Lịch sử Quân sự Việt Nam
Tin tức: Lịch sử quân sự Việt Nam
 
*
Chào Khách. Bạn có thể đăng nhập hoặc đăng ký. 28 Tháng Ba, 2024, 07:28:13 pm


Đăng nhập với Tên truy nhập, Mật khẩu và thời gian tự động thoát


Trang: « 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 16 17 18 19 20 21 22 23 »   Xuống
  In  
Tác giả Chủ đề: 50 năm QĐND Việt Nam  (Đọc 7407 lần)
0 Thành viên và 1 Khách đang xem chủ đề.
chuongxedap
Đại tá
*
Bài viết: 13138



« Trả lời #90 vào lúc: 27 Tháng Năm, 2022, 07:35:03 pm »


20-10 đến 1-12.

Bộ Tư lệnh Tây Nguyên (B3) sử dụng hai trung đoàn bộ binh (66,88A), trung đoàn pháo binh 40, ba tiểu đoàn (20,37,401), một đại đội công binh mở chiến dịch tiến công địch trên tuyến phòng thủ từ Bu Prăng đến Đức Lập (Đắc Lắc, Quảng Đức), diệt và làm bị thương 4.300 tên, phá hủy 112 máy bay, 87 xe quân sự, 29 khẩu pháo, thu 248 súng các loại.


25-10-1969 đến 25-4-1970.

Quân tình nguyện Việt Nam và bộ đội Pa-thét Lào mở chiến dịch phản công giải phóng Cánh Đồng Chum - Xiêng Khoảng (chiến dịch 139).


Lực lượng tham gia: hai sư đoàn bộ binh (316,312), trung đoàn bộ binh 866 (hai tiểu đoàn), trung đoàn pháo binh 16, một đại đội xe tăng, sáu tiểu đoàn đặc công, công binh, tiểu đoàn bộ đội địa phương tỉnh Nghệ An và 10 tiểu đoàn bộ đội Pa-thét Lào.

Tham gia Bộ chỉ huy chiến dịch, về phía quân tình nguyện Việt Nam có các đồng chí Vũ Lập (Tư lệnh), Huỳnh Đắc Hương (Chính ủy).

Sau ba đợt chiến đấu, Liên quân Việt-Lào đánh thiệt hại nặng một bộ phận “lực lượng đặc biệt” của Vàng Pao gồm 13 tiểu đoàn (khoảng 7.800 tên), phá hỏng và phá hủy nhiều phương tiện chiến tranh của chúng, mở rộng vùng giải phóng Lào, từ Bản Na đến Nậm Ngàn, gồm hai vạn dân.

Chiến thắng Cánh Đồng Chum - Xiêng Khoảng đánh dấu bước tiến bộ mới về trình độ tổ chức chỉ huy chiến dịch và tác chiến trên địa bàn rừng húi của chủ lực ta.


3-11 đến 10-12.

Sư đoàn 7 chủ lực Miền Được tăng cường một trung đoàn pháo binh và một tiểu đoàn đặc công mở đợt hoạt động ở Phước Long, Phước Bình, Bù Đốp, Bổ Tức, Lộc Ninh, đánh hàng trăm trận, trong đó có một trận quy mô cấp trung đoàn, 23 trận cấp tiểu đoàn, diệt hàng nghìn tên địch.


23 tháng 11.

Hội đồng chính phủ cách mạng lâm thời cộng hòa miền Nam Việt Nam tuyên dương 28 đơn vị và 23 cá nhân Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân.


Tháng 11.

Thành lập lữ đoàn 429 đặc công
(trên cơ sở trung đoàn 429) tại chiến khu Dương Minh Châu. Biên chế: ba tiểu đoàn (7,8,9) và sáu đại đội trực thuộc.

Lữ đoàn trưởng: Mười Thọ.
Chính ủy: Tư Định.


4 tháng 12.

Khu ủy Trị - Thiên - Huế chỉ thị cho phân khu III động viên mọi lực lượng ra sức xây dựng miền núi thành căn cứ cách mạng vững chắc, góp phần tích cực làm chuyển biến lớn trên chiến trường.


19 tháng 12.

Ủy ban thường vụ Quốc hội quyết định tuyên dương 23 đơn vị và 17 cá nhân Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân.
Logged
chuongxedap
Đại tá
*
Bài viết: 13138



« Trả lời #91 vào lúc: 27 Tháng Năm, 2022, 07:36:35 pm »


NĂM 1970


15 tháng 1.

Ủy ban thường vụ Quốc hội thông qua pháp lệnh đặt các danh hiệu vinh dự nhà nước
, trong đó có danh hiệu “Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân”. Pháp lệnh quy định danh hiệu, tiêu chuẩn đối với mỗi người hoặc đơn vị để được tặng hay truy tặng.

Ngày 27 tháng 1, Chủ tịch Tôn Đức Thắng ký lệnh công bố pháp lệnh này.


Tháng 1.

Hội nghị lần thứ 18 Ban Chấp hành Trung ương Đảng
đề ra nhiệm vụ kiên trì và đẩy mạnh cuộc kháng chiến, tiếp tục phát triển chiến lược tiến công một cách toàn diện, liên tục và mạnh mẽ, đẩy mạnh tiến công quân sự, tiến công chính trị, kết hợp với tiến công ngoại giao, tạo ra cục diện mới trong cục diện chiến tranh, đánh bại chiến lược “Việt Nam hóa chiến tranh” của đế quốc Mỹ. Đi đôi với phát triển chiến tranh nhân dân, cần phát triển bộ đội chủ lực, kết hợp chặt chẽ giữa tác chiến với xây dựng nhằm đưa quân đội ta vượt qua khó khăn, thực hiện tác chiến hiệp đồng binh chủng quy mô lớn, cùng với các lực lượng vũ trang địa phương và toàn dân đánh thắng địch về quân sự.


10 tháng 2.

Hội đồng chính phủ cách mạng lâm thời cộng hòa miền Nam Việt Nam quyết định tuyên dương 10 đơn vị và 28 cá nhân Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân. Tiếp đó, ngày 15 tháng 2, tuyên dương 12 đơn vị, 9 cá nhân và ngày 5 tháng 9 tuyên dương 6 đơn vị và 13 cá nhân Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân vì những thành tích xuất sắc trong chiến đấu và phục vụ chiến đấu chống Mỹ, cứu nước.


Tháng 2.

- Hội nghị Quân ủy Trung ương bàn việc thực hiện nghị quyết hội nghị lần thứ 18 Ban Chấp hành Trung ương Đảng.


Xác định vị trí của đấu tranh quân sự, vai trò của bộ đội chủ lực và yêu cầu đưa quân đội lên tác chiến hiệp đồng binh chủng ở các chiến trường. Quân ủy Trung ương đề ra nhiệm vụ quan trọng bậc nhất của quân đội ta lúc này là xây dựng các binh đoàn chủ lực mạnh, làm trụ cột cho chiến trường Đông Dương; xây dựng bộ đội chủ lực ở miền Nam đủ mạnh để đánh những trận tiêu diệt lớn; nâng cao sức mạnh chiến đấu và trình độ sẵn sàng chiến đấu của các lực lượng dự bị trên miền Bắc sát với nhiệm vụ của những binh đoàn chủ lực cơ động, có khả năng tác chiến tập trung, hiệp đồng binh chủng trên các chiến trường.

- Quân tình nguyện Việt Nam phối hợp với bộ đội Pa-thét Lào mở cuộc tiến công (từ 10-2 đến 21-2) giải phóng hoàn toàn khu vực Cánh Đồng Chum - Xiêng Khoảng, đánh bại hoàn toàn cuộc hành quân “Cù Kiệt” của Mỹ và quân ngụy Lào (từ tháng 8-1969) lấn chiếm vùng giải phóng của cách mạng Lào.


Tháng 3.

Thường trực Quân ủy Trung ương ra nghị quyết chuyên đề về công tác nhà trường trong quân đội.


Trong hai năm 1970-1971, lấy bổ túc nâng cao trình độ cán bộ lên đồng đều là chủ yếu (trừ các trường đào tạo cán bộ kỹ thuật), đồng thời coi trọng hệ thống đào tạo cán bộ cơ bản, toàn diện và lâu dài.


8 - 17 tháng 3.

Bộ đội chủ lực Khu 9 phối hợp với lực lượng vũ trang Cà Mau chặn đánh cuộc hành quân hỗn hợp “U Minh 2" của Mỹ-ngụy vào căn cứ Cà Mau, Rạch Giá, bảo vệ được lực lượng và khu căn cứ của ta.


18 tháng 3.

Mỹ chủ mưu đảo chính, lật đổ Xi-ha-núc ở Cam-pu-chia.


18 - 19 tháng 3.

