*
* *
Chi về Điềm He.
Có đến hơn năm năm rồi, Chi mới trở lại đất quê. Nhưng Chi cũng không một nỗi xúc động nào da diết. Mỗi người, khi ra đi, có một tâm tình riêng, cảnh của Chi, nỗi lòng Chi, thật hiu hắt, có Thụ đã biết.
Chi quảy bồ, cắm cúi, mải miết đi. Chi gày gò, không ai có thể nhớ được đây là cậu Chi người Bản Hẻo, học trò trường tỉnh được. Dáng thất thểu, ủ rủ càng giống những người đói mỗi năm đến mùa thường qua các làng hỏi việc gánh hồi mướn.
Những thân hồi lưa thưa mốc trắng. Đầu cành, lá xanh thẫm, đã nhú quả hồi toẽ năm cánh. Vào mùa này, quả hồi còn xanh như lá mà qua dưới gốc đã phảng phất có mùi thơm hồi quấn theo.
Suốt buổi sáng, đi hết những cánh rừng vắng, không gặp một ai. Nhưng khi vào Bản Hẻo, cẩn thận, tránh qua xóm gặp người làng, Chi phải trèo lên rừng rồi tắt thẳng xuống đầu ngõ.
Thế nào, không may, đụng ngay với tri châu Điềm He cùng bọn dõng đương đi lên bên chân đồi.
Bọn dõng lẻ tẻ, uể oải, đứa trước đứa sau, quanh con ngựa tri châu đã đẫm mồ hôi xuống bụng, người và ngựa nhễ nhại đi trong bóng nắng trưa.
Có lẽ bọn này vào nhà chức việc trong làng để nghỉ ăn cơm trưa. Không tránh đằng nào được nữa.
Tri châu vào nhà chánh tổng, bố Chi. Thấy người một mình trên đồi xuống, Tri châu quát hỏi:
- Thằng kia đi đâu?
Chi mặc tấm áo Nùng rộng, mặt láng mặt nâu. Chiếc nón to ngật ngưỡng sau cái gáy cạo trọc lốc. Tri châu có thể nghi ngờ người này ở biên giới vào nên mới quát hỏi thế. Một suýt thì Chi cũng buột miệng: “Không, tôi là người Bản Hẻo đấy”. Nhưng Chi chợt nhớ, vội nói:
- Tôi về nhà anh em trong Bản Hẻo để lấy diêm sinh đây.
- Thật không?
- Thật mà.
- Mày mà về dắt đất ăn cươp thì ông bắn tan xác đấy.
Nói thế nhưng họ cũng không khám, không giữ lại. Trong nhà,cũng không ai biết, không thấy người chạy ra. Có lẽ lúc ấy gần bữa, nhà nào cũng đương nghi ngút quanh bếp, không còn ai ngoài sân sàn. Mâm rượu nhà bố Chi đã dọn sẵn đợi quan trong kia. Thầy và tớ, và cả con ngựa mướt mao mồ hôi cũng khập khễnh, tất tả, đương đói.
Chi vẫn chưa vào nhà, còn tạt ra ngồi trong bụi sim sau gò đất. Xế trưa thường có trẻ trong xóm ra chăn trâu ở đấy. Chắc bây giờ vẫn thế.
Nhà Chi kề bên đồi. Trẻ con trong xóm dồn trâu ra đồi ăn đều qua phía ấy. Chi ngồi đợi suốt buổi trưa nắng.
Đến lúc ánh nắng đã vàng đầy khắp đồi, thấy Nhàn, lững thững đằng kia. vẫn lệ quen ngày trước, Nhàn hay đi trâu sớm nhất xóm. Nhàn đã nhớn. Thoạt thấy em trai, chỉ mới thoáng dáng, Chi nhận ra ngay cái đầu nó vẫn trọc nhẵn. Lúc ấy, Nhàn quay lại, gọi trâu:
- Cừa! Cừa!
(2)Nghe tiếng em gọi trâu, Chi nghẹn ngào trong lòng. Trên quả đồi này, những năm trước, hai anh em thường ra chăn trâu. Bấy giờ Nhàn còn loắt choắt, theo anh đi chơi. Những lần Chi bị bố đánh, Chi trốn lên đây ngồi khóc mẹ. Em chạy theo anh, thấy anh khóc, cũng khóc theo. Đến bữa ăn, em thu thu đem cho anh nắm cơm của chị nắm giấu cho. Hai anh em lại khóc, nước mắt ướt cả cơm, tối mịt mối về. Nghĩ về Bản Hẻo, Chi chỉ còn nghĩ đến hai anh em và những chuyện buồn ấy.
