II
Anh em nhà họ Mã dưới Lũng Nghìu trước kia ở bên Ma Mèo.
Năm một nghìn chín trăm mười bảy (1917), sau khi Đặng Tử Mẫn thuê người đánh vào đồn Tà Lùng bên Cao Bằng được ít lâu, việc không thành, nhưng còn lại câu chuyện đồn thổi, thế là người ta thấy đánh thằng Tây, thằng quan cũng có thể được và đã có người đánh thật rồi. Một hôm, tri phủ Cung Khắc Đản ở Thất Khê có việc quan, đi xe ngựa ra Đồng Đăng. Đến chỗ qua cầu Tà Lài, sang bên bờ suối Lũng Lừ gặp một đám người các làng Tà Lài, Ma Mèo, Cốc Nam, Khơ Đa vừa đi phu làm đường Bình Nghi về đến đấy. Đang cáu giận gì không biết, họ xô ra - cứ xẻng cuốc ấy giơ lên, đánh chết cả quan phủ và con ngựa. Chỉ có người xà ích chạy thoát. Sau đấy, Tây ở Lạng Sơn đem lính về triệt hạ trụi cả bốn làng. Nhiều nhà trốn, vượt biên giới. Nhà Mã Thành Nhân phải trôi giạt sang Lũng Nghìu là từ cái tích ấy.
Đến bây giờ, đã ngoài mười năm.
Xóm Lũng Nghìu chen chúc lẫn với đá. Nhưng người ở núi bảo ở gần đá như thế đỡ bị gió cuốn đổ nhà và khi có cướp hay có quan quân đến, người ta dễ gọi nhau trốn lên hang.
Trông xa, chỉ thấy Lũng Nghìu lô nhô đá với đá, lạnh ngắt. Cái nhà chẳng khác con tắc kè, hệt màu đá, bám vào đá. Đến gần mới nhìn ra cái mái tranh xám đen ngất nghểu trên mảnh tường trình vàng loang lổ. Suốt ngày người đi đâu hết, không nhà nào có khói. Chỉ đến chặp tối, trong xóm mối loé ánh lửa.
Người Lũng Nghìu quanh năm chỉ biết sống bằng của trời đất. Mùa xuân nghe chim gọi vịt kêu thì sắp sẵn giỏ đợi mưa mới xuống, ra chân núi bắt ếch chơi xuân đi tìm đôi. Rồi tháng sáu, tháng tám lúc thì móc con tắc kè, lúc thì đào con tê tê, rồi bắt con thỏ rừng, con trăn gió. Vì miếng ăn nên khéo, chẳng con vật nào bị người trông thấy mà nó chạy thoát nổi. Mùa nắng đi cắt tranh. Còn cả năm thì đi hái củi kiếm cái ăn hàng ngày. Bó tranh và gánh củi, con tắc kè, con thỏ đem xuống bán chợ Đồng Đăng, chợ Ái Khẩu. Bán xong lại lặn lội vào khe đá.
Người già hay than thở: ngày xưa, cái gì cũng khác, cũng nhiều, cũng đẹp hơn bây giờ. Ngày xưa, cả đến con tắc kè cũng còn khờ dại cứ gọi nhau đến ngay đầu nhà cho mà bắt, không phải leo khó nhọc lên đỉnh núi tìm hang như bây giờ. Cỏ tranh thì đứng cửa đã ngập mắt, đi một bước cũng quơ được hàng gánh. Chẳng biết xưa có thế không, nhưng quả là bây giờ đào nổi con tê tê đem bán được đồng bạc cũng đứt hơi. Một ngày chỉ hái xong bó củi đã tối rồi. Các cụ nói ngày xửa ngày xưa nào đấy vui hơn, sung sướng hơn còn đời người ta thì cứ mỗi năm mỗi khổ thêm. Nhưng có lẽ những người khổ bây giờ, đến ngày sau cũng lại nói rằng trước kia sướng hơn bây giờ nhiều. Đời người nghèo cứ lần hồi, mòn mỏi và khao khát thế.
Tối mịt, Mã Hợp mới về. Chưa thấy người, đã nghe bó củi buông phịch đầu nhà, rồi cửa phên mở, có gió lùa vào tiếng thở phì phò.
Mã Hợp thấy bên đống lửa bếp có hai người lạ. Mẹ quay ra, nói:
- Anh em bên Nhân Lý sang chơi.
Rồi mẹ cúi xuống, cời lửa. Mã Hợp đoán mẹ mới nói thế đã lại ứa nước mắt. Vì Mã Hợp biết khi nhà có khách mà vẫn chỉ trơ chỏng cái nồi cơm như mọi ngày thì bao giờ mẹ cũng khóc.
Thụ không biết Mã Hợp. Nhưng Mã Hợp nhận ra Thụ. Những năm trước, có lần Tết được về quê mẹ, Mã Hợp đã gặp Thụ. Mã Hợp nhớ ra Thụ chỉ vì nhớ cái mũ đẹp năm ấy. Cái mũ lợp vải bóng đỏ tía lót xanh dễ chừng phải mua tận Hà Nội. Cả đám trẻ chơi ở Đon Đình hôm ấy chỉ mình Thụ có. Còn Mã Hợp thì từ bé mới trông thấy cái mũ đẹp nên nhớ mãi.
Nhưng không bao giờ Mã Hợp tưởng rằng lại có ngày Thụ đến nhà mình. Những năm sau này, bố mẹ càng già càng nghèo, càng chui xuống tận cuối cùng cái nghèo. Rồi Tết tháng bảy, Tết tháng mười, Tết nào cũng không đủ quần áo, chẳng về chơi được quê ngoại nữa. Rồi chợt có những lúc khách quê mình tới, nhà không có nổi nắm gạo bỏ thêm vào nồi, mẹ xấu hổ, tủi thân, nước mắt sa xuống, phải quay mặt đi.
Mã Hợp ngồi phịch, giơ tay cởi cái áo tơi, rũ bụi nước ra. Ngoài kia, sương rơi xuống lưng tàu lá chuối dại, nghe lộp bộp nặng hạt như mưa. Đêm nay sương nhiều lại buốt đây. Mã Hợp ném cái áo tơi vào góc nhà. Rồi xoay người lại, cái lưng nó càng gù to, cúi xuống thổi bếp phù phù, đống lửa rực hẳn, rồi cháy đùng đùng, trong nhà rực rỡ, vui hẳn lên. Mã Hợp nói to:
- Có anh em bên quê sang chơi, mẹ được vui rồi. Các anh về đến nhà mình đã lâu chưa?