Bộ Tư lệnh Thiết giáp mở đại hội thi đua “Quyết tâm đánh thắng giặc Mỹ xâm lược”. Chủ tịch Tôn Đức Thắng gửi thư khen ngợi: “Binh chủng Thiết giáp tuy còn trẻ tuổi, nhưng đã phát huy truyền thống của Quân đội nhân dân Việt Nam anh hùng, vượt nhiều khó khăn, lập thành tích to lớn và ngày càng trưởng thành”.


27 tháng 3.

Bộ Chính trị chỉ thị cho Trung ương Cục miền Nam và Quân khu ủy Khu 5 đẩy mạnh hoạt động, mở rộng vùng giải phóng
. Chỉ thị nêu rõ cần tiếp tục tiến công địch mạnh mẽ, mở rộng vùng giải phóng trên tuyến biên giới Việt Nam - Cam-pu-chia, phối hợp với phong trào nổi dậy của nhân dân Cam-pu-chia chống chính quyền phản động, giúp bạn phát triển lực lượng cách mạng và giải quyết những khó khăn về hậu cần cho bộ đội ta. Ngày 4 tháng 4, Bộ Chính trị chỉ thị cho Bộ Tư lệnh Miền chuẩn bị lực lượng và kế hoạch tác chiến sẵn sàng giúp nhân dân Cam-pu-chia giành quyền làm chủ ở những tỉnh giáp với nước ta khi bạn yêu cầu.


31 tháng 3.

Hai đại đội bộ binh và một đại đội đặc công Khu 6 được pháo binh chi viện hỏa lực tập kích căn cứ Sông Mao (Bình Thuận) đánh thiệt hại nặng sở chỉ huy sư đoàn 23, sở chỉ huy trung đoàn 44, chi đoàn thiết giáp, tiểu đoàn 3 trung đoàn 44, diệt và làm bị thương hơn 1.000 tên địch, phá hủy 70 xe quân sự.
Logged
chuongxedap
Đại tá
*
Bài viết: 13138



« Trả lời #92 vào lúc: 27 Tháng Năm, 2022, 07:38:03 pm »


Đầu tháng 4.

Bộ Quốc phòng mở hội nghị bàn việc huấn luyện quân bổ sung và tổ chức đưa quân từ miền Bắc vào các chiến trường. Quân bổ sung thuộc binh chủng nào do bộ tư lệnh binh chủng ấy đảm nhiệm. Quân bổ sung là nhân viên kỹ thuật do các trường, lớp đào tạo, bổ túc chuyên sâu kỹ thuật phụ trách. Các quân khu tổ chức huấn luyện bộ binh cấp trung đoàn, sư đoàn. Trong hai năm 1970-1971, ta đã đưa 195.000 quân bổ sung, trong đó có nhiều cán bộ, chiến sĩ thuộc các binh chủng kỹ thuật hành quân đến các chiến trường.


1 - 26 tháng 4.

Bộ đội chủ lực Tây Nguyên phối hợp với lực lượng vũ trang địa phương đánh bại cuộc hành quân “Tất thắng” của 13 tiểu đoàn chủ lực cơ động, một trung đoàn xe tăng và xe bọc thép ngụy, có nhiều máy bay, đại bác hỗ trợ tại Đắc Siêng (Công Tum).


Tháng 4.

- Bộ Chính trị Trung ương Đảng ra nghị quyết về cuộc vận động nâng cao chất lượng đảng viên và kết nạp đảng viên “lớp Hồ Chí Minh”. Quân ủy Trung ương ra nghị quyết thực hiện cuộc vận động trong quân đội. Đến cuối năm 1970 có 23.000 cán bộ, chiến sĩ lực lượng vũ trang được kết nạp vào Đảng - lớp đảng viên Hồ Chí Minh.

- Hội nghị tổng kết công tác thanh niên xung phong chống Mỹ, cứu nước những năm 1965-1968.

Hội nghị đánh giá: Thanh niên xung phong đã dũng cảm mưu trí, sáng tạo trong việc mở đường, lấp hố bom, phá bom nổ chậm, hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ bảo đảm giao thông vận tải với khẩu hiệu “địch đánh ta cứ đi”, góp phần xây dựng các công trình quốc phòng, chuyển đạn, chăm sóc thương binh, bắn rơi máy bay Mỹ... Nhân dịp này, Quốc hội quyết định thưởng lực lượng Thanh niên xung phong Huân chương Độc lập hạng nhất.


Tháng 4 - tháng 6.

Quân tình nguyện Việt Nam (hai trung đoàn 28, 14 và tiểu đoàn 631) hỗ trợ bộ đội Pa-thét Lào tiến công giải phóng A-tô-pơ và Xa-ra-van.


24 tháng 4.

Thành lập sư đoàn vận tải 470
(quyết định số 67/QĐTU của Quân ủy Trung ương) thuộc Đoàn 559. Nhiệm vụ: vận tải hàng cho các chiến trường Nam Bộ, Tây Nguyên, Hạ Lào, đông bắc Cam-pu-chia; phối hợp với các đơn vị chiến đấu, bảo vệ tuyến vận tải và giúp lực lượng cách mạng Cam-pu-chia xây dựng cơ sở chính trị, quân sự, củng cố vùng giải phóng.

Biên chế: năm binh trạm vận tải, một trung đoàn công binh, một tiểu đoàn pháo cao xạ 37.

Sư đoàn trưởng: thượng tá Nguyễn An.


29-4 đến 30-6.

Các sư đoàn 1, 5, 7, 9 chủ lực Miền do đồng chí Phạm Hùng, Bí thư Trung ương Cục làm Chính ủy và đồng chí Hoàng Văn Thái, Tư lệnh Miền chỉ huy; các trung đoàn 44, 95 và một số tiểu đoàn độc lập Mặt trận Tây Nguyên do đồng chí Hoàng Minh Thảo - Tư lệnh; Trần Thế Môn - Chính ủy Mặt trận chỉ huy phối hợp với lực lượng vũ trang địa phương đánh bại cuộc tiến công xâm lược quy mô lớn của quân Mỹ và ngụy Sài Gòn sang đông bắc Cam-pu-chia.


Tháng 5.

Cục Xăng dầu thành lập công trường T70 xây dựng công trình đường ống, hàn nối tuyến đường ống dẫn xăng dầu do quân đội phụ trách với tuyến đường ống hậu phương quốc gia. Phụ trách công trường: Hồng Cẩm. Ngày 11 tháng 7, Thủ tướng Chính phủ gửi công văn (số 96/K4) chỉ thị cho các tỉnh có đường ống đi qua phải cung cấp nhân lực, phương tiện thi công cho công trường. Ngày 21 tháng 11, Thủ tướng Chính phủ xác định cụ thể kế hoạch xây dựng đường ống dẫn dầu nối từ B12 đến S9 dài 1.650 ki-lô-mét. Công trình T70 gồm hai phần:

- Tuyến 559 xây dựng ống dã chiến dài 550 ki-lô-mét, kho dầu có sức chứa 8.720 tấn.

- Tuyến 6.970 xây dựng băng ống hàn dài 750 ki-lô-mét, kho dầu có sức chứa 13.800 tấn.

Ngày 17 tháng 4 năm 1971, Cục Xăng dầu thành lập thêm công trường 711H do đoàn 18 phụ trách thi công từ Vinh trở ra (112 ki-lô-mét đường ống) nối với tuyến 400H của binh trạm 170.

13 giờ ngày 13 tháng 12 năm 1971, tuyến 400H được nối với tuyến 711H, công trình đặc biệt T70 hoàn thành.


19 tháng 6.

Bộ Chính trị ra nghị quyết về “Tình hình mới ở bán đảo Đông Dương và nhiệm vụ mới của chúng ta”
, nêu rõ: “lực lượng vũ trang nhân dân Việt Nam có trách nhiệm nặng nề trên chiến trường Đông Dương... Phải không ngừng nâng cao chất lượng chiến đấu của các lực lượng vũ trang cách mạng để làm tròn nhiệm vụ giải phóng miền Nam, bảo vệ miền Bắc và làm tròn nhiệm vụ quốc tế, cùng với quân và dân các nước bạn sát cánh chiến đấu, đánh bại kẻ thù chung”.


Tháng 6.

- Thành lập Hội đồng chi viện tiền tuyến Trung ương
, động viên toàn quân, toàn dân trên miền Bắc phát huy sức mạnh của hậu phương lớn chi viện các chiến trường.

Chủ tịch: Phó thủ tướng Đỗ Mười.

- Thành lập Mặt trận Bình Long. Lực lượng trực thuộc có trung đoàn 1 (sư đoàn 1), bốn tiểu đoàn đặc công, bộ binh và tám đoàn hậu cần khu vực (10, 20, 30, 40, 400, 340, 500, 770).

