Lịch sử Quân sự Việt Nam
Tin tức: Lịch sử quân sự Việt Nam
 
*
Chào Khách. Bạn có thể đăng nhập hoặc đăng ký. 28 Tháng Ba, 2024, 05:01:11 pm


Đăng nhập với Tên truy nhập, Mật khẩu và thời gian tự động thoát


Trang: « 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 »   Xuống
  In  
Tác giả Chủ đề: Dấu chân trên cát  (Đọc 4202 lần)
0 Thành viên và 1 Khách đang xem chủ đề.
macbupda
Trung tá
*
Bài viết: 11970


Lính của PTL


« Trả lời #40 vào lúc: 19 Tháng Tư, 2022, 07:51:42 am »

Nhận rõ vị trí ý nghĩa đó, trước khi thực hành diễn tập, tôi tổ chức bồi dưỡng cán bộ từ tiểu đội trưởng trở lên về tổ chức và phương pháp huấn luyện kỹ, chiến thuật chiến đấu bộ binh và binh chủng, huấn luyện điều lệnh, huấn luyện thể lực và các chuyên ngành công tác đảng, công tác chính trị, hậu cần, kỹ thuật... Nhờ đó mà đội ngũ cán bộ các cấp đã phát huy và vận dùng tốt vào trong huấn luyện đạt chất lượng khá tốt.

Với lãnh đạo chỉ huy các cấp, tôi giao rõ từng khâu để duy trì chặt chẽ quy chế cấp trên dạy cấp dưới trong suốt quá trình trước, trong và sau huấn luyện. Quá trình thực hành huấn luyện phải chuẩn bị chu đáo, đúng quy chế thủ tục đã quy định. Phương pháp phải được chuẩn bị thống nhất, động tác phải được luyện tập thuần thục, chuẩn xác ngay tại thực địa cho từng loại súng B40, B41, cối 60 ly, cối 82 ly, ĐKZ, 12,7 ly phải xác định cự ly, đo đạc chính xác chuẩn bị nhiều vị trí bắn trong từng giai đoạn chiến đấu (cả chính thức, dự bị và bắn đêm).

Về huấn luyện chiến thuật phân đội phải đặt ra nhiều tình huống giả định, buộc người chỉ huy phải biết xử trí linh hoạt, tránh rập khuôn máy móc... Tổ chức điều hành huấn luyện phải nghiêm túc, phân cấp, phân công rõ ràng và phải gắn trách nhiệm của cấp ủy, chỉ huy đơn vị với kết quả huấn luyện cá nhân được giao đề mục cho từng cương vị đảm nhiệm.

Với phân đội, chú trọng đầu tư về tổ chức phương pháp huấn luyện kỹ đối tượng cán bộ binh chủng chuyên ngành cho tiểu (khẩu) đội trưởng, chiến đấu tốt nhưng chưa qua trường cơ bản, đồng thời đồng bộ vũ khí trang bị sau chiến đấu còn chưa thống nhất. Quá trình huấn luyện tập trung rèn tác phong chỉ huy, cán bộ sâu sát, cụ thể, tỉ mỉ quy định thời gian và chỉ tiêu bám nắm thao trường, bãi tập của cán bộ các cấp.

Chú trọng huấn luyện, giáo dục và rèn luyện cán bộ, chiến sĩ toàn diện về tâm lý, lòng tin vào vũ khí và cách đánh thắng địch trong công sự vững chắc; đi sâu động tác cơ bản, kỹ năng, kỹ xảo, sử dụng vũ khí trang bị trong biên chế và khi được tăng cường, phối thuộc; nâng trình độ hiệp đồng qua các giai đoạn trong huấn luyện chiến thuật cũng như thực hành diễn tập...

Dành tỷ lệ thời gian học đêm và mờ sáng, hành, trú quân dã ngoại, hành quân xa mang vác nặng qua các loại địa hình, thời tiết khác nhau; duy trì chặt chẽ học mới, ôn cũ, kỹ thuật với chiến thuật và xử trí tình huống sát với thực tế chiến đấu...

Vượt nắng thắng mưa, hơn một tháng các nội dung đã huấn luyện cơ bản ở cấp phân đội (tiểu đội, trung đội, đại đội) và tiến hành hợp luyện cấp tiểu đoàn với các binh chủng được liên kết chặt chẽ khi thực hành diễn tập. Kết quả bắn đạn thật 100% mục tiêu hỏa lực bị diệt, trên 85 -95% mục tiêu bộ binh đều bị hạ. Lần đầu tiên sử dụng bộ FR mở cửa nhanh, sạch, đúng hướng, bảo đảm cho xe tăng cùng bộ binh đột phá đánh chiếm mục tiêu quy định, được Bộ Tư lệnh Mặt trận Trị Thiên (Quân đoàn 2 - Binh đoàn Hương Giang) đánh giá hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ, bảo đảm an toàn người, trang bị và phương tiện.

Thành công của cuộc diễn tập phụ thuộc vào nhiều yếu tố, nhưng yếu tố cơ bản hàng đầu là ý định diễn tập gắn với chiến trường của Bộ Tư lệnh Quân đoàn 2 và sư đoàn đã vạch ra để trung đoàn chỉ đạo tiểu đoàn làm công tác chuẩn bị, bắt đầu từ khâu quán triệt sâu sắc các chỉ thị, hướng dẫn những nội dung có liên quan đến cuộc diễn tập của cấp trên...

Mặt khác, tiểu đoàn biết cụ thể hóa kế hoạch cấp mình và tổ chức bồi dưỡng cho cán bộ thuộc quyền, đồng thời triển khai một cách đồng bộ, đầy đủ, tỉ mỉ đến phân đội và chiến sĩ những việc cần phải làm, tiêu chí mỗi cấp, mỗi người phải đạt được trước khi bước vào diễn tập...

Nhờ vậy, khi thực hành diễn tập bắt đầu từ giai đoạn: “Hỏa lực chuẩn bị - Mở cửa đánh chiếm đầu cầu...”. Khi hỏa lực của chiến dịch, sư đoàn đang bắn phá hoại, chế áp (chưa di chuyển), đồng chí Vĩnh - Trung đoàn phó đi cùng ra lệnh cho tôi dùng hỏa lực cấp mình, tôi bình tĩnh thưa: Báo cáo Trung đoàn phó, hỏa lực của trung đoàn chưa bắn! Còn 3 phút nữa tiểu đoàn mới tham gia và thực hành xung phong đánh chiếm mục tiêu quy định...

Từ trên đài quan sát, Tư lệnh mặt trận Hoàng Văn Thái phát ngay: “Đồng chí Tiểu đoàn trưởng mới là cán bộ trung đoàn...” tôi mừng nhưng rất lo... kết thúc diễn tập về rút kinh nghiệm, Sư đoàn trưởng Phạm Minh Tâm biểu dương cán bộ, chiến sĩ Tiểu đoàn 5 đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ, riêng đồng chí Tiểu đoàn trưởng được Tư lệnh Mặt trận rất khen ngợi...

