĩa. Theo thống kê của một tờ báo ở Hồng Kông, trong 5 năm, "từ 1949-1954 có tới hơn 100 lần tàu buôn đi tới Trung Quốc bị chặn lại và bị công kích, nhiều tàu thuyền do Trung Quốc thuê và thuyền viên Trung Quốc thậm chí bị giam vô lý dài ngày ở đất khách quê người...


Tháng 12 năm 1957, Tổng thống Ai-xen-hao (1953-1960) tuyên bố, Mỹ sẽ "giành thắng lợi bằng hòa bình" chính thức coi "diễn biến hòa bình" là chiến lược để lật đổ các nước xã hội chủ nghĩa. Năm 1955, Ai-xen-hao tuyên bố mục tiêu của chiến lược "diễn biến hòa bình" là đọc lời cáo chung cho chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản bên thềm thế kỷ XXI.
Logged
saoden
Thành viên
*
Bài viết: 1075



« Trả lời #2 vào lúc: 25 Tháng Bảy, 2022, 07:04:22 am »

Tiếp tục tư tưởng của những người tiền nhiệm, Ken-nơ-đi, Giôn-sơn (1961-1968) rất chú trọng bồi dưỡng những hạt giống tự do sau bức màn thép cộng sản, và cho rằng biện pháp "diễn biến hòa bình" tuy chậm chạp nhưng đáng tin cậy.


Trước khi lên nắm quyền tổng thống, Ken-nơ-đi đã từng tuyên bố (trong diễn văn đọc tại Thượng viện Mỹ ngày 10 tháng 8 năm 1957): "Giải phóng hoặc diễn biến hòa bình đương nhiên là rất tốt... nhưng Quốc vụ khanh vẫn chưa đưa ra được những bước đi cụ thể cùng những bước đi quan trọng" và cho rằng: "Cần phải coi trọng những biện pháp cụ thể", như: gia tăng tiếp xúc, trao đổi văn hóa, khoa học, giáo dục... để phá vỡ khoảng cách với phương Tây đã có từ lâu mà Liên Xô áp đặt cho nhân dân Ba Lan; tăng cường quan hệ bằng cách lợi dụng các loại mậu dịch hữu hình và vô hình... khuyến khích những người cùng huyết thống về thăm Ba Lan; nghiên cứu thêm khả năng viện trợ kỹ thuật cho Ba Lan... thực chất là để xâm nhập, kích động chống phá nội bộ các nước xã hội chủ nghĩa, đặc biệt là Ba Lan; đồng thời kêu gọi (trong một diễn văn khác cũng đọc tại Thượng viện Mỹ, ngày 14 tháng 6 năm 1960): "Phải hành động ngay, phải từng bước thận trọng bồi dưỡng hạt giống tự do từ bất kỳ kẽ hở nào được xuất hiện trên bức màn thép".


Theo Ken-nơ-đi: "Chính phủ Mỹ sẽ phải chủ động hơn nữa, sử dụng một loạt công cụ linh hoạt hơn, bằng viện trợ kinh tế, mở rộng buôn bán, tăng số người du lịch, mở rộng giao lưu giữa sinh viên và giáo viên, mở rộng sự nghiệp báo chí, vốn kỹ thuật và tăng cường tiếp xúc trong nhân dân, thúc đẩy sự biến đổi hòa bình đằng sau tấm màn sắt". Sau khi đắc cử Tổng thống Mỹ, bài diễn văn đầu tiên nói về tình hình trong nước (ngày 21 tháng 1 năm 1961), Ken- nơ-đi tuyên bố: "Nước Mỹ giống như con đại bàng trên Quốc huy hình lá chắn của tổng thống, chân phải của nó cắp cành ô-liu còn chân kia cắp mũi tên, phải coi trọng cả hai chân như nhau" và giải thích "trong đối kháng với Liên Xô, một mặt phải giữ thái độ cứng rắn, nhưng mặt khác cũng phải thử xem liệu chúng ta có thể tìm thấy một số cung cách trao đối ý kiến nào đó được không". Thực hiện ý tưởng trên, trong suốt nhiệm kỳ của mình, Ken-nơ-đi đã thực hiện chính sách "đi hai chân", một mặt tiếp tục thực hiện chính sách cứng rắn (bao vây, cấm vận, chống đối), mặt khác vạch kế hoạch "hòa bình" với Liên Xô (tháng 6 năm 1961), đề xướng "liên minh vì tiến bộ", chi 20 tỷ USD viện trợ nhằm khắc phục ảnh hưởng của chủ nghĩa cộng sản ở châu Mỹ La-tinh, thành lập "đội hòa bình" ở châu Phi, điều chỉnh chiến lược quân sự "trả đũa ồ ạt" (của Ai-xen-hao) thành chiến lược "phản ứng linh hoạt", đồng thời tiến hành "chiến tranh đặc biệt", "chiến tranh cục bộ" ở Việt Nam. Theo Ken-nơ-đi, "dưới ngọn cờ hòa bình có thể giành được mọi thứ trên bàn đàm phán với Liên Xô và làm gay gắt thêm mâu thuẫn Xô - Trung để từ đó tăng cường kiềm chế Trung Quốc".


Thời kỳ chính quyền Ních-Xơn, R.Pho (1969¬1980), Mỹ suy yếu, nhất là sau chiến tranh Việt Nam, Mỹ lâm vào tình trạng khủng hoảng, suy yếu nghiêm trọng, mất ưu thế quân sự, bị Liên Xô đuổi kịp và vượt một số mặt về kinh tế, hội chứng Việt Nam tác động sâu sắc đến nhiêu mặt đời sống xã hội Mỹ. Trong khi đó, phong trào giải phóng dân tộc phát triển mạnh mẽ (từ 1976-1981 có 21 nước giành độc lập). Trước tình thế trên, Mỹ (Ních-Xơn) cho rằng: "Diễn biến hòa bình" không thể nôn nóng, không thể hoàn thành trong mấy chục năm mà phải trong nhiều thế hệ và chủ trương khuyến khích "tự diễn biến" trong nội bộ các nước xã hội chủ nghĩa, làm cho thông tin phương Tây "như dòng nước xói mòn và tan rã chế độ cộng sản". Trong cuốn sách "1999 - chiến thắng không cần chiến tranh", Ních-Xơn cho rằng: "Làm dịu quan hệ Đông - Tây sẽ làm cho phương Đông xuất hiện sự phân hóa lớn hơn. Tình hình căng thẳng sẽ càng củng cố thêm độc tài. Làm dịu bớt căng thẳng sẽ cho chế độ độc tài yếu đi. Không ai phủ nhận chính sách hòa dịu những năm 70 của chúng ta đã thúc đẩy sự trỗi dậy mạnh mẽ và dẫn tới sự ra đời của phong trào Công đoàn đoàn kết ở Ba Lan". Ních-Xơn còn khẳng định: "Mở chiến trường tư tưởng, tuyên truyền tự do, dân chủ và quan niệm giá trị theo kiểu Mỹ phải nắm lấy vấn đề nhân quyền, nắm vững cuộc đấu tranh về hình thái ý thức, phải mở rộng sự giao lưu với các nước xã hội chủ nghĩa để nó chịu ảnh hưởng và chịu tác động của phương Tây. Làm như vậy, thậm chí ngay cả các nhân vật lỗi lạc của Đảng Cộng sản cũng khó mà chống đỡ nổi. Đến lúc đó nó sẽ gieo hạt giống tư tưởng, những hạt giống này sẽ kết thành nụ hoa của diễn biến hòa bình".


Thời kỳ chính quyền Ri-gân (1981-1988), Mỹ khôi phục kinh tế, quân sự và vị thế quốc tế, tăng cường sức mạnh trên một số mặt. Các nước tư bản khác cũng vượt qua khủng hoảng, sản xuất bắt đầu phát triển. Trong khi đó, do duy trì quá lâu cơ chế quản lý quan liêu bao cấp và "dốc sức" chạy theo chương trình SDI (chiến tranh trên các vì sao) của Mỹ, các nước xã hội chủ nghĩa lâm vào tình trạng khó khăn về kinh tế, phải tiến hành cải tổ, cải cách, đổi mới để tháo gỡ. Một số nước nóng vội, chủ quan, không tôn trọng quy luật khách quan đã phạm phải sai lầm nghiêm trọng trong cải tổ, cải cách, làm cho tình hình trở nên khó khăn, phức tạp hơn. Ngoài ra, do sự phát triển mạnh mẽ của cuộc cách mạng khoa học công nghệ đã tạo ra xu thế quốc tế hóa nền kinh tế thế giới. Trước tình thế và thời cơ đó, Mỹ từng bước điều chỉnh chiến lược nhằm xác lập vai trò của Mỹ trên thế giới, chiến lược ''diễn biến hòa bình" tiếp tục được hoàn thiện.


