Lịch sử Quân sự Việt Nam
Tin tức: Lịch sử quân sự Việt Nam
 
*
Chào Khách. Bạn có thể đăng nhập hoặc đăng ký. 20 Tháng Tư, 2024, 06:39:14 am


Đăng nhập với Tên truy nhập, Mật khẩu và thời gian tự động thoát


Trang: « 1 2 3   Xuống
  In  
Tác giả Chủ đề: Tuổi trẻ Hoàng Văn Thụ  (Đọc 1877 lần)
0 Thành viên và 1 Khách đang xem chủ đề.
hoi_ls
Thượng tá
*
Bài viết: 5098



« Trả lời #20 vào lúc: 29 Tháng Tư, 2022, 02:37:29 pm »

*

*          *

 

Sáng đã lâu. Nhưng từ xóm Khơ Đa xuống cầu Tà Lài còn sương toả mù mịt. Những đám khói đốt sưởi đêm qua đọng lại, thành làn sương đặc quyện từ mặt suối Lũng Lừ lên các lán phu làm đường ở ven chân núi.

Tháng bảy “lá ngô héo, người già chết”, u uất, nặng, người đi xa càng nhớ nhà. Hôm kia, hôm qua đều có đám ma phu Bắc Giang chết.

Dọc đường lên Nà Sầm, quãng Tà Lài, chỗ có hầm xe hoả, các lán của phu làm đường tụ lại đấy. Ngày mai vẫn làm đây hay đi Bản Dạt, lên Nam Quan. Ai biết. Lại làm hầm hay làm đường. Không biết. Phu các châu phải đi dòng ba bốn tháng liền rồi.

Chiều hôm qua, có phu mới đến. Tiếng xì xào hỏi người châu nào, người châu nào, nhưng không ai biết. Có thay phu cho về không, không ai biết nốt. Cả mấy trăm phu mộ dưới xuôi lên cũng liên miên rải ra mặt đường hàng năm nay, ăn ngủ cứ rúc ráy vào chân núi, bây giờ cũng đến cả Tà Lài.

Có tiếng đồn rằng chủ thầu đường hầm Tà Lài chỉ mất hai phát mìn đáp vào cái núi đã rỗng sẵn, được không mấy vạn bạc của Tây. Chủ thầu sướng quá, vác tiền về Lạng Sơn ăn chơi phát rồ lên rồi. Phải thế hay không? Nhưng phải thế hay không thì ở các trạm phu đắp đường và phu đập đá làm hầm Tà Lài vẫn chẳng có gì khác. Nhà thầu hẹn một năm hai lần phát quần áo mà tháng bảy đã qua, chân tay làm đá như bị dao cắt. Mấy hôm lại phải khiêng người đi nhà thương vì đá bắn vào thủng mắt. Quần áo rách bươm, chẳng thấy cai sú nào ỡi ơi đến.

Đôi chốc, làn sương chợt mỏng, nhìn thấy mờ mờ một quãng đường 4 ngoi ra. Trước nhất thấy hai chiếc tàu hoả lu như hai con voi đen sì phủ phục chặn ngang. Góc đường, cái xe lục lộ sơn hắc ín bốn phía bưng kín không cửa sổ. Như chiếc quan tài đen đặt trên bốn bánh sắt cao lênh khênh. Có một người vừa chui trên quan tài ấy xuống, đương lúi húi nhóm lò củi đầu xe hoả lu. Cả người nọ run rẩy muốn đút tiệt tay chân vào miệng lò khói um.

Cũng lúc ấy, những đám phu trong lều lán quanh chân núi đương co ro kéo ra. Không phải họ mới dậy. Họ dậy từ gà gáy, đã thổi cơm, ăn rồi ngồi trong lều trông ra chờ sáng, bây giờ thấy ánh lửa thì dò đến. Chưa trông rõ mặt, chỉ thấy dòng dài người đến lố nhố ngồi đứng đông nghịt quanh hai cái tàu hoả lu và cái nhà hòm của phu lục lộ.

Những tiếng bàn tán lào xào nổi lên.

- Hôm nay xuống làm đường Bản Dạt.

- Có châu hôm nay được về à?

- Không ai được về đâu.

- Trời!

- Mày chịu khó đi phu cho qua Tết cơm mới nữa thì quan sẽ cho cái mề đay cửu phẩm rồi quan đá đít về.

- Chết thôi.

- Mất mẹ nó Tết tháng bảy.

- Đi trèo hồi còn khổ hơn đi phu, đi phu không sợ ngã cây.

- Ngã cây nhưng mà được tiền, còn hơn.

- Phu đâu mới mộ về thế?

- Không biết.

- Thấy nói đám phu này là bắt người Quán Hồ.

- Đông không?

- Dễ đến trăm.

- Thế thì châu ta được thay rồi.

- Có mà sang năm! Đường Bản Dạt còn mênh mông như cái chợ Kỳ Lừa ấy! Tao xuống xem rồi. Đến một nghìn người ném vào nó cũng chưa xong.

- Giời ơi! Cũng thì làm người!

- Quan lục lộ đến chưa?

- Rét thì mới tháng bảy mà đã buốt đến chân tóc!

- Các ông lính cũng chưa trở dậy nữa là!

Tiếng ồn ào kéo dài và lan ra. Có người, có tiếng nói, hình như cũng ấm hơn. Lúc ấy, tiếng ai bô bô to hẳn:

- Đi phu đến tróc vảy ra thế này thì chịu thế nào!

Bỗng dưng có người kêu:

- Cái gì trăng trắng kia.

- Giấy quan yết thị bán muối.

Chắc hẳn cái giấy nói việc bán muối từ hôm chợ Nà Sầm, phiên chợ đã qua. Tuy vậy, thấy có người nói thì nhiều người cũng thờ ơ nhìn lên mặt tường xe nhà lục lộ, chỗ tờ giấy trăng trắng nổi trên màu hắc ín đen ngòm.

Tiếng nói to, giựt lên:

- Không phải yết thị bán muối. Cái này khác. Đọc cho mà nghe này:

Hỡi anh em phu làm đường Nà Sầm, Bản Dạt. Thằng Tây có bọn chó săn tri châu, châu đoàn, xã đoàn bắt các dân tộc mình phải chịu biết bao nhiêu nỗi khổ. Không thể chịu được thế này mãi đâu. Chúng ta phải đánh thằng Tây lấy lại đất nước thì mới được yên ổn làm ăn. Anh em có biết tháng trước ở dưới Kỳ Lừa, anh em phu đã lấy thuổng cuốc, xà beng đánh chết tên quản Lộc cai thầu làm đường Keo Tấu ra Nhị Thanh...

Cũng lúc ấy, phía mặt tường xe bên kia lại có người đọc to hơn:

- Cái này nữa! Cái này nữa! Kỷ niệm Xô Viết Nghệ An! Anh chị em công nông...

Nhiều người chạy dồn sang phía ấy. Nhưng cũng nhiều người ở ngoài, xôn xao, rồi nhớn nhác đứng im. Tiếng thì thào:

- Bây giờ tao mới dám nói, hôm qua tao cũng thấy nhiều cái này dán trên toa tàu hoả ở Bản Trang...

- Ghê quá!

- Làm thế nào?

- Các người có ai biết chuyện đầu cầu Tà Lài này không?

- Không.

Một người đứng cao lên, kể thật to:

- Năm ấy, dân làng Ma Mèo, làng Khơ Đa cũng đi phu thế này, có bọn phải lên làm tận Bình Nghi kia, đi phu nửa năm chưa được về thế này, họ bỏ việc, rồi ra ngồi nấp cả dưới chân cầu kia, đợi thằng tuần phủ ở Thất Khê về Lạng Sơn đến chỗ cầu Tà Lài này thì người ta đổ ra đánh chết tươi ngay trên xe ngựa.

- Bây giờ ta đợi quan lục lộ đến thì ta cũng giết như thế. Trong giấy bảo thằng quản Lộc thầu đường dưới Keo Tấu cũng chết thế.

- Thôi, thôi!

- Thằng quản Lộc bị mấy nhát xẻng vào đầu.

- Không được đâu!

- Chúng ta khổ lắm rồi. Chúng ta đem nhau đến đây chẳng ai biết hết mặt nhau, nhưng chúng ta chỉ biết người Thổ, người Kinh, người Nùng, người Mán, mấy trăm con người này khổ lắm rồi, nhục lắm rồi, không chịu được nữa, từ nay thề có chết vì đòn lý trưởng xã đoàn cũng thề không đi làm đường cho Tây nữa.

- Hay ta về, ta bỏ về!

- Phải đấy. Cứ về thôi! Mặc mẹ nó.

Trong nháy mắt, bao nhiêu phu đã ở mặt đường hay còn ngồi trong lán đều rùng rùng tuôn ra rồi tan hết. Những phu ở Quán Hồ mới tới cũng về cả.

Khi nắng lên, bọn cai ở Nà Sầm mới lục tục xuống. Quanh cầu Tà Lài vắng ngắt, khác hẳn mọi hôm. Nó tưởng hôm ấy là ngày chợ Đồng Đăng, phu đi chợ. Nhưng đến lúc trông sang bên kia thấy đám phu Bắc Giang ngồi ép thành một đám bên cái xe hoả lu, như ai trói vào đấy. Không hiểu sao.

Phu mộ dưới Bắc Giang không có thẻ (1), không dám trốn (Các quan lục lộ phòng xa phu đường xuôi bỏ việc, đã giữ hết thẻ thân của phu).

Thành thử, hàng trăm con người cứ ngồi dúm một chỗ. Quan đến cũng không nhúc nhích. Như một đống gạch. Cũng không dám về lán. Họ sợ rời từng người ra bây giờ, có thể gặp nguy hiểm. Còn mấy người phu lục lộ đã lại chui cả vào cái nhà hòm từ lúc nào. Thấy cai đến, bấy giờ mói lóp ngóp chui ra, xuống nhóm lại lò than đầu hoả lu đã tắt ngấm từ lúc nào.

Bọn Tây lục lộ ở thị trấn Nà Sầm nghe tin có động, có thằng đã cưỡi ngựa tới. Thấy những người cai của nhà thầu vừa đến, đương quát tháo:

- Cái gì thế? Phu đâu? Phu đâu cả rồi? Sao thế này?

Không ai nói, không hiểu tại sao. Lạ lùng quá. Những người phu lục lộ chui trong cái nhà hòm ra nhóm lò cũng đứng ơ như mất hồn một lúc sau mới ngoảnh mặt nhìn lên tờ truyền đơn dán trên vách xe ngay phía ngoài trên chỗ đầu mình nằm.

Bọn cai trông theo, sấn đến đọc. Đọc chưa xong cai đã chạy. Chúng chạy hết. Vứt lại chiếc áo bành tô vàng loè xoè. Thằng Tây lục lộ cũng phóng nốt.

Một lát lính đồn Nà Sầm và Đồng Đăng, hai đầu đường đều kéo đến, tua tủa súng, nhớn nhác đi dò từng bước chân, từng bước.

Lúc ấy, Mã Hợp, Mã Anh và Chảo Pin đã về tới Khơ Đa. Họ đứng trên đồi nhìn xuống, họ trông thấy hai đám lính Nà Sầm và lính Đồng Đăng như hai dòng kiến bò đến gặp nhau ngang đường, nói gì to lắm, như chửi nhau.

Vàng Chỉn Sen cũng đã lên được đồi. Tay anh ta vẫn xách cái xẻng như lúc nãy đứng nói chuyện “người xóm Khơ Đa và Ma Mèo giết thằng quan phủ Tràng Định ngày trước”, tiếng sang sảng giữa những đám phu làm cầu Tà Lài. Như lạ lắm, Chỉn Sen trỏ tay, hí hửng:

- Hai đám chó chạy thi kìa...

Hai đám lính lại tất tả chạy quanh, rối lên.

Ba người nhìn lại nhau, hỏi:

- Khén Chang đâu?

Họ toan xuống. Đã thấy Khén Chang lò dò lên chân đồi.

Khén Chang nán lại nghe tình hình, vẫn nhiệm vụ nghe ngóng của Khén Chang. Như đã bàn trước khi tổ Khơ Đa đi tranh đấu. Tổ Khơ Đa đã quyết định. Sảo Kinh bị mật thám đánh chết... Sảo Kinh dặn trả thù cho nó... Phải trả thù cho nó... Phải đi tranh đấu trả thù cho nó! Cả Thụ và Mã Hợp cũng đi cùng! Anh em ở Khơ Đa xuống đường từ mờ đất, vác xẻng cuốc, như phu đi làm. Rồi hô hào tan đám phu. Cuộc tranh đấu thắng lợi!

Bây giờ, đường 4 vắng ngắt, không một bóng người phu nào. Nắng đã lên cao, lại trông thấy con suối Lũng Lừ lấp lánh từ đằng xa.

Những người thanh niên Nùng ở Khơ Đa đã về trong xóm, cất xẻng cuốc rồi, ai đi việc nấy. Khén Chang tháo gióng cho bốn con trâu trong gầm sàn ra. Lại như mọi ngày bình thường, Khén Chang theo đàn trâu xuống đồi. Đàn trâu gặm cỏ, ăn dần về phía Nam Quan.

 

*

*          *

 

Thụ về bàn với Mã Hợp:

- Cách mệnh chúng ta trưởng thành rồi, chúng ta không để thằng Tây được yên đâu. Chúng ta không cho nó tưởng nó mới được quyền đuổi đánh cách mệnh. Thằng Tây không thể khủng bố và lấy mất tinh thần của ta được đâu! Cách mệnh phải cho thằng Tây biết là lúc nào cách mệnh cũng đuổi đánh nó. Chúng ta sẽ tranh đấu. Công tác mới này rất quan trọng.

Thụ lấy trong bồ đựng đồ vá chảo ra một cuộn giấy to nhét vào cái nồi đồng cũ, lúc nãy Thụ vừa gánh về. Thụ mở tờ giấy có khẩu hiệu in trên giấy xanh, đỏ, mỗi tờ mỗi màu nhưng vẫn một dòng chữ to:

            Ủng hộ Cách mệnh Tháng Mười
            Ủng hộ Liên Bang Xô Viết


Thụ nói:

- Khắp Lạng Sơn mở cuộc tranh đấu dán lên khẩu hiệu này. Năm nay, lần đầu chúng ta được cùng nhân dân khắp năm châu bốn biển đứng lên tranh đấu kỷ niệm Cách mệnh Tháng Mười là quê hương của cách mệnh thế giới. Nhân dân sẽ được thấy cách mệnh. Thằng Tây sẽ sợ cuồng lên. Đảng ta bảo nó: mày sắp đến ngày chết rồi.