Chi bước tới.
- Em Nhàn ra chăn trâu à?
Nhàn nhìn Chi rồi nhắm mắt, oà khóc. Sợ quá, đứng sững, không dám chạy. Nó tưởng thằng kẻ cướp.
- Anh đây... Anh Chi đây...
Chi bỏ cái nón che rợp nửa mặt xuống. Nhàn mở hé mắt, thấy đúng là anh Chi mình thật. Nhàn ôm chầm lấy anh. Thế rồi Nhàn không hỏi anh Chi được một câu nào, Nhàn lại nức nở khóc to hẳn thành tiếng.
Chi dỗ:
- Nín đi em. Ngồi xuống, anh bảo.
Nhàn ngồi xuống bên cạnh anh.
- Chị có nhà không?
- Có.
- Em về gọi chị ra đây. Anh đợi đằng gò sim kia.
- Sao anh không xuống nhà?
Chi cười:
- Em không sợ bố đánh anh à?
Nói thế, Nhàn hiểu. Nhàn chưa hiểu công việc của anh như thế nào. Nhưng mấy năm nay, Nhàn cứ mang máng một chuyện gì lôi thôi to lớn lắm đến với anh Chi. Bây giờ anh mới về, anh đi đâu lâu lắm mới về thế này thì chắc là bố sẽ đánh anh thật. Nhàn lại ứa nước mắt. Chi bảo em:
- Đừng nói có anh ở trên này nhé. Chỉ bảo với chị thôi.
Nhàn chạy nhanh xuống đồi. Nhàn đã hiểu cần phải kín đáo như thế, trước cả khi anh Chi dặn.
Mẹ Chi mất từ năm nào, Chi không biết mặt. Mẹ Chi chỉ được có mình Chi. Bố Chi lấy vợ kế, sinh ra chị em Nhàn. Chi rất thương yêu hai em. Từ khi còn bé, ba anh em Chi lúc nào cũng quấn quýt, thương nhau. Những ngày đi xa, mỗi khi phảng phất tình cảm đối với quê nhà, chính là nhớ đến các em với hoàn cảnh triền miên trong một đời sống tẻ nhạt, buồn chán ở xó làng của các em mà thôi. Lát sau, hai chị em lấp ló lên đồi. Chị tất tả theo Nhàn, nét mặt vừa nhớn nhác vừa hớn hở không giữ được.
Chưa trông thấy Chi, hai mắt cô bé đã mọng đỏ.
- Bấy lâu anh đi đâu?
Chi nói:
- Anh đi làm cách mệnh em ạ.
- Em chưa hiểu là anh nói thế nào...
- Đằng trước cửa nhà mình vẫn còn chiếc cối đá to, em nhỉ? Anh còn nhớ cái chày gỗ giã xuống mãi đến nỗi lòng đá cối lõm sâu bằng gang tay. Có dễ cái chày giã xuống đến một nghìn năm rồi. Một nghìn đời người đói khổ rồi. Mãi thế ư? Không được. Không thể mãi thế. Phải thay đổi, em ạ. Thay đổi đời người là làm cách mệnh, anh đi làm cách mệnh để đánh thằng Tây, lấy lại đất nước, đem cái thay đổi sung sướng lại cho mọi người.
Cô gái cũng chưa hiểu thế nào. Nhưng nước mắt cô dòng dòng xuống. Dù cho những năm vừa rồi anh đi xa, anh đi đâu nhưng cũng chưa bao giờ cô biết anh có lý tưởng và những ước mơ khác lạ như thế. Nhưng nghe anh nói và cứ gẫm như đời anh và đời em, trong cảnh tù ngục gia đình suốt cả tuổi trẻ, đã khiến cô gái nói:
- Anh đưa em đi cách mệnh với.
Nhàn cũng bắt chước chị:
- Cho em đi với.
Chi mỉm cười. Thế là đường cách mệnh vào Bắc Sơn đã làm được đến Bản Hẻo rồi.
*
* *
Thụ vào Bắc Sơn.