- Tổ chức lại Đoàn 559 thành đơn vị tương đương quân khu do Quân ủy Trung ương và Bộ Tổng tư lệnh lãnh đạo, chỉ huy. Trực thuộc Bộ Tư lệnh 559 có năm bộ tư lệnh khu vực: 470, 471, 472, 473, 571 tương đương sư đoàn; 40 trung đoàn, tiểu đoàn vận tải ô tô, vận tải đường ống, pháo cao xạ, công binh; mặt trận 968 và Đoàn chuyên gia quân sự 565 ở Hạ Lào.

Quân số Đoàn 559: 90.000 người.

Tư lệnh: đại tá Đồng Sỹ Nguyên.
Chính ủy: đại tá Đặng Tính.

- Bộ Tổng Tham mưu vạch kế hoạch tác chiến, bắt đầu điều động lực lượng và chuẩn bị chiến trường ở khu vực Đường 9 - Nam Lào.
Logged
chuongxedap
Đại tá
*
Bài viết: 13138



« Trả lời #93 vào lúc: 27 Tháng Năm, 2022, 07:38:53 pm »


28 tháng 7.

Bộ Chính trị ra chỉ thị củng cố và xây dựng căn cứ địa cách mạng
của từng chiến trường ở miền Nam; đồng thời có kế hoạch xây dựng hệ thống căn cứ liên hoàn, phù hợp với yêu cầu chung của cách mạng ba nước Đông Dương.


Tháng 7.

Hội nghị, quân sự địa phương toàn miền Bắc
quyết định đẩy mạnh củng cố quốc phòng, xây dựng lực lượng vũ trang, động viên toàn dân bảo vệ miền Bắc và chi viện miền Nam.


19 tháng 8.

Ủy ban Thường vụ quốc hội quyết định tuyên dương danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân cho 55 đơn vị và 43 cá nhân thuộc các lực lượng vũ trang (quân đội và công an nhân dân) đã lập thành tích xuất sắc trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước.


24-8 đến 26-9.

Quân ủy Trung ương và Bộ Quốc phòng mở lớp tập huấn quân sự cho hơn 300 cán bộ cấp cao toàn quân học tập một số vấn đề đường lối quân sự của Đảng, một số cách đánh mới về chiến dịch, chiến thuật, công tác tham mưu, công tác đảng - công tác chính trị, công tác hậu cần trong chiến dịch và chiến đấu. Những kinh nghiệm hay và cách đánh hiệu quả ở chiến trường được trao đổi tại lớp học.


2 tháng 9.

Thành lập đoàn đặc công 367
tại căn cứ sông Chiêm (miền Đông Nam Bộ). Biên chế ba Z (tương đương tiểu đoàn). Năm 1972 phát triển thành chín Z, gồm bảy Z đặc công bộ, một Z đặc công nước, một Z pháo.

Đoàn trưởng: Nguyễn Thanh Tùng.
Chính ủy: Nguyễn Văn Được.


8 tháng 9.

Tiểu đoàn đặc công 406 Quân khu 5 tiến công các vị trí địch ở quận lỵ Trà Bồng (Quảng Ngãi), diệt và làm bị thương 650 tên địch (có quận trưởng, quận phó và 15 lính Mỹ), bắt sống một số quan chức ngụy quyền quận, xã; phá hủy 18 xe quân sự và 2 máy bay.


Tháng 9.

- Quân ủy và Bộ Tư lệnh Miền mở hội nghị tổng kết chiến dịch phản công của bộ đội chủ lực trên chiến trường Cam-pu-chia, nêu lên những vấn đề mới về công tác chỉ huy của cán bộ và cơ quan sư đoàn trong các trận đánh then chốt nhằm tiêu diệt gọn quân địch, về tác chiến độc lập và hiệp đồng của các trung đoàn, tiểu đoàn ...

- Hội nghị khoa học quân sự toàn quân.


10 tháng 10.

Thành lập Binh đoàn 70
tại nam Quân khu 4. Nhiệm vụ: làm lực lượng nòng cốt cùng các đơn vị tại chỗ tiêu diệt địch trong các chiến dịch lớn. Biên chế ba sư đoàn bộ binh (304, 308, 320), trung đoàn pháo mặt đất 45, trung đoàn pháo cao xạ 241, trung đoàn công binh 219 và một số đơn vị binh chủng, phục vụ.

Tư lệnh: đại tá Cao Văn khánh.
Chính ủy: đại tá Hoàng Phương.


Tháng 10.

Bộ tư lệnh 559 và Bộ Tư lệnh Quân khu Tây Bắc mở đại hội thi đua quyết tâm đánh thắng giặc Mỹ xâm lược.


Tháng 11.

Quân ủy Trung ương triệu tập hội nghị tổng kết công tác xây dựng chi bộ đảng trong quân đội, nêu lên một trong những bài học có tính nguyên tắc là có chi bộ mạnh mới có đơn vị cơ sở vững mạnh và có điều kiện xây dựng đảng bộ, xây dựng trung đoàn, sư đoàn mạnh, hoàn thành mọi nhiệm vụ.


10 tháng 12.

- Ban Chấp hành Trung ương Đảng và Chính phủ nước Việt Nam dân chủ cộng hòa kêu gọi quân dân cả nước quyết tâm đánh thắng giặc Mỹ xâm lược.

- Bộ Tổng tư lệnh Quân đội nhân dân Việt Nam ra mệnh lệnh cho cán bộ và chiến sĩ cả nước thực hiện lời kêu gọi của Trung ương Đảng và Chính phủ, quyết tâm đánh bại chiến lược “Việt Nam hóa chiến tranh” của đế quốc Mỹ.
Logged
chuongxedap
Đại tá
*
Bài viết: 13138



« Trả lời #94 vào lúc: 29 Tháng Năm, 2022, 02:55:34 pm »


NĂM 1971


30-1 đến 23-3.

Chiến dịch phản công Đường 9 - Nam Lào
đánh bại cuộc hành quân “Lam Sơn 719" của Mỹ-ngụy.

Tham gia chiến dịch: năm sư đoàn bộ binh (308, 304, 320, 324, 2), hai trung đoàn bộ binh (27, 278), tám trung đoàn pháo binh, ba trung đoàn công binh, ba tiểu đoàn xe tăng, sáu trung đoàn phòng không, tám tiểu đoàn đặc công, các đơn vị binh chủng khác và lực lượng hậu cần, vận tải của Đoàn 559, Tổng cục Hậu cần. Số quân chiến đấu và phục vụ chiến đấu lên tới trên 60.000 cán bộ, chiến sĩ.

Thượng tướng Văn Tiến Dũng - Ủy viên Bộ Chính trị, Phó bí thư Quân ủy Trung ương, Tổng Tham mưu trưởng là đại diện của Quân ủy Trung ương và Bộ Tổng Tư lệnh tại mặt trận. Bộ Chỉ huy chiến dịch (mật danh là mặt trận 702) do Thiếu tướng Lê Trọng Tấn - Phó Tổng tham mưu trưởng làm Tư lệnh; Thiếu tướng Lê Quang Đạo - Phó chủ nhiệm Tổng cục Chính trị làm Chính ủy.

Lực lượng địch lúc cao nhất có 15 trung đoàn bộ binh (ba sư đoàn dù, thủy quân lục chiến, bộ binh số 1), hai trung đoàn thiết giáp (460 xe), 21 tiểu đoàn pháo binh (250 khẩu), 700 máy bay (có 300 trực thăng), bốn tiểu đoàn quân ngụy Lào gồm trên 42.000 quân (có 9.000 quân Mỹ). Đây là cuộc hành quân lớn nhất, điển hình của chiến lược “Việt Nam hóa chiến tranh”.

Sau hơn một tháng phản công, trong đó có nhiều trận đánh ác liệt giữa Binh đoàn 70 với quân chủ lực cơ động ngụy ở bắc đường số 9 (tập kích điểm cao 655, vây lấn điểm cao 500, 543...), đầu tháng 3 năm 1971, bộ đội ta chuyển sang tiến công trên toàn mặt trận, bao vây, truy kích tập đoàn lớn quân địch ở Bản Đông, tiêu diệt quân địch ở các điểm cao 273, 660, 550...

Kết quả: loại khỏi vòng chiến đấu trên hai vạn tên địch, đánh thiệt hại nặng 6 trung đoàn, lữ đoàn, 13 tiểu đoàn bộ binh, pháo binh; phá hủy 1.100 xe (có 528 xe tăng, xe bọc thép), hơn 100 khẩu pháo lớn, bắn rơi 550 máy bay. Ta bắt hơn 1.000 tù binh, thu trên 3.000 khẩu súng các loại và nhiều trang bị quân sự. Quân đội Sài Gòn bị một đòn tiêu diệt nặng. Lần đầu tiên trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, quân đội ta thực hành thắng lợi một chiến dịch phản công quy mô lớn bằng các lực lượng binh chủng hợp thành, đánh tiêu diệt quân chủ lực ngụy được quân Mỹ chi viện hỏa lực và cơ động. Lực lượng tham gia chiến dịch được Ban Chấp hành Trung ương Đảng gửi thư khen (31-3-1971): “Đánh giỏi, thắng giòn giã, lập chiến công xuất sắc”.