Bàn kế hoạch cho tổ Mã Hợp đi tranh đấu kỷ niệm Cách mệnh Tháng Mười rồi Thụ đi Thất Khê.

... Một đêm tối trời.

Mảnh trăng mùng tám, như chiếc lá hồi úa, đã rơi xuống sau đồi cao dưới thị trấn Đồng Đăng.

Đầu kỳ lương, lính và các ông ký ga, ký dây thép, nhà đoan kéo đến nhà cô then cuối phố đông ních. Mắt liếc theo mặt đàn, ngón tay cô then khéo nhấc cái tai đàn, phảy phảy. Tiếng đàn tính dấm dứt, ngẩn ngơ, dắt theo tiếng nhạc bạc rung nho nhỏ. Giọng then Lạng Sơn trầm xuống, vời vợi.

Lính tráng, cai đội, thầy ký nốc rượu tuý luý. Cả đến bọn lính tuần cũng chỉ kéo nhau tua mấy vòng lúc trăng chưa lặn. Sau đó vào ngồi chầu rìa nhà then, đùa đến sáng. Cứ đến kỳ lương thì không trai làng nào dám thò mặt ra tranh then ở phố cả.

Trăng vừa lặn, có hai bóng người từ Bản Dạt lên, đi thẳng vào chợ. Một nép vào tường. Một người dạo quanh cả hai quán chợ rồi quay lại. Những nén hương trước cửa mỗi nhà người Hán thường cắm từ chập tối cứ lập loè như những con sâu đất, cũng đã tắt từ lâu. Bốn phía phẳng lặng. Tiếng cười ở nhà then đằng kia đã khuất ngoài xa.

Họ chợt đứng lại đầu tường. Một người thụp xuống, kôông kêêng người kia lên vai. Hai bóng nối nhau vừa với đến cái chuôi vồ nóc cầu chợ. Người trên quơ tay qua lại, như quét mặt tường, rồi nghe sột soạt ập tờ giấy xuống. Lại nghe tiếng dao chém xuống phập phập mấy nhát.

Lúc ấy, trạm canh cửa trại lính cổng đồn quan hai ngoài đồi, vẫn như thường. Ánh đèn dầu hoả tù mù, chập chờn cái hình người lính gác đứng trong lều như đứng trong cái vò giữa bóng dãy núi đen sẫm, nhọn sắc, tựa cái lưỡi cưa đặt ngược.

Hai người đi quanh, dán lên nhiều quãng tường ở các phố nữa. Rồi họ quay ra. Nhưng chợt thế nào, họ lại trở vào, đến giữa phố, đứng lại ngay cửa nhà đội Mạo. Cả dãy phố cũng như nhà này, đã ngủ yên và tối om. Tiếng chó sủa nhúc nhắc đâu gần đấy.

Một bóng vào cửa lấy que ra quệt rồi đặt tờ giấy lên một bên cánh cửa ra vào. Cẩn thận, người dán còn quét đi quét lại mấy lần, đến lúc mấy con chó cắn xô đến mới bỏ đi.

Họ đã ra đến cuối phố Mới. Lại qua nhà cô then rộn rịch và có ánh đèn hắt một vệt sáng ra khe cửa.

            Cây nở hoa đẹp mãi
            Người chỉ có một thì
...

Tiêng cười thô như có người cù nách bỗng rộ lên, át mất câu hát hay. Đêm về khuya, tiếng đàn nghe ngọt lắm. Đêm đã khuya ngày sắp rạng mà nghe đàn then thì cái tai cũng muốn lắc lư say. Vậy mà bọn lính tráng cai cú quỷ sống cứ đùa nhau tranh nhau loạn xạ, chí choé thế kia. Mất cả câu hát. Người trai trong làng chỉ qua ngoài đường, cũng tiếc.

Thế là hai người liền thèm nghe hát. Họ lẻn vào vách cửa, áp mặt nhòm. Trong nhà, toàn lính, ngồi lẫn với mấy cô gái ở chợ. Cô then trẻ, mắt sắc liếc theo ngón tay tung cái hoa cúc vạn thọ. Cô mặc áo chàm dài viền gấu đỏ, tay cầm đàn, ngồi trên chiếc ghế đẩu. Trước mặt, mẹt hoa hồng lẫn hoa đơn đỏ còn đầy nguyên. Cô mà “thưởng” hết ngần ấy hoa thì cũng phải gần sáng.

Cây nở hoa đẹp mãi...

Cô then buông đàn, tung một cái hoa.

Mấy lính ngồi gần, tranh nhau giơ tay sẵn rồi đẩy nhau vào nắm tay cô then. Nhưng đoá hoa đơn đỏ của cô then ném lại rơi ra xa. Bọn lính quay lại, huých nhau, vồ hoa chen bật cả ra cửa.

Một đứa kêu:

- Có trộm!

Mấy lính khác loạng quạng nhảy ra. Nhưng chỉ còn bóng tối. Hai bóng người vừa thấy nấp cánh cửa đã biến mất. Một đứa làu bàu:

- Lại mấy thằng con trai Bản Dạt lên nấp cửa nhà then. Thảo nào, thảo nào then ném hoa ra cho nó. Ý tứ với nhau thế, gớm thật, phải vào tra tấn cho ra mới xong.

Cả bọn lại chen vào quây quanh ngọn đèn ba dây với mấy cô gái chợ. Tiếng cười nói hí hố càng ầm ĩ đến sáng, chẳng nghe ra đàn hát gì nữa.

Tờ mờ hôm sau, Mã Hợp và Hán Pang vào Đồng Đăng bán củi sớm. Bó củi đè trĩu lưng, hai người cúi bước lật đật như con rùa núi đội cái mai gồ ghề đương bò quanh chợ. Chưa có ai hỏi đến, người bán củi chợ Đồng Đăng bây giờ nhiều hơn người mua củi, khó khăn quá, hai người đi rao bán qua phố.

Một quang cảnh lạ. Rồi cứ thấy không ai nói với ai, mọi người chạy đùng đùng sang nhà nhau. Mấy nhà đã mở cửa, bây giờ cũng đóng lại, một chốc, chẳng nhà nào còn ngỏ cửa nữa. Nhà đội Mạo vẫn đóng ỉm. Nhưng trên cánh cửa gỗ xoan mới, chỉ còn vệt hồ. Cái khoá đuôi chuột khoá trái. Chắc nó dậy, sợ quá, vợ chồng tếch lên trú ẩn trong đồn rồi.

Hai người đứng lại trước bức tường đầu chợ. Nếu có người gọi mua củi lúc ấy chắc cả hai đều giật nảy mình. Bởi vì họ đương mải nghênh lên nhìn bờ tường cao. Giữa hai tờ giấy xanh đỏ dán liền nhau, đứng xa cũng nhìn thấy dòng những chữ: Ủng hộ Cách mệnh Tháng Mười. Ủng hộ Liên Bang Xô Viết.

Nhiều người đi chợ cứ xúm đến.

Mấy đội xếp cuống quýt. Tờ truyền đơn dán tận trên cao. Có đội xếp lấy gậy chọc nhưng không được. Tờ giấy đã dính chặt từng mảnh rời vào tường gạch xám. Người đi chợ càng xúm đông, ngước lên. Bao nhiêu lính trong đồn ra mà loay hoay không bóc được. Đến lúc quan hai Tây xuống, thấy đông quá, quan hai luống cuống, sai thổi kèn báo động. Tò te... Tò te... quay đi quay lại, tiếng kèn vảy rộng sang bốn phía chân núi. Thế là vỡ chợ.

Người các làng về chợ đông và sớm quá. Không hiểu từ đâu, nhiều làng đồn hôm ấy về chợ Đồng Đăng sẽ thấy nhiều cái lạ. Cho nên, người chạy về, người ùa vào, cứ đông ùn ùn, khiến bọn lính cứ phải lồng quanh đuổi đánh người như đèn kéo quân, cả cái chợ vỡ, tiếng lừng lên rằng Cộng sản đã về dán giấy báo sắp vào lấy Đồng Đăng, thế là ai cũng nhớ ngay đến năm nào Hồng quân lấy Long Châu bên Trung Quốc, ai cũng nhớ chuyện thằng Tây lãnh sự Long Châu cởi trần chân đất chạy về, nhiều người trông thấy và nhiều người nhớ, còn kể chuyện về các làng bên ấy bắt địa chủ mặc áo lụa dài ra đứng cho nhân dân mắng kể tội rồi ai nghèo đều được chia ruộng. Bây giờ Cộng sản ta cũng sắp về lấy Đồng Đăng, lấy Lạng Sơn, đuổi thằng Tây đi. Các làng, người về, người rộn rịch đi, người tin, người ngờ, chấn động đến tận mỗi làng xa.

Hai người vừa đi vừa tíu tít chuyện về tận Lũng Nghìu. Không bán được củi, nhưng trong bụng Mã Hợp và Hán Pang vui lắm.

Mã Hợp nói:

- Anh Năm đã bảo cái giống Tây nó sợ truyền đơn nhất. Lần này mình mới được thấy nó sợ thật.

Hán Pang cười khì khì:

- Bảo mà, dán kỹ rồi, chém đứt ra, đố nó bóc nổi! Tiếc, những cái dán trong phố không kịp làm thế.

- Tao trông thấy Tây bắt lính xuống tận đầu đường Bản Dạt khiêng lên thùng nhựa.

- Không bóc được thì phải quét nhựa đường lên vậy.

- Từ nay ai đi chợ cũng trông thấy vết nhựa, vết nhựa ấy như quét vào trán thằng Tây, ai cũng biết cách mệnh vẫn mạnh khoẻ, thế là được.

Mấy hôm sau, Thụ cũng ở Thất Khê về.

- Chúng mình bỏ truyền đơn vào tận sân trại lính. Lại bỏ thêm khắp phố cổng Đồn. Thế là thằng Tây ở Đồng Đăng, ở Thất Khê, lại Kỳ Lừa và bên tỉnh, chúng đương cay bắt cách mệnh bỏ tù cách mệnh, nhưng cách mệnh vẫn tiến lên như thường.

Thụ kể thêm:

- Chúng mình cũng dán khẩu hiệu kỷ niệm Cách mệnh Tháng Mười lên chỗ cửa sổ buồng ngủ nhà quan Ba đại lý. Nhưng không ai mê then vào nhòm vách dại như các đằng ấy!

Đánh trống lảng, Mã Hợp kể đã dán khẩu hiệu Cách mệnh Tháng Mười vào cửa nhà thằng Mạo. Khoái chí nhất chuyện ấy.

 

*

*          *

 

Lần này, Phong và Thụ với Chi hẹn về gặp nhau ở Lũng Nghìu.

Trời sáng trăng trong vắt. Ba người ngồi trên mỏm đá trước nhà Mã Hợp.

Trước mặt, những rặng núi xếp nếp loang lổ giữa ánh trăng trong.

Chòm lửa của các xóm Mán đốt rừng làm nương, mùa hè nào cũng nhìn thấy những đốm lửa lang thang của đời người Dao. Suốt đêm, từng mảng tàn than lốm đốm như đàn vạc lửa ăn khuya bay về tận sông Kỳ Cùng.

Trên mỏm núi, chỗ hòn đá to này, năm năm trước, có ba người thanh niên uống rượu, đập chén giết gà ăn thề kết anh em. Mỗi lần đến Lũng Nghìu, Thụ và Chi đều nhớ lại những kỷ niệm vừa ngây thơ, vừa hào hứng ấy.

Ánh đèn thị trấn Đồng Đăng hẩng cao trước mặt, sau hình một trái núi. Họ có cảm tưởng ngồi đây là đương ngồi trông đến tận mỏm Cà Mâu chỗ cao và xa nhất đằng cuối đất nước được.

Phong nói:

- Gặp các đồng chí lần này để bàn một công tác cần. Chúng ta phải tìm và lập cho được nhiều con đường thông về đồng bằng. Khi cách mệnh đã phát triển từ Nam ra Bắc thì những đường lên biên giới, những con đường riêng của ta thông lên biên giới phía bắc sẽ có tầm quan trọng đến sống chết đấy. Ngay bây giờ, ta phải có đường bí mật về Hà Nội không theo đường xe lửa, không theo đường 3. Chúng ta phải đánh những con đường về xuôi, từng chặng có quần chúng cách mệnh bảo vệ đường của cách mệnh. Vì thế, cách mệnh đi lúc nào cũng được. Đấy là công tác cần bàn hôm nay.

Thụ nghĩ: “Dạo còn Hùng ở nhà, chúng mình đã làm thế. Chúng mình đã thông đường sang Cao Bằng, Hùng đã giả làm thợ gặt đi tận Hữu Lũng tuyên truyền cách mệnh cả mùa gặt năm ấy”.

Những người cách mệnh trẻ tuổi, mỗi lần bàn nhau về những dự định của công tác cách mệnh, họ lại thấm thía, nhớ ngày đầu tiên đi tìm cách mệnh. Càng về sau họ càng hiểu việc quan trọng của cách mệnh không phải chỉ là đi tìm cách mệnh ở đâu đâu mà đường cách mệnh trước nhất thấy dọc ngang khắp đất nước và quanh mình.

Thụ nói:

- Vương “cao” à, đường cách mệnh về Hà Nội tốt nhất gần nhất là qua châu Bắc Sơn, mà địch không ngờ được. Phải, châu Bắc Sơn. Xuống Điềm He vào Bắc Sơn hoặc từ Tràng Định xuống Bắc Sơn cũng như ra Văn Uyên vào Bắc Sơn, đường nào ta cũng tới Bắc Sơn. Đến được Bắc Sơn thì sang Bắc Giang hay xuống Thái Nguyên, đường nào cũng tiến về Hà Nội được cả.

Phong đột ngột nói chen:

- Bắc Sơn à?