Khi điều chỉnh chiến lược, Mỹ ngầm đánh vào bên trong các nước xã hội chủ nghĩa, đồng thời nghi binh chiến lược, tích cực tuyên truyền chạy đua vũ trang, thu hút Liên Xô và một số nước xã hội chủ nghĩa vào cái gọi là "chương trình SDI", kéo quân đội Liên Xô ra ngoài, chạy theo đối phó với "nguy cơ một cuộc chiến tranh hạt nhân tổng lực, toàn cầu", loại được công cụ sắc bén của Đảng Cộng sản Liên Xô, đặc biệt là loại được lực lượng KGB ra khỏi cuộc "chiến tranh ngầm" đang diễn ra gay gắt ngay trong lòng chế độ xã hội chủ nghĩa. Lợi dụng các nước xã hội chủ nghĩa cải tổ, cải cách, mở cửa để "mở rộng dân chủ", tháng 10 năm 1982, Mỹ mở hội nghị chuyên đề "dân chủ hóa các quốc gia cộng sản", đồng thời vạch dự án "dân chủ toàn cầu" nhằm ủng hộ sự xuất hiện của lực lượng "dân chủ" ở các nước cộng sản, tìm cách đả kích hệ tư tưởng Mác-xít, đề cao "dân chủ", "tự do" phương Tây, thúc đẩy sự hòa nhập kinh tế thế giới để lái cải cách đi chệch khỏi quỹ đạo của chủ nghĩa xã hội.


Thời kỳ này Mỹ chú ý hơn đối với các "nhân tố bên trong" các nước xã hội chủ nghĩa. Theo Ngoại trưởng Mỹ, "nhân tố quan trọng của công cuộc dân chủ hóa trong các quốc gia cộng sản phải là thế lực bên trong của nó. Để tạo ra một đột phá khẩu cần nuôi dưỡng lực lượng dân chủ, bất đồng chính kiến trong các nước xã hội chủ nghĩa". Đồng thời Mỹ cho rằng "thời cơ diễn biến hòa bình ở Đông Âu đã chín muồi, Liên Xô cũng đang tiềm tàng khả năng diễn biến hòa bình" và coi Đông Âu là "đột phá khẩu" để thực hiện "diễn biến hòa bình". (Sau chuyến khảo sát các nước xã hội chủ nghĩa năm 1983, cựu Tổng thống Ních-xơn nhận định: ''Những người cộng sản Đông Âu đã hoàn toàn mất đi lòng tin. Ngày nay, phần lớn họ đã trở thành những người tham lam và quan liêu.


Ý nghĩa và niềm tin của Đảng Cộng sản bị sụp đổ... Một thế hệ những người Đông Âu đang trỗi dậy không phải là các nhà tư tưởng mà là các nhà thực tiễn cho diễn biến hòa bình").

Sau khi nhận chức Tổng thống Mỹ (tháng 1 năm 1989), G.Bu-sơ đưa ra chiến lược "vượt trên ngăn chặn", đối với Liên Xô và Đông Âu (tháng 5 năm 1989), nhằm đưa cuộc đấu tranh vào trong lòng các nước xã hội chủ nghĩa, làm cho các nước xã hội chủ nghĩa bị xô đẩy tới chỗ sụp đổ. Thời kỳ này, Mỹ đặc biệt chú ý đến việc sử dụng lực lượng phản động bên trong để chống phá, làm suy yếu các nước xã hội chủ nghĩa; phân biệt đối xử đối với các nước, tăng cường viện trợ kinh tế, hỗ trợ lực lượng "dân chủ", khuyến khích "thị trường tự do" ở Liên Xô và các nước Đông Âu nhằm hướng lái các nước này đi chệch khỏi quỹ đạo của chủ nghĩa xã hội; ngầm viện trợ lực lượng phản động ở một số nước thuộc "thế giới thứ ba" và gây sức ép, buộc chính quyền các nước này phải ngả theo Mỹ. Đến đây, chiến lược "diễn biến hòa bình" từ ý tưởng đã trở thành một chiến lược chống cộng hoàn chỉnh, là bộ phận quan trọng nhất trong chiến lược toàn cầu phản cách mạng của Mỹ và các thế lực phản động.


Như vậy, khi thực hiện chiến lược "ngăn chặn" và "vượt trên ngăn chặn", nhất là từ sau thất bại ở Việt Nam, Mỹ nhận ra rằng, dùng vũ lực để "tiêu diệt" các nước xã hội chủ nghĩa là không thể thực hiện được.

Vì thế, Mỹ đã tính toán, tìm kiếm giải pháp mới. Mỹ từng bước thay đổi chiến lược, chuyển từ tiến công bằng sức mạnh quân sự là chủ yếu sang tiến công bằng "diễn biến hòa bình" là chủ yếu. Và, "diễn biến hòa bình" từ vị trí là thủ đoạn của chiến lược "ngăn chặn", "vượt trên ngăn chặn" đã trở thành một chiến lược chống cộng hoàn chỉnh. Sử dụng chiến lược này, Mỹ và các thế lực phản động đã thu được kết quả, tạo ra sự sụp đổ của chế độ xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô và các nước Đông Âu.
Logged
saoden
Thành viên
*
Bài viết: 1075



« Trả lời #3 vào lúc: 25 Tháng Bảy, 2022, 07:05:01 am »

b) Sự điều chỉnh chiến lược của Mỹ sau khi chế độ xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô và Đông Âu sụp đổ.

Sau khi tạo ra sự sụp đổ của chế độ xã hội chủ nghĩa ở các nước Đông Âu và Liên Xô, Mỹ (B.Clin-tơn, 1993) tiến hành chiến lược "can dự", thực hiện "dính líu" vào các nước, "khuếch trương" thanh thế của Mỹ để thúc đẩy "dân chủ", mở rộng kinh tế thị trường tự do trên phạm vi thế giới, trọng điểm là khu vực thuộc các nước Liên Xô cũ và Đông Âu, nhằm củng cố và thiết lập thể chế tư bản chủ nghĩa ở khu vực này, đồng thời tăng cường "diễn biến hòa bình" đối với các nước xã hội chủ nghĩa còn lại.


Chính quyền G.Bu-Sơ (từ 20 tháng 1 năm 2001) tiếp tục theo đuổi chiến lược "can dự" nhưng có sự điều chỉnh nhất định. Mỹ xác định sẽ tăng cường "dính líu" vào các nước nhưng bằng các biện pháp "cứng rắn" hơn, trong đó coi trọng "đòn phủ đầu" để thực hiện cái gọi là "chủ nghĩa quốc tế riêng của Mỹ" (G. Bu-Sơ). Mỹ tuyên bố: "Chủ nghĩa quốc tế riêng của Mỹ sẽ không có bất kể sự nhún nhường nào khiến cho Mỹ phải rút lui khỏi thế giới, co về pháo đài của chủ nghĩa bảo hộ hoặc về một hòn đảo biệt lập" (Ngoại trương Mỹ C.Pao-oen, cuộc điều trần ngày 17 tháng 1 năm 2001).


Sau khi nước Mỹ bị tấn công (ngày 11 tháng 9 năm 2001), Mỹ ra sức lợi dụng cuộc chiến "chống khủng bố, lấy cớ "kiểm soát việc sản xuất, tàng trữ vũ khí giết người hàng loạt" để tính toán, điều chỉnh chiến lược. Đặc biệt, sau khi lôi kéo đồng minh vào cuộc chiến "chống khủng bố và lôi kéo được một số nước lớn ngả theo mình, Mỹ đơn phương tuyên bố rút khỏi Hiệp ước cấm tên lửa đạn đạo (ABM), đẩy nhanh việc thử nghiệm Hệ thống phòng thủ tên lửa quốc gia (NMD), thành lập "Bộ tư lệnh Bắc Mỹ", tăng chi phí quân sự (năm 2002 là 331 tỷ USD, năm 2003 là 355,1 tỷ USD, năm 2004 là 368,7 tỷ USD, năm 2005 là 417 tỷ USD và đến năm 2009 dự kiến sẽ là gần 500 tỷ USD) nhằm châm ngòi một cuộc chạy đua vũ trang mới, tăng cường khả năng răn đe để thực hiện ý đồ "xây dựng thế giới một siêu cường" do Mỹ đứng đầu. Mỹ trực tiếp can thiệp (cả bằng quân sự) vào nhiều nước để mở rộng ảnh hưởng của mình ở khu vực Trung Đông và châu Á - Thái Bình Dương, đồng thời triệt để lợi dụng quan hệ kinh tế và vấn đề tôn giáo, dân tộc (thông qua chiêu bài "dân chủ, nhân quyền") để "can dự" sâu hơn, nhằm "diễn biến hòa bình" đối với các nước, hoặc gây áp lực nhằm hướng lái các nước theo "quỹ đạo" của Mỹ.


Mỹ tuyên bố, sẽ thông qua việc bảo vệ "tự do và công lý", kiên quyết giữ vững những đòi hỏi không thể đàm phán về "nhân phẩm", sự cai trị của pháp luật, những giới hạn vế quyền lực của nhà nước, quyền "tự do ngôn luận, công lý, bình đẳng"... để xóa đi nhũng kẻ thù cũ.


