Lịch sử Quân sự Việt Nam
Tin tức: Lịch sử quân sự Việt Nam
 
*
Chào Khách. Bạn có thể đăng nhập hoặc đăng ký. 19 Tháng Tư, 2024, 10:16:38 am


Đăng nhập với Tên truy nhập, Mật khẩu và thời gian tự động thoát


Trang: « 1 2 3 »   Xuống
  In  
Tác giả Chủ đề: Tuổi trẻ Hoàng Văn Thụ  (Đọc 1873 lần)
0 Thành viên và 1 Khách đang xem chủ đề.
hoi_ls
Thượng tá
*
Bài viết: 5098



« Trả lời #10 vào lúc: 25 Tháng Tư, 2022, 04:24:23 pm »

IV


Phố Hợp Long Kiều thật ra chỉ là một cái ngõ cụt, khấp khểnh có mấy cái nhà trông xuống sông. Không ai bước chân đến cái ngõ tối và quanh năm ẩm ướt rêu và bùn lầy lội ấy. Người bán củi cũng chỉ quay mặt, rao vào một tiếng, rồi bước qua nhanh. “Xưởng máy - lại ở tầng dưới một nhà sau cùng. Dù cho trên cửa vào có đóng nẹp một mảnh giấy các-tông vàng nhạt bìa cứng, trên viết năm chữ đại tự vuông vắn: “Nam Hưng cơ khí xưởng”, nhưng riêng cái khuất nẻo và mùi rêu mốc cũng đã khiến Thụ bớt hào hứng.

Gian nhà của xưởng máy chưa quá ba bước chân. Một mảnh gỗ lửng ngăn đôi, che chỗ kê hai mảnh ván làm giường ngủ. Bên ngoài, một cái bàn ren cũ kỹ hoen vàng đã nẻ toác và mảnh gỗ bàn tiện nằm chỏng, có ba vó. Mấy ống sắt, tưởng nếu gõ vào, sẽ bong ra hàng vốc tay gỉ. Một hình thù cái máy tiện - bởi vì nó mới có một chân lắp đáy dưới. Đấy là cả cái cơ nghiệp chưa ra đâu vào đâu của xưởng Nam Hưng. Tính cộng lại, máy móc cũ mua, ngã giá hai trăm bốn mươi đồng. Phải đặt cọc trước bốn mươi đồng. Nhưng cả Bùi, cả Tân rồi Hùng chạy về Cao Bằng lại ra ngay, cũng chưa xoay ra được đủ bốn mươi đồng bạc. Còn tiền gạo, tiền than đốt lò, đào chỗ nào cho có thì cũng chưa ai biết. Những hoạt động mê người mà Chi kể: chữa xe đạp, chữa ô-tô, chữa máy nổ, gì cũng chữa được... tiền lãi để nuôi anh em qua lại, mới chỉ là bức tranh vẽ phác.

Thụ hay cười Chi vì tính Chi dễ vui, dễ buồn. Điều đó khác mà cũng giống nhau trong sự sốt sắng của Chi và cả của Thụ nữa, đối với xưởng máy Nam Hưng. Chưa có, Chi đã hy vọng đầy đủ như thật. Việc còn khó lắm, nhưng Thụ cũng thấy cần thiết phải làm và bồng bột, sôi nổi làm. Việc Thụ và Chi ra Bản Đảy, ra Long Châu ngơ ngác là một ví dụ. Hơn nữa, dần dần Thụ hiểu rằng đường cách mệnh còn dài, nhưng không phải ta đi những đâu mới gặp, mà ta phải đắp nên con đường cách mệnh ấy từ đoạn đường ta đương đi, đắp mãi, đắp mãi đi đến khi cách mệnh thế giới mới xong. Vậy phải có bàn tay của ta. Ý mọi anh em ở đây muốn lập xưởng, nhân có những tay thợ giỏi, và mọi người đương tất tả chạy vốn, Thụ cũng lo lắng thay. Nhưng Thụ mới về, chưa biết nghĩ ra thế nào cho phải và giúp được anh em.

Thụ cứ ngắm mãi cái buồng xưởng máy, vừa quan trọng vừa xơ xác. Bởi vì chưa có gì cả. Nhưng mỗi người đương làm việc chăm chú, thận trọng, loay hoay và im lặng nghiêm nghị như trong xưởng máy thật đàng hoàng nào đó. Đó là thể hiện cái ước muốn thiết tha của anh em.

Sơn đương xoay trần, gõ kỳ cạch mãi cái gì không biết. Chi thì ngồi lúi húi góc trong. Khuôn mặt còn xanh rớt và cái đầu rụng tóc trọc loang lổ như đắp nhọ chảo. Vừa thấy Thụ đến, Chi đã toét miệng cười. Dường như thú vị công việc đương làm. Rồi lại cúi, cầm lắc-lê xoay tròn luôn mấy cái - đường tay quan trọng và thành thạo.

Thật thì xưởng máy Nam Hưng chưa đủ đồ nghề bằng cái hàng chữa xe đạp. Nhưng chạy được đến mức ấy, đã tốn một bước nhiều công, nhiều bàn bạc và phải nhiều mơ ước táo bạo lắm - bây giờ thì dấn lên được nữa hay thôi đây. Không, không, công việc của đoàn thể còn bao nhiêu cái khó, và người làm cách mệnh thì ai cũng nhiều lòng tin. Cứ trông dáng làm mải miết và nghiêm vào mấy công việc lặt vặt sơ sài đó của Chi và Sơn cũng đủ thấy họ say sưa đến thế nào.

Chiều hôm ấy. Thụ và Chi thong thả ra đứng trên bờ sông.

Cũng con sông này, hai năm trước, hai người bạn đường còn chơi ở khúc Kỳ Lừa trước cửa sổ lớp học. Bây giờ đứng khác khúc sông và nhìn lại mình, mới thấy thời gian chẳng bao lâu, mà cảm thấy hai người đã khác xa cái ngày Lạng Sơn cắp sách đi học. Nếu trước khi đi, họ chỉ có quyết chí thì bây giờ họ đương là con người bơi vào cuộc đời, thấy mình giữa sóng gió nhưng vững và đủ lòng tin. Ngang sông trước mặt đôi bạn, những chiếc buồm vỉ thuận gió nồm đương xuôi lướt nhanh. Khói thổi cơm chiều toả thành vệt sóng xanh xanh đằng sau. Thụ nhìn theo, cảm thấy lòng thanh thản như thuyền đi. Nhưng Chi thì đương băn khoăn cho Thụ.

Thụ nói:

- Tao cũng nghĩ như mày, làm được cái xưởng thì thích lắm. Nhưng bây giờ hai chúng ta chưa lấy đâu ra lương ăn, phải tìm cách thiết thực đã. Trước khi đi Vũ Hán, tao đã bảo mày: chúng ta không phiền anh em phải nghĩ hộ mình, bây giờ tao cũng nói thế thôi, mày thì cứ tạm vậy. Đừng lo cho tao, tao đã có cách. Nếu chết đói thì chết đói dọc đường rồi, từ nay về sau không bao giờ lo chết đói nữa.

- Cách gì của mày?

Thụ cười, xoè cả hai bàn tay:

- Tao với mày bò được từ Vũ Hán về đây, ấy là cách nhờ hai bàn tay này.

- Mày định làm gì?

- Đã bảo có cách, bằng hai bàn tay này mà.

- Sắp đi bắt tắc kè đem bán cho hiệu bào chế như thằng Mă Hợp à? Ừ, bây giờ đương mùa hè, đã đến mùa tắc kè sợ nóng bò xuống gốc cây...

Thụ cười, không nói thêm. Như muốn trêu ngươi, bỗng đâu, con tắc kè cất lên một tiếng trong vắt như tiếng mõ trúc trong bóng tối đã xuống mờ rặng núi bên sông.

Một hôm, anh em trong xưởng thấy Thụ xách về cái ghế có mặt bằng miếng bạt xám cắt ở mui xe. Chiếc ghế xinh, vừa đít ngồi, chênh vênh trên bốn thanh gỗ thông bắt chéo và một cái bọc chàm con.

Anh em hỏi:

- Cái gì đấy?

Thụ bỏ cái bọc xuống, mở ra. Có một hòn đá mài và một con dao cạo, chưa có chuôi, mà lưỡi đã mòn quá nửa, sát gáy. Con dao người ta vứt đi, có lẽ.

Mọi người reo lên:

- Dao này mà nạo vào đầu ai thì nhất định phải bật máu ra.

Chi hỏi:

- Định đi thợ cạo à?

Thụ cười, gật đầu. Ngày hôm sau, Thụ loay hoay gọt cái chuôi rồi mài đi mài lại cái lưỡi cùn. Rồi Thụ chọn một hôm đúng ngày phiên chợ Long Châu, Thụ ra phố Bạch Bảo Cai - ngay đầu huyện. Thụ lại đến trước toà mộ lính dạo nọ. Thụ đặt cái ghế chéo xuống.

Thụ đã là ông thợ cạo. Nhưng ông thợ chưa có khách, mặc dầu người về chợ qua lại tấp nập. Thụ nghĩ ra cách gọi trẻ con đến, cạo cho cái đầu nhẵn thín, không lấy tiền. Thành thử hàng lúc nào cũng vui. Mấy hôm đã quen khách. Ngày phiên chợ Long Châu thì cắp ghế, đi dong vào chợ. Nhưng đông khách nhất vẫn là những kỳ mộ lính.

Trong kia, tiếng trống, tiếng quát ỏm tỏi từ sáng sớm. Chẳng khác dạo trước. Lại toán đi Long An... đi Liễu Châu... đi Vũ Hán... Cũng là khôn khéo tập nghề nhân thể. Đi sống hay chết, mộ thật hay mộ giả, không ai biết. Người chạy đói các nơi về không biết đổ đi đâu, lại đổ cả vào lính mộ. Người chen nhau nghẹt đến nỗi nhấc chân lên không đặt được xuống, vẫn đông như chợ. Có anh khôn vặt, bỏ mười xu thuê cạo cái đầu trọc bóng rồi xô lên giữa đám đông ùn ùn trước cửa. Anh ta kêu to: “Lui, cho tân binh vào lĩnh quần áo, lui, lui...” Nhiều người nom cái đầu trọc mới, ngỡ thật ràn ra. Thế là anh ta nhảy thẳng được đến bàn mộ. Một lần, có lúc vắng, Thụ nhòm vào trong nhà mộ lính. Trông sang tận cái nhà ở tạm cũng không thấy còn mặt nào quen. Hai ông “bài trưởng” lưu lạc hay đã chết trên Vũ Hán rồi. Một người quan khác, không đeo kính trắng. Lão này béo rụt cổ. Chắc người quan đeo kính trắng ấy cũng chết chém rồi. Thụ ngơ ngẩn nhìn những người nghèo cứ xông đến, cố vào chỗ ghi tên, phát tiền. Thụ đương nghĩ lại câu chuyện đầu năm đi Vũ Hán.

Có một người lại vào hỏi cạo đầu. Trông người ấy, Thụ nói:

- Anh định chen vào chỗ ghi tên à?

Người ấy thở dài:

- Chỉ có chỗ ấy mới kiếm được cái sống mà thôi.

- Vào đấy cũng chỉ có chết đói chứ được gì.

Người ấy kêu to:

- Anh bảo tôi đi chỗ nào nữa bây giờ?

Thụ mủi lòng. Trong túi có bao nhiêu tiền, dốc đổ ra, đưa cho người ấy và nói:

- Này cầm lấy mà đi mua cái gì ăn. Từ hôm nay tới lúc nào hết số tiền thì nghĩ lại đi. Thà đi đâu, chết đâu chứ đừng đâm đầu vào đây, khổ quá.

Từ hôm ấy, Thụ vào chợ kiếm khách cắt tóc, không ngồi trước nhà mộ lính phố Bạch Bảo Cai.

Không làm gì được, Thụ cũng không nỡ nhìn những người nghèo khổ đêm ngày kéo đến đấy.

Thụ làm mải miết, bây giờ ngồi đâu cũng gạt không hết khách. Thấy thế, Chi bảo Thụ:

- Mày nói mà đúng. Bàn tay khôi óc làm được tất cả.

Logged
hoi_ls
Thượng tá
*
Bài viết: 5098



« Trả lời #11 vào lúc: 25 Tháng Tư, 2022, 04:24:39 pm »

*

*          *

 

Thế mà cái xưởng máy Nam Hưng cứ dần dần thành. Nguội đã đủ bàn ren và các thứ giũa. Gò cũng đủ kìm, kéo, mỏ hàn rồi.

Nửa năm sau, xưởng đã chữa được xe đạp, máy nổ ca-nô. Đôi khi cả những chiếc ô-tô hàng xộc xệch đường Bằng Tường, cũng thấy kéo đến. Cái ngõ cụt mọi khi vắng, bây giờ có công việc nhiều người phải tìm tới, bỗng hóa nhộn nhịp. Chiếc máy tiện quan trọng như trái tim đặt giữa gian buồng cứ phát ra tiếng kêu rè rè cả ngày.

Thụ cũng đã cất dao cạo, về đứng phụ thợ tiện.

Nên xưởng rồi, “kỹ sư” Sơn lại muốn sáng chế ra cái máy xay xát gạo. Ở Long Châu chưa có máy xay xát bao giờ. Một lần, Sơn trông thấy tờ tranh quảng cáo nhà máy xay xát gạo trên Nam Ninh chạy dầu ma-dút có vẽ cái phễu máy đương tuôn thóc như mưa. Sơn bảo: ta làm cái máy này được. Mọi người đều tin Sơn, cứ mày mò máy nào cùng làm dược.

Thế rồi, lại cùng nhau như con chim tha mồi, mỗi hôm kiếm về một mảnh sắt, cái ốc, cái trụ, một bộ phận hỏng ở cái đồng hồ, cái xe bò, cái xe đạp của ai đó, rồi gò, rồi hàn, rồi cưa, lắp... rồi đánh vòng bi, rồi thử... Mấy lần thử, chưa ăn thua, nhưng đã nên hình cái máy xay xát có phễu loe lên hẳn hoi. Trông hay đáo để. Cái máy gì Sơn cũng làm được thật. Nhiều người ra chợ kéo đến, xem lúc bỏ thóc vào thì cái máy làm thế nào. Nếu có được cái máy phát điện, chỉ mười ki-lô-oát thôi, chắc máy đã ầm ầm.

Chi được anh em ráp sẵn vào đứng trông cái máy xay xát sắp ra đời. Cả ngày, Chi cặm cụi. Ừ, nếu được cái máy phát điện, máy xay xát gạo chạy được chắc xưởng Nam Hưng rầm rộ hẳn lên.

Lại cái máy phát điện, lại một ao ước mới. Biết tầm nã cái máy phát điện này ở đâu?

Giữa lúc ấy, có tin đồn cánh quân phiệt bên Quảng Tây sắp xuống đánh cánh quân phiệt Quảng Đông. Thế nào cũng có quân quan qua Long Châu, nhưng không biết bên nào sẽ tràn qua. Cảnh loạn lạc, người chết như rạ khắp nơi lại sắp đến. Nhiều người Long Châu đã gồng gánh chạy trốn sang Lạng Sơn. Nhà giàu thì lật đật ra Ngô Châu xuống thuyền hay đi ca-nô lên Nam Ninh. Phải thuê hàng trăm bạc mới được một chuyến thuyền. Vô phúc mà có khi thuê nhầm phải thuyền cướp. Chẳng phải kẻ cướp mà lính huyện mang súng đi việc công cũng có thể thành kẻ cướp chốc lát. Cướp nổi khắp, chia đi chặn của từng quãng đường, quãng sông. Ai có việc phải ra ngoài thành mà còn vẹn toàn về phải đốt vàng hương hú vía.

Bùi lo lắng bàn:

- Tình hình thế này, ta phải dọn lên Nam Ninh. Mà phải lên Nam Ninh thì mới tìm được mô-tơ lắp máy xay xát chứ ở Long Châu thì đào đâu ra mô tơ.

Đêm ấy, mọi người bàn tính đến khuya cũng không ngã ngũ. Trong im vắng, thỉnh thoảng, tiếng súng, tiếng mõ nổi phía làng bên sông, bóng tối lại rợn lên. Tưởng loạn đã kề cửa! Cứ vài năm, Long Châu lại trải một tao loạn.

Bùi hay kể lại, những chuyện thảm khốc của Long Châu tám năm trước, hồi bọn quân phiệt kéo quân đánh nhau quanh Long Châu. Bây giờ Long Châu lại sắp trở lại thảm khốc ấy.

Bùi đến Long Châu trước tất cả các anh em đây. Khi đó Bùi mới ở Xiêm sang ít lâu, theo chủ thợ may lưu lạc xuống. Bấy giờ, cũng lại bọn quân phiệt Quảng Đông sắp đánh Quảng Tây, lại cả cánh Vân Nam kéo xuống. Nhưng quan quân đánh nhau ở đâu chưa tới, giặc cướp đã đùng đùng quanh mình. Đêm nào cũng có cướp vào thị trấn mà không thấy lính huyện ra đánh. Người ta bảo huyện trưởng Long Châu cũng thông lưng với cướp rồi.

Hai lần, Bùi suýt chết.

Rồi Bùi theo Đặng Tử Mẫn lúc ấy đương lo toan về đánh đồn Tà Lùng lần nữa. Dựa vào thổ phỉ, sẵn súng. “Ta nhờ thế nó, còn việc của ta khác. Cái khéo ở chỗ ấy”. Đặng nói vậy. Bọn quân phiệt các địa phương càng đánh nhau càng nhiều cướp. Đặng đón thời cơ, lại cất công đi dụ dỗ thổ phỉ tận Bình Mãng về.

Mới xuống tới Hạ Đống, bọn phỉ Bình Mãng đã nhảy vào cướp tận châu Điềm He. Vừa rút về qua biên giới, trời chưa sáng, chúng nó đã đốt đuốc, chia ngay quần áo, trâu bò, tiền bạc vừa cướp được. Đàn bà và trẻ con bắt theo thì đem ra chợ bán. Chỉ giữ lại mỗi một thằng Tây tóm được ở Bản Quyên - không biết nó là Tây đoan, Tây mỏ hay Tây buôn hồi mà dám đi một mình vào làng, về thằng Tây này thì trùm cướp đã bắn tin cho đồn Đồng Đăng mang tiền sang chuộc.

Tôi ấy, trùm cướp mở tiệc khao quân giữa chợ Hạ Đống. Đèn măng-xông thắp sáng trắng một vùng. Đặng và Bùi cũng được mời dự. Người vốn thấp nhỏ, lúc vào bàn tiệc, Bùi thuận tay kéo ghế gần sát lại mép bàn. Bọn ngồi quanh đấy xì xào, nhìn. Tan tiệc, Đặng mắng Bùi:

- Lệ ăn tiệc xuất quân nó kiêng kéo ghế, mày biết không?

- Tôi không biết.

- Tao phải bảo với chúng nó là mày mói đến, chưa hiểu phong tục. Không thì nó thịt mày rồi.

- Tôi không biết!

- Nhưng nó vẫn đương lưỡng lự...

Rồi Đặng đi đến nửa đêm, về bảo:

- Nó sợ nấn ná ở đây ngộ cánh khác đến úp mất thằng Tây thì lỗ to cho nên nó cứ đi. Nhưng ngày mai mà xảy ra việc gì lôi thôi thì mày chết.

Bùi nằm không chợp mắt được.

Sớm hôm sau, vừa kéo đi một quãng, gặp một toán. Chẳng biết kẻ cướp hay lính huyện, hai bên bắn nhau. Thằng Tây nọ thừa lúc rối loạn, bơi qua sông, thoát được về Bình Nghi.

Đặng phải xin mãi, Bùi mới khỏi chết. Nhưng chúng đuổi ngay tại chỗ, cả hai người.

Đặng đưa Bùi về Bình Tường. Dọc đường lại một phen khốn khổ vì gặp quân Quảng Đông, bắt khiêng đạn. Hai người đi khiêng mấy ngày, một hôm, vờ ra sông tắm, lẩn được.

Quân Quảng Đông đi, quân Quảng Tây đến.

Lần thứ hai, Bùi đã về làm thợ may cho hiệu Hợp Xương. Cái trấn nhỏ vừa trải cơn loạn lạc, người ùn đến ùn đi, đông và chạ người không kể xiết được, đêm nào cũng có người đến khẩn khoản xin ngủ nhờ. Một giường Bùi nằm chen chúc những mấy người. Rồi đến sáng ra thì mỗi người lại đi đâu, không ai biết.

Đột nhiên nửa đêm ấy, lính sục vào khám hiệu may Hợp Xương. Hai người nằm một giường và cả Bùi cũng bị lôi đi.

Sáng ra, hai người bị quan quân đem chém rồi bêu đầu luôn ở cửa chợ. Chúng nghi những người này dạo trước đã phá phủ Long An. Bùi sắp bị đem chém nốt. Nhưng Đặng đến kịp, kêu với quan rằng thằng này mới ở Xiêm sang chưa nói sõi tiếng Tàu; làm sao đi cướp phủ Long An. Mấy hôm sau, chúng bắt chuộc tiền rồi tha.

Những chuyện ấy Bùi vẫn kể và mọi người đều đã nghe nhiều lần. Ai cũng nghe và thích thú như đọc truyện kiếm khách, bởi vì những chuyện ghê rợn cũng thành quen tai và buồn cười, nhất là khi buổi chiều uống rượu, Bùi vừa kể vừa ra hiệu, lúc đi khiêng đạn, thấy quân Quảng Đông lúng túng trước khẩu đại bác, Bùi ngứa mắt xin vào giật cò bắn một phát, đạn nổ inh tai, khi về nghễnh ngãng mất mấy tháng...

Nhưng bây giờ, những câu chuyện mà Bùi thường kể không đượm một không khí hiệp khách giang hồ như trong truyện nữa, cảnh giết người và chết oan, những đám cướp rùng rợn, người chạy loạn và chết đói khát hàng nghìn, bây giờ người ta thấy như đã gần mình, chỉ đêm nay hay sáng mai là xảy ra thôi.

Quảng Đông và Quảng Tây, lại Vân Nam nữa, bọn quân phiệt như con chó dại, lại sắp ẩu đả nhau.

Thê là lại sắp loạn to. Cái trấn Long Châu nhỏ bé, tiều tụy, tan tành như chơi.

Câu chuvện đương bàn, bỗng găng - khi Tư ở ngoài phố về. Các chủ ô-tô sợ cướp, không dám chạy đường Bình Tường. Bơ vơ ở giữa, Tư mất việc. Tư quay về đây, cho Sơn sai vặt những công việc phụ máy. Tư đã nghe rục rịch chuyện định dọn đi Nam Ninh. Tư không thích đi Nam Ninh.

Tính nóng, thấy anh em bàn bạc, Tư nói sỗ ngay:

- Các ông lại tính chuyện dọn lên Nam Ninh à? Ai sợ chết thì cứ đi nhé. Tôi ở đây xem đánh nhau nó thế nào nào.

Nói thế, Bùi chạnh lòng. Không phải vì tưởng anh em cho vì trước mình hút chết, bây giờ đâm sợ. Còn có nguồn gốc xa đã khiến Bùi đâm cáu.

Ai cũng biêt chí hướng con người không phải chỉ một lúc nghĩ ra giống nhau và suốt đời cứ như thế. Chí hướng của ta luôn bị thử thách và lên xuống theo thời tiết tư tưởng của ta. Khi đi ra khỏi đất nưóc, ý thức cứu nước thương nòi của mỗi người thường không khác nhau lắm. Có người đi Trung Quốc, có người sang Xiêm. Có người đi Nhật. Có người nhìn xa hơn, sang Nga. Nhưng mỗi ngày đường sẽ một khác nhau và suy nghĩ của con người không bao giờ dừng. Có người hành động và kiên tâm cách mệnh trước sau vẫn thế. Có người chờ thời. Có người nản, thoái chí.

Ở Long Châu lúc ấy có Bùi và Tân, Tân sang Long Châu đã ngót mười năm. Cũng như Bùi, Tân theo anh em ra hải ngoại, mưu tìm đường cứu nước. Được vài năm, Tân lấy vợ rồi mua máy khâu, mở hiệu rồi chí thú làm ăn không đi nữa. Nhưng gặp anh em, Tân vẫn giúp. Tân nghiện uống chè buổi sáng. Đồng chí tâm huyết đến, uống chè nói chuyện cảm khái. Ai hỏi: “Anh thôi làm cách mệnh rồi a?” thì Tân khóc. Có khi uống rượu và đập bát, đập chén hẹn lại một phen vẫy vùng. Rồi đồng chí ấy đi. Còn Tân tỉnh rượu rồi lại cặm cụi đạp máy khâu. Lâu dần thành quen, dính vào cái máy khâu và vợ con, ý chí cách mệnh chỉ còn phảng phất, trong mỗi lần giúp đỡ anh em đồng chí qua lại.

Bùi thì khác.

Năm trước, xong lớp huấn luyện của Đồng chí hội ngoài Quảng Đông, nhiều đồng chí được phân công trở về nước hoạt động. Bùi tần ngần rồi nói thật:

- Tôi không về.

Sau đó, Bùi xuống biên giới, mở lò may, đoàn thể cũng yêu cầu Bùi giúp luôn cho việc liên lạc cách mệnh ra vào. Bùi làm công tác ấy rất hăng hái. Bùi đã chạy cơm gạo cho ba lớp huấn luyện của Đồng chí hội ở Bản Đảy. Nhưng điều khiếp nhược kia đã thốt ra với câu “tôi không về” vẫn là một giày vò và một ám ảnh theo mãi, mỗi lần giật mình nghĩ đến hay có ai nói động đến.

Bùi chạnh lòng điều ấy.

Lúc đó, Bùi đã trừng mắt nhìn Tư. Thấy thế, Sơn mắng át Tư:

- Không đi thì mặc mày, chưa chi đã nói chõ!

Rồi Sơn cười xoà:

- Tôi ấy à, máy lên Nam Ninh thì tôi theo lên, con nhà thợ ở đâu phải có cái kìm cái búa mới chịu được.

Tân hăng hái:

- Tôi đã cho vợ, con về trong làng rồi.

Bùi không vặc với Tư nữa, nhưng Bùi tái mặt, nói trịnh trọng khác thường, như tuyên bố:

- Xưởng máy này, anh Tân với tôi bỏ tiền ra bảo lĩnh để người ta bán chịu, còn tôi đứng tên mua, làm được thì anh em được hưởng mà có gì trắc trở, nếu chủ máy kiện thì tôi đi tù. Tôi phải có quyền chứ.

Không ai nói nữa, lẳng lặng sửa soạn dọn xưởng. Vả lại, câu chuyện cũng thật khó bàn. Thụ như Chi, những người tay trắng, lại mới đến, không biết nói thế nào. Họ im. Nhưng trong bụng cũng không thích mà không nói ra. Như vậy, Long Châu không còn anh em ở nữa.

Mấy hôm sau, Hùng ở Cao Bằng ra. Hùng lấy tiếng là đi mua tơ về Hoà An bán, nhưng kỳ tình còn mưu nhiều chuyện bí mật. Hùng ra Long Châu, có khi đi Nam Ninh. Những câu chuyện tâm sự, ba người thường hay bàn vói nhau. Một lần, Hùng bảo:

- Ở Hoà An, cả ở Đông Khê bây giờ mình đã tổ chức vào Thanh niên hết. Cả Cao Bằng, cả Lạng Sơn nữa. Cách mệnh ở mình chứ ở đâu, mình tổ chức ra cách mệnh. Phải làm thế mới được.

Câu nói ấy làm Thụ nghĩ nhiều.

Ngay hôm ấy, Hùng và Chi, Thụ, lại cả Tư, bốn người đi chợ Long Châu. Chợ hồi này vắng. Các làng sợ có loạn sẽ vỡ chợ nên không dám lên. Chợ vắng người mua bán thì càng nhiều ăn mày. Chỉ một người gánh củi bán ế hôm trước thì hôm sau đã thành ăn mày rồi. Lúc đầu người ăn mày còn ngồi xin ăn, vài hôm nữa chỉ nằm ngóc đầu kêu, rồi một hôm chết.

Cả bọn tìm một quán cơm có bán vịt quay họ vẫn quen đến. Nhưng người đứng xin đợi đầy cửa, như đợi phát chẩn. Lão chủ quán đã đóng cửa, chuồn ngõ sau, về quê đã mấy hôm rồi mà ăn mày vẫn chực đông ở đấy.

Hùng nói:

- Ở chợ Nước Hai bên Cao Bằng bây giờ còn thương tâm hơn nữa kia. Người Kinh đói đem con lên ngược bán, người Mán hiếm hoi đi mua trẻ con. Ngày phiên thì chợ Nước Hai, chợ Nguyên Bình, chợ tỉnh chỗ bán trẻ con đông như chỗ bán lợn. Nước ta mòn mỏi lắm rồi, các anh ơi!

Thụ nói dứt khoát:

- Tôi đã định rồi. Tôi ở lại không đi Nam Ninh. Tôi sẽ tìm cách bí mật trở về tổ chức cách mệnh cho anh em Lạng Sơn. Hùng nói phải đấy, rồi Lạng Sơn cũng như Cao Bằng. Đúng rồi, việc cách mệnh trước nhất ở mình đã. Mình phải là người đi tổ chức anh em cùng làm ra cách mệnh.

Chợt Hùng hỏi:

- Chúng mày biết chưa?

- Gì thế?

- Chị Mai ở Bản Đảy chết rồi.

Cả ba người sửng sốt kêu một câu giống nhau:

- Tội nghiệp cái Oi!

Tháng trước, Mai đẻ. Theo tục dân tộc Nùng, người đẻ phải ra ngồi sau nhà. Hôm ấy mưa to, nước ngập. Bà lão mẹ chồng ác nghiệt kiêng kỹ, không cho vào nhà. Mai ngồi nước mưa tràn đến đầu gối. Chết cả mẹ và con.

Họ còn lặng yên một lúc lâu. Thương chị Mai quá, chị Mai không còn. Chị Mai vẫn nói bao giờ cách mệnh lấy được nước thì chị trở về Chợ Thượng làm ruộng và gả chồng làng cho cái Oi. Bây giờ thì giá có độc lập cũng không bao giờ có chị Mai về Chợ Thượng nữa. Thụ nhớ lại khi mới ra biên giới, Thụ nói:

- Bây giờ chị Mai chết rồi không có ai để liên lạc.