Rồi trầm ngâm:

- Phải, người Bắc Sơn trước đã can đảm lên rừng Lũng Lắc theo Cai Kinh, lại đi với Đề Thám đánh Tây ở đèo Canh Dàn, người Bắc Sơn sẵn tinh thần lắm. Phải, Bắc Sơn. Vậy thì ta xuống Bắc Sơn, phát triển chi bộ Đảng ở từng làng từ trên nàv toả vào cho đến Bắc Sơn lập thành con đường quần chúng thật chắc chắn để bảo vệ giao thông cách mệnh.

Chi nói:

- Để tôi xuống Điềm He vào Bắc Sơn.

Thụ nói:

- Tôi sang Thất Khê rồi xuống Bắc Sơn.

 





----------------------------------------------------------------------
(1) Thời Pháp thuộc, đàn ông từ 18 tuổi trở lên, hàng năm phải nộp một số tiền cho Tây, được phát cái giấy đề tên tuổi có lăn dấu ngón tay vào đấy, gọị là “thẻ thuế thân”. Đi đâu cũng phải mang thẻ trong người, bất chợt bị khám thì giơ thẻ ra.
Logged
hoi_ls
Thượng tá
*
Bài viết: 5098



« Trả lời #21 vào lúc: 29 Tháng Tư, 2022, 02:39:35 pm »

*

*          *

 

Chi về Điềm He.

Có đến hơn năm năm rồi, Chi mới trở lại đất quê. Nhưng Chi cũng không một nỗi xúc động nào da diết. Mỗi người, khi ra đi, có một tâm tình riêng, cảnh của Chi, nỗi lòng Chi, thật hiu hắt, có Thụ đã biết.

Chi quảy bồ, cắm cúi, mải miết đi. Chi gày gò, không ai có thể nhớ được đây là cậu Chi người Bản Hẻo, học trò trường tỉnh được. Dáng thất thểu, ủ rủ càng giống những người đói mỗi năm đến mùa thường qua các làng hỏi việc gánh hồi mướn.

Những thân hồi lưa thưa mốc trắng. Đầu cành, lá xanh thẫm, đã nhú quả hồi toẽ năm cánh. Vào mùa này, quả hồi còn xanh như lá mà qua dưới gốc đã phảng phất có mùi thơm hồi quấn theo.

Suốt buổi sáng, đi hết những cánh rừng vắng, không gặp một ai. Nhưng khi vào Bản Hẻo, cẩn thận, tránh qua xóm gặp người làng, Chi phải trèo lên rừng rồi tắt thẳng xuống đầu ngõ.

Thế nào, không may, đụng ngay với tri châu Điềm He cùng bọn dõng đương đi lên bên chân đồi.

Bọn dõng lẻ tẻ, uể oải, đứa trước đứa sau, quanh con ngựa tri châu đã đẫm mồ hôi xuống bụng, người và ngựa nhễ nhại đi trong bóng nắng trưa.

Có lẽ bọn này vào nhà chức việc trong làng để nghỉ ăn cơm trưa. Không tránh đằng nào được nữa.

Tri châu vào nhà chánh tổng, bố Chi. Thấy người một mình trên đồi xuống, Tri châu quát hỏi:

- Thằng kia đi đâu?

Chi mặc tấm áo Nùng rộng, mặt láng mặt nâu. Chiếc nón to ngật ngưỡng sau cái gáy cạo trọc lốc. Tri châu có thể nghi ngờ người này ở biên giới vào nên mới quát hỏi thế. Một suýt thì Chi cũng buột miệng: “Không, tôi là người Bản Hẻo đấy”. Nhưng Chi chợt nhớ, vội nói:

- Tôi về nhà anh em trong Bản Hẻo để lấy diêm sinh đây.

- Thật không?

- Thật mà.

- Mày mà về dắt đất ăn cươp thì ông bắn tan xác đấy.

Nói thế nhưng họ cũng không khám, không giữ lại. Trong nhà,cũng không ai biết, không thấy người chạy ra. Có lẽ lúc ấy gần bữa, nhà nào cũng đương nghi ngút quanh bếp, không còn ai ngoài sân sàn. Mâm rượu nhà bố Chi đã dọn sẵn đợi quan trong kia. Thầy và tớ, và cả con ngựa mướt mao mồ hôi cũng khập khễnh, tất tả, đương đói.

Chi vẫn chưa vào nhà, còn tạt ra ngồi trong bụi sim sau gò đất. Xế trưa thường có trẻ trong xóm ra chăn trâu ở đấy. Chắc bây giờ vẫn thế.

Nhà Chi kề bên đồi. Trẻ con trong xóm dồn trâu ra đồi ăn đều qua phía ấy. Chi ngồi đợi suốt buổi trưa nắng.

Đến lúc ánh nắng đã vàng đầy khắp đồi, thấy Nhàn, lững thững đằng kia. vẫn lệ quen ngày trước, Nhàn hay đi trâu sớm nhất xóm. Nhàn đã nhớn. Thoạt thấy em trai, chỉ mới thoáng dáng, Chi nhận ra ngay cái đầu nó vẫn trọc nhẵn. Lúc ấy, Nhàn quay lại, gọi trâu:

- Cừa! Cừa! (2)

Nghe tiếng em gọi trâu, Chi nghẹn ngào trong lòng. Trên quả đồi này, những năm trước, hai anh em thường ra chăn trâu. Bấy giờ Nhàn còn loắt choắt, theo anh đi chơi. Những lần Chi bị bố đánh, Chi trốn lên đây ngồi khóc mẹ. Em chạy theo anh, thấy anh khóc, cũng khóc theo. Đến bữa ăn, em thu thu đem cho anh nắm cơm của chị nắm giấu cho. Hai anh em lại khóc, nước mắt ướt cả cơm, tối mịt mối về. Nghĩ về Bản Hẻo, Chi chỉ còn nghĩ đến hai anh em và những chuyện buồn ấy.

Chi bước tới.

- Em Nhàn ra chăn trâu à?

Nhàn nhìn Chi rồi nhắm mắt, oà khóc. Sợ quá, đứng sững, không dám chạy. Nó tưởng thằng kẻ cướp.

- Anh đây... Anh Chi đây...

Chi bỏ cái nón che rợp nửa mặt xuống. Nhàn mở hé mắt, thấy đúng là anh Chi mình thật. Nhàn ôm chầm lấy anh. Thế rồi Nhàn không hỏi anh Chi được một câu nào, Nhàn lại nức nở khóc to hẳn thành tiếng.

Chi dỗ:

- Nín đi em. Ngồi xuống, anh bảo.

Nhàn ngồi xuống bên cạnh anh.

- Chị có nhà không?

- Có.

- Em về gọi chị ra đây. Anh đợi đằng gò sim kia.

- Sao anh không xuống nhà?

Chi cười:

- Em không sợ bố đánh anh à?

Nói thế, Nhàn hiểu. Nhàn chưa hiểu công việc của anh như thế nào. Nhưng mấy năm nay, Nhàn cứ mang máng một chuyện gì lôi thôi to lớn lắm đến với anh Chi. Bây giờ anh mới về, anh đi đâu lâu lắm mới về thế này thì chắc là bố sẽ đánh anh thật. Nhàn lại ứa nước mắt. Chi bảo em:

- Đừng nói có anh ở trên này nhé. Chỉ bảo với chị thôi.

Nhàn chạy nhanh xuống đồi. Nhàn đã hiểu cần phải kín đáo như thế, trước cả khi anh Chi dặn.

Mẹ Chi mất từ năm nào, Chi không biết mặt. Mẹ Chi chỉ được có mình Chi. Bố Chi lấy vợ kế, sinh ra chị em Nhàn. Chi rất thương yêu hai em. Từ khi còn bé, ba anh em Chi lúc nào cũng quấn quýt, thương nhau. Những ngày đi xa, mỗi khi phảng phất tình cảm đối với quê nhà, chính là nhớ đến các em với hoàn cảnh triền miên trong một đời sống tẻ nhạt, buồn chán ở xó làng của các em mà thôi. Lát sau, hai chị em lấp ló lên đồi. Chị tất tả theo Nhàn, nét mặt vừa nhớn nhác vừa hớn hở không giữ được.

Chưa trông thấy Chi, hai mắt cô bé đã mọng đỏ.

- Bấy lâu anh đi đâu?

Chi nói:

- Anh đi làm cách mệnh em ạ.

- Em chưa hiểu là anh nói thế nào...

- Đằng trước cửa nhà mình vẫn còn chiếc cối đá to, em nhỉ? Anh còn nhớ cái chày gỗ giã xuống mãi đến nỗi lòng đá cối lõm sâu bằng gang tay. Có dễ cái chày giã xuống đến một nghìn năm rồi. Một nghìn đời người đói khổ rồi. Mãi thế ư? Không được. Không thể mãi thế. Phải thay đổi, em ạ. Thay đổi đời người là làm cách mệnh, anh đi làm cách mệnh để đánh thằng Tây, lấy lại đất nước, đem cái thay đổi sung sướng lại cho mọi người.

Cô gái cũng chưa hiểu thế nào. Nhưng nước mắt cô dòng dòng xuống. Dù cho những năm vừa rồi anh đi xa, anh đi đâu nhưng cũng chưa bao giờ cô biết anh có lý tưởng và những ước mơ khác lạ như thế. Nhưng nghe anh nói và cứ gẫm như đời anh và đời em, trong cảnh tù ngục gia đình suốt cả tuổi trẻ, đã khiến cô gái nói:

- Anh đưa em đi cách mệnh với.

Nhàn cũng bắt chước chị:

- Cho em đi với.

Chi mỉm cười. Thế là đường cách mệnh vào Bắc Sơn đã làm được đến Bản Hẻo rồi.

 

*

*          *

 

Thụ vào Bắc Sơn.

Lâm ở Nà Khan lên biên giới đón Thụ. Ngẫm nghĩ cũng đặc biệt, bên Nà Khay, các cơ sở cách mệnh Trung Quốc và cả cách mệnh Việt Nam nữa đều người dân tộc Nùng. Bước sang Bình Nghi và vào đến giữa cánh đồng Thất Khê, các chi bộ toàn Tày. Hai dân tộc làm chủ biên giới hai nước đã đứng lên rồi. Chi bộ Đảng đến tận Háng Đông, đầu cánh đồng bên kia tường đồn nhà quan ba đại lý Thất Khê.

Sương đêm trắng xoá, đến sáng, khi sương tan, mở ra từng sườn núi, Lâm và Thụ đã đương qua cửa Bình Nghi.

Những vạt núi tranh thoai thoải xuống đến khuất tầm mắt. Đồi trọc nối nhau như đàn rùa đói, khô xác kiệt sức chết đứng đấy tự bao giờ. Gió thổi hút vào lòng chảo cao nguyên từ cửa ngõ Lộc Bình sang, người và gió và nhà cửa cứ rú lên, suốt mùa gió bấc.

Từ Ngãi Kỷ cách mệnh đã phát triển sang Yên Khuyến, Vĩnh Lại, Nông Đồn... Trong khi bọn tổng xã đoàn vùng ấy cứ đêm ngày thúc dõng canh gác các ngả đường hẻm. Dõng làng cơm nhà việc quan, khó nhọc quá. Tổ cách mệnh tìm đến tuyên truyền dõng, từ đấy, có phải đi gác đêm, dõng chỉ ngủ tụ lại một nơi.

- Cách mệnh chỉ đánh Tây và đánh vua quan. Cách mệnh không phải kẻ cướp, đừng bắt.

- Để người ta yên, có khi còn được nhờ.

Đến Nà Han, thì Hải và các đồng chí đón. Các tổ cắt người gác tất cả ngã ba đầu xóm từ giáp Ngãi Kỷ. Từng quãng, lại đổi người quen đưòng đi với Thụ. Gặp lính tuần, đã có hiệu trước. Lúc nào cũng chắc chắn như đi trong nhà, bởi vì Thụ đương đi trên đường cách mệnh, đường của Đảng, của quần chúng bảo vệ.

Nửa đêm, từ Nà Han xuống. Giữa đường, Hến đã đứng đón Thụ vào cánh đồng Thất Khê.

Được mấy hôm, Thụ xuống châu Bắc Sơn, đến Vũ Lăng.

Cuối làng Vũ Lăng, giữa châu Bắc Sơn, chạy dài một dải núi răng cưa thông với châu Vũ Nhai dưới Thái Nguvên, sang huyện Hữu Lũng bên Bắc Giang. Ở Vũ Lăng, đi tay trái, ra Chi Lăng, tới núi Cai Kinh - nơi Cai Kinh đóng quân ở rừng Lũng Lắc chống Pháp luôn mấy năm, rồi tạt xuống Na Lương, mỏ Trạng, vào giữa vùng rừng rậm lúp xúp ấy, nhiều nơi còn gặp cả một quãng tường đá ong có lỗ châu mai, dấu vết căn cứ và khu vực chiến đấu của nghĩa quân Đề Thám.

Các xóm Vũ Lăng ở vun vào giữa cánh đồng, xung quanh đồi hoang vào đến chân núi. Xưa nay vào đấy chỉ có người vào đặt cạm bẫy hổ mà thôi.

Vùng Bắc Sơn có cách bắt hổ bằng cũi giương bẫy. Cái cũi hai ngăn, có con chó nhốt ngăn trong. Hổ đói mồi, vờn quanh cái cũi bắt chó. Ngăn ngoài vẫn giương cửa đợi. Hổ xộc vào. Bẫy sập. Con chó nằm bên kia trông sang ngang mặt con hổ, mà hổ chịu. Nhưng con chó mất vía. Đêm đêm, trong chân núi, khi nghe tiếng chó rít khủng khiếp, biết đấy là hổ về. Đêm nào cũng thế. Đêm nào cũng có hổ sa bẫy. Đêm nào cũng có những con chó sợ chết ngất.

Rồi một năm, có những gia đình người Nùng từ biên giới xuống, trôi đến Vũ Lăng. Người Nùng nghèo khó phải lang bạt đi bốn phương. Có người theo Lương Tam Kỳ vào nước ta giúp triều đình Huế đánh Tây, đến khi Tây và triều đình Huế dàn hòa, Lương Tam Kỳ thất thế, ra hàng, nhiều người bỏ đi phá hoang lập quê sâu trong các vùng hẻo lánh ở Chợ Chu, Đại Từ, Vũ Nhai, Bắc Sơn. Đến Việt Nam còn có những người Nùng năm xưa ở các vùng quê quanh Quảng Châu và Long Châu, bọn quan quân đánh nhau liên miên, lại nữa, chúng báo thù sau Quảng Châu công xã và Long Châu đỏ, biết bao nhiêu người Nùng túng đói, có chí khí cách mạng, bị đánh đuổi, phải bỏ quê chạy xuống biên giới rồi lần hồi về Bắc Sơn.

