Lịch sử Quân sự Việt Nam
Tin tức: Lịch sử quân sự Việt Nam
 
*
Chào Khách. Bạn có thể đăng nhập hoặc đăng ký. 16 Tháng Tư, 2024, 09:05:44 pm


Đăng nhập với Tên truy nhập, Mật khẩu và thời gian tự động thoát


Trang: « 1 2 3 4 5 6 »   Xuống
  In  
Tác giả Chủ đề: Đường 5 anh dũng quật khởi - Tập 11  (Đọc 1997 lần)
0 Thành viên và 1 Khách đang xem chủ đề.
dungnuocgiunuoc
Thành viên
*
Bài viết: 614



« Trả lời #40 vào lúc: 27 Tháng Sáu, 2022, 06:34:11 am »

BAO VÂY VỊ TRÍ CỐNG TRÁNG,
BỨC ĐỊCH PHẢI THÁO CHẠY


VŨ THƯ
(Nguyên bí thư chi bộ,
chính trị viên xã đội Tân Việt)


Xã Tân Việt, huyện Yên Mỹ (Hưng Yên) có 5 thôn: Hoan Ái, Gia Cầu, Yến Đô, Lãng Câu và Cảnh Lâm. Riêng thôn Cảnh Lâm có một số đồng bào theo đạo Thiên chúa. Năm 1950, địch đã về Tân Việt xây dựng đồn Cống Tráng và 3 đồn hương dũng ở thôn Cảnh Lâm. Khi đến chiếm đóng, địch đã thành lập ngụy quyền, tổ chức phòng nhì và các đảng phái phản động để chống lại ta.


Có một số người không chịu được sự hy sinh gian khổ, nên đã đầu thú địch, thậm chí còn có kẻ đi lính ngụy, làm phòng nhì, chỉ điểm và tham gia vào các tổ chức đảng phái phản động chống lại ta.


Trong thời kỳ đen tối, cơ sở các thôn mất trắng, chỉ còn một tổ Đảng ở xóm Trong thôn Hoan Ái. Tổ Đảng có 4 đảng viên, tuy không liên lạc được với trên, nhưng vẫn hoạt động, nắm quần chúng tốt, theo dõi bám sát tình hình địch.


Địch mới đóng đồn được 4 tháng thì ngay đêm 30-4, các đảng viên xóm Trong đã làm quốc kỳ Việt Nam, Liên Xô, Trung Quốc và viết áp-phích mang lên cắm giữa đê 99, cách vị trí Cống Tráng 400m, để kỷ niệm ngày Quốc tế lao động 1-5-1950. Quốc kỳ tung bay trước gió, nhân dân tin tưởng cơ sở kháng chiến vẫn còn tồn tại. Đúng như 2 cấu thơ của thi sĩ Tố Hữu:

"Ở đâu u âm quần thù
Hướng lên Việt Bắc Cụ Hồ sáng soi"


Mãi đến trưa, ngụy quân ở đồn Cống Tráng mới ra tháo gỡ áp-phích và quốc kỳ.

Đến trung tuần tháng 9-1950, các đồng chí Đặng Quang Của, Đặng Ngọc Tiêm và Đào Quang Hanh, được lệnh của huyện đã trở về xã và bắt liên lạc với các đồng chí đảng viên ở xóm Trong. Các đảng viên đả tích cực đào hầm bí mật để bảo vệ và nuôi dưỡng các đồng chí trở về nội địa. Ngoài ra, các đảng viên ở xóm Trong đã phối hợp với các đồng chí ở Việt Bắc về, đêm xuống các thôn xóm để khôi phục, củng cố và phát triển cơ sở Đảng, các tổ chức quần chúng và lực lượng bán vũ trang.


Cơ sở của ta được củng cố và phát triển mạnh. Cuối năm 1951, chi bộ đã có Ban chi ủy, Ủy ban kháng chiến hành chính được thành lập, có ban chỉ huy xã đội để lãnh đạo du kích; các đoàn thể cứu quốc như thanh niên, phụ nữ, nông hội đã có ban chấp hành.


Từ 31-3-1951, phối hợp với chiến trường toàn quốc, tỉnh Hưng Yên đã nổi dậy đấu tranh vũ trang quyết liệt với địch, đã san bằng hàng trăm đồn, nhân dân được giải phóng, mở rộng được khu du kích và căn cứ du kích.


Thực hiện chủ trương của huyện và được B39 của huyện đội Yên Mỹ hỗ trợ trong đông xuân 1952 - 1953, chi bộ xã Tân Việt đã kiên quyết lãnh đạo nhân dân đứng lên đấu tranh vũ trang với địch. Dân quân du kích các thôn đã đào hàng trăm mét giao thông hào và làm công sự để lập phòng tuyến bao vây đồn Cống Tráng và các đồn hương dũng ở Cảnh Lâm. Thời gian đấu tranh vũ trang và bao vây địch, Tân Việt đã có một trung đội du kích nam và nữ du kích Hoàng Ngân, được huyện trang bị 15 khẩu súng trường các loại.


Từ đông xuân 1952 - 1953 đến đông xuân 1953 - 1954, bộ đội phối hợp với du kích liên tục bao vây các vị trí của địch, ngày đêm thường xuyên dùng súng trường, súng máy và moóc-chi-ê 81 ly xối xả bắn vào các đồn làm cho quân ngụy hoang mang hoảng sợ, mất ăn mất ngủ. Nhiêu lần địch phải huy động trên đại đội lính tiếp tế lương thực, thực phẩm cho quân ngụy.


Ngụy quân ở Cống Tráng không đủ sức cố thủ nên đầu năm 1954 địch đã huy động 1 tiểu đoàn có xe tăng yểm trợ xuống Tân Việt giải vây. Binh lính đồn Cống Tráng đã tháo chạy lên hậu cứ huyện lỵ Yên Mỹ, còn bốt trên đê và bốt Đình chúng phải co cụm xuống bốt Dộc thuộc thôn Cảnh Lâm. Khi địch tháo chạy và co cụm, dân quân du kích xã Tân Việt đã quyết tâm san bằng các đồn bốt để chống địch tái chiếm. Tại đồn Cống Tráng, ta đã thu được gần 20 hòm đạn các loại. Trong thời gian bao vây, du kích và bộ đội ta đã bắn tỉa diệt được 11 tên lính. Và trong cuộc tuyên truyền vũ trang vào Cảnh Lâm, ta đã bắn trọng thương tên Nguyễn Doãn Tín là tên phòng nhì chỉ điểm đắc lực cho Pháp, y và lính người công giáo đã giết chị Bùi Thị Cúc một cách man rợ.


Qua 9 năm kháng chiến chống Pháp, nhân dân xã Tân Việt đã khắc phục khó khăn, chịu đựng hy sinh gian khổ, đoàn kết anh dũng chiến đấu, góp phần nhỏ vào sự nghiệp giải phóng quê hương, đất nước.
Logged
dungnuocgiunuoc
Thành viên
*
Bài viết: 614



« Trả lời #41 vào lúc: 27 Tháng Sáu, 2022, 06:34:55 am »

TRẬN CHỐNG CÀN "CẬN CHIẾN" Ở THÔN ĐỒNG THAN


VŨ THÁI
(Nguyên cán bộ B206)


Ngày 18-1-1954, đồn địch tại Kênh Cầu (vị trí tiên tiêu về phía tây của cứ điểm GM3) bị ta tiêu diệt hoàn toàn, bắt sống và tiêu diệt 100 tên, thu toàn bộ vũ khí. GM3, quân Mường thuộc binh đoàn cơ động đóng tại thôn Bần Yên Phú xã Giai Phạm đã điều khoảng 1 tiểu đoàn dọc tuyến đường 206 qua đồn Kênh Cầu mới bị ta san phẳng về thôn Đồng Than (xã Dân Chủ cũ, nay là xã Đồng Than) chia làm nhiều mũi dàn hàng ngang chậm chạp tiến vào trận địa bên trong lũy tre. Khi tiến quân, chúng đều gọi phi pháo ở đồn Bần, "GM3" bắn vào làng hàng loạt. Thực hiện lệnh của ban chỉ huy Tỉnh đội Hưng Yên, B206 thuộc huyện đội Yên Mỹ gấp rút chuẩn bị, kiên quyết đánh thắng trận càn phản ứng của GM3. Vì đồn Kênh Cầu mới bị tiêu diệt, coi như phía tây nam của cứ điểm GM3 đã bị hở, phía này lại tiếp giáp với khu du kích mạnh Yên Mỹ, Khoái Châu và Văn Giang.


Nhận thức đầy đủ ý nghĩa quan trọng của trận chống càn này, lại được ban chỉ huy Huyện đội quán triệt sâu sắc, phân công nhiệm vụ từng tiểu đội thuộc trung đội 206 trấn giữ từng bụi tre ở từng khu vực trong thôn, phối hợp chặt chẽ với A1 du kích của thôn Đồng Than để cùng chiến đấu. Mặt khác, anh em du kích phải đảm bảo hậu cần và liên lạc giữa ban chỉ huy với các tiểu đội, các tổ hướng dẫn bộ đội nắm chắc hầm hố, đường ngang ngõ tắt trong làng. Đồng chí Thi Anh, huyện đội trưởng, đã quán triệt sâu sắc với toàn trung đội 206 trên mặt bằng của sa bàn, giao trách nhiệm, động viên anh em nêu cao quyết tâm đánh "cận chiến" trận này. B206 là B mạnh của huyện đội, lại đánh thắng địch ở trên mặt đường 206 mà đơn vị mang tên lại càng có ý nghĩa. Còn 2B 39 và 55 bố trí ở nơi khác làm nhiệm vụ bao vây, quấy rối các đồn địch ở Lực Điền, Bần để đánh lạc mục tiêu tiến quân và phi pháo của địch tại trận Đồng Than.


Kế hoạch trên đã phổ biến quán triệt cho toàn đơn vị tại thôn Bình Phú, xã Quang Phục. Đúng 6 giờ 30 tối ngày 25-1-1954, toàn đơn vị hành quân về Đồng Than chiếm lĩnh trận địa.