Kể từ sau cuộc diễn tập, bao kỷ niệm sâu sắc trong cuộc đời binh nghiệp lúc chiến đấu cam go, ác liệt... cho đến khi diễn tập thành công, tôi luôn được sự quan tâm đặc biệt của các thủ trưởng cấp trên mà gần gũi nhất là sư đoàn trưởng và chính ủy sư đoàn. Tôi nhớ mãi cái ngày “thoát hiểm” rồi đánh diệt đại đội dù “trước giờ lịch sử”. Sư đoàn trưởng Phạm Minh Tâm động viên tôi cứ đánh giỏi, miền Nam giải phóng sẽ làm rể ông. Đó là câu chuyện “tình sử” cả đơn vị cứ thêu dệt vẫn không thành. Khi về Hải Phòng, Hương con gái đầu của sư trưởng cứ gọi tôi bằng chú cho đến ngày thống nhất đất nước năm 1975 và hiện nay đã sang thế kỷ XXI, Hương mới gặp lại tôi và gọi bằng anh, khi mỗi người đã trở thành ông nội, bà ngoại cả rồi...
Logged

Tự hào thay, mác búp đa
Khởi đầu những bản hùng ca lẫy lừng.
Thô sơ, gian khổ đã từng
Chính quy, hiện đại, không ngừng tiến lên.
macbupda
Trung tá
*
Bài viết: 11970


Lính của PTL


« Trả lời #41 vào lúc: 19 Tháng Tư, 2022, 07:53:51 am »

Về Thượng Đức

Sau diễn tập, Tiểu đoàn 5 về Tân Pho, Tân Lê, tây nam sông Lai Phước tiếp tục xây dựng huấn luyện. Những tháng ngày này, tin chiến thắng của Sư đoàn 304 giải phóng chi khu quận lỵ Thượng Đức dội về làm nức lòngcán bộ, chiến sĩ, cả tiểu đoàn hăng say luyện tập chờ ngày ra trận.

Khoảng trung tuần tháng 8 năm 1974, tôi nhận lệnh trực tiếp của Sư đoàn trưởng Phạm Minh Tâm: “Chuẩn bị sẵn sàng có xe của quân đoàn đến là đi ngay...”. Tôi chưa kịp hỏi đi đâu, làm gì thì đầu dây bên kia đã cúp máy. Tôi hiểu đó là mệnh lệnh.

Tôi tổ chức họp ban chỉ huy tiểu đoàn và trao đổi nhanh với đồng chí Nguyễn Văn Nhã - Chính trị viên Tiểu đoàn và bàn giao chỉ huy cho đồng chí Công - Tiểu đoàn phó điều hành mọi công việc trong thời gian tôi đi công tác.

Ngoài trời mưa vẫn rả rích, gió từng cơn ập vào căn hầm vốn đã chật lại càng chật chội hơn... Ba anh em thử làm “tham mưu” nhưng đành chịu. Khoảng 20 giờ cùng ngày đã thấy chiếc xe con “Bắc Kinh” đỗ ngay trước cửa hầm, tôi vừa bước ra khỏi cửa liền gặp Chính ủy Sư đoàn Lê Văn Dương bước đến ôm chặt: “Đi làm phái viên cho quân đoàn vào Thượng Đức chiến đấu, giữ gìn sức khỏe và làm tốt như diễn tập vừa rồi nghe!...”. “Rõ!”.

Chiếc xe gồng mình băng qua bãi cỏ trước cửa hầm tiểu đoàn vụt nhanh ra quốc lộ 1A đến thị xã Đông Hà, ngược đường 9 rồi theo đường quân sự làm gấp, khoảng hơn 3 giờ sáng ngày 24 tháng 8 năm 1974 thì đến sở chỉ huy quân đoàn đóng tại Ba Nang - Ba Lòng. Gặp anh Đặng Tụ, cùng đi cho biết: Chúng ta thành một tổ giúp Bộ Tư lệnh Quân đoàn vào chỉ đạo Sư đoàn 304 tác chiến phòng ngự tại Thượng Đức - Quảng Đà.

Thượng Đức, vùng B Đại Lộc là chiến trường quen thuộc đã đào luyện tôi trong khói lửa và chắp cánh cho tôi được ra Bắc học tập trở thành sĩ quan. Nay được về tham gia chiến đấu ngay trên mảnh đất đã sinh ra mình là ước nguyện bấy lâu, dù phải đổ máu hy sinh vì mảnh đất “trung dũng kiên cường đi đầu diệt Mỹ” là niềm vinh dự lớn.

Nhưng điều băn khoăn là làm trợ lý mặt trận đi cùng với Tư lệnh và Chính ủy Quân đoàn thì quả thật tôi chưa bao giờ nghĩ tới. Đêm càng về khuya, mưa càng nặng hạt giữa đại ngàn, đâu đó tiếng con nai lạc đàn toang... toác... cứ dội vào lòng bao suy tưởng mông lung...

Trời hửng sáng, sương còn vương, chưa nhìn rõ mặt người, chúng tôi vũ khí trang bị nai nịt chỉnh tề, dọc đường nào là xe tăng - thiết giáp, ô tô vận tải Hồng Hà, Zin 131... đi đến chiếc thứ ba, anh Tụ cùng tôi vào ca bin, lái xe nổ máy. Đường,Trường Sơn mưa càng to, lầy, lên dốc phải dùng tời...

Khi cả đội hình chuẩn bị vượt ngầm Ti Tôn, tôi đang kiểm tra lực lượng công binh lắp ghép phà, đồng chí Tư lệnh Quân đoàn từ phía sau đi đến bắt tay tôi mà rằng: “Lần này vào Thượng Đức, nhưng chưa về quê được đâu bạn trẻ nhé” Tôi ngạc nhiên: “Ủa, sao thủ trưởng biết?”. Ông ân cần: “Mình ở thôn 3 - Điện Ngọc, Hùng ở Hà Quảng - Điện Dương phải không?”. Trước khi chọn cậu anh Tâm, Sư trưởng đã nói hết với mình về cậu rồi... Nếu lần này vào Sự đoàn 304 yêu cầu thì Hùng ở đó luôn đấy!”. “Dạ, được chiến đấu ngay trên chiến trường Khu 5 quen thuộc còn gì hạnh phúc hơn, thủ trưởng”. “Biết thế, cứ làm chuyên gia mở cửa FR và xây dựng trận địa chiến đấu phòng ngự tốt đã”. Đến đây thì những trăn trở từ cuộc diễn tập ở Ba Hồ, Cam Lộ đã giúp tôi hiểu rõ hơn tấm lòng của cấp trên khi đã tin tưởng thì dù có vào sinh ra tử cũng vượt qua để làm tròn nhiệm vụ...