Cách mệnh ở trong nước ra phải đi bốn trăm cây số lên Nam Ninh mới gặp người của ta. Không được.

Hùng nói:

- Thằng Chi muốn theo lên làm máy xay xát cũng tốt. Biết nghề máy, có khi được nhiều việc đấy.

Thụ nói:

- Ừ, tao ở lại một mình.

Tư kêu lên:

- Tao cũng không đi mà!

Mấy hôm sau, Hùng đã tìm được cho Tư chân làm phụ ô-tô ở hãng Con Thỏ chạy đường Lạng Sơn - Cao Bằng.

Hùng khoái chí:

- Mày làm ô-tô đường ấy, thế là Lạng Sơn, Cao Bằng, Long Châu liên lạc chặt chẽ được rồi!

Vài hôm nữa, hiệu máy Nam Hưng dọn đi Nam Ninh tránh loạn. Các thứ vật liệu khuân xuống ca-nô, xuôi nước ba ngày... Thụ khiêng từng bộ phận máy đến tận bên Ngô Châu, cả Tư ương bướng và Hùng cũng đi khiêng. Trời nắng, mọi người phải cởi trần, hì hụi khuân hai ngày mới tới Ngô Châu.

Lúc ca-nô nổ máy, Thụ nắm chặt tay Chi:

- Nghe nói trên Nam Ninh gần đường gặp đoàn thể cấp trên lắm. Lần này đi, Chi cố liên lạc nhé.

Đứng bến Ngô Châu trông ra, vẫn một dòng sông Kỳ Cùng ấy, nhưng đến đây thì con nước trải to ra, phát triển như nghị lực con người. Thụ đứng nhìn theo bạn đến khi cái đuôi xám của chiếc ca-nô mờ hẳn vào sóng sông. Từ ngày đi, lần này lần thứ hai chia tay nhau.

Thụ về Long Châu.

Tiếng đồn quân Quảng Tây tràn xuống, càng dồn dập.

 

*

*          *

 

Tháng tám.

Lại có tin quân Vân Nam tràn đến. Quân quan Vân Nam cũng như quân Quảng Đông, cũng như thổ phỉ, chỉ có cướp của và đánh chết ngưòi. Làng xóm càng nín thở.

Một hôm, có đám người tụ ở ngã tư trên lối vào huyện bàn tán:

- Thế nào, không phải quân Vân Nam à?

- Không phải.

- Quân Quảng Đông à?

- Không, không.

- Quân nào?

- Hồng quân?

- Hồng quân!

Những người đứng đường thì thào rồi tản đi. Nhưng ở đằng kia, một đám khác lại đang ghé tai nhau. Lời đồn, khi đúng khi không đúng, thường đi trước rất lâu. Nhưng cái tiếng Hồng quân sẽ đến Long Châu thật mới lạ đối với một cái trấn nhỏ trên biên giới hẻo lánh này. Bởi vậy, đứng đâu người ta cũng bàn tán. Rồi lại sợ lính huyện biết thì chết, nhưng lại không lặng nín được.

Người ở trấn Long Châu chưa trông thấy Hồng quân bao giờ. Nhưng nghe chuyện thì nhiều lắm. Người ta kể rằng Hồng quân là một đoàn quân mặc áo đỏ, cưỡi ngựa đỏ, đến đâu thì đánh tan quân quan Quốc dân đảng, tan thổ phỉ, rồi lại đi nơi khác, nơi nào có đứa làm ác đến tiêu diệt nó rồi lại đi, không bao giờ ở một chỗ. Nhưng những người ở ngoài trấn vào chợ thì lại nói khác. Họ bảo họ được thấy Hồng quân rồi, Hồng quân cũng ăn mặc như ta thôi và khắp nưóc Trung Quốc đâu bây giờ cũng có Hồng quân.

Lại càng nóng ruột. Ai cũng nghĩ: Hồng quân tốt thế, Hồng quân đến dẹp tan cho  chúng tôi cái khổ này đi.

Nhưng vẫn chưa thấy gì mới, mà Long Châu càng ngơ ngác, vắng ngắt, ngày một khô rạc. Tưởng chừng chỉ một mồi lửa, cả mái nhà và đường cái cũng bùng lên. Bọn quan quân và kẻ cướp giết người cướp của nhiều quá, vào phá nhà ban ngàv giữa phố. Long Châu nóng lắm rồi.

Rồi giữa tháng tám, quả nhiên có một cánh Hồng quân của Lý Minh Thuỵ từ phía Vân Nam xuống.

Nửa đêm, phía nào cũng nghe tiếng chân người đi qua. Quái lạ, không nghe tiếng súng. Từ mờ sáng, hé cửa, đã thấy trên tường, cánh cửa và gốc cây, những tờ giấy xanh, giấy đỏ chi chít dán khắp thị trấn những khẩu hiệu cách mệnh và hoan hô Hồng quân.

                        Đả đảo Quốc dân đảng!

                        Xử tử ác bá cường hào!

                        Chia đất cho nông dân!

                        Quảng Châu công xã muôn năm!

                        Hồng quân muôn năm!


Bấy giờ cuộc nổi dậy của công nhân và binh sĩ ở Quảng Châu cuối năm 1927 đã chấm dứt, nhưng tiếng vang trận đánh ngoan cường của công nhân và binh sĩ Quảng Châu liên hiệp khởi nghĩa còn lan rộng đi mãi khắp biên khu Giang Tây, Quảng Đông và cả Quảng Tây. Ở rất nhiều nơi, Đảng Cộng sản Trung Quốc đã lãnh đạo nhân dân vũ trang khởi nghĩa quật lại thế lực phản cách mạng. Hồng quân Lý Minh Thuỵ tiến xuống biên giới, đi suốt Quảng Tây sang Vân Nam đương trong cao trào khởi nghĩa khắp Hoa Nam đó.

Đến lúc trời sáng thì Long Châu hiện ra trong quang cảnh chưa bao giờ thấy. Nhưng không kỳ lạ. Bộ đội Hồng quân vẫn tiến qua trấn có nhiều bộ đội nom rất quen mặt, có người còn nhận ra là những anh cõng bó củi mọi khi vẫn đi rao đầu ngõ. Nhiều nhà mở cửa, đem thuốc lá, chè và giày vải ra biếu bộ đội và chạy theo vào đánh huyện.

Ai cũng có cảm tưởng Hồng quân từ trong nhà mình bước ra, trong Hồng quân có người Long Châu mình và trong trấn đã có nhiều người bí mật theo Hồng quân và không ai sợ sệt nữa.

Còn bao nhiêu người ở lại Long Châu đều đổ ra đường hết. Cảnh tượng hốt nhiên sông lại, khác hẳn Long Châu rũ rượi hôm qua. Hồng quân tiến vào vây phố Bạc Bảo Cai. Sắp đánh chiếm huyện sở. Người Long Châu rùng rùng theo Hồng quân đi đánh huyện. Ai cũng đã kiếm được cái gậy, con dao. Họ xông vào. Người vỡ bờ tràn lên. Lô cốt huyện cao sừng sững trên bốn góc tường. Những cái lỗ châu mai như con gấu đứng há miệng. Chi chít khắp tường. Và quanh tường huyện, một bờ hào rộng, sâu, đầy ắp nước. Làm thế nào đánh được!

Nhưng xông vào mới biết cái huyện chỉ còn mấy toà nhà không. Quan lính Quốc dân đảng trốn từ lâu.

Lá cờ búa liềm bay rừng rực trên cổng huyện.

Biết bao thay đổi kỳ diệu từ hôm nay. Thật náo nức.

Thụ đi đâu cũng đeo thanh mã tấu trên lưng.

Nghe giữa phố có tiếng trống. Người đi đường xôn xao nói: Chém Hán gian ở chợ! Chém Hán gian ở chợ!

Thụ chạy ra. Không phải chém Hán gian, Thụ đã thấy một cảnh khoan khoái xưa nay chưa bao giờ thấy.

Đông người đứng xem lắm. Một người đeo băng đỏ, đứng cao nhất trên ghế, nói to giữa đám đông:

- Thằng Tây này đã nhiều năm đến làm hại Trung Quốc. Nó là con mọt già. Nhưng nó cũng là người nước ngoài, cho nên Hồng quân không thèm giết, chỉ đuổi nó đi.

- Đuổi nó về Lạng Sơn! Đuổi nó đi!

Mọi người trông xuống, thấy một thằng Tây thật, mắt xanh nhờ nhờ, đứng sau cái bục. Bị người chỉ trỏ, thằng Tây quay quay, lanh quanh như con mèo tìm chỗ ỉa. Nhưng quay đằng nào thì bốn phía mọi người vẫn xem được mặt. Nó đứng im vậy.

Nó là thằng Tây lãnh sự ở Long Châu. Huyện trưởng Quốc dân đảng trốn vội quá, không kịp báo tin cho Tây lãnh sự biết. Đến lúc Hồng quân vào nhà lãnh sự, (người ta đồn thế) thấy Tây còn đương ngồi nhai cái đùi gà!

Tiếng hét:

- Quần áo tốt thế kia mà đi Hán gian cho Tây để cướp của người Trung Quốc. Đòi lại!

Nhiều người xông vào lột bộ quần áo dạ Mông Tự của thằng Tây lãnh sự.

- Giày da bóng kìa, cả bít tất hoa nữa! Lột nốt đi!

Thằng Tây cởi trần, chỉ còn cái quần lót. Hai bàn chân mỏng mảnh, trắng nhợt, ngón toẽ ra, như chân ếch. Hai con mắt thì vẫn nhờ nhờ thế, chẳng khác lúc nãy.

- Đuổi đi!

- Còn cái mũ! Cái mũ!

Cái mũ phớt xám trên đầu Tây lãnh sự bị giựt nốt xuống. Mọi người hỉ hả reo:

- Quân ăn cướp, phải bắt nó khổ nhục thế mới được!

Thằng Tây lãnh sự cởi trần, chân đất, cuốc bộ trên năm mươi cây số về Lạng Sơn. Nó vừa đi vừa khóc. Tin đồn dậy sang tận Lạng Sơn rằng Tây lãnh sự bị quân cách mệnh Trung Quốc đuổi từ Long Châu về. Người Lạng Sơn nói: bao nhiêu lần nước Tàu kiện lên Vạn quốc mà không dám đụng đến tô giới, bây giờ Hồng quân Trung Quốc đứng lên vặt được cả râu Tây rồi...

Nhiều người bên Lạng Sơn trốn sang Long Châu xem thế nào.

Thụ còn đứng nhìn theo thằng Tây lãnh sự, đến tận lúc nó cung cúc đi khuất xuống phố dưới. Thụ phấn khởi lạ thường. Thụ tự làm lấy cái băng đỏ, đeo lên cánh tay áo.

Thụ xách mã tấu, vào huyện.

- Các đồng chí Hồng quân, cho tôi làm cách mệnh.

Những ngày tưng bừng rung chuyển Long Châu. Thụ đi trong đoàn cán bộ Hồng quân, đến từng làng, lập Xô Viết xã, tổ chức nông hội bí mật, đưa những người tích cực trong nông hội vào đội tự vệ đỏ bí mật, đánh chiêng lên phát động đấu tranh lấy ruộng địa chủ ác bá chia cho người nghèo. Làng nào cũng thế. Náo động đến tận hang cùng ngõ hẻm. Có đấu tranh ở một làng thì người cả vùng kéo đến xem và ủng hộ. Lực lượng cách mệnh thành hình khắp huyện. Đâu đâu cũng vang động tiếng gọi: “Các đồng chí Hồng quân! Các đồng chí Hồng quân, nhanh lên! Ở vùng này địa chủ ác bá tàn nhẫn lắm, các đồng chí à!”.

Một lần, đến Bó Cục, Thụ thấy trong đám người dự cuộc đấu tranh với ác bá có nhiều người áo chàm khuy tết nhỏ như người bên Tràng Định.

- Có phải ở Thất khê sang đấy không?

- Phải.

Thụ viết thư ngay cho Tư và Hùng, nhờ bà con đưa hộ. Thụ muốn hai bạn sang tham gia Long Châu đỏ như mình.

Những điều đã biết mà cũng là những điều mới mẻ! Thụ đã lăn lóc lên tận Vũ Hán, đâu đâu cũng chỉ thấy phơi bày một cảnh tượng nghèo khó. Người chết chồng đống, người bỏ làng lũ lượt đi. Nay cách mạng đến, vẫn người đói khổ ấy, giữa cảnh ấy, nhưng Thụ lại chứng kiến một tình hình khác hẳn: những người nghèo đói sống lại và hùng dũng đứng lên, rũ băng xiềng xích và, cái ruộng đất khốn khó, bấy lâu chỉ làm khổ con người bây giờ ruộng đất không phải là cái nặng nợ khốn khổ nữa, ruộng đất bỗng trở thành hạnh phúc. Làng xóm náo nức, dồn dập. Thụ say sưa, mê mải vào tổ chức, đấu tranh. Thụ thấy như rồi mai kia đất nước mình đánh đuổi thằng Tây đi, cả nước và cả Lạng Sơn mình cũng thành như Long Châu đỏ thế này.

Cuối tháng chín, Quốc dân đảng dồn quân cả tỉnh Quảng Tây về đánh Long Châu.

Để giữ lực lượng, các tổ chức cách mệnh rút vào sinh hoạt bí mật, còn Lý Minh Thuỵ và Hồng quân rút lên phía tây bắc, sang Vân Nam.

Quan quân Quốc dân đảng bấy lâu trốn tránh ở đâu bây giờ lại kéo vào Long Châu. Suốt một tháng chỉ đi lùng giết người. Cứ cách vài nhà, chẳng hạch được tội gì, chúng cũng lôi người ra giết. Đầu người cắm vào cọc, khắp đầu phố, đầu xóm và bốn cửa chợ, thối rữa ra.

Trước cổng huyện treo một bảng to, đề dòng chữ đen kịt: Giết hết cộng sản rồi.

Thụ trở về thị trấn. Thụ lại lặng lẽ đem cái ghế gấp mặt vải bạt với bọc dao cạo và hòn đá mài đến ngồi ngay dưới cái bảng có chữ: Giết hết cộng sản... Bởi vì chợ chưa họp được, mà ở đấy chỗ đầu phố Bạch Bảo Cai gần cửa huyện, dễ có khách. Thụ cất tiếng hát để câu trẻ con lại. Trẻ con xúm đến xem Thụ hát. Lúc chưa có khách, Thụ lại cạo đầu cho trẻ con. Long Châu còn vắng lắm. Một hôm, có một người cao lớn, áo rách sã vai, bên chân chỉ có một chiếc giày cỏ vắt vẻo sắp tụt nốt. Người ấy quảy sọt củ nâu, một cái rọ, trong có con trăn nằm cuộn tròn to bằng bắp chân. Hẳn người này vừa mới lật đật ở rừng ra, đói quá, nghe nói chợ huyện mới họp lại liền lên chợ sớm bán cái của rừng để kiếm miếng ăn.

Người ấy vào ngồi xuống ghế. Râu tóc nham nhở hôi gớm chết.

- Cạo cho cái đầu nào! Mồ hôi ra, ngứa ơi ngứa!

Thụ lại liếc dao, bắt đầu cạo. Người khách cứ nhìn thẳng, vu vơ, hỏi một câu tự nhiên:

- Có nhớ ngoài Hạ Đống không?

Thụ giật mình, nhìn lại. Nhận ngay ra người khách ngồi ghế là Nông Kỳ Lâm - người cán bộ của Đảng cộng sản Trung Quốc, làm cách mệnh ruộng đất ở Hạ Đống, đã lăn lộn vói các Xô Viết xã ở đấy cả tháng vừa qua, mình có lần gặp.

Thụ chợt cảm động, vừa nghĩ vừa liếc nhìn lên cái bảng có chữ to: Giết hết cộng sản... trên đầu. Không, không phải chúng mày giết hết cộng sản mà cộng sản vẫn đến ngồi ngay cạnh cái bảng có dòng chữ nói dối này đây. Thụ nhớ đến những đội tự vệ đỏ và nông hội bí mật khắp Long Châu. Cách mệnh đã bắt rễ sâu vào các làng rồi.

Thụ hỏi:

- Đi đâu vào đây?

- Thấy mày ở đây thì đến liên lạc đấy.

Rồi Lâm lại nói:

- Có biết làm máy không? Công nhân xưởng Nam Hưng thì phải biết làm máy chứ?

- Máy gì?

- Bọn Quốc dân đảng mới lập lại cái tu giói sở, đương cần người thợ chữa súng, các thứ thợ, cứ vờ biết rồi vào đấy học cũng được.

Thụ ngạc nhiên:

- Cách mệnh lại lấy người đi chữa súng cho Quốc dân đảng à?

- Ồ, đoàn thể ta phải vào trong kho mà nắm lấy súng chứ. Long Châu đã đứng lên làm cách mệnh rồi, Long Châu đỏ mãi mãi chứ, phai mờ thế nào được!

Thụ cười. Câu chuyện đến đấy thì cái đầu và râu ria ông khách cũng vừa nhẵn gọn, khách đứng dậy, móc mấy xu trả rồi lại hùng hục, hấp tấp chạy ra quảy gánh củ nâu và con trăn vào chợ.

Ít lâu sau, có người đến gọi Thụ vào làm công nhân xưởng chữa súng huyện Long Châu.

Thụ rất sáng ý, đã biết qua máy móc lúc ở xưởng Nam Hưng bây giờ chỉ học lỏm mà dần dà chữa được tất cả các loại súng trung liên, súng lục, cả tạc đạn hóc. Đôi khi, Kỳ Lâm bí mật đem súng đến nhờ chữa. Có lần người của Kỳ Lâm lại là một lính Quốc dân đảng, đầy đủ giấy tờ, gánh súng hỏng đến tận xưởng. Thụ chỉ việc vào kho đổi súng tốt cho mang đi. Thụ có cảm tưởng: khắp nơi, “'Long Châu vẫn đỏ mãi chứ, phai mờ thế nào được”. - Đúng như Kỳ Lân nói.

Những ngày Long Châu đỏ sôi sục đã qua.

Nhưng Long Châu đỏ còn để lại trong Thụ những suy nghĩ và gợi ra cho Thụ những dự định thật mới. Thu càng nhớ những chuyện đã nói với Hùng dạo trước. Cách mệnh sẽ do chúng ta làm nên.

Quái, sao lâu không thấy Hùng ra. Thư nhắn cả Hùng và Tư mà bặt tin. Mong quá.

Thụ đi làm mấy tháng, để dành tiền mua được xe đạp. Ngày nghỉ, Thụ đạp xe khắp huyện, lên tận Bình Tường, giao du rộng. Biết tiếng Thụ giỏi chữa súng, có khi bọn buôn lậu và kẻ cướp cũng tìm Thụ, nhờ chữa.

 

*

*          *

 

Đến hôm Hùng ra Long Châu, mới biết dạo trước Tư đã sang Hạ Đống ngay lúc nhận thư Thụ. Háo hức qua, nửa đêm, Tư bơi qua sông Bằng, quãng trên Tà Lùng. Gặp con lũ muộn, Tư cứ lội. Không ngờ, nước mạnh quá, Tư chết đuối.

Hai người ngồi lặng hồi lâu cùng nhớ, ở Long Châu, chỉ có Thụ, Chi, Hùng và Tư trẻ tuổi hơn cả và lúc nào cũng chỉ nghĩ đến đánh Tây, hoạt động cách mệnh. Ai mói gặp cũng thích ngay cái tính hăng hái của Tư, không bao giờ quên được. Rồi Thụ nói:

- Hùng ơi! Tôi đã quyết định. Phải trở về Lạng Sơn. Chúng ta sẽ làm cho Cao Bằng và Lạng Sơn cùng đứng lên. Bài học cách mệnh ta vừa học được ở Long Châu rồi.

Hùng nói:

- Con đường từ Lạng Sơn sang Long Châu càng cần cho chúng ta bắt liên lạc với hải ngoại. Thằng Tư với mình đương tổ chức.

Thụ nói:

- Lạng Sơn, Cao Bằng ra Long Châu, lên Nam Ninh rồi đi nữa, cách mệnh Việt Nam liên lạc với cách mệnh Trung Quốc và cách mệnh thế giới, cách mệnh Việt Nam sẽ thành công.

Hùng chợt nhớ:

- Thụ à, mày đã nghe chuyện này chưa. Chuyện mật thám bên Đồng Đăng mò sang Lũng Nghìu hẹn thưởng tiền thưởng muối cho mẹ Mã Hợp. Nó bảo nếu thấy người Lạng Sơn sang thì hỏi dò xem đi đâu rồi về Đồng Đăng báo quan hai. Mẹ Hợp trả lời mật thám: một đời tôi chỉ biết đường đi kiếm củi, tôi không biết đường đi Đồng Đăng báo Tây.

Thụ “à” một tiếng rồi cười vui hẳn lên. Trong lòng đã sẵn tin dĩ nhiên như thế.

- Phải, có người tốt, có Mã Hợp ở đấy thì đường Long Châu về Lũng Nghìu cũng sẽ thành đưòng liên lạc của cách mệnh. Ta sẽ mở đường ấy trước nhất.

- Hay! Hay đấy!

- Nhưng phỉ nhiều lắm, từ đây về đấy phải đi qua địa phận bọn phỉ ở Độc Sơn.

- Ta sẽ làm cho phỉ không hại được cách mệnh Việt Nam.

- Làm thế nào?

Thụ quả quyết:

- Được.

Ngày kia, Thụ đến Độc Sơn.

Độc Sơn cách Hạ Đống hai mươi cây số, sào huyệt của trùm phỉ Chính Hiền. Độc Sơn toàn rừng chen núi đá, nằm vắt ngang sau lưng biên giới nhìn chéo sang Cao Bằng và Lạng Sơn. Bao năm nay, Độc Sơn vẫn là nơi hang ổ, nếu không có các toán cướp ở nơi khác đến thì chính người Độc Sơn cũng cậy thế hiểm để ra cướp các vùng xung quanh. Người Độc Sơn làm nên quan làng mà cai trị nhau chứ không ai vào được. Các xóm đều ẩn hóc hiểm trong khe đá quanh sườn núi. Mỗi quãng, chất một chồng đá. Các cụ xếp sẵn đá như thế, không biết từ đời nào, để lăn xuống chẹn đường, để là chỗ tựa vai súng. Mỗi chòm nhà nấp sau một cổng đá chằng chịt lỗ châu mai, rồi đến tường nhà, cửa nhà cũng chi chít châu mai, lúc nào cũng đánh nhau được. Xưa này ai vào Độc Sơn, như vào hang hổ, cũng cầm bằng sa chân xuống vực suối lũ, không biết đâu mà lường. Người vùng này thường nói vậy.

Thụ đến một nhà đầu xóm. Vừa tựa xe đạp vào bờ đá, ngoái lại đã thấy có người cầm khẩu súng poọc nhăm nhăm ở ngoài.

Thụ ngoảnh ra:

- Tôi đến đây để yết kiến ông Chính Hiền.

Rồi Thụ lấy trong túi áo ra tờ danh thiếp, đưa cho người cầm súng. Lúc ấy, người chủ trong một nhà đầu xóm bước ra, vòng tay lễ phép nói:

- Xin mời ông vào nhà tôi nghỉ chân.

Rồi cầm cái thiếp đi thẳng. Ai vào Sơn trại đã thành lệ phải đợi như thế. Thụ vào ngồi trong nhà. Người cầm súng đốc canh vẫn lảng vảng ngoài ngõ.

Một lúc, chủ nhà về, có người đi cùng. Thụ theo người ấy đến một xóm khác. Còn người cầm súng thì vác cái xe đạp của Thụ theo. Ba người đi mãi vào cái ngõ đá khấp khểnh, sâu hút.

Chính Hiền đã đứng tuổi. Mặt trắng bệch như người khách buôn - Chính Hiền lại mặc cái áo lụa dài, xúng xính, nhàn nhã, nom càng giống lão bán thuốc ở hiệu bào chế trên phố Bạch Bảo Cai.

Thụ nói:

- Tôi biết tiếng ông, hôm nay đến thăm ông.

- Ông Lưu Minh Hạ, tôi có được nghe...

Thụ nói trước rằng:

- Thưa ông, đường vào Độc Sơn của ông đi theo khe núi và chân ruộng hẹp sừng trâu mõm nai. Nghe chim gọi vịt kêu đằng xa, tôi chợt nghĩ rằng ông là người giang hồ lịch lãm nhiều , ông đã biết dù ở Độc Sơn đây hay ở Thoát Lãng bên kia thì cái cây, con chim hay con người cũng thế, Trung Quốc hay Việt Nam thì ở đâu người nghèo cũng khổ cả.

- Lưu tiên sinh nói thật đúng người thời thế.

- Tôi là người cách mệnh Việt Nam.

Chính Hiền đáp:

- Chính Hiền không phải bọn thảo khấu tầm thường, ông cứ nói.

- Lưu này đến thăm ông chính vì thế.

- Tiên sinh xem đây.

Chính Hiển đưa Thụ lên cái hang sau núi. Không ngờ, trên hang là cả một cái xưởng làm giấy bạc. Những mẫu vẽ, những bàn phẩm ngũ sắc và máy dập, giấy sáp, đủ thứ, tiền Quảng Đông, tiền Quảng Tây, tiền Việt Nam rồi giấy năm đồng “con công”, giấy “đầm xoè” hai mươi đồng, giấy “cái đỉnh” một trăm Đông Dương (1).

Chính Hiền cười khà khà:

- Không có tiền thì ta phải làm ra tiền mà tiêu. Đời này đã toàn lừa dối thì việc mình làm không phải là lừa dối nữa, có phải không Lưu tiên sinh?

Rồi Chính Hiền vỗ vai Thụ:

- Ông Lưu à, thiên hạ đồn Chính Hiền là lục lâm. Nhưng Chính Hiền chỉ lục lâm với kẻ ác, với đứa nào muốn trêu vào tay Chính Hiền mà thôi. Một đời tôi chưa đi chặn lối cướp đường, chưa cắt túi lấy của ai một đồng một chữ bao giờ. Tôi cũng sinh sống như mọi người. Đến mùa hồi thì người của tôi sang Lạng Sòn buôn hồi đưa ra Hồng Kông bán. Tôi chỉ khác thiên hạ là người của tôi đem tiền này của chúng tôi làm ra đến thằng quan hai Đồng Đăng đổi lấy vài hòm tiền của nó. Mình chịu đổi thiệt thì có tiền minh bạch, tiêu ung dung về đến tận hiệu cao lâu Đông Hưng dưới Hà Nội đấy.

- Tiền giả đổi lấy tiền thật à?

Chính Hiền lại cười ha hả:

- Đúng. Nhưng mà ở đời này biết thế nào giả với thật!

Thụ thốt một câu chửi:

- Con chó cái thằng Tây!

Trở vào trong nhà, Chính Hiền hỏi Thụ:

- Tôi nghe tiếng Lưu tiên sinh sành chữa súng, có phải không?

- Cũng mới võ vẽ.

Thủ hạ ôm đến hơn một chục khẩu súng ngắn, khai hậu, súng kíp, súng trường Nga. Thụ lấy ra một cái kìm, cái vặn ốc nhỏ vẫn giắt sẵn trong người. Chỉ bằng ấy thứ với chiếc thông nòng xoe bằng tóc và trong một lát chăm chú, được khẩu nào bắn thử luôn khẩu ấy. Thụ đã chữa xong cả ôm súng.

Chính Hiền reo to:

- Tiếng đồn quả không sai.

Rồi dọn bữa rượu thịnh soạn.

Chính Hiền nâng chén:

- Chỉ tiếc không kịp sai người sang bắt thằng chủ hiệu cao lâu Lục Ưng bên Thất Khê về nấu hầu anh em mình bữa hôm nay. Nhưng rượu Độc Sơn còn hay hơn rượu trấn Lũng Vài đấy. Đại ca xem.

Chính Hiền quệt que diêm lướt trên miệng chén rượu. Ngọn lửa xanh biếc nghiêng nghiêng bốc lên.




-----------------------------------------------------------------------
(1) Các loại giấy bạc của thực dân Pháp phát hành ở Đông Dương, đặt tên theo hình vẽ trên giấy (con công, đầm xoè, cái đỉnh) như thời ấy người ta thường gọi.

 

Logged
hoi_ls
Thượng tá
*
Bài viết: 5098



« Trả lời #12 vào lúc: 25 Tháng Tư, 2022, 04:33:53 pm »

V


Bấy giờ là cuối tháng giêng âm lịch năm một nghìn chín trăm ba mươi (1930).

Cái Tết năm nay đã về Lũng Nghìu vướng phải sương mù và rét buốt, đến chậm chạp.

Giữa tháng giêng mà những làng ở khuất hẻm núi vẫn nghe tiếng đàn tích phảy phảy trong đêm khuya của những cô then nghèo bị những cô then tài sắc tranh hết khách, nên ít được đám gọi, phải đi cúng chậm ở những xóm nhỏ còn sót lại mấy nhà túng bây giờ mới chạy được gà và rượu.

Mã Hợp cõng củi xuống chợ từ mùng bốn Tết - ngàv mở chợ.

Về qua trấn Lũng Vài, tạt vào mua ngụm rượu uống. Xem mở đố chữ, cho ấm bụng, rồi xem then, ở Lũng Nghìu không có then vào bao giờ.

Ở Lũng Vài năm ấy rất nhiều người qua lại, cái Tết lộn xộn khác hẳn mọi năm. Lũng Nghìu như cái hũ tối, chẳng trông thấy gì, nhưng Lũng Vài thì khác, người có ý, xem cảnh trấn Lũng Vài mỗi năm cũng thấy ra thời thế được.