Toàn trung đội có 3 tiểu đội, mỗi tiểu đội có 3 tổ; trung đội trưởng là đồng chí Thanh Thức chỉ huy A1, đồng chí Thành chính trị viên phó chỉ huy A2, đồng chí Thụ B phó chỉ huy A3, các đồng chí tiểu đội trưởng, tiểu đội phó trực tiếp làm tổ trưởng tam chế. Quân số toàn trung đội có trên 40 người, có 1 trung liên, 3 tiểu liên, trên 100 quả lựu đạn và súng trường đầy đủ. 9 tổ bố trí ở các công sự trong bụi tre hướng về phía địch tấn công.


Bố trí xong, ban chỉ huy huyện đội và trung đội đến từng tổ để xem xét cách bố trí đánh "cận chiến", kiểm tra công sự hầm hố, động viên nhắc nhở anh em bộ đội quyết chiến và quyết thắng.

Căng thẳng và hồi hộp suốt đêm 25-1-1954, toàn trung đội đã chiếm lĩnh trận địa. 4 giờ sáng, quân báo cho biết địch đi bằng nhiều mũi đang qua Kênh Câu theo đường 206 tiến về làng Đồng Than. Phi pháo của địch ở Bẳn đang bắn vào làng đồn dập từng loạt một. 6 giờ sáng, địch dàn hàng ngang khoảng 1 đại đội tiến vào phía làng. Chúng không thấy động tĩnh gì nên cho quân từng bước chậm chạp tiến vào làng. Cách 4m, lệnh phát hỏa bắt đầu. Quân ta đồng loạt nhả đạn, địch chết như ngả rạ. Chúng phải rút ra xa, mang theo tử thi. Tiếp đó, chúng lại bắn pháo đồn dập. Dứt tiếng pháo, địch lại tiến vào. Ta bắn trả quyết liệt. Cứ như thế, 6 lần địch tiến vào đều bị bộ đội 206 đánh bật ra. Mãi đến tối, chúng mới vào được làng thì bộ đội đã rút ra khỏi làng. Mốt số anh em xuống hầm, đến gần sáng đã rút được hết. Địch cũng chỉ đóng lại có 1 đêm, sáng hôm sau bỏ dở cuộc càn rút về cứ điểm GM3. Cuộc chiến đấu không cân sức, chỉ có B206 mà đánh tan cuộc càn quét của một tiểu đoàn quân GM3, buộc chúng phải bỏ dở rút về vị trí. Trong trận này, địch đã bị diệt 1 trung đội, chúng phải cho trực thăng chở lính bị thương, bị chết đi. Phía ta hy sinh 3 bộ đội và 3 du kích. Đặc biệt nhân dân sơ tán triệt để nên không bị thiệt hại gì đáng kể.


Trung đội 206 thực xứng danh đánh thắng oanh liệt một tiểu đoàn địch ở trên đường 206 anh hùng.

LƯU ĐÌNH LINH kể - VŨ THÁI ghi
Logged
dungnuocgiunuoc
Thành viên
*
Bài viết: 614



« Trả lời #42 vào lúc: 27 Tháng Sáu, 2022, 06:35:28 am »

HÓA TRANG BAN XE ĐịCH TRÊN ĐƯỜNG 5


HOÀNG CHẠCH


Trước sự tấn công của quân ta, quân Pháp ngày càng khốn đốn trên mặt trận Điện Biên Phủ. Nhưng chúng vẫn tăng cường tuần tiễu bảo vệ tuyến đường 5 huyết mạch của chúng.

Nhân dân Thủ đô Hà Nội có một số đã nhốn nháo sơ tán về quê. Lợi dụng thời cơ tốt đó, thế là đồng chí Trần Thụ, trung đội trưởng trung đội 206 (đại đội 110), đồng chí Quýnh, đồng chí Hoàng Chạch cùng ba cô nữ du kích Hoàng Ngân thôn Đại Hạnh: Hà Thị Thêu, Thiêu Thị Hảo, Thiêu Thị Rụt phối hợp đánh địch.


Ba cô này mượn quần trắng áo dài tân thời màu của đồng bào sơ tán về quê, đồng thời cho 3 khẩu tiểu liên Tuyn vào trong làn xách. Còn 3 chúng tôi cúng mượn quần áo făng, kính đổi màu, mũ phớt... diện vào, hành quân từ thôn Đại Hạnh thuộc xã Hoàn Long cách đường 5 khoảng 8km đường chim bay, thẳng tới thôn Tuấn Dị thuộc xã Trưng Trắc (Văn Lâm). Đầu làng của thôn này chỉ cách đường 5 khoảng trên dưới 100m. Chúng tôi quan sát địch tình hồi lâu, rồi đồng chí Thụ quyết định trực tiếp lên chiếm lĩnh trận địa, hòa nhập vào đồng bào Thủ đô đang xuôi ngược vượt đường.


Trong lúc chúng tôi đang bình tĩnh hối hả vượt đường thì thấy một xe "cát cát" từ phía Như Quỳnh xuôi về Hải Phòng. Được lệnh của đồng chí Thụ, cả 2 tổ với 3 khẩu tiểu liên đã nhanh chóng ra khỏi làng. Trong nháy mắt, đều hướng vào chiếc xe nọ mà nhả đạn. Kết quả 2 tên trong xe bị gục. Tên lái xe sống sót, hú vía phóng bạt mạng chạy trốn. Còn 2 tổ chúng tôi nhanh chóng rút lui an toàn.


Sau về rút kinh nghiệm trận đánh táo bạo này. Đồng chí Thi Anh thay mặt huyện đội nhiệt liệt biểu dương anh chị em chiến đấu dũng cảm và góp ý bổ sung cho đồng chí Thụ là nên phân công một đồng chí bắn vào lốp xe của địch để nó khựng lại, rồi tước vũ khí của địch thì trận đánh táo bạo này hoàn toàn thắng lợi to lớn.


Hiện nay sáu người vẫn còn sống cả.
Logged
dungnuocgiunuoc
Thành viên
*
Bài viết: 614



« Trả lời #43 vào lúc: 27 Tháng Sáu, 2022, 06:36:45 am »

QUÂN VÀ DÂN XÃ CÔNG HÒA PHỐI HỢP
VỚI ĐẠI ĐỘI 110 CHỐNG CÀN THẮNG LỢI


ĐỖ ĐĂNG KHỐI
(Nguyên chiến sĩ trung đội 206, đại đội 110)


Cuối năm 1952, quân ta đã mở rộng khu du kích, bức rút bốt Cầu Hầu, bốt Tam Trạch cuối cùng tiêu diệt bằng nội ứng bốt công giáo Bùi Xá. Từ đây, xã Cộng Hòa (nay gọi là xã Trung Hòa) hoàn toàn được giải phóng khỏi ách kìm kẹp của bọn phản động gian ác, đảng phái và ngụy quân, ngụy quyền bị tan rã.


Được sự chỉ đạo của huyện, phong trào cách mạng toàn xã được khôi phục và phát triển. Đặc biệt, lực lượng vũ trang xã đá thành lập được từ 1 đến 2 trung đội cơ động, thôn cũng thành lập được tiểu đội cơ động sẵn sàng chiến đấu và phục vụ chiến đấu. Hàng trăm thanh niên nam nữ vào du kích, riêng nữ Hoàng Ngân được chị Nguyễn Thị Dân là xã đội phó chỉ huy du kích Trung Hòa, sẵn sàng chiến đấu bảo vệ nhân dân, chống địch càn quét, và động viên nhân dân tiếp tục sản xuất.


Du kích Trung Hòa còn tổ chức tìm địch để đánh, diệt địch cướp vũ khí về trang bị cho ta. Ngày 16-3-1953, du kích Trung Hòa còn lên đường 5 đặt mìn diệt 2 xe địch ở cây số 31, diệt 37 tên. Ngày 19-3-1953 phục kích ở đường 39, diệt xe zép và 2 tên lính Âu Phi ở cây số 33. Ngoài ra, còn đặt mìn ở phố Son để diệt xe địch. Có lần phối hợp với bộ đội huyện và du kích xã Lý Thường Kiệt đánh phục kích ở đê 199 Tể Hỏa diệt hàng trung đội địch. Đội nữ Hoàng Ngân còn đột nhập chợ Yên Mỹ ban ngày để đánh địch do chị Vũ Thị Vì tổ chức đánh.


Sau khi Trung Hòa được giải phóng, huyện đặt xã này trở thành căn cứ "lõm" nằm phía đông của huyện, xung quanh có hàng chục vị trí quan trọng bao vây và uy hiếp. Phía đông và bắc Trung Hòa từ Phố Nối đường 5 xuống quận lỵ Mỹ Hào và Kẻ Sặt, phía bắc và tây từ Phố Nối là đường 39 về Cầu Treo Yên Mỹ - Lực Điền. Phía tây nam từ Lực Điền dọc sông Đào - Nghĩa Trụ, đê 199 qua Cống Tráng ra Kẻ Sặt. Căn cứ "lõm" Trung Hòa như con dao găm chọc vào lưng, vào tim gan địch, thường xuyên bị địch bắn uy hiếp bằng súng cối, đại bác, súng bắn thẳng từ Kẻ Sặt, Mỹ Hào, Bần Yên Nhân, Lực Điền. Hàng ngày, bốt Cảnh Lâm chỉ cách thôn Quần Ngọc, thôn Nội Tây trên 100m, súng máy, súng trường của địch uy hiếp không cho hai thôn này sản xuất cả ban ngày và ban đêm.


Xã Trung Hòa có 11 thôn tạo thành 3 cụm dựa vào nhau chiến đấu. Các thôn Nghĩa Xuyên, Nguyễn Xá, Quần Ngọc, Nội Tây nằm dọc sông đào Nghĩa Trụ và đê 199. Các thôn Thượng Bùi, Bùi Xá, Thiên Lộc, Trung Hòa nằm án ngữ dọc đường 200 từ Cầu Treo qua Cầu Hầu, Cống Tráng. Còn các thôn Tam Trạch, Xuân Tảo, Câu Thôn nằm giữa đồng chiêm trũng phía đông của xã.


Quân và dân Trung Hòa sẵn sàng đánh địch, rào làng chiến đấu, đào giao thông hào liên hoàn, đắp ụ nổi, đào hầm ngâm và hầm bí mật... chuẩn bị cả lương thực khô (gạo rang) và thực phẩm dự trữ để sẵn sàng chiến đấu ỏ căn cứ "lõm".