Lâm ở Nà Khan lên biên giới đón Thụ. Ngẫm nghĩ cũng đặc biệt, bên Nà Khay, các cơ sở cách mệnh Trung Quốc và cả cách mệnh Việt Nam nữa đều người dân tộc Nùng. Bước sang Bình Nghi và vào đến giữa cánh đồng Thất Khê, các chi bộ toàn Tày. Hai dân tộc làm chủ biên giới hai nước đã đứng lên rồi. Chi bộ Đảng đến tận Háng Đông, đầu cánh đồng bên kia tường đồn nhà quan ba đại lý Thất Khê.
Sương đêm trắng xoá, đến sáng, khi sương tan, mở ra từng sườn núi, Lâm và Thụ đã đương qua cửa Bình Nghi.
Những vạt núi tranh thoai thoải xuống đến khuất tầm mắt. Đồi trọc nối nhau như đàn rùa đói, khô xác kiệt sức chết đứng đấy tự bao giờ. Gió thổi hút vào lòng chảo cao nguyên từ cửa ngõ Lộc Bình sang, người và gió và nhà cửa cứ rú lên, suốt mùa gió bấc.
Từ Ngãi Kỷ cách mệnh đã phát triển sang Yên Khuyến, Vĩnh Lại, Nông Đồn... Trong khi bọn tổng xã đoàn vùng ấy cứ đêm ngày thúc dõng canh gác các ngả đường hẻm. Dõng làng cơm nhà việc quan, khó nhọc quá. Tổ cách mệnh tìm đến tuyên truyền dõng, từ đấy, có phải đi gác đêm, dõng chỉ ngủ tụ lại một nơi.
- Cách mệnh chỉ đánh Tây và đánh vua quan. Cách mệnh không phải kẻ cướp, đừng bắt.
- Để người ta yên, có khi còn được nhờ.
Đến Nà Han, thì Hải và các đồng chí đón. Các tổ cắt người gác tất cả ngã ba đầu xóm từ giáp Ngãi Kỷ. Từng quãng, lại đổi người quen đưòng đi với Thụ. Gặp lính tuần, đã có hiệu trước. Lúc nào cũng chắc chắn như đi trong nhà, bởi vì Thụ đương đi trên đường cách mệnh, đường của Đảng, của quần chúng bảo vệ.
Nửa đêm, từ Nà Han xuống. Giữa đường, Hến đã đứng đón Thụ vào cánh đồng Thất Khê.
Được mấy hôm, Thụ xuống châu Bắc Sơn, đến Vũ Lăng.
Cuối làng Vũ Lăng, giữa châu Bắc Sơn, chạy dài một dải núi răng cưa thông với châu Vũ Nhai dưới Thái Nguvên, sang huyện Hữu Lũng bên Bắc Giang. Ở Vũ Lăng, đi tay trái, ra Chi Lăng, tới núi Cai Kinh - nơi Cai Kinh đóng quân ở rừng Lũng Lắc chống Pháp luôn mấy năm, rồi tạt xuống Na Lương, mỏ Trạng, vào giữa vùng rừng rậm lúp xúp ấy, nhiều nơi còn gặp cả một quãng tường đá ong có lỗ châu mai, dấu vết căn cứ và khu vực chiến đấu của nghĩa quân Đề Thám.
Các xóm Vũ Lăng ở vun vào giữa cánh đồng, xung quanh đồi hoang vào đến chân núi. Xưa nay vào đấy chỉ có người vào đặt cạm bẫy hổ mà thôi.
Vùng Bắc Sơn có cách bắt hổ bằng cũi giương bẫy. Cái cũi hai ngăn, có con chó nhốt ngăn trong. Hổ đói mồi, vờn quanh cái cũi bắt chó. Ngăn ngoài vẫn giương cửa đợi. Hổ xộc vào. Bẫy sập. Con chó nằm bên kia trông sang ngang mặt con hổ, mà hổ chịu. Nhưng con chó mất vía. Đêm đêm, trong chân núi, khi nghe tiếng chó rít khủng khiếp, biết đấy là hổ về. Đêm nào cũng thế. Đêm nào cũng có hổ sa bẫy. Đêm nào cũng có những con chó sợ chết ngất.