Ngày ngày, người các nơi đổ đến lại cuốn đi, như sóng đánh bờ đá, không ai biết mặt ai. Bọn buôn bò ở Lạng Sơn sang. Bọn lái tép đi nhặt hồi. Các tay buôn kếch xù ở Hồng Kông mò xuống cùng với đại lý buôn thuốc phiện của công ty Việt Điền. Năm mới, họ chưa vào làng lùng hàng mà còn nằm đánh bạc, hút thuốc ngoài trấn để nghe mối các nơi ra bàn bạc giá cả. Không thể biết có bao nhiêu tay buôn thuốc phiện và súng lậu hay những người nào là tai mắt của kẻ cướp cho về nắm tin tức, hòng chõm một chuyến có thể làm ăn bẫm đầu năm - có khi vớ được ngay đầu ngõ, ngay trong phố. Vì vậy, mỗi sòng bạc, mỗi quán cao lâu lại phải thuê bóng vía và núp oai kẻ cướp để giữ tiếng cho cửa hàng mình. Còn lô cốt Ải Khẩu, còn quân quan trấn ải Nam Quan, mỗi lần có lính đi tuần qua hay xuống chơi - chúng đi qua và xuống chơi luôn, lính sà vào hàng ăn nào, ăn bao nhiêu cũng không mất tiền. Các sòng phán thán, tài xỉu, mạt chược, đố chữ, mỗi ngày, khi dốc tiền hồ, được bao nhiêu mặc kệ, cứ đặt cọc riêng ra đấy một trăm để lính ngoài ải vào thu. Càng lộn xộn tợn. Năm nay thêm đám địa chủ các vùng giáp huyện Long An chạy sang Lạng Sơn từ hồi Long Châu đỏ, bọn này cùng một phường con buôn và kẻ cướp, hai năm bây giờ mới mò về đến đây mà chưa dám về hẳn, còn dùng dằng, đắn đo nghe ngóng thêm, nhân có tiền trong tay thì vung ra tiêu cho hả cái trận hút chết vừa qua.

Trấn Lũng Vài, lèo tèo thường ngày. Tết này bỗng đông hẳn. Mọi năm, khi xuân đến, các làng xung quanh lần lượt vào hội lùng tủng thì trấn Lũng Vài đón khách đã sẵn có hai nhà đố chữ và sòng tài xỉu. Năm nay thêm mấy hiệu nữa. Nhà Đại Hoà tận bên Kỳ Lừa cũng đút tiền quan Tàu coi cửa Nam Quan cho sang thuê nhà mở sòng và cao lâu. Lại những hàng vịt quay Thất Khê, Thất Khê trên bến dưới thuyền thế mà cũng ngất của sang tận đây! Hàng phở chua ở Cây Khế, ở Quán Hồ cũng kéo sang. Rầm rập, nhốn nháo đêm ngày, sầm uất như các thị trấn bên Lạng Sơn khi vào mùa hồi.

Mã Hợp thì thấy vẫn thế. Bởi vì, vui nhiều hay ít đã có đồng tiền đo trong người, mà Mã Hợp thì chẳng có đồng tiền nào để đo cả.

Mã Hợp vào phố. Cái áo bông đen đã rách còn ẩm sì và trĩu những nước ở bó củi rích xuống, cả miếng da trâu để đệm bó củi nặng bị nước ngấm bốc mùi tanh khẳn vẫn đắp nguyên trên vai. Năm mới cũng như năm cũ, vẫn như hôm cuối năm về qua đây. Chỉ có cái đầu trọc trắng hếu là mới như Tết.

Một người đương đứng xem mở chữ, đến ghé tai Mã Hợp hỏi:

- Ở Lũng Nghìu phải không?

Mã Hợp nhìn người lạ rồi khẽ gật đầu.

- Có còn nhớ anh mình ở Long Châu không?

Mã Hợp lúng túng, người kia nói thêm:

- Anh Năm mà.

Mã Hợp reo:

- Nhớ chứ! Nhớ! Anh Năm bây giờ đã về Long Châu à?

Người kia nói:

- Anh Năm nhắn Mã Hợp đi thăm anh...

Mã Hợp cười hiền lành. Tưởng như bay được đến Long Châu thì bay ngay, nhưng rồi lại ngơ ngác nhìn người lạ. Làm sao đi nổi Long Châu? Người ấy nhìn trước nhìn sau, lặng lẽ rút trong túi ngực ra đệp giấy bạc đếm đủ năm mươi đồng.

- Anh Năm cho tiền đi xe ngựa đây.

Mã Hợp vẫn cười, lắc đầu, khó khăn:

- Chẳng ma nào dám đi Long Châu rồi.

Người vùng này đều biết đường đi Long Châu bây giờ ghê lắm, đã từ lâu không ai dám đi. Đây lên Long Châu, những cánh cướp to đã chia nhau trấn giữ bắt các làng nuôi và để cướp đường. Quanh Bình Tường, có bọn Chu Kim Tỉnh, ở Bình Nghi thì Tô Khải Phong, vùng Bản Kiền có Triệu Đình Mậu, Hà Phương Sơn. Quanh Long Châu có đám Hoàng Ký Thần, Sằn Minh Lường, bên Hạ Đống thì Chính Hiền... Đấy mới nói những cánh cướp to có hàng trăm tay súng. Từng bọn nhỏ hai ba người, thuê súng nhà giàu đi cướp, được về chia đôi, đám này đông như kiến cỏ, vài bước đã đụng phải.

Từ ngày Long Châu đỏ, địa chủ chạy xuống, cướp cũng dồn xuống, dày đặc cả một dải vùng giáp giới Cao Bằng, Lạng Sơn đến Móng Cái. Các làng hẻo lánh ở cách bức chỉ nghe đồn thổi lẫn lộn chuyện Hồng quân chia ruộng cho người nghèo, chuyện cướp bắt đóng thuế bằng gạo, chuyện quan quân các tỉnh kéo đi đánh nhau, tuyệt nhiên không biết thật tình thế hiện nay ra sao. Các đồn binh Pháp bên kia, được dịp này hóa ra tốt, đã khỏi khó nhọc lại phát tài. Địa chủ đi trốn Hồng quân muốn qua biên giới, phải mất tiền, muốn ở trong làng, ở ngay Đồng Đăng hay xuống tận Kỳ Lừa hay Đồng Mỏ, hay Hà Nội lại mất tiền nữa. Các toán cướp cả hai bên đi tìm đất cướp thì đi lại, ăn tiệc thường ngày với quan đồn. Có người lạ vượt biên giới, nhất là những hội kín, làm cách mệnh, bên kia động tĩnh gì thì quan quân Quốc dân đảng sang báo Tây, gặp đồn nào báo đồn ấy, báo ngay.

Người ấy bảo Mã Hợp:

- Không lo, Mã Hợp à. Anh Năm dặn lúc đi đường thì nhớ làm hiệu: buộc cành bồ quân vào sau mui xe bên phải. Nơi nào chưa tin, giữ lại thì đưa giấy này, sẽ qua được, nhất định thế.

Mã Hợp cất cẩn thận cái thiếp có dòng chữ “Lưu Minh Hạ Long Châu tu giới xưởng” lên túi áo ngực.

Người ấy lại dặn:

- Đến Long Châu, hỏi Lý Phàn Len ở phô Lùng Hù Cái... Cứ thế, cứ thế nhé...

Tối hôm ấy, cả xóm Lũng Nghìu đã biết Mã Hợp được tin anh Năm.

Ngày Thụ và Chi đi rồi ai cũng mong. Không phải chỉ vì hai người thanh niên vui tính mà xóm Lũng Nghìu mong những người cách mệnh. Từ ngày giặc Pháp chiếm nước ta, các vùng biên giới ở Lạng Sơn được chứng kiến, cứ mỗi thời kỳ có cuộc khởi nghĩa chống Pháp không xong lại từng đợt người khắp các nơi trong nước chạy lên phía bắc, vượt sang Trung Quốc. Người hai bên biên giới lúc đầu chỉ biết đấy không phải là lái buôn. Họ không hút thuốc phiện, họ có súng mà không ăn cướp, gặp ai cũng chỉ nói về chuyện đánh thằng Tây. Thấy thế, người biên giới hiểu cách mệnh là to lớn và việc chung thế ai  cũng thương, khi nào có người cách mệnh đến thì vượt núi đưa đi, tránh mắt thằng quan hai Đồng Đăng, cả bọn lính Quốc dân đảng cũng không biết. Họ đưa người cách mệnh một chặng đưòng, rồi lại trở về cặm cụi, mòn mỏi sinh sống trên mảnh rừng cằn cỗi, mù mịt. Khi có ngưòi cách mệnh khác đến thì trong lòng họ lại thấy trở lại những mơ ước. Đến lúc người đi rồi lại nhớ. Không biết gì về cách mệnh xa xôi, nhưng lòng mong mỏi được gặp lại cách mệnh đã thành một ý nghĩ, một tình cảm đầm ấm như ánh lửa sưởi và soi sáng trong lòng, năm nào, họ cũng đoán: cách mệnh sắp trở lại. Nhưng vẫn chỉ thấy nhiều người đi qua. Khi nghe tin Long Châu đỏ, không thấy Hồng quân tới, nhưng nghĩ bụng: cách mệnh của ta sắp trở lại. Nhưng cũng không thấy, lại mong.

Xóm Lũng Nghìu nghĩ đến Thụ và Chi còn một thương yêu và tình cảm sâu sắc khác. Thụ và Chi người Lạng Sơn. Thế là cách mệnh không xa nữa, cách mệnh đã đến Lạng Sơn, đến Cao Bằng, con cháu người Tày người Nùng đã đi cách mệnh. Cõi đời thay đổi đến nơi. Chắc người già còn được trở về nơi có mồ mả ông bà ở bên Ma Mèo và có khi được thấy cái vui đấy.

Cho nên, nghe đã bắt được tin Thụ ở Long Châu, ai cũng mừng. Mẹ Mã Hợp càng mừng. Mã Hợp sửa soạn đi Long Châu. Mẹ gói cho Mã Hợp hai nắm cơm.

Nhiều người đến hỏi:

- Mã Hợp đi bây giờ?

- Anh Năm dặn đi Long Châu ngay mà.

Ai cũng trố mắt:

- Đi thế nào?

Câu hỏi có nhiều ý nghĩa và những băn khoăn. Mã Hợp lấy ra cả năm mươi tờ giấy bạc, để rải ra dưới đất.

- Anh Năm cho đấy.

Sự sung sướng tràn lên tất cả các nét mặt đến nỗi chợt có một lúc không ai nhớ ra nỗi nguy hiểm dọc đường Long Châu nhiều cướp. Mọi người chỉ bồng bột nghĩ gọn: anh Năm gọi Mã Hợp đi Long Châu. Cách mệnh có gì khác rồi.

Dãy xe ngựa đỗ chen kín mui trước chợ Ải Khẩu, nhưng hỏi có đi Long Châu, thì người đánh xe nào cũng lắc đầu. Chẳng ai dại! Ở đây tải người buôn, người đi chơi, chuyến nào cũng cầm chắc như vận đỏ được bạc, tội đâu mà lặn lội vào chỗ chết bây giờ. Mãi sau Mã Hợp phải bỏ cả năm mươi đồng đưa trước tiền khứ hồi, người đánh xe nọ tham món tiền to mới liều nhận đi.

Mã Hợp buộc một cành bồ quân còn đầy lá cao ngất ngưởng sau mui cánh phải tay xe rồi lên ngồi luôn chỗ ấy. Bồ quân mùa này xanh bóng, lá nõn đỏ hay trên ngọn. Như những chùm hoa nở, lắc lư theo vó ngựa.

Người đánh xe nhìn cành bồ quân, nghĩ đến cách làm trừ tà của thầy cúng và hỏi Mã Hợp:

- Bây giờ mày đổi nghề làm ông tào đi Long Châu cúng à?

Mã Hợp không trả lời. Còn người đánh xe thì yên trí cái thằng bán củi đầu trọc này mới học nghề thầy cúng. Cả vùng đã biết nó xưa nay hái củi bán chợ. Bây giờ phải bỏ vốn xông pha đi cúng vùng khác cho có tiếng dần về thì người ta mới tin được.

Đường đi Long Châu qua Bình Tường, chỉ mới đi được có mười mấy cây số mà đã khó nhọc và mỗi lúc càng lo lắng đầy. Không một bóng khói. Không một vết chân trâu. Đã lâu, đường cái không có người đi. Chiếc xe ngựa ấy lọc cọc chạy, một mình, vắng quá, chốc lại ngừng. Bốn phía lào xào như hàng trăm người sắp chồm đên. Nhưng đấy chỉ là tiếng những cơn gió vưóng núi vừa xoáy vừa rú xuống những đầu rừng xung quanh. Đến chỗ quang núi thì người đánh xe và cả Mã Hợp phải giơ dao phạt ngọn cỏ tranh và lau sậy hai bên ngả rạp xuống, đóng con đường lại, lối đi chỉ còn bằng cái lỗ chui. Chiếc xe chạy luồn vào, gió đuổi ù ù hai bên. Người ngồi trên xe lúc nào cũng sắp giật mình. Giữa trưa mà ngẩng đầu lên chỉ thấy mù mịt. Không biết trời tối hay cơn mưa. Những xóm năm trước lơ thơ ven đường, bây giờ đã biến đâu vào đám cỏ vàng ấy, chỉ còn vết lại những cây mơ nở hoa trắng rợn mắt.

Trước mặt, thốc lại một mùi hôi khẳn. Không phải hơi hổ thối. Bởi vì con ngựa vẫn xoải mạnh, không sợ. Ngựa chỉ sợ hổ, nhưng người đánh xe thì tái mặt, răng cắn bạnh hai vành quai hàm. Người đánh xe biết đấy là mùi xác người chết. Tự nhiên, Mã Hợp cầm chặt cành bồ quân.

Nhưng rồi đâu đấy lại trong trẻo phẳng lặng. Không thấy gì lạ. Lát sau, lại qua một quãng có mùi người chết. Một lúc, lại sặc sụa hôi thối. Người bị cướp giết chết, dọc đường nhiều quá. Cứ một lúc lại có mùi. Không ai trông thấy xác người, nhưng mùi thối nặng nề như phủ cả lên mặt và quần áo, có lúc ngửi bàn tay cũng thấy.

Đến một quãng rừng thưa. Có hai người cầm súng trường đột nhiên nhảy ra.

Người đánh xe cuống quýt quay đầu lại:

- Thế nào... thế nào...

Mã Hợp quát:

- Cứ đi!

Cái xe ngựa xồng xộc lao vào hai ngưòi kẻ cướp giương súng đương trố mắt nhìn cành bồ quân nhảy lung lay trên thành xe. Cái xe ngựa cứ lao vào. Hai kẻ cướp giạt cả sang bờ lau, tay vẫn nhăm nhăm chĩa ngọn súng theo.

Đi thật xa, những người ngồi trên xe mới thấy cái lưng nhẹ dần.

 

*

*          *

 

Một phiên chợ Ải Khẩu sau, Mã Hợp trở về Lũng Nghìu.

Cả xóm ngỡ nó sống lại. Hôm Mã Hợp đi rồi cả xóm mới bừng nhớ ra đi đường Long Châu bây giờ một còn mười chết. Không ai tưởng Mã Hợp lại có thể về Lũng Nghìu được chóng thế. Vậy mà Mã Hợp về thật rồi. Vừa tới đầu xóm đã nói toang toang. Lại xúng xính trong bộ áo bông lính, hai cái tay ngay đơ như thằng người bằng bột. Đầu đội mũ có lưỡi, lại như ông quan trên cửa ải. Thật kỳ lạ.

Cả xóm xúm lại hỏi. Mã Hợp nói to một câu trước nhất:

- Cách mệnh nhiều nơi lắm rồi.

Rồi Mã Hợp kê đến chuyện cành bồ quân của anh Năm có quyền lực bí mật cắm trên xe. Hàng chục lần, rõ ràng trông thấy cướp trong núi xô ra ngay trước mặt. Họng súng cứng thẳng, đen hoăm hoắm. Thế mà kẻ cướp chỉ nhác thấy cành bồ quân tự dưng tay kẻ cướp buông hẳn xuống. Cái xe mình thong thả đi qua, thong thả đi qua, oai quá. Cho đến tận Long Châu.

- Cách mệnh to lắm rồi, anh Năm bảo thế. Người nghèo khắp nơi đều theo cách mệnh đứng lên. Ở bên Tàu cũng như ở bên ta, không theo Tây, không theo Quốc dân đảng, không làm kẻ cướp, chỉ có theo cách mệnh, ta chỉ biết theo cách mệnh, cách mệnh càng chóng thành công. Anh Năm bảo thế.

Ai cũng săn đón hỏi:

- Bao giờ anh Năm về?

Buổi tối, mẹ mới thong thả hỏi Mã Hợp:

- Thằng Năm nhà mình có mạnh khoẻ như ngày ở đây không?

- Khoẻ.

- Cách mệnh trên ấy có đem giết nhà giàu như ở Hạ Đống không?

- Mình còn phải giết thêm thằng Tây nữa chứ!

Mẹ hiểu: giết thằng Tây mới lấy được đất nước, nhà mình mới trở lại được Ma Mèo. Mẹ biết thế.

Nhưng chồng chất những cái khó đấy. Tây ở Đồng Đăng, ở Kỳ Lừa, khắp đất nước, nhiều lắm, làm thế nào đi khắp mà giết cho hết. Thôi để bao giờ thằng Năm về, hỏi lại xem làm thế nào.

Bấy giờ đương tháng ba. Hoa gạo cũng mói nhú đỏ. Người xưa lo đến khi hoa gạo nở mới được cất bớt áo. Mẹ chẳng có áo cất đi, đêm tháng ba mẹ cũng rét thế mà đêm nay cứ nghĩ quanh nghĩ quẩn, quên cả cái lạnh rớt mùa đông vẫn buốt hơi đá.

Đầu tiên Mã Hợp rủ Khén Chang và Khì Chang đến nhà. Hai người ấy cùng trạc tuổi và thân nhất xưa nay.

Ba người mải chuyện bên bếp, không biết đêm đã vào khuya lúc nào. Mã Hợp nói lại những cái đã thấy và những điều mà Thụ đã dặn ở Long Châu. Trong những mới lạ vừa xem ra được ý nghĩa to lớn quá. Phải, ai củng cứ chịu thế này mà không biết cựa quạy thì thằng Tây kìm hãm ta cho đến chết thôi, chẳng còn gì nữa. Chạy mãi, chạy mãi sang tận nước nào thì cũng thế, cũng khổ và chẳng thấy được ở đâu còn có nước ta đâu: cả xóm Lũng Nghìu hàng trăm con người không biết nổi một chữ. Cả tỉnh Lạng Sơn hàng nghìn vạn con người, có mấy người biết chữ thì cũng đếm được. Có ai biết chữ đâu. Ai dạy cho mà biết! Thò cổ đi đâu cũng không được. Thằng Tây mà còn ở đây, giá có bao giờ về được Ma Mèo thì cũng chỉ đến đi phu rạc đời... Hết phu đường Văn Mịch, lại đường Bình Độ, đường Pò Mã, song lại quay xuống đường mới Bản Dạc. Ôi thôi, người Việt Nam còn sống mà chưa đuổi được thằng Tây đi thì thằng Tây còn bày ra trò làm đường sá cho nó dễ đem khố xanh, khố đỏ đi giết người khắp nơi... Ta nhất quyết bảo nhau làm cách mệnh, đánh đuổi thằng Tây, thằng quan đi. Anh Năm đã được trông thấy người bên Trung Quốc đánh đuổi quân quan rồi, ta cũng sẽ làm được thế. Bắt đầu làm cách mệnh thì lập tổ ba người một. Mỗi người đóng cho cách mệnh mỗi tháng một xu, đến hẹn đóng một xu thì đi gặp nhau bàn chuyện, thế gọi là một xu của người cách mệnh... Ba người một tổ, sống chết có nhau... chết cho cách mệnh thì không biết sợ...

Mã Hợp nói:

- Anh Năm bảo việc làm ngay trước tiên là phải biết giữ bí mật. Ba chúng mình một tổ, chỉ ba chúng mình biết với nhau thôi. Bằng lòng không?

- Cùng người nghèo phải thằng Tây đuổi bỏ đất Ma Mèo đi thì một bụng giống nhau từ lâu rồi.

- Bây giờ chia từng việc mà làm. Tôi đi giao thông. Khén Chang hay chăn trâu xuống Nam Quan thì lúc nào cũng xem được bọn quan quân ở đấy nhiều hay ít, công việc nó thế nào, đi tuần đâu, gác đâu, có súng gì, để ở đâu. Khì Chang thì tiếp tế. Tôi hay đi bán củi thì phải biết mò thám bọn quân quan Quốc dân đảng ở Nam Quan, bọn Tây ở Đồng Đăng. Biết rõ nó thì lúc đánh càng dễ, lại phải học canh gác, lại thuộc giờ tàu chạy ở các ga Quán Hồ, ga Tam Lung để phòng khi đi đón cách mệnh. Anh Năm dặn ba người thế. Bằng lòng không?

- Bằng lòng rồi.

Đến tận gà gáy vẫn chưa cạn chuyện Long Châu. Bắt đầu từ đêm nay ở trong cái hốc núi hẻo lánh tận cùng ấy, có ba người thanh niên dân tộc Nùng đã thấy được trên đời không phải chỉ có mỗi một nỗi khổ cho tất cả những người nghèo, mà cuộc sống còn có cách mệnh và việc làm của cách mệnh. Những người nghèo sẽ làm, như anh Năm mình đã nói rằng đã biết rồi thì làm mãi, chết người này ngưòi khác thay, làm cho đến khi tiêu tan nỗi khổ và không còn thằng Tây, thằng quan nào trên mặt đất nữa.

Logged
hoi_ls
Thượng tá
*
Bài viết: 5098



« Trả lời #13 vào lúc: 25 Tháng Tư, 2022, 04:38:06 pm »

*

*          *

 

Vào quãng cuối mùa xuân năm sau, có một người trắng trẻo, cao lớn, quần áo dạ đen, mũ lưỡi trai, giầy nhung đen mới, tuyết còn ánh lên. Đáng chú ý nhất là cái xe đạp cao lênh khênh. Hồi ấy, cả vùng hai bên cửa ải Nam Quan cũng chưa mấy ai đã trông thấy cái xe đạp.

Người thanh niên nọ đi từ Long Châu đến Bản Đảy, có vẻ thông thạo, anh dắt xe đạp, đến thẳng nhà Lình Kín Piao.

Nhà Lình Kín Piao xưa kia ở đầu xóm.

Nhà Lình vốn tiều tuỵ, bây giờ ba mặt vách đã rơi tuông xuống hết. cả nhà chỉ còn đúng một bức tường hậu, mưa cũng đã bào trơ ra chỉ còn từng miếng gạch đất luyện trống hốc.

Giữa nền nhà, ba con trâu đương loay hoay chen nhau trên vũng bùn, bỗng đứng im, nghếch mõm lên nhìn người lạ.

Người ấy cũng đứng nhìn mấy con trâu, bâng khuâng một lát, rồi bước sang bên nhà hàng xóm và hỏi thăm:

- Nhà ông Lình đi đâu?

- Quân trên huyện Long Châu đến bắn chết năm trước rồi.

- Còn cái Oi đâu, các bác ơi!

- Không biết.

Khách cúi chào, rồi bước nhanh ra.

Cô gái hàng xóm đứng trong nhà, nhìn theo, nói:

- Trông ai như cái anh bên Lạng Sơn sang Bản Đảy hồi Tết năm xưa. Chỉ khác có chiếc xe đạp...

Thụ về Lũng Nghìu.

Cứ vào mùa hè thì Lũng Nghìu nằm dí xuống giữa khe núi trũng, bức không thở được. Nắng tây dọi thui người.

Vào đến trong nhà rồi mà mẹ trông vẫn không ra. Nhưng Thụ thì nhận ngay được ra mẹ trước nhất vì miếng áo vá. Ba năm trước, ngày Tết, mẹ mặc cái áo vá hai miếng vai to tướng. Câu ví “Hoa gạo xuống đất, người già cất chăn” không đúng với mẹ. Bây giờ, giữa những ngày nắng đổ lửa, vẫn một cái áo đụp có hai miếng vá đây. Không còn sức đâu, không có cách nào mà trồng bông, xe sợi, dệt vải, nhuộm chàm, chẳng may nổi cái quần cái áo. Thụ nhớ lại ở Long Châu đỏ, cuộc biểu tình nào, cuộc đấu tranh nào cũng toàn các bà, các chị gầy xanh xám. Xưa nay, các chị chỉ ở trong nhà. Bây giờ họ đi biểu tình hàng đầu. Người phụ nữ nước ta có nhiều nỗi khổ nhất, Thụ đã hiểu tại sao.

Thụ bước vào giữa nhà, nói to:

- Thằng Năm đây, mẹ ơi!

Mẹ đã nghe tiếng, mẹ móm mém cười tự nhiên, ung dung, như đã biết thế nào cũng có ngày hôm nay Thụ về, và mẹ hỏi Thụ:

- Thằng Sáu đâu?

Thụ nói:

- Sáu chưa về được, mẹ à.

Thụ bây giờ cao hơn hẳn năm trước và tiêng nói ồm ồm vang nhà. Thế mà mới cách mặt có hơn hai năm. Hơn hai năm, niềm hy vọng đẹp đẽ của người thanh niên đi tìm lý tưởng vẫn nguyên vẹn và càng đinh ninh. Gian khổ, bão táp trên đường Vũ Hán và Long Châu đỏ không khiến Thụ sờn lòng mà càng làm cho Thụ tin một ngày kia cách mệnh Việt Nam sẽ tới, đất nước được giải phóng, những làng mạc nghèo khổ thế này phải được sung sướng. Thụ cũng như Hùng, như Chi, chưa ai qua lớp huấn luyện nào. Khi còn Lạng Sơn, nghe tiếng đồn bên Bản Đảy có lớp dậy cách mệnh của đồng chí Hội. Thụ náo nức được tham dự. Nhưng bây giờ Thụ không còn nghĩ ngây thơ như năm trước. Những thực tế đã trải, những điều đã nghĩ, chuyện các bậc cha anh bỏ nước đi làm cách mệnh, những mưu lược của mỗi người khác nhau đã cho mỗi người một hướng đi tới.

Riêng với Thụ và các bạn, những ngày Hồng quân đến đưa nông dân nổi lên lập chế độ Xô Viết làm cách mệnh tự giải phóng và tổ chức xã hội của mình từ Long Châu đến tận Hạ Đống, Thụ đã thấy được con đường cách mệnh đi về đâu. Con đường cách mệnh đã rõ ràng, chỉ có chủ nghĩa cộng sản và theo gương hoạt động của Hồng quân Trung Quốc thì tới được thắng lợi, tới được tất cả những ao ước rất thơ mộng nhưng thật thiết tha của những người thanh niên đứng trên cầu Kỳ Lừa, nghe tiếng bom Sa Diện của Phạm Hồng Thái vọng tới: Nưóc Việt Nam sẽ độc lập và tỏ mặt với bốn bể năm châu. Phải, chỉ có chủ nghĩa cộng sản mới đưa ta tới được mục đích cao cả ấy. Cho nên, những người trẻ tuổi càng quyết tâm. Ngọn lửa nhiệt tình tự lòng mình hun lên, bừng cháy, cao mãi và càng toả nhiều sáng kiến.

Bây giờ họ đã thạo. Nỗi lo miếng ăn không phải lúng túng và gắt gao như năm trước nữa. Thụ vào làm tu giới sở. Hùng lên Nam Ninh nhờ anh em mua sợi, mua tơ rồi về Cao Bằng, Lạng Sơn đón người sang Long Châu, dựng khung cửi dệt vải, dệt lụa. Còn Chi đã bỏ đứng máy xay xát. Chi vào hẳn Nam Ninh quan quân học hiệu, trường quân chính của quân phiệt Quảng Đông. Được nhà trường nuôi ăn và cũng vì cách mệnh ta cần biết quân sự. Bây giờ họ đã biết tính chuyện trước mắt và đường dài.

Đã nghĩ kỹ, chuyến này về Lũng Nghìu, Thụ muốn tự mình bắt tay làm một việc cụ thể của cách mệnh. Năm trước, Thụ và Chi cùng Mã Hợp đã ăn thề. Tấm lòng thiết tha vẫn một niềm, nhưng ngày ấy Thụ còn chưa hiểu rộng ra được như bây giờ và lời thề sống chết có nhau trước cái chén đập vỡ, bây giờ Thụ mới hiểu thấm thía hơn.

Hai năm nay, Thụ đã gặp và nghe chuyện nhiều người làm cách mệnh từ trong nước ra hải ngoại. Ông Tôn Thất Thuyết tan mộng phò vua thì cũng vừa hai tay buông xuôi ở Thiền Quan đất khách quê người. Ông Đặng Tử Mẫn bôn ba cả một đời đi khắp Nhật Bản, Xiêm La, Trung Quốc chỉ nghĩ cách nào đánh được cái đồn Tây, rồi vì cả tin, mà nên nỗi chết thê thảm. Ông Phan Bội Châu không đi Nga, ông do dự rồi... Và những người nhụt chí sinh ra há miệng chờ sung, nằm hút thuốc phiện trong buồng riêng quan Tàu chờ thời như Nguyễn Hải Thần. Còn những người ngã lòng, tìm đường yên thân, làm thợ may thợ mộc, lấy vợ có con, lấy nghề nuôi thân nương náu quê người. Đồng chí ngày trước có đi qua vẫn mời vào nghỉ chân, nhưng khi nghe kể lể hoàn cảnh bây giờ trói buộc thì đồng chí cũng không nỡ nhắc chuyện cũ...

Tất cả chỉ càng khẳng định cho Thụ bước vào con đường cách mệnh của quần chúng và càng nghĩ càng biết yêu quý người anh em kết nghĩa của mình. Và Thụ đã gọi Mã Hợp lên Long Châu. Để Thụ nói rằng: Chúng ta sẽ thực hiện lời thề năm trước, con đường cách mệnh chúng ta sẽ cùng đi. Quần chúng thì to rộng cả nước, hôm nay hãy còn đau khổ lặng im, nhưng khi đã biết vùng lên rồi... Những ngày Long Châu sôi sục hôm qua đấy. Những anh em ở xưởng Nam Hưng đều chỉ biết lo chạy máy lên Nam Ninh mà chưa thấy được sức mạnh của quần chúng trước khi họ đứng dậy.