Như vậy, sau thời kỳ chiến tranh lạnh, chủ nghĩa đế quốc và các thế lực phản động quốc tế một mặt tiến hành xác lập và củng cố thể chế tư bản chủ nghĩa ở các nước Đông Âu và Liên Xô, mặt khác tiếp tục thực hiện chiến lược "diễn biến hòa bình" nhằm thủ tiêu các nước xã hội chủ nghĩa còn lại để xây dựng một thế giới "đơn cực" do Mỹ chi phối. Đây là ý đồ bành trướng của chủ nghĩa đế quốc và các thế lực phản động quốc tế, đe dọa sự ổn định, nền hòa bình của nhân loại.
Logged
saoden
Thành viên
*
Bài viết: 1075



« Trả lời #4 vào lúc: 25 Tháng Bảy, 2022, 07:05:59 am »

2. Mục tiêu, bản chất của chiến lược "diễn biến hòa bình".

Mục đích cuối cùng của chiến lược "diễn biến hòa bình" là xóa bỏ chủ nghĩa xã hội trên mọi phương diện: Chủ nghĩa xã hội với tư cách là một xu thế và con đường phát triển, một học thuyết lý luận, một hệ tư tưởng, một phương thức sản xuất, một hệ thống giá trị, một phong trào hiện thực và một kiểu chế độ xã hội. Để đạt tới mục đích đó, chủ nghĩa đế quốc đặt ra những mục tiêu cơ bản sau:


Một là, xoá bỏ chủ nghĩa Mác - Lênin, thay thế bằng tư tưởng tư sản ở các nước xã hội chủ nghĩa.

Những nhà lý luận của chiến lược "diễn biến hòa bình" đều cho rằng tư tưởng là lĩnh vực có tầm quan trọng hàng đầu, tước bỏ vũ khí tư tưởng của đối phương là khâu đột phá của chiến lược "diễn biến hòa bình". Muốn xoá bỏ chủ nghĩa xã hội, trước hết cần xoá bỏ chủ nghĩa Mác - Lênin. Chủ nghĩa đế quốc đặt mục tiêu đầu tiên và là mục tiêu hết sức quan trọng của "diễn biến hòa bình" chống chủ nghĩa xã hội là xoá bỏ chủ nghĩa Mác - Lênin. Đi đôi với việc tìm cách xoá bỏ chủ nghĩa Mác - Lênin, chủ nghĩa đế quốc đẩy mạnh xâm nhập tư tưởng tư sản, làm cuộc đảo chính hòa bình về hệ tư tưởng trong các nước xã hội chủ nghĩa.


Hai là, xoá bỏ sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản, thực hiện "đa nguyên chính trị", "đa đảng đối lập" ở các nước xã hội chủ nghĩa.

Trong chiến lược "diễn biến hòa bình", chủ nghĩa đế quốc tập trung chống Đảng Cộng sản lãnh đạo chính quyền, lãnh đạo xã hội ở các nước xã hội chủ nghĩa. Chúng thường tung ra các luận điệu: Đảng Cộng sản độc quyền lãnh đạo là "độc tài", "bóp nghẹt dân chủ"... Vì thế, cần phải thực hiện "đa nguyên lợi ích", "đa nguyên chính trị", tức là chế độ chính trị đa đảng đối lập mà thực chất là hạ thấp vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản, nhen nhóm các lực lượng phản động chống đối, đi đến xóa bỏ sự lãnh đạo của Đảng, giành lại quyền thống trị xã hội cho giai cấp tư sản phản động.


Ba là, gây mất ổn định về chính trị các nước xã hội chủ nghĩa.

Chủ nghĩa đế quốc và các thế lực thù địch rất quan tâm đến việc gây mất ổn định chính trị ở các nước xã hội chủ nghĩa. Đối với đảng cộng sản cầm quyền và chính quyền nhà nước, chúng tác động để làm suy yếu, đổi mầu tổ chức và cán bộ, từ đó dẫn đến chệch hướng về đường lối, chính sách. Chúng tác động vào những cán bộ, đảng viên thiếu rèn luyện tu dưỡng, từng bước tha hóa họ thành những người cộng sản "đỏ vỏ xanh lòng" để có thể dùng "cộng sản lật cộng sản". Chúng bỏ nhiều công sức và tiền bạc để lôi kéo "những người có chính kiến bất đồng", chống chủ nghĩa xã hội, chống sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản trong các nước xã hội chủ nghĩa, dùng họ làm nội ứng cho "diễn biến hòa bình" về chính trị. Với quần chúng nhân dân thì chúng kích động những vấn đề "dân chủ", "nhân quyền", "dân tộc", "tôn giáo", tạo ra tâm trạng không thiết tha, gắn bó với chủ nghĩa xã hội, gây mâu thuẫn nội bộ, làm mất sự đồng thuận xã hội và khi có thời cơ sẽ lôi kéo quần chúng vào những cuộc bạo loạn chính trị.


Bốn là, làm suy yếu, chệch hướng phát triển của nến kinh tế, tiến tới chi phối, khống chế nền kinh tế các nước xã hội chủ nghĩa.

Kẻ thù của chủ nghĩa xã hội rất quan tâm đến phá hoại nền kinh tế các nước xã hội chủ nghĩa thông qua "diễn biến hòa bình". Mục tiêu của chúng là làm suy yếu tiềm lực kinh tế, xâm nhập, chi phối, lũng đoạn kinh tế - tài chính, chuyển hóa nền kinh tế chệch định hướng xã hội chủ nghĩa. Khi nền kinh tế đã bị chệch hướng theo con đường tư bản chủ nghĩa thì sẽ chuyển hóa xã hội và sớm muộn chính trị cũng bị chuyển hóa theo.


Năm là, chuyển hóa văn hóa, đạo đức, lối sống xã hội chủ nghĩa theo giá trị phương Tây.

Đặc trưng văn hóa, đạo đức, lối sống cũng là một tiêu chí phân biệt hai chế độ xã hội đối lập nhau. Trong chiến lược "diễn biến hòa bình", chủ nghĩa đế quốc đặt một mục tiêu không kém phần quan trọng là xoá bỏ nền văn hóa, đạo đức, lối sống xã hội chủ nghĩa, thay vào đó là văn hóa, đạo đức, lối sống tư sản. Từ đó làm tha hóa con người, tha hóa cả một xã hội.


Sáu là, "phi chính trị hóa" để "vô hiệu hóa" quân đội và công an.

Chủ nghĩa đế quốc và các thế lực thù địch biết rằng quân đội và công an là công cụ bạo lực sắc bén để bảo vệ Tổ quốc, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa. Muốn lật đổ chế độ xã hội chủ nghĩa phải "vô hiệu hóa" được lực lượng này. Chúng cũng biết rằng, sức mạnh bảo vệ Tổ quốc, bảo vệ chế độ của quân đội và công an bắt nguồn từ sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản. Muốn "vô hiệu hóa" phải "phi chính trị hóa" quân đội và công an, trước hết và quyết định là phải xóa bỏ sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản. Chúng hy vọng rằng khi các lực lượng phản động được chủ nghĩa đế quốc chỉ đạo, tiếp tay đứng lên lật đổ chế độ xã hội chủ nghĩa, quân đội và công an sẽ "đứng trung lập", "án binh bất động", mặc cho chủ nghĩa xã hội sụp đổ.


Những mục tiêu cơ bản này có mối quan hệ tác động lẫn nhau, nếu kẻ thù thực hiện được tất yếu dẫn đến mục đích cuối cùng chúng theo đuổi là xoá bỏ chủ nghĩa xã hội.

Bản chất của chiến lược "diễn biến hòa bình", được thể hiện ở chỗ nó là bộ phận quan trọng nhất trong chiến lược toàn cầu phản cách mạng của chủ nghĩa đế quốc, do vậy nó mang bản chất chống cộng, được triển khai trên diện rộng, mang tính toàn cầu và rất nguy hiểm. Tính chất phản động của nó được thể hiện ở mục đích xóa bỏ chủ nghĩa xã hội với tư cách là một hình thái kinh tế xã hội tiên tiến nhất và xu thế vận động của tiến bộ xã hội, tiến bộ lịch sử.


Chiến lược "diễn biến hòa bình" mang bản chất giai cấp. Thực chất của "diễn biến hòa bình" và chõng "diễn biến hòa bình" là sự tập trung cao độ của cuộc đấu tranh giai cấp gay go, quyết liệt giữa giai cấp vô sản và giai cấp tư sản được biểu hiện trong sự đối kháng giữa hai hệ thống chính trị thế giới xã hội chủ nghĩa và tư bản chủ nghĩa. Chừng nào còn tồn tại hai hình thái kinh tế - xã hội đối lập nhau, chừng nào còn đấu tranh giai cấp giữa giai cấp vô sản và giai cấp tư sản thì còn tồn tại "diễn biến hòa bình" là một chiến lược chống Cộng của chủ nghĩa đế quốc và các thế lực phản động quốc tế.