Dọc đường hành quân hết băng đèo, lội suối, tôi nghĩ đến những ngày sắp tới, việc diệt chi khu Thượng Đức vốn khó đã làm được, nay việc giữ gìn càng khó nhưng ta phải tìm cách tháo gỡ, trước mắt là phòng ngự trận địa, có thể áp dụng những kinh nghiệm từ thời đánh nhau ở Quảng Trị, khó mấy cũng phải cố gắng làm được...

Xe cứ chạy, tôi cứ nghĩ, đã qua hết đông Trường Sơn đến A Sầu, A Lưới xuống An Trao rồi đến Giằng về Thượng Đức mất hơn hai ngày đêm...

Đón Tư lệnh và Chính ủy Quân đoàn tại tác chiến thất của sở chỉ huy Sư đoàn 304 gồm chỉ huy, cơ quan và cả Phó Tư lệnh Quân đoàn, Hoàng Đan vào trước cũng tề tựu đông đủ. Bắt tay tôi, Sư đoàn trưởng Sư đoàn 304, Lê Công Phê lạc quan: “Chào các bạn “Rồng đất” đã vào Thượng Đức. Anh em trên chốt đang chờ phái viên phòng ngự đó...”. Vậy là đã rõ, tiếng tăm của Sư đoàn 325 trong tác chiến phòng ngự trực tiếp tiếp xúc, trừng trị đích đáng bọn thủy quân lục chiến và lính dù tái chiếm Quảng Trị năm 1973 đã vang khắp mặt trận, nay cán bộ sư đoàn được quân đoàn cử vào góp sức cùng Sư đoàn 304 bày thế trận đập tan âm mưu bọn lính dù đang tái chiếm Thượng Đức.
Logged

Tự hào thay, mác búp đa
Khởi đầu những bản hùng ca lẫy lừng.
Thô sơ, gian khổ đã từng
Chính quy, hiện đại, không ngừng tiến lên.
macbupda
Trung tá
*
Bài viết: 11970


Lính của PTL


« Trả lời #42 vào lúc: 19 Tháng Tư, 2022, 07:55:02 am »

Được sư đoàn cung cấp tình hình, Phó Tư lệnh Quân đoàn trình bày kế hoạch xây dựng trận địa phòng ngự phía trước và rút cán bộ về tập huấn. Tư lệnh Quân đoàn chỉ thị điều chỉnh lực lượng, bố trí lại hệ thống hỏa lực xen kẽ giữa pháo 85 ly bắn thẳng, hỏa tiễn H12 và cả pháo phòng không 37 ly cũng hạ nòng bắn được bộ binh.

Tổ chức cán bộ mới vào cùng Sư đoàn 304 đi nghiên cứu địa hình các điểm cao 126, 283 và 1062. Sử dụng lực lượng công binh xây dựng cho mỗi đại đội bộ binh một điểm tựa mẫu để các đơn vị đủ khả năng phòng ngự chống trả, sử dụng lực lượng vũ trang tại chỗ và nhân dân hỗ trợ vận chuyển vật liệu để hoàn chỉnh các cụm điểm tựa cấp tiểu đoàn đánh địch cả mùa mưa và mùa khô...

Rút 1/2 đến 1/3 cán bộ từ tiểu đội trở lên về phía sau tập huấn, phải làm cho cán bộ biết xây dựng trận địa, biết cách đánh phòng ngự, xây dựng lòng tin vào nghệ thuật tác chiến của ta, trong phòng ngự các cấp phải nắm vững các yếu tố công sự là then chốt quyết định là xương sống để bảo toàn lực lượng, kết hợp với vật cản để ngăn chặn địch, hỏa lực bố trí xen kẽ nhiều tầng, nhiều lớp tạo thành lưới lửa và đánh địch được trên các hướng, phòng ngự phải biết nắm và tạo thời cơ tích cực phản kích để diệt địch... có như vậy mới vừa đánh địch, giảm thương vong giữ được trận địa lâu dài.

Qua lớp tập huấn, cán bộ đã từng bước trưởng thành, trong thực tế biết tổ chức xây dựng trận địa phòng ngự và tổ chức đánh địch trong suốt mùa mưa làm cho quân dù thương vong lớn. Đến tháng 12 năm 1974, sư đoàn dù ngụy đã không tái chiếm nổi Thượng Đức mà còn bị Sư đoàn 304 Quân đoàn 2 và lực lượng vũ trang Quảng Đà, Khu 5 đánh cho tan tác, không những “nước sông Vu Gia không chảy ngược” mà nhấn chìm và cuốn trôi quan thầy Dư Quốc Đống, sư đoàn trưởng sư đoàn dù cùng bọn tay sai ôm đầu máu xuôi về Đà Nẵng.

Trước khi chia tay Thượng Đức về Quảng Trị, Tư lệnh Quân đoàn cho nghỉ “xả hơi” một ngày, tôi lần về Thành Mỹ thăm Nhung, người bạn gái quê hương ở Ban Tài mậu Quảng Đà, cũng là để biết thêm về gia đình sau những năm tháng đi xa. Đến nơi, anh Lễ - người cùng quê cho biết: Nhung vừa về đồng bằng thu mua lương thực cho bộ đội. Rồi gọi Phương cùng thôn lên giới thiệu: Đây là Hùng cùng quê với em đó. Phương làm một câu lạnh ngắt: Đồng hương chi mà ăn mặc giống bộ đội “miền Bắc” rứa?

Tôi không ngờ các em chưa bao giờ tiếp xúc với bộ đội “cơm Bắc giặc Nam” như chúng tôi. Với bản năng của quân giải phóng tôi chữa thẹn cho Phương: “Anh mang quân phục hay quần áo bà ba cũng là Bộ đội Cụ Hồ, răng em lại nghĩ như thế, em có phải Phương con ông Tửu không? Cha anh và cha em trùng tên đó...”.

Phương thoáng đi ra giữa tiếng lá rừng bay xào xạc, mãi đến trưa thì trở lại lán của anh Lễ. À ra, em đi lo “tiếp khách”. Trưa hôm đó tôi được thưởng thức cháo gà do Phương nấu và tâm sự về quê hương, gia đình và cũng như quá trình chiến đấu của tôi từ Trị Thiên - Huế vào Thượng Đức. Anh Lễ kể nhiều về Nhung: Ngoan, công tác chuyên cần... chưa để ý ai. Phương đế thêm: đang chờ anh đó. Và hai người đồng hương khuyên tôi cố đợi, sáng mai chắc Nhung về. Tuy nhiên thời gian không cho phép, tôi cảm ơn anh Lễ và Phương, nhờ anh nhắn dùm: Tôi khỏe, chúc Nhung mọi sự như ý, hẹn ngày tái ngộ...