Thụ về Lũng Nghìu.

Ba năm trước, qua biên giới, chưa nghĩ ra như bây giờ, nhưng trong lòng đã cảm thấy mơ màng cách mệnh cũng là một cái gì giống như những người nghèo đương ở cái xóm người Nùng khổ cực này. Vì thế, đã cùng Mã Hợp kết nghĩa.

Tối hôm ấy, Thụ ngồi sưởi lửa với Mã Hợp và Khén Chang, Khì Chang. Nực cười, ba năm trước, mình náo nức đi tìm “lớp huấn luyện”. Cái lớp huấn luyện rất ao ước, mình không gặp và chắc cũng không bao giờ có như mình tưởng tượng. Nhưng cái lớp huấn luyện rộng lớn và dữ dội của đời sống ba năm nay đã dạy mình biết cách hôm nay mở lớp huấn luyện ba quần chúng cách mệnh đầu tiên cho cách mệnh Việt Nam của mình.

Thụ xúc động nói:

- Chúng ta là cách mệnh cộng sản, các đồng chí ạ.

Khì Chang nói:

- Tôi muốn rủ Nông Chảo Pin vào cách mệnh cộng sản có được không?

Thụ đáp:

- Người tốt thì được.

- Thế nào là người tốt?

- Người tốt không bao giờ đi bán cách mệnh cho quan Tàu, quan Tây lấy tiền, lấy tạ muối. Người tốt là người nghèo, biết giữ bí mật việc cách mệnh không nói ai biết. Người tốt là người biết làm việc cho cách mệnh, sống chết vì cách mệnh.

- Thế thì Nông Chảo Pin được.

Mã Hợp nói:

- Mỗi tổ cách mệnh chỉ được có ba người để giữ cho bí mật. Bây giờ thêm Chảo Pin thì một mình Khì Chang đi lập tổ với Chảo Pin rồi đứng đầu bên tổ ấy.

Khì Chang nói:

- Chảo Pin cùng hay chăn trâu xuống Nam Quan, cho nó công tác mò thám thằng lính ở Nam Quan.

Thụ nói:

- Phụ nữ mà đi giao thông cho cách mệnh thì khéo lắm, quân địch không biết được, ta phải chú ý tổ cách mệnh có phụ nữ.

Rồi Thụ xoè hai bàn tay, nói:

- Các đồng chí à, khắp nơi, ở đâu cách mệnh ta cũng có tổ chức ba người, làng nào cũng có, tổ nào cũng lập ra việc trinh sát, bảo vệ, giao thông, huyện nào cũng có, khắp tỉnh Lạng Sơn có, khắp tỉnh Cao Bằng, cả nước có, rồi cả nước đứng lên đánh thằng Tây, thế là cách mệnh ta thắng.

Hôm sau, lúc nhà vắng, mẹ hỏi Thụ:

- Mẹ già thế này mẹ có vào cách mệnh cộng sản được không?

Thụ nói:

- Được, mẹ ạ. Cả nhà ta đã được hơn một tổ. Nhà nào cũng thế thì cả nước thành tổ cách mệnh đấy mẹ ạ.

Mẹ nghĩ đuổi theo câu Thụ nói. Cách mệnh của mình, có cách mệnh thì cái gì cũng của mình làm nên. Khác bây giờ đời mình cũng không phải của mình, bởi vậy làm nên cái gì cũng bị mất, đến quê mình cũng không được ở.

 

*

*          *

 

Vừa bảnh mắt đã nghe lao xao trước cửa nhà Mã Hợp. Cái xóm thường lặng lẽ, bỗng đầy tiếng trẻ con cười ngặt nghẽo. Một lũ trẻ xúm xít quanh một đứa khác đương ngồi chầu hẫu trên một mẩu gỗ cao. Thụ đứng xoay quanh, nghiêng ngả, ngắm nghía. Tay cầm con dao, vênh cong hai ngón út, điệu khi cạo đầu. Tiếng dao đưa sồn sột. Mỗi lần rơi xuống một nạm tóc bết dầy kệp lộ mảng đầu trọc hếu, lũ trẻ lại cười om. Hai đứa khác, đầu đã sạch trũi, cứ đứng giũ tóc con rồi cười, xoa lẫn đầu nhau một lúc.

Thụ mới về được một hôm mà đã quen khắp mặt trẻ con và ngoài cửa cứ ríu rít từ sáng sớm như thế.

Đột nhiên, ở đâu về, Khén Chang bước vào, ghé tai Thụ:

- Sen cháng (1) sắp đến hỏi giấy...

Thụ nói:

- Đã có cái bịt mắt nó rồi, không lo.

Mã Hợp bàn:

- Bảo là anh em ở Long Châu về bắt tắc kè ngâm thuốc mà.

Thụ vẫn thản nhiên, còn cạo rốn cho xong nốt cái đầu một em bé nữa rồi mới xếp dao và hòn đá mài bọc cẩn thận vào khăn tay, xách lên như chiếc khăn gói cơm nắm.

- Ừ, cứ bảo là anh em Long Châu về bắt tắc kè.

Nói đến tắc kè bao giờ Mã Hợp cũng hào hứng. Thấy Thụ đã bằng lòng nói như thế, Mã Hợp thích chí nói, quên cả xung quanh:

- Bây giờ đương mùa tắc kè bò trong hang đá ra gọi nhau đi chơi rồi, anh Năm à. Anh Năm nghe tiếng tắc kè gọi nhau kìa. Con non chỉ có sức tắc lưỡi năm tiếng là cùng. Con to hai lạng trở lên thì kêu được bảy tám, chín tiếng... Nghe tiếng tắc kè cũng đoán được nó đương đứng trong hang hay ngoài hang. Tắc kè kêu nhiều, thì trời sắp mưa... Chốc nữa đi bắt tắc kè thật nhé. Anh biết đấy. Thò cái que, có khi thò ngón tay vào hang cho tắc kè cắn mà lôi ra. Cứ nhanh là được!

Mã Hợp đương nói, thôn trưởng tới. Thôn trưởng này coi mấy xóm dân. Thôn trưởng không ở Lũng Nghìu, chắc hôm qua nhân việc vào gọi phu nên biết có người lạ mà đến tra xét. Thôn trưởng xách cái gậy gỗ, làm vẻ oai. Nhưng cũng không thấy oai. Quan trong xóm, chẳng có một mống lính hầu, lại mặc cái áo chàm vá một miếng bằng cái quạt giữa lưng, không khác người dân mấy. Có lẽ thôn trưởng cũng cảm được thế. Khi trông thấy Thụ mặc áo dạ, tóc cắt gọn kiểu người thị trấn, mặt thôn trưởng không còn nghênh nghênh như lúc mới bước vào.

Thôn trưởng hỏi:

- Ở đâu về trộm đây?

Thụ lách tay lên túi áo lấy giấy. Thôn trưởng cầm tờ giấy xoay lên xuống, hó háy mắt đọc mãi chưa vỡ hết chữ. Thụ nói như đọc hộ:

- Lưu Minh Hạ, công nhân xưởng cơ giới, người chính phủ Long Châu.

- À, đọc thấy thế rồi, mình cũng đọc thấy thế... Lưu Minh... không, đừng oán nhé việc của tôi cứ thấy người lạ thì hỏi, không ghét ông đâu.

- Tôi không có tờ giấy thế này thì ông có ghét tôi không?

Thôn trưởng cười hề hề. Thụ lại nói:

- Chính phủ Long Châu có cho ông đồng nào mà ông đi tra xét giấy người ta. Đừng làm ác nữa nhé. Ác quá, bao giờ Hồng quân trở về, lại vào Long Châu thì ông theo ai?

- Ông là người Chính phủ mà ông doạ tôi thế a?

- Tôi không doạ, tôi bảo thật, đừng mất công đi hỏi giấy, đừng đi báo hương trưởng, báo quan nữa. Ai đến ai đi, mặc người ta. Tôi ở thị trấn, được nghe nhiều tin tức lắm rồi. Bây giờ Hồng quân như năm trước chiếm Long Châu thì nhiều nơi nổi lên cũng như Long Châu rồi. Nhỡ một cái, mất đầu dễ như bỡn. Ở Bó Cục này đấy, Hồng quân đã nhổ tiệt giống địa chủ, ông biết rồi.

Mã Hợp vào trong hóc cột lấy ra hai cái dây thép dài. Thôn trưởng không biết nói thế nào nữa, quay sang, lẩn thẩn hỏi Mã Hợp:

- Làm gì đấy?

Mã Hợp cười, trả lời để đuổi thôn trưởng:

- Ngưòi anh em này ở Long Châu về muốn đi lấy tắc kè ngâm rượu thuốc. Ta lên núi bắt tắc kè bây giờ đây.

Ngồi ngẩn thêm một tí rồi thôn trưởng lẳng lặng đứng dậy. Bỏ quên cái gậy gỗ.

Thụ và Mã Hợp trèo lên dãy núi ngay trước nhà. Bấy giờ đã bắt đầu mùa tắc kè rời bỏ những khe đá sâu thẳm, bò ra tìm đôi đi kiếm ăn. Con đực gọi con cái cách rừng, khắc khoải thâu ngày thâu đêm.

Nhưng trèo ba quả núi vẫn chưa được con nào. Có lẽ những con tắc kè ở quanh nhà đã bị bắt cả, còn sót con nào đều sợ Mã Hợp mà chạy xa cả. Phải leo một đỉnh núi nữa mới móc được có chú tắc kè bằng hai ngón tay. Mã Hợp nói:

- Hôm nay mát trời, tắc kè không ra.

Thụ gọi:

- Mã Hợp này.

Mã Hợp quay lại, hỏi:

- Muốn về à?

Thụ đáp:

- Ta trèo một lát nữa, tìm phía nhìn về Đồng Đăng xem.

Hai người chuyển sang mỏm núi khác.

Thụ nói:

- Đường cách mệnh cũng khó nhọc như leo núi thế này, nhưng hết khó sẽ đến chỗ nhìn thấy Đồng Đăng, chỗ ta muốn xem, Mã Hợp nhỉ. Người Nùng Cháo, Nùng Phàn Sình, Nùng Inh, Nùng Ang... người Nùng ta đã bao đời lang thang xuống phía nam, đến cùng người Tày làm ăn trong một cánh đồng, một cái nương, một con suối. Nhưng nào có tìm ra chỗ ở đâu được. Lại đói, lại giặc, lại đi, chẳng đi chỗ nào đến chỗ thoát cái khó nhọc. Mã Hợp có thấy người nghèo bỏ đi chỗ nào cho được yên?

Mã Hợp đáp thật thà:

- Phải bỏ bên Ma Mèo sang đây mới yên đấy.

- Không yên đâu.

- Thì đi cách mệnh.

Thụ nói:

- Mã Hợp nói phải lắm. Có đi cách mệnh, mai sau mới yên vui được.

Những dây phong lan hoa vàng thõng xuống treo mùi thơm lửng lơ trước cửa hang. Chấm cứt tắc kè đã khô trắng bệch như ai quệt vệt vôi vào chỏm đá. Mã Hợp lúi húi, lại móc được một con tắc kè. Ngón tay trỏ của Mã Hợp bị tắc kè cắn đã thành chai dày cộp. Ngón tay thò vào hang, từ từ rút ra, chú tắc kè còn đương cắn, chưa kịp nhả, đã bị ghì cổ, cong cả bốn chân lên.

Thụ trông ra xa, hỏi:

- Phía nào thấy Đồng Đăng?

Mã Hợp xâu chân con tắc kè vào sợi dây thép rồi ngẩng lên, trỏ tay:

- Phía này.

Hai người men sang vách núi trước mặt, đứng tựa vào tảng đá nhìn xuống phía nam. Đằng ấy, trời xanh trong veo, hé một mảng nắng trên những cánh rừng hồi Văn Uyên đằng chân trời, tưởng như đứng tận đây cũng thoáng ngửi mùi thơm cây hồi chín.

Mã Hợp trỏ tay:

- Anh có trông thấy đường cái quan Đồng Đăng đi lên Nà Sầm kia không? Cả đường xe lửa bên cạnh nữa. Như cái thang ngoằn ngoèo trắng đấy. Chỗ ngắt quãng bên này là đường hầm tàu hoả cầu Tà Lài phu dưới xuôi lên phá núi làm đường hầm chỗ ấy chết nhiều lắm.

- Có phải Ma Mèo xế dưới.

- Cốc Nam thì chỗ này. Tết năm kia, hôm cuối năm kia chúng mình về Phạc Lạn, phải cúng thằng xã đoàn Cốc Nam hai chai rượu chỗ ấy...

Thụ lặng im, không nói. Nhưng trong lòng bồi hồi. Cánh rừng hồi Văn Uyên vẫn hoe nắng đằng ấy tưởng in như ba năm trước. Nhưng những bâng khuâng dần nén đi. Ai bây giờ thế nào. Chuyện đã qua rồi. Thụ bỗng nói to hẳn, như reo:

- Ừ nhỉ, tớ nhìn rõ cả cái bót trước cửa đồn thằng quan hai trên đồi Đồng Đăng trông ra Cốc Nam kìa.

- Trông suốt lên tận Khơ Đa được đấy. Nó cốt làm đồn trên đồi cao để canh đường mà.

Thụ nói:

- Nhưng không bao giờ nó canh nổi cách mệnh đâu. Đường cái ở trong bụng cách mệnh, thằng Tây không thể nhìn thấy mà đường cái kia cũng không phải của thằng Tây. Chúng ta sẽ làm được như thế.

Thụ ngắm kỹ ngọn núi tròn lù lù vờn bóng xuống che kín một quãng đường số 4, chỗ xóm Khơ Đa lên.

Thụ nhìn một lát, rồi hỏi Mã Hợp:

- Núi đá kia có hang không?

- Hang Áng Cúm đấy.

- Mã Hợp lên hang Áng Cúm bắt tắc kè bao giờ chưa?

- Nghe nói ngày xưa các cụ có chạy loạn lên thôi, nói hang to lắm, cả làng vào được, bắc cối giã gạo đấy, lại có suối trong hang, tha hồ ở hàng tháng cũng được.

- Hay!

- Hay gì kia?

Thụ bảo Mã Hợp:

- Mai ta lên hang Áng Cúm.

Hôm sau, Thụ và Mã Hợp đi sớm.

Những cái hang trong các ngọn núi đá rỗng ở Lạng Sơn có một cuộc sống nghìn năm, đã nhà khảo cổ nào hiểu hết chưa, không biết, nhưng người ta chỉ biết những toà nhà của con người thời tiền sử, đến bây giờ vẫn là nơi cho ngừời ta chạy cướp, nơi giấu của, nơi âm thầm và trung thực giữ những của cải còn lại, che chở cho lòng mong muốn và chí khí, tinh thần không chịu khuất phục của con người sống vất vả chống thằng Tây, thằng kẻ cướp và các quan quân trên biên giới.

Người bắt tắc kè hay trèo lên hòn đá tảng cao để tìm ra hang mới. Lên chỗ thật hóc hiểm, tưởng chưa ai vào bao giờ, nhưng đến khi đốt đuốc dọc các khe, thấy cái cối đá, cái chày gỗ đã mủn và đá xếp bậc thành giường cẩn thận. Có khi còn xương người -người lớn, trẻ con, xương dài ngắn chồng đống. Trông vẫn nguyên, nhưng động đến thì nát rơi ra như bụi. Đấy là hang mà người cả làng chạy vào rồi bị cướp lấp cửa. Đấy là ngày xưa, quan quân đánh nhau, đám thua chạy vào hang, bị chẹn cửa. Hay đấy là những thù làng truyền kiếp, làng được khuân đá lấp cửa hang cho làng thua chết hết. Và những vách đá ẩm ướt kia đã chứng kiến đời này qua đời khác bao nhiêu mưu chước dựng cờ khởi binh, nhưng rồi việc lớn không thành. Người tráng sĩ ở mãi trong hang, chết lặng lẽ.

Trông ngược lên ngọn núi lớn, chỉ thấy cây si, cây duối cằn cỗi mọc từ trong đá, cũng xám màu đá, giữa lưng đá toác một cái miệng lớn, chếch thoai thoải xuống nhưng đứng dưới không trông thấy.

Ở cửa hang nhìn ra người dưới núi trèo lên, nom rõ người đi lom khom từ lúc mới bắt đầu vào chân núi.

Núi đùn lớp lớp như tường thành giăng ngang trời.

Thụ hào hứng nói:

- Mã Hợp à, đứng đây ta mới hiểu chí lớn của cha ông mình. Lịch sử Việt Nam ta từ khi dựng nước, đời nào cũng coi Lạng Sơn vừa là nơi thủ hiểm lại là cửa ngõ đi ra với thiên hạ... Quỷ môn quan, đi không bao giờ về... đất Chi Lăng trùng điệp kia đã thành tên trong lịch sử từ khi nước ta có sử. Chỉ đến nhà Nguyễn hèn hạ mói để mất nước. Nhưng đất Lạng Sơn chúng ta, Mã Hợp biết không, thằng Tây lên chiếm Lạng Sơn cũng không dám qua Chi Lăng, nó phải luồn phía Đình Lập lên. Nó sợ mà. Quỷ môn quan, đi không bao giờ về... Đất Chi Lăng ghê thật, Mã Hợp ạ. Chúng mình phải lấy lại được đất Chi Lăng lịch sử, chúng mình là người mang tiếng thơm của cha ông...

Đường ô-tô Nà Sầm như cái máng nước sáng nắng loáng qua dưới chân. Tưởng như đứng trên này, chỉ một phát súng bắn xuống có thể trúng đỉnh đầu người đi.

Mã Hợp bảo Thụ:

- Đứng đây trông thấy từng mái nhà xóm Khơ Đa, ở bên ấy nhà ai mở cửa dóng cửa nặng tay trên này cũng nghe tiếng, thế mà bảo là hai nước thì buồn cười!

Rồi Mã Hợp hỏi Thụ:

- Có phải cách mệnh cộng sản thì ta không chia ra các nước nữa, phải không anh Năm?

 

*

*          *

 

Các vùng núi Lạng Sơn đều có nhiều hang. Mỗi quả núi đá như cái chuông úp rỗng lòng. Các làng ven núi đều biết với nhau những hang kín, khi có loạn, có cướp, thường cả xóm, cả làng chạy vào hang to, có suối, có lối ra lối vào và ngách thượng thông lên tầng khác.

Chẳng bao lâu rừng hồi chín đã lại sẫm xanh và thơm cả mùa thu Lạng Sơn rồi. Những cơn heo may sớm từ phương bắc xuống tràn vào vùng thảo nguyên lòng chảo Lộc Bình, làm úa vàng từng trái đồi trơ trọi.

Mã Hợp đến bảo Khì Chang:

- Hôm nay có công tác tiếp tế. Khì Chang xay ngô nhé. Ngày kia thì đi.

Khì Chang mang cái tay nải chàm đựng ngô xay đến nhà Mã Hợp từ sáng sớm.

Mã Hợp ghé tai:

- Lên Áng Cúm. Đừng cho ai thấy. Vào đằng cửa hang thấp. Đi ngay đi.

Khì Chang lên hang Áng Cúm.

Trèo nửa buổi tới cửa hang, mồ hôi còn đương chảy loá cả mắt, đã thấy Thụ ra tươi cười đứng đấy, giơ tay đỡ cái túi trên vai Khì Chang xuống.

Khì Chang ngơ ngác hỏi:

- Anh Năm ở hang à?

Thụ nói:

- Mình làm cách mệnh đánh thằng Tây nên phải bí mật thôi.

Khì Chang mới nhớ dạo trước đã học bí mật. Khì Chang không hỏi nữa. Bây giờ để ý, thấy Thụ mặc cái áo Nùng cũ, như người Lũng Nghìu đi lấy củi. Cách mệnh phải bí mật như thế. Trong hang, có mấy người đã ở sẵn đấy. Mỗi bước, Khì Chang lại thấy nhiều cái lạ lùng hơn. Hình như có người đến thì cái hang đỡ lạnh. Cũng có thể vì có một đống củi đương cháy đỏ ngòn giữa hang. Ánh lửa nhảy giỡn làm cho Khì Chang lúc đầu tưởng trong hang có nhiều người. Dần dần lại càng thấy thêm nhiều cái thật đặc biệt. Chỗ này, những thân cây kê rất gọn thành cái giường lát cỏ tranh. Bên nhũ đá, tiếng nước nhỏ lách tách, có cái bếp đèn cồn đặt đấy để đun nồi gì không biết. Bình đựng dầu vàng nhoáng màu đồng. Ngọn lửa bốc xanh lè. Cách đấy, một phiến đá đẽo phẳng như mặt bàn. Một chồng giấy xén đều như thấy vàng hương trên chõng hàng của người hàng xén chợ Đồng Đăng. Một người ngồi gò lưng cặm cụi đặt từng tờ xuống mặt cái hộp vuông tối om lem nhem, xoa mấy cái rồi nhấc lên, đã thấy những chữ đen líu ríu dính vào tờ giấy. Một người khác nằm phủ phục cầm bút đương nắn nót viết. Chăm chú đến nỗi tưởng không biết có người vào. Tờ giấy có chữ đen để trên mặt ván gỗ, sát ánh lửa.

Cái cảm tưởng của Khì Chang là thấy cách mệnh thật đẹp và gọn ghẽ. Ở trong hang khúc khuỷu, tối tăm thế, có người cách mệnh, đã ra một vẻ công việc nền nếp, đâu vào đấy, lạ lùng.

Từ hôm ấy, cứ vài hôm một lần, Khì Chang được phân công đem ngô lên Áng Cúm. Dần dần, trời trở lạnh. Mọi công việc trong hang quây quanh vào đống lửa to. Vẫn thế, có người viết, có người in tờ giấy. Có khi Khì Chang thấy vắng Thụ. Có khi thêm người lạ khác. Nghe tiếng nói, đoán người Hạ Đống, người Kinh hay người Cao Bằng. Họ đi lối nào lên hang, chưa lần nào gặp. Chỉ biết bao giờ cũng thấy trong hang sẵn người. Chắc vì Khì Chang chưa biết hết các lối lên. Đường tắt từ các làng xung quanh Áng Cúm, còn Bó Sa, Ải Khẩu và Khơ Đa bên Lạng Sơn sang, nhiều phía lên được, nhưng xóm nào biết xóm ấy, không ai rõ hết. Thế mà những người cách mệnh đã thông tỏ.

Một hôm, Thụ quảy hai chiếc bồ trúc, chặp tối về đến Lũng Nghìu. Vào đến trong nhà mà cũng không ai biết. Không phải vì trời tối, mà cả nhà tưởng lão vá chảo về muộn, ghé vào Lũng Nghìu ngủ nhờ. Đến khi Thu giơ tay, lột cái khăn quấn to như cái rế vòng trên đầu vắt xuống vai, rnọi người mới reo lên: Anh Năm! Anh Năm!

Thụ bảo Mã Hợp:

- Có công tác mới đây. Chú cầm ba đồng bạc làm vốn, với quang gánh và đôi bồ này. Từ nay tới cuối năm, Cốc Nam, Khơ Đa, Tà Lài, mỗi xóm ta phải lập nên một tổ cách mệnh, công việc bắt đầu mở mang rồi.

Thụ bàn với Mã Hợp cách thức lập tổ.

Rồi Mã Hợp xuống trấn Lũng Vài hỏi mua miến và hai hũ rượu ngon. Thụ cẩn thận cạo cho Mã Hợp cái đầu trọc mới, trắng phốp. Người già trong xóm vui vẻ nói: “Anh Năm bây giờ cấp vốn cho thằng Mã Hợp đi buôn, lại làm cho cái đầu mới thế kia thì phát tài rồi”. Mã Hợp muốn nói: “Mình đi buôn cho cách mệnh đấy thôi”, muốn nói lắm, nhưng nhớ công tác bí mật anh Năm dặn, lại không dám nói.

Mã Hợp nhanh nhẹn quảy gánh, quần xắn móng heo quá gối, chiếc nón cói rộng vành úp kín lưng như ngưòi buôn bán đổi vai thường qua lại các làng.

Mã Hợp sang Cốc Nam trước tiên.

Mấy hôm sau về, Mã Hợp bảo Thụ:

- Được cả rồi. Nhưng cái gánh hàng này khó đi lắm. Đến khi không ai mua nữa cũng hết hàng rồi thế mà chưa làm tổ cách mệnh xong cứ ở trơ đấy thì xã đoàn nghi ngay. Tôi phải nghĩ ra cách khác đây. Bây giơ được làm người Nùng có nghề vá chảo thì tha hồ đi, đi đâu ở đâu cũng được mà không phải bỏ vốn cho bán chịu bán tiền ngay lôi thôi, anh Năm à.

- Ừ nhỉ. Thế mà mình không nghĩ ra.

- Bây giờ anh Năm dạy tôi vá nồi vá chảo nhé.

Cơ chừng Mã Hợp tưởng đã là người cách mệnh thì cái gì anh Năm cũng phải biết. Nhưng may, anh Năm biết vá chảo thật. Vốn tay thợ chữa súng thì việc hàn nồi vá chảo có coi mùi gì.

Thụ đi mấy hôm rồi khuân đâu về ít chì vụn, miếng tôn, miếng kẽm, cái bễ con, cái búa, cái kìm mỏ dài. Hai anh em ngồi kì cạch tập vá. Cứ đem vá nồi hộ khắp xóm Lũng Nghìu. Những mảnh chảo gang đun cám lợn để gác bếp cũng lấy xuống vá. Chẳng mấy lâu, Thụ và Mã Họp đã thạo nghề. Thụ cùng Mã Hợp quảy gánh đi vá chảo trong vùng mấy hôm. Để nghe tình hình làm ăn ra sao. Và dạy Mã Hợp vá thật thạo đã. Sau đó Mã Hợp đi một mình. Quang gánh bồng bềnh len lỏi các làng. Anh người Nùng vá chảo. Người các làng nhớ anh vá chảo vai to, lưng phẳng, đi nhanh như chạy. Vá giỏi mà lấy tiền rẻ. Xóm nào cũng biết tiếng.

Cứ theo gánh đồ nghề vá chảo, tổ cách mệnh phát triển ba người một từ Cốc Nam xuống Tà Lài, lần lần rộng ra thêm.

 

--------------------------------------------------------------
(1) Sen cháng: Thôn trưởng.
Logged
hoi_ls
Thượng tá
*
Bài viết: 5098



« Trả lời #14 vào lúc: 25 Tháng Tư, 2022, 04:39:09 pm »

*

*          *

 

Cách mệnh đã phát triển như con nhện chăng lưới, mạng dần dần lan ra khắp nơi. Công tác cách mệnh mỗi lúc bước vào sâu, màng lưới càng chồng chất. Như thế là cơ sở đã có người, có việc như một hình thù cụ thể trên một dọc làng biên giói. Bây giờ là lúc vào những thử thách - những thử thách mới trong bước tiến lên của cách mệnh.

Từ bao nhiêu năm nay, thằng Tây chỉ biết chặn đường không cho cách mệnh ta qua biên giới. Bây giờ thằng Tây sẽ được biết cách mệnh ta sinh ra ngay ở các vùng biên giới, đứng ngay ở đây mà đương đầu với chúng nó. Những người hàng ngày nó thấy, nó khinh rẻ hoặc nó hành hạ đã trở thành những người cách mệnh, sẽ khiến nó phải lo lắng, phải khiếp sợ. Cảm động biết bao nhiêu, khi ta chuẩn bị, sắp sửa đội ngũ cách mệnh bước vào đấu tranh với quân thù. Công phu suy nghĩ, sức lực bấy lâu nay sắp được thử thách. Thụ cẩn thận cân nhắc đi lại rồi hồi hộp, hăng và quyết tâm bước vào cuộc thử thách của keo đầu trận đánh.

Có một cuộc họp tổ trưởng. Các tổ trưởng ở Cốc Nam, Ma Mèo, cả Lũng Nghìu. Còn bên Khơ Đa thì Mã Hợp đương sang rủ. Phải xem tinh thần anh em mình đã được như thế nào đây.

Vào cuộc họp, Thụ lấv trong tay nải chàm ra một tệp truyền đơn.

- Các đồng chí ạ, đây là những tờ giấy có tiếng nói của cách mệnh, gọi là tờ truyền đơn. Tờ truyền đơn này có sức mạnh làm cho trăm nghìn vạn người ở rất xa ta cũng biết đến cách mệnh. Thằng Tây sợ cái truyền đơn này nhất. Trong truyền đơn, cách mệnh viết rằng: Nước Việt Nam ta đông hơn hai mươi triệu người. Thế mà thằng Tây và bọn vua quan phong kiến là một số ít người mà chúng dám chiếm hết đất, lại còn bóc lột người ta đến lòi xương tuỷ, nghèo khổ suốt đời không ngóc đầu lên được, cả nước bây giò đã nhất quyết đứng lên theo cách mệnh, đánh bọn Tây và bọn phong kiến lấy lại đất nước, lấy lại sô phận mình, làm cho cách mệnh thành công. Chúng ta có nhiệm vụ đem truyền đơn này phát từng tờ ra khắp mọi nơi, cho ai cũng nhặt được, cứ xem thấy chữ truyền đơn viết như thế mà tỉnh ngộ. Công tác này quan trọng, các tổ phải bàn kỹ rồi đi đấu tranh mới thắng lợi được.

Truyền đơn được chia cho người đi Nà Sầm, xuống chợ Điềm He, người ra Đồng Đăng. Tổ của Mã Hợp, cả ba người đi Kỳ Lừa, xa nhất. Anh Năm bảo: Làm cho Tây thấy khắp Lạng Sơn có vết chân người cách mệnh rồi.

Cả anh Năm cũng đem truyền đơn đi với tổ công tác Nà Sầm.

Bây giờ chúng ta đi theo công tác của tổ Mã Hợp xuống Kỳ Lừa.

Mã Hợp và Khén Chang, Khì Chang sang Đồng Đăng lấy vé tàu đi Kỳ Lừa. Anh Năm dặn thế. Anh Năm cứ cẩn thận dặn kỹ thế chứ có gì đâu, đưa cho người ta cầm, nói cho người ta nghe hiểu mới khó, chứ đem truyền đơn đi đêm tối rồi đặt mỗi nơi một tờ, ai làm việc ấy chẳng được. Mã Hợp nghĩ thế.