Tháng 2.

Hội nghị lần thứ 19 Ban Chấp hành Trung ương Đảng
chỉ rõ phương hướng tiến lên của cách mạng miền Nam là đánh bại âm mưu “Việt Nam hóa chiến tranh”, phá kế hoạch “bình định” nông thôn của Mỹ-ngụy, đẩy mạnh đấu tranh quân sự và đấu tranh chính trị song song, thực hành ba mũi giáp công, kết hợp tiến công quân sự với nổi dậy của quần chúng, đẩy mạnh đấu tranh quân sự, chính trị, ngoại giao.


4-2 đến 24-6.

Chiến dịch phản công của bộ đội chủ lực Miền
đánh bại cuộc hành quân “Toàn thắng 1.71" của Mỹ và quân ngụy Sài Gòn ở đông bắc Cam-pu-chia. Chiến dịch do Quân ủy và Bộ Tư lệnh Miền chỉ huy. Lực lượng tham gia gồm ba sư đoàn bộ binh (3, 7, 9) và trung đoàn pháo binh 28 chủ lực Miền (Đoàn 301), các đơn vị bộ binh và binh chủng của quân khu và các tỉnh trên địa bàn chiến dịch.

Quân ngụy huy động toàn bộ lực lượng cơ động của Quân đoàn 3 (ba sư đoàn bộ binh, một liên đoàn biệt động quân, năm thiết đoàn xe tăng, xe bọc thép...) được 15 phi đoàn không quân Mỹ yểm trợ.

Kết quả: ta loại khỏi vòng chiến đấu trên hai vạn tên địch, bắt 700 tên, đánh thiệt hại nặng một trung đoàn thiết giáp, sáu chiến đoàn bộ binh, phá hủy 1.500 xe (369 xe tăng, xe bọc thép), 160 khẩu pháo, bắn rơi 200 máy bay.

Quân đội Sài Gòn bị một đòn tiêu diệt nặng, các mục tiêu của cuộc hành quân bị thất bại. Bộ đội chủ lực Miền có bước tiến rõ rệt về trình độ đánh tập trung cấp sư đoàn.


6 và 7 tháng 2.

Trung đoàn 2 và trung đoàn 3 (sư đoàn 9) hai lần tập kích vào sân bay Chúp, đánh thiệt hại nặng tiểu đoàn 36 biệt động quân và một chi đoàn xe bọc thép ngụy.


27-2 đến tháng 4.

Chiến dịch phản công đánh bại cuộc hành quân “Quang Trung 4"
ở vùng ngã ba biên giới của bộ đội chủ lực Tây Nguyên. Từ 27 tháng 2 đến 4 tháng 3, ba trung đoàn 66, 28, 31 bộ binh diệt ba tiểu đoàn địch ở Ngọc Tô Ba. Ngày 1 tháng 4, tiểu đoàn 7 (trung đoàn 66) và một đại đội đặc công diệt một tiểu đoàn địch ở điểm cao Ngọc Rinh Rua.

Quân ủy Trung ương gửi điện khen bộ đội Tây Nguyên: "Đánh giỏi, lập công xuất sắc, trưởng thành nhanh chóng”.


17 tháng 3.

Hợp nhất Trường sĩ quan Phòng không và Trường kỹ thuật Phòng không thành Trường Phòng không trực thuộc Quân chủng Phòng không- Không quân.


18 tháng 3.

Thành lập Đoàn 301
(cơ quan chỉ huy tiền phương Bộ Tư lệnh Miền), trực tiếp chỉ huy các sư đoàn bộ binh 5, 7, 9, trung đoàn pháo binh 28, tiểu đoàn phòng không 12 và các đơn vị bảo đảm, phục vụ khác.

Bộ Chỉ huy Đoàn 301: Trần Văn Trà (Tư lệnh Miền), Hoàng Cầm, Lê Ngọc Hiền, Trần Độ, Trần Văn Phác.


23 tháng 3.

Đại đội 61 tiểu đoàn 35 Bộ Tư lệnh Đặc công tham gia chiến dịch phản công Đường 9 - Nam Lào được pháo binh chi viện hỏa lực tập kích sân bay Tà Cơn, phá hủy và phá hỏng 43 máy bay, 3 kho xăng, 1 kho đạn, diệt 100 tên Mỹ. Ta hy sinh 15, bị thương 2 đồng chí.


27 tháng 3.

Tiểu đoàn đặc công 409 Quân khu 5 tập kích trung đoàn 46 (lữ đoàn 198, sư đoàn A-mê-ri-cơn) ở xã Đốc (Trà My, Quảng Nam), diệt và làm bị thương 350 tên Mỹ.
Logged
chuongxedap
Đại tá
*
Bài viết: 13138



« Trả lời #95 vào lúc: 29 Tháng Năm, 2022, 02:56:31 pm »


11 tháng 4.

Bầu cử Quốc hội khóa IV nước Việt Nam dân chủ cộng hòa
. Trong số 420 đại biểu trúng cử có 27 đại biểu quân đội. Từ ngày 7 đến 20 tháng 6, Quốc hội khóa 4 họp kỳ thứ nhất, bầu đồng chí Tôn Đức Thắng giữ chức Chủ tịch nước Việt Nam dân chủ cộng hòa, Chủ tịch Hội đồng Quốc phòng.


Tháng 5.

- Bộ Chính trị Trung ương Đảng chủ trương “phát triển thế chiến lược tiến công mới trên toàn chiến trường miền Nam và trên cả chiến trường Đông Dương
, đánh bại chiến lược “Việt Nam hóa chiến tranh” của đế quốc Mỹ, đánh bại một bước quan trọng kế hoạch xâm lược của chúng ở Cam-pu-chia và Lào, giành thắng lợi quyết định trong năm 1972, buộc đế quốc Mỹ phải chấm dứt chiến tranh bằng thương lượng trên thế thua; đồng thời sẵn sàng chuẩn bị, kiên trì và đẩy mạnh kháng chiến trong trường hợp chiến tranh còn kéo dài”.

- Vận dụng kinh nghiệm của hai binh trạm 32, 31, Bộ Tư lệnh 559 huy động toàn bộ lực lượng công binh, thanh niên xung phong và một bộ phận các lực lượng khác xây dựng mạng đường kín (đường K) ở tây Trường Sơn. Đến đâu mùa khô 1971-1972, con đường kín dài 778 ki-lô-mét chạy dọc tuyến và con đường kín rải đá ở cửa khẩu dài 141 ki-lô-mét hình thành. Quân đội ta có thêm một tuyến vận tải chiến lược mới. Đoàn 559 chuyển sang phương thức vận tải cơ giới quy mô lớn vào ban ngày, làm vô hiệu hóa thủ đoạn ngăn chặn bằng máy bay AC.130 của địch trên tuyến vận tải Bắc-Nam. Mùa khô 1971-1972, trên 71 phần trăm xe vận tải và hàng hóa chuẩn bị cho cuộc tiến công chiến lược năm 1972 được thực hiện qua tuyến đường kín.


Tháng 6.

- Hội nghị Quân ủy Trung ương nghiên cứu, thực hiện nghị quyết Bộ Chính trị
, xác định quyết tâm chiến lược năm 1972: “tập trung mọi cố gắng, đẩy mạnh tiến công quân sự và chính trị trên cả ba vùng ở miền Nam Việt Nam là chiến trường chính và khắp cả chiến trường Đông Dương” ..."phối hợp đòn chủ lực mạnh ở rừng núi, phong trào tiến công nổi dậy mạnh ở đồng bằng, phong trào đấu tranh chính trị và đấu tranh vũ trang mạnh ở đô thị, tiến công mạnh vào ba chỗ dựa của chiến lược “Việt Nam hóa chiến tranh”, tạo nên một cục diện mới có lợi cho ta trong trường hợp ngừng bắn, tạo điều kiện để đưa phong trào cách mạng tiến lên một cách vững chắc trong tình hình mới”.

- Tiểu đoàn đặc công 405 Quân khu 5 ba lần tập kích kho đạn Đèo Son (Bình Định) trong các ngày 22, 28 và 29, phá hủy 42 dãy kho gồm 41.200 tấn bom, đạn, thuốc nổ, 4 tấn xăng, 61 xe quân sự, diệt 1 đại đội ngụy bảo vệ.

- Hội nghị tổng kết chiến dịch Đường 9 - Nam Lào do Quân ủy Trung ương triệu tập. Đồng chí Lê Duẩn - Bí thư thứ nhất Ban Chấp hành Trung ương Đảng chỉ thị cho hội nghị: “Vận dụng sáng tạo những kinh nghiệm đã được tổng kết, nhanh chóng nâng cao năng lực tổ chức chỉ huy, trình độ tác chiến hiệp đồng binh chủng của các đơn vị”.