Ngày 17/4/1953, được quân báo, trinh sát tiên tiêu của xã ở cây đa Tam Tầng báo cáo hướng Phố Nối có nhiều tiếng động cơ xe tăng, cơ giới gầm rú mỗi lúc một gần về Thư Thị, Cầu Treo. Lính bốt quận Yên Mỹ cúng hành quân ra ơâu Treo. Địch tập kết xe cơ giới, bộ binh, lính Pháp, lính Thổ của GM3 cùng lính quận Yên Mỹ và các bốt lân cận chuẩn bị đi càn. Xong, 4 xe tăng và thiết giáp cùng số bộ binh tiến về hướng Trung Hòa, vừa tiến chúng vừa bắn xối xả, vừa thăm dò.


Lực lượng ta có 2 trung đội của đại đội 110 huyện Yên Mỹ. Đồng chí Thi Ảnh là huyện đội trưởng, đồng chí Vân chính trị viên cùng ỏ với trung đội 39 trú quân ở Tam Trạch, còn lực lượng du kích được phân công theo kế hoạch tác chiến của xã và thôn.


Trung đội 206 do đồng chí Thành - trung đội trưởng, đồng chí Thoại - chính trị viên đã được bố trí như sau:

- Tiểu đội đồng chí Hải có 10 chiến sĩ + 2 tiểu đội du kích xã bố trí tác chiến ở thôn Trung Hòa hướng đường 200, cánh đồng Chùa Trắng. Vũ khí có 2 tiểu liên, 12 súng trường, mìn, lựu đạn.

- Tiểu đội đồng chí Sơn Càn có 8 chiến sĩ + 2 tiểu đội du kích thôn Quần Ngọc, vũ khí có 2 tiểu liên, 6 súng trường + mìn, bố trí hướng Nội Tây và Cảnh Lâm.

- Tiểu đội đồng chí Hoàng Uyên ở thôn Nguyễn Xá có 12 chiến sĩ và đồng chí Thành B trưởng cùng 2 tiểu đội du kích của thôn Nguyễn Xá cùng một số du kích của 2 xã Tân Việt và Lý Thường Kiêt phối hợp bố trí ở hướng Nội Tây và Chùa Trắng.

Đến 9 giờ cùng ngày, địch càn tới cây đa Thượng Bùi, chia thành 3 hướng: Hướng Thượng Bùi, Bùi Xá, Thiên Lộc, lính quận Yên Mỹ càn vào các thôn này lùng sục đốt phá, hãm hiếp, cướp của... Du kích mấy thôn này đánh trả yếu, thấy địch mạnh đã rút vào hầm bí mật để bảo tồn lực lượng.


Cùng lúc, 2 xe tăng và bộ binh GM3 lượn ven làng Thượng Bùi sang Đống Cao thôn Thiên Lộc hòng chặn quân ta rút khỏi cánh đồng, còn 2 xe tăng cùng bộ binh GM3 tiến thẳng đường 200 rồi thọc sang cánh đồng Chùa Trắng để tấn công vào thôn Trung Hòa. Khoảng cách 200m, rồi 100m..., 10m. Đồng chí Hạc tiểu đội trưởng rất bình tĩnh, chờ địch tới gần mới hạ lệnh đồng loạt nổ súng, nổ mìn và lựu đạn. Địch bị đánh bất ngờ, chết và bị thương 10 tên. Bị thua đau, chúng rút ra Chùa Trắng chờ quân GM3 của Lực Điền yểm trợ. Cùng lúc, quân của Lực Điền càn qua Trung Đạo, Nội Tây, lính Cảnh Lâm vượt sông sang tạo thành một mũi càn vào làng Quần Ngọc, Nguyễn Xá. Khi chúng tới chân tre 2 thôn, bị ta đánh trả quyết liệt, 4 lần tấn công chúng đều bị thất bại, địch chết và bị thương gan 20 tên.


Gần tối, bộ đội và du kích chiến đấu hết đạn, rút về hầm hào bí mật. Lúc này địch mới đột nhập được vào thôn Quần Ngọc và thôn Nguyễn Xá. Đi đến đâu chúng đều đốt phá, bắn giết, hãm hiếp.

Ở Quần Ngọc, đồng chí Thoại chính trị viên, đồng chí Sơn tiểu đội trưởng cùng một chiến sĩ và du kích bị địch bắt. Bọn Cảnh Lâm bắt được đồng chí Thoại ở cùng hầm với nữ du kích Chung. Địch tra tấn đồng chí Thoại, hỏi: "Chỉ huy của chúng bay đâu?". Đồng chí Thoại đáp: "Tao là chỉ huy". Bọn chúng đánh tiếp đồng chí Thoại chết đi sống lại với một số đồng chí khác nữa.


Ở Nguyễn Xá, địch bắn giết nhiều dân thường tại chỗ rồi đốt nhà. Có gia đình chúng giết cả nhà không còn ai. Có gia đình chỉ còn một em bé lên 2 nằm trên vũng máu người thân gào thét... Tính ra chúng đã giết chết hơn 70 người dân và một số bộ đội B206.


Một số bộ đội và du kích xuống hầm, chứng cũng moi lên tra tấn dã man như đồng chí tiểu đội trưởng Tiêu, đồng chí Trưởng chính trị viên thôn và một số đồng chí khác. Có hầm chúng ném lựu đạn, bắn tiểu liên xuống làm chết tất cả như hầm đồng chí Dũng. Đến tối, chúng đưa số bị bắt này về Cảnh Lâm và Lực Điền.


Buổi chiều, khoảng 14 giờ, bọn xe tăng bộ binh địch ở thôn Thiên Lộc quay xuống giáp chân tre thôn Tam Trạch bắn phá thăm dò. Cùng lúc, bọn xe tăng và bộ binh của GM3 ở Xuân Tảo cũng chuẩn bị tiến sang chùa Tam Trạch. Chúng đã bắt Cai Chùy mặc áo lương the đen dẫn đầu. Lực lượng ta có B39, đồng chí Long trung đội trưởng, đồng chí Thi Anh cán bộ huyện đội cúng ở Tâm Trạch cùng với một số du kích ở Trung Hoà và đồng chí Tựa xã đội trưởng.


Địch tổ chức tấn công về chiều. Chỉ thị của đồng chí Thi quyết cố thủ không cho địch tấn công vào làng, chờ đến tối ta có hướng tác chiến mới.

Đồng chí Long trung đội trưởng cùng tiểu đội đồng chí Phượng và một số du kích xã Trung Hòa, đồng chí Tựa chỉ huy, sẵn sàng chiến đấu hướng chùa cổng hậu thôn Tam Trạch đón địch từ thôn Xuân Tảo tấn công sang. Vũ khí ta chỉ có tiểu liên, súng trường, mìn, lựu đạn. Đồng chí Hiền chôn mìn gần cây đa sẵn sàng chờ lệnh nổ!


Đến 15 giờ, cai Trùy dẫn gần một đại đội lính Pháp, lính Thổ, lính ngụy của GM3 vừa bắn vừa tiến vào chùa Tam Trạch, qua cây đa để đột nhập vào cổng hậu làng Tam Trạch. Đồng chí Lăm, đồng chí Phượng chỉ huy rất mưu trí, linh hoạt, bình tĩnh. Để cho bọn đi đầu gần tới cổng hậu, bọn sau đến cây đa, bọn sau nữa đến chùa, đồng chí Lăm mới hạ lệnh, mìn nổ tung, các loại súng bắn xối xả, lựu đạn ném tới tấp. Bộ đội và du kích hô vang xung phong. Bị đánh bất ngờ, địch chết và bị thương 18 tên, trong đó có 1 quan ba, số còn sống chạy tháo thân lăn xuống rãnh, hào bò về hướng chùa rồi cụm lại, tổ chức nhiều đợt tấn công khác đều không thành. Trời tối, chúng hoảng sợ rút về Xuân Tảo.


Cùng lúc, hướng Thiên Lộc có hai xe tăng cùng bộ binh tiến gần sát chân tre. Đồng chí Dai tiểu đội trưởng, đồng chí Tựa xã đội trưởng cùng du kích, bộ đội bình tĩnh chờ địch tới thật gần mới nổ súng. Lựu đạn các loại súng của ta bắn xối xả, địch chết và bị thương 15 tên, số còn lại phải rút chạy ra xa. Chúng nghi có chủ lực của ta chiếm đóng trong làng nên gọi pháo, đại bác ở Bần, Mỹ Hào, Lực Điền bắn vào Tam Trạch uy hiếp quân ta. Địch cụm lại ở thôn Xuân Tảo và Câu Thôn cho đến sáng hôm sau.


Đến khoảng 22 - 23 giờ, bộ đội cùng du kích được lệnh của đồng chí Thi rút theo cổng chính làng Tam Trạch, luôn sang cánh đồng Lưu Trung, vượt qua đường 39 về thôn Đại Hạnh an toàn. Số dân còn lại cũng rút ra khỏi làng an toàn. Khoảng 6 - 7 giờ sáng hôm sau, đại bác của địch từ các hướng trên đã bắn về dồn dập nhiều lần, rồi xe tăng và bộ binh từ các hướng Xuân Tảo, Cầu Thôn tấn công bao vây làng Tam Trạch. Vì đồng chiêm sình lầy, xe tăng địch đứng ngoài bắn vào. Bộ binh địch mãi đến 9 - 12 giờ trưa mới vào được trong lằng. Cả làng lúc này trở thành vườn không nhà trống. Cuộc càn tìm kiếm chủ lực không đạt, địch thất bại rút về căn cứ. Trận này địch chết hơn 30 tên, ta chỉ có 1 bộ đội bị thương, 1 du kích hy sinh.


Hơn một ngày, quân và dân Trung Hòa và bộ đội huyện Yên Mỹ chiến đấu dũng cảm, kiên cường ở căn cứ "lõm" chống chọi với kẻ địch đông, vũ khí tối tân, đã lập được nhiều chiến công oanh liệt và vẻ vang. Tuy có một số tổn thất và thiệt hại, quân và dân Trung Hòa càng nêu cao cám thù giặc, tiếp tục lập nhiều chiến công mới.
Logged
dungnuocgiunuoc
Thành viên
*
Bài viết: 614



« Trả lời #44 vào lúc: 27 Tháng Sáu, 2022, 06:38:11 am »

PHỤC KÍCH TRÊN ĐƯỜNG 39
(Tư liệu)


ĐỘN THỔ PHỤC KÍCH Ở CẦU TREO (YÊN MỸ)


Ngày 12 tháng giêng âm lịch năm 1953, một bộ phận của C25 đã phục kích độn thổ đánh tụi lính ở bốt Yên Mỹ đi tuần trên đường 39 từ Yên Mỹ lên bốt Dâm (Nho Lâm), đoạn Cầu Treo (xã Tân Lập). Trận đánh diễn ra chớp nhoáng. Ta thu được một số vũ khí và bắt được 10 tên địch, một số chạy thoát về Yên Mỹ. Bản thân tôi đã được tham gia trận phục kích này, nay xin kể lại.