Ở Vũ Lăng, những người bơ vơ đến sau cứ giạt tự nhiên vào chân núi. Đầu tiên, cái rừng lau bẫy hổ cuối làng có mấy gia đình anh em họ Đường đến khai khẩn. Những con hổ phải chạy vào rừng thẳm từ đấy thành một cái xóm nhà lơ thơ, xóm Bò Tát. Thấy vui đất, mấy người Nùng ngoài làng Hữu Vĩnh cũng vào phá hoang trồng ngô. Những năm đầu họ còn đi lại hai quê, sau ở hẳn. Xóm Bò Tát đông dần.

Tuy vậy, những mái nhà xóm Bò Tát vẫn chỉ mấp mé lút trong cỏ tranh. Người đi phải gạt ngọn tranh ra mối thấy lối. Cũng phải vào quãng giữa trưa mới có người dám từ ngoài làng vào xóm. Bởi vì, hình như hổ vẫn rình, mặt trời chỉ xế một chút trên ngọn tranh đã có hổ ra lởn vởn tìm mồi. Ở xóm này, ai cũng gặp ngang mặt hổ ít ra vài lần. Trẻ con đứng trên đầu sàn thì trông thấy hổ đi qua ngoài rào nứa luôn. Con chó nào dại dột, chỉ xuống chân thang nhà sàn lúc chập tối, ông hổ rình đâu, đã nhảy vào, tát chân bắt chó, đập cả vào cột sàn, đổ cây đèn mỡ trên bếp.

Bấy giờ, cuối tháng bảy. Bầu trời nắng nung nấu như cái chảo rang úp trên đầu. Những nương ngô vàng rạc. Châm mồi lửa, có thể bùng cả cánh bãi và cháy lém hết xóm Bò Tát.

Thụ lên nhà bỏ đôi dép cỏ và cái túi chàm ngoài đầu thang. Thấy Thông đương thổi cơm, Thụ chào hỏi và nói ngay, như đã quen biết sẵn:

- Chào cụ! Anh Thông thổi cơm à? Anh Nhất ở Đại Từ dặn tôi lên gặp anh.

Người lạ, nhưng vừa nói thế, Thông đã hiểu ngay. Thông mừng và hồi hộp lắm. Người mà Thông đương mong đợi đây.

Tháng trước, Nhất ở huyện Đại Từ gửi lên cho Thông hai việc: một quyển điều lệ Đảng và một câu nhắn: “người của ta sắp đến”. Quyển điều lệ thì được đọc rồi. Thông đã rủ được bốn người cùng xem điều lệ và đợi cán bộ. Nhưng “người của ta” vẫn chưa thấy đến.

Nhìn Thụ, Thông nhớ năm trước hình như có gặp anh này ngoài Long Châu. Năm ấy, Thông ra ăn Tết quê nội ở Khẻo Mèo. Tình cờ, gặp mấy anh khác ở Lạng Sơn cũng ra Khẻo Mèo ăn Tết. Họ vờ thật. Họ ra lớp huấn luyện. Mấy người rủ luôn Thông đi Long Châu dự huấn luyện. Thế là Thông đi.

Thông được dự học ba hôm. Gần rằm mới về đến Vũ Lăng. Về nhà ông tưởng cháu mải chơi theo đám then, mắng mãi. Nhưng Thông im lặng, không dám cãi lại. Có phải chơi then đâu. Cái này cao xa hơn then nhiều. Ba ngày chỉ nghe cán bộ nói toàn chuyện cách mệnh và thế giới với kế hoạch đánh Tây lấy lại đất nước. Rất say sưa, nhưng cách mệnh dặn tổ chức phải khéo, phải kín, ai chưa tin thì không được hở ra. Về nhà muốn nói hết ngay mà cứ phải giữ miệng.

Thông nhớ cái nhà gác ở Long Châu, có lối sau xuống bờ sông, có anh trắng cao cao, hay ngồi đọc sách giống anh này. Anh em rỉ tai nói trong nhà này có Hoàng Văn Thụ ở Văn Uyên là người giỏi của ta. Nhưng việc bí mật, không dám hỏi ai.

Ăn cơm tối xong, Thông hỏi:

- Anh có ở Long Châu không?

Thụ đáp:

- Cũng có lần đi qua.

Thông lại hỏi, sốt sắng:

- Có phải anh là Hoàng Văn Thụ ở Long Châu năm trước không?

Thụ cười cười, đáp:

- Tên tôi là Vân, anh Thông à.

Thông không hỏi nữa. Nhưng vẫn ngờ ngợ.

Từ hôm ấy, Thụ ở luôn nhà Thông. Người Vũ Lăng ra Bò Tát có tò mò hỏi, bảo là anh em ở Khẻo Mèo bên Trung Quôc về chơi, cả xóm ai cũng khen Thụ người trẻ thế mà thành thạo, có hôm nằm tiêm thuốc phiện cho ông cụ nhà Thông, đánh xái thật dẻo tay, rồi lại chuyện suốt đêm. Thụ thuộc chuyện lịch sử nước ta từ đời Hồng Bàng. Thụ đọc bạch thoại, thạo tiếng quan hoả, cả tiếng Bắc Kinh. Các cụ già trong làng biết tài, tìm gặp Thụ để đấu chuyện, làm thơ, ra câu đối khảo chữ, bàn việc đời, rồi khen: “Cháu này còn ít tuổi được ăn học những đâu mà khá lắm”.

Trong xóm, trẻ con chăn trâu, gặp Thụ, đã thành thói quen, lần nào cũng đòi anh kể chuyện và xin bài hát. Trên gò chăn trâu bò ngoài bãi ngô, hôm nào có Thụ ra cũng đều đông nhộn người và trẻ chơi. Rồi đứa nào tóc dài thì ngồi xuống. Thụ loay hoay cạo đầu cắt tóc cho thật gọn, không nhôm nhoam, không xát không chảy máu. Thanh niên cũng thích. Bờm đầu cho các cậu, Thụ chỉ lấy kéo cắt, tanh tách một lúc mà được cái đầu khéo như vừa cắt hiệu thợ cạo ở phố ăn chơi Đồng Mỏ.

Mà cũng hay, Thụ biết thật đủ chuyện. Làm bùa yểm, Thụ thuộc cả những bài mo cúng gà to nhất. Thụ hát được những bài hát gốc then Cao Bằng ở Hoà An. Ngày cúng hái hoa ở nhà cô then, Thụ uốn bàn tay xách cái tai đàn tính lên, khéo như cô then. Vừa bước rung nhạc, miệng hát theo tay đàn, bao nhiêu con gái tận xóm trong cũng đến - đàn khuya mới đốt đuốc về, mê then đến nỗi quên sợ hổ.

Nhưng Thụ bảo Thông: “Bây giờ bận. Còn phải làm cách mệnh đã, rồi mới chơi được”.

Trong xóm ai làm nhà, Thụ đến giúp. Ngày thượng lương, Thụ biết dựng cái cột gỗ nghiến lên, lấy bánh dầy bọc giấy xanh giấy đỏ quăng hai bên mái như các cụ từ đời trước, ở Bắc Sơn vẫn làm phép khi lễ dựng nóc như thế, trẻ con ra nhặt bánh cúng ăn lấy khước.

Nhưng Thụ bảo với anh em trong tổ cách mệnh: “Bây giờ chẳng mấy ai làm nổi cái nhà to tát để ở. Anh em ta còn nghèo quá. Phải đuổi thằng Tây lấy lại mọi thứ thì bấy giờ mới làm nhà ở yên được”.

Thụ chẳng nề hà việc gì, vác củi, gánh nước, thối cơm, xay bột vắt bún, đun chảo lợn. Tết tháng năm, Thụ làm bún sợi mướt, ngọt, như tục làm bún Tết ở Bắc Sơn.

Chẳng bao lâu, đã như người xóm Bò Tát.

Người xóm Bò Tát thật, bởi vì Thụ biết đi bẫy hổ. Năm nay rồi đói to, trời nắng cháy cả vụ ngô. Lại thêm hổ quấy, cả xóm có vài con bò. Hổ về quật chết, dần mòn tha đi. Người làm nương mà mất bò thì như bị chặt tay, còn gì! Còn có hai ba con bê mới vực cày. Không dám thả chăn, độc nhốt gầm sàn rồi ngày ngày đi cắt cỏ. Lại thêm công người khó nhọc nữa. Người xóm Bò Tát chưa qua tháng tám mà trông ai cũng gầy, mặt ai cũng xanh xám như mùa đông tới. Trời phá, hổ phá, thế này thì đến phải bỏ đi nơi khác mất.

Thụ cũng áy náy không yên. Các bẫy đều đóng chốt cụp xuống cả. Có mấy con chó mồi đều sợ hổ phát ốm chết hết. Ban ngày cho nó cơm ba bữa. Nhưng đến chiều, con chó phải ra bẫy, đã biết lệ, nó sợ trợn xanh mắt không sủa ra tiếng nữa. Sáng sớm ra, con chó đã chết trong đêm rồi.

Cả xóm không còn con chó. Thụ đã nghĩ ra một cách. Thụ lên núi đá, kiếm được một bó củi thật chắc. Thụ cõng ra bán ở chợ Mỏ Nhài. Tết rằm mà trong nhà cứ lạnh và sạch quang như thường ngày. Nghĩ vậy Thụ thấy cần đi chợ, kiếm quà Tết rằm về cho trẻ con. Khó nhọc một chút, nhưng được như ý muốn, Thụ không bao giờ nghĩ ra việc mà để đấy.

Hôm nay, Thụ đã bàn vói Thông, rủ anh em đến họp, thành lập chi bộ Đảng.

Xế trưa, Thụ về. Bó củi Thụ to, toàn củi núi, đượm lửa, bán ngay và được tiền. Và được như dự tính nữa: Thụ đã đeo bên nách cái rọ trong có con chó con, trên rọ buộc gói bỏng mật quà Tết rằm cho trẻ con.

Thụ bảo Thông:

- Bây giờ Thông đi rủ anh em nhé. Mình ra đặt con mồi này ngay. Phải tấn công luôn mới được. Nếu được thì đêm nay ăn to rồi.

Chặp tối, các đồng chí đã về cả nhà Thông. Có Khai Lạc, người ở Hữu Vĩnh vào Bò Tát khai hoang. Quỳnh Quang, Quảng Long, và Phòng xóm ngoài. Thông cũng đã về. Nhưng không thấy Thụ. Ông bố nói:

- Tao thấy thằng Vân đem nỏ chạy đi từ nãy.

Mọi người khấp khởi, hồi hộp. Có dễ mà được rồi. Hôm ấy rằm tháng Tám. Trong bóng tối cây lau dường như đã nghe phảng phất hơi thu, nhưng những mái nhà xóm Bò Tát còn thấp hơn ngọn lau, cho nên cái nóng âm ỉ của mùa hè muộn càng âm ỉ ngột ngạt từ trong lòng đất bốc ra. Không một hẩy gió. Tất cả muốn nẫu ra, hoặc sống hoặc chết đây. Cho đến lúc trông ra sau núi, sáng hẩng một chút, xung quanh mới ràng rạng nhẹ nhàng hơn, ấy là trăng đã lên. Thông sốt ruột:

- Hay là ta ra xem sao.

Vừa lúc ấy, Thụ bước vào. Mọi người lao xao hỏi:

- Thế nào? Thế nào, anh Vân?

Thụ đặt cái rọ xuống chân thang, trong rọ có con chó, vẫn nằm im thít, chưa qua cơn sợ. Thụ khoan thai treo cánh nỏ lên hóc cột, cởi phăng cái áo, ném lên sợi dây mây căng ngang nhà, nói tự nhiên như nói một việc bình thường hàng ngày.

- Đúng là con hổ đói. Lại được con chó lạ, cứ kêu nhũng nhẵng, hổ ta trong rừng sâu nghe tiếng, chỉ một lúc đã ra rồi. Mình đến đã thấy hổ mắc cũi, đương phá, chuyển cả cọc. Mình nã cho cậu ta ba phát nỏ đích đáng, nằm nhe răng ra rồi. Mọi khi, đúng vết chân con này, to lắm. Họp xong, chúng mình sẽ ra khiêng về.

Ngoài rừng, con hổ mắc bẫy và bị trúng nỏ đã nằm chết trong cũi.

Cuộc họp thành lập chi bộ Đảng đầu tiên của châu Bắc Sơn vào đêm trung thu, trăng trong leo lẻo như chỉ có sự tốt lành và tiếng hát của trẻ con từ ngoài Vũ Lăng vẳng vào qua trên ngọn lau. Con hổ, nhưng con hổ đã sa bẫy, đã bị mấy phát nỏ cho chết cẩn thận, thịt xương nó sắp được đem làm thịt và bán, như thế, con hổ ác cũng thành điều tốt lành rồi đấy. Mỗi người đảng viên cộng sản ở Bò Tát đêm nay đều có ý nghĩ so sánh thấy thằng Tây như con hổ, mà Đảng ta là anh Vân và chúng mình, anh Vân đã bắn chết thằng Tây con hổ và chúng mình sắp đi khiêng thằng quỷ ác ấy về ngay đêm nay, lột da nó, nấu xương nó, chén thịt nó.

Cuộc họp ở góc nhà Thông, bên cạnh cửa sổ, trên sàn trông ra, thấy ông trăng lóng lánh. Đầu tiên, Thụ đọc quyển điều lệ Đảng cho mọi người nghe rồi hỏi ai muốn hỏi gì. Nhưng không ai hỏi nữa và mọi người đã được đọc và Thụ đã nói chuyện cho từng người, ai cũng thấy ở đấy là lời dặn dò người đảng viên đứng lên đánh thằng Tây, đấy là điều tất nhiên ta làm như thế mà Đảng tóm tắt lại cho ta thuộc như thế, lúc nào cũng sẽ nhớ đinh ninh.

Sau Thụ hát bài Quốc tế ca.

            Đấu tranh này là trận cuối cùng
            Kết đoàn lại, để ngày mai
            L' Internationale
            Sẽ là xã hội tương lai...