Phương châm chủ yếu trong "diễn biến hòa bình" là thực hiện cuộc tiến công "mềm", "ngầm", "sâu" thông qua các thủ đoạn phi vũ trang, kết hợp các thủ đoạn, biện pháp chiến lược khác. Nếu thời kỳ chiến tranh lạnh phương châm chủ yếu là chạy đua vũ trang, chiến tranh xâm lược, "diễn biến hòa bình" chỉ là một trong những thủ đoạn, biện pháp kết hợp, được tiến hành "ngầm" trong lòng các nước xã hội chủ nghĩa, thì từ những năm cuối thập kỷ 80, đầu thập kỷ 90 thế kỷ XX, vị trí của nó được nâng lên tầm chiến lược hoàn chỉnh, trong đó quân sự vẫn quan trọng nhưng chủ yếu giữ chức năng răn đe để hỗ trợ cho các hoạt động phi quân sự.


Thủ đoạn chủ yếu của "diễn biến hòa bình" là tạo dựng và thúc đẩy những nhân tố phản động chống đối ngay bên trong các nước xã hội chủ nghĩa, đẩy các nước xã hội chủ nghĩa vào tình trạng khó khăn, phức tạp, khủng hoảng toàn diện, qua đó tìm cách chuyển hóa từng bước theo con đường tư bản chủ nghĩa, hoặc sử dụng lực lượng chống đối để thực hiện bạo loạn phản cách mạng, lật đổ chính quyền cách mạng.


Biện pháp "diễn biến hòa bình" là vận dụng tình thế và thời cơ để thực hiện cuộc tiến công "ngầm" một cách tổng hợp, toàn diện, trên tất cả các mặt: kinh tế chính trị, khoa học kỹ thuật, văn hóa tư tưởng, quân sự, ngoại giao... trong đó tiến công về chính trị tư tưởng là then chốt, biện pháp kinh tế là mũi nhọn, quân sự giữ vị trí răn đe, gây áp lực để hỗ trợ cho các biện pháp khác.


Tuy chiến lược "diễn biến hòa bình" đặt biện pháp hòa bình, phi chiến tranh lên vị trí ưu tiên nhưng chủ nghĩa đế quốc vẫn thường xuyên duy trì sức mạnh quân sự, công khai răn đe và sẵn sàng sử dụng đòn quân sự để hỗ trợ cho biện pháp "diễn biến hòa bình" khi cần thiết.
Logged
saoden
Thành viên
*
Bài viết: 1075



« Trả lời #5 vào lúc: 05 Tháng Tám, 2022, 06:50:12 am »

3. Nội dung chủ yếu của chiến lược "diễn biến hòa bình".

Khi thực hiện chiến lược "diễn biến hòa bình" chủ nghĩa đế quốc và các thế lực phản động quốc tế đã tấn công các nước xã hội chủ nghĩa trên tất cả các mặt, các lĩnh vực của đời sống xã hội, nhưng tập trung ở một số nội dung chủ yếu sau:

- Trên lĩnh vực tư tưởng lý luận.

Chủ nghĩa đế quốc và các thế lực phản động quốc tế luôn coi chống phá về tư tưởng lý luận đối với các nước xã hội chủ nghĩa là mặt trận quan trọng. Trong cuốn "1999 - chiến thắng không cần chiến tranh", Ních-xơn khẳng định: "Điểm mấu chốt của cuộc cạnh tranh Mỹ - Xô là tư tưởng. Toàn bộ những thứ khác sẽ trở nên vô nghĩa khi không giành chiến thắng trên lĩnh vực tư tưởng". Ních-Xơn còn cho rằng: "Dân chủ, nhân quyền, dân tộc, tôn giáo là 4 đột phá khâu chọc thủng phòng tuyến chính trị - tư tưởng ở các nước xã hội chủ nghĩa, tạo ra khoảng trống tư tưởng cho tư tưởng tư sản tràn vào".


Mục tiêu chống phá chính của chúng là phủ nhận chủ nghĩa Mác - Lênin và các tư tưởng cách mạng khác, phê phán, bôi đen chủ nghĩa xã hội hiện thực. Những luận điểm chúng thường gieo rắc là: Chủ nghĩa Mác - Lênin là một "giáo lý phi khoa học"; những nguyên lý cơ bản của Các Mác, Ăngghen, Lênin đều là sự áp đặt chứ không phải là tất yếu của lịch sử; Cách mạng tháng Mười là sự "đẻ non", chủ nghĩa xã hội chỉ là "quái thai của lịch sử", là "sự phát triển ngoài nền văn minh của nhân loại"... nên "chắc chắn sẽ bị diệt vong". Mặt khác, chúng tán dương, cường điệu sự giàu có, văn minh, nền dân chủ, tự do của xã hội tư bản, che đậy những khuyết tật, những xấu xa của xã hội này. Từ đó để gây hoang mang, lung lạc tinh thần những người nhẹ dạ cả tin, phá hoại tư tưởng, tinh thần nội bộ các nước xã hội chủ nghĩa, hòng phủ nhận chủ nghĩa xã hội cả học thuyết và hiện thực, củng cố và mở rộng phạm vi ảnh hướng của chủ nghĩa tư bản trên phạm vi toàn thế giới.


Chúng tuyên truyền, cổ động cho những luận thuyết tư tưởng tư sản mới, xoá nhoà sự khác biệt bản chất giữa chủ nghĩa tư bản và chủ nghĩa xã hội; chúng ca tụng "chủ nghĩa xã hội dân chủ", nền "chính trị đa nguyên" để mê hoặc quần chúng, thực hiện chuyển hóa về tư tưởng.

- Trên lĩnh vực chính trị.

Đảng Cộng sản là đối tượng tiến công quyết liệt nhất của chiến lược "diễn biến hòa bình". Bộ máy tuyên truyền của chủ nghĩa đế quốc đã triệt để lợi dụng những khó khăn, vướng mắc, sai lầm, thiếu sót của các đảng cộng sản trong quá trình thực hiện vai trò lãnh đạo các nước xã hội chủ nghĩa để đả kích, bôi nhọ, gây mâu thuẫn trong nội bộ, chia rẽ Đảng với quần chúng... nhằm từng bước làm phân liệt, tan rã hệ thống tổ chức đảng. Chúng tìm cách hỗ trợ, kích động các phần tử đối lập gây áp lực đòi Đảng từ bỏ quyền lãnh đạo, chấp nhận bầu cử tự do theo cơ chế đa nguyên chính trị và đa đảng đối lập.


Chủ nghĩa đế quốc và các thế lực thù địch tập trung mọi biện pháp nhằm xoá bỏ sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản, làm suy yếu nhà nước xã hội chủ nghĩa, gây mất ổn định chính trị, xây dựng, cài cắm lực lượng phản động, tiến tới tổ chức bạo loạn chính trị, lật đổ chính quyền ở các nước xã hội chủ nghĩa hoặc tạo ra "tự diễn biến", chuyển hóa từ chủ nghĩa xã hội sang chủ nghĩa tư bản. Chúng thường gây sức ép từ nhiều phía, nhiều mặt, đòi các nước xã hội chủ nghĩa thực hiện "chế độ đa đảng", thực hiện "dân chủ", "nhân quyền" để phá rã nền chuyên chính vô sản; quyền lực nhà nước là đối tượng quan trọng của chiến lược "diễn biến hòa bình". Chủ nghĩa đế quốc và các thế lực thù địch tìm cách tiếp tay cho lực lượng phản động trong nước đòi chia sẻ quyền lực, từng bước thiết lập dần thiết chế tư sản, tiến tới thâu tóm quyền lực nhà nước từ các đảng cộng sản. Chúng kích động, móc nối, mua chuộc những người có chính kiến bất đồng xây dựng lực lượng chống đối trong lòng các nước xã hội chủ nghĩa, dựng lên các "phe phái" trong nội bộ Đảng Cộng sản, để dùng "cộng sản lật cộng sản"; chúng cũng chú trọng bắt mối, mua chuộc thế hệ trẻ, con em cán bộ cao cấp của Đảng và Nhà nước bằng các mồi nhử du học, liên doanh, liên kết kinh tế béo bở, làm biến chất họ, để nếu không dùng "cộng sản lật cộng sản" được thì sẽ dùng "cộng sản con lật cộng sản cha" sau này. Trong những điều kiện, thời cơ nhất định, chúng dùng bạo lực chính trị, thông qua bầu cử để giành chính quyền, lật đổ nhà nước xã hội chủ nghĩa.


Chúng cũng ra sức chuẩn bị lực lượng chống đối, chuẩn bị các địa bàn, nhất là ở vùng dân tộc thiểu số, vùng tôn giáo phức tạp, vùng biên giới, các trung tâm kinh tế, chính trị, văn hóa để mưu toan thực hiện những cuộc bạo loạn chính trị.

- Chống phá về kinh tế làm suy yếu các nước xã hội chủ nghĩa.