ĐỖ XUÂN MẠO
(thôn Luu Trung, xã Liêu Xá)


TRUNG ĐỘI 206 DIỆT 6 XE

Ngày 14-3-1954, một đoàn xe địch chở quân xuống thị xã Hưng Yên. Trung đội 206 phán đoán đoàn xe giặc sẽ trở về nên giao cho tiểu đội 1 do đồng chí Nhẫn làm tiểu đội trưởng, phối hợp với du kích xã Hoàng Hữu Nam (5 nam du kích và 3 nữ Hoàng Ngân), phân công chị Nguyễn Thị Thanh quan sát trên chòi cao và 2 chiến sĩ là anh Bình và anh Thân phụ trách khẩu trung liên. Đúng 14 giờ, đài quan sát báo cáo có 6 xe địch. Đợi xe đầu vào trận địa, đồng chí Nhẫn nổ một loạt tiểu liên, lập tức khẩu trung liên của 2 đồng chí Bình và Thân bắn vỗ mặt vào đoàn xe và anh em khác từ chỗ ẩn nấp xông thẳng ra đường. Giặc bị bất ngờ, 6 xe bị đồn lại, có tên sợ quá lăn vào gầm xe, bị ta bắt sống.


Trận đánh diễn ra trong 10 phút, anh em đã diệt và phá hủy 6 xe, diệt gọn bọn địch trên xe, bắt một tên Pháp. Bên ta không bị thương vong ai. Nhân dân thấy xe địch bị đốt, tù binh bị bắt, vui mừng hoan hô bộ đội và du kích.

NGUYỄN XUÂN HÒA


PHỤC KÍCH ĐỊCH TẠI LÀNG GIỒNG VÀ LÀNG HẠ

Hồi tháng 6-1953, trung đội 55, đại đội 110 huyện Yên Mỹ phối hợp với nữ du kích Hoàng Ngân cung cấp tình hình cho biết: Từ sáng sớm hàng ngày, địch có từ 20 - 26 tên đi tuần hai bên đường và dọc đường 39 từ bốt Lực Điền về huyện Yên Mỹ.


Trung đội được huyện đội tăng cường thêm chỉ huy và du kích, xây dựng kế hoạch phục kích diệt bọn địch đi tuần này như sau:

Bộ phận chặn đầu có 6 cán bộ và chiến sĩ, có 1 trung liên cùng tiểu liên và súng trường do đồng chí Tuyến, huyện đội phó, trực tiếp chỉ huy tổ chặn đầu, nấp ở đình làng Hạ cạnh đường 39. Bộ phận xung kích có 2 tiểu đội, trang bị 4 tiểu liên và súng trường đầy đủ do đồng chí Quang, trung đội trưởng, chỉ huy trong nhà dân, bụi dứa hướng ra đường 39. Bộ phận khóa đuôi, có 1 tiểu đội do đồng chí Thanh Thực, cán bộ trung đội chỉ huy, nằm trong nhà dân ở lành Giông.


2 giờ sáng đầu tháng 6-1953, sau khi phổ biến kế hoạch, trung đội vào chiếm lĩnh trận địa được bí mật.

5 giờ 30, bộ phận đi đầu của địch tiến vào trận địa, rời đại bộ phận địch lọt vào trận địa. Khi chúng tới cách bộ phận đi đầu 25m thì trung liên, tiểu liên ta đồng loạt nổ súng. Bọn chúng nhốn nháo tìm chỗ ẩn nấp, dùng súng bắn trả lại. Bộ phận xung kích nhanh chóng áp sát địch, súng kẹp nách vừa chạy vừa bắn về phía địch. Địch lợi dụng mô đất bắn trả lại.


Đồng chí Quang đã anh dũng hy sinh. Anh em đã chiếm được cổng gạch, bắn bị thương và diệt một số tên địch, thu hút hỏa lực địch về phía mình để bộ phận khác vượt qua làn đạn địch, vòng về bên phải, phía sau địch. Đồng chí Tiến và một số đồng chí khác xông thẳng vào khẩu trung liên, nhấc bổng lên, nóng bỏng cả tay. Bấy giờ bọn địch mới ngoan ngoãn giơ tay xin hàng.


Kết quả trong 10 phút, ta đã tiêu diệt và bắt sông 12 tên, ta hy sinh 1, rút về căn cứ an toàn.

Trung đội lại tiếp tục phát huy truyền thông đi làm nhiệm vụ mới.

LUƠNG QUANG LÃNG kể
Logged
dungnuocgiunuoc
Thành viên
*
Bài viết: 614



« Trả lời #45 vào lúc: 04 Tháng Bảy, 2022, 06:45:25 am »

Phần hai
THỜI CHỐNG MỸ VÀ ĐỔI MỚI


BƯU ĐIỆN HẢI PHÒNG VỮNG VÀNG
TRÊN BƯỚC ĐƯỜNG HỘI NHẬP THẾ KỶ 21

ĐÔNG HÀ


Với sự chân tình cởi mở, anh Trịnh Quang Tác, Giám đốc Bưu điện Hải Phòng dù bận nhiều việc vẫn dành thời gian kể cho chúng tôi nghe về quá trình phát triển của Bưu Điện Hải Phòng. Để minh họa cho lời kể của mình, anh dẫn chúng tôi thăm phòng truyền thống của đơn vị. Cô gái phụ trách phòng truyền thống và thư viện duyên dáng trong bộ trang phục nền nã, niềm nở giới thiệu với chúng tôi...

Truyền thống cách mạng của Bưu điện Hải Phòng

Chúng tôi ngỡ ngàng và xức động khi bắt gặp tấm chân dung cố Phó chủ tịch nước Nguyễn Lương Bằng được treo trang trọng. Cô gái nói:

- Hải Phòng được coi là chiếc nôi của giao thông liên lạc toàn quốc. Vào nãm 1926, nhà yêu nước vĩ đại Nguyễn Ái Quốc đã giao cho đồng chí Nguyễn Lương Bằng - người đầu tiên của cách mạng làm nhiệm vụ tổ chức vận chuyển tài liệu của Đảng từ nước ngoài về qua đường thủy ở Hải Phòng, để truyền bá cách mạng trong cả nước. Nhiều giao liên tiền bối khác của cách mạng cũng ở Hải Phòng đi và về chắp mối.


Chúng tôi lần lượt được chứng kiến những tấm ảnh, những hiện vật đã mô tả được một phần của Bưu điện Hải Phòng đã khắc phục khó khăn thiếu thốn, gian khổ, dũng cảm, chiến đấu để đảm bảo thông tin liên lạc thông suốt liên tục, bảo vệ cơ sở cách mạng, bảo vệ cán bộ, bảo vệ tài liệu, công văn của Đảng trong suốt 9 năm kháng chiến chống Pháp, góp phần vào thắng lợi của sự nghiệp cách mạng và giải phóng Hải Phòng.


Cùng đoàn quân cách mạng vào tiếp quản Hải Phòng, chỉ sau một ngày Bưu điện Hải Phòng đã đảm bảo thông tin liên lạc phục vụ thành phố, phục vụ nhân dân. Hòa với phong trào thi đua "Sóng Duyên Hải", Bưu điện Hải Phòng có tổ phát thư đã phát hơn 200 bức thư không rõ địa chỉ, được Tổng cục Bưu điện và 26 sở, ty ký giao ước học tập và thi đua, trở thành "Con chim đầu đàn" trong cả nước.


Những năm tháng chống chiến tranh phá hoại của giặc Mỹ và chi viện cho miền Nam, Bưu điện Hải Phòng đã phục vụ Bộ tư lệnh Hải quân hướng dẫn hoạt động các con tàu không số trên đường Hồ Chí Minh trên biển. Đơn vị đã dũng cảm bám trụ, bám máy, bám đường dây kéo hơn 1.500km dây, đưa vào sử dụng trên 1.000 máy lẻ, 110 tổng đài lớn nhỏ, phục vụ cho hơn 600 cơ quan, xí nghiệp trung ương và địa phương sơ tán, bám trụ chiến đấu. Chuyển nhận hơn 12 triệu tiếng điện báo, 8 vạn cuộc đàm thoại, 40 triệu lá thư, bưu phẩm, bưu kiện, 3 vạn công văn hỏa tốc, phát hành 49 triệu tờ báo các loại. Tiêu biểu có 6 nữ điện thoại viên đã dũng cảm phục vụ chiến đấu cho các đơn vị bắn rơi nhiều máy bay giặc Mỹ, được Bác Hồ thưởng Huy hiệu của Người. Bưu điện thành phố đã dũng cảm dùng thuyền vượt qua bom, mìn, ngư lôi của Mỹ đang phong tỏa Cảng Hải Phòng để chuyển công vãn, chỉ thị của Thành ủy, lãnh đạo thành phố và thư tín từ đất liền ra các đảo Cát Bà, Cát Hải.


Miền Nam được giải phóng, đất nước thống nhất. Bưu điện Hải Phòng lại tập trung củng cố, nâng cao chất lượng mạng lưới thông tin. Nhiều thiết bị mới được thay thế. Đài phát tin Duyên Hải được mở rộng để dẫn dắt các con tàu nước ngoài ra vào Cảng Hải Phòng và những con tàu của ta đi viễn dương, quốc tế. Mạng điện thoại nông thôn phát triển, nhiều xã có máy điện thoại phục vụ cho sản xuất lương thực, rau xanh xuất khẩu. Tiêu biểu là Bưu điện Thủy Nguyên, một trong bảy huyện của cả nước có 100% xã có máy điện thoại, năm 1978 đã được Chủ tịch Tôn Đức Thắng tặng lẵng hoa.