Một lần nữa lại xa Quảng Đà, dặm dài giữa đông Trường Sơn, tôi ước một ngày nào đó sẽ cùng Nhung đi giữa rừng cờ và hoa của quê hương giải phóng, hai đứa cùng tắm mình trên biển quê tôi. Cùng nhớ về ngày còn thơ hai đứa đi quơ lá phi lao, bắt còng và chơi trò bịt mắt bắt dê... Mãi mông lung rồi giật mình khi chiếc zin 131 khựng lại “xuống xe vào trạm khách, sáng mai Tham mưu trưởng Quân đoàn làm việc” nói xong anh Tụ chỉ cho tôi chỗ mắc võng.

Sau hơn ba tháng đi làm phái viên cho quân đoàn về tác chiến phòng ngự tri thức quân sự, kinh nghiệm chiến đấu trong tôi dần được nâng lên, tuổi quân, tuổi đời cũng rắn rỏi hẳn. Cuối năm 1974, tôi được đơn vị bầu chọn Chiến sĩ Thi đua và đi dự Hội nghị Thi đua Quyết thắng “giết giặc lập công” tại sư đoàn, kết thúc một mùa chiến dịch thắng lợi. Ngày 22 tháng 12 năm 1974, tôi được thăng quân hàm thượng úy ở tuổi 24, cũng là lúc cả đơn vị chào đón mùa xuân 1975 lịch sử.
Logged

Tự hào thay, mác búp đa
Khởi đầu những bản hùng ca lẫy lừng.
Thô sơ, gian khổ đã từng
Chính quy, hiện đại, không ngừng tiến lên.
macbupda
Trung tá
*
Bài viết: 11970


Lính của PTL


« Trả lời #43 vào lúc: 19 Tháng Tư, 2022, 07:58:24 am »

Theo dấu chân trung đoàn

Trong thời gian tham gia chiến đấu phòng ngự cùng Sư đoàn 304 ở Thượng Đức, tôi bị bom phốt pho (còn gọi là lân tinh) bắn vào tay trong khi hướng dẫn bộ đội xây dựng công sự trận địa rồi phản kích đánh địch trong thời tiết mưa gió, mải theo việc, tôi không đi bệnh xá chỉ để anh em sơ cứu tại chỗ cho đến khi về tiểu đoàn lại lao vào công tác Đại hội thi đua, đón danh hiệu anh hùng và Đại hội Đảng bộ..., vết thương dai dẳng, sức khỏe bị giảm sút.

Cuối tháng 12 năm 1974 đến tháng 1 năm 1975, Trung đoàn thông báo: Sư đoàn cho tôi đi an dưỡng, sau đó về Trường Quân chính Quân khu Trị Thiên tiếp tục học tập bổ túc lớp cán bộ tiểu đoàn mà tôi học dang dở vào tháng 8 năm 1974 do yêu cầu diễn tập. Vừa mừng lại cũng chẳng vui, mừng là được ra phía sau an dưỡng bình phục sức khỏe để đi học, chẳng vui là phải xa đơn vị cái nơi mà tôi đã một thời gắn bó với đồng đội và những chiến công đầu trên chiến trường Quảng Trị thân yêu.

Được sư đoàn cho xe ra Đoàn an dưỡng 40B tại Đồng Hới - Quảng Bình, nơi đây lại gợi cho tôi nhớ đến quê hương với những nỗng cát, cồn cát trắng mịn, chiều về gió biển rì rào, dưới rặng phi lao đã một thời tôi chưa được thả mình để thương thức cái hương vị mằn mặn của một miền trời nước bao la, cảnh đẹp nên thơ, nơi đó có một kỷ niệm thuở thiếu thời...

An dưỡng được 10 ngày, ăn, ngủ ngon nhưng quá buồn, tôi xin Trạm trưởng đi Đoàn an dưỡng Nam Hà, nơi đó nghe tin cậu tôi cũng từ Quảng Đà ra, nhân thể biết thêm tình hình gia đình và quê hương. Nhưng trạm bảo tôi là người của B5 gửi ra nên phải xin ý kiến Cục Cán bộ và Mặt trận rồi mới trả lời. Sau hai ngày thơ thẩn dọc biển để giải khuây, đêm 15 tháng 1 năm 1975, Trạm trưởng gọi tôi lên và tâm sự: “Tụi mình biết Hùng từ miền Nam ra có một mình, dù trạm cố gắng nhưng không giúp thêm gì để bạn vui. Tôi đã báo cáo rõ nguyện vọng của ông, trên đồng ý, khi đi nên ghi địa chỉ để lại cho chúng tôi liên lạc lúc cần”. Tôi mừng rỡ cảm ơn, Trạm trưởng nhắc lại: “Chuẩn bị sáng mai có xe ra Hà Nội cùng quá giang luôn...”.

Đến Đoàn an dưỡng 83 Nam Hà, nơi cậu tôi đang an dưỡng cùng với các chú từ Quảng Đà ra. Biết tôi cũng từ Quảng Trị đến, các cụ hỏi đủ chuyện: “Nghe nói ác liệt lắm phải không cháu?” Tôi cười: “Ác liệt hay không, thấy cháu vẫn khỏe mạnh ra đến đây là đủ biết rồi...”. Chiều đó, bà chủ nhà nhượng lại cho các chú một con ngỗng, tôi được giao chế biến để các “cụ” hàn huyên. Ngỗng khó nấu, răng các “cụ” lại yếu. Tôi ra thịt ướp gia vị nấu giả cầy, cổ làm dồi, xương và cánh cho ninh nhừ nấu với đu đủ, khoai tây đồ ăn với miến... các “cụ” khen: “Một sĩ quan trẻ như mày tưởng chỉ có “choảng” nhau với Mỹ-ngụy, rứa mà biết nấu ăn, ngon hè...”. Cậu tôi thêm: “Thằng này biết nấu cơm từ lúc 10 tuổi kia...”.

Ở được vài hôm, hàng ngày cậu tôi đánh tranh dùm cho gia đình. Tôi và các chú, các anh tha thẩn hết ra đồng xem bà con đi đánh dậm, bắt cua... rồi về nhà đọc sách. Thấy buồn, cậu tôi bảo: “Mọi chế độ ở đây đều theo định suất, con không ăn theo phải không?” Sao cậu lại đoán vậy tôi cũng sợ cậu buồn nên trả lời không: “Cậu yên tâm cháu quen rồi...” Tối đó nằm cạnh tôi, cậu xoa dầu: “ít khi có dịp ra dây, Tết này cậu cháu về Việt Trì ăn tết với dì Hai Rế, dì nghe tin con đã lâu mà chưa được biết...”. Tôi hỏi: “Đi bằng cách nào ạ?”. Cậu ân cần: “Con cứ lên trước, gần Tết, Hội con rể của dì đến đón cậu lên sau”.