Thụ cắt nghĩa từng câu hát một. Mọi người ngồi trông ra cái cửa sổ lúc ấy có một miếng ánh trăng lọt vào, trải trên cái chiếu trúc lát đã gãy - nhưng nan trúc bóng trong ánh trăng càng óng ả thêm. Ai cũng thấy ra quang cảnh những người “cực khổ bần hàn” khắp thế giới đương sôi nổi cách mệnh. Chúng mình đêm nay lập chi bộ Đảng ở tất cả mọi nơi như chi bộ ta. Đêm nay giai cấp công nhân các nước Pháp, nước Anh, nước Mỹ cũng đương lập chi bộ Đảng. Bên Trung Quốc thì chi bộ Đảng đã thành Hồng quân cầm súng bắn nhau với quân thù. Bên Nga thì đã thành nước Xô Liên thành trì Cộng sản đầu tiên trên thê giới, ở đấy sung sướng và có hạnh phúc lắm rồi. Bốn biển năm châu, giai cấp công nhân và nông dân đương đứng lên làm cách mệnh, đánh đuổi đế quốc đưa đất nước lên chủ nghĩa Cộng sản, như Xô Liên.

Lần lượt, cả năm người đứng dậy, thề trước Đảng, suốt đời vì Đảng làm cách mệnh. Phía trong, ông bố Thông nằm đương khù khụ ho. Mất mùa ngô, người lớn ăn một bữa, chỉ có đám trẻ con chơi ngoài sân sàn, được đủ hai bữa, hôm nay có bỏng mật của chú Vân đi chợ Mỏ Nhài mua về cho Tết rằm. Cái vui nho nhỏ mà quan trọng. Cũng như cái cảnh nghèo khổ bao quanh cuộc thành lập chi bộ Đảng, cùng nhau gắn bó trong một ý nghĩa và chốc nữa, cả bọn sẽ đi vác con hổ mắc bẫy về - như vác xác thằng đế quốc thế giới, vừa đi vừa hò reo hát rằng: “Trận này là trận cuối cùng. Đánh một đòn chết hết kẻ thù công, nông trên thế giới”.

Một hôm, Thụ lại bàn vói Thông:

- Chi bộ Đảng chúng ta sẽ tranh đấu thử thách.

Thụ dặn Thông đi Long Châu, đến cửa hiệu Tắc Lì (Đại Lợi), phố Tây Cai, số 17, ra mật hiệu và nói như thế... như thế...

Nửa tháng sau, Thông đeo về một đãy chàm to. Trông thấy bó miến, chai rượu đế trên và dưới cùng đãy có một cuộn truyền đơn in cờ có búa liềm.

Truyền đơn cũng có sức mạnh như súng và lựu đạn. Thằng Tây thì sợ, còn người ta ai được xem đến cũng tỉnh người.

Cơ sở Đảng từ Vũ Lăng đã lan nhanh ra các làng Hưng Vũ, Chiêu Vũ, Hữu Vĩnh, Vũ Lễ, Gia Hoà, Vũ Sơn, Vĩnh Yên... thế là khắp châu, rồi đường dây bò ngược lên Tràng Định.

Thê là đã đánh xong đường vào Bắc Sơn. Con đường từ biên giới qua Thất Khê xuống Bắc Sơn, đã mở được rồi. Đã làm tròn nhiệm vụ, Thụ thấy cần phải trở về báo cáo với Phong và nhân đường về, Thụ muốn tự mình được đi theo đường mình mới mở, như con đường vừa đắp, bây giờ đi thử, trong lòng vui thích và đầy tự hào.

Thụ bảo Thông:

- Ta cùng nhau đi Thất Khê.

Hai người đi Thất Khê, theo sông Áng Mò ngược lên. Thụ đưa Thông vào nhà Hến trong cánh đồng. Cơ sở cách mệnh Thất Khê đã cắm được tới cánh đồng. Có lần Thất Khê tranh đấu rải truyền đơn tận cổng đồn quan ba đại lý. Nhiều người bị bắt. Mật thám đem người về tù tận Hà Nội. Nhưng cơ sở không vỡ. Cách mệnh vẫn ngồi giữa cánh đồng như thường.

Nhớ lại lần ấy Thụ tới Tràng Định, tuyên truyền, tổ chức cách mệnh. Thụ đi với Hải, từ Ngãi Kỷ sang. Hai người mặc quần áo đen, như người Long Châu về chơi.

Gặp Hến, biết Hến thích bài hát mới, Thụ nói:

- Tôi có bài hát này bảo anh, ai muốn nghe thì anh hát cho nghe...

Từ ngày kể từ ngày... Cám ơn bạn công nông lắm thay... Muốn đánh Tây ta phải kết đoàn...

Năm ấy, cả huyện Tràng Định mới chi có một mình Hến.

Năm nay, Thụ đã có thể đi từ Áng Mò qua Pác Cam lên Ngãi Kỷ, qua các tổ chức của ta đương ràn rạt mọc như mạ ngâm đến cữ nở. Có nơi vững, bề thế, biết sáng kiến hái củi thước bán cho lò ngói, đập tiền vào quỹ cách mệnh.

Thông quay trở lại. Đă có cơ sở Thất Khê đưa tiếp Thụ. Rồi Hải ở Nà Han xuống đón. Lại Lâm đưa qua cửa Bình Nghi. Thông bịn rịn chia tay với Thụ. Lúc Thụ đi các đồng chí ở Vũ Lăng nói: anh Vân nay là người Bò Tát rồi, đi đâu nữa. Câu nói bắt đầu từ mối cảm tình sâu sắc, bây giờ Thông cũng kể lại với Thụ thế, Thụ cười:

- Rồi cũng có lúc mình về Bắc Sơn. Chỉ mong lúc ấy công tác Bắc Sơn đã phát triển mạnh và vững.

Thông nắm tay Thụ, hỏi lại một câu tha thiết, bấy lâu vẫn tha thiết:

- Anh có phải Hoàng Ván Thụ bên Văn Uyên không?

Thụ cười to:

- Tôi cũng không biết đâu, nhưng tôi biết cả Hoàng Văn Thụ và Vân tôi cũng thế, cả Thụ và Vân đều là đồng chí cách mệnh của chúng ta.

Thông chưa hết băn khoăn, Thông lại nảy một băn khoăn khác. Mấy lâu nay gần anh Vân, Thông ngờ ngợ có lẽ anh Vân không phải Hoàng Văn Thụ. Người này giỏi hơn Hoàng Văn Thụ nhiều.




------------------------------------------------------------------
(1) Tiếng Tày là “muối, muối”. Người Việt Bắc có thói quen trộn cỏ và muối cho trâu ăn. Trâu lạc rừng nhớ muối lại phải quay về.
Logged
hoi_ls
Thượng tá
*
Bài viết: 5098



« Trả lời #22 vào lúc: 29 Tháng Tư, 2022, 03:04:02 pm »

VIII


Thụ trở về, gặp Phong đã ở Khơ Đa.

Phong về Khơ Đa, đợi Chi trong Điềm He rồi hai người đi Cao Bằng. Các cơ sở dọc biên giói đương toả rộng, Phong muốn mình được đi con đường quần chúng bảo vệ Đảng qua huyện Đông Khê xuống tận Nước Hai bên Cao Bằng.

Hai người gặp nhau lần ấy, vui thích và quyến luyến lạ lùng! Ở Thụ và Phong đượm một tình cảm vừa bạn, vừa đồng chí, không phân biệt được. Thật ra thì không thể phân biệt đâu bạn, đâu đồng chí, khi tình bạn nảy nở thật sâu sắc và tình đồng chí cao cả đến độ thật thiêng liêng và đấy mới là có tình cảm chân chính đối với nhau.

Cái vui của hai người cụ thể trong câu chuyện trước mắt: Cơ sở cách mệnh ở Khơ Đa và Ma Mèo, ngay dưới chân núi Áng Cúm có con đường 4 xuyên trước mặt, kẻ thù xộc đến lúc nào cũng được, hai đầu có Đồng Đăng với Nà Sầm, quan Tây và tổng xã đoàn nếu đứng sắp dãy ra thì ken vai chật đường. Nhưng mặc địch cứ lùng bắt, cách mệnh cứ nảy nở. Thụ và Phong cứ đến Khơ Đa, tự nhiên. Vào xóm là có quần chúng canh gác ngay. Có khi Tây nghe tin hão đi vây hang Áng Cúm, chúng lộn xộn chửi nhau dưới đường 4 trong khi trên xóm Khơ Đa vẫn họp tổ Đảng. Cái vui của công tác phát triển.

Cả hai người cùng thấm thía và cảm động, nhất khi Phong nghe Thụ kể chuyện bây giờ trong châu Bắc Sơn, Đảng đã đến đấy, khắp châu, quần chúng đương nóng lòng trông chờ và sẵn sàng cách mạng. Cái vui ở đấy và cái vui còn thắm thiết mỗi lần Thụ gặp Phong. Mỗi lần Thụ gặp Phong, bao giờ cũng thấy được tinh thần suy nghĩ, công việc mình lại có một ước mơ mới hơn, rộng hơn. Ở Phong mọi công việc từ công tác của một tổ một người, đến công tác Quốc tế, ở biên giới hẻo lánh này hay đi bất cứ những nơi nào trên trái đất, cái quan trọng của các loại việc các nơi khác nhau ấy đều không cái gì quá tầm tay và đều được xem xét, thực hiện cẩn thận, khắt khe, đinh ninh như nhau. Chủ nghĩa đế quốc kẻ thù của công nông thì chẳng bao lâu nữa sẽ bị tiêu diệt, có thể tính trước ngày tận số của nó. Niềm tin lạc quan của Phong chỉ một đinh ninh ấy.

Phong đối với Thụ cũng như thế. Quyết tâm bỏ tất cả để đi tìm lý tưởng của Thụ cũng như Chi và Hùng, không trở lực nào cản được, mỗi lần gặp cứ khiến Phong nhớ lại lớp tuổi trạc Phong ở quê nhà, khi mới hiểu biết, cũng một sôi nổi ấy. Sau này, tin tưởng của Phong đưa vào hành động đã tới được kết luận mạnh mẽ rằng giai đoạn cách mạng quyết liệt này phải có Đảng ta lãnh đạo, không phải chỉ là một mong muốn mà sự thực là ở đâu cũng càng ngày càng nhiều người tốt đẹp như Thụ đến với Đảng.

Lần gặp nào cũng bề bộn công tác. Nhưng lần này có những việc quan trọng, hai người đều cảm thấy.

Đêm vào thu, mát hây hây, mà họ chưa ngủ. Họ không muốn ngủ, họ còn cố thức để hỏi được, nói được với nhau nhiều chuyện hơn nữa.

Như vậy, ngày mai, hai người lại đi xa.

Phong đợi Chi, Hùng vào Cao Bằng, khi trở ra, Phong ra Hồng Kông, chắc còn lâu mới lại gặp nhau. Còn Thụ, Phong vừa truyền đạt, theo yêu cầu công tác, Thụ về Hà Nội.

Chuyến này Thụ đi theo những con đường quần chúng mà Thụ vừa mở. Chà chà, về Hà Nội. Thụ về Hà Nội, mỗi ngày, bước sâu vào trận địa của cách mệnh, Thụ càng thấy mỗi lúc một cần thiết đi vào lòng đất nước, vào giữa quần chúng tin yêu và được ở đấy chiến đấu mặt giáp mặt quân thù. Ý nghĩ “ra đi” của những năm trước, thật sôi nổi, cũng thật thơ ngây, vẫn còn cảm thấy trở lại.

Phong nói:

- Năm ạ, những kế hoạch chúng ta vạch ra ở Lũng Nghìu, nay đã thực hiện được. Thế là con đường về xuôi đã thông rồi.

- Nhưng vẫn chưa đủ đường vào Bắc Sơn đâu. Còn lối nữa, gần hơn qua Thất Khê, qua Điềm He nhiều, lối này vào châu Văn Uyên, đi qua làng tôi rồi tắt sang đèo Tam Canh, Mã Hợp nói chỉ một đêm đi khoẻ là tới. Tôi sẽ đi đường ấy, ta đánh đường nữa vào Bắc Sơn càng hay.

Phong im lặng. Phong đã đương nghĩ đến một việc khác. Trầm ngâm, rồi Phong bảo Thụ:

- Mình lại sắp đi xa. Có việc mới này nữa bàn với Năm nhé. Đoàn thể ta cần một đồng chí phụ nữ ra công tác hải ngoại. Công tác không khó, nhưng cần người tốt và đi lâu. Năm thử tìm xem.

Thụ lẩm nhẩm.

- Cô Khó, cô Máo ở Tà Lài thì bị bắt rồi. À tổ Khơ Đa này cũng còn hai người.

Phong phân vân:

- Không nên rút người cơ sở các làng biên giới...

Thật khó. Còn ai nữa đâu! Chợt Thụ nhớ: Hay là... hay là... ta nói với anh Vương “cao” cho Mảy đi. Có thể. Thụ nhìn Phong ngập ngừng rồi nói:

- Tôi sẽ tìm.

- Khi mình ở Cao Bằng ra thì đã tìm được chưa? Năm sắp đi kia mà?

- Tôi sẽ dặn Mã Hợp gặp anh.

Cơ quan hải ngoại của Trung ương Đảng ở Hồng Kông, từ hai năm nay, vẫn hoạt động và giữ được liên lạc với Hải Phòng, Sài Gòn và đi Quốc tế. Các đồng chí Đảng của Trung Quốc ở đấy giúp cách mệnh Việt Nam nhiều, cả mọi việc sinh hoạt. Nhưng có một việc nhỏ, mà rắc rối, đấy là cách đối phó với luật thuê nhà ở Hồng Kông. Ở đấy đế quốc Anh chỉ cho phụ nữ đứng chủ thuê nhà. Bấy lâu, cơ quan vẫn giải quyết được cái khó ấy nhưng Phong muốn có được một người đồng chí phụ nữ giác ngộ cách mệnh ở trong nước, ra lo cả việc quản lý cơ quan. Được thế, thật tiện và đàng hoàng.