Mã Hợp trật khăn, cào tay lên cái đầu trọc, kêu ồi ồi như còn đương đứng giữa chợ, lại nói:
- Chợ đông người bán quá, củi rẻ quá.
Chi hỏi:
- Ế củi phải mang về đấy à?
- Không, đấy là vác sẵn mấy bó ngoài rừng về để đấy mai tiện đem chợ sớm.
Mẹ hỏi nhỏ:
- Bán được củi không?
- Có cái thết anh em rồi đây, mẹ ạ.
Mã Hợp cởi trong lưng ra, đặt xuống đất một cái túi chàm to đựng ngô xay đã ngâm sẵn, lúc nãy vừa mua được dưới chợ của người Mán. Cái bao ngô được bỏ ra rồi mới biết Mã Hợp cao lớn, vai rộng chứ không phải Mã Hợp gù. Mã Hợp có vẻ khoái chí, nhìn Thụ, lại nhìn Chi, cười khì khì. Đã quên hết cái khó nhọc rét buốt lúc nãy vừa ở ngoài đường vào.
Thụ hỏi:
- Bán củi sắm Tết chưa?
Mã Hợp cười to:
- Bán củi thì sắm Tết thế nào được, còn mùa này thì con tắc kè đã vào ngủ kỹ trong khe đá rồi, nó chẳng thèm ra cho mình kiếm tiền sắm Tết được đâu.
Câu chuyện buồn cứ vui như pháo nổ.
Đến tận khuya, mới được nồi cháo ngô. Mã Hợp giục:
- Ăn hết đi, mai lại có.
- Mai lấy đâu?
- Mình mất củi thì được người ta cho tiền thôi.
- Được rồi...
Im một lát rồi Thụ trỏ Chi, nói:
- Được rồi, mai hai chúng mình cùng đi lấy củi với Mã Hợp.
Mã Hợp trố mắt.
Thụ nói:
- Lúc chặp tối, mình đã nói với bố mẹ rằng chúng mình lần này sang đây vì thời thế đi tìm đường chứ không phải đi chơi, cũng không phải đi buôn. Chúng mình sẽ ở đây ít lâu, ở đây cũng như ở nhà, anh em ta giúp nhau làm, kiếm tiền.
Mã Hợp cười to:
- Mỗi ngày cả nhà mình cùng đi thì kiếm được bốn bó củi. Bán hết bốn bó ấy đã khó lắm. Có hôm nào bán nổi bốn bó củi đâu. Chợ Đồng Đăng hay chợ Nam Quan cũng vậy, bây giờ ở đâu thì người bán củi cũng đông hơn người mua củi. Có lấy củi về nhiều cũng để đấy cho mối ăn thôi, chả nên đâu.
Thụ nhìn Chi, thoáng bối rối. Thụ hỏi sang chuyện khác:
- Tết này thế nào?
- Tết này cũng thế thôi, ở đâu cũng kiêng chợ bốn ngày Tết, không đi bán củi được, thế là nhịn đấy.
- Hôm nay ngày bao nhiêu rồi nhỉ?
- Còn buổi chợ Ải Khẩu ngày mai nữa.
- Còn ngày chợ mai nữa đã là Tết rồi à?
Mã Hợp thẫn thờ nói:
- Ngày Tết người ta đi đánh đố chữ thì mình ngồi nhà xem lửa.
Không ai nói gì nữa. Những câu nói vui bây giờ cũng nhạt đắng hẳn đi. Cái Tết gay gắt quá. Gió đuổi vuốt đuôi nhau từ trong núi ra, chạy quẩn bốn phía đầu nhà như có trăm nghìn con mèo rừng cùng gào lên một lúc. Rồi đột nhiên bỗng lại im phắc và cái lạnh càng ri vào, buốt hơn lúc nãy. Bên ổ tranh đằng áp tường, mẹ vẫn trở mình. Nghe nhắc đến Tết không có gì, Tết suông như thế, chắc mẹ lại khóc. Có lẽ cả Thụ và Chi cùng đương băn khoăn. Nhưng không ai nói ra. Làm thế nào, cách nào để có thể nán ở đây? Cả nhà ai cũng tốt, nhưng nhà này thật không thể chứa nổi hai người ăn không đến một bữa.
Mã Hợp khẽ hỏi:
- Các anh bảo các anh sang đây làm gì? Lúc nãy mình nghe chưa rõ.
- Chúng mình đi cách mệnh.
Mã Hợp đã đoán nhầm lúc nãy mẹ khóc vì không có gạo. Không phải, lúc nãy mẹ không khóc. Mà bây giờ mẹ mới khóc. Đi cách mệnh! Đi cách mệnh! Những câu Thụ nói, mẹ đã nghe. Nhiều năm trước, mẹ đã được thấy nhiều người từ trong nước ra qua đây, những người đẹp lắm giỏi lắm, cũng nói giống như thế, rồi đi. Không biết họ đi đâu, nhưng mẹ chắc họ đi làm việc gì to lớn, khó khăn, nguy hiểm. Nước mắt mẹ ướt nếp, đệm tranh. Những người ấy đều thật tốt, không giống ai ở chợ. Mẹ nhớ lại và bây giờ mới khóc đấy.
Mã Hợp nhắc lại:
- Cách mệnh... cách mệnh à...
Thụ nói thêm - như gỡ chân cho con gà mắc tóc đương ngắc ngứ:
- Mã Hợp à, nước ta bây giờ chỉ toàn người khổ, chỉ vì thằng Tây đến cưóp của, ăn hiếp nhiều quá. Chúng mình sẽ làm cách mệnh, đánh chết thằng Tây và thằng quan đi, như thế, cho mọi người khỏi khổ.
Mã Hợp nhìn Thụ, lại nhìn Chi:
- Năm trước, có nhiều người cũng bảo ra đi tìm như thế. Các ông già, có râu, có ông tóc bạc, không ông nào ít tuổi như các anh đâu, mà cũng không ai có quê gần, các ông bảo quê xa tận Nghệ An, tận đâu nữa, ông nào cũng hay chữ, viết nhanh như nói chuyện. Bố mình đưa các ông đi Long Châu. Từ ngày ấy chưa ai về.
- Chúng mình cũng đương đi tìm cách mệnh có lẽ như các ông ở Nghệ An ấy đấy.
- Các anh gặp chưa?
- Phải đợi ít ngày.