Chủ nghĩa đế quốc và các thế lực phản động quốc tế thường sử dụng đòn chống phá về kinh tế để làm suy yếu các nước xã hội chủ nghĩa và hỗ trợ cho các hoạt động chống phá khác. Chúng thường chủ động dùng ưu thế về kinh tế để ngăn chặn, phá hoại sự phát triển của nền kinh tế xã hội chủ nghĩa, đồng thời tuyên truyền về sự hấp dẫn của nền kinh tế phương Tây để lôi kéo, chuyển hóa. Đặc biệt, chúng thông qua viện trợ kinh tế để lôi kéo các nước và lợi dụng những khó khăn về kinh tế của các nước xã hội chủ nghĩa để dùng vật chất mua chuộc, lôi kéo những người có chức, có quyền ở cơ quan kinh tế, nhất là những cán bộ trong các ngành kinh tế mũi nhọn, làm thoái hóa, biến chất cán bộ trong ngành kinh tế, qua đó hình thành lực lượng "phương Tây hóa" trong bộ máy quản lý, điều hành nền kinh tế xã hội chủ nghĩa; kích động, thậm chí tổ chức quần chúng tẩy chay các chính sách kinh tế, lợi dụng công cuộc cải tổ, cải cách, đổi mới để xâm nhập, chuyển hóa, hướng lái nền kinh tế đi chệch khỏi quỹ đạo chủ nghĩa xã hội.


Một khi nền kinh tế đã bị chuyển hóa tận gốc rễ sẽ kéo theo sự thay đổi cơ sở hạ tầng và bản chất xã hội. Đây là cái đích của chiến lược "diễn biến hòa bình" nhằm tới.

- Trên lĩnh vực văn hóa, lối sống.

Chủ nghĩa đế quốc và các thế lực thù địch ra sức truyền bá văn hóa độc hại, du nhập lối sống thực dụng, bản năng, vị kỷ, những cặn bã của phương Tây vào các nước xã hội chủ nghĩa, để làm chuyển hóa văn hóa, lối sống xã hội chủ nghĩa theo các giá trị phương Tây, nhất là "giá trị Mỹ", "lối sống Mỹ". Chúng cổ vũ cho tư tưởng "tự do", "dân chủ"... kiểu Mỹ; truyền bá lối sống, văn hóa kiểu Mỹ; đề cao chủ nghĩa cá nhân, kích thích tâm lý bạo lực đối với lớp trẻ. Đáng chú ý là sự tác động "diễn biến hòa bình" trên lĩnh vực văn hóa, văn nghệ, lối sống rất dễ đi vào lòng người, nhẹ nhàng, êm ái, tưởng như vô hại, nhưng ảnh hưởng lại rất sâu sắc, lâu dài, khó gột rửa. Lối sống phương Tây dễ khơi dậy nhu cầu bản năng hưởng thụ của con người, nên dễ lôi cuốn đam mê, nhất là với thế hệ trẻ.


Một trong nhưng thủ đoạn mà chủ nghĩa đế quốc và các thế lực phản động quốc tế thường sử dụng là hỗ trợ các tổ chức phản động lưu vong tiến hành hoạt động móc nối, liên kết với lực lượng phản động ở trong nước để "nội công, ngoại kích" làm suy yếu tiến tới sụp đổ chế độ xã hội chủ nghĩa.

- Chống phá trên lĩnh vực ngoại giao.

Chủ nghĩa đế quốc lợi dụng quan hệ với các nước xã hội chủ nghĩa ngày càng mở rộng để thực hiện "diễn biến hòa bình". Thông qua ngoại giao để chúng thâm nhập vào các lĩnh vực hoạt động khác, thông qua ngoại giao để gây sức ép nhiều mặt: kinh tế, chính trị, quốc phòng, an ninh... Chúng cũng không từ bỏ âm mưu chèn ép, cô lập ngoại giao đối với các nước xã hội chủ nghĩa, chia rẽ các nước’ xã hội chủ nghĩa với các nước khác.

- Chống phá trên lĩnh vực quốc phòng - an ninh.

Ngoài việc chống phá về chính trị tư tưởng, kinh tế và các mặt của đời sống xã hội ở các nước xã hội chủ nghĩa, chủ nghĩa đế quốc và các thế lực phản động quốc tế còn chống phá trên lĩnh vực quốc phòng - an ninh. Thông qua việc chạy đua vũ trang, tuyên truyền kích động đòi phi chính trị hóa quân đội, đòi xóa bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản đối với quân đội. Chúng đã kéo quân đội các nước xã hội chủ nghĩa hướng ra ngoài, chạy theo đối phó với "nguy cơ một cuộc chiến tranh hạt nhân tổng lực, toàn cầu" để loại bỏ công cụ sắc bén của các đảng cộng sản ra khỏi cuộc "chiến tranh ngầm" ("diễn biến hòa bình") đang diễn ra gay gắt trong lòng chế độ xã hội chủ nghĩa. Kích động, gây mâu thuẫn giữa lực lượng quân đội với công an và các lực lượng xã hội khác nhằm chia rẽ, cô lập lực lượng vũ trang, gây phức tạp bên trong, làm cho tình hình an ninh chính trị - xã hội ở các nước xã hội chủ nghĩa trở nên phức tạp, khó giải quyết.


Như vậy, để chống lại phong trào cách mạng, tiến bộ trên thế giới, chủ nghĩa đế quốc và các thế lực phản động quốc tế liên tục điều chỉnh phương thức, thủ đoạn chiến lược. Trong quá trình đó, chiến lược "diễn biến hòa bình" đã hình thành, phát triển và trở thành bộ phận quan trọng nhất trong chiến lược toàn cầu chống phản cách mạng của chúng.
Logged
saoden
Thành viên
*
Bài viết: 1075



« Trả lời #6 vào lúc: 16 Tháng Tám, 2022, 06:56:51 am »

II. TÁC HẠI CỦA "DIỄN BIỄN HÒA BÌNH" ĐỐI VỚI MỘT SỐ NƯỚC

Thực hiện chiến lược "diễn biến hòa bình", chủ nghĩa đế quốc và các thế lực phản động quốc tế đã sử dụng nhiều thủ đoạn nham hiểm, xảo quyệt để tấn công, gây khó khăn cho các nước xã hội chủ nghĩa nói chung và Việt Nam nói riêng. Căn cứ vào điều kiện, hoàn cảnh của từng nước, chúng đã tiến hành các thủ đoạn hoạt động cụ thể như sau:


1. Lật đổ chế độ xã hội chủ nghĩa ở các nước Đông Ảu và Liên Xô.

Trước thời cơ tình hình thế giới có xu hướng phát triển hòa bình, các nước xã hội chủ nghĩa lâm vào tình trạng khó khăn, khủng hoảng; phải tiến hành cải tổ, cải cách, đổi mới để tháo gỡ, một số nước mắc phải sai lầm nghiêm trọng trong quá trình thực hiện... Mỹ cho rằng, chống Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa phải được tiến hành khẩn trương, nhanh chóng tận dụng thời cơ, đưa ý thức hệ phương Tây vào Liên Xô và Đông Âu. Hưởng ứng kế hoạch của Mỹ, Tây Âu đã thông qua cái gọi là "chiến lược hòa nhập" , lấy giá trị phương Tây làm cơ sở để "nhất thể hóa châu Âu", đưa Đông Âu và Liên Xô hòa nhập với Tây Âu. Mỹ và Tây Âu đã căn cứ vào đặc điểm cụ thể từng nước để tiến hành "phần hóa" bằng các biện pháp tuyên truyền lừa gạt khác nhau nhằm làm "ly tán nhân tâm", gây hỗn loạn xã hội để "chiến thắng không cần chiến tranh" và chúng đã đạt được mục đích đó. Sự sụp đổ của các nước xã hội chủ nghĩa ở Đông Âu, Liên Xô diễn ra theo nhiều dạng, với những nguyên nhân khác nhau, nhưng nhìn chung Mỹ và Tây Âu đã sử dụng có hiệu quả chiến lược "diễn biến hòa bình" đối với các nước này.


a) Chuyển hóa nội bộ, xóa bỏ chế độ xã hội chủ nghĩa ở Ba Lan, Hung-ga-ri thông qua bầu cử hợp hiến.