Họ vào tỉnh ngay từ chập tối, như những người về chợ sớm. Khén Chang thì đi thong dong thả từng tờ quanh trại lính khố đỏ ở Tểnh Tống. Như người hóng mát!

Khì Chang vào trường học Pháp Việt phố Đông Kinh. Cửa mỗi lớp đặt mấy cái. Còn thừa mấy cái. Viết nốt đi. Không, mình đứng ở ngoài đường. Cái tờ giấy viết công phu của cách mệnh, không được vứt. Những chiếc đèn điện gió đánh lúc lắc nhấp nháy. Khì Chang cầm nốt truyền đơn đem ra, vừa đi vừa nghĩ rồi nghĩ ra mẹo đút mỗi tờ vào khe cửa từng nhà ngoài phố. Cửa nhà đốc học Tây, nhà chánh kho bạc còn đèn sáng và con chó lài sủa ông ổng. Cóc sợ! Khì Chang mò đến ném một tờ vào tận trong cửa sổ nhà lão chánh kho bạc!

Xong việc, hai người lần lượt quay lại chợ - như người các châu xa về chợ sớm thường hay suốt đêm nằm ngồi chen chúc trong các cầu chợ đợi phiên mai.

Các quán chợ Kỳ Lừa trong tỉnh, hai cánh mái dài thượt, đêm trông càng lùn tịt xuống thấp lúp xúp. Trong bóng tối nghe ơi ới bay ra những câu hát tỏ tình tiếng trai ề à, tiếng gái thanh thảnh, nhũng nhẵng, buồn bã. Quanh chợ, những hàng phở chua, đèn điện đỏ đục, loé như thắp dưới nước, đèn măng xông trắng phếch và ánh đèn hơi đất xanh xanh lung lay, mùi hôi hắc. Người tấp nập cả đêm như con thiêu thân bay quanh ánh sáng. Nếu để ý nhìn kỹ thì thấy ra vào các hiệu cao lâu, các nhà chứa thổ, gá bạc toàn khách buôn xuôi ngược và những người được bạc, người thua bạc.

Trai gái các châu về chợ không đem theo tiền chỉ có những câu than vãn, tình tứ, ôi thôi cũng dỗi bõ và đợi chờ, tiếng hát cứ đối đáp kéo lê suốt đêm lủng củng trong quán chợ tối om. Nghe giọng biêt góc này đám trai Lộc Bình, bọn Điềm He. Cầu chợ bên kia nữa đương vẳng lại tiếng Chi Lăng nằng nặng. Lại nghe người Đông Khê nói hơn hớt nhẹ, đã ra giọng Cao Bằng rồi. Có đàn tính phảy phảy chỗ ấy, thong thả, từng tiếng lững lờ. Cánh Đông Khê về chợ bao giờ cũng xách đàn theo.

Chẳng có gì mà phiên chợ nào cũng đông. Mùa đào Mẫu Sơn, các làng Dao xuống chợ. Lê vườn Thoát Lãng, mật ong rừng Bình Thành, mận vườn Tràng Định theo trai gái Tày về chợ. Những cô Nùng đất đồi trọc Lộc Bình khéo tay, đem về tấm vải chàm mới. Mấy anh trai Đông Khê chịu khó quảy ghế trúc bên Cao Bằng về tranh khách nghề trúc Cao Lộc. Mùa nào thức ấy, họ đem các thức ra chợ bán lấy cái ăn đường. Chẳng có gì thì ngày mùa cũng đeo túi đi tay không về. Tuổi trẻ bao giờ cũng ao ước vui chơi.

Hai anh thanh niên Nùng đi rải truyền đơn qua chợ, bảo nhau: “Đứa vui hay đứa buồn thì rồi cũng thấy giấy của cách mệnh gọi cả”. Nói thế rồi thích chí, hai chàng Khén Chang và Khì Chang cũng chen vào hát đối đến tận sáng. Cũng để đợi Mã Hợp nhân thể. Tiếc không còn tờ truyền đơn mà cho anh nào ở đây biết chữ đem về đọc to lên cùng nghe. Tối như bưng mắt, chẳng ai trông thấy ai, giá có mật thám ngồi lẫn cũng không thể biết ai đưa cách mệnh đến được.

Tảng sáng, đông người các nơi đến đã ồn ào cả bốn nách chợ. Sao chưa thấy Mã Hợp trở lại. Rồi sáng bạch ra hẳn.

Bỗng xôn xao đằng kia tiếng ai nói: “Có giấy hội kín! Cồ giấy hội kín!”. Rồi ầm ầm như vỡ chợ. Những người nhút nhát nhớ chuyện năm nào quân ông đội Ấn vào đánh tỉnh cũng bắn súng đánh nhau với Tây từ sáng sớm thế này. Càng rối lên. Cả bốn cầu chợ Kỳ Lừa tan tác, không nghe tiếng súng mà sao nhốn nháo thế. Rồi vỡ chợ.

Tiếng đồn khắp Lạng Sơn có cộng sản đưa giấy về lấy tỉnh như bên Long Châu rồi.

Trong khi đó, hai người bình tĩnh chạy len chân ngược sang tỉnh. Chỉ để tò mò xem lại những chỗ đêm qua rải truyền đơn. Vừa qua cửa ga, thấy đám lính bồng súng rầm rập toả ra. Trông lên đầu đường đã thấy đội cu-lít đứng dăng hàng liền khít khuỷu tay. Không dám đi nữa, không chờ Mã Hợp nữa, họ tạt vào nhà ga, đợi tàu ngược.

Lúc ấy, Mã Hợp đã bị khoá tay nằm trong nhà giam bên quan châu, cũng ngay cạnh nhà ga ấy.

Mã Hợp đem mỗi cái truyền đơn bỏ vào một cửa từng nhà khắp các phố bên tỉnh, cửa Nam, cửa Bắc, Ba Toa bỏ hết, cả tỉnh sẽ được đọc. Về đến đầu cầu thì đã khuya quá nửa đêm. Lúc ấy, bên tỉnh đã động. Nhưng chưa phải động vì truyền đơn. Mà vì đêm ấy, đằng cuối tỉnh, có cướp về đốt cháy cả xóm Đồng Trận. Trại lính khố đỏ, lính cơ, cả lính gác phủ Cao Lộc, lính gác cầu Kỳ Lừa đều phải báo động ngay từ nửa đêm.

Bọn lính gác cầu bật đèn pin soi vào mặt Mã Hợp. Mã Hợp chạy. Lính đuổi, túm được, bắt luôn về dinh quan tuần.

Quan châu xách ba-toong đến. Vừa thấy Mã Hợp, quan vụt luôn một thôi rồi mới hỏi:

- Những đứa nào với mày dám to gan về tỉnh giết người đốt nhà? Bọn mày đâu? Vờ đi một mình à? Che thế nào được mắt quan.

Nó hỏi thế thì Mã Hợp biết mình không có gì đáng nghĩ. Hai cái vai vác củi đã thành chai của Mã Hợp mà bị đánh thì chỉ thấy ê đi, cũng không sao cả. Còn công tác cách mệnh của Mã Hợp không phải việc thằng kẻ cướp, không có gì đáng nghĩ mà trả lời. Mã Hợp nói:

- Không phải tôi.

- Thế mày biết thằng nào?

- Không biết.

- Mày còn cái tội tại sao trông thấy lính lại dám chạy?

- Từ thuở mẹ tôi đẻ ra tôi, lúc nào trông thấy lính tôi cũng vẫn phải chạy thế. Tôi sợ nó bắt tôi về hầu. Tôi thấy lính ở Đồng Đăng, tôi phải chạy. Lính Tàu bên Nam Quan tôi cũng phải chạy. Chẳng tin quan lên chợ Đồng Đăng, chợ Ái Khẩu hỏi xem có phải thế không?

Quan châu lại gặng:

- Thằng này đêm qua về tỉnh giết người. Đúng mày. Tao biết rồi. Khai cả bọn ra thì tao tha.

Cái gậy quan châu dí xuống đầu. Nó hỏi thế thì nó cứ hỏi và hỏi đến sáng, hỏi đến rời quai hàm mồm nó ra cũng thế thôi. Thỉnh thoảng Mã Hợp quát trả lời nhát gừng:

- Không phải tôi.

Một trận gậy lại vút vút.

Đến sáng, quan tuần vào buồng giam. Quan tuần khác quan châu, không đánh. Quan tuần bảo:

- Ông biết rồi. Thằng này còn gan to hơn kẻ cướp. Thằng này về tỉnh ném truyền đơn cộng sản. Ông biết rồi. Bọn mày mấy thằng đi ném truyền đơn?

Mã Hợp im. Bây giờ quan tuần này mới nói đúng. Có thế chứ. Việc mình là việc cách mệnh, một tay cách mệnh rải ra một tờ giấy, mỗi tờ giấy cách mệnh cho bao nhiêu người cả nước được trông vào đấy mà thức tỉnh dậy. Nghĩ thế, Mã Hợp thấy bình tĩnh hẳn và lại cứ dửng dưng, không để ý câu doạ “ông biết rồi” và cũng không lo sợ gì. Hỏi mãi Mã Hợp mới thong thả nói:

- Tôi đi bán củi. Cả đời tôi chỉ đi bán củi. Các quan mày cứ lên chợ Đồng Đăng mà hỏi thằng Mã Hợp bán củi thì khắp chợ ai cũng biết.

- Mày ở Đồng Đăng mà về tận đây bán củi à? Láo!

- Tao về nhà thương xin thuốc.

- Đồng Đăng cũng có thằng phiếc-me (1) rồi.

- Nó đéo có thuốc!

- Mò đi đêm xin thuốc là lẽ thế nào?

- Các quan mày chẳng đi xin thuốc thí bao giờ, nên không biết thôi. Phải về đêm thế, đến sáng sớm chen vào cửa nhà phát thuốc thì mới còn thuốc được.

Quan bí, vặn lại:

- Thằng này nói láo. Đúng mày rải truyền đơn cộng sản đêm qua. Khắp tỉnh. Gan cóc tía thật. Bọn mày đâu?

Rồi ngoái tay, lấy cái ba-toong song. Mã Hợp đương chăm chú nghĩ: “Mày làm quan tưởng làm gì hóa ra mày cũng chẳng nên được việc gì, chỉ biết ăn lương thằng Tây rồi đánh tao, từ đêm qua tối giờ chỉ đánh người mà cũng thành quan thì tao khinh mày”. Mã Hợp nghĩ xong, tức quá, văng một câu:

- Không biết.

Quan tuần lại giơ gậy. Mã Hợp bỗng kêu ầm lên rồi ôm hai tay lên tai, chạy quanh buồng tra. Thằng quan muốn đánh, nhưng đánh đuổi theo nó như thế, nhỡ nện vào chỗ phạm, nó chết hay nó què gãy làm sao, quan chánh liêm phóng Đăng Vít sẽ quở thì lôi thôi. Thành thử, quan tuần cứ giơ cái gậy, mặt xám đen như bộ ria vểnh, lúng túng đuổi mà không dám phết xuống.

Giữa lúc ấy, tiếng tê-lê-phôn reng reng kêu ngoài bàn giấy. Thầy thừa vào bẩm có lệnh giải thằng tù sang ngay ty liêm phóng. Quan đứng lại, Mã Hợp cũng nằm ệch xuống, rên rỉ kêu. Quan tuần sợ chậm lệnh ông chánh liêm phóng, sai cả đám lính xúm lại, lấy thừng trói Mã Hợp từ cổ xuông chân vào một cây tre dài - như con lợn sắp đem quay. Cứ thế khiêng Mã Hợp sang bên tỉnh, cả quan châu cũng phải áp tải, đi theo.

Mật thám Đăng Vít nói tiếng Tày sõi hơn cả quan tuần.

- Tên là gì?

- Mã Hợp.

- Mã Khánh Phương là thằng nào?

- Cũng thằng tôi thôi.

- Mày biết chữ quốc ngữ, biết chữ nho không?

- Tôi biết đi bán củi.

Đăng Vít lắc đầu, để tờ giấy lên mặt bàn. Nó bảo Mã Hợp ngồi ghế hẳn hoi. Lại đem cái bút chì đến, đưa Mã Hợp cầm. Mã Hợp đương ngồi xổm, đứng lên, ngồi vào ghế, nắm cái bút như cầm thanh củi đưa ngược lên một cái, tờ giấy rách toạc rồi lại đưa bút xuôi xuống, tờ giấy toạc đôi và gẫy cái ngòi bút. Đăng Vít cười khớ khớ, chửi:

- Mẹ thằng Thổ con bò này không biết chữ thật!

Rồi còn doạ:

- Giả vờ thì ông chọc tiết!

Sau đó, Đăng Vít mở một quyển sách to tướng vẫn để sẵn trên góc bàn, vẫy Mã Hợp đến. Tập sách dầy, mỗi tờ có cái ảnh. Toàn ảnh người mặt thật to.

Tây Đăng Vít mở thong thả từng tờ rồi hất hàm hỏi:

- Biết Hoàng Đình Dong ở Cao Bằng không?

- Ai?

- Ảnh nó đấy.

- Nó chít khăn mặc áo tốt thế, tôi áo rách thế này, biết thế nào được!

- Có biết Lương Văn Chi ở Điềm He không?

- Không.

Một tờ khác, rõ ràng Mã Hợp trông thấy có hình anh Năm mặc áo Tây, đầu chải mượt, thật đẹp. Đăng Vít dừng tay, nhìn trộm Mã Hợp rồi hỏi tự nhiên, nhẹ nhàng:

- Hoàng Văn Thụ đây.

Mã Hợp chớp chớp mắt. Đăng Vít gặng:

- Mày biết chứ? Người ở Nhân Lý mà.

- Không.

- Thôi được. Đố mày biết ai đây này?

- Không biết.

- Lê Hồng Phong tức Vương cao đấy. Mày không biết thì tao bảo thế cho mày biết để bao giờ thấy nó đến nhà, mày nhận mặt nhé. Ai đây?

- Không.

- Ai?

- Không biết.

- Nguyễn Ái Quốc, vua cộng sản mà mày không biết à?

- Tôi đi kiếm củi.

- Này củi này!

Đăng Vít co giày tây đạp thốc một cái giữa ngực Mã Hợp. Mã Hợp ngã lạng vào tường.

Mặt Đăng Vít tía găng. Cái mũi nó càng đỏ nhọn hoắt. Đăng Vít chặn một chân giày lên ngực Mã Hợp, hét:

- Ông thử mày đấy, ông hỏi chơi mày thôi. Mày vờ giỏi lắm, con ạ. Cả nhà mày chuyên nghề dắt cộng sản từ lâu rồi, từ khi mày còn bé kia. Ông thuộc mặt cả con mẹ mày, cả thằng Mã Thành Nhân bố mày. Mày tưởng trốn sang ở bên Tàu thì che mắt được ông à? Đừng nhầm, con nhé. Năm kia, thằng Thụ, thằng Chi trốn ra suýt bị lính Tàu giết ở Bó Sa rồi chúng nó xuống ăn Tết ở nhà mày, ông còn lạ gì, ông biết đến tổ chấy nhà chúng mày rồi, con ạ.

Rồi Đăng Vít quát:

- Đội Năm, cho thằng này xơi tí điện.

Đăng Vít vẫn chặn một chân lên ngực Mã Hợp. Nền nhà đã sẵn bệ xi-măng, có hai cái cọc sắt vừa tầm trói tay chân người nằm ngang chỗ này vẫn để tra tấn. Đội Năm ghì Mã Hợp vào đấy rồi vào buồng đem ra một cái hòm điện bằng gỗ như cái hòm đồ thợ mộc. Chỉ khác hòm này có cái tay quay và thấp như cái gối nhẹ nhàng để cạnh đầu. Mã Hợp bị nằm vật ra, còn đương ngơ ngác, chỉ kịp nghe vòng quay bắt đầu kêu rò rò đã thấy ruột gan lộn phộc, hai lỗ mũi cứ thở thốc ra như bò rống, thế là Mã Hợp trợn căng mắt, sùi bọt mép, ngật đầu xuống.

Lát sau, Mã Hợp tỉnh dậy. Đăng Vít lại thình thịch nện gót giày xuống ngực Mã Hợp, hỏi:

- Tung truyền đơn những đâu? Muốn sống thì khai ra.

Mã Hợp bần thần nhìn Đăng Vít, rồi từ từ lắc đầu, nhắm mắt lim him.

Ba hôm sau, đội Năm vào nhà giam, bảo Mã Hợp:

- Mày nghèo thế, trước tao ở Đồng Đăng tao biết, tao thương mày lắm. Làm người phải sống cho có miếng ăn đã, con ạ.

Giọng nó ngọt xớt. Nhưng Mã Hợp ở Đồng Đăng đã biết đội Năm ác đánh chết người không ghê tay. Cho nên, cái giọng ngọt xớt của nó Mã Hợp chỉ thấy nó bằng con dao sắc cứa cổ người ta.

Ừ, ai cũng phải lo cách sống đời mình. Cho được cơm ăn áo mặc, cho béo tốt, cho sung sướng. Nhưng cách gì thì cách, làm cái nghề ăn lương để chuyên đi đánh người đến chết như chúng mày thế này thì ác quá, không phải nghề của con người. Mã Hợp trả lời đội Năm:

- Ông nhớ ra tôi rồi, tôi chỉ biết có việc đi hái củi bán chợ Đồng Đăng.

- Tao bảo thật, mày gặp tao ở đây thì phúc nhà mày còn to đấy. Quan Đăng Vít đã biết hết nhưng nhờ có tao nói, quan thương, bây giờ quan tha cho. Bây giờ tao dặn nhé: mày về nhà, bao giờ thấy người lạ qua Lũng Nghìu thì chạy đi báo quan ngay. Phải cam đoan làm cách thế thì quan Đăng Vít mới bằng lòng.

À, cách ấy. Cách bán anh em lấy đồng tiền. Năm trước, quan hai Đồng Đăng cho thằng mật thám sang bảo mẹ tao một câu hệt như mày nói bây giờ. Mày bảo tao bán anh em lấy đồng tiền mua gạo à? Giống chó cũng không nghĩ như mày.

Mã Hợp lặng im một lúc rồi nói với đội Năm:

- Ông đội đã ở Đồng Đăng, công việc ông đi canh chợ ông đã đếm được cả mười hai tháng thì ngày nào tôi cũng vác củi về chợ bán. Chắc ông còn nhớ có lần tôi đánh nhau, tôi đánh người ta thế nào mà nhầm sang ông một cái, ông bắt tôi phải ba ngày về nhà hầu vợ chồng ông đấy. Thế là ba ngày hầu ông tôi nhịn đói. Rồi về tôi lại bán củi, tôi chẳng biết gì cả, tôi không biết ai đâu.

- Thôi, tao bảo đường khôn mà mày không nghe tao thì cho mày chết.

Những lời độc ác mà nó nói ra cứ gọn khéo như con rắn bò, Mã Hợp sợ con rắn bò, từ lúc ấy, Mã Hợp lặng im. Hỏi cũng không nói nữa. Chẳng hiểu Mã Hợp sợ hay Mã Hợp bướng.

Chẳng làm gì được, phải thả.

Đăng Vít đứng cửa, dặn mãi. Mã Hợp ra ngoài đường rồi nó còn nói với theo:

- Bao giờ thấy thằng Thụ về thì sang bảo quan ngay. Không phải về đây, cứ báo đồn Đồng Đăng cho nhanh.

Hôm ấy, Mã Hợp không về Lũng Nghìu. Mã Hợp trèo lên hang Áng Cúm. Mã Hợp gọi từ cửa hang:

- Anh Năm à...

Thụ ra ngay. Mã Hợp bíu vai áo Thụ, khóc:

- Anh Năm có lòng tin em không?

Thụ cười:

- Anh tin em cho nên anh vẫn ở Áng Cúm chờ em. Anh có lo em báo Tây lên Áng Cúm bắt anh đâu!

Mã Hợp nhìn kỹ Thụ rồi nói:

- Em thấy ảnh anh ở chỗ mật thám, mới trông hai con mắt, em đã biết ngay.

Tối hôm ấy, Mã Hợp ngủ lại trên hang. Câu chuyện kể đi kể lại, thấy tươi tỉnh ra. Thụ hỏi: sao phải bắt có mấy hôm mà trông tiều tuỵ quá. Mã Hợp nói với anh Năm là mình vì lo câu trả lời mà rộc người đi, chứ không phải vì đói, vì đánh mà gầy đâu.

Nhưng vẫn còn ấm ức lắm.

Mã Hợp than thở:

- Thằng Tây chửi mình áo rách thì đúng rồi. Nhưng thằng Tây chửi đúng vào chỗ mình không biết chữ thì tức quá.





-----------------------------------------------------------------
(1) Tiếng Pháp: Người y tá.

 

Logged
hoi_ls
Thượng tá
*
Bài viết: 5098



« Trả lời #15 vào lúc: 29 Tháng Tư, 2022, 11:10:17 am »

VI


Có một buổi sáng cuối năm, trên sân ga Nam Ninh.

Chuyến xe lửa giờ sớm đường Quảng Châu - Nam Ninh từ từ tiến vào dưới mái ga. Trong những hành khách sang trọng ở toa hạng nhất xuống có một người cao lớn, đội mũ phớt Mốt-xăng, áo pa-đờ-suy dạ hàng Ăng-lê hạng đắt tiền. Ông khách chỉ xách chiếc va-ly nhỏ đủ đựng mấy thứ cần dùng. Một tay chống chiếc can mun chạm bạc - như cái mốt thời ấy của một ông chủ hiệu ở tô giới Thượng Hải hay một nhân viên đại lý giá trị người châu Á làm cho một công ty tư bản nước ngoài.

Ông khách sang này ở Hồng Kông vào, hẳn đương đi một chuyến ngã giá hàng Tết qua mấy tỉnh nội địa. Cũng có thể đây là một tay buôn lậu quốc tế, buôn súng, kim cương hay thuốc phiện, đã có thói quen hay đi ăn mồi vào những ngày cuối năm, thuận tiện nhiều mặt. Năm ấy cánh quân phiệt Quảng Đông lại rục rịch đánh nhau vói cánh Quảng Tây. Bao giờ bọn quân quan các tỉnh đánh lẫn nhau cũng là dịp làm giàu cho các hãng và công ty lớn nước ngoài.

Tàu cuối năm càng đông khách buôn. Lính hải quan ga xe lửa Nam Ninh làm việc, xem hộ chiếu ông khách nọ thấy đề: Vương Nhất Dân, xuất nhập khẩu ngũ cốc, Hồng Kông.

Nhà buôn Vương Nhất Dân thong thả bước ra cửa ga, lúc người ra đông, đương tíu tít nhất. Tuy nhiên, nếu có lính kín Quốc dân đảng theo dõi sẽ phát hiện thấy ông khách nọ không như lệ thường của mấy người triệu phú ở Hồng Kông vào, bao giờ cũng lấy một chiếc ô-tô con đưa người và hành lý về khách sạn Tân cảnh của người Anh ở giữa thành phố.

Ra khỏi ga, ông Vương nhìn lại một lượt rồi rảo bước thật nhanh. Được một quãng, ông gọi chiếc xe xích-lô. Chiếc xe cũ của một người phu già cứ cọt kẹt, đủng đỉnh cong lưng lên đạp xiêu vẹo như bò ra.

Khách về nhà trọ Nam Ninh lữ điếm nhỏ bé đã cũ ở ngoại ô, phía Tây thị trấn.

 

*

*          *

 

Đến năm ấy, xưởng cơ khí Nam Hưng ở Long Châu dọn lên đã được ba năm. Tuy vậy, mới yên chân có ngót năm nay. Bởi vì Nam Ninh cũng không tránh được loạn ở các tỉnh đánh nhau. Hai lần quân Quảng Đông tràn qua Nam Ninh. Bùi sợ phải đốc thúc khiêng máy đi giấu ngoài thành. Anh em lại nương náu người mỗi nơi. Có khi giữa lúc chạy loạn, Hùng và Thụ lên đi tìm thạch, giấy sáp và mọi thứ in truyền đơn, không tìm đâu ra anh em, không gặp ai, tiền hết, Thụ lại phải giở dao kéo, lúc nào cũng giắt sẵn trong mình, vào chợ cắt tóc kiếm tiền ăn.

Tuy chìm nổi, nhưng mỗi lần lắp máy lại thì công cuộc làm ăn có chừng phấn chấn hơn.

Bây giờ xưởng máy Nam Hưng đã cơ ngơi trong một căn nhà ba tầng ở trung Sơn lộ giữa khu phố đông nhất Nam Ninh, ngoài cửa treo ba tấm bảng.

Lập xưởng máy, nhưng nghề may vẫn kiếm ăn được, Bùi không bỏ cái máy khâu, lại mở hiệu may với hai máy Sanh-gie mới.

Lại thêm Nam Hưng thạch ấn điếm. Nguyên do, Trang ở Vân Nam sang. Trang có hoa tay, thạo như Sơn. Máy móc gì, chỉ trông qua, cũng mày mò bắt chước làm được. Trang là công nhân lái tàu công ty hoả xa Vân Nam. Từ trước, Trang theo chí hướng cách mệnh của Đặng Tử Mẫn. Năm ông Đặng kéo quân đánh sang đồn Tà Lùng, một mình Trang ở tận Vân Nam cũng hưởng ứng. Trang lái đẩy cái đầu máy xe lửa của công ty lao xuống khe núi rồi trốn đi Quảng Tây. Lưu lạc tới Nam Ninh với anh em, Trang đi xem xét khắp thành phố tìm cách làm ăn rồi về bày ra nghề in đá. Trang đi quảng cáo nhà buôn, chương trình rạp hát, bao giấy hương, mài đá, vẽ chữ, lăn in, ba người làm ngày đêm không hết việc.

Thế là một Nam Hưng mở ra ba ngành. Xưởng máy lên đây cũng không làm xay xát. Ngoại thành ở xa, không có thóc đem vào. Vả lại, Nam Ninh đã có mấy xưởng máy xay xát rồi. Nhưng thành phố trên bến dưới thuyền, không thiếu việc. Máy điện, máy nổ ca nô, chất đống để chữa. Lúc nào cùng nhộn nhịp.

Nhà ngoài là xưởng máy. Gian trong, lò khâu. Phía sau, bếp và nhà ăn. Trên gác, một phòng là chỗ in đá. Buồng trong dài ra đến sân sau là nhà ở. Hơn hai mươi người trong nhà đều ở cả đấy.

Tầng thứ ba không ở hết, tiếc rẻ, Bùi cho một lão buôn hương liệu người Trung Quốc thuê lại. Lão lái buôn cũng chỉ thuê tầng này lấy chỗ trú chân khi đến Nam Ninh. Lão nay Hồng Kông, mai Nam Dương, không mấy lúc đến ở. Vì vậy, cũng chẳng khác xưởng Nam Hưng chiếm cả ba tầng đàng hoàng.

Hùng ở Long Châu lên Nam Ninh mua tơ cho xuống ca nô về Ngô Châu. Thụ lên tải giấy và mực về. May mắn, được Trang dạy cách in đá. Tờ truyền đơn từ nay ra không phải vất vả với bản giấy thạch và bản in đất nữa. Nam Hưng phát đạt, cách mệnh ở trong nước ra hay ở Xiêm sang có chỗ đi lại. Tiếng tốt đồn đi có khi bọn Nguyễn Hải Thần ở tận Khai Viễn hay Côn Minh đương tự nhiên cũng khiêng bàn đèn đến nằm vạ. Lâu quá, muốn đuổi lại phải cấp thêm tiền, chúng mới chịu đi.

Một buổi sáng, ngoài đường đã tấp nập người qua lại. Trong nhà, ở gian dưới, chỗ xưởng máy, đã đến lúc ồn ào nhất như thường ngày, khi các khách hàng ở bến đem máy nổ đến chữa, tiếng thử máy chạy rầm rầm với khói ét-xăng xanh khét lẹt. Gian trong, hai cái máy khâu chạy đều đều như ngựa bỏ nước kiệu, lấp giữa một đống quần áo chất đống cao lù lù trên sàn nhà, phải vào tận nơi mới trông thấy hai người đương đạp máy và một người thùa khuyết ngồi tận giáp tường. Hiệu Nam Hưng may khéo, đã được tiếng vì những bộ nữ kiểu Thượng Hải, vừa làm thầu vừa làm khách lẻ, cứ Tết đến thì đầu tháng chạp đã thôi nhận hàng. Chỉ có chỗ in đá là êm ả nhất. Thỉnh thoảng, nghe tiếng nước rửa đá rỏ lách rách. Và chốc chốc giọng khàn khàn của anh Trang buồn tình đưa mấy câu trống quân.

Cả ba cửa hiệu, hơn hai chục người đương chăm chú, mê mải.

Bùi ngừng đạp máy, ngước lên. Nhưng không phải người hỏi may quần áo. Một người vào đưa cho “ông chủ” Bùi một cánh thiếp cài trong một phong bì nhỏ, in chữ kim nhỏ, phảng phất mùi thơm giấy và nước hoa. Trên thiếp có mấy chữ hẹn và dưới đề: Vương Nhất Dân. Nam Ninh lữ điếm. Phòng số 6.

Bùi và Tân bàn nhau. Cũng không hiểu ai. Vương Nhất Dân? Bùi nói Tân, đến đấy xem sao. Tân nói để cả Sơn đi cùng. Sơn nó thạo và thuộc Nam Ninh hơn cả. Hai người cùng đi.

Buổi trưa, hai người về.

Tân ghé vào tai Bùi:

- Người quen chúng ta.

- Ai?

- Vương “cao”(1)

- Có thật Vương “cao” không?

- Chính năm ấy tớ may bộ quần áo rét cho cậu ta mặc đi Nga mà. Thợ may mà ngắm người thì quên thế nào được, vả lại, Vương “cao” vẫn nhớ từng đứa chúng mình.

Ngay chập tối hôm ấy, Bùi đến nhà trọ Nam Ninh. Lê Hồng Phong thật. Phong cười, vỗ vai Bùi kêu lên:

- Anh này suốt đời loắt choắt thế thôi!