Tháng 7.

Bộ Quốc phòng tổ chức lớp tập huấn cán bộ cao cấp, trung cấp
về một số vấn đề nghệ thuật chiến dịch tiến công và đánh địch trong công sự, tiêu diệt căn cứ tiểu đoàn, trung đoàn địch; học tập kinh nghiệm đánh tiêu diệt lớn quân địch trong công sự vững chắc, trong tác chiến vận động của chiến dịch Đường 9 - Nam Lào.


8 tháng 7.

Thành lập Ủy ban Thanh tra quân đội thuộc Bộ Quốc phòng.

Chủ nhiệm: Trung tướng Nguyễn Đôn.


10 tháng 7.

- Thành lập Bộ Tư lệnh Mặt trận Phòng không cửa khẩu
có quyền hạn tương đương cấp sư đoàn, phiên hiệu sư đoàn phòng không 377 (quyết định số 109/QĐ của Bộ Quốc phòng). Lực lượng gồm bốn trung đoàn pháo cao xạ (224, 227, 243, 250), hai trung đoàn tên lửa (237, 275).

Tư lệnh: Nguyễn Hữu Ích.
Chính ủy: Lương Tý.

- Thành lập Bộ Tư lệnh tiền phương Quân chủng Phòng không - Không quân có nhiệm vụ chỉ đạo, chỉ huy các đơn vị thuộc quân chủng trong thời gian mở chiến dịch Trị - Thiên và chiến đấu ở khu vực Quảng Bình - Vĩnh Linh.


20 tháng 7.

Thành lập các bộ tư lệnh khu vực thuộc Bộ Tư lệnh Đoàn 559
có quyền hạn tương đương cấp sư đoàn, làm nhiệm vụ vận chuyển, mở đường, bảo đảm giao thông, tổ chức chỉ huy hiệp đồng binh chủng đánh địch trên không và dưới mặt đất. Mỗi bộ tư lệnh khu vực phụ trách một số tuyến vận tải và một cụm binh trạm.

- Bộ Tư lệnh 471 phụ trách trục đường phía tây, tiếp chuyển hàng của Bộ Tư lệnh 472 gồm sáu binh trạm (35, 36, 38, 44, 46, và 47).

- Bộ Tư lệnh 472 phụ trách khu vực trung tâm phía tây Trường Sơn gồm sáu binh trạm (32, 33, 34, 39, 45, 12).

- Bộ Tư lệnh 473 phụ trách các trục đường 16, 9, 14, 29, 128 và B45 phía đông Trường Sơn gồm bốn binh trạm (27, 28, 41, 42).

- Bộ Tư lệnh 470 (thành lập tháng 4-1970) gồm năm binh trạm (37, 50, 51, 52 và 53).

- Bộ Tư lệnh hậu phương (571) gồm Trường Quân chính, Viện quân y 59, đoàn giao nhận xe (tương đương trung đoàn) và các đơn vị trực thuộc khác.


Tháng 7.

Quân ủy Trung ương quyết định hợp nhất Binh đoàn 70 và mặt trận Đường 9 thành Bộ Tư lệnh B5
trực thuộc Bộ Quốc phòng.
Logged
chuongxedap
Đại tá
*
Bài viết: 13138



« Trả lời #96 vào lúc: 29 Tháng Năm, 2022, 02:57:51 pm »


Tháng 8.

Một số địa phương trên miền Bắc bị lụt lớn. Hàng vạn lượt cán bộ, chiến sĩ quân đội đã tham gia cứu người, cứu đê, cứu tài sản của Nhà nước và của nhân dân.


7-12 tháng 9.

Bộ đội chủ lực Quân khu 9 (ba trung đoàn 2, 10, 20) và lực lượng vũ trang địa phương đánh bại cuộc hành quân lấn chiếm căn cứ U Minh (lần thứ ba) của Mỹ-ngụy.


20 tháng 9.

Chính phủ cách mạng lâm thời cộng hòa miền Nam Việt Nam tuyên dương 21 đơn vị và 16 cá nhân danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang giải phóng.


20-23 tháng 9.

Đại hội anh hùng, chiến sĩ thi đua các lực lượng vũ trang nhân dân giải phóng Đông Nam Bộ và Sài Gòn - Gia Định năm 1971.



26-9 đến 20-10.

Bộ Tư lệnh Miền sử dụng sư đoàn bộ binh 7, một tiểu đoàn bộ binh (sư đoàn 9), hai tiểu đoàn công binh 26 và 27 (trung đoàn 301) và một số đơn vị binh chủng tiến công tuyến phòng thủ địch trên đường số 22 (Cần Đăng - Xa Mát), loại khỏi vòng chiến đấu gần 2.000 tên, phá hủy 50 xe quân sự, 35 máy bay, thu 163 khẩu súng các loại.


29 tháng 9.

Ủy ban thường vụ Quốc hội và Chủ tịch nước Việt Nam dân chủ cộng hòa tuyên dương danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân cho 15 đơn vị và 6 cá nhân thuộc Quân đội nhân dân Việt Nam.


Tháng 9.

Mặt trận Tây Nguyên mở hội mừng công lần thứ 5.


12 tháng 10.

Hội đồng Chính phủ quy định tên gọi và nhiệm vụ cơ quan quân sự địa phương các cấp.

- Thành phố trực thuộc Trung ương: Bộ Tư lệnh.

- Cấp tỉnh: Bộ chỉ huy quân sự.

- Thành phố thuộc tỉnh, thị xã, khu phố, huyện: Ban chỉ huy quân sự.

- Xã: Ban chỉ huy.


25-10 đến 4-12.

Sư đoàn bộ binh 9, hai trung đoàn bộ binh 205, 207 chủ lực Miền phối hợp với lực lượng vũ trang cách mạng và nhân dân Cam-pu-chia đánh bại cuộc hành quân “Chen la 2" ở khu vực đường số 6, Công-pông-thom (Cam-pu-chia).


18 tháng 11.

Bộ Quốc phòng ra quyết định (số 211/QĐ):

- Thành lập trung đoàn xe tăng 201 gồm bốn tiểu đoàn chiến đấu. Trung đoàn trưởng: Lê Quang Âm, chính ủy: Đỗ Văn Thất.

- Chuyển trung đoàn xe tăng 202 thành trung đoàn bộ binh cơ giới 202, gồm một tiểu đoàn xe tăng, hai tiểu đoàn bộ binh cơ giới. Trung đoàn trưởng: Nguyễn Văn Lãng, chính ủy: Vũ Ngọc Hải.


20 tháng 11.

Phi công Vũ Đình Rạng, trung đoàn không quân 921 lái MIG.21 cất cánh từ sân bay Anh Sơn (Nghệ An), bắn bị thương một máy bay B.52 Mỹ.


Tháng 11.

- Mặt trận B5 (bắc Quảng Trị) mở đại hội thi đua lập công quyết thắng giặc Mỹ xâm lược.

- Cục Quân huấn (Bộ Tổng Tham mưu) và Viện Khoa học Quân sự chỉ đạo sư đoàn bộ binh 308 diễn tập chiến đấu hiệp đồng binh chủng (có sử dụng một số vũ khí mới như tên lửa chống tăng, tên lửa (mang vác) bắn máy bay, bộ khí tài phá rào...) tiêu diệt quân địch trong công sự vững chắc.


18 tháng 12.

Quân tình nguyện Việt Nam (hai sư đoàn 312, 316, hai trung đoàn bộ binh 335, 866, sáu tiểu đoàn pháo binh, xe tăng) phối hợp với Quân giải phóng Lào mở chiến dịch phản công đánh bại cuộc hành quân lấn chiếm của 27 tiểu đoàn địch, khôi phục vùng giải phóng Cánh Đồng Chum.


Tháng 12.

- Sư đoàn 968 bộ binh
phối hợp với Quân giải phóng Lào đánh bại cuộc hành quân của 18 tiểu đoàn địch, giải phóng cao nguyên Bô Lô Ven, bảo vệ tuyến vận tải chiến lược.

- Sư đoàn 5 và sư đoàn 7 chủ lực Miền đánh bại cuộc hành quân của quân đội Sài Gòn ở Đầm Be.

- Quân ủy, Bộ Tư lệnh Miền chuyển các “khu căn cứ” thành các đoàn hậu cần khu vực, chuẩn bị cho cuộc tiến công chiến lược năm 1972 trên chiến trường miền Nam. Tuyến trước có năm đoàn hậu cần (210, 220, 230, 235, 814); tuyến sau có ba đoàn (340, 500, 770). Hướng tây-nam (Cam-pu-chia) có đoàn 200. Các tuyến vận tải chiến dịch (sáu tuyến) nối liền các căn cứ với các đoàn hậu cần phía trước, bám sát phục vụ các đơn vị chiến đấu.


28 tháng 12.