Rồi một năm, có những gia đình người Nùng từ biên giới xuống, trôi đến Vũ Lăng. Người Nùng nghèo khó phải lang bạt đi bốn phương. Có người theo Lương Tam Kỳ vào nước ta giúp triều đình Huế đánh Tây, đến khi Tây và triều đình Huế dàn hòa, Lương Tam Kỳ thất thế, ra hàng, nhiều người bỏ đi phá hoang lập quê sâu trong các vùng hẻo lánh ở Chợ Chu, Đại Từ, Vũ Nhai, Bắc Sơn. Đến Việt Nam còn có những người Nùng năm xưa ở các vùng quê quanh Quảng Châu và Long Châu, bọn quan quân đánh nhau liên miên, lại nữa, chúng báo thù sau Quảng Châu công xã và Long Châu đỏ, biết bao nhiêu người Nùng túng đói, có chí khí cách mạng, bị đánh đuổi, phải bỏ quê chạy xuống biên giới rồi lần hồi về Bắc Sơn.
Ở Vũ Lăng, những người bơ vơ đến sau cứ giạt tự nhiên vào chân núi. Đầu tiên, cái rừng lau bẫy hổ cuối làng có mấy gia đình anh em họ Đường đến khai khẩn. Những con hổ phải chạy vào rừng thẳm từ đấy thành một cái xóm nhà lơ thơ, xóm Bò Tát. Thấy vui đất, mấy người Nùng ngoài làng Hữu Vĩnh cũng vào phá hoang trồng ngô. Những năm đầu họ còn đi lại hai quê, sau ở hẳn. Xóm Bò Tát đông dần.
Tuy vậy, những mái nhà xóm Bò Tát vẫn chỉ mấp mé lút trong cỏ tranh. Người đi phải gạt ngọn tranh ra mối thấy lối. Cũng phải vào quãng giữa trưa mới có người dám từ ngoài làng vào xóm. Bởi vì, hình như hổ vẫn rình, mặt trời chỉ xế một chút trên ngọn tranh đã có hổ ra lởn vởn tìm mồi. Ở xóm này, ai cũng gặp ngang mặt hổ ít ra vài lần. Trẻ con đứng trên đầu sàn thì trông thấy hổ đi qua ngoài rào nứa luôn. Con chó nào dại dột, chỉ xuống chân thang nhà sàn lúc chập tối, ông hổ rình đâu, đã nhảy vào, tát chân bắt chó, đập cả vào cột sàn, đổ cây đèn mỡ trên bếp.
Bấy giờ, cuối tháng bảy. Bầu trời nắng nung nấu như cái chảo rang úp trên đầu. Những nương ngô vàng rạc. Châm mồi lửa, có thể bùng cả cánh bãi và cháy lém hết xóm Bò Tát.
Thụ lên nhà bỏ đôi dép cỏ và cái túi chàm ngoài đầu thang. Thấy Thông đương thổi cơm, Thụ chào hỏi và nói ngay, như đã quen biết sẵn:
- Chào cụ! Anh Thông thổi cơm à? Anh Nhất ở Đại Từ dặn tôi lên gặp anh.
Người lạ, nhưng vừa nói thế, Thông đã hiểu ngay. Thông mừng và hồi hộp lắm. Người mà Thông đương mong đợi đây.
Tháng trước, Nhất ở huyện Đại Từ gửi lên cho Thông hai việc: một quyển điều lệ Đảng và một câu nhắn: “người của ta sắp đến”. Quyển điều lệ thì được đọc rồi. Thông đã rủ được bốn người cùng xem điều lệ và đợi cán bộ. Nhưng “người của ta” vẫn chưa thấy đến.
Nhìn Thụ, Thông nhớ năm trước hình như có gặp anh này ngoài Long Châu. Năm ấy, Thông ra ăn Tết quê nội ở Khẻo Mèo. Tình cờ, gặp mấy anh khác ở Lạng Sơn cũng ra Khẻo Mèo ăn Tết. Họ vờ thật. Họ ra lớp huấn luyện. Mấy người rủ luôn Thông đi Long Châu dự huấn luyện. Thế là Thông đi.
Thông được dự học ba hôm. Gần rằm mới về đến Vũ Lăng. Về nhà ông tưởng cháu mải chơi theo đám then, mắng mãi. Nhưng Thông im lặng, không dám cãi lại. Có phải chơi then đâu. Cái này cao xa hơn then nhiều. Ba ngày chỉ nghe cán bộ nói toàn chuyện cách mệnh và thế giới với kế hoạch đánh Tây lấy lại đất nước. Rất say sưa, nhưng cách mệnh dặn tổ chức phải khéo, phải kín, ai chưa tin thì không được hở ra. Về nhà muốn nói hết ngay mà cứ phải giữ miệng.