Là đơn vị sớm đầu tư chiều sâu cho mạng lưới

Trước năm 1985, mạng cáp ở Hải Phòng là mạng cáp chì (Pháp để lại và bổ sung sau này) để phục vụ sản xuất, chống chiến tranh phá hoại của giặc Mỹ. Cáp vỏ chì luồn trong cống bể, thường ngập sâu trong nước biển mỗi khi thủy triều lên. Vỏ cáp chì thường bị ăn mòn, ngấm ẩm vỏ giấy, nên mỗi khi mùa mưa bão hơn 600 máy điện thoại cùng bị mất liên lạc. Thời gian này, cả thành phố chưa đầy 1.000 máy, nhiều cơ quan, nhiều thuê bao bị gián đoạn thông tin.


Từ thành phố liên lạc với các miền trong đất nước phải chờ đợi hàng giờ, đi quốc tế chờ đợi hàng mấy giờ. Bưu điện Hải Phòng được sự quan tâm của Tổng cục Bưu điện, của thành phố, đã đi sớm một bước về đầu tư chiều sâu cho mạng lưới.


Ngày ấy, đồng chí Đoàn Duy Thành, Bí thư Thành ủy Hải Phòng, đã quyết định trích từ ngân sách thành phố cho Bưu điện Hải Phòng hơn 40 ngàn USD để mua cáp vỏ nilon của Nhật thay cáp chì đang dùng. Hải Phòng là địa phương sớm nhất của miền Bắc dùng cáp nilon. Năm 1989, Bưu điện Hải Phòng xây dựng dự án phát triển mạng lưới thông tin. Trong dự án có 4 chương trình để phục vụ thành phố thực hiện đường lối đổi mới của Đảng. Đồng chí Trương Quang Được, Chủ tịch UBND thành phố đã ký phê duyệt, đề nghị Nhà nước cho vay vốn, còn Tổng cục Bưu điện ưu tiên đầu tư cho Hải Phòng. Sau đó, các đồng chí lãnh đạo thành phố đã tạo điều kiện cho Bưu điện dùng các cơ chế vay vốn của các cơ quan, xí nghiệp và thuê bao, để mua sắm thiết bị phục vụ cho trước mắt, tạo tiền đề cho sau này.


Vào ngày 19/5/1990 kỷ niệm 100 năm ngày sinh của Bác Hồ (19/5/1890 - 19/5/1990), Bưu điện Hải Phòng đã khánh thành tông đài điện tử điện báo ELTEX-VALPA - 256 số là thiết bị hiện đại. Năm 1991 lắp đặt tổng đài điện thoại điện tử số TDX 1B 5000 sô ở trung tâm kỹ thuật Lạch Tray, 512 số phục vụ cho du lịch thị xã Đồ Sơn. Hà Nội và Hải Phòng là 2 thành phố sớm nhất của miền Bắc đi vào số hóa. Đến cuối năm 1994, ở Hải Phòng đã có 100% các tổng đài trung tâm, huyện, thị, khu vực là tổng đài điện tử số. 100% các tuyến truyền dẫn từ Hải Phòng đi Trung ương, từ thành phố xuống các huyện, thị, hải đảo, khu vực là cáp quang, vi ba số.


Từ Hải Phòng đi các miền trong đất nước và quốc tế chưa đầy 1 phút đã nối thông liên lạc, thu hút nhiều nhà đầu tư, các du khách tham quan du lịch đến Hải Phòng.
Logged
dungnuocgiunuoc
Thành viên
*
Bài viết: 614



« Trả lời #46 vào lúc: 04 Tháng Bảy, 2022, 06:46:18 am »

Những con số kỳ diệu

Cuối năm 1989, bình quân 1 điểm Bưu điện phục vụ gần 20 ngàn người, bán kính phục vụ là 5km. Đến cuối năm 2000, Hải Phòng đã có 67 bưu cục, 22 ki-ốt, 97 đại lý, đặc biệt đã xây dựng hoàn chỉnh 141 điểm Bưu điện văn hóa, đạt 100% các xã có điểm Bưu điện văn hóa xã hay bưu cục khu vực để nhân dân đến đọc báo miễn phí, tìm hiểu chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước, kinh nghiệm phát triển kinh tế của các địa phương. Cuối năm 2000 bình quân 1 điểm phục vụ 7.747 người, bán kính rút ngắn còn 1,4km, là chỉ tiêu cao so với nhiều tỉnh trong toàn quốc. Nếu như cuối năm 1989 Hải Phòng có 30% sô xã có máy điện thoại, thì đến cuối năm 1999 đã đạt 100% xã có máy điện thoại. Hải Phòng là một trong 30 tỉnh, thành phố trong toàn quốc có 100% xã có máy điện thoại. Cuối năm 1989, tổng số máy điện thoại trên địa bàn Hải Phòng có 2.953 máy, đạt gần 0,18 máy/100 dân; đến cuối năm 2000, ở Hải Phòng có 88.803 máy, đạt bình quân 5,35 máy/100 dân, tăng 30 lần so với năm 1989. Tính từ đầu năm 2001 đến nay, Bưu điện Hải Phòng đã phát triển trên 25.000 máy điện thoại, đạt 83,3% kế hoạch năm 2001, tăng 15% so với cả năm 2000, đưa số máy ở Hải Phòng là 113.803 máy, đạt trên 6,9 máy/100 dân. Hơn 10 năm, ở Hải Phòng đã thi công trên 2.500 km cáp nilon từ 10 đôi dây đến 1.200 đôi dây. Cuối năm 2000, Hải Phòng có 15 trạm phủ sóng thông tin di động trên toàn bộ thành phố, kể cả đảo Cát Bà. Có 32 tuyến cáp quang, 21 tuyến vi ba số đi Trung ương và các điểm trong mạng nội tỉnh với 18.120 kênh, tăng hơn 20 lần so với cuối năm 1989.


Các dịch vụ viễn thông như fax, truyền số liệu, nhắn tin, internet càng ngày càng phát triển. Đặc biệt, dịch vụ 108 trên biển, mạng ki-ốt, ca-bin điện thoại thẻ phát triển đến tận vùng xa. Doanh thu bưu chính viễn thông năm 1989 thu được 2 tỷ 633 triệu đồng, năm 2000 doanh thu đạt 242 tỷ đồng. Mức tăng trưởng năm sau cao hơn năm trước từ 10 đến 15%. Nộp ngân sách năm sau cũng cao hơn năm trước, như mức tăng trưởng của doanh thu.


Chiến lược về con người

Bước vào thời kỳ đổi mới, ngành Bưu điện thành phố đổi mới hoàn toàn về kỹ thuật, từ mạng thông tin analog chuyển hẳn sang mạng thông tin số. Từ các tuyến vi ba băng hẹp, dây trần, cáp đối xứng thay thế mạng truyền dẫn số. Từ tổng đài cộng điện, tự động ngang dọc bằng mạng chuyển mạch tự động điện tử số. Có thể nói đây là cuộc cách mạng kỹ thuật lớn của ngành Bưu điện, để tạo đà cho cả xã hội phát triển. Để làm chủ được trang thiết bị hiện đại, đòi hỏi phải có đội ngũ cán bộ quản lý có trình độ, năng lực. Vì thế, Bưu điện Hải Phòng đã gửi hàng nghìn lượt CB-CNVC đi đào tạo trong và ngoài nước về kỹ thuật, nghiệp vụ, công tác quản lý mới. Bưu điện Hải Phòng đã kết hợp đào tạo ngắn hạn với đào tạo dài ngày để bổ sung và hỗ trợ cho nhau. Song song với việc phát triển đầu tư chiều sâu cho mạng lưới và chiến lược con người, Bưu điện Hải Phòng không ngừng phát huy quyền dân chủ ở dưới các đơn vị, nhất là quyền làm chủ của người lao động. Bưu điện Hải Phòng xây dựng các quy chế về phân phối thu nhập cho tập thể cá nhân, quy chế tuyển dụng lao động, đào tạo, quy chế tham quan du lịch, quy chế về vật chất đối với người về hưu và chính sách xã hội. Ngoài ra, Bưu điện Hải Phòng đã xây dựng nội quy lao động, thỏa ước lao động. Các quy chế trên đều được thông qua Đại hội CNVC từ cơ sở đến Bưu điện thành phố. Qua mấy năm thực hiện quy chế dân chủ, đã đảm bảo quyền lợi cho người lao động và khuyến khích các nhân tố mới. Đảm bảo cho 100% người lao động có việc làm, mức thu nhập ổn định.


Điểm nổi bật trong những năm gần đây ở Bưu điện Hải Phòng là sự đoàn kết nhất trí, sự phối hợp chặt chẽ giữa cấp ủy, chuyên môn, công đoàn và Đoàn thanh niên ngày càng gắn bó. Nhờ có sự quan tâm của Ban cán sự Đảng Tổng cục Bưu điện, Thành ủy Hải Phòng nên Đảng bộ, Đoàn thanh niên Bưu điện Hải Phòng đã được thống nhất và trực thuộc Thành ủy, Thành đoàn. Các chi bộ, chi đoàn của các đơn vị Bưu điện huyện trước đây trực thuộc Huyện ủy, Huyện đoàn, nay trực thuộc Đảng bộ, Đoàn thanh niên Bưu điện Hải Phòng. Sự thống nhất về tổ chức đã đào tạo cho Bưu điện Hải Phòng có sức mạnh trong sản xuất, thực hiện nhiệm vụ của mình và phát huy truyền thống đơn vị Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân.


Nhờ đó, năm 2000, tập thể CB-CNVC Bưu điện Hải Phòng đâ được Thủ tướng Chính phủ tặng Bằng khen, Ủy ban nhân dân thành phố, Tổng cục Bưu điện tặng cờ thi đua xuất sắc toàn diện; ngoài ra còn được Bộ Công an, Tổng liên đoàn lao động Việt Nam, Tổng công ty Bưu chính viễn thông Việt Nam trao tặng nhiều phần thưởng cao quý khác.