Mẹ lại vẫn nghe rõ cả. Thằng Mã Hợp quên rồi, thằng Mã Hợp quên, nó không kể có lần mẹ nó đã đưa những người cách mệnh như thế đi đến Long Châu. Mẹ đã đưa người cách mệnh đi. Phải, những người đi cách mệnh đều kể chuyện rằng mai sau đất nước sẽ thay đổi thì đời người không khổ nữa. Bây giờ hai cháu còn ít tuổi ở quê, nhà bên Nhân Lý sang cũng nói như vậy. Như thế, cách mệnh đã về đến bên quê ngoại, cách mệnh đã về gần lắm rồi. Mẹ lặng im, không nghĩ nữa. Mẹ nhớ lại con đường Long Châu đi bộ, toàn đi đêm, phải mất ba bốn đêm liền. Đường ấy, mẹ đã đưa người đi nên mẹ biết như thế. Còn phải tránh những xóm có hương trưởng. Hương trưởng hay bắt người bên Lạng Sơn sang, đem nộp cho Tây đồn Đồng Đăng lấy công, được nhiều tiền và muối. Hương trưởng thì tránh được, nhưng kẻ cướp thì không biết tránh đâu. Chỗ nào cũng có cướp, ngày ấy khó lắm. Thế mà mẹ đã đưa lọt được cả. Những câu chuyện vừa bâng khuâng vừa khó hiểu cứ phảng phất cả đầu mẹ.
Tối hôm ấy, giá buốt cóng thót lưng. Thụ mặc nguyên áo dài, đi giày tây, đội khăn xếp, nằm co quắp trong cái ổ tranh của Mã Hợp đã kéo ra bên cạnh đống lửa. Ba người nằm, đắp có một mảnh vỏ cây sui. Mã Hợp nhường chăn cho bạn. Chân tay Mã Hợp quềnh quàng, lăn lóc như cành củi không biết rét. Lát sau, đã ngáy kho kho. Chi nằm giữa, sặc bụi vỏ sui, chốc lại khúc khắc ho.
Cả đêm, Thụ khoanh hai tay lên ngực. Không vì rét, mà vì nỗi băn khoăn về những khổ cực cứ quanh co không phá ra được của con người và càng nghĩ càng bồi hồi về tinh thần yêu nước tự nhiên đến nỗi không biết đấy là yêu nước của người các dân tộc ở biên giới mà Thụ vẫn nghe nói, bây giờ mới thật biết. Thụ không chợp mắt được. Làm thế nào à? Phải tìm cách nấn ná ở đây, cho đến lúc gặp được cách mệnh, đi làm cách mệnh. Nhưng bây giờ phải vượt một cái lo trước nhất, thật khó. Nhà Mã Hợp nghèo quá, không bữa ăn. Tết đến nơi rồi. Cách nào...
Cứ nằm nghĩ, sắp sáng cũng không biết.
Có tiếng gà gáy phảng phất ở đâu xa. Mã Hợp đương ngủ say thế, đột nhiên, đứng dựng dậy như người mê. Đấy là cái thói quen phải dậy sớm đi chợ bán củi. Cứ đến lúc ấy thì con mắt như có người giựt mí cho mở ra, đã thành lệ.
Kèn lính trên lô cốt Ải Khẩu chưa thổi tan canh. Lửa bếp đã vạc hẳn. Rét buốt mù mịt thấm vào nhà. Thụ hỏi:
- Mã Hợp dậy sớm thế?
- Còn đi kiếm cái chợ Ải Khẩu cuối năm mà.
Chợ nào cũng chỉ còn phiên áp Tết này. Mã Hợp đêm qua nghĩ cách đã định đem củi đi thật sớm. Bán ngay được bó ấy thì còn kịp chạy về cõng hai bó nữa ra chắc cũng chưa tan chợ. Ngày Tết, người mua củi sưởi nhiều, đun nấu nhiều, chắc bán đươc cả ba bó.
Thụ quay lại, thì thầm, với Chi, lúc ấy Chi đã ngồi lên nhưng vẫn quấn mình trong cái chăn sui bù xù, như con gấu trắng. Rồi Thụ ngước ra, bảo Mã Hợp:
- Này Mã Hợp, hôm nay Mã Hợp đừng đi chợ.
Mã Hợp nhìn Thụ, không hiểu. Thụ lại nói luôn:
- Mã Hợp đi với mình.
- Đi tìm cách mệnh à?
- Không.
Mắt Thụ ánh lên và miệng Thụ cười, tự nhiên khiến trong bụng Mã Hợp tin ngay và không hỏi thêm.
Lát sau, hai ngưòi đã ra tới đầu xóm, đi về phía Cốc Nam. Rét quá, không bước được nữa mà phải co chân chạy cho ấm. Không mấy khi được đi tay không như thế, Mã Hợp nhẹ nhàng như con sóc.
Qua một hẻm núi, đã vào xóm Cốc Nam. Bên này trấn Lũng Vài thì có quan làng hương trưởng. Ba bước chân cách rìa núi sang Cốc Nam là xã đoàn, là lý trưởng rồi. Nhưng bên nào thì cũng giống nhau cùng một bọn làm ác, ăn tiền, cưỡi đầu người ta cả mà thôi.
Không may, hai người gặp ngay xã đoàn Cốc Nam đi gọi dõng! Chẳng biết nó tìm dõng đi gác, đi cướp chợ hay đi xâu mà xã đoàn Cốc Nam vào xóm khua bắt người ta đi sớm thế.
Mã Hợp thường qua lại Cốc Nam, xã đoàn có quen mặt. Mã Hợp lom khom chắp tay:
- Chào quan xã đoàn ạ.
Xã đoàn giơ cái gậy, quắc mắt:
- Mày đi cướp bên Tàu về đấy à?
- Không, tôi ở Lũng Nghìu bây giờ sang Thạch Loan đòi tiền rượu Tết thôi ạ.
Xã đoàn nhìn Thụ, rồi nói:
- Ông nhớ mặt mày, được rồi. Còn thằng này lạ thì có giấy thông hành không?
- Anh em tôi ở nhà bên Kỳ Lừa mới sang chơi hôm qua, bây giờ ra tàu Đồng Đăng xuôi.
- Thẻ nó đâu?
Thụ nhanh trí:
- Cháu chưa có tuổi đóng thẻ.
- Mày nói láo! Cao lêu đêu thế kia mà bảo chưa có tuổi!
Thụ nói luôn:
- Mới mười bảy, thật mà.
Xã đoàn trợn mắt:
- Chúng mày có trông thấy nhà quan hai trên đồi Đồng Đăng kia có những con mắt lỗ châu mai đương nhòm ra tận đây không. Năm hết Tết đến, chúng mày muốn vờ vào đất Lạng Sơn để tụ bạ đi cướp, để quan hai cắt cổ tao à? Có súng thì bỏ ra, đừng để tao phải khám. Còn thằng này không có thẻ thì phải trói lại.
