Hệ thống tổ chức MACVSOG (Thực hiện kế hoạch OPLAN 34A)
Tổng quát
Năm 1961, Washington phát động chiến lược “Chiến tranh đặc biệt” ở miền Nam và hoạch định nhiều kế hoạch nhằm đảm bảo cho cuộc chiến kết thúc với phần thắng về phía Mỹ. Trong đó có Kế hoạch OPLAN 34A (Apha-34A). Kế hoạch OPLAN 34A chủ yếu là hoạt động bí mật và bán quân sự đối với miền Bắc Việt Nam gồm hàng loạt những hoạt động ngầm, phong phú và đa dạng, quấy nhiễu, trừng phạt và lật đổ miền Bắc.
Dưới chính quyền Kennedy, đến nửa đầu năm 1963, tình hình miền Nam ngày càng xấu; chính quyền Ngô Đình Diệm khủng hoảng, chiến lược “Chiến tranh đặc biệt” bị bế tắc. Cuộc chiến tranh bí mật ra miền Bắc không thu được kết quả đáng kể; bộ đội và súng đạn từ miền Bắc theo đường mòn Hồ Chí Minh vào miền Nam ngày càng nhiều.
Bộ Chỉ huy quân sự Thái Bình Dương buộc phải xem lại toàn bộ hoạt động của lực lượng Mỹ, xem lại những kế hoạch chiến tranh đối với miền Nam Việt Nam và đối với Hà Nội. Cuối cùng, MACV xây dựng được một kế hoạch hoạt động trình lên Hội đồng tham mưu trưỏng liên quân vào ngày 17-6-1963 để báo cáo Tổng thông Mỹ phê duyệt.
Bản Kế hoạch của MACV xây dựng là kết quả của nghiên cứu 34A để chọn ra những loại hoạt động có hiệu quả, ít nguy hiểm, điều phối được lực lượng mạnh tham gia nhằm đảm bảo thúc đẩy và hình thành phong trào chống đối miền Bắc; kích động các tổ chức chống cộng sản, lôi kéo quần chúng chống lại Đảng Cộng sản; làm cho miền Bắc suy yếu đi đến hạn chế chi viện cho miền Nam. Nếu có thể, phải chấm dứt hoàn toàn sự chi viện.
Ngày 9-9-1963, Hội đồng tham mưu trương liên quân thông qua kế hoạch của MACV, gồm 72 loại hình hoạt động đối với miền Bắc. Nếu được thực hiện sẽ có 2.962 điệp vụ riêng biệt được tiến hành trong 12 tháng đầu tiên. Bộ Chỉ huy quân sự Thái Bình Dương (MACV) cùng với chi nhánh CIA tại Việt Nam phối hợp thực hiện.
Ngày 21-12-1963, Tổng thống Mỹ Jonhson giao cho một uỷ ban nghiên cứu, thẩm tra lại kế hoạch trước khi phê chuẩn. Tất cả 9 thành viên trong uỷ ban đều đồng ý và đề nghị Tổng thông phê chuẩn. Cuối cùng, ngày 2-1-1964, Tổng thống Jonhson phê chuẩn Kế hoạch chống Hà Nội và chọn ra 33 loại hoạt động để thực hiện ở giai đoạn I trong một năm.
Hoạt động
Theo Kế hoạch đã được Tổng thống Mỹ phê duyệt ngày 2-1-1964, MACV và CIA sẽ tiến hành 5 loại hoạt động đối với miền Bắc Việt Nam:
Loại thứ nhất: Cài cắm điệp viên thông qua các biện pháp điện tử, viễn thông để thu thập tin tức tình báo.
Loại thứ hai: Hoạt động chiến tranh tâm lý nhằm vào cả hai mục tiêu là giới lãnh đạo và dân chúng Việt Nam để khai thác tối đa tác động và tạo ra sự chia rẽ bao gồm việc hỗ trợ cho một phong trào chống đối (cả thật và giả).
Loại thứ ba: Hoạt động gây sức ép chính trị bằng cách tổ chức hoạt động bán quân sự chuyên sâu, làm cho Hà Nội ý thức được tính nghiêm trọng và giá phải trả cho việc tiếp tục dính líu vào Lào và Nam Việt Nam. Nếu Hà Nội không bị khuất phục thì sẽ có các hành động trả đũa nặng nề hơn.
Loại thứ tư: Thúc đẩy hình thành một phong trào chống đối để làm tăng nhiệt độ ở Hà Nội; có thể mang lại sức ép hữu hiệu đối với Việt Nam Dân chủ Cộng hoà, buộc giới lãnh đạo Hà Nội phải đánh giá lại và chấm dứt chính sách xâm lược của họ.
Loại thứ năm: Hoạt động phá hoại thông qua việc tập kích đường không và đường biển cùng với hoạt động thám báo phối hợp với không kích nhằm vào miền Bắc Việt Nam.