Ngày hôm sau, cậu mượn xe đạp đèo tôi lên Nam Định rồi ra Hà Nội đến Trường Đại học Ngoại thương gần Cầu Giấy, nơi mà vợ chồng Hội, Nỷ con của dì Hai Rế đang tá túc. Từ ngày tập kết đến nay, hai em mới được gặp lại người thân tay bắt mặt mừng định giữ tôi ở lại gần Tết cùng đi Việt Trì, tôi từ chối, vì Cầu Giấy năm 1967 tôi đã ở và biết rồi, còn Việt Trì chỉ mới nghe qua nên nôn nóng muốn đi sớm, hai em chiều ý rồi lấy vé tàu hỏa. Tối hôm sau tôi đã có mặt ở Việt Trì thành phố ngã ba sông.

Được ngắm nhìn “anh giải phóng”, Việt và Trì (hai chị em cùng sinh ra tại Việt Trì), con của dì Hai Rế và Dượng Thêm, cứ quấn quýt không rời tôi nửa bước. Tôi và Trì con trai của dì, dượng rảo bước trên cầu Việt Trì. Đang tuổi hay ăn, hay nói, Trì cứ thao thao về những ngày bom Mỹ đánh vào cầu, thành phố và ga, trường học sơ tán, nhà cháy v.v... rồi bắt tôi kể chuyện chiến đấu, Mỹ to, Mỹ đen, Nam Hàn và bọn ngụy Sài Gòn cũng là con người sao mà chúng ác thế hả anh?. Tôi giải thích cho em về những người bên kia chiến tuyến, về những kẻ cầm đầu buộc họ phải cầm súng chĩa vào chính đồng loại của mình... khi nào em lớn, đất nước thống nhất, Nam - Bắc sum họp một nhà em sẽ hiểu nhiều về giá trị cuộc chiến đấu mà các anh đang thực hiện, hiểu được ý Đảng, lòng dân...

Thấm thoát được ba ngày, dù chưa hiểu hết mảnh đất lịch sử thành phố “Ngã ba sông”, nhưng khung cảnh và không khí xung quanh đã giúp tôi nhận ra một điều là người dân nơi đây cũng đang hối hả lo toan cuộc sống để chống chọi với cuộc chiến tranh phá hoại miền Bắc của để quốc Mỹ, đồng thời dốc sức chi viện cho miền Nam, “tất cả cho tiền tuyến...”. Những khẩu hiệu hành động đó lại được giăng thêm và cao hơn quanh thành phố Việt Trì vừa đổ nát qua một trận bom để mọi người cùng thấy... Tôi và Trì đang mải miết ngắm nhìn thì Việt - chị gái Trì chạy đến hối hả: “Cậu Năm lên bảo anh về nhà ngay... ngay...”.
Logged

Tự hào thay, mác búp đa
Khởi đầu những bản hùng ca lẫy lừng.
Thô sơ, gian khổ đã từng
Chính quy, hiện đại, không ngừng tiến lên.
macbupda
Trung tá
*
Bài viết: 11970


Lính của PTL


« Trả lời #44 vào lúc: 19 Tháng Tư, 2022, 07:59:12 am »

Bước vào đến cửa, cậu, dì và dượng hết nhìn tôi lại vuốt ve Việt và Trì, cậu thông báo: “Con có điện về đơn vị nhận nhiệm vụ gấp...”, cầm bức điện đánh đi từ Đồng Hới, tôi biết ngay là của đơn vị rồi xin phép cậu, dì, dượng và an ủi Việt, Trì, Tết nay anh phải đi chiến đấu không ở lại vui xuân cùng các em được...

Hôm đó vào khoảng ngày 30 tháng 1 năm 1975, gia đình dì, dượng và các em cho tôi ăn Tết sớm, rồi giục Hội, chồng em Nỷ con gái đầu của dượng chuẩn bị đưa tôi ra tàu về Hà Nội... Bữa cơm diễn ra đầm ấm giữa kẻ ở người đi, thương nhất là Việt - Trì cứ ôm khư khư ba lô của tôi, tôi chọn ra 2 thứ để kỷ niệm 2 em. Việt con gái được ưu tiên tấm dù hoa, Trì chiếc võng ni lông và 1 quả bóng... Những kỷ niệm không cần mang theo tôi gửi hết cho dì Hai rồi chia tay gia đình, tạm biệt Việt Trì...

Ngày 2 tháng 2 năm 1975, xe vừa dừng ở Hồ Xá phía bắc cầu Hiền Lương, tôi gặp một số anh em đi viện về đang chờ rút tiền, tôi hỏi: Làm gì mà rút tiền vậy các bạn? Anh Đồng - Tiểu đoàn phó Tiểu đoàn 6 quê Thanh Hóa vừa đi phép vào gặp tôi và nói: “Đơn vị chuẩn bị hành quân rồi, nếu có tiền rút rồi về sư đoàn để theo trung đoàn ông ạ”.

Vậy là đã rõ, về đến sư đoàn (trung đoàn không để lại hậu cứ), tôi thấy anh Tạ Rà, Tham mưu trưởng Trung đoàn và một số cán bộ đi chuẩn bị chiến trường phía Tây Trị Thiên - Huế cũng đang chờ tập hợp lực lượng, kể cả số chiến sĩ, các đơn vị trong trung đoàn còn rải rác ở bệnh xá, đoàn an dưỡng, đi công tác cùng tập trung về để sư đoàn giao nhiệm vụ.

Khoảng 19 giờ 30 phút ngày 5 tháng 2 năm 1975 tại sở chỉ huy sư đoàn ở Tân Kim, Tân Vĩnh, tây nam Đông Hà, Chính ủy Sư đoàn Lê Văn Dương giao nhiệm vụ: “Trung đoàn 95 cơ động đi tăng cường cho mặt trận Tây Nguyên, trước khi đi Trung đoàn trưởng Đặng Tụ và Chính ủy Vũ Quang Thọ báo với sư đoàn còn một số cán bộ chủ chốt và chiến sĩ nhờ sư đoàn đưa tiếp theo cho trung đoàn... Vì vậy thay mặt Đảng ủy và Bộ Tư lệnh Sư đoàn, tôi chỉ định đồng chí Tạ Rà làm trưởng đoàn, đồng chí Hùng làm phó đoàn, được mặt trận bảo đảm 3 xe zin 130 và 1 xe Hồng Hà - 2 cầu hộ tống. Bằng mọi giá các đồng chí phải đuổi theo cho kịp. Dẫn đường do đường dây 559 liên lạc các đồng chí tự tìm hiểu. Từ khi Trung đoàn 95 cơ động đến nay, sư đoàn không được bắt liên lạc...”.