Mã Hợp cãi:
- Thật tôi vào Thạch Loan đòi tiền rượu Tết bán hôm nọ, tiền rượu mà...
Tuy doạ cứng, nhưng xã đoàn lại hỏi lại:
- Thật không?
- Thật mà. Chiều tôi lại về.
- Lúc nào về phải vào nhà trình tao.
- Bẩm, trình quan...
Xã đoàn quát to, vừa quát vừa cười khé khé:
- Trình tao hai chai, hai chai mười cân. Rượu Lũng Vài ba đấu cẩn thận, mày còn chưa biết à!
- Vâng ạ.
- Bước!
Đi khỏi, Mã Hợp bảo:
- Thằng xã đoàn Cốc Nam mà ngửi thấy hơi rượu thì cái gì cũng xong. Nhưng nói thế mà chốc nữa về qua không có rượu cho thì nó gông thật đấy, anh ạ.
Thụ nói:
- Chốc nữa hãy hay.
Hai người chạy tạt sang bên kia đường đá, qua cả đường tàu hoả rồi theo lối tắt đi Pò Chài về Nhân Lý.
Thụ đã quyết định trở về làng. Từ đây vào Khuôn Lùng, chỉ có vết trâu đi ăn, không qua xóm nào, không gặp ai. Tất cả chỉ có bóng rừng buông xuống bốn phía đỉnh đèo, che khuất con người. Tới Mò Tòng, lại vượt núi nữa như chạy về Khau Bây - một sườn núi đứng ngay trên làng Nhân Lý. Ở Khau Bây nhìn xuống đồng Bó Lào, thấy được cả con vịt chạy trong ruộng nước.
Lúc ấy đã đến gần trưa và có nắng. Trời đỡ buốt hơn ban sáng. Họ qua nhanh dưới những vòm cây trám đen, thân lêu đêu cao mốc trắng. Ánh nắng dịu ngày đầu đông loáng thoáng rơi cành trên xuống cành dưới, từng giọt vàng rời rợi, làm nghiêng mặt chiếc lá trám dài.
Đã vào đến rừng hồi Khau Bây chỗ trên xóm Phạc Lạn, nhà Thụ ở đấy. Thụ bảo Mã Hợp:
- Mã Hợp xuống nhà cho tôi.
- Anh ở lại đây à?
- Mã Hợp có thấy mẹ tôi hay chị Dụ...
Chợt nhớ, chị Dụ đã về nhà chồng tháng trước, Thụ lặng im. Thụ dặn Mã Hợp thêm mấy việc. Rồi Mã Hợp xuống làng.
Thuở nhỏ, năm nào Mã Hợp cũng được về hội tùng tủng
(1) ở quê ngoại trong tháng giêng. Mã Hợp thuộc đường, biết tất cả các nhà xóm Phạc Lạn.
Mã Hợp đến thẳng nhà Thụ. Cuối năm, xóm vắng. Mọi người đi chợ, đi kéo mật, đi cúng, hay ở nhà, lúi húi làm bún bánh trong bếp. Ngoài ngõ rỗng người.
Mã Hợp nép bên cửa chuồng trâu nhà Thụ nhìn lên. Đợi một lúc, chẳng thấy ai. Cũng không có khói bếp. Mấy con trâu thấy người tới thì lội bì bõm trong bùn phân, khiến Mã Hợp không nghe được động tĩnh ra sao ở phía trên. Sau cùng, Mã Hợp nghĩ: “Việc gì phải rình mò như đứa kẻ trộm thế này!”. Rồi Mã Hợp bước thẳng lên thang nhà.
Bố Thụ đương ngồi bậc cửa mài con dao chọc tiết lợn.
Mã Hợp nói:
- Cháu chào bác. Anh Thụ bảo cháu về...
Bố Thụ ngẩng đôi mắt kính lên, sửng sốt:
- Nó đâu?
Mã Hợp lúng túng:
- ... ở Đồng Đăng, Đồng Đăng...
Lần này, bố Thụ ngừng tay mài dao, hỏi dồn và đứng dậy:
- Sao nó chưa về?
- Dạ... ở... sắp...
- Bao giờ nó về?
Thấy Mã Hợp luống cuống, bô Thụ nghi lắm.
- Mày ở đâu?
Mã Hợp cuống, đâm ra nói thật:
- Cháu là con nhà Mã Thành Nhân.
- Mày ở Lũng Nghìu về à?
- Vâng.
Thế là bố Thụ quát ầm lên:
- Chết thôi! Chết thôi! Lung tung lắm rồi. Mày phải đi gọi nó về ngay cho tao, không có thì ông giết...
Bố Thụ hầm hầm cầm con dao nhọn hoắt đương mài xô đến trước mặt. Mã Hợp nhảy tót ra cửa, chạy thẳng về Khau Bây.
- Anh ơi, tôi không nhanh thì ông chém tôi rồi.
Thụ đương đứng nhìn xuống, đợi. Và mọi nghĩ ngợi trong tâm trí đương mờ mờ, khác nhau. Cánh đồng Bó Lào dưới kia thấp thoáng nắng, trông rõ cả người đàn bà đi qua mặc áo chàm mới, đen biếc. Lúc này, mẹ mình sang nhà chị Khai rồi. Không phải. Năm nay mẹ vào ăn cúng áp Tết hay vào chia cá Tết, hay vào chơi nhà chị Dụ. Chị Dụ mới về nhà chồng tháng trước, nhà ở Cò Nong. Xóm Cò Nong đằng tay trái, sau Đon Đình phía kia có vài bước chân. Xóm ở giữa cánh đồng, không tiện xuống, mình không về thăm chị được. Mà hôm nay cũng không muốn về, không về...
Mã Hợp vừa thở vừa kể. Thằng này vụng quá. Lỡ mất việc.