Bưu điện Hải Phòng bước vào thềm thế kỷ 21

Thực hiện Nghị quyết Đại hội 9 của Đảng, Nghị quyết Đại hội 12 của Đảng bộ thành phố và chương trình kế hoạch của toàn ngành trước thềm thế kỷ 21, Bưu điện Hải Phòng đang phấn đấu đến cuối năm 2005 ở Hải Phòng có trên 75 bưu cục, hàng trăm đại lý bưu điện, hoàn chỉnh mạng truyền dẫn, ngoại vi theo cấu trúc mạng RING để đáp ứng nhu cầu mở rộng cho nhiều năm sau này. Cùng dung lượng tổng đài có trên 250.000 số, toàn thành phố có trên 200.000 máy cố định, trên 50.000 máy di động, đạt từ 15 đến 16 máy/100 dân.    Đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin vào các bưu cục, các nghiệp vụ tới các điểm Bưu điện văn hóa xã. Phát triển internet chiếm thị phần cao hơn các nhà cung cấp khác. Đến cuối năm 2010, ở Hải Phòng có trên 85 bưu cục, dung lượng tổng đài có trên 450.000 số, toàn thành phố có trên 400.000 máy cố định, gần 100.000 máy di động, đạt từ 25 - 30 máy/100 dân. Phục vụ việc khai thác các dịch vụ viễn thông, ứng dụng công nghệ thông tin trên các hoạt động của bưu chính viễn thông theo chỉ thị 58 của Bộ Chính trị. Chuẩn bị chu đáo cho hội nhập, cạnh tranh phát triển. Thực hiện chủ trương của Nhà nước tách phục vụ công ích của bưu chính và kinh doanh của viễn thông trong thời gian tới. Về viễn thông, tổ chức theo mô hình không có địa giới hành chính.


Tạm biệt Giám đốc Bưu điện Hải Phòng Trịnh Quang Tác, chúng tôi rất vui mừng khi thấy các doanh nghiệp ở Hải Phòng đang trên đà phát triển. Với Bưu điện Hải Phòng vốn có truyền thống cách mạng, là đơn vị đi trước trong việc đầu tư chiều sâu cho mạng lưới, đã và đang tiếp tục xây dựng đội ngũ CB-CNVC có trình độ, tri thức, phong cách phục vụ văn minh, hiện đại, phát huy tốt nguồn lực con người. Chắc rằng Bưu điện Hải Phòng sẽ gặt hái được nhiều khi bước vào hội nhập, cạnh tranh, phát triển, trước thềm thế kỷ 21 đang mở ra.


Lời BBT. - Ngày 8-11-2000, Chú tịch nước đã có quyết định truy tặng danh hiệu Anh hùng LL VTND cho liệt sĩ Vũ Thị Kính (tức Trần Thị Khang). Ngày 7-5-2001, huyện Mỹ Hào đã tổ chức đón nhận danh hiệu cao quý đó và ông Chủ tịch UBND huyện đã đọc diễn văn.

Trước đó, đầu năm 1999, bà Mai Thị Phúc đã có bài thơ tả rõ hoàn cảnh liệt sĩ Trần Thị Khang đã bị giặc Pháp bắt, tra tấn và giết hại dã man thế nào. Bài thơ đó có tác dụng gây xúc động lớn tới Ban chấp hành phụ nữ do bà Lê Thị Toàn hồi đó làm Hội trưởng phụ nữ tỉnh Hưng Yên, một số bạn bè và tới lãnh đạo tỉnh Hưng Yên, huyện Phù Cừ, huyện Mỹ Hào, đã đề nghị tôn vinh người liệt sĩ kiên trung này.

Nhận thức rõ tác dụng về mặt xã hội của bộ sách "Đường 5 anh dũng, quật khởi", chúng tôi xin giới thiệu lại bài thơ của Mai Thị Phúc và bài diễn vãn cùa Chủ tịch UBND huyện Mỹ Hào trong buổi lễ truy tặng liệt sĩ Vũ Thị Kinh (tức Trần Thị Khang) danh hiệu Anh hùng LLVTND.
Logged
dungnuocgiunuoc
Thành viên
*
Bài viết: 614



« Trả lời #47 vào lúc: 04 Tháng Bảy, 2022, 06:47:58 am »

TẤM GƯƠNG TRUNG LIỆT CỦA
ANH HÙNG LIỆT SĨ VŨ THỊ KÍNH ĐỜI ĐỜI SÁNG CHÓI!

(Diễn văn của chủ tịch UBND huyện Mỹ Hào tại lễ truy lặng liệt sĩ Vũ Thị Kính (tức Trần Thị Khang) danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân ngày 07 tháng 05 năm 2001)


Ngày 8 tháng 11 năm 2000, Chủ tịch nước Cộng hòa xã chủ nghĩa Việt Nam đã ký Quyết định số 565 KT/CTN truy tặng danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân cho liệt sĩ Vũ Thị Kính (tức Trần Thị Khang).

Việc Nhà nước truy tặng danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân cho liệt sĩ Vũ Thị Kính là niềm vinh dự và tự hào của nhân dân xã Xuân Dục, của nhân dân huyện Mỹ Hào, của nhân dân huyện Phù Cừ, của nhân dân tỉnh Hưng Yên, và của gia tộc họ Vũ đã sinh ra cho đất nước một người con gái kiên trung, bất khuất, nêu gương trung liệt cho muôn đời con cháu mai sau.


Với tình cảm trân trọng gương hy sinh oanh liệt của Anh hùng liệt sĩ Vũ Thị Kính, với tình cảm mến thương của nhân dân huyện Phù Cừ - nơi bà đã nhiều năm công tác và đã hy sinh - ngày 4 tháng 5 năm 2001, Huyện ủy, Hội đồng nhân dân, ủy ban nhân dân, ủy ban Mặt trận Tổ quốc, Hội phụ nữ và các ban, ngành, đoàn thể của huyện Phù Cừ, của xã Nguyên Hòa (La Tiến) cùng nhân dân trong xã đã đặt vòng hoa tưởng niệm tại nơi người nữ chiến sĩ đã anh dũng hy sinh vì sự nghiệp giải phóng dân tộc.


Và sáng nay, trước khi vào buổi lễ, tại nghĩa trang liệt sĩ huyện Mỹ Hào, đoàn đại biểu huyện Phù Cừ cùng toàn thể đại biểu huyện Mỹ Hào đã gắn bia lên mộ, đặt vòng hoa và kính cẩn nghiêng mình trước phần mộ người nữ anh hùng.


Biết tin về buổi lễ hôm nay, Đại tướng Văn Tiến Dũng, vị chỉ huy của Đại đoàn Đồng Bằng trong những năm 50, với tình cảm nồng hậu của bộ đội chủ lực đối với lực lượng nữ du kích Hoàng Ngân, đã cử đại diện mang vòng hoa đến viếng.


Thủ tướng Phan Văn Khải đã cử đại diện mang lảng hoa đến viếng và chúc mừng gia đình liệt sĩ Vũ Thị Kinh được Nhà nước phong tặng danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân.


Bà Vũ Thị Kính sinh năm 1929 tại thôn Xuân Đào (xã Xuân Dục, huyện Mỹ Hào) - nơi đây cũng chính là quê hương của người Anh hùng Nguyễn Thiện Thuật, thủ lĩnh của nghĩa quân Bãi Sậy. Bà sinh trưởng trong một gia đình gia giáo, có học thức, có truyền thống cách mạng. Cụ thân sinh là một nhà nho nghèo. Bà chịu ảnh hưởng cách mạng của hai người anh mình đã hoạt động cách mạng từ sớm và sau này đều là cán bộ cao cấp của Đảng và Nhà nước. Người anh cả của bà - bác Vũ Văn Nhung, tức Vũ Sơn, đã anh dũng hy sinh trong chiến dịch Hà Nam Ninh năm 1951.


Cuộc đời hoạt động cách mạng của bà bắt đầu từ những ngày Tết năm Ất Dậu (1945), khi bà chứng kiến lũ mật thám Pháp do tên tri huyện dẫn đường về nhà bà truy nã người anh thứ hai - bác Vũ Văn Dung, tức bác Trần Phương1 (Đồng chí Dung tức Trần Phương hồi năm 1946-1947 đã làm bí thư Huyện Yên Mỹ; năm 1948 làm Phó bí thư Tỉnh ủy Hưng Yên; năm 1984-1986 là Phó thủ tướng Chính phủ; nay làm hiệu trưởng trường Đại học Quản lý và kinh doanh Hà Nội). Bác Trần Phương hoạt động cách mạng ở Hà Nội, bị lộ, đã về quê ẩn náu để tiếp tục hoạt động. Được người anh giác ngộ, bà đã lao vào con đường cách mạng không một chút do dự, và trở thành người liên lạc tin cậy, người cán bộ vận động giác ngộ quần chúng tham gia cách mạng. Trong những tháng chuẩn bị khởi nghĩa, bà là một cán bộ phụ nữ xã Xuân Dục, một nữ tự vệ chiến đấu, được võ trang và tập luyện quân sự. Vốn tính hiền dịu, người con gái 16 tuổi ấy đã vượt lên mọi khó khăn nguy hiểm, nhờ có lòng căm thù giặc sâu sắc và ý chí cách mạng kiên cường.


Sau ngày kháng chiến toàn quốc bùng nổ, bà được Ban chấp hành Hội phụ nữ cứu quốc tỉnh Hưng Yên điều động về Phù Cừ, tham gia Ban chấp hành Hội phụ nữ cứu quốc huyện, và từ đó lấy bí danh là Trần Thị Khang. Năm 1947, bà được kết nạp vào Đảng cộng sản Đông Dương, và nãm 1949 được bầu vào Ban chấp hành huyện Đảng bộ Phù Cừ, giữ trách nhiệm Bí thư Ban chấp hành Hội phụ nữ cứu quốc huyện, được bầu vào Ban chấp hành Hội phụ nữ cứu quốc tỉnh Hưng Yên. Là một cán bộ tràn đầy nhiệt tình cách mạng, thông minh sắc sảo, có liên hệ mật thiết với quần chúng, bà được phụ nữ trong huyện, từ trẻ đến già, tin yêu, mến phục, ở những thôn đồng bào công giáo bị bọn phản động đội lốt tôn giáo lung lạc, lôi kéo vào âm mưu chống phá cách mạng của chúng, bà không quản ngại nguy hiểm, xông thẳng vào hang ổ của bọn phản động để giác ngộ quần chúng, lôi kéo quần chúng về với cách mạng.


Đầu năm 1950, giặc Pháp mở rộng vùng chiếm đóng của chúng ra toàn bộ đồng bằng Bắc Bộ, bao gồm cả huyện Phù Cừ cùng các huyện phía nam tỉnh Hưng Yên. Với tư cách một Huyện ủy viên của Đảng bộ Phù Cừ, người đứng đầu Hội phụ nữ cứu quốc huyện, bà đứng ra tổ chức và chỉ huy đội nữ du kích Hoàng Ngân trong huyện. Đội nữ du kích Hoàng Ngân do bà tổ chức và chỉ huy đã nhiều phen làm cho giặc Pháp kinh hồn bạt vía.