Rừng thì bao la, đường thì vô tận, Tây Nguyên nhưng Nam hay Bắc? Kon Tum, Gia Lai, Đắk Lắk hay Lâm Đồng? Trên núi còn luồn lách chứ xuống đồng bằng địch thì bốn bề, dân tình chưa, hiểu địa bàn mới lạ như “tìm kim đáy bể” thế này biết đâu mà tìm? Anh Rà và tôi tự hỏi rồi tự tìm câu trả lời để động viên bộ đội bám sát đội hình, sẵn sàng chiến đấu.

Đi hết Trường Sơn Đông, lẽ ra theo đường 14 từ Ngọc Hồi đi Kon Tum nhưng giao liên vượt cửa khẩu Bờ Y qua Lào rồi trở lại cửa khẩu Đắk Pơ xuôi xuồng Buôn Ma Thuột. Trên đường đi dọc biên giới Việt Nam - Campuchia bị mìn hỏng 1 xe, 1 số bị thương lại đến cửa khẩu Đắk Pơ gặp tàn quân địch lẫn trong rừng. Đêm đến chúng tôi canh phòng và cho lực lượng trinh sát trà trộn vào dân đi rẫy để hỏi tình hình thì được biết Buôn Ma Thuột đã giải phóng. Vượt qua Đắk Song, Đắk Min, xe đi đầu gặp một toán du kích và bộ đội địa phương đang chốt cầu 14 trên sông Sê-rê-pốc.

Hai bên đường, cờ giải phóng tung bay, trong rừng và ven thị xã Buôn Ma Thuột vẫn còn tiếng pháo nổ và máy bay. Anh Rà cho bộ đội triển khai đội hình chiến đấu rồi cùng tôi đi tìm hiểu tình hình, biết rằng ở Đắk Lắk có rất nhiều bà con Quảng Nam, nên tôi được phép hỏi để đồng bào khỏi ngại... Được nhân dân chỉ lôi, sáng hôm sau tức ngày 1 tháng 4 năm 1975, sau 20 ngày giải phóng Buôn Ma Thuột, trung đoàn lại phát triển ra hướng đèo Măng Giang, vườn xoài cùng Sư đoàn 320 làm quân quản tại thị xã Cheo Reo - Phú Bổn.

Trung đoàn cơ động, chúng tôi ra đến Cheo Reo - Phú Bổn vào ngày 6 tháng 4 năm 1975, rồi cơ động vào Đồng Xoài, vượt sông Đồng Nai để tham gia đánh địch ở Dầu Giây, Xuân Lộc, tỉnh Long Khánh. Cùng Quân đoàn 4 đập tan ý đồ “tử thủ” của chiến đoàn 52, liên đoàn 15 biệt động, thiết đoàn 23, lữ đoàn 2 dù, trung đoàn 8 bộ binh, 1 tiểu đoàn pháo binh...mở toang cánh cửa thép đông bắc Sài Gòn - Gia Định.

Chiến công nối tiếp chiến công, trung đoàn chiến đấu rồi cơ động ngày đêm. Chúng tôi cũng cơ động mãi đến ngày 20 tháng 4 năm 1975 mới đuổi kịp trung đoàn đang tập kết ở vườn sầu riêng Tân Yên - Biên Hòa làm dự bị cho Quân đoàn 1 tham gia chiến dịch Hồ Chí Minh giải phóng hoàn toàn miền Nam thống nhất đất nước.

Trong niềm vui lớn của cuộc hội ngộ lịch sử, có niềm vui gặp gỡ của cán bộ chiến sĩ Trung đoàn 95 với 3 trung đoàn cùng sinh ra từ một “gốc” đã sớm trở về miền Nam từ những ngày đầu đánh Mỹ. Đó là Trung đoàn 95 (Trung đoàn 3) đơn vị Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân nằm trong đội hình Sư đoàn 9. Quân đoàn 4, tham gia giải phóng Dầu Tiếng, An Lộc, Chơn Thành, tiếp đó đánh vào nội đô Sài Gòn, giải phóng quận 5 và quận 8. Trung đoàn 95B Quân khu 5 - đơn vị Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân từ miền Trung vào làm lực lượng dự bị mạnh của Bộ chỉ huy chiến dịch Hồ Chí Minh. Trung đoàn 95A (Trung đoàn 10) đơn vị Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân, tác chiến trên hướng phối hợp của chiến dịch Hồ Chí Minh tham gia giải phóng Cần Thơ và các tỉnh đồng bằng sông Cửu Long (Lịch sử Trung đoàn 95 - Thiện Thuật: 1945 - 1995).
Logged

Tự hào thay, mác búp đa
Khởi đầu những bản hùng ca lẫy lừng.
Thô sơ, gian khổ đã từng
Chính quy, hiện đại, không ngừng tiến lên.
macbupda
Trung tá
*
Bài viết: 11970


Lính của PTL


« Trả lời #45 vào lúc: 21 Tháng Tư, 2022, 10:25:44 am »

Đến đầu tháng 5 năm 1975, Trung đoàn 95 cơ động về đóng quân ở thành Tuy Hạ, huyện Nhơn Trạch, tỉnh Long Thành vùng ven Sài Gòn. Tôi được tăng cường cho ban tham mưu giúp tiểu ban tác huấn xây dựng kế hoạch huấn luyện và tham gia xây dựng cơ sở, củng cố chính quyền vùng mới giải phóng. Tháng 9 năm 1975, Trung đoàn 95 được tuyên dương danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân vì thành tích xuất sắc 9 năm chống Pháp và 21 năm kháng chiến chống Mỹ, cứu nước.

Tháng 11 năm 1975 tôi được thăng quân hàm đại úy, tiếp tục công tác ở tiểu ban tác huấn, ban tham mưu trung đoàn chỉ đạo Tiểu đoàn 5 cơ động về căn cứ Vạn Kiếp, Bà Rịa - Vũng Tàu làm đội mẫu cho lớp tập huấn điều lệnh đầu tiên của Bộ cho các lực lượng từ miền Trung đến đồng bằng sông Cửu Long.

Tại đây, tôi gặp lại Nguyễn Ngọc Hùng, y tá của Tiểu đoàn 1-R20 Quảng Đà sau 10 năm xa cách (1965-1975). Trong thời gian tôi mải mê đi khắp các chiến trường, Ngọc Hùng bị địch bắt vào Xuân Mậu Thân 1968 và đày ra Côn Đảo, năm 1973 mới được trao trả, về lại tỉnh Quảng Đà tiếp tục tham gia chiến đấu. Hôm gặp lại, chúng tôi cùng nhau xem bộ phim “Người dân quê tôi” trên màn ảnh rộng, có nói về khẩu đội cối 81 ly của tôi thời đánh trận Văn Quật năm 1965, thấy hình ảnh của Huy Sô, Lê Vĩnh An, Trà Thanh Lân... phấn khởi quá, chúng tôi ôm chầm lấy nhau mà hát làm cho mọi người xung quanh cũng vui lây.