Thông nhớ cái nhà gác ở Long Châu, có lối sau xuống bờ sông, có anh trắng cao cao, hay ngồi đọc sách giống anh này. Anh em rỉ tai nói trong nhà này có Hoàng Văn Thụ ở Văn Uyên là người giỏi của ta. Nhưng việc bí mật, không dám hỏi ai.
Ăn cơm tối xong, Thông hỏi:
- Anh có ở Long Châu không?
Thụ đáp:
- Cũng có lần đi qua.
Thông lại hỏi, sốt sắng:
- Có phải anh là Hoàng Văn Thụ ở Long Châu năm trước không?
Thụ cười cười, đáp:
- Tên tôi là Vân, anh Thông à.
Thông không hỏi nữa. Nhưng vẫn ngờ ngợ.
Từ hôm ấy, Thụ ở luôn nhà Thông. Người Vũ Lăng ra Bò Tát có tò mò hỏi, bảo là anh em ở Khẻo Mèo bên Trung Quôc về chơi, cả xóm ai cũng khen Thụ người trẻ thế mà thành thạo, có hôm nằm tiêm thuốc phiện cho ông cụ nhà Thông, đánh xái thật dẻo tay, rồi lại chuyện suốt đêm. Thụ thuộc chuyện lịch sử nước ta từ đời Hồng Bàng. Thụ đọc bạch thoại, thạo tiếng quan hoả, cả tiếng Bắc Kinh. Các cụ già trong làng biết tài, tìm gặp Thụ để đấu chuyện, làm thơ, ra câu đối khảo chữ, bàn việc đời, rồi khen: “Cháu này còn ít tuổi được ăn học những đâu mà khá lắm”.
Trong xóm, trẻ con chăn trâu, gặp Thụ, đã thành thói quen, lần nào cũng đòi anh kể chuyện và xin bài hát. Trên gò chăn trâu bò ngoài bãi ngô, hôm nào có Thụ ra cũng đều đông nhộn người và trẻ chơi. Rồi đứa nào tóc dài thì ngồi xuống. Thụ loay hoay cạo đầu cắt tóc cho thật gọn, không nhôm nhoam, không xát không chảy máu. Thanh niên cũng thích. Bờm đầu cho các cậu, Thụ chỉ lấy kéo cắt, tanh tách một lúc mà được cái đầu khéo như vừa cắt hiệu thợ cạo ở phố ăn chơi Đồng Mỏ.
Mà cũng hay, Thụ biết thật đủ chuyện. Làm bùa yểm, Thụ thuộc cả những bài mo cúng gà to nhất. Thụ hát được những bài hát gốc then Cao Bằng ở Hoà An. Ngày cúng hái hoa ở nhà cô then, Thụ uốn bàn tay xách cái tai đàn tính lên, khéo như cô then. Vừa bước rung nhạc, miệng hát theo tay đàn, bao nhiêu con gái tận xóm trong cũng đến - đàn khuya mới đốt đuốc về, mê then đến nỗi quên sợ hổ.
Nhưng Thụ bảo Thông: “Bây giờ bận. Còn phải làm cách mệnh đã, rồi mới chơi được”.
Trong xóm ai làm nhà, Thụ đến giúp. Ngày thượng lương, Thụ biết dựng cái cột gỗ nghiến lên, lấy bánh dầy bọc giấy xanh giấy đỏ quăng hai bên mái như các cụ từ đời trước, ở Bắc Sơn vẫn làm phép khi lễ dựng nóc như thế, trẻ con ra nhặt bánh cúng ăn lấy khước.
Nhưng Thụ bảo với anh em trong tổ cách mệnh: “Bây giờ chẳng mấy ai làm nổi cái nhà to tát để ở. Anh em ta còn nghèo quá. Phải đuổi thằng Tây lấy lại mọi thứ thì bấy giờ mới làm nhà ở yên được”.
Thụ chẳng nề hà việc gì, vác củi, gánh nước, thối cơm, xay bột vắt bún, đun chảo lợn. Tết tháng năm, Thụ làm bún sợi mướt, ngọt, như tục làm bún Tết ở Bắc Sơn.
Chẳng bao lâu, đã như người xóm Bò Tát.