Đứng đây cũng trông thấy rõ chỗ mảnh trăng trắng tường trường học ở Đon Đình. Trên sườn đồi gần Phai Hin kia không có tiếng trẻ con thả trâu đùa ríu rít. Tết đã đến mà. Mình hay nô với trẻ trâu ở đấy. Mình với cô Mảy cũng chăn trâu và chơi đùa ở đấy. Những kỷ niệm tuổi thơ, chỉ mới vài năm trước, mà sao như đã xa thế. Mình với thằng Viết cũng chăn trâu ở đấy... Vừa thoáng nghĩ đến Viết, Thụ cảm thấy không vui. Câu chuyện đi hay không đi xảy ra trước đêm ra đi ngày nọ không còn giữ cho tình bạn thân thiết của hai người được nguyên vẹn. Trước những rụt rè của Viết, Thụ vừa thương, vừa giận... Thụ chợt nghĩ: hay là vào nhà Viết, bảo Mã Hợp vào nhà Viết? Nhưng lại tự đáp: không nên, nhà Viết nghèo thế, chẳng có đâu cho mình. Còn rủ Viết đi thì vẫn chưa được. Viết đã rụt rè, gặp nhiều cái khó thế này, có thế còn nản lòng hơn. Thôi, để mặc Viết đấy. Hay là vào nhà Mảy. Ừ, vào nhà Mảy. Không thể đợi, cũng không cách nào gặp được mẹ hay chị Dụ. Thằng Mã Hợp đã làm lung tung thế này. Cũng không nên ở đây lâu. Ừ, chỉ còn gặp được Mảy...
Thụ bảo Mã Hợp:
- Thế này nhé. Mã Hợp xuống nhà cô Mảy cho tôi.
Lần này, Thụ vừa dặn xong, Mã Hợp chớp chớp mắt, mỉm cười rất khoái chí ra cách ta hiểu hết, rồi đi ngay.
Lúc ấy, Mảy đương một mình ngồi chẻ lạt buộc bánh trên cửa trước sân sàn. Dưới chân bụi mai trước cửa, người lớn trẻ con tíu tít xúm quanh đám mổ lợn.
Mã Hợp rón rén vào:
- Mảy ơi, nó bảo tôi về...
Nghe nói thế, Mảy giật mình. Và chỉ nói thế, Mảy đã biết. Lúc yêu nhau thì nghe trong câu nói còn bơ vơ ở đâu cũng đã trông thấy được hình người và đoán ra mọi việc. Mảy thở dài. Từ ngày Thụ ra học trường ngoài Kỳ Lừa rồi ít lâu được tin Thụ lấy vợ người buôn bán ở phố, Mảy chỉ khóc thầm, thương thân mình, có lúc toan chết. Nhưng đến tháng tám vừa rồi, Thụ trở về Nhân Lý. Mảy gặp lại Thụ. Mảy càng khóc, càng thương thân. Nhưng không nghĩ đến cái chết nữa. Bởi vì Mảy biết Thụ vẫn tha thiết yêu Mảy.
Lúc ấy, Mảy nhìn Mã Hợp, ngơ ngác hỏi:
- Sao bảo đi làm ký ga bên Vân Nam rồi? Được về ăn Tết a?
Mã Hợp hỏi lại Mảy một câu khác:
- Có còn thương nhớ nó không? Có thương nhớ tôi mới bảo...
- Bên Vân Nam xa lắm mà.
- Không, gần thôi.
- Gần à?
- Nó bảo mùng tám tháng giêng thì sang.
- Tháng giêng...
- Mùng tám tháng giêng có hội lùng tủng bên Lũng Nghìu.
- Ở Lũng Nghìu à?
- Ừ, Lũng Nghìu. Bây giờ nó bảo về lấy cho nó hai mươi đồng.
Mảy nói:
- Lúc bảo đi ký ga ở Vân Nam đã lấy hai mươi đồng rồi.
- Bây giờ vẫn còn cần, Mảy ạ.
- Thế thì làm thế nào bây giờ? Bảo em với...
- Xem ai có thì vay.
Mảy ngồi thừ người. Lát sau, đứng dậy, Mảy vào buồng, cầm ra chiếc thắt lưng bao mới vẫn vắt ở vách trong.
- Còn có bấy nhiêu thì cầm đi nốt vậy. Tiền này tiền bỏ ống, để dành cả năm. Thế cũng như Tết xong rồi.
Mảy dốc miệng thắt lưng xuống mặt sàn nứa, rơi ra mấy tờ giấy bạc một đồng, cả lũ đồng hào, đồng xu bò theo nữa. Mảy xếp lại đâu vào đấy, đếm cẩn thận, rồi đưa cho Mã Hợp tất cả là được mười đồng ba hào hai xu.
Mã Hợp cầm tiền, cất lên túi áo ngực. Trong khi ấy, Mảy thắt chiếc bao lưng không vào bụng áo, rồi cúi xuống, lại cầm lên con dao nhỏ và thanh dang. Nhưng Mảy không chẻ được chiếc lạt nào nữa, mà Mảy cứ ngồi tần ngần, hai mắt rưng rưng, muốn khóc. Cô đương nghĩ đến nỗi đau khổ éo le của cô với Thụ. Từ khi lớn lên, biết thương cha mẹ, chỉ thấy vướng vít trong bao nhiêu cái cực nhục. Không hiểu nguồn gốc tại sao mà nhà mình lại phải chịu nhiều nỗi khổ thế. Rồi đến tuổi con gái, yêu Thụ, mình lại tự buộc lấy những cay đắng vào ruột gan mình.
Mã Hợp đã toan đi, song nghĩ thương hại Mảy, Mã Hợp nói:
- Muốn gặp nó không?
Thế là hai hàng nước mắt Mảy lã chã xuống.
Mã Hợp nói khẽ:
- Lên Khau Bây bây giờ.
Có tiếng con chim khách kêu choẹt choẹt ngay đầu sân sàn ngoài cửa ngang. Mã Hợp điềm nhiên xuống thang nhà. Mảy lẳng lặng đứng lên, rút con dao chém cây trên hóc cột xuống, đeo vào lưng, như người đi rừng.
Từ đằng xa, trông thấy Mảy, Thụ đã trông ngay thấy cái thừng buộc con dao rừng đeo sau lưng Mảy. Thụ nói như đương nghĩ trong bụng:
- Bao giờ bỏ được cái tay dao của người làm ăn vất vả này.
Mảy không hiểu, oà khóc:
- Muốn bỏ nhau rồi...
Mã Hợp bảo ngay:
- Nói chuyện buồn ngày hết năm thì không nên đâu. Thôi!
Rồi Mã Hợp đứng ra đầu rừng hồi ngó xuống. Cẩn thận. Mã Hợp gác người lên.
Bấy giờ Mảy lại hỏi Thụ - vẫn băn khoăn như lúc nãy hỏi Mã Hợp:
- Sao bảo đi ký ga bên Vân Nam?
- Không, anh còn đi xa hơn Vân Nam và anh không làm ký ga đâu.
- Thế làm gì?
- Anh đi làm cách mệnh.
- Làm cách mệnh là làm gì?