Trong thời gian ở gần nhau, hàng ngày sau giờ ăn cơm chiều, chúng tôi rảo bước quanh doanh trại rồi ghé lại quán nước bên đường bữa thì con mực, lúc thì lon đậu phụng với một chai lave (loại con cọp) sau 30 tháng 4 năm 1975 còn lại hai đứa kể cho nhau nghe chuyện chiến đấu thời R20. Chuyện quê hương sau cùng là tình yêu đôi lứa, tôi kể về Nhung, Ngọc Hùng kể về Sắt (vợ của Ngọc Hùng bây giờ) cứ râm ran cho đến kẻng báo đi ngủ hai đứa mới chịu rời nhau về chỗ nằm...

Kết thúc lớp tập huấn, tôi được sư đoàn cho nghỉ phép theo xe của Sư đoàn trưởng Phạm Minh Tâm, vừa vào đến sở chỉ huy sư đoàn đóng tại căn cứ Nước Trong (nay là Trường sĩ quan Lục quân 2), Phó Chính ủy Quách Hồ bắt tay tôi nói rằng: “Sắp làm rể ông Tâm mà mình nghĩ là cậu chờ khi ra Hà Bắc. Bây giờ nghĩ lại mà thương Hùng, mình cứ ngỡ là thật, ngờ đâu họ đặt chuyện làm cho anh em ta hiểu sai, thông cảm nhé!”. Nhân thể tôi cũng vui theo: “Vì thế mà thủ trưởng giữ quân hàm trung úy của tôi mãi đến tháng 7 năm 1972 mới trao...”.

Thấy tôi và Phó Chính ủy nói chuyện, Sư đoàn trưởng không hiểu đầu đuôi, ông cũng tham gia: “Thằng này cừ lắm, bản lĩnh lắm! Đến bây giờ mà vẫn chưa nghĩ đến việc lấy vợ...” rồi cùng ra xe. Từ Long Thành chiếc P0 - chiến lợi phẩm, màu vàng đưa chúng tôi đi hết dải đất miền Đông Nam Bộ ra miền Trung. Khi chạy qua Phan Rang, Phan Thiết đến Khánh Hòa thì dừng bên đường nghỉ để nấu cơm ăn tối (hồi đó tất cả đều chuẩn bị tới đâu nấu ăn ở đó)...

Nồi cơm “dã ngoại” vừa sôi, thức ăn cũng đã chuẩn bị bên bếp, tôi còn miên man suy nghĩ giữa sóng biển rì rào, phi lao vi vu trong gió, khung cảnh giống quê tôi quá. Không biết giờ này Nhung đang làm gì? Nhớ quá Nhung ơi!.

Nhớ bến nước, bờ ao, những con đường quen thuộc ngày ngày dẫn ra bãi biển. Nhớ những đêm bắt còng, u mọi, những buổi chiều tấp nập ghe thuyền. Nhớ cả những người đổi ổi, bánh sắn, nhớ những lần đi quơ lá bị gai cào, cơm nấu chưa sôi đã bị tắt lửa. Nhớ mẹ, nhớ cha, nhớ anh, chị, em... tất cả đều không thể mờ đi trong tâm trí. Rồi gì nữa Nhung ơi? Những đêm trăng chắc bọn mình chẳng thiếu trong đoàn đi “cổ động” khắp thôn. Rồi có lúc ôm đầu nằm sát bên nhau vì pháo địch, khi tỉnh dậy mới thấy thẹn, phải vụt chạy đi cho “người ta” không thấy cái mặt ngượng ngùng. Cái ngày âu thơ thế là đã hết ư? Không, anh còn nhớ những chiều chúng mình đi trồng dứa, đi đào hầm công cộng dọc lộ 6 và quanh đường làng của mình. Nhớ hôm anh nói câu gì? Anh không nhớ... còn em chắc chẳng thể quên...

Nhung ơi! cả một chuỗi ngày như vậy, cả một ký ức xa xưa đẹp thế làm sao khỏi có những phút giây xao xuyến hả em? Anh đang nấu cơm trên đường về bên bãi biển Nha Trang đây, nhớ và nhớ nhiều.
Logged

Tự hào thay, mác búp đa
Khởi đầu những bản hùng ca lẫy lừng.
Thô sơ, gian khổ đã từng
Chính quy, hiện đại, không ngừng tiến lên.
macbupda
Trung tá
*
Bài viết: 11970


Lính của PTL


« Trả lời #46 vào lúc: 21 Tháng Tư, 2022, 10:27:08 am »

Vừa mông lung, suýt nữa cái mở hộp làm mất ngón tay, đồng chí lái xe bảo: “ơi, anh Hùng hộp thịt bị...bị... kìa”. Tôi bừng tỉnh cùng lúc Sư đoàn trưởng giục mọi người ăn cơm và lên đường. “Ăn xong, nghỉ 15 phút rồi ta đi trong đêm cho mát, Hùng tỉnh ngủ với lái xe nghe!”. “Dạ”.

Lên đường, đêm miền Trung sau ngày giải phóng hình như dài thêm ra, xe chạy mà tôi cứ miên man, lần này gặp Nhung thì kể chuyện chi dây? Không nhớ rõ tôi đã viết cho em bao nhiêu cánh thư nhưng mạch nguồn tâm tình gửi trao cho nhau thì còn mãi thấm đượm trong hồn mỗi khi lần giở trang nhật ký đã ố vàng...

Sáng thứ 2 thì từ quốc lộ 1A rẽ phải theo đường Vĩnh Điện - Hội An đến ngã ba Lai Nghi rồi qua cầu Nghĩa Tự thì xe bị banh do cầu đã bị đánh sụp trước giải phóng, nước biển tràn vào ngập xe không qua được. Bà con chòm xóm quanh cầu chưa biết chúng tôi là ai; cả làng, trai, gái, trẻ già người vác ván, người mang cuốc, xẻng và dây kéo lưới... hì hục kéo giúp sau gần 30 phút thì xe lên khỏi cầu, gặp ngay anh trai tôi từ Ủy ban xã nghe ồn ào chạy ra, tôi giới thiệu với Sư đoàn trưởng rồi cùng đi về nhà.

Nói là nhà nhưng xung quanh vách lợp tôn với khung cột sắt, sau giải phóng mẹ và hai em lánh nạn ngoài Mỹ Khê, Đà Nẵng về nhờ anh em du kích làm tạm bên cạnh Ủy ban nhân dân xã để an hưởng tuổi già... Tôi mời Sư đoàn trưởng ở lại ăn cơm tối rồi nhờ anh tôi dẫn đường để ông về Điện Ngọc thăm quê (lúc này vợ và các con của ông đang ở Hải Phòng chưa vào).

Sư đoàn trưởng vừa ăn vừa nói chuyện với anh tôi: “Hùng chiến đấu gan dạ lắm nhưng hỏi chuyện vợ con thì không chịu, lần này về anh và bà kiếm chỗ rồi báo chúng tôi về dự...!”. Cả nhà cười, Tám và Chín thì quanh quẩn bên chiếc P0 một lúc mới chạy vào hỏi quà, tôi chỉ trong ba lô, hai chị em lục tìm chẳng thấy gì rồi lại chạy đi chơi...