Người xóm Bò Tát thật, bởi vì Thụ biết đi bẫy hổ. Năm nay rồi đói to, trời nắng cháy cả vụ ngô. Lại thêm hổ quấy, cả xóm có vài con bò. Hổ về quật chết, dần mòn tha đi. Người làm nương mà mất bò thì như bị chặt tay, còn gì! Còn có hai ba con bê mới vực cày. Không dám thả chăn, độc nhốt gầm sàn rồi ngày ngày đi cắt cỏ. Lại thêm công người khó nhọc nữa. Người xóm Bò Tát chưa qua tháng tám mà trông ai cũng gầy, mặt ai cũng xanh xám như mùa đông tới. Trời phá, hổ phá, thế này thì đến phải bỏ đi nơi khác mất.
Thụ cũng áy náy không yên. Các bẫy đều đóng chốt cụp xuống cả. Có mấy con chó mồi đều sợ hổ phát ốm chết hết. Ban ngày cho nó cơm ba bữa. Nhưng đến chiều, con chó phải ra bẫy, đã biết lệ, nó sợ trợn xanh mắt không sủa ra tiếng nữa. Sáng sớm ra, con chó đã chết trong đêm rồi.
Cả xóm không còn con chó. Thụ đã nghĩ ra một cách. Thụ lên núi đá, kiếm được một bó củi thật chắc. Thụ cõng ra bán ở chợ Mỏ Nhài. Tết rằm mà trong nhà cứ lạnh và sạch quang như thường ngày. Nghĩ vậy Thụ thấy cần đi chợ, kiếm quà Tết rằm về cho trẻ con. Khó nhọc một chút, nhưng được như ý muốn, Thụ không bao giờ nghĩ ra việc mà để đấy.
Hôm nay, Thụ đã bàn vói Thông, rủ anh em đến họp, thành lập chi bộ Đảng.
Xế trưa, Thụ về. Bó củi Thụ to, toàn củi núi, đượm lửa, bán ngay và được tiền. Và được như dự tính nữa: Thụ đã đeo bên nách cái rọ trong có con chó con, trên rọ buộc gói bỏng mật quà Tết rằm cho trẻ con.
Thụ bảo Thông:
- Bây giờ Thông đi rủ anh em nhé. Mình ra đặt con mồi này ngay. Phải tấn công luôn mới được. Nếu được thì đêm nay ăn to rồi.
Chặp tối, các đồng chí đã về cả nhà Thông. Có Khai Lạc, người ở Hữu Vĩnh vào Bò Tát khai hoang. Quỳnh Quang, Quảng Long, và Phòng xóm ngoài. Thông cũng đã về. Nhưng không thấy Thụ. Ông bố nói:
- Tao thấy thằng Vân đem nỏ chạy đi từ nãy.
Mọi người khấp khởi, hồi hộp. Có dễ mà được rồi. Hôm ấy rằm tháng Tám. Trong bóng tối cây lau dường như đã nghe phảng phất hơi thu, nhưng những mái nhà xóm Bò Tát còn thấp hơn ngọn lau, cho nên cái nóng âm ỉ của mùa hè muộn càng âm ỉ ngột ngạt từ trong lòng đất bốc ra. Không một hẩy gió. Tất cả muốn nẫu ra, hoặc sống hoặc chết đây. Cho đến lúc trông ra sau núi, sáng hẩng một chút, xung quanh mới ràng rạng nhẹ nhàng hơn, ấy là trăng đã lên. Thông sốt ruột:
- Hay là ta ra xem sao.
Vừa lúc ấy, Thụ bước vào. Mọi người lao xao hỏi:
- Thế nào? Thế nào, anh Vân?
Thụ đặt cái rọ xuống chân thang, trong rọ có con chó, vẫn nằm im thít, chưa qua cơn sợ. Thụ khoan thai treo cánh nỏ lên hóc cột, cởi phăng cái áo, ném lên sợi dây mây căng ngang nhà, nói tự nhiên như nói một việc bình thường hàng ngày.
- Đúng là con hổ đói. Lại được con chó lạ, cứ kêu nhũng nhẵng, hổ ta trong rừng sâu nghe tiếng, chỉ một lúc đã ra rồi. Mình đến đã thấy hổ mắc cũi, đương phá, chuyển cả cọc. Mình nã cho cậu ta ba phát nỏ đích đáng, nằm nhe răng ra rồi. Mọi khi, đúng vết chân con này, to lắm. Họp xong, chúng mình sẽ ra khiêng về.