- Đối với Ba Lan: Trong chiến dịch mở màn, đột phá vào Ba Lan, Mỹ và phương Tây đã sử dụng nhiều thủ đoạn, biện pháp để phân hóa Đảng Công nhân thống nhất Ba Lan. Đặc biệt, Mỹ và phương Tây đã triệt để lợi dụng lực lượng Công đoàn đoàn kết và lực lượng Thiên Chúa giáo (85% dân số Ba Lan theo đạo Thiên Chúa, có 26.000 chức sắc các loại) để thực hiện ý đồ chống Ba Lan. Cùng với việc tăng cường gây sức ép về kinh tế (G.Bu-Sơ tuyên bố sẽ viện trợ 3 tỷ USD, với điều kiện Ba Lan phải thực hiện "tự do hóa" kinh tế và chính trị - nền kinh tế thị trường tư bản và nền dân chủ kiểu phương Tây), chúng tổ chức móc nối, liên kết giữa bọn phản động trong Thiên Chúa giáo với Công đoàn đoàn kết, đồng thời sử dụng 9 triệu người Ba Lan lưu vong (đa số là người Thiên Chúa giáo, có 4 triệu người sống ở Mỹ), lập ra các đảng phái chính trị phản động để xâm nhập vào nội địa hoạt động. Thông qua việc kích động, kết hợp với dùng áp lực nhà thờ đối với quần chúng để đẩy quần chúng vào cuộc đấu tranh đòi "dân chủ", "nhân quyền", đòi hợp pháp hóa Công đoàn đoàn kết. Khi Chính phủ Ba Lan chấp nhận Công đoàn đoàn kết, chúng tiếp tục lấn tới, đòi tổ chức tổng tuyển cử qua "hội nghị bàn tròn", một bên là chính quyền của Đảng Công nhân thống nhất Ba Lan và bên kia là Công đoàn đoàn kết, trước "trọng tài" là Giáo hội Thiên Chúa giáo Ba Lan. Chính phủ Ba Lan tiếp tục chấp nhận yêu sách đó, dẫn đến cuộc "Tổng tuyển cử" ngày 25 tháng 6 năm 1989, kết quả là Đảng Công nhân thống nhất Ba Lan mất vị trí lãnh đạo (chỉ đạt hơn 30% số phiếu), Công đoàn đoàn kết lập chính phủ mới.


- Đối với Hung-ga-ri: Chủ nghĩa đế quốc và các thế lực phản động quốc tế đã tìm cách xâm nhập, phân hóa nội bộ Đảng Công nhân xã hội chủ nghĩa Hung-ga-ri, đồng thời kích động tâm lý dân tộc chống Liên Xô. Do sự phá hoại của chủ nghĩa đế quốc và các thế lực phản động quốc tế, năm 1988, 1989, nội bộ Đảng Công nhân xã hội chủ nghĩa Hung-ga-ri, nhất là trong hàng ngũ lãnh đạo cấp cao bị phân hóa sâu sắc. Nhóm phi xã hội chủ nghĩa trong đảng đã tập hợp lực lượng trí thức và lợi dụng bọn phản động trong Thiên Chúa giáo để kích động tâm lý dân tộc chống Liên Xô, đòi dân chủ, đa đảng... đặc biệt, được bên ngoài hỗ trợ, nhóm này ngày càng lớn mạnh và gây sức ép trong Đảng. Trước sức ép của lực lượng này, Đảng Cống nhân xã hội chủ nghĩa Hung-ga-ri đã phải tuyên bố giải tán để thành lập Đảng Xã hội chủ nghĩa cầm quyền với đường lối chính trị theo kiểu xã hội dân chủ, tự do hóa chính trị, tự do hóa kinh tế (thực chất là đã "đổi màu"), do vậy ngày càng suy yếu, mất lòng tin của quần chúng. Và, cuộc Tổng tuyển cử ngày 25 tháng 3 năm 1990, các đảng đối lập đã giành quyền lãnh đạo.


b) Chuyển hóa bên trong, kết hợp kích động biểu tình, tạo áp lực của quần chúng đòi thay đổi chế độ ở Cộng hòa dân chủ Đức, Tiệp Khắc, Bun-ga-rì, Ru-ma-ni.

Chủ nghĩa đế quốc và lực lượng phản động quốc tế đã kích động quần chúng đấu tranh đòi đa nguyên, đa đảng. Chúng mua chuộc, tập hợp giới văn nghệ sĩ, trí thức có quan điểm phi xã hội chủ nghĩa, hình thành hàng trăm nhóm, hội, đảng đối lập; kích động lực lượng thanh niên, sinh viên tổ chức nhiều cuộc biểu tình với quy mô ngày càng lớn (có cuộc hàng triệu người tham gia), lúc đầu đòi dân chủ hóa, tư do hóa về chính trị, tiến tới gây áp lực đòi thay đổi lãnh đạo Đảng và Nhà nước; phân hóa và tranh thủ các nhân vật lãnh đạo "cải tổ", ở địa phương (có những lãnh đạo cấp địa phương tham gia biểu tình); sau đó thay đổi chính quyền qua "Tổng tuyển cử" dưới áp lực của các cuộc biểu tình chống chế độ xã hội chủ nghĩa. Riêng ở Ru-ma-ni, chúng sử dụng lực lượng vũ trang để lật đổ chính quyền, thành lập cái gọi là "Hội đồng dân tộc cứu nước" đòi "đặt Đảng Cộng sản ra ngoài vòng pháp luật".
Logged
saoden
Thành viên
*
Bài viết: 1075



« Trả lời #7 vào lúc: 16 Tháng Tám, 2022, 06:57:29 am »

c) Chuyển hóa bên trong và bên trên đối với Liên Xô.

Những năm 80 thế kỷ XX, cuộc xung đột sắc tộc bùng lên ở Liên Xô cuốn theo hàng ngàn người tham gia, đẩy đất nước vào những phức tạp, đe dọa sự tồn tại của chính quyền Liên bang. Vào thời điểm này, chủ nghĩa giáo điều, tả khuynh ngày càng phát triển, chiếm vị trí chủ đạo trong Đảng Cộng sản Liên Xô, làm cho hệ thống lý luận của Đảng này ngày càng cứng nhắc và dần mất đi tính tiên tiến về tư tưởng. Sự thoái hóa của Đảng Cộng sản Liên Xô dẫn đến sự tha hóa quyền lực trong bộ máy Nhà nước Xô-viết. Tình trạng hành chính hóa, quan liêu, xa rời quần chúng của bộ máy hành chính Nhà nước trong cơ chế quản lý quan liêu bao cấp và việc "chạy theo" chương trình SDI cùng với một số nguyên nhân khác dẫn đến sự trì trệ của nền kinh tế - xã hội, làm cho Liên Xô rơi vào cuộc khủng hoảng toàn diện, sâu sắc, phải thực hiện các chính sách cải tổ, cải cách để tháo gỡ.


Lợi dụng tình hình nêu trên, chủ nghĩa đế quốc và các thế lực phản động quốc tế cho rằng, đây là cơ hội lịch sử để thực hiện "diễn biến hòa bình" đối với Liên Xô. Tổng thống Mỹ Ních-Xơn tuyên bố: "Cuối cùng sẽ có một kẻ thắng và một kẻ thua trong cuộc kình địch Mỹ - Xô. Chúng ta không thể thắng nếu như chúng ta không cạnh tranh. Chúng ta tiếp tục tấn công nhưng đó là tấn công bằng biện pháp hòa bình". Mỹ và các thế lực phản động đã lợi dụng tình hình khó khăn về kinh tế, phức tạp về chính trị - xã hội để kích động phân hóa nội bộ Đảng Cộng sản Liên Xô, chia rẽ các nước cộng hòa trong Liên bang Xô-viết, hướng lái cải tổ, cải cách ra khỏi quỹ đạo của chủ nghĩa xã hội.


Trước những đòn tấn công của chủ nghĩa đế quốc và các thế lực phản động quốc tế, tình hình Liên Xô ngày càng trở nên khó khăn, phức tạp hơn. Trong ban lãnh đạo Đảng Cộng sản, lực lượng kiên định ngày càng mất vị trí, lực lượng "cơ hội", "cấp tiến" ngày càng chiếm ưu thế và có tiếng nói quyết định trong việc hoạch định đường lối, chính sách của Đảng. Đối với lĩnh vực đối ngoại, lực lượng "cấp tiến" giữ vai trò quyết định (tháng 1 năm 1987, Ya-kốp-lép - người được mệnh danh là "cha đẻ" của chính sách "công khai" và bốn năm sau tuyên bố "muốn cải tổ thành công phải gạt bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản" trở thành ủy viên dự khuyết Bộ Chính trị, phụ trách công tác đối ngoại). Tuy đường lối cải tổ, cải cách là hoàn toàn đúng đắn, phù hợp với yêu cầu khách quan của tình hình lúc bấy giờ, nhưng do trong quá trình cải tổ, cải cách, những người cộng sản ở Liên Xô đã chủ quan, nóng vội, có những quan điểm sai lầm, thiếu tôn trọng quy luật khách quan, duy ý chí, làm cho tình hình trở nên nghiêm trọng, chệch hướng.