Bộ Tổng tư lệnh ra mệnh lệnh cho cán bộ, chiến sĩ các lực lượng vũ trang trên miền Bắc: “nâng cao cảnh giác, sẵn sàng chiến đấu, chủ động kịp thời giáng trả địch những đòn mãnh liệt..., nâng cao sức mạnh chiến đấu về mọi mặt, tổ chức chiến đấu tốt, đoàn kết hiệp đồng chặt chẽ, đánh mạnh, tiêu diệt gọn, bắn rơi tại chỗ nhiều máy bay địch, bắt sống giặc lái”.
Logged
chuongxedap
Đại tá
*
Bài viết: 13138



« Trả lời #97 vào lúc: 29 Tháng Năm, 2022, 02:59:41 pm »


NĂM 1972


Đầu tháng 1.

- Thành lập sư đoàn pháo binh 75
(trên cơ sở đoàn 69) thuộc Bộ Tư lệnh Miền gồm hai trung đoàn pháo mặt đất (96, 208), tiểu đoàn cao xạ 56 và trường đào tạo, bổ túc cán bộ sơ cấp pháo binh.

- Thành lập sư đoàn bộ binh 711 thuộc Bộ Tư lệnh Quân khu 5. Biên chế: ba trung đoàn bộ binh (31, 38, 57) và một số đơn vị binh chủng.


7 tháng 1.

Bộ Quốc phòng quyết định thành lập đoàn 10 huấn luyện, phiên hiệu C.600 thuộc Bộ Tư lệnh Thiết giáp. Biên chế: bốn tiểu đoàn (1, 2, 9, 61) và các phòng huấn luyện, chính trị, hậu cần, kỹ thuật.

Đoàn trưởng: Lê Quang Phước.


21 tháng 2.

Thành lập Phân hiệu Kỹ thuật quân giới
thuộc Cục Quân giới (quyết định số 62/QĐ của Chủ nhiệm Tổng cục Hậu cần). Nhiệm vụ: đào tạo thợ quân giới cho các đơn vị toàn quân, tổ chức và quản lý các đội quân giới vào chiến trường.

Hiệu trưởng: Trần Văn Đạt.


Cuối tháng 2.

Quân ủy Trung ương ra nghị quyết về nhiệm vụ quân sự năm 1972:
“Nhiệm vụ quan trọng bậc nhất là tập trung chỉ đạo chiến tranh và tăng cường lực lượng mọi mặt cho các chiến trường, chủ yếu là chiến trường miền Nam ... Phải đẩy mạnh đòn chiến lược của bộ đội chủ lực trên những hướng và chiến trường có lợi, tiêu diệt một bộ phận lực lượng quân ngụy miền Nam, phá vỡ từng bộ phận thế bố trí phòng ngự của địch, mở rộng vùng giải phóng. Trong lúc coi quân ngụy là đối tượng tác chiến chủ yếu, cần tiếp tục tiến công và tiêu diệt quân Mỹ..., đẩy mạnh đòn tiến công và nổi dậy ở các vùng nông thôn đồng bằng quan trọng. Kết hợp tiến công quân sự, chính trị và binh vận, đẩy mạnh phong trào chiến tranh du kích và phong trào nổi dậy của quần chúng”.

 
11 tháng 3.

Thường vụ Quần ủy Trung ương ra nghị quyết về kế hoạch tiến công chiến lược năm 1972
. “Trị-Thiên từ vị trí là hướng phối hợp quan trọng, nay chuyển thành hướng chiến lược chủ yếu nhằm tiêu diệt lớn quân địch và mở rộng vùng giải phóng, góp phần làm thay đổi so sánh lực lượng giữa ta và địch, thay đổi cục diện chiến tranh ở miền Nam, đưa cuộc kháng chiến tiến lên một bước mới”.

Các chiến trường miền Đông Nam Bộ, Tây Nguyên cùng với Khu 5 đẩy mạnh tác chiến quy mô vừa và lớn để tạo thành một cuộc tiến công chiến lược trên toàn miền Nam và sẵn sàng đưa một sư đoàn chủ lực xuống đồng bằng khi có thời cơ.


30-3 đến 27-6.

Chiến dịch tiến công Trị-Thiên.


Tư lệnh: Thiếu tướng Lê Trọng Tấn.
Chính ủy: Thiếu tướng Lê Quang Đạo.

Lực lượng tham gia chiến dịch: ba sư đoàn bộ binh (304, 308, 324) và hai trung đoàn độc lập, hai sư đoàn phòng không hỗn hợp (367, 377) gồm tám trung đoàn pháo cao xạ, hai trung đoàn tên lửa, chín trung đoàn pháo mặt đất, hai trung đoàn xe tăng-thiết giáp, hai trung đoàn công binh và 16 tiểu đoàn đặc công, thông tin, vận tải.

Từ 30 tháng 3 đến 5 tháng 4, ta phá vỡ tuyến phòng thủ vòng ngoài, giải phóng hai huyện Gio Linh, Cam Lộ, buộc địch phải rút khỏi tuyến phòng thủ đường số 9.

Từ 10 tháng 4 đến 2 tháng 5, bộ đội ta tiếp tục thọc sâu, chia cắt, diệt từng tập đoàn quân địch phòng ngự ở Đông Hà, Ái Tử, La Vang, giải phóng toàn tỉnh Quảng Trị.

Từ 3 tháng 5 đến 27 tháng 6, các đơn vị củng cố vùng mới giải phóng, đánh địch phản kích.

Sau gần ba tháng chiến đấu liên tục, ta loại khỏi vòng chiến đấu hơn 27.000 tên địch, phá hủy 636 xe tăng thiết giáp, 1.870 xe quân sự, 419 khẩu pháo, bắn rơi và phá hủy 340 máy bay…, giải phóng hoàn toàn tỉnh Quảng Trị và ba xã thuộc huyện Hương Điền (Thừa Thiên).


30-3 đến 5-6.

Chiến dịch bắc Tây Nguyên.


Tư lệnh: Thiếu tướng Hoàng Minh Thảo.
Chính ủy: Trương Chí Cương - Ủy viên dự khuyết Ban Chấp hành Trung ương Đảng.

Lực lượng tham gia: hai sư đoàn (320A và 2), bốn trung đoàn bộ binh (24, 28, 95, 66), hai trung đoàn pháo binh (40, 675), trung đoàn pháo cao xạ 234, hai tiểu đoàn xe tăng và một số đơn vị binh chủng.

Từ 30 tháng 3 đến 24 tháng 4, bộ đội ta tiến công địch ở tây sông Pô Cô, bắc Võ Định, các điểm cao 1.015, 1.049, đập vỡ tuyến phòng thủ vòng ngoài; tiếp đó mở đợt tiến công tiêu diệt căn cứ 42, căn cứ Đắc Tô, giải phóng thị trấn Tân Cảnh, quận lỵ Đắc Tô. Lần đầu tiên bộ đội ta diệt một sư đoàn (thiếu) trên tuyến phòng thủ kiên cố của địch ở chiến trường bắc Tây Nguyên.

Từ 25 tháng 4 đến 5 tháng 6, ta tập trung lực lượng tiến công địch ở thị xã Công Tum, cắt đường số 4, đánh địch phản kích. Do mùa mưa đã đến, việc cơ động lực lượng và chuẩn bị vật chất, binh khí kỹ thuật gặp nhiều khó khăn, ta không chiếm được thị xã Công Tum.


31-3-1972 đến 28-1-1973.

Chiến dịch tiến công “Nguyễn Huệ” (miền Đông Nam Bộ).


Tư lệnh: Trung tướng Trần Văn Trà.
Chính ủy: Thiếu tướng Trần Độ.

Lực lượng tham gia chiến dịch: ba sư đoàn bộ binh (5, 7, 9), ba trung đoàn bộ binh độc lập, một trung đoàn và hai tiểu đoàn đặc công, một trung đoàn pháo cao xạ, ba trung đoàn pháo binh (đoàn 75 chủ lực Miền), một trung đoàn thiết giáp và lực lượng vũ trang địa phương.

Sau trận đánh mở đầu diệt cứ điểm Xa Mát, Bàu Dưng trên đường số 22, ngày 5 tháng 4, sư đoàn 5 và trung đoàn 3 (sư đoàn 9) có hai đại đội xe tăng và pháo binh chi viện đánh chiếm chi khu quân sự Lộc Ninh. Đây là trận thắng lớn, tiêu diệt chiến đoàn địch phòng ngự trong công sự vững chắc, đánh dấu bước tiến mới về trình độ tác chiến tập trung hiệp đồng binh chủng của bộ đội chủ lực Miền.

Ngày 13 tháng 4, sư đoàn 9 có một đại đội xe tăng phối hợp tiến công thị xã Bình Long. Quân địch phản kích quyết liệt.