Ngoài rừng, con hổ mắc bẫy và bị trúng nỏ đã nằm chết trong cũi.
Cuộc họp thành lập chi bộ Đảng đầu tiên của châu Bắc Sơn vào đêm trung thu, trăng trong leo lẻo như chỉ có sự tốt lành và tiếng hát của trẻ con từ ngoài Vũ Lăng vẳng vào qua trên ngọn lau. Con hổ, nhưng con hổ đã sa bẫy, đã bị mấy phát nỏ cho chết cẩn thận, thịt xương nó sắp được đem làm thịt và bán, như thế, con hổ ác cũng thành điều tốt lành rồi đấy. Mỗi người đảng viên cộng sản ở Bò Tát đêm nay đều có ý nghĩ so sánh thấy thằng Tây như con hổ, mà Đảng ta là anh Vân và chúng mình, anh Vân đã bắn chết thằng Tây con hổ và chúng mình sắp đi khiêng thằng quỷ ác ấy về ngay đêm nay, lột da nó, nấu xương nó, chén thịt nó.
Cuộc họp ở góc nhà Thông, bên cạnh cửa sổ, trên sàn trông ra, thấy ông trăng lóng lánh. Đầu tiên, Thụ đọc quyển điều lệ Đảng cho mọi người nghe rồi hỏi ai muốn hỏi gì. Nhưng không ai hỏi nữa và mọi người đã được đọc và Thụ đã nói chuyện cho từng người, ai cũng thấy ở đấy là lời dặn dò người đảng viên đứng lên đánh thằng Tây, đấy là điều tất nhiên ta làm như thế mà Đảng tóm tắt lại cho ta thuộc như thế, lúc nào cũng sẽ nhớ đinh ninh.
Sau Thụ hát bài Quốc tế ca.
Đấu tranh này là trận cuối cùng
Kết đoàn lại, để ngày mai
L' Internationale
Sẽ là xã hội tương lai...Thụ cắt nghĩa từng câu hát một. Mọi người ngồi trông ra cái cửa sổ lúc ấy có một miếng ánh trăng lọt vào, trải trên cái chiếu trúc lát đã gãy - nhưng nan trúc bóng trong ánh trăng càng óng ả thêm. Ai cũng thấy ra quang cảnh những người “cực khổ bần hàn” khắp thế giới đương sôi nổi cách mệnh. Chúng mình đêm nay lập chi bộ Đảng ở tất cả mọi nơi như chi bộ ta. Đêm nay giai cấp công nhân các nước Pháp, nước Anh, nước Mỹ cũng đương lập chi bộ Đảng. Bên Trung Quốc thì chi bộ Đảng đã thành Hồng quân cầm súng bắn nhau với quân thù. Bên Nga thì đã thành nước Xô Liên thành trì Cộng sản đầu tiên trên thê giới, ở đấy sung sướng và có hạnh phúc lắm rồi. Bốn biển năm châu, giai cấp công nhân và nông dân đương đứng lên làm cách mệnh, đánh đuổi đế quốc đưa đất nước lên chủ nghĩa Cộng sản, như Xô Liên.
Lần lượt, cả năm người đứng dậy, thề trước Đảng, suốt đời vì Đảng làm cách mệnh. Phía trong, ông bố Thông nằm đương khù khụ ho. Mất mùa ngô, người lớn ăn một bữa, chỉ có đám trẻ con chơi ngoài sân sàn, được đủ hai bữa, hôm nay có bỏng mật của chú Vân đi chợ Mỏ Nhài mua về cho Tết rằm. Cái vui nho nhỏ mà quan trọng. Cũng như cái cảnh nghèo khổ bao quanh cuộc thành lập chi bộ Đảng, cùng nhau gắn bó trong một ý nghĩa và chốc nữa, cả bọn sẽ đi vác con hổ mắc bẫy về - như vác xác thằng đế quốc thế giới, vừa đi vừa hò reo hát rằng: “Trận này là trận cuối cùng. Đánh một đòn chết hết kẻ thù công, nông trên thế giới”.
Một hôm, Thụ lại bàn vói Thông:
- Chi bộ Đảng chúng ta sẽ tranh đấu thử thách.
Thụ dặn Thông đi Long Châu, đến cửa hiệu Tắc Lì (Đại Lợi), phố Tây Cai, số 17, ra mật hiệu và nói như thế... như thế...