- Anh thì cao hẳn hơn trước. Ăn mặc diện đến ngất trời thế này thì ra đường không còn nhận ra đâu.

- Mình bây giờ là đại phú thương Vương Nhất Dân có cửa hàng xuất nhập ngũ cốc to nhất Hồng Kông kia. Có phải thợ tiện Vương “cao” ở đây nữa đâu mà anh nhớ được!

Quả như vậy, người ngồi trước mặt Bùi, cách đây ba năm, khác lắm. Chẳng phải vì anh đương mặc bộ quần áo sang trọng, mà cả nét mặt, tiếng nói, miệng cười lanh lợi, đĩnh đạc, hoạt bát, vẻ người lọc lõi khác thường. Trong ba năm xa cách, Vương “cao” đi những đất nước, xa lạ nào mà nên mẽ con người khoáng đạt như thế. Ngày ấy, Lê Hồng Phong sang học bên Nga. Có ngưòi qua Nam Ninh đồn ông Nguyễn Ái Quốc đem Phong đi. Sau lại nghe tin ở đâu về rằng ông Nguyễn bị mật thám Anh bắt ở Hồng Kông rồi mắc bệnh lao đã ốm chết trong nhà thương làm phúc rồi. Không biết thực hư thế nào. Anh em xưởng Nam Hưng thương lắm, đã làm bàn thờ vọng ông Nguyễn. Anh em nghĩ về những người cách mệnh ở trong nước ra, mỗi người mỗi cách: Ông Tôn Thất Thuyết thì cố chấp, ông Đặng Tử Mẫn một mình một tính, ông Phan Bội Châu học rộng tài cao nhưng phải cái cả tin, bọn Hải Thần thì thất vọng rồi, chỉ có ông Nguyễn là khác hơn cả. Tuy không ai được gặp, chỉ có Bùi. Nhưng cái ngày Bùi nghe ông Nguyễn dịch tiếng Nga ra tiếng quan hoả cho cố vấn Bô-rô-đin ở chợ Quảng Châu rồi lại được ông Nguyễn giảng về công tác cách mệnh mà mãi về sau Bùi mới biết đấy là ông Nguyễn Ái Quốc. Tuy nhiên ai ở Xiêm đến, ở Thượng Hải xuống, có người ở Nhật hay ở Nga về, nói chuyện cũng chỉ thấy tin tưởng ông Nguyễn hơn cả.

Lê Hồng Phong trở về. Tự dưng, trong người Bùi lại thấy sáng láng và hăng hái hẳn lên, như cái máy nổ được đổ ét-xăng vào, tiếng máy lại giòn giã và khói bốc thật đẹp.

Phong hỏi Bùi:

- Bây giờ anh có còn biết ai bên Xiêm không?

- Tôi vẫn viết thư về bên ấy.

- Vừa rồi mình đên Phi-xít, nhưng xem ra mật thám Xiêm làm ngặt lắm, ngặt hơn nữa, không gặp được ai.

- Đã hai năm nay, thằng Tây đưa tiền cho thằng Xiêm thả ra mua được mấy người mình làm mật thám, thành thử bên ấy bây giờ là người tốt người xấu lung tung cả. Viết thư cũng phải cẩn thận. Tôi viết cho anh em Hoa kiều rồi nhờ họ chuyển tay...

- A ra làm thế.

Bùi hỏi:

- Anh Vương “cao” về đây từ bao giờ?

- Ba hôm nay rồi.

- Anh có chỗ ở chưa?

Phong cười:

- Chưa cách nào đi khỏi đây.

Bùi ngơ ngác không hiểu. Phong vẫn cười, hỏi lại:

- Anh biết tại sao không?

- Chịu.

- Kẻ cắp ngoài Hồng Kông đã nẫng mất ví, tôi mất sạch cả tiền rồi. Trông mẽ người buôn bán lớn cho nên kẻ cắp vây như kiến. Còn có thể chúng ăn cắp vì chính trị nữa. Thế nào thì cũng là mất nhẵn tiền, may lại đi lấy vé tàu rồi nên mới vào được đến đây. Ăn mặc sang thế này có thể ở nhà trọ này người ta tưởng ông đại phú thương Vương Nhất Dân đương mải bận tính toán việc hàng họ cuối năm và có thể ông không thèm ăn ở cái hàng cơm tồi này cũng nên.

- Thế mấy hôm nay anh ăn cơm ở đâu?

- Đến bữa ăn thì đi chơi, chẳng ăn ở đâu cả.

- Chết! Chết!

- Ngủ và đi chơi cũng thú vị như ăn, anh à.

Bùi đi trang trải ngay. Thế là cái nhà trọ Nam Ninh lữ điếm biết rằng ông triệu phú Vương vừa có người thư ký của cửa hiệu đại lý hãng ông ở đây đến cho ông sai bảo. Việc đó có thể khiến những người bồi bếp khách sạn và bọn tôm tép mật thám thường thường đến vờ vẫn làm ở các nhà trọ để nghe ngóng lại tưởng dễ thường đây là lần đầu nhà đại phú thương đến Nam Ninh nhầm nhà trọ, hoặc ông ta có ý thử thách gì trong công việc lừa lọc của một nhà buôn nhiều mánh khoé như thế chăng. Cũng đến tối, Phong mới rời nhà trọ đi trùng vào giờ những người ra bến ca nô chạy Quảng Châu. Anh em đón Phong ở ngã tư gần bờ sông. Từ hôm mất ví, Phong cứ chờn chợn và có cảm giác bọn chó săn bên Xiêm còn lẽo đẽo theo sang tận đây.

Theo chỉ thị và sự phân công của quốc tế, Phong rời trường đại học Hàng không, trở lại Viễn Đông.

Phong về Xiêm mấy tháng rồi sang Hồng Kông. Ở đây, Cục Đông Dương của Quốc tế đã cho thành lập bộ phận hải ngoại của Trung ương Đảng Cộng sản Đông Dương, Phong được phụ trách giữa khi trong khắp nưóc, cuộc khủng bố trắng của thực dân Pháp từ sau Xô Viết Nghệ Tĩnh vẫn kéo dài những bắt bớ tàn sát dã man.

Nhưng trong nước và ngoài nước, Đảng không thể một phút gián đoạn tin tức và lãnh đạo. Ở Hồng Kông, Phong chủ trương đi lần xuống biên giới, rồi tìm cách về cơ sở trong nước. “Phải hiểu hết tình hình tận nơi”.

Phong đến xưởng Nam Hưng, ở luôn đấy. Quần áo tốt, giày, mũ mốt xăng và cái can mun Nhật Bản, Bùi đã nhanh nhảu thu xếp cho đi nằm hiệu cầm đồ Vạn Bảo cả. Như vậy khỏi phải giữ, có món tiêu, mà phòng khi cần đến, lại có ngay được.

Hôm sau, Phong đã khoác cái tạp dề đen xỉn, bê bết dầu, tự nhiên và quen thuộc xuống xưởng đứng máy tiện. Phong vốn tay thợ tiện giỏi.

Mỗi buổi sớm, từ 5 giờ, những tiếng máy nổ đã thi nhau kêu váng và vẫn kẻ ra người vào tấp nập. Khách chữa máy, người lấy bao hương, người may áo. Không có gì khác lạ hàng ngày ở xưởng Nam Hưng.

Nhưng từ hôm Phong đến, trên gác, trong gian buồng ngủ, Phong treo lên cái bản đồ thế giới to mà Bùi mới mua ngoài hiệu sách về. Tấm bản đồ kín góc tường làm cho lúc nào ngang lên cũng trông thấy cả thế giới đấy. Mỗi tối mà tối nào cũng vậy, đúng hai mươi phút trước khi ngủ, lúc mấy người Trung Quốc đến làm công đã về hết, Phong đứng giảng cho anh em nghe tình hình thế giới và trong nước ta. Tay Phong cầm thanh sắt dài... lướt qua châu Âu, châu Á, châu Mỹ, châu Đại dương... Phong nói to. Mỗi tối một bài học khác nhau.

Rồi Phong kể chuyện phong trào Xô Viết Nghệ An. Anh em bấy giờ mới hiểu rõ. Phong lại dạy anh em thuộc hết tờ truyền đơn lời kêu gọi của Đảng Cộng sản Đông Dương về việc kỷ niệm Lê-nin năm 1931.


Hỡi thợ thuyền, dân cày, binh lính và hết thảy quần chúng lao khổ ở Đông Dương! Ngày 21 tháng Giêng là ngày kỷ niệm ngày chết của Lê-nin tức là người lãnh tụ của vô sản giai cấp và các dân tộc bị áp bức toàn thế giới...

... “Chiến tranh đế quốc đã dự bị sẵn sàng rồi, nay mai bùng ra.

... “Ở xứ Đông Dương, đế quốc chủ nghĩa Pháp bí mật liên kết với bọn phong kiến Xiêm La, với bọn đế quốc Anh và đế quốc Hoà Lăng làm một cái liên minh phản cách mạng để đàn áp phong trào cách mạng ở Viễn Đông.


Đến đoạn sau cùng thì tối nào cũng đọc đều một lượt:

... “Hỡi anh chị em! Hỡi đồng chí!

Ngày 21 tháng Giêng cũng là một ngày tranh đấu cách mạng của chúng ta . Đoàn kết lực lượng lại dưới ngọn cờ của Đảng Cộng sản Đông Dương! Vào các đoàn thể cách mạng cho thật đông! Theo khẩu hiệu của Đảng Cộng sản Đông Dương là tranh đấu cho đến cùng!

            Đánh đổ đế quốc chủ nghĩa Pháp và phong kiến địa chủ và quan làng!

Đánh đổ bọn cải lương, lập hiến, hội đồng cải cách,, hội đồng hòa giải là bày chó săn của chánh phủ Pháp!

Đổi chiến tranh đế quốc ra làm chiến tranh cách mạng đánh đổ đế quốc.

Đánh đổ bọn phá hoại kinh tế Xô Viết! Bênh vực Liên Bang Xô Viết!

            Đánh đổ khủng bố trắng!

            Hết thảy ruộng đất về dân cày!

            Tăng lương, ngày làm 8 giờ, xã hội bảo hiểm!

            Đông Dương cách mạng muôn năm!

            Đảng Cộng sản Đông Dương muôn năm!

            Thế giới cách mạng muôn năm!

            Quốc tế cộng sản muôn năm!”.




Mỗi lúc đọc lại tờ truyền đơn, mọi người trông lên bản đồ lại thấy mình được đi khắp thế giới và trở về nước nhà đương sôi sục trong cuộc đấu tranh quyết liệt giữa đợt khủng bố điên cuồng của thằng Pháp. Tấm bản đồ, tờ truyền đơn và người cách mệnh Việt Nam ở Nga về giữa xưởng Nam Hưng đương làm ăn phát đạt. Từ hôm ấy, anh em thấy được ý thức làm ăn lâu dài vì cách mệnh của đất nước, khác hẳn những tính toán ăn thua và có lúc cũng hí hum cay cú nhỏ mọn mọi khi.

 

------------------------------------------------------------------------------
(1) Bí danh đồng chí Lê Hồng Phong. Đồng chí Lê Hồng Phong người cao lớn, anh em ở Nam Ninh lúc ấy thường gọi là Vương “cao”.
Logged
hoi_ls
Thượng tá
*
Bài viết: 5098



« Trả lời #16 vào lúc: 29 Tháng Tư, 2022, 11:12:34 am »

*

*          *

 

Phong đương đứng máy.

Một người thanh niên áo chàm, khuy tết, như một người làng xa dưới biên giới phía nam lên. Anh ta bước vào, xô đến, nắm cánh tay Phong. Anh ta hấp tấp quên cả cái máy tiện đương xoèn xoẹt nghiến trên bàn ren trước mặt mà Phong phải cúi xuống, hai tay đương luôn luôn mở hãm. Phong khẽ đẩy tay anh kia rồi cẩn thận đóng máy xong mới quay ra, mặt còn lấm nhờn mỡ.

Phong vẫn chưa nhận được anh thanh niên lạ mặt vừa vồ lấy mình là ai. Anh ta đã nói, tiếng toang toang:

- Tôi là Hùng đây mà.

Phong không thể nhớ có gặp Hùng lần nào không. Hồi ấy, cả ba năm trước, biết bao thanh niên sốt sắng, từ trong nước ra, mà trông nết mặt hăm hở của họ cũng có thể đo được sự sôi nổi trong lòng - kể cả mình cũng dường như thế, Phong nhìn Hùng: cái cằm bạnh, mắt to đen, sâu thẳm, dáng chắc chắn, kiên quyết. Hùng đương là tất cả nhiệt tình ấy.

Vẫn như dạo nọ, cứ cách ít lâu, Hùng lại lên Nam Ninh mua tơ về Long Châu. Nhiều người Cao Bằng có tư tưởng cách mệnh, đã hùn vốn, dựng được mấy khung dệt lụa ngoài Long Châu. Họ đã hiểu cách sinh sống và cơ sở kinh tế đại khái như xưởng Nam Hưng mới có thể không còn tình trạng bơ vơ như năm Thụ và Chi ra Long Châu. Gần đây, xưởng Nam Hưng nhận làm vỏ tạc đạn cho Chính phủ Nam Ninh. Bọn nhà thầu quân khí trực tiếp với những cơ quan hậu cần của quân đội Quốc dân đảng chỉ đấu thầu làm vỏ, tải gang đến cho xưởng đúc, dập kíp rồi bào, tiện đến thành hình bộ máy quả tạc đạn rồi đem trả nhà thầu.

Thế mà lên Nam Ninh, Hùng thường vác được tạc đạn có cả thuốc về. Mỗi lần cứ xách từng bộ phận khác nhau. Dưới buộc tơ nõn là gói vỏ, gói kíp. Người ta không đấu thầu thuốc nổ. Nhưng mua thuốc nổ lậu ở ngoài thì giữa chợ Nam Ninh cũng sẵn nhan nhản người bán. Hoặc có khi về Long Châu nhờ Thụ cho người vào sở tu giới gặp bạn quen, xin đạn thôi, đem về moi thuốc ra trộn lại. Hùng đem về Cao Bằng nhồi thành tạc đạn. Tốt như nguyên. Đã ném thử xuống sông Bằng mấy lần, cá chết nổi, vớt một gánh bán chợ Nước Hai.

Anh em ở châu Hoà An đem cất kỹ những quả tạc đạn ấy vào hang đá. Mỗi lần được tạc đạn về, các tổ cách mệnh lại thì thào đồn thặng lên, vui sướng lạ thường. Có người nói: “Thằng Tây đồn Nước Hai có súng, cách mệnh chúng mình có lựu đạn. Bằng nhau rồi. Muốn đi ném ngay cho nó chết không kịp chạy về nước nữa”. Họ rộn rịch như sắp được đi đánh đồn đến nơi. Họ lại nói: “Năm trước, Đặng Tử Mẫn đem cướp về đánh Tà Lùng thì không xong, bây giờ ta đem cách mệnh đánh thằng Tây đồn Tà Lùng thì nó phải chết”. Có người hăng hái quá, thèm đánh quá, đi đâu cũng bí mật giắt quả tạc đạn trong thắt lưng.

Hai người lên gác, vào ngồi nói chuyện trong buồng vắng vẻ. Phong hỏi tình hình phong trào cách mệnh ở Cao Bằng.

Hùng vẫn cười khinh khích rồi đặt cái tải cói xách dưới tay xuống, mở ra.

- Anh xem này. Cách mệnh Cao Bằng đây.

Trong tải lăn lóc ra mấy mảnh vỏ tạc đạn nhẵn nhụi xám bóng. Phong hỏi:

- Đem những của này đi đâu!

- Về Cao Bằng.

- Làm gì?

Hùng cười to:

- Anh lại hỏi làm gì!

Phong trầm ngâm rồi nói:

- Mình hỏi thật đấy.

Hùng vẫn cười:

- Đem cho Tây ăn chứ làm gì!

- Ừ, thế cho Tây ăn bằng cách nào, hôm nào thì cho nó ăn?

- Hãy cất để dành đấy, cho thật nhiều và đợi thời thế, anh Vương “cao” ạ.

Phong lặng im một lát. Phút lặng im tỏ một ý nghĩ khác mà Hùng cảm thấy. Bởi vì nét mặt Phong đương vui, bỗng nghiêm lại rồi lạnh hơn. Vì vậy, Hùng nín cười, nhìn Phong. Lát sau, Phong nói:

- Cách mệnh cần phải có võ trang thì mới đánh đổ được kẻ thù. Nhưng bây giờ cách mệnh Việt Nam có rất nhiều việc phải làm trước thì rồi võ trang đánh đế quốc và phong kiến mới đổ được. Bài học Xô Viết Nghệ An có nhiều kinh nghiệm cho phong trào cả nước như thế rồi. Anh thấy không, ta đã biết đế quốc và phong kiến cứ khủng bố trắng, bao chiến sĩ đã hy sinh tính mệnh, nhưng cả nước vẫn sôi sục cách mệnh, cả nước càng đau khổ thì càng có tinh thần cách mệnh , chúng ta hiện nay cần làm cho khắp nước biết Xô Viết Nghệ An, theo gương Xô Viết Nghệ An, chúng ta rất cần phát triển tổ chức thật mạnh, cho đến khi đâu đâu cũng có phong trào, có tổ chức như Nghệ An, cũng như Nghệ An. Cả nước như Nghệ An, chín muồi rồi, bấy giờ toàn xứ đứng lên thực hành chính quyền Xô Viết, võ trang đánh đổ đế quốc và phong kiến, làm cho Đông Dương hoàn toàn độc lập, đưa cách mệnh Đông Dương đến thắng lợi. Vậy Cao Bằng cũng làm thế, tuyên truyền và tổ chức thật sâu thật rộng rồi bước vào lãnh đạo tranh đấu, thử thách trong tranh đấu. Việc ấy quan trọng trước nhất.

Hùng mải mê nghe.

Rồi Phong tỉ mỉ hỏi phong trào Cao Bằng. Châu nào mạnh, nơi mạnh thì có bao nhiêu người vào tổ cách mệnh, châu nào chưa biết cách mệnh, công nhân mỏ Tĩnh Túc có bao nhiêu người, thằng Tây mới lên Trà Lĩnh làm gì, tìm mỏ gì, Tây đội, và quan châu, quan bang làm ác thế nào, người châu nào khổ nhất, một năm người Cao Bằng đóng những thuế gì, ở Cao Bằng có nghe tin Xô viết Nghệ An không.

Hùng kể Phong nghe mấy năm nay Hùng theo tiếng gọi của non sông, nòi giống, quyết đứng lên làm cách mệnh giết giặc Tây. Nghe có nhiều người cách mệnh các nơi đi tìm phương cứu nước thường qua lại biên giới, Hùng cũng sang Long Châu, các bạn cho đọc báo Thanh niên. Hùng thấy báo nói rõ ràng những điều như tâm sự mình, Hùng mượn về để anh em đọc cùng rồi tổ chức ra các tổ Cách mệnh đồng chí hội ở nhiều châu. Các bạn Hùng đều vào tổ cách mệnh.

Hôm qua, Hùng đến nghe Bùi thì thào anh Phong mới ở Nga về. Hùng chưa được gặp Phong bao giờ. Nhưng những ai, người thế nào qua đây, Hùng đều biết và trong tâm trạng Hùng, vẫn như chờ đợi một điều gì to lớn sẽ đến. Hùng đã nghe nhiều người nói anh Phong, ba năm trước. Lúc ấy, Hùng nghĩ: “Ôi thôi, cách mệnh gốc đây rồi. Gặp gốc cách mệnh rồi”. Và vừa thấy Phong, Hùng đã níu cánh tay, có cảm tưởng gặp rồi, thân rồi.

Nghe Hùng kể, Phong cảm động, bắt tay Hùng rồi nắm bàn tay Hùng trong bàn tay mình và nói:

- Việc bấy lâu Hùng làm rất giỏi. Hùng ạ, Hùng và các đồng chí đã làm như người đảng viên cộng sản từ lâu rồi. Đúng như các đồng chí mong ước, cơ hội đến rồi, cách mệnh nước ta bây giờ có Đảng Cộng sản Đông Dương là kẻ lãnh đạo cách mệnh của công nông mạnh mẽ nhất...

Lúc về, Phong còn dặn:

- Làm tuyên truyền thứ nhất. Được người tốt, đưa vào tổ chức. Nhớ lúc nào cũng giữ bí mật hoàn toàn.

Hùng ra bến xuôi Long Châu luôn hôm ấy. Chưa mua được bó tơ nào, nhưng tưởng nếu không được về kể lại với các đồng chí ngay những điều Phong nói thì không chịu được.

Nhưng đến trưa lại thấy Hùng tò tò quay lại.

Bùi hỏi:

- Quên gì thế?

Hùng nói:

- Không.

Nhưng chính Hùng đã để nhỡ chuyến ca-nô mà trở lại. Chỉ vì một việc quên nói. Hùng kéo anh Phong vào bếp, nói:

- Tôi có hai thằng bạn đã ra đây cũng đương làm cách mệnh như tôi.

Phong cười to:

- Hai thằng đi lính lên Vũ Hán suýt chết phải không?

Hùng sung sướng:

- Thế ra anh biết rồi!

 

*

*          *

 

Tiếng đập cửa tầng dưới vang thình thình, rung lên cả các chấn song tầng trên. Lúc ấy đã quá nửa đêm. Những cái máy khâu hay làm khuya cũng nghỉ từ lâu. Tiếng lay gióng cửa rầm rầm tiếp theo. Các nhà to trong phố cũng đều rào một lớp gióng lim chắn ngoài cửa. Đề phòng cướp không thể đẩy thẳng vào tấm cánh cửa phản, ở trong còn kịp tổ chức chống đỡ.

Tiếng búa, lưỡi lê, đại đao nậy đóng bập bập, tới tấp.

Trong khuya, nhà hai bên phố càng tối đen, người ta bàng hoàng chết khiếp những cuộc lùng bắt ban đêm, dù là kẻ cướp hay lính tráng thì cũng đều phải sợ thế cả.

Bùi mắt nhắm mắt mở chạy xuống.

Hai cánh cửa lim đã đổ kềnh ra trong những ánh đèn pin xiên vào. Bọn cảnh sát Quốc dân đảng tràn đầy nhà, trói Bùi lại rồi tuôn thẳng lên ba tầng gác. Gặp ai trói nấy, bắt hết - cả ông lái buôn hương liệu ở tầng ba mới từ đâu về lúc chiều cũng bị điệu đi nốt.

Có đến hơn một tháng.

Hai mươi người, cả xưởng Nam Hưng, bị giữ trong trại giam cảnh sát thành phố. Ngồi trong xà lim, Bùi lo nhất. Nhà cửa tanh bành ở giữa thành phố trộm cắp như rươi thế thì nó vào khuân hết rồi. Phen này lại khánh kiệt. Nhưng không làm thế nào được. Không biết bị bắt vì tội gì, cũng không hỏi được ai. Ngày ngày trông ra chỉ thấy độc một người cảnh sát vác đại đao như ông phỗng đứng canh cửa. Người tù đi đái, có tiền cho, ông phỗng biết chìa tay lấy, người tù đi đái không cho tiền thì ông phỗng đá một cái. Ông phỗng nào canh cửa cũng giống nhau thế.

Một hôm, cảnh sát xuống hỏi:

- Đứa nào đứng chủ hiệu Nam Hưng?

Bùi theo lên phòng làm việc của quan cảnh sát. Trông thấy cảnh sát trưởng Nam Ninh là Châu Bình Nam, Bùi làm quen:

- Quan lớn với ông Đặng trước...

Châu vểnh ria lên, dửng dưng:

- Mày quen thằng buôn hương liệu à?

- Tôi chỉ biết nó ở trên gác ba.

- Tao bắn nó rồi.

Bùi im, tái mặt. cảnh sát trưởng nói để cắt nghĩa:

- Nó buôn thuốc phiện, buôn súng, buôn người, nhiều lắm!

- Chúng tôi thì có nghề lương thiện, đóng thuế đầy đủ cho Chính phủ, xưa nay không làm gì trái phép.

- Tao sẽ tạm tha chúng mày.

Lại nói:

- Phải nộp năm trăm đồng tiền chuộc.

Năm trăm đồng, món tiền to. Vốn tiền mật lúc phát đạt nhất của xưởng Nam Ninh cũng chưa bao giờ được bằng số tiền ấy. Nhưng biết làm thế nào! Nó không nói thế thì ai cũng biết lệ xưa nay hễ bị bắt thì đến khi được ra đều phải mất tiền chuộc người như thế rồi. Dù sao cũng thở phào, vì biết là nó bắt nhầm. Nó cốt bắt lão buôn hương liệu ở tầng ba. Nhưng mà cãi cũng thế thôi. Nhỡ nó ngứa mắt, lôi ra bãi bắn chết, thì cũng vẫn thế thôi.

Bùi nói:

- Bây giờ chúng tôi đương phải ngồi cả ở đây, không ai về chạy tiền nộp quan được.

Bùi được tha về trước.

Bùi đứng trông vào trong nhà, ngơ ngẩn, chưa hiểu ra thế nào. Có phải thật thế này không, giữa đường Trung Sơn đương tấp nập? Suốt ba tầng gác tan hoang như cái cầu lúc tan chợ. Thạp gạo, cái chảo, cái áo, đến mảnh ván làm giường nằm cũng không còn cái gì nữa. Dưới nhà, chỗ thường khi có bể bộn đám máy tiện, máy nổ đen nhoáng chỉ trơ lại đám cọc sắt. Cái bàn cặp kìm nát lụ khụ nằm chỏng bổn cái vó khấp khểnh. Cũng biết trước là sẽ mất, nhưng không ngờ ở giữa phường phố đô hội thế này mà mất trộm nhẵn nhụi đến như thế phải quân cướp ngày dắt nhau đến vơ vét nhiều lần thì mới sạch như lau thế được.

Mấy nhà bên cạnh đến.

Bùi thở dài, ngán ngẩm:

- Chúng tôi mất trộm hết sạch rồi, các ông các bà ạ.

Một người nói:

- Ông Bùi à, không phải trộm đâu.

Bùi ngạc nhiên.

- Cảnh sát cho xe ngựa đến dọn đấy. Cảnh sát dọn đến hôm sau cùng thì thấy có cả người ngoài thành vào, cảnh sát với các ông trong làng có xe vận tải la kéo, họ mặc cả với nhau ngay tại đây rồi cảnh sát nhận tiền bán luôn cả cửa sổ, cánh cửa, ván sàn gỗ và ngói mái hiên... người rỡ người chở ầm ầm mấy ngày mới hết.

Bấy giờ Bùi nhìn lại cái mái hiên đã bị rỡ hết ngói. Thảo nào, từ lúc về cứ ngờ ngợ không biết tại sao cái nhà sáng hơn mọi khi.

Tuy nhiên, Bùi lại phải vội vã đi vay cào cấu được đủ năm trăm bạc mang đến để chuộc người về. Hãy thế đã. Còn vốn. Còn đền khách hàng mất máy, mất áo, mất tiền đặt. Lại khốn khổ như năm trước, bằng mấy năm trước mất trộm ở Long Châu. Thiệt hại và lôi thôi gấp bao nhiêu Long Châu nữa!

Hôm sau, cả bọn về đứng trơ giữa cái nhà không. Sơn tặc lưỡi:

- Còn hai bàn tay này tức là còn máy tiện, máy nổ. Cũng được. Có mất bàn tay như ông Đặng mới thật là hết.

Trang cũng cười:

- May quá, thế nào mà chỉ có hòn đá li-tô mình cất trong nách tường là chúng nó không lục ra.

Phong bảo Bùi:

- Mai mình xuống Long Châu.

Bùi nói:

- Anh đừng ngại, không sợ túng đâu, anh Vương “cao” à.

- Không, tôi có việc đến hẹn phải đi xa ít ngày. Nhờ tìm sẵn cho mình chỗ ở mới, để hôm nào về.

Bùi cười:

- Cái nhà bây giờ rỗng tuếch thế này, cả một “dinh” đến đóng cũng lọt thỏm, anh còn định ở đâu?

Phong lắc đầu.

- Chúng nó đã chụp ảnh, lăn tay chúng mình trong sở cảnh sát rồi. Phải cẩn thận hơn. Ở đâv không tiện nữa.

Bùi mới nghĩ ra.

Logged
hoi_ls
Thượng tá
*
Bài viết: 5098



« Trả lời #17 vào lúc: 29 Tháng Tư, 2022, 11:17:07 am »

*

*          *

 

Mùa xuân đương trở lại trên các vùng biên giới, bên này và bên kia Long Châu.

Những rừng hồi xanh mờ như làn khói thơm. Những đồi trẩu lá non xanh tơ đơm lên như xôi và hoa mơ, hoa đào đã lại chen nhau cười trắng, cười hồng như mọi năm. Cả đến vùng lòng chảo khô cằn đồi trọc Lộc Bình suốt từ Lạng Sơn sang bên kia đã lại chập trùng in nghiêng một màu cỏ tranh biêng biếc.

Trên vách núi cửa ải cũ Quỷ môn, giữa những bụi si già đương chen bật ra một nhánh rễ mới trắng hau.

Chòm phong lan buông một nét vàng hây xuống khe đá.

Chú tắc kè non mới nở, lưng đốm màu rêu đỏ, đứng khệnh hai chân trước lên, ngây như ai tạc nó vào trước hang.

Phong đến Lũng Nghìu.

Thụ không có ở đấy. Mã Hợp xuống bán củi chợ Ải Khẩu chưa về.

Chỉ trông dáng vừa quen vừa lạ, lại thân mật của Phong, mẹ hỏi ngay:

- Cháu đi cách mệnh à?

Mẹ đã trông thấy hàng trăm người cách mệnh đến nhà rồi, mẹ biết nhìn rõ ra mặt người cách mệnh khác, mặt thằng mật thám không giống thế được.

Nhưng Phong không biết đáp lại thế nào.

Mẹ lại kể:

- Cháu ngồi xuống đây, cháu à. Ngày trước, nhà cô còn ở Ma Mèo, có lần cô đã được đưa người cách mệnh từ nhà sang Long Châu. Người ấy cũng cao như cháu, nói tiếng Kinh làm sao mà giống hệt tiếng cháu. Nghe nói là tiếng Nghệ. Chỉ khác là người ấy đội nón chóp, có bộ râu thế này.