Thụ nghĩ đến Mảy. Bấy lâu, trong đà phát triển cách mệnh ở Lạng Sơn, thì ở Nhân Lý, xóm Phạc Lạn, xóm Bó Lào, xóm Háng Lệ đều đã có tổ chức cách mệnh, nhưng tổ chức còn yếu. Có lần Mã Hợp vào đưa truyền đơn, mỗi tổ nhận nhưng không ai dám đi tranh đấu rải truyền đơn, sau đem bỏ bếp cả.

Mảy cũng đã vào tổ nông dân bí mật. Nhưng cái tiếng nhà ma gà vẫn cứ bó chặt mãi với cái túng quẫn cùng đường trong gia đình. Ruộng không đủ cấy, không ai cho thuê ruộng. Năm ngoái nhà Mảy bán nốt mảnh rừng hồi cuối cùng. Rồi có người dưới xóm Nà Pàn muốn lấy Mảy về làm lẽ. Mảy chỉ khóc mà chẳng dám cãi lại bố mẹ. Nhưng nghe ngóng thế nào, có lẽ biết nhà ấy có ma gà, không thấy dưới Nà Pàn động tĩnh gì nữa.

Những nhà Nùng Cháo trôi giạt đến Nhân Lý, cũng không làm thế nào đỡ túng đói. Người Nùng Cháo lại phải tính chuyện đi nơi nào sống được. Từ năm ngoái, nhà Mảy và mấy nhà Nùng xóm Phạc Lạn và ngoài Phố Lẩu bàn định xuống Thái Nguyên tìm ruộng làm. Bố mẹ Mảy đã lo tính mọi điều rồi. Phải chạy, phải trốn cho hết tiếng ma tiếng ác thì may ra mới khỏi đói, mới sạch được cái đồn thổi chết người kia.

Khi nghe Phong nói, Thụ nghĩ đến Mảy. Chỉ có thoát ly đi cách mệnh, đời người đàn bà chồng chất những đau đớn như Mảy mới có thể đứng lên được. Bây giờ là lúc có cơ hội đây.

Phong dặn:

- Nếu tôi đi công tác xa rồi thì bảo Mã Hợp lên liên lạc ra Long Châu, chỗ anh Bùi. Tôi sẽ có người đến đón đi (Bùi trở về Long Châu năm ngoái).

Cho đến sáng, Thụ kể Phong nghe về đời Mảy và nỗi khổ của người phụ nữ miền núi.

 

*

*          *

 

Thụ lại về Lũng Nghìu. Tình cờ, cả nhà đông đủ. Nhà có giỗ. Mã Anh và Phảy - em trai và em gái Mã Hợp, năm nay đã lớn và đã vào tổ chức bí mật cả. Cả nhà thành một tổ và Lũng Nghìu đã có chi bộ Đảng. Bây giờ Thụ đi lâu về cũng như Thụ vẫn ở lại, vì Lũng Nghìu đã có chi bộ Đảng rồi. Lũng Nghìu đã khác trước.

Thụ bảo Mã Hợp:

- Mai chúng mình đi nhé.

Mẹ hỏi:

- Có làm cơm đem đi không?

- Có.

Thế là mẹ biết anh em đi xa.

Một lần, Vương “cao” đi, mẹ nắm hai nắm cơm to rồi hỏi: “Đi đâu xa thế?”. Vương “cao” nói: “Con ăn hết hai nắm cơm của mẹ thì đến nơi”. Mẹ đoán Vương “cao” nói đùa. Nhưng mẹ cũng biết thêm, việc cách mệnh phải bí mật, biết thế, nhưng mẹ thương yêu, mẹ vẫn hav hỏi.

Đêm ấy, cả nhà thức khuya. Thụ kể nhiều chuyện thú vị các nơi cho cả nhà nghe. Những chuyện ở Hà Nội, ở Sài Gòn...

Mẹ hỏi:

- Ở Hà Nội có cách mệnh không?

- Đâu bây giờ cũng có cách mệnh rồi.

- Con được đến Sài Gòn chưa?

- Chưa. Nhưng cách mệnh đã đến tận Sài Gòn rồi thì cả nhà mình đây cũng có khi vào Sài Gòn được.

Cô Phảy cười giòn:

- Thích quá nhỉ, bao giờ anh Năm được đi Sài Gòn cho Phảy đi với.

Như vậy, mẹ nghĩ: chắc lần này Thụ đến Hà Nội, đến Sài Gòn. Mẹ có cảm tưởng thế. Cảm tưởng của mẹ do nét mặt Thụ lúc tươi vui lúc đăm chiêu và những câu chuyện sôi nổi vể các nơi xa lạ.

Mẹ đoán mà đúng. Chỉ ngày mai Thụ sẽ đi đường bí mật mới qua châu Văn Uyên vào châu Bắc Sơn rồi về Hà Nội.

Thụ và Mã Hợp ra đi từ trưa. Lại qua Cốc Nam. Vẫn phải qua nhà lão xã đoàn đòi rượu năm ấy. Thoắt mà đã bảy năm qua. Nhưng lần này hai người không đi tránh lối ngõ ngoài mà họ qua ngay dưới sàn nhà xã đoàn. Trên nhà cũng nom thấy đầu người đi. Xã đoàn ngồi trên nhà trông ra, thấy hai người, liền gọi to tướng:

- Lên nhà uống nước! Lên nhà uống nước!

Thụ lên nhà. Có người mới biếu ông xã đoàn đấu chè Xuất Vũ - vùng chè ngon nhất Lạng Sơn, nước đậm sánh. Cạn ấm chè rồi Thụ chào:

- Tôi đi nhé.

Xã đoàn tiễn hai người ra đầu thang. Xuống đến đường, Thụ ngước mắt nhìn xa, bỗng nói:

- Chóng nhỉ, mới năm nào...

Bây giờ xã đoàn Cốc Nam đã là người trong tổ chức của ta. Bởi vậy, thằng Tây không còn con mắt cái tay nào ở Cốc Nam nữa. Ngõ Cốc Nam sang Trung Quốc là của cách mệnh rồi.

Hai người rẽ vào lối Pò Chài.

Con đường Pò Chài về Nhân Lý bảy năm trước cũng như năm nay, đi một thôi nữa đã thấy Khau Bây. Sườn đồi, cánh đồng, mùi hồi quấn quýt chảy thơm quanh người. Trong ngày mùa hái hồi, bà con Nùng ở Phố Lẩu lại làm bánh, nấu rượu đem vào bán tận gốc hồi đầu rừng. Rồi cả làng hái hồi, quảy hồi cho lái buôn ra Đồng Mỏ.

Thụ đi trong bóng cây, con mắt trông thấy trong bóng rừng hồi chín xanh đen có người con gái Nùng, khăn vuông chàm đốm chấm huyết dụ, áo ngắn quặp thắt lưng, lai trĩu đôi đãy chàm đựng hồi, qua dưỡi lũng, đằng xa kia.

Người đi đường vừa đi vừa nghĩ đường trở về những tháng giêng, tháng ba thương nhớ, những đêm những ngày hội then mê mải chảy qua các làng. Cây trẩu ngờ ngợ xanh, tre và mai xanh rờn, cây trám đen thân trắng suốt đời dài đuỗn, rừng hồi thì bao giờ cũng nghiêm nghị xanh thẫm. Còn thấy như in cánh đồng Háng Lệ đương chúc thoai thoải xuống, chen vào giữa hai bên rừng núi buồn bã có những con đường vào xóm cứ giạt vào khe núi. Xóm Phạc Lạn, bên phải có đồi trám, dốc núi sau lưng ủ trong rừng xanh ngây ngất như cuộn khói. Phạc Lạn, Phố Lẩu, Bó Lào... trước nhà sàn côi cút ở cột bờ núi. Trong hiên, chuồng gà, chuồng lợn, đến chiều lại nghe táo tác, ủn ỉn - bấy giờ mới có người đi làm về cho ăn. Cái cày treo ngang đầu cột. Con trâu gầm sàn gãi cái lưng bùn vào cột nhà. Bây giờ, dưới ấy đương ra sao?

Trong kỷ niệm con người chỉ muốn đọng vào tháng giêng và tháng ba có màu xanh và tiếng đàn then. Chứ thật thì bây giờ đương cuối tháng bẩy, sắp vào mùa hái hồi. Cánh rừng dàn trước mặt, thơm khắp Khau Bây. Thụ đi trong bóng hương hồi, một niềm vui dìu dịu, lẫn lộn, không hiểu vui từ lâu hay vui mới thoảng đến. Tiếng động trong rừng vắng, nghe cũng đoán được ở đâu, nhưng cũng không muốn biết kỹ.

Đằng kia, tiếng trẻ reo. Chắc ở đầu rừng đương có nhiều hàng quà. Bánh bỏng, kẹo lạc, bánh nếp và nồi rượu bán dưới gốc hồi. Tiếng cành răng rắc gãy. Có người ngã hồi... lại người ngã cành hồi. Thụ lại nhìn thấy đám khiêng người ngã hồi. Năm nào cũng có người ngã lòi xương. Cành hồi thì lúc nào cũng giòn quá.

Nhớ những ghê rợn ấy, bao giờ Thụ cũng nhớ chú Hai ngày trước coi rừng hồi.

Thụ lớn lên đã thấy chú Hai ở Khau Bây. Bọn trẻ con cứ tưởng chú Hai suốt đời một mình sống trên Khau Bây. Đến khi Thụ hiểu không phải như thế, nhưng Thụ cũng không bao giờ cắt nghĩa được tại sao chú Hai người gốc tận Kiến An xa vời lại lưu lạc lên rừng hồi Lạng Sơn. Chú Hai kể chuyện cho trẻ con nghe nhiều đến nỗi không đứa nào nhớ đầu đuôi chỗ nào nữa. Những câu chuyện trôi nổi của đời người nghèo đã đem đám trẻ đi xa, thật xa, mà chú Hai cứ đi một mình, thật là buồn. Chú Hai đã đi làm phu cao su ở Hớn Quảng, lại ra làm thợ mỏ ở Mông Dương và chú còn đi những chân trời góc bế đâu đâu nữa...

Nhưng bây giờ thì chú Hai như cái gốc cây mọc một chỗ, cái gốc cây đau dạ dày, mỗi ngày một cơn quằn quại. Đến thế mà cũng không ở yên. Những năm sau, chú Hai lại đi Bằng Mạc. Vì sao? Thụ cũng không biết. Bây giờ có còn sống mà trông gôc hồi nhà ai? Trong tưởng tượng thời thơ trẻ vẫn nhớ mãi lại một vùng rừng núi rất xa, tên là Bằng Mạc, đến nỗi khi lớn lên Thụ đã tới Bằng Mạc mà tưởng như cái Bằng Mạc chú Hai đến khác, Bằng Mạc này của chú Hai còn xa hơn sở cao su Hớn Quảng, xa hơn cả mỏ Mông Dương. Chú Hai đau ốm mất tích trong hai chữ Bằng Mạc mịt mù.

Nhớ lại, chỉ thấy buồn. Mùi hồi thơm, nhưng thơm tiền thơm bạc cho ai. Năm được mùa, chủ hồi đón phường chèo Bắc Ninh lên. Tiếng hát chèo, tiếng then ê a khóc mếu, đến bây giờ ngẫm nghĩ còn thấy hiu hắt. Trong cái chí hướng đầu tiên sôi nổi hoạt động cách mệnh của Thụ đã cháy bỏng những mong muốn ra đi xoá bỏ nỗi buồn khổ đời người mà Thụ xót xa lạ lùng.

Đã đến cánh rừng trám giữa núi Khau Bây.

Mã Hợp hỏi Thụ:

- Anh Năm có xuống làng không?

Thụ nói:

- Mã Hợp xuống thôi.

Mã Hợp lại hỏi:

- Bây giờ gặp Viết hay gặp ai?

- Viết.

Từ trên núi xuống, Mã Hợp đến thẳng nhà Viết. Viết đương phơi hồi. Trông thấy Mã Hợp, mừng, nói to:

- Ồ, lâu lắm tao mói thấy mặt mày!

Mã Hợp ngồi xuống, nói khẽ:

- Thụ về đấy.

Viết bỗng buồn hẳn, không hiểu sao. Không để ý, Mã Hợp lại nói:

- Lên với Thụ đi.

Viết lặng im. Con mắt mở to, mà rưng rưng, như sắp khóc. Rồi nhẹ nhàng Viết lắc đầu. Mã Hợp nài:

- Thụ muốn bàn công tác...

Viết nói:

- Tao chỉ ở đây gác thôi.

Mã Hợp lên kể lại với Thụ và nói:

- Hồi này mật thám rình nhiều, nó không dám lên, nó bảo thế.

Thụ mỉm cười.

- Nó vẫn không lúc nào quả quyết cả. Thôi được.

Mã Hợp không vào nhà Thụ. Vả lại, Thụ đã dặn không gặp ai thì đừng vào. Loanh quanh đến trưa, mới nhắn được tin cho chị Dụ.

Được tin Thụ về, không ai nói với ai. Nhưng từ lúc ấy, trong nhà cứ khác hẳn đi. Mẹ ở rừng hồi tất tả về. Chồng chị Khai vác nơm ra ao đánh cá. Nhưng được cái hàng xóm tưởng anh ấy đánh cá ăn Tết tháng bẩy. Bếp nhà chị Khai đã nghi ngút. Chị em cứ lặng im, cứ bối rối. Một tình cờ nữa là hôm ấy bố đi vắng.

Mẹ và chị lên Khau Bây.

Thụ đội mũ lưỡi trai, đầu trọc, đi dép cỏ, hai gò má cao vóng lên, mặt thì đen sạm. Mẹ thấy vẻ con khó nhọc, như người buôn ở xa về, không phải người nhà mình mọi khi.

Mẹ khóc:

- Con ơi, bao nhiêu năm nay con đi đâu?

Thụ nói:

- Con đi làm cách mệnh, mẹ ạ.

Mẹ bảo:

- Người ta đi ký ga, đi thầy giáo thì được ngồi bàn ghế, con thì phải nằm rừng, ở hang hốc thế này, con biết không?

- Con có biết. Con còn nhớ ngày trước, mẹ kể cho con nghe chuyện người Nùng Cháo dưới Phô Lẩu trước kia ở Trung Quốc, đến mùa hồi thì đem rượu vào bán. Đến Phố Lẩu ở, không có nhà, những người Nùng, chịu khó nhặt từng viên gạch lót lò ngói của nhà giàu vứt đi, phải để dành hai đời người mới xếp lên được cái tường, người Nùng chịu khó thế, sao người Nùng vẫn khổ...