Tháng 6 năm 1950, trong một cuộc bao vây lùng sục của giặc Pháp, bà bị giặc bắt từ hầm bí mật. Chúng đưa bà về bốt La Tiến là một bốt khét tiếng tàn ác, nơi đây chúng đã giết hại trên 1.000 chiến sĩ cách mạng trong 4 năm chiếm đóng. Ngày nay, chính ở nơi đóng đồn của giặc, trên bến đò La Tiến, nhân dân huyện Phù Cừ đã dựng một bia căm thù để đời đời không quên tội ác của giặc. Bốt La Tiến là một đồn binh lớn, một "phân khu quân sự" do một tiểu đoàn Âu Phi và nhiều đại đội ngụy binh đóng giữ, có nhiệm vụ án ngữ phía nam tỉnh Hưng Yên, phía bắc tỉnh Tháỉ Bình và phía tây tỉnh Hải Dương, ngăn chặn đường liên lạc qua sông Luộc giữa 3 tỉnh. Bốt này do một viên quan tư người Pháp rất khát máu chỉ huy. Trong bốt có một số tên phản bội, do đó giặc Pháp biết rõ bà là ai. Chúng tìm mọi cách dụ dỗ bà đầu hàng, khai báo cơ sở của Đảng và lực lượng du kích, đưa cái mồi vinh hoa phú quý ra để nhử. Dụ dỗ không được, chứng dùng cực hình tra tấn hòng khuất phục ý chí của bà. Trong bản báo cáo gửi lên cấp trên sau khi bà hy sinh, Huyện ủy Phù Cừ hồi đó đã kể về các cực hình mà giặc sử dụng để khuất phục bà: treo ngược lên cành cây mà đấm đá cho đến khi ngất xỉu, máu chảy đầm đìa; tra điện; dùng kìm rút hết móng tay rồi cắm kim vào đó. Nhưng, cực hình cũng không khuất phục được người con gái một lòng một dạ với Tổ quốc, với nhân dân. Khi tỉnh lại, bà vẫn không ngớt vạch trần tội ác của bọn xâm lược, tuyên truyền giác ngộ những kẻ lầm đường lạc lối quay về với Tổ quốc. Giặc dùng đến cái chết để đe dọa bà. Tên quan tư khát máu cho bà 5 ngày để nghĩ lại, nếu không sẽ bắn bỏ. Bà chờ đợi ngày đó mà không hề nao núng, sẵn sàng hy sinh thân mình để bảo vệ lực lượng du kích, bảo vệ cơ sở của Đảng. Vào một ngày cuối tháng 6, chúng đã giết bà, cũng bằng nhửng thủ đoạn man rợ, không còn tính người: treo ngược lên cành cây đa ở bến đò La Tiến, dùng dao cắt cổ rồi hất xác xuống sông Luộc. Trước khi bị giết, bà vẫn một lòng tin tưởng vào thắng lợi cuối cùng của cuộc kháng chiến và hô to 3 khẩu hiệu:

- Đả đảo thực dân Pháp!

- Đảng Cộng sản Đông Dương muôn năm!

- Hồ Chủ tịch muôn năm!

Tin chị Khang bị giặc giết hại dã man đã dấy lên một làn sóng căm thù trong phụ nữ và nhân dân toàn huyện, toàn tỉnh. Ban chấp hành Hội phụ nữ cứu quốc tỉnh Hưng Yên đã phát động phong trào phụ nữ toàn tỉnh học tập gương chiến đấu anh dũng bất khuất của chị Trần Thị Khang. Lực lượng nữ du kích Hoàng Ngân tỉnh Hưng Yên đã phát động "Tuần lễ giết giặc, trả thù cho chị Khang". Nhiều trận đánh của nữ du kích, nam du kích và bộ đội địa phương đã diễn ra, nhiều tên giặc đã phải đền mạng.


Đại hội phụ nữ Liên khu III họp năm 1951, cũng là Đại hội thành lập Hội Liên hiệp phụ nữ trên cơ sở Hội phụ nữ cứu quốc, đã tuyên dương công trạng và truy tặng bằng khen cho người hội viên gương mẫu, kiên trung, bất khuất Trần Thị Khang.


Chính phủ đã truy tặng liệt sĩ Trần Thị Khang bằng Tổ quốc ghi công và Huân chương Kháng chiến hạng nhì. Và ngày 08-1-2000, Chủ tịch nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã quyết định truy tặng bà danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân.


Dù lớp bụi thời gian 50 năm qua đã làm phai mờ nhiều sự kiện, song trong ký ức của lớp người ở tuổi 70 của huyện Phù Cừ vẫn còn in đậm kỷ niệm về người nữ du kích anh hùng với lòng cảm phục, mến thương. Như bác Mai Thị Phúc, nguyên là nữ du kích Hoàng Ngân huyện Phù Cừ, đã viết bài ca "Nhớ chị Trần Thị Khang" đăng trên tập sách "Đường 5 anh dũng, quật khởi", xuất bản đầu năm 1999.


Trong lịch sử dân tộc ta, đặc biệt là trong hai cuộc kháng chiến thần thánh chống Pháp và chống Mỹ, hàng triệu người con ưu tú của dân tộc - nam và nữ - đã hiến dâng cuộc đời mình để nhân dân có độc lập, tự do và cuộc sống hạnh phúc ngày hôm nay.


Anh hùng liệt sĩ Vũ Thị Kính là tấm gương sáng ngời về ý chí cách mạng kiên định, tinh thần tận tụy vì dân vì nước, tinh thần bất khuất trước kẻ thù xâm lược, thà hy sinh thân mình chứ quyết không chịu đầu hàng giặc, quyết bảo vệ cơ sở của Đảng, bảo vệ lực lượng du kích.


Nhân dân xã Xuân Dục và huyện Mỹ Hào tự hào là quê hương của Anh hùng liệt sĩ Vũ Thị Kính.

Đảng bộ và phụ nữ huyện Phù Cừ tự hào có người đảng viên Cộng sản, người nữ du kích và người cán bộ lãnh đạo sáng ngời tinh thần "Quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh" Anh hùng liệt sĩ Trần Thị Khang.

Gia tộc họ Vũ tự hào đã sinh ra và bồi dưỡng cho đất nước một người con gái đầy khí phách, tận trung với nước, tận hiếu với dân.

Tấm gương trung liệt của Anh hùng liệt sĩ Vũ Thị Kính đời đời sáng chói!

Một lần nữa, xin kính cẩn nghiêng mình trước vong linh người nữ du kích anh hùng!
Logged
dungnuocgiunuoc
Thành viên
*
Bài viết: 614



« Trả lời #48 vào lúc: 04 Tháng Bảy, 2022, 06:48:36 am »

NHỚ CHỊ TRẦN THỊ KHANG

MAI THỊ PHÚC
(Nguyên cán sự nữ du kích Hoàng Ngân, Phù Cừ)


La Tiến có chợ đông vui
Dưới thuyền trên bến ngược xuôi đi về
Bến đò đón khách bên đê
Chuyến qua chuyến lại đi về Quỳnh Lang.
Đầu năm bốn chín vừa sang
Giặc về đốt phá tan hoang cửa nhà
Dồn dân lập bốt chợ La
Bắt người về gốc cây đa hành hình
Biết bao chiến sĩ hy sinh
Trong đó có chị họ Trần tên Khang...1
Năm năm mươi giữa tháng năm
Lúa chiêm trĩu hạt dân mừng ấm no
Chị về bàn việc đồng quê
Lãnh đạo thôn xã làm mùa gặt nhanh
Được tin giặc đến bao vây
Phạm Xá, Tiên Tiến nơi này họp xong
Giặc đến nhiều mũi truy lùng
Dõng Tây tiếp viện tấn công vào làng
Bắt được, chúng biết chị Khang
Huyện ủy, Hội trưởng chúng càng biết tên
Khảo tra đánh đập dã man
Trước thù chị vẫn hiên ngang đối lời
Thay nhau đánh chị tơi bời
Áo quần rách nát máu rơi ròng ròng
Hò nhau giết chị cho xong
Hai anh với chị tại cùng gốc đa
Chặt đầu mổ bụng phanh da
Buộc đá thân xác vất qua để chìm
Mấy ngày hai bên địa phương
Mong tìm xác chị nổi lên ven bờ.
Âm mưu lũ giặc gian tà
Thủ tiêu chém giết gốc đa trên ngàn
Tuổi xuân chị đã hy sinh
Sông Hồng nằm giữa Thái Bình - Hưng Yên.
Dân quân du kích Hoàng Ngân
Trả thù chúng giết chị Trần Thị Khang
Trận đầu Thọ Lão, Viên Quang
Khu du kích mở, ta càng thắng to
Quân thù bối rối trăm bề
Công tác địch vận ai bì nữ hơn
Vận động lính địch trong đồn
Đi càn thì bắn chỉ thiên lên trời
Truyền đơn đem rái khắp nơi
Khoan hồng chính sách sáng ngời niềm tin.
Đoàn Đào bộ đội diệt đồn
Hai cô Bích - Lĩnh góp công có thừa
Xứng danh chiến sĩ thi đua
Đóa hoa dâng chị trong mùa lập công
Từ đây vắng bóng chị cùng
Đội nữ du kích Hoàng Ngân Phù Cừ
Nhãn lồng sâu nặng tình quê
Có người con gái nữ nhi anh hùng
Bốt La bia tạc căm thù
Quê hương mảnh đất Phù Cừ mến yêu.