Phong cười, bảo mẹ:

- Hay là bố cháu đấy, mẹ ạ.

Nói thế rồi Phong cảm động, nhìn mẹ, âu yếm như chợt gặp lại những ngày thuở bé của mình ở trong làng, đương ngồi nghe mẹ kể chuyện đời xưa.

 

*

*          *

 

Phong và Thụ, hai người trước cửa hang Áng Cúm.

Ở đây, đứng hình dung ra cả một dải biên giới phía bắc, trông suốt xuống tận cuối đất nước ngoài khơi mũi Cà Mau. Phong có ngay cảm tưởng ấy.

- Ồ nhỉ!

Tình cảm hết sức thắm thiết ấy đã theo Phong từ Lũng Nghìu lên đây. Lý tưởng, hành động và thực tế cuộc đời phải là ở đây và như đây. Nghĩ như thế, Phong bảo Thụ:

- Hôm trước, mình gặp Hùng, mình đã bảo rằng Hùng và các bạn thực sự đã là những người cộng sản Đông Dương từ lâu rồi, hôm nay và từ khi đến Lũng Nghìu, mình đã thấy sự thật ấy thật mạnh mẽ. Không bao giờ mình quên được vẻ mặt và lời nói của bà mẹ Lũng Nghìu. Vẻ mặt ấy, thiết tha ấy đã tập trung trong đó tất cả những đau khổ và thiết tha của bà mẹ Việt Nam của chúng ta, đương đặt biết bao nhiêu hy vọng của đất nước cho trách nhiệm của chúng ta. Thụ ạ, các đồng chí đã làm rất đúng nguyện vọng của mẹ hiền Tổ quốc đau thương nhưng có sức mạnh vĩ đại luôn luôn cổ vũ chúng ta, dìu dắt chúng ta đên với Đảng của giai cấp, của dân tộc. Đồng chí Thụ xứng đáng người đảng viên đảng Cộng sản Đông Dương mà tôi là người đại diện ở đây và không một nghi lễ kết nạp nào, một lời nào mạnh mẽ, thiêng liêng hơn những việc chúng ta đương làm, với tinh thần Đảng cao nhất, đảm bảo mãi mãi cho lòng trung thực, quyết tâm sống chết vì Đảng và dân tộc trên con đường Đảng đã chỉ cho ta.

 

*

*          *

 

Phong về Long Châu đã được ít lâu.

Căn nhà gác bên số lẻ phố Nam Cai, có mấy người Việt Nam làm trong xưởng chữa súng của huyện ở chung nhau tại đấy.

Cái phố Nam Cai lấp ló dưới bóng loáng thoáng những cây phượng. Nhà ở chìa lưng ra bờ sông, lác đác nhà ở và những mảnh đất hoang. Người thị trấn xưa nay ngại ở phố ấy. Những toán cướp ngoài thành có thể lội qua sông vào lấy của đốt nhà phố Nam Cai lúc nào cũng được. Bởi vậy, phố cứ vắng ngơ vắng ngắt.

Nhưng lâu nay có nhiều người hỏi thăm đến cái nhà bên số lẻ ấy. Ai ở Long Châu lâu rất dễ trông dáng, để ý lối trò chuyện và cách ăn mặc của người hỏi thăm mà đoán khách là người buôn thuốc phiện, buôn vàng, buôn hồi, buôn súng, buôn bò hoặc đấy là người của tướng cướp về tìm nhờ chữa súng. Có khi là người quen và họ hàng cũng người Nùng, người Hán, người Tày ở Bình Tường, ở Nam Ninh xuống, hoặc bên Cao Bằng và Lạng Sơn sang. Người nhà hay người buôn, thấy lạ, cứ đoán đại khái. Chẳng biết thế nào chỉ biết cái phố Nam Cai vắng vẻ, lâu nay có nhiều người lạ hay lui tới.

Nhưng cũng còn nhiều khách lạ thì người Long Châu chịu không biết ở đâu tới, bởi họ cũng áo quần như người Bình Tường, người Lạng Sơn.

Vậy mà không phải. Họ ở Hồng Kông vào, có khi Thượng Hải xuống. Còn từ Hà Nội lên hay tận Sài Gòn ra nữa. Người Long Châu ở cái trấn tĩnh mạc cùng kiệt địa đầu biên giới ấy không thể biết hết được mọi khách khứa thường thăm hỏi đến căn nhà cũ kỹ có cái gác xép bên dãy số lẻ phố Nam Cai đâu.

Buồng trên gác mà Phong ở đã có lúc trở thành cơ quan lưu động tiền phương của Ban chỉ đạo hải ngoại của Trung ương Đảng. Ở đấy, hoạt động của Đảng nối cách mệnh Việt Nam với thế giới và con mắt của Đảng nhìn về khắp nước và ra thế giới. Những lóp huấn luyện nhỏ mở ngay đấy. Có khi chỉ năm ba người, và hết hai ba ngày gọn ghẽ. Phong trực tiếp phụ trách việc huấn luyện công phu và tỉ mỉ ấy. Thanh niên Cao Bằng, Lạng Sơn ra tấp nập. Họ thường sang Long Châu, như người đi chợ. Ngày Tết, người qua lại càng dễ che mắt bọn mật thám.

Bấy giờ đương cữ giêng hai, cái Tết vẫn còn kéo dài trong các làng Tày làng Nùng. Người vui xuân cứ theo hội lùng tủng mà đàn hát tràn vùng này vùng khác, ròng rã hàng tháng. Được dịp, những thanh niên có chí hướng cách mệnh cũng trà trộn vào đám hội, xách đàn tính đi chơi, nhưng kỳ tình họ ra Long Châu theo lớp huấn luyện, ra được đông lắm, đến khi về, tay vẫn cầm chiếc đàn tính mà trong túi chàm đeo vai có truyền đơn, có điều lệ Đảng. Nhưng nét mặt vừa hớn hở vừa suy nghĩ của những người thanh niên ấy thì khác lúc đi, không mấy ai có thể hiểu được.

Phong ở Hồng Kông về, cái Tết đương qua Quảng Châu thế mà về Long Châu vẫn thấy cái Tết còn nguyên. Thụ thấy Phong cũng vui như những bạn trẻ ra dự lớp huấn luyện của Đảng. Phong bảo Thụ:

- Trần Minh(1) sắp về.

- Hay lắm, anh Vương “cao” à!

Phong nói:

- Trần Minh đi học quân sự, nhưng hãy để việc quân sự đấy, bây giờ việc gấp là Trần Minh sẽ phụ trách ấn loát. Nhiều tài liệu thời sự ta cần in ngay để chuyển về xuôi mới kịp tung đi khắp nước. Nhưng ở đây mà thêm cơ quan ấn nữa thì kềnh càng quá. Người đến phố Nam Cai nhiều thế kia, nhà mình như họp chợ, lỡ một cái... Bọn Quốc dân đảng không có cố bắt mình, nhưng mình biết thằng này bán tin tức cách mệnh cho Tây lấy nhiều tiền lắm. Phải cẩn thận...

- Hay là ta đưa về hang Áng Cúm.

- Cả bộ phận in ở Áng Cúm cũng không phải là an toàn thật đâu, cần đổi chỗ hoặc chia nhỏ thêm ra. Không nên chủ quan. Hôm nào xuống đấy rồi bàn.

- Tổ chức của ta đã có cơ sở ở cả bốn phía quanh núi, thằng Tây Quốc dân đảng cũng thế thôi, lo gì!

- Đừng khinh địch, Năm à. Trên thế giới, cuộc cách mệnh nào thất bại cũng chỉ vì khinh địch. Phố Nam Cai này có mấy thằng mật thám, liệu ta biết hết chưa. Chắc chúng mình đều phải ngần ngừ, chưa thể biết hết được. Tình hình này, hai kẻ thù của cách mệnh ở hai bên nách thì lại càng không được chủ quan. Cứ xem sẵn nơi nào tiện nữa. Cần có những chỗ dự bị. Nếu được chỗ tốt hơn chúng ta cũng chuyển các lớp huấn luyện ở đây đi.

Thụ hỏi:

- Về Hạ Đống có được không?

- Hạ Đống à...

Thụ nói:

- Hồi Long Châu đỏ, tôi đã tham gia ở Hạ Đống. Người Hạ Đống đến bây giờ gặp tôi vẫn nói: cách mệnh Việt Nam, cách mệnh Trung Quốc là cách mệnh anh em. Ở Hạ Đống rất tiện đường liên lạc các phía. Đi Thuỷ Khẩu, Tà Lùng rồi về Cao Bằng, vào Thất Khê, xuống Bắc Sơn, ra Long Châu, đằng nào cũng gần. Hôm nào đi Áng Cúm chúng ta sang Hạ Đống xem.

Phong bảo Thụ:

- Được rồi. Bây giờ Năm đi trước. Ngày kia tôi xuống. Có tài liệu này rất cần in gấp.

Phong đưa tờ giấy đánh máy cho Thụ:

- In tờ truyền đơn kỷ niệm Xô Viết Nghệ An. Bây giờ tháng ba. Chúng ta in sớm để kịp phân phát đi cho các nơi còn in lại, kịp tháng chín thì toàn xứ cùng tranh đấu một lượt.

Thụ bồn chồn và hào hứng nghĩ: Đấy là tiếng nói quan trọng của cách mệnh truyền đi cho khắp mọi nơi, ai cũng được biết. Xô Viết Nghệ An còn to hơn núi Cai Kinh ở Chi Lăng kia. Hang Áng Cúm được vinh dự nhận trách nhiệm đem tiếng nói cách mệnh in ra rồi phát đi toàn xứ. Xô Viết Đông Dương muôn năm! Xô Viết Đông Dương muôn năm! Trước khi tiếng nói cách mệnh đến với khắp mọi người, chúng ta phải biết ý nghĩa to lớn của nó, trong tờ truyền đơn. Anh em in ở Áng Cúm sẽ in khéo với tinh thần của Xô Viết Nghệ An! Mình sẽ về trình bày với các đồng chí...

Thụ đọc tờ truyền đơn và nghĩ từ Áng Cúm sẽ in ra:


Kỷ niệm Xô Viết Nghệ An

Anh em chị em công nông

Ngày 12 tháng chín 1930, công nông Nghệ An vác súng ống gậy gộc, nổi lên lập chính quyền Xô Viết trong mấy huyện, lấy đất bọn quan lại, địa chủ chia cho nông dân, huỷ hết các món nự, các thứ thuế, tô chức các đội Tự vệ đỏ, lập toà án cách mệnh, cho tất cả đàn ông đàn bà lao động được tham gia chính trị v.v...

Tuy Xô Viết chỉ sống được mấy tháng, nhưng chính quyền Xô Viết đã cho quần chúng hay rằng: chỉ có chính quyền Xô Viết mới đánh đổ được đế quốc và phong kiến.

Kỷ niệm Xỏ Viết Nghệ An chúng ta cần phải kế tiếp tranh đấu thực hành chính quyền Xô Viết toàn xứ, làm cho Đông Dương hoàn toàn độc lập, tịch ký đất đai địa chủ chia cho cố nông, bần nông, trung nông, tịch ký các xí nghiệp tư bản ngoại quốc làm của công và thực hành ngày làm 8 giờ.

1. Đánh đổ khủng bố trắng

2. Tha hết thảy chính trị phạm

3. Đánh đổ đế quốc chủ nghĩa Pháp, quan lại, địa chủ, lý hào bản xứ

4. Xô Viết Đông Dương muôn năm

5. Đảng Cộng sản Đông Dương là kẻ lãnh đạo cách mệnh của công nông muôn năm

                                                                                    Ngày 10/9/33


                                                            Đảng Cộng sản Đông Dương muôn năm(2)

 

Núi Áng Cúm sừng sững phơi những mảng rừng phủ trên đá xanh đen lẫm liệt, đổ bóng xuống đường 4, bóng núi che sang tận mái nhà xóm Khơ Đa. Không có cái mốc đá cắm dưới chân, ai biết đấy là biên giới!

Từ Khơ Đa lên, kéo theo những cánh rừng trúc lủa tủa như lưới ngợp bốn phía. Lần đầu đến Áng Cúm, Hùng lạc phải ngủ trong rừng trúc. Hôm sau trèo tới cửa hang, quay nhìn xuống, Hùng ngạc nhiên: “Trời! Đêm qua nằm ngay dưới chân hang mà không biết”. Các tổ cách mệnh ở Khơ Đa, đến kỳ gặp nhau, xách nước vào khe họp. Trong núi không có nguồn nước. Bọn lính canh biên giới không ngờ cách mệnh vẫn ở trong ấy. Tuy vậy, lính đồn Đồng Đăng đi lùng luôn. Anh em ta bước qua cái mốc biên giới, mất hút, thằng lính chưa kịp giơ tay vẫy lại hỏi thẻ, nó ức lắm, mà không đuổi theo được.

Phong đã lên tới cửa hang. Đi từ Lũng Nghìu đến. Nắng sớm vừa lên ngang rừng trúc. Ngoảnh lại thấy Thụ vẫn lúi húi trong cái hõm đá phía dưới. Phong hỏi:

- Làm gì đấy?

Thụ cười, giơ hai nắm nấm trắng phếch:

- Ở châu Văn Uyên, đến cữ tháng tư, có hôm đột nhiên trời đương nắng đổi sang mát, lá cây “phíac đỏ” rụng đầy xuống gốc thì nấm cỏ mọc ra vùn vụt như ai nâng chân nấm lên. Chốc nữa, tôi làm canh nấm cỏ cho anh ăn thử. Có thể hơn món canh nấm hương nấu với da chân vịt của các hiệu cao lâu Thượng Hải nhiều, anh Vương “cao” à.

- Ăn vào lúc này thì nhất định hơn nấm cao lâu rồi.

Hai người cùng cười. Trong hang, mát rợi hơi nắng nhẹ.

Thụ nói:

- Anh Vương “cao” à, năm nay thì từ Đồng Mỏ về suốt Hà Nội đều được kỷ niệm Xô Viết Nghệ An.

- Sao thế?

- Anh em ở Ôn Châu đã đi dán truyền đơn lên các toa tàu xuôi, đến khi tàu chạy, thế là đến đâu tàu cũng tuyên truyền cách mệnh.

- Sáng kiến hay. Còn ở Điềm He, rất hăng, đi rải khắp các chợ.

Hôm trước, Thụ mang truyền đơn về in ở Áng Cúm, in xong, phấn khởi lắm, Thụ đề nghị Phong cho phát động một trận tranh đấu tuyên truyền khắp Cao Bằng, Lạng Sơn. Phong đồng ý, chỉ dặn: cần làm cho thằng Tây không dò được tung tích. Bên Lạng Sơn chỉ được tranh đấu từ Đồng Mỏ, Điềm He, Thất Khê trở xuống, không rải truyền đơn ở biên giới. Đấy cũng là một kinh nghiệm mới mà dạo trước đi rải truyền đơn, Thụ chưa biết.

Thụ đi Thất Khê, xuống Đồng Mỏ. Phong vào tận Điềm He. Đem truyền đơn đến cho các tổ, lại cùng anh em đi rải.

Thụ và Phong trở về Lũng Nghìu, say sưa như những người vừa thắng một trận đánh. Thật thế, họ đã tận mắt thấy rừng núi rung chuyển trong đợt kỷ niệm Xô Viết Nghệ An năm nay. Người các dân tộc hồi hộp đến với cách mệnh. Ở sào huyệt các đồn, các nha quan châu, quan bang, lính với quan xôn xao, cuống quýt.

Phong hỏi Thụ:

- Sáng nay gặp Mã Hợp không?

- Có.

- Mã Hợp đã được tin Hùng về chưa?

- Chưa.

- Ngót nửa tháng rồi. Hùng có lạ đường không?

Thụ lắc đầu:

- Không. Hùng đã xuống Hòn Gai hai lần. Lần này lại đi với Sảo Kinh thì không lo.

Khi anh Phong chưa về, Hùng và Thụ đã bàn nhau phải mở đường cách mệnh xuống vùng mỏ bờ biển. Họ nghĩ một cách đầy hào hứng: “Như vậy, khi cách mệnh cần vượt biển ra thế giới thì đi đằng Hòn Gai nhanh gấp bao lần phải ra Hồng Kông”. Và Hùng đã xuống Hòn Gai hai lần rồi.

Thụ rất tin Sảo Kinh, ngay mới lần đầu gặp Sảo Kinh khi Thụ về họp tổ ở Khơ Đa.

Chu Sảo Kinh người Nùng, tính thẳng, không quen thì thào, nói cái gì thì nói to choang choác và làm ngay. Chân Sảo Kinh bước thật cao, như con gấu sợ bẫy. Đi đường Sảo Kinh thường nhìn xa, để ý cẩn thận trước những chỗ đường rẽ. Cái nghề tải hàng lậu đã thành thói quen cho Sảo Kinh như thế. Có lần lái thuê đuổi hàng trăm con trâu qua Hà Giang xuống Móng Cái để bán lậu sang Đông Hưng. Trăm con trâu đã len lỏi lọt tất cả các đồn. Khi Thụ gặp Sảo Kinh, Thụ nghĩ: “Người này mới đúng người biên giới, thật cùng khổ, thật ngỗ ngược và mưu chước, đã tin chắc tin đến cùng”. Chuyến này Thụ cử Sảo Kinh chịu trách nhiệm đưa Hùng xuống mỏ. Đem theo, mỗi người một tay nải truyền đơn kỷ niệm Xô Viết Nghệ An cho công nhân Hòn Gai.

Phong hỏi sang chuyện khác:

- Mọi việc ở đây thế nào?

Thụ nói:

- Xong rồi.

Phong biết chắc như thế, nhưng vẫn nói như hỏi lại:

- Xong rồi a!

Mọi việc đã xong gọn. Thụ gặp Mã Hợp, gặp Sảo Kinh kết làm anh em và tin tưởng cùng làm cách mệnh. Phong từ khi gặp Thụ, Phong cũng nghĩ: “Người này, đồng chí này, con em của rừng núi phía bắc, sẽ giữ cho Đảng có được tất cả rừng núi biên giới phía bắc đây”.

Hai người đã vào đến giữa hang. Đống lửa của người cách mệnh đốt trên mặt khe đá khấp khểnh, từ mùa đông trước có lẽ không mấy khi tắt, đã làm cho cái hang đá bớt hơi ẩm ướt. Ánh sáng mờ mờ toả trong cái hang đã có nền nếp tương tự như cái nhà. Nhiều tảng đá đã được kê phẳng. Chỗ ăn cơm, bàn viết, nơi làm việc. Cây gỗ chò ngả đều nhau, dài, thẳng, để lót giường, để ngồi họp. Hàng trăm người cũng có thể vun lọt thỏm vào quanh đám lửa giữa bụng quả núi rỗng.

Thụ vào vách đá trong, ôm ra hai cái gói có bọc hai lần mo mai và nhiều lần giấy dầu, mở kêu xoàn xoạt. Đặt xuống bệ đá, Thụ cầm đèn pin rọi vào từng gói, giơ cho Phong xem. Gói to, một chồng giấy bạc Đông Dương. Phong búng ngón tay, tờ giấy kêu tanh tách, đúng giấy bạc mới. Cầm một tờ năm đồng có bóng dầu con đầm lờ mờ dưới hình con công xoè đuôi, Phong nói:

- Tốt lắm! Thế này thì kịp rồi!

Tiếng tu hú phảng phất kêu ngoài kia. Mùa thuế má khốn khổ đã đến khắp mọi nơi trong nước ta, xuôi cũng như ngược. Xa xa, cây vải đội đi đâu một mâm quả chín đỏ gắt. Ấy thật đã vào mùa quan làng thu thuê. Cũng là một dịp cho cách mệnh “làm kinh tế”, cách mệnh bắt ngay thằng Tây phải cung cấp kinh tế cho cách mệnh đó. Bó giấy bạc này sẽ đem về cho các tổ. Cũng có lý trưởng hiểu, vừa nghe nói đã đem tiền thuế đến đổi bạc cho cách mệnh. Có lý trưởng sợ cách mệnh, phải đổi. Thế là tiền giả đem lên nộp quan. Thằng Tây thu về tiền giả mà cách mệnh thì có tiền thật để dùng tự nhiên. Anh Phong bảo ở bên Xiêm, bên Tàu hay bên châu Âu, chỗ nào cách mệnh tranh đấu cũng lợi dụng thuế má của đế quốc mà đánh đòn ấy. Chỉ trừ Liên bang Xô Viết quê hương của cách mệnh và vô sản thế giới thì trong sạch, không có thuế má bẩn thỉu như đế quốc.

Thụ mở đến cái gói nhỏ là một tập giấy thông hành quốc tế. Phong lật từng tờ, xem đi xem lại.

- Cái nền giấy hoa non nét quá. Phải gửi lên Nam Ninh để Trang in đá lại cho mới được. Trên ấy đã thạo làm cái này. Vả lại, cũng còn thong thả.

Phong bàn với Thụ:

- Như vậy, công việc thế là được, xong rồi mai ta đi Hạ Đống. Lớp huấn luyện này thôi ở Long Châu và bắt đầu mở ở Hạ Đống. Mở ở Hạ Đống lại rất tiện đường Cao Bằng và trong nước ra gần hơn nhiều. Nếu Hùng chưa về kịp thì Năm sang Thuỷ Khẩu đón anh em Cao Bằng ra. Đến hẹn rồi. Chúng ta sẽ mở ba lớp, trước khi thành lập ban Tỉnh uỷ. Ba lớp huấn luyện nữa, một đợt truyền đơn tranh đấu nữa chào mừng ban liên Tỉnh uỷ Cao Bằng và Lạng Sơn ra đời. Ta làm thế. Năm sẽ phụ trách việc này. Tuần sau tôi có công tác đi Nam Ninh. Năm ở nhà thay mặt đoàn thể, cứ khai mạc huấn luyện đi.

Một bóng người nhô ngoài cửa hang. Mã Hợp đi chợ Ải Khẩu bán củi về đã lên gác hang ngay. Mã Hợp bước vào, nói:

- Vương “cao” à, Khén Chang chăn trâu xuống Nam Quan nghe vợ khố xanh kể chuyện lính Tàu với lính Tây bên Đồng Đăng sắp cùng nhau họp quân lên vây hang Áng Cúm.

- Bao giờ chúng nó lên vây?

- Hôm nay đấy.

- Khén Chang đâu?

- Khén Chang gác chặng đầu dưới chân núi. Nó bảo mình lên báo cáo các anh như thế.

Thụ nói:

- Cũng vừa xong việc. Ta đi ngay bây giờ được thôi, anh Vương “cao” à.

Thụ cất các gói đồ in vào hốc đá. Lại còn soát cẩn thận, không một thứ gì khả nghi có thể vương ngoài. Hôm ấy thật may, trên hang chỉ còn có Thụ và Phong.

Nhưng Thụ và Phong không ngờ được kẻ địch lại lên núi vây ngay được như vậy, vì Khén Chang mới về đên chân núi và Mã Hợp thì cứ ung dung như không.

Hai người xem lại khẩu súng ngắn giắt trong thắt lưng. Rồi hất ống bương nước vào tắt đống lửa, họ bước mò ra phía cửa hang.

Vừa hay, Khén Chang hớt hải chạy vào, kêu khẽ:

- Sen cháng đưa lính lên!

Thì ra lúc Khén Chang đánh trâu ở Nam Quan về thì cũng một lúc, lính Đồng Đăng rục rịch đi vây.

Đồng Đăng tiến thẳng lên Khơ Đa ngay dưới chân Áng Cúm. Quan cưỡi ngựa, lính chạy, chưa hết một tiếng đồng hồ đã tới. Trong khi ấy bốn con trâu lọ mọ dằng co trong đường núi, kíp lắm, kíp lắm, thế mà Khén Chang còn về qua nhà rồi đi ngay, tới được Áng Cúm chỉ trước chúng nó vài bước.

Trên cửa hang trông xuống đường 4 đã nhan nhản lính khố xanh. Có Tây và khố đỏ dưới tỉnh lên. Quan Tây cưỡi ngựa chạy quay quay trong đám lính. Vó ngựa nện chan chát xuống mặt đường, trên cao nghe như tiếng đập đá sắc lạnh. Tiếng ngựa hí rền rĩ vào lưng núi, bóng sương vùn vụt vừa bay vừa tan, tan đến đâu thì trên này trông xuống thấy chỗ ấy vàng rộm những lính mới đến. Tây vây kín một bên núi Áng Cúm phía đường 4 rồi.

Bọn Quốc dân đảng ở Nam Quan vào chẹn các lối xuống bên này. Không biết chúng nó đã đến chưa. Phía núi ấy còn im phắc.

Thụ nhìn quanh sườn núi một lượt rồi bảo Mã Hợp:

- Không xuống đông được đâu. Chia ra mà đi, Mã Hợp à!

Câu nói là một mệnh lệnh. Rồi tiếp luôn, mọi việc như đã sắp đặt trước cả, Thụ nói:

- Mã Hợp đi với tôi. Anh Vương “cao” với Khén Chang.

Đằng kia có con đường tắt rừng - lối bí mật Thụ tìm ra đề phòng những lúc cần. Tuy lối ấy hóc hiểm, vừa đi vừa trèo cây, qua mấy chỗ đá trọc phải bíu dây đánh đu vào vách núi, trơ lưng ra, nhưng đi đường này địch không biết, không phải biến báo đối phó. Khén Chang đưa Phong xuống tắt đấy.

Thụ hỏi Mã Hợp:

- Sắp sẵn rồi chứ?

- Kia kìa.

Bên cửa hang có mấy bó củi vẫn dựng sẵn từ bao giờ. Mỗi người sẽ vác một bó. Trong phút quyết định, Phong nắm tay Thụ và Mã Hợp. Rồi im lặng Khén Chang và Phong bước khuất vào sườn núi. Mả Hợp và Thụ cúi xuống, ghé vai, xốc bó củi lên, khom khom nặng nề xuống theo đường mòn vẫn đi hàng ngày.

Bọn Tây bên đường 4 đã bắt đầu trèo lên sườn núi, chỗ trên mốc biên giới. Chúng bò lổm ngổm vào từng bụi cây, chỗ nào cũng hô “a-la-xô” rồi xỉa lưỡi lê vào. Vừa làm oai, vừa sợ.

Phía này, lính Quốc dân đảng cũng đương bò lên một hàng dài. Chúng lên tới lưng núi, mới nghe được từ đằng xa tiếng chúng hò hét quát chửi nhau uôm uôm lên vách đá cửa hang.

Thôn trưởng đi trước, tay run rẩy, quờ quạng. Có cả hương trưởng cưỡi ngựa đi theo. Một lính cầm thanh đại đao bước sau lưng thôn trưởng, như giải tù. Chốc chốc, người lính lại dựng con dao to, thúc cái chuôi dài, nghe hự hự vào lưng thôn trưởng. Sau đó mới đến đám lính tiến theo.

Một lúc, Mã Hợp nghe rõ tiếng quát hỏi đằng trước mặt:

- Đi đâu thế nào? Đi làm giặc hay đi hái củi?

Ơ hay, bọn lính gặp ai giữa đường? Có tiếng đáp lại thật to, nhưng nghe không hết câu:

- ... Cho kịp buổi chợ Ải Khẩu mà...

Tiếng ai như tiếng mẹ Mã Hợp. Nghe kỹ, thì ra tiếng mẹ thật. Mẹ lên đây từ lúc nào!

Mẹ đi từ lúc sáng sớm. Nhà vắng không có ai. Bốn phía về nói hốt hoảng nói lính sắp lên lùng hang Áng Cúm. Việc bí mật, tưởng không ai biết, nhưng thật thì cả xóm Lũng Nghìu đều mang máng trên Áng Cúm có gì lạ, nên bây giờ người ta lo sợ về kháo lên như thế. Mẹ lật đật đi ngay. Mẹ kiếm bó củi vác như mọi người đi rừng. Mẹ đã lên từ lâu. Nêu lính không đi sớm, có khi mẹ đã tới hang. Bây giờ thấy chúng nó lên nhanh, mẹ mới bước quay lại, tìm cách cản chậm. Mẹ còng rạp. Bó củi trĩu lưng, như đội cái mai rùa. Quả nhiên, một lúc lâu mới thấy bọn lính nhô ra. Chúng vướng bà cụ, chững lại, bây giờ mới đi được.

Cuối cùng, Mã Hợp và Thụ đã tới trước mặt bọn lính Quốc dân đảng. Bài trưởng bước lên, quát:

- Thằng kia...

Mã Hợp dõng dạc:

- Tôi đi hái củi mà.

Hương trưởng dắt con ngựa. Không dám hỏi trước mặt bài trưởng, sợ phạm lỗi, nó cứ lẩm bẩm, cau có một mình:

- Đứa nào cũng hái củi... hái củi... Con mụ già kia...

Tên dinh trưởng(3) sấn tới, hét:

- Hai thằng này làm cộng sản trên Áng Cúm...

Rồi quay lại, túm ngực áo thôn trưởng, hất hàm hỏi:

- Phải những thằng này là cộng sản không?

Bấy giờ thôn trưởng mới ngẩng mặt. Người thôn trưởng trừng trừng nhìn Thụ. Thôn trưởng đã nhận ra đứng trước mặt mình là cái người ở Long Châu dạo trước về Lũng Nghìu tìm tắc kè ngâm rượu. Người này... nhưng rồi thôn trưởng điềm nhiên, quay mặt vào vách núi, nói khẽ:

- Xóm Lũng Nghìu này chỉ có nghề bán củi mà... Những người này ở Lũng Nghìu đi hái củi thôi.

- Câm ngay. Lên đến cửa hang còn xa không?

- Xa.

Dinh trưởng thở hồng hộc, bỗng “hầy” một tiếng, gạt giúi cả hai người và củi ngã vào khe. May, phía ấy không có vực. Mã Hợp và Thụ vờ đứng nép trong củi, áp vách đá, không cựa quậy. Bọn lính hấp tấp trèo lên nữa.