- Trời làm kém đói thế này thì ai chẳng khổ, cứ đâu người Nùng.

- Mẹ ạ, thằng Tây và vua quan làm ra tất cả mọi tội, không phải trời làm ra tội đâu, trong làng ta, ai cũng mong ước được nuôi nhiều gà vịt, nhiều lợn, trước hiên, có cái cày tốt treo ngang đầu cột. Nhưng đã bao đời nay làng ta chỉ biết làm nhà áp núi, không dám làm nhà ra ở thảnh thơi giữa đồng, để dễ chạy cướp cũng bởi thằng Tây lấy hết của, mới sinh người trộm cướp. Cây hồi trên đồi quang, quả sai như mắc cửi, thế mà người trèo hồi ngã gãy xương, tiếng khóc lúc nào cùng nghe. Chú Hai coi rừng chết ở gốc cây hồi nào bên Bằng Mạc rồi...

- Con đừng nói chuyện buồn nữa.

- Mẹ ơi! Mẹ còn biết nhiều cảnh buồn hơn con nhiều lắm. Ngày trước mẹ kể con nghe bao nhiêu chuyện đói rách trong làng, có khi cả xóm chạy loạn vào hang đá Phố Lẩu rồi chết khô cả trong ấy, con thương con khóc. Bây giò con lớn, con biết thêm rằng người ta phải làm cách mệnh, mong ngày sau ai cũng được ngồi bàn ghế, lau sạch được nước mắt, rửa xong mọi chuyện buồn phiền ở đời.

Mẹ vẫn khóc, Thụ bảo chị Dụ.

- Chị ạ, việc cách mệnh là to lớn như thế đấy, bao giờ cách mệnh thành công thì em về.

Mấy năm nay chị Dụ mới được gặp em. Em bây giờ bước vào cuộc đời xa lạ, chị không nghĩ ra hết được. Như thế, Dụ lại càng nhớ khi em còn đi học, thông cảm với em những chuyện lạ lùng và cao xa của em đương làm, với tấm lòng chị yêu thương.

Dụ nhớ lại. Có lần Dụ quảy gạo ra Kỳ Lừa trả nhà trọ, ông Chắn mách: “Thằng Thụ dạo này cứ đi đâu, không biết chúng nó định tụ tập ăn trộm ăn cướp thế nào. Tao sợ lắm. Mày phải đe nó mới được”. Dụ bảo Thụ. Thụ cười, nói:

- Em đi đọc sách báo thôi. Hồi này trên thế giới nhiều việc quan trọng lắm, đọc sách báo mới biết .

Thụ kể cho Dụ nghe chuyện Phạm Hồng Thái, chuyện ông Phan Chu Trinh cả nước hoan nghênh, cả nước thương tiếc thế nào. Thụ nói hăng hái, tỉ mỉ, như những chuyện ấy mới xảy hôm qua, Thụ đã trông thấy, Thụ đương ở giữa đám, những đám mít tinh, đám truy điệu đông cả tỉnh ở ngav đầu cầu Kỳ Lừa kia. Dụ nghe không thủng đầu đuôi, nhưng Dụ biết đấy không phải những chuyện hư của em như ông Chắn nói. Dụ bảo Thụ:

- Em đừng để ông Chắn phàn nàn

- Vâng ạ.

Lần sau, Dụ quảy gạo ra, không thấy ông Chắn mách. Dụ hỏi em:

- Dạo này em còn đi đọc sách không?

Thụ nói:

- Chị ơi! Sách báo đối với con người cũng cần như cơm ăn, em phải đọc sách báo luôn luôn chứ!

- Em đi đọc sách báo ban ngày à?

- Vẫn ban tối, chị ạ.

Rồi Thụ nheo mắt cười tinh quái, nói khẽ:

- Ông Chắn không phàn nàn gì nữa, phải không chị? Ông Chắn không biết đâu!

Thụ cúi xuống, lôi trong gầm phản ra cho Dụ xem cái chão. Mỗi tối, bài vở đã xong, Thụ buộc chão vào cái lỗ tường hoa trước cửa gác rồi Thụ leo chão xuống hè đường. Ông Chắn vẫn cứ lệ đóng cửa sớm như mọi khi. Đến lúc ấy thì cửa nhà dưới đã kín mít rồi. Khuya, Thụ về, lại bám chão leo lên hiên gác rồi rút chão, cất kỹ, lúc đầu giường, lúc gầm phản. Có lần ông Chắn trông thấy, Thụ bảo cái chão để kéo co, khi tập thể dục. Ông Chắn cũng tưởng thế.

Gặp em, Dụ nhớ ngay chuyện đọc sách báo nghịch ngợm ngàv ấy. Nhớ thế, Dụ thấy em mình vẫn là em mà từng lúc lại thấy em là người khác, nhưng tấm lòng Dụ thì vẫn như chị em thương nhau từ tấm bé.

Dụ hỏi Thụ:

- Bao giờ cậu về?

- Bao giờ cách mệnh thành công thì em về, lúc ấy em xin trả ơn chị trông nom bố mẹ già.

Đêm ấy, Thụ và Mã Hợp ngủ trong rừng hồi. Rừng hồi đêm yên tĩnh loáng thoáng ánh trăng trên cao rơi xuống. Thụ đến ngủ trong gốc cây hồi, chỗ lều chú Hai ngày trước. Thỉnh thoảng, có một quả hồi rơi qua, cũng vương qua mùi thơm bay trong khuya lạnh như ướp. Cẩn thận, từng lúc, một người thức, một người ngủ. Nhưng Thụ không chợp mắt được. Mã Hợp lại ngáy khò khò.

Một mình Thụ giữa đêm thanh vắng trằn trọc với câu chuyện ngắn và buồn ban nãy.

Chặp tối, Mã Hợp xuống công tác dưới làng bên. Lúc ấy, mẹ đã về. Chị Dụ đem cơm lên, cũng đã xuống. Mã Hợp kể lại Thụ nghe về tình hình. Trong ba tổ, chỉ có tổ xóm Háng Lệ còn vững. Thụ muốn hỏi Mã Hợp, nhưng không thấy Mã Hợp đả động đến, lại thôi. Không biết Mã Hợp đã gặp Mảy chưa.

Lúc hai người ăn cơm xong, Mã Hợp nói:

- Cả nhà nó đem nhau đi Thái Nguyên rồi. Từ mùa hồi năm ngoái.

- Có biết ở vùng nào dưới Thái Nguyên không?

- Hình như Đại Từ.

Đại Từ, chỗ Nhất ở. Nhưng cả huyện Đại Từ trập trùng xanh kia. Im lặng.

Một lát, Thụ hỏi Mã Hợp:

- Chỗ đương sáng trăng trước mặt chúng mình dưới kia là cánh đồng Háng Lệ hay Bó Lào nhỉ?

- Tôi không biết.

- Có lẽ đấy là bên đồng Bó Lào(1). Màu mỡ thế mà con người không kiếm ra miếng, phải đi bới đất lật cỏ những đâu.

Lặng im.

Thế là tan đời người. Những nhà Nùng Cháo bao giờ ở đâu cũng biết chịu vất vả, có thói quen ngủ sớm dậy sớm và cũng nghèo đến có thói quen suốt đời chỉ bữa cơm bữa cháo.

Thụ trông ra giọt sương lóng lánh ướt trên cánh quả hồi rụng trong ánh trăng.

Một lúc, Thụ hỏi:

- Mã Hợp thức không?

- Thức.

Thụ không ngờ có câu trả lời ấy. Thì ra vừa rồi Mã Hợp vừa thức vừa ngáy. Tiếng người vang trong vắng lặng quá đỗi. Có lẽ vì trăng sáng khó giấc say. Trăng sáng quá cũng khó ngủ.

Thụ bảo:

- Còn thức thì tập hát nào. Mã Hợp học lại bài Sli này. Tôi hát trước nhé.

- Hát nào.

Gửi thư đi, bảo bạn
Ở đời nhiều nỗi buồn
Chuyện xa xôi không hiểu
Nói chuyện Việt Nam mình

... Việt Nam đất rộng
Ai không tin, đi Bắc Giang xem
Bắc Giang ruộng thẳng băng
Bên phải xuống Sơn Tây
Bên trái về Lạng Sơn
Trước mặt sang Thái Nguyên


- Mã Hợp này, đi dài hơn hai nghìn cây số vẫn là nước ta. Thái Nguyên chưa xa mấy đâu. Ừ, Thái Nguyên không xa. Mã Hợp hát lại đoạn này:

... Địa chủ ác thật
Đá chị Lầm chết lúc có mang
Nhìn cao không thấy trời
Giơ tay không với đến chốn
Người nghèo làm sao không cứu được
Chính thằng Tây cướp nước ta


- Nghĩ đời người như thế có đáng thương không. Mã Hợp nhớ áp Tết năm ấy, cũng ở Khau Bây này, anh em ta cầm tiền của Mảy cho đem về đưa mẹ sắm Tết... Tôi mua ba đồng pháo... Chóng quá. Mã Hợp à... Mã Hợp hát lại nhé... Khi nào hát đến đoạn này là đoạn cách mệnh tranh đấu đương thành công thì ta phải thật phấn khởi, thật hăng hái, ta hát to, hát đi hát lại nhiều lần. Lúc ấy có đông người cùng hát đều thì càng hay.

Khắp nơi ta tổ chức
Lời nói lên cùng một đường


- Hát lại đoạn này nhé:

Tới ngày cách mệnh thành công
Việt Nam được thế giới biết tiếng
Trai gái bình quyền, bình đẳng
Làm ăn ta hỏi nhau
Làm “quan” không kể người to nhỏ
Giàu nghèo ngồi ngang hàng
(2)

Bên kia núi, con tắc kè tháng bẩy kêu muộn. Tiếng nó khe khẽ rơi lạc đâu đó, vừa dứt thì trời sáng. Sương chảy cuồn cuộn trong rừng hồi. Những chỏm cây hồi xanh sẫm lô xô chọc lên trên làn sương trắng ngần.

Thụ và Mã Hợp bàn luôn công tác ngày hôm ấy. Thụ không để mình một phút nghĩ vẩn vơ. Công việc hôm nay túi bụi tràn ngập: củng cố các tổ xóm Bó Lào, Phố Lẩu. Làm thế nào cho Viết cứng cáp hơn. Rồi chập tối hôm sau, Thụ và Mã Hợp rời Nhân Lý.

 


----------------------------------------------------------------
(1) Bó Lào, tiếng Tày: vùng mỡ
(2) Bài hát Nùng của đồng chí Hoàng Văn Thụ (Ty Văn hóa Lạng Sơn sưu tầm). Mã Thế Vinh dịch
.

 

Logged
hoi_ls
Thượng tá
*
Bài viết: 5098



« Trả lời #23 vào lúc: 29 Tháng Tư, 2022, 03:04:46 pm »

*

*          *

 

Vảy trăng lưõi liềm vừa khuất xuống bên kia, hang sáng lên, khiến cho những mỏm đồi đen thẫm như duỗi dài thêm ra trên nền trời lặng mờ.

Hai người đi qua trước Phạc Lạng xuống cánh đồng.

Chẳng mấy chốc, Thụ thấy chân mình đương bước chỗ ngã ba xóm nhà mình ra Phố Lẩu. Như trông thấy cái tường trường Đon Đình trăng sáng trăng trắng đằng kia. Lúc ấy đã vắng. Giờ này, ai cũng ở trong nhà. Trên xóm, nhà mình đã cài gióng cửa. Bây giờ, mẹ đương đứng nhìn xuống cánh đồng đây. Nhà chị Khai cũng cài gióng cửa. Nhà chị Dụ bên Cò Noong cũng cài gióng cửa. Cái bếp ở vách trong nhà nào cũng bập bềnh lửa. Những đãy hồi hái về, chất đầy góc nhà, thơm phức. Mẹ mình đương... trong ánh lửa, tưởng có bóng người bước vào. Nhưng không.

Thụ cũng không nghĩ thêm. Cánh đồng Bó Lào lạnh ngắt. Có hai người đi qua.

Họ lên đến dốc Kéo Sa thì tối hẳn.

Chợt lố nhố một bọn từ trên dốc lại.

Có tiếng quát:

- Đi đâu tối thế, các người kia!

Đường này sang Điềm He, Mã Hợp đã thuộc làu trong trí, những khi đi vá chảo làm công tác. Mã Hợp đoán nhanh: nó quát hỏi cách dài dòng thế, không phải lính, lập tức Mã Hợp sấn lên quát to hơn:

- Đi đâu? Chúng mày đi đâu?

Hai bên giáp mặt nhau. Mã Hợp cười hề hề nói theo:

- Đằng này đi đòi tiền rượu, các người anh em không biết à?

Ba cái bóng nọ im thít lẳng lặng lướt qua được một đỗi xa, Mã Hợp nói:

- Bọn này đi trộm trâu ở Phố Lẩu, biết nhau cả!

Đằng sau, Nhân Lý vào sương mù. Xa rồi, Thụ lẳng lặng đi qua Keng Vài, sắp xuống bờ sông Kỳ Cùng. Trời đã hơi hửng sáng trăng. Một lúc nữa đã có trăng. Đêm lơ lửng trăng như đêm nay, đi suốt sáng được. Hai người đã định thế.

Nhưng có một việc mà họ không biết trước. Vừa khỏi bụi cây, trông ra thấy nước Kỳ Cùng mênh mang, hai người giật mình. Những con lũ ngoi lên ngồn ngộn trong ánh trăng trắng mờ cả lùm cây trước mặt. Mưa nguồn tận đâu đâu dồn về. Giữa tháng bảy mà còn nước lũ cuối to thế.

Mã Hợp chép miệng:

- Nưóc to quá, anh Năm à.

Đứng ngẩn một lát, Mã Hợp nói:

- Hay ta quay về Khau Bây đợi nước rút.

- Không.

- Cỏ trên bờ còn khô lắm, nước còn lên nữa, chẳng nhẽ cứ đứng chôn chân đây đến sáng a?

Thụ nói:

- Ta tìm cách.

Cách nào. Những con lũ lặng lẽ nhưng thâm hiểm đầy sức mạnh ngầm có thể vần đi được cả tảng đá bằng gian nhà. Người xuống va vào lũ thì mất tăm ngay.