(1): (Chị Trần Thị Khang quê ở xã Lê Hồng Phong nay là xã Xuân Dục thuộc huyện Mỹ Hào (tỉnh Hưng Yên), sinh trong một gia đình có nhiều người hoạt động cách mạng. Cuối năm 1949, chị được điếu động về Phù Cừ lúc đó đã bị địch chiếm đóng, trên cương vị Huyện ủy viên và Hội trưởng phụ nữ huyện. Chẳng may tháng 5-1950 chị bị vây bắt tại thôn Phạm Xá xã Tiên Tiến. Tại bốt, địch tra tấn chị rất dã man, chị không khai báo, rồi chị bị giết hại tại cây đa thôn La Tiến, lúc đó chị mới ngoài 20 tuổi. Đồng chí Phạm Hưng, nguyên Chánh án Tòa án nhân dân tối cao, đồng chí Trần Duy Dương, nguyên Phó Chủ tịch UBND thành phố Hà Nội, hồi đó là Bí thư và Huyện ủy viên Phù Cừ đã xác nhận sự thật lịch sử này).
Logged
dungnuocgiunuoc
Thành viên
*
Bài viết: 614



« Trả lời #49 vào lúc: 04 Tháng Bảy, 2022, 06:49:46 am »

CẦU TÀU ĐỒ SƠN - NƠI XUẤT PHÁT CỦA
"ĐƯỜNG MÒN HỒ CHÍ MINH TRÊN BIỂN"

Đại tá NGÔ VĂN NGỮ
(Trưởng ban liên lạc truyền thống
Công binh Hải Phòng)


Song song với tuyến đường 559, tuyến "Đường mòn Hồ Chí Minh lịch sử", chúng ta còn có tuyến "Đường mòn Hồ Chí Minh trên biển" mà cảng xuất phát là Cầu tàu Đồ Sơn do bộ đội Công binh trực tiếp thiết kế và thi công.


Hai tuyến đường lịch sử này suốt thời kỳ ác liệt của công cuộc chống Mỹ, cứu nước đã là mạch máu nối liền hai miền Nam Bắc, nối liền hậu phương lớn miền Bắc với tiền tuyến lớn miền Nam anh hùng.

Từ Cầu tàu Đồ Sơn, những con tàu không số, thuộc Lữ đoàn vận tải Hải quân, sau khi ăn hàng đã xuất phát từ đây, với danh nghĩa là tàu dân đánh cá hoặc tàu nước ngoài vận tải đã vạch nhiều tuyến đi trên biển, vận chuyển vũ khí và nhiều hàng hóa khác từ Hải Phòng đến nhiều điểm đổ bộ ở các cửa sông, cửa lạch từ Quảng Trị đến Hà Tiên.


Hàng hóa được tập kết từ tầng hầm nhà Vạn Hoa cũ (nay là Casinô) và bí mật chuyển qua Cầu tàu để xếp xuống tàu.

Đồng chí Trương Thế Hùng nguyên là Đội trưởng Đội 8 công binh Hải quân anh hùng cho biết: Trên mỗi con tàu hai vỏ này còn đặt thêm bom chìm và hai khối mìn ở hai đầu tàu. Đồng chí đã từng đến lắp ráp và hướng dẫn cách sử dụng. Mục đích là nếu trên đường đi mà bị lộ, không thể tránh thoát địch, thì thực hiện phương án chiến đấu và chập mạch điện, cả lượng lớn bom mìn nổ tung, vừa tiêu diệt địch vừa chớp nhoáng phá hủy con tàu, xóa tung tích.


Đoàn thủy thủ sẵn sàng hy sinh để giữ tuyệt đối bí mật tuyến đường. Một hành động kiên cường vô cùng cảm phục, thể hiện ý chí quyết chiến, quyết thắng của quân, dân ta góp phần cho sự nghiệp giải phóng miền Nam, thống nhất nước nhà, trọn vẹn đại thắng lợi.


Như vậy, khác với Đường Trường Sơn đã là mục tiêu của địch đánh phá vô cùng ác liệt hàng chục năm liền, thì trên tuyến "Đường mòn Hồ Chí Minh trên biển" từ bến cảng Cầu tàu Đồ Sơn, các con tàu không số đã lặng lẽ, bí mật, kiên trì liên tục hoạt động trước sự tuần tra, cảnh giới gắt gao và sự phong tỏa chặt chẽ của không quân và hải quân Mỹ - ngụy. Kiên trì như vậy đến ngày cả nước toàn thắng. Khi công bố công khai đã làm mọi người sửng sốt cảm phục.


Vết tích hiện còn lại của tuyến đường huyền thoại này là những hàng cọc chân cầu tại khu vực Pa-gốt-đông gần Vạn Hoa - Đồ Sơn - Hải Phòng. Đây cũng là di vật duy nhất đại diện cho cả tuyến đường lịch sử này.

Năm 1964, Bộ Quốc phòng ra quyết định xây dựng Cầu tàu Đồ Sơn, thực hiện tuyến vận tải chiến lược bằng đường biển từ miền Bắc vào miền Nam.

Đồng chí Tư lệnh trưởng Công binh - Đại tá Phạm Hoàng, trực tiếp lên Bộ nhận nhiệm vụ và quán triệt được yêu cầu xây dựng Cầu tàu phải vững chắc an toàn, tuyệt đối bí mật, thuận lợi cho tàu ra vào cảng và thời gian thi công nhanh nhất.


Toàn bộ cống việc này giao cho đồng chí Nguyễn Liệu là Trưởng ban nghiên cứu kỹ thuật công binh làm chủ nhiệm thiết kế. Đồng chí đã chọn các đồng chí trợ lý có khả năng trong ban để phân công phụ trách từng mặt công tác. Kỹ sư Nguyễn Văn Nghi và kỹ Trần Văn Thấu tốt nghiệp Đại học giao thông Đường Sơn (Trung Quốc) chịu trách nhiệm thiết kế. Hai kỹ sư xây dựng Đặng Hữu Đạm và Nguyễn Xuân tốt nghiệp Đại học bách khoa Hà Nội, chỉ đạo và giám sát thi công. Đồng chí Nguyễn Hữu Gia lo chạy vật tư. Nhiều việc phải chuẩn bị đồng thời nên anh em làm ngày, làm đêm. Được sự chỉ đạo sát sao của đồng chí Tư lệnh Công binh Phạm Hoàng nên các phương án nhiệm vụ, nhất là đồ án thiết kế đã khẩn trương hoàn thành, cuối cùng cũng đã được Bộ phê duyệt.


Phần cầu chính bố trí cách bờ vài chục mét để có đủ mớn nước thích hợp cho tàu áp mạn ra vào. Dầm và mặt cầu, kể cả phần đường dẫn từ bờ ra cầu được đặt trên các hàng cọc bê-tông đóng vững chắc xuống đáy biển. Cầu có hình chữ T.


Lực lượng thi công là Tiểu đoàn 2, Trung đoàn Công binh 83, nay được xây dựng thành Lữ đoàn Công binh 83 chuyển sang trực thuộc Quân chủng Hải quân. Tiểu đoàn 2 thi công do đồng chí Tiểu đoàn trưởng Hoàng Duy chỉ huy đã được trang bị bổ sung nhiều xe máy, vật tư cần thiết như vồ diezen đóng cọc, xe cần cẩu, xe tải có moóc để chở cọc cầu và các cấu kiện đúc sẵn khác từ Nhà máy bê tông Hải Phòng về, v.v...


Công trường triển khai khá sôi nổi nhịp nhàng giữa các bộ phận thi công và cung ứng vật tư nguyên lịệu nên tiến độ diễn biến rất thuận lợi. Nhiều lần đồng chí Tư lệnh trưởng Công binh xuống kiểm tra hiện trường đã cho nhiều ý kiến xử lý, giải quyết kịp thời những tình huống phát sinh, và động viên anh em lao động, quyết tâm hoàn thành nhiệm vụ vừa có chất lượng, vừa đúng thời gian quy định.


Công trình được hoàn công, Binh chủng Công binh đã bàn giao Cầu tàu cho Quân chủng Hải quân quản lý và Lữ đoàn 125 - Đoàn vận tải Hải quân trực tiếp bảo quản, sử dụng Cầu tàu này. Quá trình vận hành kết hợp với vị trí dự bị đã bảo đảm an toàn, ổn định và bí mật tuyệt đối, góp phần cho các đoàn tàu không số hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ của mình.


Thắng lợi của "Tuyến đường mòn Hồ Chí Minh trên biển" là thắng lợi của lòng yêu nước, của chủ nghĩa anh hùng cách mạng và của ý chí quyết chiến quyết thắng của quân và dân ta.

Hiện nay "Bến tàu không số" đang bị hủy hoại nghiêm trọng, đang bị lãng quên, có khi biết đấy song không được quan tâm. Toàn bộ mặt cầu, dầm cầu không còn nữa, toàn bộ các hàng cọc bằng bê-tông cốt thép từ đường dẫn đến khoang giữa cầu đã bị đập phá đến sát mặt đất (ảnh dưới).


Tại nhà bảo tàng Hải quân và Công binh chưa có nội dung đề cập đến Cầu tàu này.

Cầu tàu tuy quy mô không lớn song ý nghĩa và vị trí lịch sử của nó lại vô cùng to lớn và vô cùng trọng đại. Theo tinh thần Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ 9, chúng tôi xin có mấy ý kiến đề nghị như sau:

- Di tích Cầu tàu Đồ Sơn được đề nghị trên xếp hạng là Di tích lịch sử kháng chiến.

- Có kế hoạch quản lý và tôn tạo.

- Có sa bàn rút gọn kiến trúc ban đầu của Cầu tàu và đặt trong các nhà bảo tàng, đặc biệt là Bảo tàng Công binh và Hải quân, làm tài liệu truyền thống cho các thế hệ hiện nay và mai sau.

Hy vọng nhửng nguyện vọng trên được nghiên cứu đáp ứng.


GHI CHÚ:

1- Đồng chí Đại tá kiến trúc sư Phạm Hoàng là Tư lệnh đầu tiên của Binh chủng Công binh (từ 1-1951 đến 4-1970). Năm 1970, đồng chí về làm Hiệu trưởng trường Đại học kỹ thuật quân sự. Năm 1975, đồng chí là ủy viên Hội đồng Nhà nước, giám sát chất lượng xây lăng Chủ tịch Hồ Chí Minh. Đồng chí mất năm 1979.

2- Đóng chí Đại tá kỹ sư Nguyễn Liệu tốt nghiệp Học viện Công binh Quybưsetvsư (Liên Xô cũ). Trước khi nghỉ hưu, đồng chí là Phó Tư lệnh Binh chủng Công binh. Hiện nay ở tổ 33, cụm 5, Xuân La, Hà Nội. Điện thoại số 04.7533351.
Logged
Trang: « 1 2 3 4 5 6 »   Lên
  In  
 
Chuyển tới:  

Powered by MySQL Powered by PHP Powered by SMF 1.1.21 | SMF © 2006-2008, Simple Machines

Valid XHTML 1.0! Valid CSS! Dilber MC Theme by HarzeM