Khi chúng đã qua hết, Thụ và Mã Hợp cẩn thận, còn cất bó củi vào khe đá, rồi mới chạy. Một lát, đã xuống đến chân núi. Có để ý tìm, nhưng không thấy me. Chắc mẹ vẫn còn đứng lẻn lại để nghe ngóng trong rừng đâu đây. Bỗng trên hang, ran lên một loạt súng. Rồi khói bốc từ lưng chừng núi ra, tiếng vó ngựa, tiếng cỏ nổ như cháy rừng. Lại nghe lộp bộp tiếng vó ngựa đuổi xuống.

Nhưng hai người đã tới đường cái. Vết đường dưới này như chỉ rối, chẳng lo. Mã Hợp đoán:

- Chúng nó không dám vào, đương đốt cửa hang.

Rồi họ đi thẳng về Hạ Đống.

Hai hôm sau mới biết trong tiếng súng ấy có loạt đạn tên dinh trưởng bắn chết thôn trưởng. Chúng nó tới cửa hang, không thấy ai, cũng không dám vào thật. Mà mấy người hái củi thật đáng nghi ngờ thì, vì chúng háu lên hang ăn to, nên đã để sổng từ nãy. Tiếc không kịp, lại càng tức. Dinh trưởng bắt lính chất cỏ, hun cửa hang. Rồi quay lại, xỉa luôn cho thôn trưởng Lũng Nghìu một băng đạn. Hưởng trưởng ngơ ngác sợ, kéo con ngựa muốn chạy. Dinh trưởng lại bắn gục nốt hương trưởng. Con ngựa chồm đùng đùng xuống, tiếng vó ngựa chạy một mình, Thụ và Mã Hợp đã nghe thấy.

Lát sau, toán lính bên Đồng Đăng mới lên tới cửa hang. Dinh trưởng bắt tay quan hai rồi trỏ hai cái xác nằm trước cửa hang:

- Vừa bắn được hai cộng sản trong hang chạy ra.

Quan hai đồn Đồng Đăng không nói gì, rút ra một đệp giấy bạc năm đồng đã kẹp sẵn trong túi da đeo bên sườn. Dinh trưởng nhận hai trăm bạc tiền thưởng ngay tại chỗ.

Chạy về tới Hạ Đống, Mã Hợp vẫn xuýt xoa:

- Thằng thôn trưởng gà mờ quá. May thật, thế mà nó không nhận ra anh.

Thụ không đáp Mã Hợp. Nhưng Thụ nhớ con mắt ngơ ngác của người thôn trưởng lúc ấy cứ chằm chằm nhìn Thụ rồi mới quay đi. Thụ không đoán như Mã Hợp. Con mắt ấy kiên quyết chứ không phải con mắt ngơ ngác. Một ánh sắc như chớp. Người ấy nhận ra Thụ rồi. Nhưng thân phận thôn trưởng, thường ngày việc đi kiếm củi cũng lẫn lộn với việc quan. Lưỡi dao độc ác của các quan trên lúc nào cũng kề sau gáy. Biết sống chết thế nào. Dù đã nhận ra người lạ hôm nọ ở Lũng Nghìu, nhưng cũng không thấy trong lòng gợi điều gì muốn hãm hại người ta. Thế là con mắt quay đi, bấy giờ con mắt mới ngơ ngác và miệng từ từ nói: “... Những người này ở Lũng Nghìu đi hái củi...”.



----------------------------------------------------------------
 (1)Bí danh của đồng chí Lương Vãn Chi.
 (2) Tài liệu lưu tại nhà Bảo tàng Khởi nghĩa Bắc Sơn (Lạng Sơn).
 (3) Chức vụ trong quân đội Quốc dân đảng Trung Quốc, coi một đại đội.

Logged
hoi_ls
Thượng tá
*
Bài viết: 5098



« Trả lời #18 vào lúc: 29 Tháng Tư, 2022, 11:19:02 am »

*

*          *

 

Phong với Khén Chang đã về tới Hạ Đống trước hai người.

Hai người cứ đứng hóng ngoài con suối đầu làng, sốt ruột đợi.

Thấy Thụ từ đằng xa, Phong chạy tới, nhìn Thụ rồi nói khẽ:

- Lúc nghe súng trên núi chúng mình không hiểu ra sao, sốt ruột quá.

Thụ cười, mở cái túi chàm đeo trên vai:

- Chỗ nấm ban sáng vẫn giữ để chốc nữa nấu canh cho anh nếm giống nấm cỏ Lạng Sơn đây.

Thân thiết, tự nhiên và bình tĩnh, sau cơn nguy hiểm. Phong ôm hai vai Thụ.

Quả nhiên là đất Hạ Đống vẫn tinh thần Long Châu đỏ, không phai màu, như đồng chí Nông Kỳ Lâm đã nói năm trước với Thụ. Chế độ “bảo giáp”(5) ở trong làng của chính quyền Quốc dân đảng thật sự chỉ có hình thức. Bên trong, nó là nông hội và những đội tự vệ đỏ của cách mệnh Trung Quốc. Khi nghe tin Thụ về, người cả xóm quanh đấy chạy đến hỏi thăm. Trong nhà ồn ào, khói thuốc lá bốc mù mịt mãi đến khuya mới tan và bấy giờ cơm nước cũng mói xong.

Các cụ già ở Hạ Đống đều nói:

- Hồng quân của Đảng Cộng sản Trung Quốc nói rất đúng. Giặc Tưởng sẽ chết. Đảng Cộng sản Trung Quốc sẽ thành công. Thằng Tây sẽ chết. Cách mệnh Việt Nam sẽ thành công. Trung Quốc và Việt Nam là anh em, cách mệnh Việt Nam đến ở Hạ Đống bao nhiêu lâu cũng được.

Đêm trăng sáng như ban ngày. Ăn xong, Mã Hợp ngáy kho kho. Khén Chang, ngoài năm mươi tuổi, khó ngủ. Cứ băn khoản nỗi ban sáng quên dặn con tối phải nhốt đàn trâu vào chuồng gầm sàn. Mấy lâu nay ở Lũng Nghìu hay mất trâu. Chẳng biết vì bọn bợm ngoài trấn Lũng Vài vào trộm hay vì có con hổ đói mới về quấy rừng Lũng Nghìu.

Khén Chang trở dậy ra sân ngồi trong ánh trăng, lấy dao cắt cái quạt lá cọ. Thụ và Phong, nằm trong hiên, vẫn đương thì thào bàn công việc gì đó.

Có đám người trong xóm ra tắm đêm ngoài suối, về đứng tụ lại xôn xao trước ngõ. Họ vừa dẫn về một người, ngờ là ăn trộm. Nhiều nhà lúc ấy chưa ngủ, cũng chạy ra. Họ nói: Có khi là mật thám đuổi theo Mã Hợp... Mật thám cho Tây hay cho Quốc dân đảng thì cũng phải bắt trôi sông... Mọi người xúm xít. Người bị bắt không nói, mặt mờ xám như bóng tối. Cái áo Nùng rách tơi, bươm từng miếng. Cái đầu trọc trắng đến nỗi trong ánh trăng cũng trông thấv lỗ chỗ vết thâm xỉn, như đầu trẻ con chốc lở đem bôi phẩm xanh. Người ấy cứ lặng im như cái xác chết đứng. Hay là người này ăn trộm ở đâu, bị đánh rồi chạy thoát về đây cũng nên.

Khén Chang chen vào. Vừa nhìn, Khén Chang kêu to:

- Sảo Kinh! Ô hay! Sảo Kinh sao thế này!

Nghe tiếng người gọi tên mình, Sảo Kinh bỗng ngồi sụp như rơi người xuống, rồi ngã ra. Hình như con người ấy đã cố lắm, chỉ còn sức đến đấy, chỉ còn đợi gặp người biết mình... Lúc ấy có người nói to: “Chu Sảo Kinh bên Khơ Đa ấy à? Ôi trời, làm sao thế này?”. Đám đông bối rối lên. Rồi cõng Sảo Kinh vào nhà. Phong lật đật đi nấu cháo. Mã Hợp đã thức, xốc Sảo Kinh lên đầu hè, lấy hai tay day mạnh thái dương rồi đổ nước nóng, Sảo Kinh dần dần tỉnh, Sảo Kinh nói:

- Hùng đến được Cẩm Phả rồi. Nó bảo tôi về trước.

Mã Hợp hỏi:

- Làm sao đến nỗi thế này?

- Thằng đồn Đình Lập bắt tao.

Chuyến ấy, lần đầu tiên, Sảo Kinh đưa cách mệnh ra vùng mỏ.

Trên biên giới phía bắc nước ta, từ tỉnh Lai Châu xa nhất về phía tây sang vùng Móng Cái giáp biển Đông đều có những đường tắt không qua tỉnh lỵ nào, xuống đồng bằng nhưng tránh Hà Nội và Hải Phòng mà tạt chéo sang đông nam, đổ vào một dãy các thị trấn ven biển: Cẩm Phả, Mông Dương, Tiên Yên, Đầm Hà, Hà Cối. Đó là con đường thuốc phiện mang lậu ra biển. Người đi đường đột ngột gặp một thị trấn giữa rừng mà không thể cắt nghĩa được tại sao nơi hẻo lánh thế mà đông vui. Lai Châu có Tam Đường, Bình Lư... Lào Kay có Xíu Mần, Cốc Pài... Hà Giang có Mèo Vạc, Lũng Phìn... Cao Bằng có Khau Vai, Đồng Mu... Đây là những trạm nghỉ không hẹn mà nên và nơi thuê người tải hàng, cứ dần từng quãng ra biển. Buổi chiều, những cái thị trấn giữa rừng ấy nhộn nhịp ngựa về buộc quán chợ và mùi thuốc phiện ở bàn đèn tất cả các nhà sực nức toả khắp xóm.

Các đồn Tây, lính đoan suốt một dọc từ Đình Lập, Tiên Yên, Hà Cối đến Mũi Ngọc đều đã biết tài đem hàng lậu của Sảo Kinh. Dù Cao Bằng, Lạng Sơn hoặc có khi từ Mèo Vạc, Đồng Văn bên Hà Giang xuống, Sảo Kinh toàn len lỏi đầu rừng ven núi, không hề biết mặt đường cái, thế mà cuối cùng, cũng ra được bể. Lần nào cũng vậy, dù đã được báo trước Tây đoan công phu lắm mới vây bắt được. Nhưng đến lúc bắt được thì hàng đã giao xong xuôi ra bể, Sảo Kinh đã phủi hai bàn tay không, chẳng ai làm gì nổi.

Chuyến này Sảo Kinh ra đông bắc. Tây cũng biết mà không lần được vết. Cuối cùng, Hùng đã tới Cẩm Phả liên lạc được với người của Phong và bắt tay ngay vào công tác phong trào mỏ.

Sảo Kinh về trước.

Có điều Sảo Kinh không ngờ là Tây đã biết lần này Sảo Kinh làm cách mệnh, không phải Sảo Kinh mang hàng lậu. Vì vậy, như những lần trước, Sảo Kinh trở lại, tay không có hàng thì không lo gì nữa, cứ ung dung chọc gai vào mắt các đồn Tây, Sảo Kinh thẳng đường qua Đình Lập về Lộc Bình, ngủ nhà trọ ở phố và thuê xe ngựa đi...

Nhưng lần này khác.

Mật thám Đăng Vít tưởng phen này đến tay ty liêm phóng Lạng Sơn phát tài được món bổng to. Đăng Vít đem máy quay điện xuống tận Đình Lập đón bắt.

- Mày đi với thằng Dong từ Cao Bằng sang?

- Không biết.

- Chúng mày xuống mỏ làm gì?

Sảo Kinh nói:

- Tôi không biết.

Đăng Vít lại đưa ra quyển sách có ảnh những người hoạt động cách mệnh đương bị sở liêm phóng truy nã, trong sách có ảnh Hoàng Đình Dong, Sảo Kinh nhìn thật lâu như suy nghĩ, như nhớ lại, rồi Sảo Kinh từ từ lắc đầu.

Đăng Vít cười nhạt, nói:

- À tao nhớ ra rồi, tao nhắc mày nhé, tên nó bây giờ là Hoàng Đình Hùng, tao quên. Phải rồi, thằng Hùng...

- Tôi không biết người này.

- Thế mày đi đâu?

- Tôi vừa đi gánh thuê một chuyến hàng ra Tiên Yên.

- Thuốc phiện à?

- Không, dầu hồi.

- Nói láo.

- Tôi vẫn gánh hàng thuê đi đường này, các quan đồn nhẵn mặt tôi rồi.

Hòm điện réo o o. Sảo Kinh sặc lên, chết ngất.

Nhưng Sảo Kinh không nói gì hết. Không biết làm thế nào, Đăng Vít đem Sảo Kinh về Lạng Sơn.

Trong buồng tra của ty liêm phóng, Đăng Vít hỏi:

- Mày đưa thằng Dong đi Hòn Gai làm gì? Bây giờ nó đâu?

- Bẩm, tôi không biết.

Thế là lại đòn. Một tháng trời ròng rã đánh, lại đánh, vẫn chỉ có một câu “tôi không biết”. Người đánh cứ đánh, cứ hỏi, Sảo Kinh cứ nói một câu thế. Một hôm, khi tỉnh lại, Sảo Kinh trông thấy thằng mật thám ta phụ việc của Đăng Vít ngồi ôm cái hòm điện. Nó đợi Sảo Kinh mở mắt, lại quay, Sảo Kinh nói:

- Mày độc ác đánh tao đau thế rồi ngày sau cũng có người đánh mày đau thế, mày không biết sợ giời quả báo ư?

Thằng mật thám lại mắm môi, quay, Sảo Kinh sặc ra máu tươi. Đến lúc tỉnh, Sảo Kinh lại nói:

- ... Ngày sau cũng có người báo thù cho tao sẽ đánh mày đau thế này...

Nó lại quay.

Nhưng quay mãi vẫn không làm gì được. Nó phải thả. Sảo Kinh rật rờ thành cái xác ma. Tưởng chết ngay ở cửa nhà giam. Không ngờ mà Sảo Kinh đi lần về được.

Sảo Kinh nói với Phong:

- Hùng đến nơi rồi. Tôi xin về báo với Đảng thế.

Phong nắm bàn tay Sảo Kinh. Một miếng tay lạnh ngắt. Phong giật mình. Bàn tay chết. Thụ ôm cánh tay Sảo Kinh rồi quay mặt đi, không cầm được nước mắt.

Sảo Kinh ngước mắt, nhìn ra sân:

- Bây giờ rạng ngày rồi, tôi về Khơ Đa.

Khén Chang nói:

- Ở đây uống thuốc. Tao có bài thuốc dã đòn hay lắm.

Sảo Kinh thở dài, nhìn lên xà nhà:

- Khén Chang à, lúc ở tỉnh về qua nhà tao ở Khơ Đa đáng nhẽ tao chết rồi. Anh Vương “cao” xem bàn tay tao chết rồi phải không? Nhưng tao nghĩ: không chết oan được, phải đi báo cho Đảng biết. Thế là tao đi sang đây, sức tao không đi nổi, đây là cách mệnh đi đấy thôi. Bây giờ thì tao chết được rồi. Thằng Tây đánh tao độc ác lắm. Ngày sau, Đảng nhớ báo thù cho tao. Mã Hợp, mày nhớ ngày sau bảo cách mệnh báo thù cho tao.

Sảo Kinh không nói nữa.

Thụ và Mã Hợp thay nhau cõng sảo Kinh về Khơ Đa, ngay sáng ấy. Đến nhà thì Sảo Kinh chết.




-----------------------------------------------------------------
(1) Tổ chức “bảo giáp” của Quốc dân đảng Trung Quốc ở trong làng gồm một số hộ thành một giáp, môt số giáp thành một bảo. Tổ chức này có mục đích rình mò, tố giác lẫn nhau hoặc để dễ bắt phu, bắt lính.
Logged
hoi_ls
Thượng tá
*
Bài viết: 5098



« Trả lời #19 vào lúc: 29 Tháng Tư, 2022, 02:32:14 pm »

VII


Địch cứ nghe ngóng và khủng bố, phong trào cứ lan rộng và đã xuống đến châu Ôn. Ở Quang Lang, cửa ngõ Chi Lăng đã có tổ. Các bà các chị trong làng cũng nhiều người biết cách mệnh, ở Khơ Lếch, ở Vĩnh Cốt, các chị đi giao thông. Chị Máo đấy, một tay nải truyền đơn này mà đem về rải xuống tận chợ Bãi. Chị Khó thì đưa cơm lên tiếp tế cho anh em họp trên hang Áng Cúm. Chập tối, chị đã vào đặt truyền đơn trước cửa đồn Đồng Đăng. Lính quát hỏi, bảo đi tìm trâu lạc. Hôm sau thì thấy truyền đơn vào tận nhà ăn.

Bọn Pháp tận Hà Nội cũng lo cuống. Một cánh mật thám Đăng Vít ở Lạng Sơn như mọi khi không đủ. Thế là thêm nhiều mật thám Hà Nội lên, bên Cao Bằng sang. Đêm ngày chúng xua quan châu, tổng đoàn xuống xã. Bỏ tiền, bỏ chức tước ra mua người làm chó săn thả đi ngấp nghé khắp các nơi. Mật thám tỉnh về đặt bàn giấy ngồi đôn đốc việc tận châu.

Ở Điềm He, phó tổng Liến đánh hơi thấy có cách mệnh về, nó ra xin đi bắt cách mệnh. Đăng Vít nói:  “Này ông phó tổng, ông lấy được đầu Hoàng Văn Thụ thì quan cho con ông chân châu uý Điềm He”. Phó tổng Liến hỏi lại: “Bẩm quan, nộp đầu Lương Văn Chi có được không?”. Đăng Vít gật.

Phong trào đã bắt rễ đến Điềrn He thật.

Một hôm, hương sư Noãn đánh cá, làm rượu mời Tính đến đánh chén. Trong làng, Tính và Noãn, hai người có chút chữ nghĩa, thường chơi với nhau. Tính mới ra tranh trượt chân hương sư, bây giờ sắp phải đi Đồng Mỏ học thợ may. Nhưng còn trù trừ, vẫn ngóp được làm thầy giáo. Làm thầy giáo hơn ngồi lò khâu.

Rượu vào, hương sư Noãn nói:

- Tôi sẽ xoay cho anh. Năm kia tôi ra hương sư cũng phải lót tay các quan thế. Cốt biết đường chạy thôi.

Tính thở khà, nói:

- Tôi cần gì!

- Không nên bực chí. Cũng như ta ra đánh đố chữ ở Đồng Mỏ, thua chữ này, đặt chữ khác.

Tính trợn mắt:

- Không phải tôi bực chí. Mà tôi cũng chẳng cần cái hương sư đâu. Xã hội loài người bây giờ có những chuyện to lớn, thế giới lung tung lắm rồi, anh không biết ư?

Hương sư Noãn rụt rè, nghênh một bên tai:

- Tôi chẳng biết gì cả.

Tính càng làm ra vẻ hiểu biết:

- Giời ơi, thế thì anh chẳng biết cái gì cả thật đấy. Thằng Tây, thằng quan ở Lạng Sơn bây giờ không còn là to nhất đâu, nó như con cá chúng mình đương nhắm này, lúc nãy cá dưới ao bây giờ cá đã nằm trong chảo. Cách mệnh nổi khắp nơi rồi.

Càng nói thì Tính càng thấy là hương sư Noãn thật dốt. Thế mà nó lại hơn mình, nó lại đương có thế lực và định chạy việc cho mình khỏi đi lò khâu ở Đồng Mỏ! Lúc này, Tính cao hứng thấy thật là thương một con người như Noãn, xưa nay chỉ biết đến việc ra Đồng Mỏ ăn bát phở chua của nhà Tài Dẻo mà đã rối rít khen ngon rồi, ngày ngày nó chít khăn, đến lớp, nó gõ thước cạch cạch doạ trẻ con, nó chẳng còn trông thấy trời đất dọc ngang thế nào nữa, so với Tính, trí óc của Noãn chỉ bằng cái mắt con muỗi. Tính thấy thật như thế. Noãn chỉ biết co dúm lại gật gưỡng khen: “Giỏi quá, giỏi quá”, nghe Tính nói rồi lại cầm chai rượu, mở to đôi mắt thán phục, hỏi “thế ư? thế ư?” luôn miệng rồi cúi xuống rót rượu cho Tính. Anh hương sư Noãn khúm núm, như nghe Tính giảng dạy. Thế ra mình giảng dạy cho nó đến đâu thì nó mới biết đến đấy, cao hứng quá. Tính rút trong cái thắt lưng ra tờ truyền đơn gấp tư.

Noãn kêu khe khẽ:

- Trời ơi, từ nãy em tưởng anh nói thế chứ thật anh cũng là cách mệnh ư?

Tính vừa khoái chí vừa rùng mình nói:

- Bí mật đấy.

- Anh cho tôi theo cách mệnh với...

Nghe thế, Tính hết cái chợt hoảng vừa đến. Thế là Tính đã rủ được Noãn vào tổ chức. Noãn là người tốt, giác ngộ nhanh. Tính lại hăng hái trở lại như lúc nãy. Tính “hứ” một cái, rồi thì thào ghé tai Noãn.

Tính kể cho Noãn nghe rằng cả vùng Khe Lếch và Vĩnh Cốt này đã vào cách mệnh cả. Đàn bà mà dám đeo tay nải truyền đơn đi rải tận chợ Bãi. Lại đưa cơm lên hang Áng Cúm cho cách mệnh. Ghê nhất, có chị phụ nữ ở Khơ Đa, xông vào ném truyền đơn trong đồn Đồng Đăng, gặp lính chị giơ súng, lính chịu. Chị hô hào lính đánh Tây rồi ung dung đi ra. Ghê không.

 

*

*          *

 

Ít lâu sau.

Khắp châu Văn Uyên, châu Ôn, châu Điềm He, huyện Tràng Định, cả Lạng Sơn, cả bên Cao Bằng, có nhiều người bị bắt. Mật thám đem hòm điện về tra người bị bắt ngay tại làng. Rồi người bị bắt nhiều quá. Chúng đem về, đóng thành cũi, nhốt ra cả các cầu chợ Kỳ Lừa giữa tỉnh.

Ban ngày mà trời tối tăm lại. Bọn chó săn len lỏi, chui rúc được nhiều nơi, sang cả Hạ Đống, vào lớp huấn luyện chính trị. Một lần, suýt nữa thì Mã Hợp cũng bị sa lưới.

Giữa tháng tám, còn rốn làm xong một lớp nữa, Phong mới ra Hồng Kông có công tác. Lớp này tám người dự. Sau đó, ba người ở Lạng Sơn trở lại địa phương, có người thoát ly đi gây cơ sở.

Phong giao Mã Hợp đưa Mạo về công tác châu Bằng Mạc.

Địch vẫn đương khủng bố khắp nơi.

Xuống Bằng Mạc, đi đến trưa thì tới xóm Háng Pài. Hai người vào nghỉ trưa ở đấy. Vừa bước lên nhà, gặp người trong nhà ra, chủ nhà chào rồi đi thẳng.

Thấy đáng nghi, Mã Hợp nháy Mạo:

- Đi xóm khác thôi.

- Không sao đâu. Đói rồi, ở đây vậy.

Mã Hợp không nghe:

- Tao xem vẻ không tốt đâu.

Mạo dỗ Mã Hợp:

- Ăn đã.

Mã Hợp cứ thấy bồn chồn. Để Mạo thổi cơm, một lúc, Mã Hợp ra ngoài, lên đồi sau nhà, nhìn ra phía đầu xóm trước mặt. Bỗng nghe lối vào xóm có tiếng chó sủa. Tiếng sủa ông ổng như chó lài, không phải giống chó nhà. Mã Hợp hốt hoảng xộc xuống, bảo Mạo:

- Lính vào!

- Mặc kệ lính! Hăy ăn đã.

Thấy thế, Mã Hợp lại phốc ngay lên đồi. Trông xuống đã thấy áo lính vàng rộm đầu xóm. Mã Hợp lẩn vào rừng, vừa chạy vừa chửi: “Cái thằng Mạo đi mật thám, làm bẫy bắt cả mình mà cách mệnh không biết, định cho nó làm cán bộ, chết thôi!”.

Tháng sau, Mã Hợp sang chợ Đồng Đăng bán củi. Nhác trông ai như Mạo. Nó mặc áo đội xếp màu dạ cứt ngựa có bốn túi, thắt lưng da, đội mũ, đi giày vàng có cổ. Trước còn ngờ ngợ, đến lúc cố theo nhìn lên mặt thì là Mạo thật.

Từ hôm ấy, cứ thoáng thấy lính lại phải chạy. Năm trước, nói dối thằng Đăng Vít là từ thuở bé cứ thấy lính thì chạy, bây giờ hóa thật. Nhưng đằng nào thì cũng phải xuống Đồng Đăng bán củi có thằng Mạo làm đội xếp cạnh chợ. Không lẩn đi đâu được. Thế nào cũng có hôm phải gặp.

Một hôm, Mạo thấy Mã Hợp trước, nó gọi hỏi to:

- Có nhớ tao không?

Mã Hợp nghĩ: À tao nhớ mày rồi, mày là đứa phản trắc, bây giờ mày làm nghề đánh người ăn tiền của thằng đội Năm ngày trước ở Kỳ Lừa chứ gì.

Nghĩ thế, nhưng Mã Hợp chỉ rì rầm nói:

- Ông đội Mạo, tôi có nhớ... ông đội Mạo...

- Có sợ ông đội Mạo không?

Đột nhiên Mã Hợp sừng sộ:

- Mày làm chuyện hèn thế, ai mà sợ! Hôm ấy biết trước rồi chứ gì! Thế mà không bảo tao.

Mạo lúng túng cãi:

- Ai biết. Đến lúc nó vây quanh nhà rồi thì còn chạy đâu! A này có nhiều đồng chí hay qua Lũng Nghìu không? Anh Vương “cao” đã về Hạ Đống chưa?

- Không đứa nào dám về nhà tao nữa rồi. Tại mày đấy.

- Sao thế?

- Cách mệnh ngờ tao đi mật thám với mày.

Mạo nói:

- À, tao nghĩ đi cách mệnh có được xu nào đâu mà thằng Tây tóm được thì chết, tội gì theo đuổi mãi.

Mã Hợp không dám cãi câu phàn nàn ấy. Mạo rủ Mã Hợp về nhà uống nước. Sợ nó làm mẹo bắt. Nhưng nhìn quanh, không cách nào lủi, đành theo. Mã Hợp dựng bó củi ngoài vách. Nó bảo vác vào bán cho vợ nó. Mã Hợp đem củi xuống bếp rồi bước lên nhà, đi qua cái vải hoa đẹp che cửa gió phất phất.

Cái bàn cái ghế mới màu gụ, bàn ghế này của thợ khéo tận dưới Đồng Mỏ lên đóng.

Mạo chép miệng:

- Những điều anh Vương “cao” dạy tao ở bên Hạ Đống, tao càng nghĩ càng thấy đúng, không một câu nào bỏ đi được. Tao gặp anh Vương “cao” bây giờ thì tao vẫn phải chào anh ấy như chào thầy giáo mình thôi. Nhưng tao chỉ nghĩ thấy làm cách mệnh thì khó tao không làm được nên phải về đi đội xếp kiếm ăn vậy.

Mã Hợp nghĩ: “Mồm mày như cái sẹo trâu, đút lỗ mũi nào cũng được. Đểu quá”. Rồi Mã Hợp cứ vờ cằn nhằn:

- Mày giết tao từ hôm ấy. Tại mày chạy cho nên cách mệnh nghi tao, thế nào rồi nó cũng về giết tao. Mà mày đi báo Tây thì tao cũng chết. Đằng nào tao cũng chết, khổ thân tao.

- Tao nghĩ tình, tao tha tội cho mày rồi chứ không có lúc nãy ông xách cổ mày lên đồn Đồng Đăng thì còn gần hơn đi về đây. Thôi im đi!

Mã Hợp cứ lẩm nhẩm:

- Đằng nào thì rồi tao cũng chết thôi.

- Không sợ. Hôm nào tao sang Lũng Nghìu rủ mày đi Bằng Tường mua cái xoong, mày đi với tao nhé. Tao tha tội cho mày rồi, đừng sợ. Từ giờ tao chơi với mày, mày nghe tao bảo, thì rồi mày cũng được sung sướng, tao bảo thật.

Lúc ấy, vợ Mạo ra tưởng nó ra chào mình, hóa ra nó bước đến, chống một tay lên mạng sườn, mắng:

- Thằng Mán rừng bán củi kia! Ngồi bẩn ghế nhà tao, cút ngay!

Mã Hợp nghĩ đau trong bụng. Thế mà phải đứng dậy, bước ra. Vừa đi vừa nói một mình: “Ông tha cho mày thì có, không có cách mệnh thì ông giết chết tươi cả hai vợ chồng mày hôm nay rồi”.

 

*

*          *

 

Đến hôm gặp Thụ, Mã Hợp bảo:

- Thằng Mạo này mới làm mật thám, chưa biết nghề. Phải tay thằng mũi lõ Đăng Vít thì nó đã đem cái sổ to ra hỏi ảnh, hỏi chữ. Tức thật, mình biết chữ rồi mà nó không biết hỏi!

Thụ cũng phải phì cười. Nhưng Mã Hợp thở dài nói tiếp:

- Dạo này đứt môi cả các châu, bị bắt nhiều quá.

Thụ nói:

- Chỉ có một thằng Mạo, một thằng Noãn cam lòng làm chó thế thôi. Không đáng lo, Mã Hợp ạ. Một người không tốt, nhưng ta có trăm người tốt. Sự thật như thế đấy. Hôm nay chúng mình ăn cơm sớm, rồi sang Khơ Đa. Đêm nay, chúng ta làm lễ truy điệu đồng chí Sảo Kinh, rồi các tổ bên Khơ Đa đi đấu tranh cho thằng Tây biết, cách mệnh đã nổi lên rồi, không bao giờ nó vật nổi cách mệnh đâu.

 
 

Logged
Trang: « 1 2 3 »   Lên
  In  
 
Chuyển tới:  

Powered by MySQL Powered by PHP Powered by SMF 1.1.21 | SMF © 2006-2008, Simple Machines

Valid XHTML 1.0! Valid CSS! Dilber MC Theme by HarzeM