Hai người đi men suối. Một quãng, gặp bụi mai. Trông thấy những ngọn mai vút cong trên nền trời, Mã Hợp nghĩ ra một cách. Mã Hợp bảo Thụ:

- Anh đứng đợi đây nhé.

Mã Hợp rút dao lưng, lách vào bụi. Chọn cây mai non, mẩy, Mã Hợp khoanh dao thiến vào. Chỉ ấn lưỡi dao, không một tiếng động nhỏ. Độc có con dế vừa cất giọng nỉ non trong vắt ngâm giữa làn cỏ mới ngập nước. Mã Hợp đã róc hết đầu mấu, một chốc, lôi ra bốn cây mai mà vừa trông Thụ đã thấy ra đấy là bốn chiếc phao dài hơn cây nứa ngộ.

Thụ reo lên:

- À!

Mã Hợp nói:

- Có thế vượt được đây.

Thế là, cởi quần áo buộc lên đầu, mỗi người ôm hai cây mai, họ lựa người rồi lướt ra. Bờ chỗ ấy phẳng. Nước cuốn người băng đi một đỗi xa, phải vứt bớt đi một cây mai mới vùng vẫy dạt sang bờ bên kia được.

Đã hẹn nhau, họ giả ếch nằm bọng kêu đối đáp vọng trên mặt nước. Nghe tiếng ếch cách nhau có đến hơn ki-lô-mét.

Chỗ ấy, sau lưng Bản Thẳm. Trông vào xóm Bản Thẳm thấy còn ánh lửa bếp leo lét. Tiếng nói chuyện văng vẳng đâu trong vách. Đằng cuối dòng sông ánh nưóc đã ửng hẳn. Rồi bóng nước lồng lộng ánh trăng, trông mặt nước ấy thật hiền mà hóa ra dữ.

Bị nước quật đau khắp mình mẩy, hai người phải ngồi nghỉ một lúc rồi mới đứng lên đi.

Họ đi qua những vùng núi đất quanh Bình Gia lúp xúp có túp nhà sàn lẻ loi trên ngọn đồi nhỏ. Đôi chỗ vẫn còn thoi thóp lửa. Rồi họ đi qua bên những trái núi đá đen kịt tròn xoe ngồi chồm chỗm. Trên đỉnh, một cây nghiến kiên cường sống trong đá vút cao thẳng vào một trời sao rợn sáng. Từng hàng núi nhấp nhô, tưởng như những bức tường trắng. Nhưng núi cứ chụp kín, người vẫn lọt qua. Đây đã tới đèo Tam Canh.

Bấy giờ quãng nửa đêm. Những con thú dữ nhất ở rừng thật sâu ra ăn vào giờ này. Đi một quãng, nghe tiếng hổ kêu hộc... hộc... lập tức, ngay trước mặt, thấy ào cơn gió trên ngọn lau, một cái lườn dài mờ mờ lướt qua như ai tung tấm vải chàm.

Hai người đứng sững.

Mã Hợp nói:

- Lượn chơi thế thôi, chứ nó việc nó, ta việc ta, chẳng ai làm gì nhau đâu.

Lên lưng dốc, lại đụng một con hổ nữa. Trong ánh trăng lần này trông rõ cái đầu hổ tròn to bằng chiếc nón. Đuôi dài cong, con hổ đứng sững nhìn lại rồi thủng thĩnh trước mặt hai người một lúc mới chịu rẽ ngang.

Xuống đầu dốc bên này, đã nghe vẳng lại tiếng gà làng Quỳnh Sơn gáy đổ trống canh. Đến đây trong phễu đá, đã hình dung được làng xóm châu Bắc Sơn, từ Long Đống đổ vào, chi chít bám quanh những quả núi đá trong bóng tối.

Xưa kia, đồn Mỏ Nhài trên châu lỵ, ngọn đèn chòi gác của người lính cơ sáng trắng bệch lơ lửng giữa cánh đồng Hưng Vũ. Tiếng mõ đốc canh lốc cốc. Xem ra cái đồn đêm canh ảm đạm như thằng người chết đứng mở mắt.

Thụ bảo Mã Hợp:

- Đên đây thì hết nhiệm vụ đưa anh, em trở lại được rồi. Ừ nhỉ, đường này, gần lắm. Mã Hợp nhớ nhé!

Nói thế, Thụ cũng chưa đi mà Mã Hợp vẫn đứng đấy. Mấy năm nay, Mã Hợp cùng đi với Thụ, nhiều lần đã chia tay giữa đường, nhưng lần này sao quvến luyến khác thường. Mã Hợp cũng cảm thấy lần này chắc anh Năm đi xa lắm. Sương khuya rờn rợn trong ánh trăng. Lưng đèo Tam Canh im phắc giữa hai thành núi đá. Trong bước đường hoạt động, Thụ đã đi khỏi biên giới nhiều lần, sang Long Châu, Nam Ninh, đến Ma Cao, Hồng Kông rồi. Nhưng lần này, Thụ cũng thấy lòng bồi hồi. Vì nỗi đau của đêm qua không chợp mắt, vì những ngày sắp tới Thụ được tiến hành cuộc vận động cách mạng ở giữa trái tim của cả nước, rất mới lạ đối với Thụ nhưng cũng hấp dẫn vô cùng.

Thụ bảo Mã Hợp:

- Bây giờ cả nước sắp sửa bước vào cuộc tranh đấu to lớn và quyết định, Mã Hợp ạ. Thằng Tây có doạ nạt thế nào, có giết bao nhiêu người, thì thằng Tây cũng không sức đâu ngăn được ngày cách mệnh thành công. Trong cuộc tranh đấu này, những con đường giáp biên giới cũng quan trọng như vận mệnh của Đảng, những con đường ra biên giới, các đồng chí phải giữ cẩn thận cho Đảng.

Thụ nói tiếp:

- Có nhớ lần vắng ba năm rồi anh em ta gặp lại nhau ở Long Châu không? Chuyến này cũng thế, rồi anh em ta lại gặp nhau.

Mã Hợp vịn vai Thụ nói:

- Người ta bảo nó về Đại Từ. Hay là anh Năm tiện đường cứ xuống qua Thái Nguyên thử tìm xem.

Thụ ôm hai tay lên vai Mã Hợp:

- Rồi anh em ta lại gặp nhau. Không phải đến Long Châu mới gặp được nhau mà chúng ta sẽ gặp nhau ở Hà Nội, và có khi ở Sài Gòn cũng nên.

Mã Hợp quay về, chạy một hơi tới bờ sông Kỳ Cùng.

Lại vác cây mai lúc nãy lội ào xuống con lũ.

Đến Khơ Đa, Mã Hợp rẽ vào. Hán Pang dậy sớm đã lập loè bếp đun nước. Mã Hợp thì thào: “Anh Năm về xuôi rồi”. Anh Năm về xuôi! Hai người tưởng tượng cách mệnh như con gió nam lớn, theo bước chân anh Năm, đương bồng bột tràn khắp miền xuôi, khắp cả nước, đâu cũng có cách mệnh, đâu cũng có cách mệnh rồi.

Mã Hợp ở lại đấy, chặp tối mới xin đuốc về Lũng Nghìu.

Quãng ấy lại có một con hổ ở đâu ra ăn sớm quá, cứ đuối theo tàn đuốc của Mã Hợp. Đến đầu xóm Lũng Nghìu, Mã Hợp chợt quay lại, đâm cả bó đuốc vào mặt nó. Con hổ chạy, người cũng vùng chạy. Lúc ấy, trăng vừa hẩng sáng như đêm trước, khi anh em từ Nhân Lý ra đi.

 

*

*          *

 

Xế chiều, Thụ vào đến Vũ Lăng.

Phía trưóc mặt, xóm Bò Tát đỏ háy hoa lau trong nắng muộn. Thụ đeo cái đãy chàm, đi giày cỏ - như người khách họ nội bên Long Châu vẫn thường sang chơi các nhà Nùng ở Bò Tát.

Thụ không đi thẳng vào xóm. Thụ quanh qua cái nương ngô của nhà Thông bên kia suối. Lại như tháng bảy, năm ngoái, nhiều nắng quá, cây ngô gãy như cây lau, lá héo táp vàng cả.

Ở cuối cái nương ấy có một cây gỗ chò chỉ to mấy người ôm, đứng vặn mình cao ngất. Trên thân cây có cái lỗ trống hôc. Dạo trước, khi đi, đã có hẹn với Thông để trên gốc cây hai hòn cuội to. Khi trở lại, thấy nguyên hai hòn cuội ấy là trong xóm bình thường, vào được. Nếu thấy mất cuội thì đừng vào.

Thụ đến trước cây chò chỉ, Thụ đặt túi ngồi xuống, như người nghỉ chân. Trông xung quanh không thấy ai, Thụ trèo lên lưng cây. Trai Văn Uyên giỏi trèo hồi, Thụ bám cây, leo thoăn thoắt như con tắc kè đuổi mồi. Thụ nghển nhìn vào trong hốc. Hai hòn cuội xám tròn trặn nằm im trong rêu xanh đen như toé ra một nỗi mừng.

Thụ xuống xách túi, toan đi. Giữa lúc ấy, sau quả núi đá trước mặt có tiếng nói lao xao đưa lại. Một đám người đương đi về phía đằng này, nhưng họ còn khuất mép núi, chưa trông thấy. Như vậy, trong xóm yên lành như lúc Thụ ở, không đáng ngại, Thụ cũng tần ngần đứng lại. Vả lại, dù đi cũng chỉ vài bước lên thì đám người đã ló ra. Tiếng lao xao đã gần, nghe được cả bước chân huỳnh huỵch. Đám người khiêng cái gì.

Đám người vừa nhô đến, Thụ nhận ra ngay đấy là Thông, Khai Lạc và xúm xít cả mấy đồng chí nữa. Toàn các đảng viên cả. Họ khiêng một con hổ đã chết.

Hãy còn trông thấy mũi tên cắm xuyên phía tai xuống, máu còn chảy, thỉnh thoảng nhỏ một giọt to xuống bậc đá.

Cây mai tươi làm đòn ống trĩu cong. Đầu và cái đuôi dài đều ngật quệt xuống phía đất, con hổ này nặng có vài tạ. Con hổ mắc bẫy. Xóm Bò Tát ở giữa rừng xanh và cỏ lau, người ở lẫn với hổ, quanh năm, lúc nào cũng luẩn quẩn thấy những hổ là hổ.

Thông ngẩng mặt trông thấy Thụ. Thông reo to:

- A kìa anh Vân!

Rồi cả bọn quẳng con hổ xuống đất. Vừa hay, họ đã đến gốc cây chò chỉ. Thụ nói:

- May quá, mình vừa đến đã được ăn thịt hổ.

- Ừ nhỉ, chúng tôi biết anh đến nên bẫy hổ mừng anh đây. Hổ ra ăn ban ngày đấy, ghê không. Vùng này loạn rừng hay sao, hổ về nhiều lắm. Anh Vân à, tháng tám năm ngoái họp chi bộ đầu tiên, chúng mình bẫy được con hổ, năm nay anh Vân về, lại được con hổ nữa.

Thụ cười:

- Đánh hổ cũng là tập đánh thằng Tây đấy.

Khai Lạc nhanh nhẹn, hấp tấp:

- Anh Vân à, đúng đấy, chúng mình đánh con hổ này cũng giống đánh thằng Tây. Dạo đầu năm, Thông bàn cách nào nghĩ ra kế gây quỹ cho Đảng. Nung vôi, đóng gạch, kiếm củi, làm các thứ ấy cũng được cả, nhưng sau thấy chỉ có bẫy hổ tiện nhất, bí mật, không mất công mấy mà được thì được to. Cái da, cái xương đều bán ra tiền. Được con hổ này là con thứ ba. Thế là đánh hổ cũng bằng đánh Tây rồi. Chỉ khác cái thằng Tây chết thì xác nó thối ra, chẳng được xu chó nào.

Thụ cười khà khà thật to:

- Thế là chúng mình bắt con hổ phục vụ cách mệnh. Các đồng chí ạ, trong cả nước chỉ có chi bộ Đảng ta ở Bắc Sơn là có cái quỹ dữ dội nhất đấy.

Mọi người vào trong xóm. Thụ cùng đi với cả chi bộ đương khiêng một con hổ. Mà Khai Lạc nói cũng đúng. Bắt được con hổ ác không phải dễ. Công phu bẫy lại phải bắn cho nó chết.

Cũng khó như tổ chức tranh đấu đánh đổ thằng Tây. Bắn được nó chết rồi mới khiêng nổi nó đi thế kia.

Đánh hổ cũng giống đánh thằng Tây, câu ví hình ảnh mộc mạc của Khai Lạc mà thật sâu sắc. Đi đường cùng chi bộ khiêng con hổ về xóm Bò Tát, Thụ bột nhiên cảm thấy như đang đi trên con đường cách mệnh giữa tình đồng chí chiến đấu, đương dâng lên trong mọi người và tràn khắp xóm Bò Tát, lan cả làng Vũ Lăng, cả châu Bắc Sơn, suốt tối những xóm bãi nghèo trên bờ sông Hồng ở Hà Nội rồi đi cả nước.

Hôm sau, Thông và các đồng chí tìm quần áo khác thay cho Thụ.

Thụ chít khăn lượt vố, mặc tấm áo chàm cũ đã bạc hai vai. Lại quảy một gánh nâu, có cái ô cũ buộc dọc theo đòn gánh. Như anh trai nhà nghèo, ở một làng cuối châu, về chợ tỉnh, tuy phải gồng gánh nặng nhưng cũng cố gắng cho có mẽ trai xuân một đôi chút.

Thông và Khai Lạc đưa Thụ đi tắt rừng xuống Tràng Xá. Thế là Đảng đã mở tới châu Vũ Nhai. Thụ và hai đồng chí đi với khí thế của người cách mệnh từ rừng núi toả xuống chắp mối với đồng bằng. Bấy giờ là mùa thu năm một nghìn chín trăm ba mươi nhăm (1935).

 

1970



HẾT
Logged
Trang: « 1 2 3   Lên
  In  
 
Chuyển tới:  

Powered by MySQL Powered by PHP Powered by SMF 1.1.21 | SMF © 2006-2008, Simple Machines

Valid XHTML 1.0! Valid CSS! Dilber MC Theme by HarzeM