Từ năm 1987, lực lượng đối lập lớn mạnh, cái gọi là chính sách "công khai" và quan điểm "đa nguyên chính trị" được quảng bá rộng rãi, làm xuất hiện các "mặt trận" ("Mặt trận nhân dân", "Mặt trận toàn dân") ở nhiều nước cộng hòa thuộc Liên bang Xô-viẽt. Thông qua các tổ chức này, lực lượng đối lập đã xuyên tạc, bôi nhọ lịch sử Liên Xô, liên tục tổ chức các cuộc mít tinh, biểu tình để tạo áp lực, đòi "phải có những thay đổi chính sách ở Liên Xô". Năm 1990, Đảng Cộng sản Liên Xô bị phân hóa thành hơn 20 phe, nhóm với nhiều xu hướng chính trị khác nhau, thậm chí đối lập nhau như: nhóm Mác-xít chính thống, nhóm "dân chủ", (cương lĩnh dân chủ - đòi cải tổ Đảng theo mô hình một đảng nghị trường), nhóm trung gian thỏa hiệp (theo xu hướng "chủ nghĩa xã hội dân chủ nhân đạo")... Đảng Cộng sản Liên Xô từng bước biến chất, tê liệt, từ một đảng tiên phong, lãnh đạo xã hội trở thành một đảng nghị trường, mang màu sắc chủ nghĩa xã hội dân chủ, chủ nghĩa thực dụng, từ bỏ nguyên tắc tập trung dân chủ, thừa nhận sự tồn tại của các phe, nhóm đối lập, các cương lĩnh khác nhau trong một đảng. Thời kỳ này, tại Liên Xô xuất hiện tình thế "một nước hai chế độ". Lực lượng Mác-xít chính thống chỉ còn kiểm soát được một phần chính quyền cấp trung ương. Ở các nước cộng hòa và nhiều địa phương đều do lực lượng chính trị đối lập kiểm soát. Liên Xô tiếp tục lún sâu vào cuộc khủng hoảng toàn diện, sâu sắc. Kinh tế suy thoái, chính trị rối ren (về kinh tế, so với năm 1988, năm 1989 sản xuất công nghiệp giảm 1,7%, thu nhập quốc dân giảm 4%, năng suất lao động giảm 3%).


Lợi dụng tình thế nói trên, chủ nghĩa đế quốc và các thế lực phản động quốc tế đã dùng viện trợ kinh tế để ép cải cách chính trị và đe dọa, buộc Liên Xô phải chấp nhận cho các quốc gia vùng Ban-tích tách khỏi Liên bang. Đặc biệt, Liên Xô đã chấp nhận hoạch định chiến lược cải cách kinh tế theo "Chương trình kinh tế 500 ngày" của Viện sĩ Sta-lin và chương trình kinh tế mang tên "Cuộc mặc cả vĩ đại" của Ya-vô-lin-xki, sản phẩm của sự "hợp tác vô tư" giữa những người "dân chủ" Liên Xô với Trung tâm khoa học hàng đầu Mỹ (Ha-vớt).


Riêng đối với lực lượng vũ trang, sau khi lên làm Tổng bí thư Đảng Cộng sản Liên Xô, cùng với những sai lầm, phản động về mặt đường lối, Goóc-ba-chốp đã buông lỏng quản lý, xây dựng lực lượng vũ trang, nhân nhượng vô nguyên tắc với Mỹ trong thương lượng giải trừ vũ khí, làm giảm nghiêm trọng sức mạnh quân sự của Liên Xô, đồng thời hạn chế nhiệm vụ của quân đội (như loại trừ khả năng quân đội tham gia giải quyết các vụ xung đột sắc tộc) làm cho lực lượng vũ trang mất phương hướng. Nhiều tướng lĩnh tìm cách lật đổ Goóc-ba-chốp nhưng một số đơn vị quân đội đứng về phía En-xin chống lại lực lượng đảo chính, phục vụ cho ý đồ riêng của En-xin.


Năm 1991, tình hình khủng hoảng kinh tế - xã hội ở Liên Xô trở nên trầm trọng hơn. Trong 6 tháng đầu năm 1991, sản xuất giảm 50%, xuất khẩu giảm 45%, tình hình chính trị - xã hội tiếp tục có những biến động phức tạp... Với nền tảng kinh tế - xã hội nêu trên, giữa năm 1991, tại Liên Xô đã xuất hiện một tình thế chính trị đặc biệt - tình thế phản cách mạng. Tháng 8 năm 1991, được phương Tây và những kẻ phản bội trong hàng ngũ lãnh đạo chủ chốt hỗ trợ, lực lượng đối lập đã lật đổ hệ thống chính trị xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô để thiết lập một hệ thống chính trị mới - hệ thống chính trị tư bản chủ nghĩa. Ngày 25 tháng 12 năm 1991, Tổng thống đầu tiên và cũng là cuối cùng của Liên bang Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Xô-viết đọc diễn văn từ chức, Liên bang tan vỡ, chế độ xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô sụp đổ và ý đồ "diễn biến hòa bình" của chủ nghĩa đế quốc và các thế lực phản động quốc tế đối với Liên Xô đã được thực hiện.
Logged
saoden
Thành viên
*
Bài viết: 1075



« Trả lời #8 vào lúc: 23 Tháng Tám, 2022, 06:29:23 am »

2. Lợi dụng vấn đề người An-ba-ni và áp lực quân sự để tách Kô-xô-vô ra khỏi Liên bang Nam Tư.

Sau sự sụp đổ của chế độ xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô và các nước Đông Âu (1991), từ nhận định: khu vực bán đảo Ban-căng là "tuyến đầu của chủ nghĩa cộng sản", Mỹ và phương Tây tăng cường can thiệp, nhằm làm tan rã Nam Tư. Mỹ và phương Tây dùng nhiều thủ đoạn xảo quyệt, lần lượt chuyển hóa chế độ chính trị, tách các nước Cộng hòa Xlô-ve-ni-a, Ma-xê-đô-ni-a, Croa-ti-a (1991), Bô-xni-a, Héc-giê-gô-vi-na (1992-1995) ra khỏi Nam Tư. Thủ đoạn bỉ ổi và thành công nhất của Mỹ trong chiến dịch chống Nam Tư là việc lợi dụng vấn đề người gốc An-ba-ni để tách Kô-xô-vô ra khỏi nước Cộng hòa Xéc-bi-a, thuộc Liên bang Nam Tư.


Do sự phân tách nói trên, Nam Tư còn lại 2 nước: Cộng hòa là Xéc-bi-a và Môn-tê-nê-grô. Thời kỳ này, quyền lãnh đạo Nam Tư thuộc ba đảng chính là Đảng Xã hội chủ nghĩa Xéc-bi-a (do Mi-lố-xê-vích làm Chủ tịch), Đảng Cánh tả Nam Tư thống nhất (do Mi-ri-gia-na, vợ Mi-lô-xê-vích làm Chủ tịch) và Đảng Dân chủ mới hợp thành Liên minh Cánh tả, thực chất là đảng thuộc Liên đoàn những người cộng sản Nam Tư cũ. Liên minh Cánh tả của Xéc-bi-a có khoảng 700.000 đảng viên (năm 1987, khi chưa bị phân rã, Liên đoàn những người cộng sản Nam Tư có 2,1 triệu đảng viên).


Kô-xô-vô là một tỉnh cực Nam, thuộc nước Cộng hòa Xéc-bi-a, dân số khoảng 2 triệu người, trong đó có gần 90% người gốc An-ba-ni; là tỉnh có vị trí đặc biệt quan trọng đối với Nam Tư. Cựu Tổng thống Mi-lô-xê-vích khẳng định: "Đối với chúng tôi, Kô-xô-vô hết sức quan trọng, bởi vì đó là trái tim của Tổ quốc và là một bộ phận không thể tách rời trong lịch sử lâu dài của chúng tôi; đó là căn nhà của 250 ngàn người Xéc-bi-a mà tổ tiên của họ đã sống hàng thế kỷ".


Với ý đồ chống cộng, loại trừ xu thế độc lập dân tộc, xu thế chống phương Tây, từ xác định, nếu mất Kô-xô-vô, Nam Tư sẽ không kiểm soát được Môn-tê-nê-grô, Mỹ và NATO đã tính toán, tìm, tạo cớ để mở cuộc tấn công quân sự nhằm tiếp tục làm phân rã, suy yếu Nam Tư, lật đổ chính quyền Mi-lô-xê-vích để "khắc phục những khâu tồn tại của cuộc chiến tranh lạnh" và làm "xanh hóa" khu vực Ban-căng. Mỹ đã lợi dụng vấn đề dân tộc, kích động, hỗ trợ người An-ba-ni ở Kô-xô-vô đòi được hưởng quy chế "Nhà nước độc lập", liên tiếp gây ra các cuộc xung đột giữa người An-ba-ni và người Xéc-bi-a. Đặc biệt, lợi dụng sự kiện chính trị năm 1989, cựu Tổng thông nước Cộng hòa Xéc-bi-a, ông Mi-lô-xê-vích tuyên bố hủy bỏ quy chế tự trị của Kô-xô-vô (được công nhận năm 1974) và giải tán các tổ chức riêng của Kô-xô-vô, Mỹ và phương Tây tăng cường kích động, thúc đẩy người Kô-xô-vô gốc An-ba-ni đấu tranh đòi "quyền độc lập".


Có sự hỗ trợ, chỉ đạo của Mỹ và phương Tây, người An-ba-ni ở Kô-xô-vô đã công bố "Hiến pháp nước Công hòa Kô-xô-vô" (1990), bí mật bầu "quốc hội", "tổng thống" (1992) và thành lập "chính phủ", lưu vong ở Xtút-gát (Đức) đề lãnh đạo Quân đội giải phóng Kô-xô-vô" (KLA), tổ chức hoạt động khủng bố ở trong nước.