Nửa tháng sau, Thông đeo về một đãy chàm to. Trông thấy bó miến, chai rượu đế trên và dưới cùng đãy có một cuộn truyền đơn in cờ có búa liềm.
Truyền đơn cũng có sức mạnh như súng và lựu đạn. Thằng Tây thì sợ, còn người ta ai được xem đến cũng tỉnh người.
Cơ sở Đảng từ Vũ Lăng đã lan nhanh ra các làng Hưng Vũ, Chiêu Vũ, Hữu Vĩnh, Vũ Lễ, Gia Hoà, Vũ Sơn, Vĩnh Yên... thế là khắp châu, rồi đường dây bò ngược lên Tràng Định.
Thê là đã đánh xong đường vào Bắc Sơn. Con đường từ biên giới qua Thất Khê xuống Bắc Sơn, đã mở được rồi. Đã làm tròn nhiệm vụ, Thụ thấy cần phải trở về báo cáo với Phong và nhân đường về, Thụ muốn tự mình được đi theo đường mình mới mở, như con đường vừa đắp, bây giờ đi thử, trong lòng vui thích và đầy tự hào.
Thụ bảo Thông:
- Ta cùng nhau đi Thất Khê.
Hai người đi Thất Khê, theo sông Áng Mò ngược lên. Thụ đưa Thông vào nhà Hến trong cánh đồng. Cơ sở cách mệnh Thất Khê đã cắm được tới cánh đồng. Có lần Thất Khê tranh đấu rải truyền đơn tận cổng đồn quan ba đại lý. Nhiều người bị bắt. Mật thám đem người về tù tận Hà Nội. Nhưng cơ sở không vỡ. Cách mệnh vẫn ngồi giữa cánh đồng như thường.
Nhớ lại lần ấy Thụ tới Tràng Định, tuyên truyền, tổ chức cách mệnh. Thụ đi với Hải, từ Ngãi Kỷ sang. Hai người mặc quần áo đen, như người Long Châu về chơi.
Gặp Hến, biết Hến thích bài hát mới, Thụ nói:
- Tôi có bài hát này bảo anh, ai muốn nghe thì anh hát cho nghe...
Từ ngày kể từ ngày... Cám ơn bạn công nông lắm thay... Muốn đánh Tây ta phải kết đoàn...
Năm ấy, cả huyện Tràng Định mới chi có một mình Hến.
Năm nay, Thụ đã có thể đi từ Áng Mò qua Pác Cam lên Ngãi Kỷ, qua các tổ chức của ta đương ràn rạt mọc như mạ ngâm đến cữ nở. Có nơi vững, bề thế, biết sáng kiến hái củi thước bán cho lò ngói, đập tiền vào quỹ cách mệnh.
Thông quay trở lại. Đă có cơ sở Thất Khê đưa tiếp Thụ. Rồi Hải ở Nà Han xuống đón. Lại Lâm đưa qua cửa Bình Nghi. Thông bịn rịn chia tay với Thụ. Lúc Thụ đi các đồng chí ở Vũ Lăng nói: anh Vân nay là người Bò Tát rồi, đi đâu nữa. Câu nói bắt đầu từ mối cảm tình sâu sắc, bây giờ Thông cũng kể lại với Thụ thế, Thụ cười:
- Rồi cũng có lúc mình về Bắc Sơn. Chỉ mong lúc ấy công tác Bắc Sơn đã phát triển mạnh và vững.
Thông nắm tay Thụ, hỏi lại một câu tha thiết, bấy lâu vẫn tha thiết:
- Anh có phải Hoàng Ván Thụ bên Văn Uyên không?
Thụ cười to:
- Tôi cũng không biết đâu, nhưng tôi biết cả Hoàng Văn Thụ và Vân tôi cũng thế, cả Thụ và Vân đều là đồng chí cách mệnh của chúng ta.
Thông chưa hết băn khoăn, Thông lại nảy một băn khoăn khác. Mấy lâu nay gần anh Vân, Thông ngờ ngợ có lẽ anh Vân không phải Hoàng Văn Thụ. Người này giỏi hơn Hoàng Văn Thụ nhiều.
------------------------------------------------------------------
(1) Tiếng Tày là “muối, muối”. Người Việt Bắc có thói quen trộn cỏ và muối cho trâu ăn. Trâu lạc rừng nhớ muối lại phải quay về.