Trong các đợt chiến đấu (từ 16 tháng 5 đến 30 tháng 9 và từ 1 tháng 10 năm 1972 đến 28 tháng 1 năm 1973), quân ta tiếp tục bao vây thị xã Bình Long, chốt chặn trên đường số 13 và đánh địch phản kích trên các hướng, hỗ trợ các lực lượng vũ trang địa phương đánh phá “bình định”.

Sau gần 10 tháng chiến đấu, ta diệt và đánh thiệt hại nặng năm chiến đoàn, bảy trung đoàn, 16 tiểu đoàn bộ binh, ba trung đoàn thiết giáp, 13 đại đội pháo binh, loại khỏi vòng chiến đấu 7.985 tên, bắn rơi và phá hủy 897 máy bay, bắn chìm 20 tàu xuồng, phá hủy và phá hỏng 1.881 xe quân sự, thu 282 xe (có 12 xe tăng), 6.637 súng các loại và nhiều phương tiện chiến tranh. Vùng giải phóng miền Đông Nam Bộ được mở rộng, nối liền với vùng giải phóng đông bắc Cam-pu-chia, Tây Nguyên và hậu phương lớn miền Bắc, tạo thế vững chắc cho bộ đội chủ lực Miền phát triển tiến công những năm sau này.
Logged
chuongxedap
Đại tá
*
Bài viết: 13138



« Trả lời #98 vào lúc: 29 Tháng Năm, 2022, 03:02:32 pm »


6 tháng 4.

- Đế quốc Mỹ huy động lực lượng lớn không quân, hải quân gây lại cuộc chiến tranh phá hoại (lần thứ hai) trên miền Bắc; đồng thời tăng cường chi viện lớn về hỏa lực và sức cơ động cho quân ngụy phản kích ta ở miền Nam. Bộ Tổng tư lệnh ra mệnh lệnh cho toàn quân: quyết tâm đánh thắng giặc Mỹ xâm lược.

- Quân dân tỉnh Quảng Bình và khu Vĩnh Linh bắn rơi 10 máy bay Mỹ.


9-4 đến 2-6.

Chiến dịch tiến công tổng hợp bắc Bình Định.


Tư lệnh: Thiếu tướng Chu Huy Mân.
Chính ủy: Võ Chí Công.

Lực lượng tham gia: sư đoàn bộ binh 3, hai tiểu đoàn đặc công, lực lượng vũ trang địa phương và lực lượng chính trị quần chúng.

Sau trận mở đầu diệt cứ điểm Gò Lôi, ngày 18 tháng 4, hai trung đoàn 2 và 21B (sư đoàn 3) bao vây và tiến công trung đoàn 42 ngụy, giải phóng huyện Hoài Ân. Từ 24 tháng 4 đến 1 tháng 5, sư đoàn 3 vây lấn, diệt hai căn cứ Bình Dương (huyện Phù Mỹ) và Đệ Đức (huyện Hoài Nhơn).

Phối hợp với đòn tiến công quân sự, hàng vạn quần chúng ở các xã ấp đã cùng du kích bao vây, bức rút hơn 100 đồn bốt bảo an.

Sau gần hai tháng chiến đấu, ta diệt và làm tan rã 13.000 tên địch (bắt 4.000 tên), giải phóng hai huyện Hoài Ân, Hoài Nhơn và một phần huyện Phù Mỹ. Quân ủy Trung ương gửi điện khen ngợi sư đoàn 3 và lực lượng vũ trang Bình Định: “Phát huy sức mạnh tổng hợp, liên tục tiến công, đánh giỏi thắng lớn”.


11 tháng 4.

Bộ chỉ huy các lực lượng vũ trang nhân dân giải phóng miền Nam Việt Nam ra mệnh lệnh cho cán bộ, chiến sĩ, bộ đội chủ lực, bộ đội địa phương và dân quân du kích:


1. Quyết tâm đánh thật   mạnh, tiêu diệt thật nhiều sinh lực và phương tiện chiến tranh của địch.

2. Hỗ trợ đồng bào ở vùng địch kiểm soát tiến công và nổi dậy, giành quyền làm chủ.

3. Kết hợp chặt chẽ địch vận với tác chiến, vận động binh lính và sĩ quan địch phản chiến rời bỏ hàng ngũ trở về với nhân dân.


16 tháng 4.

Ban Chấp hành Trung ương Đảng và Chính phủ nước Việt Nam dân chủ cộng hòa kêu gọi:
“Toàn Đảng, toàn quân, toàn dân ta, triệu người như một nêu cao chủ nghĩa anh hùng cách mạng, kiên quyết chiến đấu vì độc lập tự do của Tổ quốc, vì sự nghiệp giải phóng miền Nam, bảo vệ miền Bắc xã hội chủ nghĩa, tiến tới hòa bình thống nhất nước nhà.

Các lực lượng vũ trang hãy dũng cảm xông lên, liên tục chiến đấu, giết giặc, cứu nước".


19 tháng 4.

Biên đội MIG.17 gồm Lê Xuân Dị và Nguyễn Văn Bảy (trung đoàn không quân 923) cất cánh từ sân bay Gát (Đồng Hới, Quảng Bình) đánh bị thương tàu khu trục của hạm đội 7 Mỹ trên vùng biển miền Bắc.


20 tháng 4.

Quân và dân Quảng Bình bắn rơi chiếc máy bay Mỹ thứ 3.500 trên miền Bắc.


Tháng 5.

Quân ủy Trung ương và Bộ Tổng tư lệnh quyết định tăng cường các lực lượng vũ trang trên miền Bắc.

Hai sư đoàn bộ binh 325, 320 cơ động của Bộ và sáu trung đoàn chủ lực cơ động các Quân khu 4, Quân khu Việt Bắc, Quân khu Tả Ngạn, Quân khu Hữu Ngạn được bổ sung quân số và trang bị theo biên chế. Học viên sĩ quan các trường lục quân và binh chủng tổ chức thành một sư đoàn dự bị mạnh (phiên hiệu sư đoàn 312B) thuộc Bộ Tổng Tham mưu, sẵn sàng cơ động chiến đấu bảo vệ phía bắc Quân khu 4. Lực lượng phòng không phát triển thêm một sư đoàn, ba trung đoàn, 20 tiểu đoàn, trang bị pháo cao xạ, tên lửa, ra-đa và nhiều khí tài mới. Hàng chục trung đoàn, tiểu đoàn pháo binh, thiết giáp, đặc công, công binh được thành lập. Vào thời điểm giữa năm 1972, lực lượng vũ trang tập trung trên miền Bắc có 530.000 người1, trong đó, bộ đội chủ lực thuộc các quân khu tăng gần hai lần, riêng Quân khu 4 tăng gấp năm lần.

Lực lượng bắn máy bay, tàu chiến của dân quân tự vệ cũng tăng nhanh và được trang bị khá mạnh. Giữa năm 1972, ngoài các tổ, đội chiến đấu, dân quân miền Bắc có hàng chục đại đội trang bị pháo cao xạ; 170 đại đội, trung đội trang bị súng máy cao xạ, 20 đại đội trang bị pháo 85 đánh tàu chiến Mỹ.


9 tháng 5.

Đế quốc Mỹ thả thủy lôi phong tỏa các cảng, vùng ven biển và các luồng sông nội địa miền Bắc. Các khu vực bị phong tỏa nặng nhất là Hải Phòng (1.733 quả), Cửa Hội (1.352 quả), Hòn La (1.162 quả) ... Quân và dân các địa phương đã tìm mở luồng mới và tìm nhiều phương thức, phương tiện tháo gỡ, phá hủy hàng nghìn quả thủy lôi, mìn từ trường, giữ vững mạch máu giao thông vận tải đường bộ và đường thủy trên miền Bắc, duy trì việc tiếp nhận hàng viện trợ và đưa khối lượng lớn hàng vào chiến trường miền Nam.


19 tháng 5.

Hội đồng chính phủ cách mạng lâm thời cộng hòa miền Nam Việt Nam quyết định tuyên dương 34 đơn vị và 18 cá nhân Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân; tiếp đó, ngày 20 tháng 12, quyết định tuyên dương 13 đơn vị Anh hùng đã lập thành tích xuất sắc trong chiến đấu và phục vụ chiến đấu chống Mỹ, cứu nước.


21-5 đến 15-11.

Quân tình nguyện Việt Nam và bộ đội Pa-thét Lào tổ chức chiến dịch phòng ngự Cánh Đồng Chum - Xiêng Khoảng.


Tham gia Bộ Tư lệnh chiến dịch về phía Việt Nam có đại tá Vũ Lập (Tư lệnh); đại tá Lê Linh (Chính ủy).

Lực lượng tham gia: quân tình nguyện Việt Nam có sư đoàn bộ binh 316, ba trung đoàn bộ binh 866, 335, 88 (thuộc sư đoàn 308B) và chín tiểu đoàn binh chủng (xe tăng, pháo binh, pháo cao xạ, đặc công, công binh).