Trước tình thế trên, chính quyền Xéc-bi-a phải nhượng bộ cho Kô-xô-vô tái hưởng quy chế tự trị. Mỹ tiếp tục lợi dụng, chỉ đạo, kích động lực lượng KLA đấu tranh, tạo cớ để Mỹ và NATO can thiệp chống Nam Tư. Mỹ và phương Tây ép chính quyền Xéc-bi-a ký một "Hiệp định" với đại diện người An-ba-ni ở Kô-xô-vô, theo đó, Xéc-bi-a phải cho tỉnh Kô-xô-vô hướng quy chế "tự trị cao" và cho 28.000 quân NATO vào Kô-xô-vô "giám sát việc thi hành hiệp định".


Lợi dụng việc Nam Tư không chấp nhận cho NATO đưa 28.000 quân vào Kô-xô-vô, Mỹ và NATO đã trắng trợn can thiệp, mờ cuộc tấn công quân sự 78 ngày đêm vào Nam Tư. Kết quả: Liên bang Nam Tư bị xóa sổ, Liên bang Xéc-bi-a - Môn-tê-nê-grô ra đời theo ý đồ của Mỹ. Ông Mi-lô-xê-vích, lãnh tụ của Nam Tư (một người chống Mỹ quyết liệt) bị bắt giữ.
Logged
saoden
Thành viên
*
Bài viết: 1075



« Trả lời #9 vào lúc: 23 Tháng Tám, 2022, 06:29:58 am »

3. Lợi dụng vấn đề Tây Tạng để kiềm chế Trung Quốc.

Cùng với ý đồ chuyển hóa quần chúng, kích động biểu tình, bạo loạn (điển hình là vụ Thiên An Môn) để tạo áp lực đòi thay đổi chế độ chính trị ở Trung Quốc (nhưng bị thất bại), chủ nghĩa đế quốc và các thế lực phản động quốc tế còn sử dụng đòn kinh tế, dân chủ, nhân quyền, tôn giáo, dân tộc, đặc biệt là các yếu tố tạo nguy cơ "xé nhỏ" để chống Trung Quốc. Tổng thống Mỹ G.Bu-Sơ tuyên bố: "Chính sách một Trung Quốc" chỉ có nghĩa là "Mỹ công nhận Cộng hòa nhân dân Trung Hoa là chính phủ hợp pháp của Trung Quốc chứ không có nghĩa là Mỹ chấp nhận Đài Loan thuộc lãnh thố hoặc chủ quyền của Trung Quốc".


Trong những năm gần đây, vấn đề Đài Loan, nhất là vấn đề Tây Tạng trở thành yếu tố quan trọng để Mỹ đe dọa, mặc cả, kiềm chế Trung Quốc. Tuy bề ngoài coi Tây Tạng là "một bộ phận của Trung Quốc", nhưng trên thực tế Mỹ quan hệ với Tây Tạng như một quốc gia độc lập. Mỹ tích cực ủng hộ các tổ chức thuộc Tây Tạng ở trong và ngoài nước, kích động đấu tranh, gây mất ổn định ở Trung Quốc nhằm tạo cớ để Mỹ đặt điều kiện, hoặc dùng quân sự đối với Trung Quốc. Mỹ liên tục vu cáo Trung Quốc vi phạm nhân quyền, "đàn áp" phong trào ly khai của các dân tộc thiểu số ở Tây Tạng, ngầm ủng hộ lãnh tụ tôn giáo Tây Tạng Đa-lai Lạt-ma (hiện lưu vong ở Ấn Độ) về vật chất và tinh thần, vận động cho Đa-lai Lạt-ma nhận giải thưởng Nô-ben hòa bình... để tạo dựng "ngọn cờ" chống Trung Quốc.


Từ những năm 60 thế kỷ XX, Mỹ thông qua CIA cung cấp cho các tổ chức Tây Tạng lưu vong mỗi năm 1,75 triệu USD để tiến hành hoạt động chống Trung Quốc, trong đó 180.000 USD dành cho Đa-lai Lạt-ma, tổ chức các lớp huấn luyện nhân viên mật vụ Tây Tạng (tại Trường Đại học Coóc-nân), cung cấp trang bị cho các nhóm tình báo Tây Tạng, hỗ trợ lực lượng du kích Tây Tạng ẩn náu ở Nê-pan thành lập khu huấn luyện quân sự ở Cô-lô-ra-đô, xây dựng những "ngôi nhà Tây Tạng"... nhằm "giữ cho ý niệm chính trị về một Tây Tạng tự trị tiếp tục tồn tại trên vùng đất Tây Tạng và ở các quốc gia khác, xây dựng khả năng chống lại sự bành trướng của Trung Quốc".


Những năm 80, Mỹ thông qua một dự luật (Ri-gân ký năm 1986) cho phép Ngân hàng xuất nhập khẩu Mỹ cung cấp tiền cho Tây Tạng với tư cách là một quốc gia độc lập, cấp tiền cho Đài tiếng nói Hoa Kỳ (VOA) thực hiện chương trình phát sóng bằng tiếng Tây Tạng (từ năm 1990), bố trí cho Đa-lai Lạt-ma phát biểu trước Quốc hội Mỹ (ngày 21 tháng 7 năm 1987) và gặp gỡ một số tổng thống Mỹ (G.Bu-Sơ 1991, B.Clin-tơn vài lần) nhằm tạo vốn chính trị để tạo dựng "uy tín" Đa-lai Lạt-ma, đưa vào "Đạo luật Quan hệ với nước ngoài" một số điều khoản về Tây Tạng (1994), tách phần Tây Tạng thành một mục riêng rẽ (không gộp chung vào mục Trung Quốc) trong các báo cáo hàng năm của Bộ Ngoại giao Mỹ về tình hình nhân quyền thế giới... Ngày 31 tháng 10 năm 1997, Mỹ quyết định thành lập thêm tại Bộ Ngoại giao chức vụ Điều phối viên đặc biệt về Tây Tạng (hàm Đại sứ), nhiệm vụ chủ yếu là thuyết phục đối thoại giữa Đa-lai Lạt-ma với Chính phủ Trung Quốc. Thực chất là Mỹ đã chính thức lợi dụng vấn đề dân tộc Tây Tạng để mặc cả với Trung Quốc.


Tiếp tục chính sách Tây Tạng, chính quyền G.Bu-Sơ tìm cách khoét sâu những khó khăn về kinh tế, lợi dụng vấn đề "dân chủ" để kích động các nhóm Tây Tạng cực đoan chống Trung Quốc. Ngày 17 tháng 5 năm 2001, Ngoại trưởng Mỹ C.Pao-oen, giao cho Thứ trưởng Ngoại giao phụ trách các vấn đề toàn cầu Pôn Đô-bri-an làm "Điều phối viên đặc biệt về Tây Tạng", đồng thời cho phép "lãnh tụ tinh thần Tây Tạng" Đa-lai Lạt-ma thăm Mỹ, bất chấp sự phản đối của Trung Quốc. Tổng thống G.Bu-Sơ và Ngoại trưởng C.Pao-oen tổ chức các cuộc gặp gỡ với Đa-lai Lạt-ma để kích động phong trào đấu tranh chống Trung Quốc. Đặc biệt, trong cuộc họp Quốc hội khóa 107 (năm 2001), Mỹ đã thông qua "Dự luật về Chính sách đối với Tây Tạng năm 2001", đưa ra một số vấn đề như: khuyến khích đàm phán và ký kết một hiệp định giữa Trung Quốc và Đa-lai Lạt-ma; khuyến khích một cuộc đối thoại giữa Trung Quốc và Tây Tạng; khẳng định lại quan điểm cho rằng Tây Tạng là một quốc gia đang bị chiếm đóng trái phép; trong 3 năm tài khóa, từ 2002-2004, mỗi năm dành ngân sách 2 triệu USD đê giải quyết vấn đề tị nạn và di cư của người Tây Tạng; khuyến khích các tổ chức phi chính phủ (NGO) và các tổ chức quốc tế thực hiện những dự án giúp người Tây Tạng tự đảm bảo cuộc sống... nhằm kích động, lợi dụng vấn đề Tây Tạng để chống Trung Quốc.


Tuy nhiên, sau khi Trung Quốc và Ấn Độ ký một thỏa thuận (Trung Quốc thừa nhận Xích Kim là một bang của Ấn Độ. Ấn Độ khẳng định Tây Tạng là lãnh thổ của Trung Quốc và không hậu thuẫn cho những người Tây Tạng lưu vong trên đất Ấn Độ chống lại Trung Quốc) làm cho Mỹ mất đi con bài Tây Tạng để mặc cả với Trung Quốc.
Logged
Trang: 1 2 3 4 »   Lên
  In  
 
Chuyển tới:  

Powered by MySQL Powered by PHP Powered by SMF 1.1.21 | SMF © 2006-2008, Simple Machines

Valid XHTML 1.0! Valid CSS! Dilber MC Theme by HarzeM