Tổ chức thực hiện
Ngày 24-1-1964, Bộ Chỉ huy quân sự Thái Bình Dương ra Chỉ thị số 6, thành lập “Nhóm nghiên cứu và quan sát” - MACVSOG gọi tắt là SOG trực thuộc MACV.
SOG có 4 bộ phận nghiệp vụ chính để tổ chức hệ thống các chiến dịch hoạt động bán quân sự ngầm:
1. Mạng lưới gián điệp biệt kích và đánh lạc hướng
Cài cắm và chỉ đạo các toán gián điệp biệt kích nằm vùng lâu dài, tạo ra một chiến dịch nghi binh phức tạp, trong đó có cả việc tuyển mộ tù binh của Bắc Việt Nam là nhiệm vụ của “Nhóm không vận” - mật danh OP34.
Cuối năm 1967, có thêm hai nhiệm vụ nữa là bay trinh sát và tham gia chương trình đánh lạc hướng. Đến năm 1968, OP34 được chia ra 3 bộ phận:
- OP34A: Hoạt động gián điệp.
- OP34B: Xâm nhập biệt kích.
- OP34C: Hoạt động đánh lạc hướng.
2. Hoạt động ngầm trên biển
Bao gồm việc: phá hoại; bắt cóc cán bộ và ngư dân miền Bắc; bắn phá các mục tiêu trên bờ; ngăn chặn và phục kích các tàu vận tải của miền Bắc chi viện cho miền Nam; tán phát hàng chiến tranh tâm lý; tung các toán gián điệp biệt kích qua đường biển và thu thập tin tức tình báo ven biển. Đây là nhiệm vụ quan trọng thứ hai của SOG. Nhiệm vụ này được giao cho “Nhóm hoạt động trên biển” - OP37 (hay còn gọi là Bộ phận Cố vấn Hải quân, được thành lập tháng 11-1964 tại Đà Nẵng).
3. Chiến tranh tâm lý
Năm 1964, CIA chuyển giao hoạt động này cho SOG, nhóm có mật danh là OP39. Hoạt động này được gọi là tuyên truyền “đen”, tạo ra trên danh nghĩa một phong trào chống đối có tên là Gươm thiêng ái quốc (SSPL), tuyên truyền chiến tranh tâm lý với số ngư dân bị bắt cóc tại đảo Thiên Đường (tức Cù Lao Chàm); đài phát thanh; rải truyền đơn và quà tâm lý; các lá thư gia gửi cán bộ và công dân miền Bắc từ nước thứ ba; làm tiền giả và đặt các loại bẫy nổ ở Lào.
4. Hoạt động ngầm chống lại đường mòn Hồ Chí Minh
Nhiệm vụ cuối cùng của SOG là dùng các toán thám báo người Thượng và Nùng để ngăn chặn nguồn tiếp tế của miền Bắc đối với miền Nam: xác định mục tiêu không kích, bắt cóc bộ đội, đặt máy nghe trộm và phân phát tài liệu chiến tranh tâm lý. Hoạt động này được giao cho “Nhóm nghiên cứu mặt đất” - OP35.
Ngoài 4 nhiệm vụ chính, SOG còn có 3 bộ phận hỗ trợ chính:
* Bộ phận Nghiên cứu hàng không - OP32 và Nhóm nghiên cứu hàng không - OP75. OP32 vạch kế hoạch hỗ trợ hàng không; OP75 có nhiệm vụ thực hiện các kế hoạch do OP32 vạch ra.
* Phòng Hậu cần - Bộ phận này làm việc với Văn phòng Hỗ trợ chống bạo loạn và Văn phòng Hậu cần Viễn Đông tuyệt mật của CIA được đặt tại Okinawa. Hai cơ quan này cung cấp cho SOG các thiết bị chiến tranh đặc biệt: vũ khí chuyên dụng, trang phục của Quân đội miền Bắc cho các đơn vị thám báo; súng AK47; các loại bẫy; thiết bị nghe trộm đặc biệt và hoá chất làm gạo nhiễm độc.
* Phòng Thông tin liên lạc - OP60:
Có nhiệm vụ đảm bảo liên lạc an toàn với các nhân viên của SOG đang hoạt động trên thực địa. Một trong những trạm chuyển tiếp tiền tiêu của Phòng được đặt trên đỉnh ngọn núi dựng đứng ở Nam Lào. Vị trí này là trung tâm của hệ thống tình báo kỹ thuật hiện đại của Cơ quan An ninh quốc gia thu tin và gây nhiễu thông tin của Quân đội Bắc Việt; đồng thời hỗ trợ cho hoạt động của SOG và hoạt động tình báo liên quan khác.
HỆ THỐNG CHỈ ĐẠO MACV SOG VÀ TỔ CHỨC HOẠT ĐỘNG CỦA MACV SOG

Các bộ phận hỗ trợ
- OP 32 và OP 75 (Nhóm Nghiên cứu hàng không)
- OP 40 (Phòng Hậu cần)
- OP 60 (Phòng Thông tin)