- Mảy ơi, ngày trước còn bé, ta thấy người Nùng đánh nhau với người Thổ trong làng hay chửi một câu độc địa rằng: “Thịt tao là thịt thằng Nùng chó chỉ đáng nửa đồng kẽm, thịt quân Thố gốc nhà mày được giá năm đồng, thế là tao chỉ bằng con chó, tao đánh nhau có chết bỏ xác cũng thôi”. Đến khi Thụ cắn hạt cơm biết nghĩ, Thụ bảo: nói thế ác lắm, không nên nói thế nữa. Phải cùng nhau xoá đi, câu nói ấy buồn quá. Phải xoá nó đi.
- Chưa xoá được đâu.
- Bây giờ thì anh biết có đi làm cách mệnh, lấy lại đất nước, có xoá thằng Tây thằng quan đi, mới xoá được câu nói buồn ấy.
- Đừng nói nữa.
- Bấy giờ con trai Thổ mới lấy được con gái nhà Nùng, em ạ.
Nước mắt Mảy ròng ròng chảy. Mảy nghẹn ngào không thốt nên lời được. Những câu Thụ nói, thật xót xa, thật bên mình, làm cho Mảy hiểu được nhiều ra hơn cả câu Thụ nói.
Lúc đó, nắng trong rừng hồi ấm hẳn lên. Người đứng tựa lưng vào thân cây hồi cũng thấy thơm ấm cả lưng áo và bàn tay, như đương ngồi bếp sưởi củi thông và có tiếng hát đâu vương tói. Tiếng hát ở trong lòng mình.
Hoa đẹp bướm đến đậu
Thấy từng đôi sánh bayMảy muốn nói: “Anh ơi! Mai là Tết rồi, anh đừng đi”. Nhưng Mảy vẫn lặng im và cứ đứng im như thế.
Gần chiều, khi những làn gió rét ghê người lại hun hút ở đâu nổi lên, Thụ và Mã Hợp mới về đến Cốc Nam.
Mã Hợp bảo Thụ:
- Ta có tử tế thì bận sau mới dễ việc cho ta được. Bây giờ anh vào nhà nó trước, bảo tôi còn sang Lũng Vài lấy rượu.
- Nhưng nó hỏi mình chưa ra tàu về Kỳ Lừa thì nói sao?
Mã Hợp cười:
- Có rượu thì nó chẳng hỏi đâu.
Thụ dặn với:
- Xuống Lũng Vài thì mua ba đồng pháo.
- Bao nhiêu?
- Ba đồng, ừ, ba đồng...
Mã Hợp lại ngạc nhiên, tròn mắt lên. Ba đồng pháo, nhiều quá. Nhưng Mã Hợp vẫn cứ đi và không hỏi lại thêm.
Thụ bước lên nhà, xã đoàn hỏi ngay:
- Thằng đầu trọc ban sáng đâu?
Thụ nói:
- Sang Lũng Vài lấy rượu sắp về.
Quả nhiên, xã đoàn chẳng hỏi thêm một câu nào nữa. Lát sau, Mã Hợp xách lên nhà hai chai rượu tăm, đặt xuống giữa sàn rồi cứ thế đùng đùng kéo đi ngay. Như đã mất tiền qua cửa ải, không cần rnất thêm lời nào nữa. Cứ thế, hai người chạy một mạch về tận Lũng Nghìu.
Đến nhà, vừa vặn tối. Chi vẫn đứng ngóng trước cửa. Lúc ấy hai người lại mới nhớ ra suốt ngày chưa được ăn một miếng gì. Nhưng Chi đã nấu chín nồi cháo ngô. Hai người phải húp xoàn xoạt luôn mấy bát mới nghỉ hơi.
Thụ đưa cả bảy đồng còn lại cho mẹ Mã Hợp.
- Mẹ ơi, tiền đây.
- Tiền đâu mà nhiều thế?
Mẹ nghĩ đến việc cách mệnh của Thụ, mẹ nói:
- Giữ lấy, để hôm nào còn phải đi.
Thụ cười:
- Chẳng lo đâu. Bây giờ ta ăn Tết cho đủ đã.
Mẹ cảm động cứ ngẫm nghĩ không biết mình đương khóc hay đương cười. Một đời người chưa được lần nào cầm món tiền to đến quá năm đồng bạc như thế.
Sớm ba mươi, mẹ xuống trấn Lũng Vài đong gạo, mua hương, mua giấy hồng điều, mua muối... sắm nhiều thứ thế, cũng mới hết có hơn đồng bạc.
Đêm ấy, đêm ba mươi Tết.
Thụ đốt đống củi to, sáng rực nhà. Mãi đến tận khuya, Thụ và Chi vẫn còn ngồi kể những chuyện hồi đi học ở Kỳ Lừa. Có câu chuyện vui và nghịch ngợm, cứ nhớ mãi. Tối tối, Thụ lại rủ Chi đi họp nhau, nói chuyện thời thế. Một hôm, chị Dụ quảy gạo từ Nhân Lý ra đóng cho nhà trọ. Chủ nhà mách: thằng Thụ cứ đi bàn chuyện trộm cướp cả đêm. Chị Dụ sợ quá, dặn chủ nhà phải đóng cửa sớm. Tháng sau, chị Dụ quảy gạo ra, ông Chắn, chủ nhà, kể: thằng Thụ bây giờ ngoan rồi, không đi chơi đêm nữa.
Thụ nói:
- Thật thì tao vẫn đi đấy thôi. Tao chỉ mất công mua cái thừng đay tốt mà bịt được mắt ông Chắn. Muốn đi, tao ra hiên thả chiếc thừng leo xuống, đến khuya về, leo lên rồi rút thừng. Ông Chắn vẫn ngủ yên, không phải đợi cửa mình nữa và yên trí thằng Thụ tháng này ngoan rồi.
Chi và Thụ cùng cười ầm. Nói những chuyện chơi nghịch mấy năm ấy, bao giờ cũng sôi nổi. Chốc, Thụ lại đứng dậy ra trước cửa đốt một bánh pháo. Những bánh pháo toàn hồng, giòn tan. Trong chớp pháo điện quang sáng trắng lên, thấy có bóng Mảy. Lại đốt pháo nữa. Cứ đốt pháo, cứ chuyện, không thì lại ngồi trầm ngâm, im phắc, buồn đến sâu thẳm. Lát sau lại đốt pháo, Thụ đốt cả mười bánh pháo, như người ta lúc vui quá, lúc giận dữ quá hay làm thế. Thụ đốt cả mười bánh pháo, Mảy ơi! Xác pháo rực rỡ ngập khắp nhà, phủ kín cả tảng đá trước cửa.
Giao thừa đến lúc nào, không biết.