Sau 179 ngày đêm chiến đấu, quân tình nguyện đã hỗ trợ lực lượng Pa-thét Lào loại khỏi vòng chiến đấu 5.600 tên địch, đánh thiệt hại nặng ba GM (22, 23, 26) ba tiểu đoàn quân Thái Lan, làm tổn thất năm GM (15, 22, 24, 30, 32), đánh bại các cuộc tiến công lấn chiếm của quân ngụy Lào và quân Thái Lan, giữ vững địa bàn chiến lược Cánh Đồng Chum.


30 tháng 5.

Quân ủy Trung ương nhận định ba tháng đầu của cuộc tiến công chiến lược năm 1972
. Bộ đội chủ lực ta đã biết tập trung ưu thế hỏa lực, binh khí kỹ thuật, chọn đúng phương hướng tiến công, phát huy sức mạnh hiệp đồng, đột phá thành công các trận địa phòng ngự kiên cố của địch. Nhưng do hạn chế về trình độ tổ chức, chỉ huy, về chuẩn bị chiến trường và hậu cần nên khi chuyển sang phát triển tiến công, đánh địch rút lui hoặc lúc chúng hỗn loạn thường chậm, mất thời cơ ...
________________________________________________
1. Tổng 10 vạn so với năm 1968.
Logged
chuongxedap
Đại tá
*
Bài viết: 13138



« Trả lời #99 vào lúc: 29 Tháng Năm, 2022, 03:04:25 pm »


3 tháng 6.

Thành lập trung đoàn 113 đặc công
tại miền Đông Nam Bộ. Biên chế: hai tiểu đoàn đặc công bộ (9, 12), một tiểu đoàn đặc công pháo (174), một đại đội đặc công nước (22), một đại đội trinh sát (53).

Trung đoàn trưởng: Nguyễn Thanh Tùng.
Chính ủy: Mai Văn Thoại.


10-6 đến 10-9.

Chiến dịch tiến công tổng hợp Khu 8.


Địa bàn: các tỉnh Mỹ Tho, Kiến Tường, Kiến Phong, Gò Công, Bến Tre.

Bộ chỉ huy chiến dịch: Hoàng Văn Thái - Tư lệnh kiêm Chính ủy; Đồng Văn Cống (Chín Hồng) - Phó tư lệnh; Lê Văn Tưởng - Phó chính ủy.

Lực lượng tham gia: sư đoàn 5, ba trung đoàn bộ binh (24,271,207), trung đoàn 28 pháo binh, một tiểu đoàn đặc công và một tiểu đoàn công binh (chủ lực Miền); ba trung đoàn bộ binh (1,88,320) chủ lực Quân khu 8; lực lượng vũ trang và lực lượng chính trị quần chúng các tỉnh, huyện.

Sau 93 ngày đêm tiến công và nổi dậy, ta đã loại khỏi vòng chiến đấu hơn 34.500 tên địch, bắn rơi 60 máy bay, phá hủy 126 xe M.113, 179 xe quân sự, 73 tàu xuồng, thu 3.222 súng các loại; diệt, bức hàng, bức rút 356 đồn bốt, giải phóng 27 xã, 22 ấp với 240.000 dân.


27 tháng 6.

Quân và dân miền Bắc bắn rơi 11 máy bay Mỹ, trong đó Không quân nhân dân bắn rơi bốn chiếc trên vùng trời Sơn La, Hà Nội bắn rơi năm chiếc, tiểu đoàn tên lửa 57 bắn rơi một máy bay F4E thứ 3.700 trên miền Bắc.


28-6-1972 đến 31-1-1973.

Chiến dịch phòng ngự Quảng Trị.


Bộ Tư lệnh chiến dịch: Thiếu tướng Trần Quý Hai (Tư lệnh), Trung tướng Song Hào (Chính ủy).

Lực lượng tham gia: năm sư đoàn bộ binh (304,305,320,325,312), trung đoàn 27 và trung đoàn 6 độc lập, ba trung đoàn pháo binh (164,45,84), bốn trung đoàn pháo cao xạ (241,243,250,280), trung đoàn 236 tên lửa, trung đoàn 203 thiết giáp, hai trung đoàn công binh (229,249), năm tiểu đoàn đặc công và lực lượng vũ trang trên địa bàn chiến dịch.

Từ 28 tháng 6 đến 30 tháng 8, bộ đội ta tổ chức năm đợt phản kích đánh bại nhiều cuộc phản công của địch. Tuy vậy do địch tập trung lực lượng và hỏa lực phản kích, ta bị thương vong lớn. Địch tái chiếm được thành cổ Quảng Trị.

Từ 1 tháng 9 năm 1972 đến 31 tháng 1 năm 1973, ta tổ chức trận địa và tác chiến phòng ngự bảo vệ vùng giải phóng Quảng Trị.

Kết quả: loại khỏi vòng chiến đấu 29.822 tên, diệt gọn một lữ đoàn và 12 đại đội, phá hủy 330 xe tăng, thiết giáp, 273 khẩu pháo, bắn rơi 169 máy bay, bắn chìm, bắn cháy 20 tàu xuồng, thu 877 súng các loại.


8 tháng 7.

Tiểu đoàn đặc công 269 được tăng cường một đại đội bộ đội địa phương tập kích chi khu Sầm Giang (Mỹ Tho), loại khỏi vòng chiến đấu 150 tên địch, phá hủy một kho bom 200 tấn.


Tháng 7.

Bộ Tổng Tham mưu chỉ thị cho Quân chủng Phòng không-Không quân thực hiện gấp việc tiếp tục nghiên cứu và triển khai kế hoạch đánh B.52, biên soạn tài liệu huấn luyện và tiến hành tập huấn bộ đội đánh B.52 trong các tình huống phức tạp.

Đại tướng Võ Nguyên Giáp - Ủy viên Bộ Chính trị, Bí thư Quân ủy Trung ương, Bộ trưởng Quốc phòng trực tiếp làm việc với Bộ Tư lệnh Quân chủng Phòng không - Không quân, Tư lệnh các binh chủng Ra-đa, Tên lửa, Không quân, sư đoàn trưởng sư đoàn phòng không Hà Nội xác định phương án tác chiến trong chiến dịch phòng không đánh máy bay B.52, bảo vệ Hà Nội.

Tháng 9 năm 1972, Bộ Tổng Tham mưu và Bộ Tư lệnh Quân chủng Phòng không-Không quân hoàn thành kế hoạch chiến dịch phòng không gồm một số vấn đề cơ bản như phán đoán âm mưu, thủ đoạn, hướng và mục tiêu tiến công của địch, quyết định sử dụng lực lượng và cách đánh của ta.


1 tháng 8.

Tiểu đoàn pháo 174 (trung đoàn đặc công 113) tập kích sân bay Biên Hòa (bắn 202 quả đạn ĐKB và 45 qủa H.12 vào 25 mục tiêu), phá hủy và hỏng 74 máy bay, làm thương vong nhiều phi công, nhân viên kỹ thuật của địch.


6 tháng 8.

Quân dân thành phố Hải Phòng bắn rơi chiếc máy bay Mỹ thứ 3.800 trên miền Bắc.


6-8 đến 11-9.

Bộ đội chủ lực Miền phản công, đánh bại cuộc hành quân Sô-sy-a/2 và từ ngày 8 đến 28 tháng 8, đánh bại cuộc hành quân Ăng-ko-chay của quân ngụy Lon-non.


13 tháng 8.

Hai tiểu đoàn đặc công 9,12 và đại đội 53 thuộc trung đoàn đặc công 113 do đồng chí Đỗ Văn Ninh chỉ huy tập kích khu kho 53 (tổng kho Long Bình), phá hủy 15.000 tấn bom, 200 tấn thuốc nổ, diệt và làm bị thương 300 tên địch.


25 tháng 8.

Hoàn thành xây dựng công trình đường ống dẫn dầu T.72
dài 386 ki-lô-mét gồm bốn tuyến đường ống song song. Ngày 31 tháng 12, hoàn thành công trình T.72b xây dựng tuyến đường ống từ Quảng Ninh nối với tuyến T.72. Hệ thống đường ống xăng dầu từ biên giới Việt-Trung vào đến miền Đông Nam Bộ (2.000 ki-lô-mét) được hoàn thành, góp phần quan trọng bảo đảm nhiên liệu cho công cuộc xây dựng và chiến đấu quy mô ngày càng lớn trên hai miền Nam-Bắc, đánh bại cuộc phong tỏa và ngăn chặn của địch.
Logged
Trang: « 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 16 17 18 19 20 21 22 23 »   Lên
  In  
 
Chuyển tới:  

Powered by MySQL Powered by PHP Powered by SMF 1.1.21 | SMF © 2006-2008, Simple Machines

Valid XHTML 1.0! Valid CSS! Dilber MC Theme by HarzeM