Thụ và Mảy cùng ở Phạc Lạn và bằng chạc tuổi nhau. Hai người yêu nhau mà không biết, từ những khi còn để chỏm đi chăn trâu, đùa giỡn trên sườn đồi bản Đác. Nhưng khi lớn lên thì cảm thấy khó lòng mà lấy được nhau, không, không bao giờ hai người có thể lấy được nhau.
Họ Hoàng là họ Tày gốc ở đất bản Khú. Mảy là con người Nùng Cháo. Mấy nhà Nùng Cháo ở đâu trôi giạt đến. Khổ nữa, cả tổng Thạch Loan đồn nhà Mảy có ma gà. Bố mẹ truyền cho con, cả nhà cùng có ma gà. Không ai dám đến cửa. Đi đường mà gặp cũng sợ, đừng nói người nào cả gan dám lấy Mảy. Nhưng Mảy được tuổi con gái, đẹp rờ rỡ, đẹp nhất hàng tổng. Cũng không ai dám động.
Thụ đã yêu Mảy. Vì Thụ chỉ biết yêu Mảy. Thụ không giống như người ta. Nhưng trong đời sống làng xóm, bấy lâu Thụ cũng không vượt qua hơn được...
Bây giờ thì Thụ đương vượt. Thụ ra đi để vượt qua. Con đường vượt qua để chiến thắng của cả một lớp tuổi trẻ đau khổ. Nghĩ như thế, Thụ thấy mình trở lại một hình ảnh nhớ mãi của những ngày êm đềm và sáng lạ lùng. Ấy là con sông Kỳ Cùng ngoài cửa sổ lớp học, dòng sông mà những ngày hè Thụ thường lội qua sang Điềm He tìm Chi và bây giờ hai đứa đương cùng chí hướng ra đi.
Tình yêu và những kỷ niệm đẹp đẽ ấy có thật không? Có thật. Nhưng chỉ để lại một nỗi buồn. Cuộc sống có thay đổi thì mới thấy khác được. Phải làm thay đổi cuộc sống. Ước vọng của Thụ bao giờ cũng hiện ra đẹp và trong sáng như dòng sông ngoài cửa sổ. Con sông Kỳ Cùng ấy chảy qua Lạng Sơn ra cửa Bình Nghi nhởn nhơ đến những đất nước xa lạ, càng ngày mở rộng và sức lực mênh mang đã cuốn phăng mọi bất bình, mọi trở lực, mọi thất vọng, trên mình nó cuồn cuộn ánh sáng và bóng nước.
Những suy nghĩ, cứ lúc bồng bột, lúc nặng trĩu. Một chốc, Thụ vươn vai, đứng lên, nhìn trước cửa, thấy xác pháo đỏ choé ra tận những tảng đá trước cửa thì kêu:
- Ô, trời sáng rồi.
*
* *
Mùng một Tết.
Những ngày Tết ẩm ướt, rét cắt ruột mù mịt che khuất cả một cái làng mà không ai biết có cái làng héo hắt ấy trong núi đá. Bởi vì ở Lũng Nghìu thì ngày Tết chẳng bao giờ có thịt lợn quay, cũng không có gì lạ hơn ngày hôm qua. Nhưng quanh đây, phía Đồng Đăng hay bên Nam Quan khi từ những thị trấn có người buôn bán ở hai bên biên giới vẳng lại tiếng pháo đón xuân thì ở trong núi này mới càng thấm thìa nỗi buồn phải xem Tết nhà người. Thế nhưng, bao giờ cũng vậy, người Lũng Nghìu vốn tính hay nghi hoặc, rồi đâm trợn. Họ bảo nhau nghe kỹ xem trong tiếng pháo râm ran kia có lẫn tiếng súng kẻ cướp hay lính Quốc dân đảng ở lô cốt xuống đi cướp các làng đương vào năm mới. Nhưng dù cho có xảy ra những việc khủng khiếp ấy thì năm ngoái, năm kia cũng đã có cướp sớm, thế là cũng không có gì lạ hơn năm ngoái, năm kia.
Thế nào thì một năm mới cũng đã tới. Không ngờ Tết năm nay mà nhà Mã Hợp no đủ. Có gà cúng, có thịt lợn, giấy hồng điều dán cửa, sáng mùng một ai cũng được tiền mở hàng phong bao, phong bao cả các nhà trong xóm, lại có rượu Lũng Vài ngon cẩn thận. Cả xóm cùng vui sướng, chắc điều tốt lành năm nay sẽ tới.
Thụ hỏi:
- Hôm nay mùng một Tết thì Mã Hợp làm gì?
Mã Hợp nói:
- Ăn rồi xuống trấn Lũng Vài đánh đố chữ. Đấy, nghe thấy chưa, tiếng trống gọi người ta xuống chơi đố chữ... tùng tùng... Gặp vận may mà đánh được vài chữ thì cái vai này cũng khỏi phải đi gánh củi sớm.
Nhưng Thụ bảo Mã Hợp:
- Không, sáng nay Mã Hợp ở nhà.
Mã Hợp nghe lời Thụ, ở nhà. Rồi Thụ, Chi và Mã Hợp lên mỏm núi đầu xóm. Đến chỗ cao, cạnh một tảng đá khuất gió, ba người mới ngồi xuống. Thụ bắt đầu nói:
- Mã Hợp à, chúng mình hôm nay cùng nhau lên đây...
Đã thấy Chi cẩn thận lấy trong bọc áo ra bốn cái chén và một chai đựng rượu. Chi nói tiếp lời Thụ:
- Mã Hợp biết chúng mình ra đây đi cách mệnh, để đánh đuổi thằng Tây, lấy lại đất nước, cho mọi người sau này được sung sướng. Ba anh em ta bây giờ thề cùng nhau làm cách mệnh. Mã Hợp có bằng lòng bây giờ thề làm cách mệnh vói chúng mình không?
Mã Hợp không biết chữ. Dù nhiều lần đã nghe nói: cách mệnh, cách mệnh, nhưng cũng chẳng rõ đích xác cách mệnh là một người tên thế hay là thế nào. Nay nghe Chi nói vậy thì tự dưng Mã Hợp nhớ lại từ khi lớn lên, biết chuyện nhà mình trước ở Ma Mèo, đất mình bên ấy mà thằng Tây làm cho phải bỏ chạy đi, từ đấy khốn khó ngập đầu, không ngày nào kiếm nổi bữa ăn no, chẳng biết có còn đời nào được trở lại Ma Mèo. Nỗi khổ ấy có dây rễ với cách mệnh, Mã Hợp cảm thấy rõ ràng như thế và Mã Hợp đã trả lời ngay:
- Tôi bằng lòng rồi.
Chi lại nói:
- Nùng, Thổ, Kinh, Mán đều là người Việt Nam, hễ ai là người Việt Nam đều phải biết làm cách mệnh đánh Tây. Ba anh em mình từ hôm nay thề một bụng nghĩ việc cách mệnh cho đến thành công. Ai mà gặp phải đứa ác ức hiếp thì cứu nhau và không bao giờ hại nhau.
Thụ và Mã Hợp cùng nói:
- Tôi bằng lòng như thế.
Ba người hỏi tuổi nhau. Lương Văn Chi mười chín, được làm anh. Hoàng Văn Thụ, mười tám. Mã Hợp mười bảy thì làm em. Mỗi người uống cạn chén rượu, rồi đập cái chén không và thề lên một câu.
Tiếng chén đập vào đá kêu toác một cái. Xung quanh chỉ có gió rú vào trong kẽ đá và tiếng mỗi người thề anh em sống chết không bao giờ quên nhau. Mã Hợp uống một hơi hết rượu, nói:
- Em tên là Mã Ký Hợp năm nay mười bảy tuổi. Em thề một bụng với hai anh. Em không đi báo Tây, không báo Quốc dân đảng, không bán anh em cho Tây, cho Quốc dân đảng, không bao giờ giết nhau, anh em cùng sống làm cách mệnh. Nếu em có lòng phản thì em phải chết như cái chén này.
Rồi đập vỡ cái chén.
Thụ cười, nói:
- Còn cái chén thứ tư để đợi người nữa về kết anh em.
Nhưng không ai nói gì. Mỗi người đều nghĩ theo những lời thiêng liêng mình vừa nói. Ló đầu nhìn ra mép đá, nghe tiếng trống đố chữ dưới trấn Lũng Vài bây giờ nổi to và dồn dập hơn. Đấy là trống giục người ta đến đặt tiền đánh trống báo tin mở chữ. Nhưng những người đứng trên núi đương mải nghĩ xa, rất xa, không nghe biết. Riêng Mã Hợp lại nghĩ ra đấy là tiếng trống thúc giục cái gì khác, bởi vì Mã Hợp mới được hiểu rằng ở đời còn có những việc cao xa khác hẳn cuộc đánh đố chữ.
*
* *
Một hôm, có Hoàng Đình Hùng
(2) đến. Hùng mặc kiểu áo chàm rộng của người Nùng Cháo thường qua lại đây. Hùng muốn trá hình là người Nùng Cháo nhưng người Hùng cao lớn, nói giọng Tày vùng Nước Hai cứ vang vang như lắc chuông. Mới trông đã ra vẻ ngang tàng, không giống người Nùng Cháo, Hùng nói:
- Tao vừa gặp chị Mai trên Bản Đảy, biết có hai thằng ra...
- Anh là...
- Dong Cao Bằng đây. Mày quên thằng Dong rồi a, Thụ?
Bấy giờ Thụ mới kêu lên. Cách nhau ít lâu mà Dong cao quá, nhanh nhẹn, vạm vỡ, nói to, khác hẳn thằng Dong hồi học ở Kỳ Lừa. Năm trước, còn ở trường ngoài Lạng Sơn, lúc toàn thể học sinh để tang và làm lễ truy điệu ông Phan Chu Trinh xong, trong đám học sinh bước ra, Dong vừa đi vừa vỗ vào cánh tay Thụ, nói thật to: “Khóc rồi phải làm gì chứ cứ khóc không thế này thôi à!”. Từ đấy, Thụ quen Dong.
Hùng nói:
- Tao đến đón hai thằng đi Long Châu đây.
Cả Thụ và Chi cùng “à” một tiếng, vồ lấy vai Hùng.
Mã Hợp thì reo:
- Anh Thụ nói thiêng quá. Người đến uống nốt chén rượu làm anh em ta đây.
Thụ nói:
- Nhưng không phải đập chén nữa đâu. Thằng này là anh em ta đã lâu rồi.
Thế là họ ríu rít sửa soạn đi.
Hùng nhìn hai người, nói:
- Chúng mày đi Long Châu mà định mặc thế này cho Tây nó dễ thuê bắt về đồn Đồng Đăng à?
Bấy giờ cả nhà mới nhận ra hai chàng thanh niên vẫn giày tây gan gà, áo xa tanh, áo the dài, khăn lượt vố, xúng xính như đi diện Tết bên Lạng Sơn chứ không phải đi cách mệnh. Chi nói:
- Thế mà không nhớ ra. Suýt chết ở Bó Sa vì những của này đấy!
Thụ và Chi cười rồi cởi quần áo, tụt khăn, tụt giày cho Mã Hợp đem về xóm Khơ Đa bên kia biên giới đổi được hai bộ Nùng đã tàng tàng. Lại mua thêm đôi giày cỏ và hai cái nón cói to vành.
Đi Long Châu! Đi Long Châu! Trong lòng cứ náo nức như mở cờ. Mấy nhà hàng xóm ở Lũng Nghìu cùng xúm đến. Ai cũng bảo:
- Các cậu ở lại chơi hội lủng tủng đã, rồi hãy đi.
Một người tính:
- Ngày kia đã hội mà.
Thụ nói:
- Đi đường cũng gặp hội vui, hẹn sang năm vậy, lần này thì không ở được.
Mẹ đưa Thụ ra đầu xóm, bảo:
- Đường Long Châu thì mẹ cũng được đưa các ông cách mệnh đi hai lần rồi đấy.
Người già ấy hiền hậu, củ rủ, hay khóc tủi thân mà đã làm việc cho cách mệnh “hai lần rồi”. Thụ cảm động, nắm tay mẹ.
- Chúng con xin đi.
Mã Hợp theo tiễn một quãng. Thụ rỉ tai dặn lại lần nữa.
- Ngày mai, Mảy có ở Nhân Lý sang hội, em nhớ nói với Mảy cho anh... Mảy đừng nghĩ nữa. Rồi có khi lại gặp nhau.
Hội lùng tủng lần lượt nô nức qua các làng hai bên biên giới cho đến tận cuối tháng, khi lá cây gạo đã nhú tai chó. Lũng Nghìu bắt đầu hội từ ngày kia, ngày mùng tám tháng giêng.
---------------------------------------------------------------------------
(1) Phong tục cũ: hội “xuống đồng” đầu năm ở làng đồng bào Tày và Nùng.
2) Tên thường gọi của đồng chí Hoàng Đình Dong hồi ấy