Thú thực, sau giải phóng, trong túi của tôi còn 20 đồng tiền miền Bắc mang vào, mọi người kháo nhau đi đổi để mua quà. Tôi chần chừ giữ lại 10 đồng làm lưu niệm, còn 10 đồng đổi vừa đủ mua cho mẹ tôi 1 cái áo len; Tám, Chín mỗi đứa một gói kẹo là hết. Riêng anh em tiểu ban tác huấn dồn lại cũng chỉ đủ mua mấy thứ lặt vặt xà phòng, kem bót đánh răng, đâu có hợp với hai đứa.

Tất nhiên, trong thời gian 15 ngày nghỉ của cái phép giải phóng, anh em chúng tôi cũng dễ hiểu bộ đội giải phóng làm gì có tiền mà đòi hỏi quà cáp. Hai em đưa tôi đi thăm bà con làng xóm cứ tung tăng nắm tay tôi: “Chạy đến nhà chị Nhung đi anh Sáu!”. Chiều lòng hai em, từ thôn 4 đưa chân lên thôn 5, những ngày chưa đi bộ đội, tôi cũng ở đó, sau giải phóng mẹ tôi theo anh trai về thôn 4 (ủy ban xã đi đâu, anh tôi đưa mẹ theo đó).

Thời gian nghỉ 15 ngày cũng chưa đủ để chúng tôi nói nhiều và có lẽ như là sự sắp đặt của tạo hóa khi em và tôi cùng sinh ra và lớn lên trên mảnh đất quê hương đẫm đầy yêu thương mà anh dũng. Khi tôi bước vào tuổi thanh niên trên đường tranh đấu thì em ở quê nhà còn xuân xanh thiếu nữ, rồi cũng đứng vào đội ngũ giải phóng quân. Hai khoảng trời nhớ thương, dệt nên bao kỷ niệm thời niên thiếu đã gắn kết tình tôi và em suốt một quãng đời dài, ươm mầm tình yêu đôi lứa rồi mai đây sẽ có thể xây nên căn nhà hạnh phúc của ngày đầu quê hương giải phóng.

Tôi trở lại đơn vị, như công việc thường ngày của người sĩ quan trẻ được trung đoàn giao đi cùng Tiểu đoàn 5 xuổng ấp Thị Cầu (nơi đây hầu hết là dân di cư trước và sau năm 1954), vẫn còn canh cánh sự “trả thù”. Thấy chúng tôi đến, họ lánh mặt. Tôi và cơ quan chính trị trung đoàn chỉ đạo cho Tiểu đoàn 5 đóng quân quanh khu nhà thờ, dựa vào rừng cây ven làng mắc võng căng tăng, kể cả bếp nấu ăn cũng ở ngoài nhà dân rồi chia nhau từng tổ, đi tay không vào nhà dân, thấy bẩn thì quét, thấy nước hết thì gánh, thấy trẻ con thì vui đùa, tắm giặt cho các cháu. Cứ như vậy sau một tuần, bà con giáo dân mời chúng tôi vào nhà ở và tiếp đón thịnh soạn. Vị linh mục tại nhà thờ Thị Cầu, quê chính gốc Bắc Ninh phân bua:

“Bà con giáo dân cứ âm ỉ khi quân giải phóng đánh vào Nhơn Trạch rồi xuổng Cát Lái sang nội đô Sài Gòn. Lúc bọn tàn quân ngụy bỏ chạy qua đây, dặn vợ con chưa di tản được chớ có nghe theo cộng sản chúng “rút” móng tay và “hãm hiếp” phụ nữ v...v... Cho nên khi bộ đội giải phóng đến bà con e ngại, nay thì hiểu rồi, các ông cứ ở với bà con cho vui...”.
Logged

Tự hào thay, mác búp đa
Khởi đầu những bản hùng ca lẫy lừng.
Thô sơ, gian khổ đã từng
Chính quy, hiện đại, không ngừng tiến lên.
macbupda
Trung tá
*
Bài viết: 11970


Lính của PTL


« Trả lời #47 vào lúc: 21 Tháng Tư, 2022, 10:28:46 am »

Quán triệt sâu sắc yêu cầu của Đảng ủy trung đoàn phải làm tròn nhiệm vụ của anh Bộ đội Cụ Hồ là: Không ngừng nâng cao trình độ giác ngộ chính trị và tinh thần cảnh giác cách mạng kể cả với kẻ thù bằng xương bằng thịt và những “viên đạn bọc đường” thường xuất hiện sau từng cuộc chiến.

Từ ấp Thị Cầu, tôi theo 15 đội và hơn 20 tổ công tác trực tiếp xuống 50 ấp thuộc 13 xã trong huyện Nhơn Trạch, trại cải huấn và sở cao su cùng với chính quyền giải quyết các ổ nhóm phản động và lực lượng chống đối. Cùng với 80 cán bộ trung cấp, sơ cấp tăng cường cho chính quyền địa phương tham gia ổn định và tổ chức lại hoạt động trong một số ngành sản xuất dịch vụ.

Nhờ làm tốt công tác vận động quần chúng, được sự hỗ trợ của chính quyền nhân dân huyện Nhơn Trạch, từ tháng 5 năm 1975 đến tháng 3 năm 1976, Trung đoàn 95 truy quét và bắt hơn 100 tên chống đối không chịu ra đầu thú, thu hơn 400 súng các loại, đồng thời cùng nhân dân vận động hơn 100 người từng cầm súng cho địch trước đây trở về với gia đình, với đời sống cộng đồng. Ngoài ra còn quản lý một địa bàn có tới 24.000 binh lính, nhân viên quân đội, chính quyền Sài Gòn trước đây đang tập trung cải tạo tại chỗ, hướng dẫn phương pháp vận động để đồng bào tìm gọi được hơn 400 người thân trở về trình diện, thanh lọc 100 tên tề điệp cũ lợi dụng trà trộn vào chính quyền đoàn thể cách mạng.

Bên cạnh sàng lọc phân loại kẻ địch, xây dựng sự bình yên cho nhân dân, trung đoàn đã tổ chức bồi dưỡng cho gần 400 cán bộ chính quyền thôn ấp, gần 100 cán bộ đoàn thể, 20 cán bộ quân sự và huấn luyện cho hơn 500 du kích làm nòng cốt bảo vệ chính quyền, mở 20 lớp “bình dân học vụ” xóa mù cho hơn 300 người thất học dưới chế độ cũ và thành lập các đội văn nghệ quần chúng, dạy múa hát, kết nghĩa với đoàn thanh niên ở địa phương đem lại cuộc sống vui tươi lành mạnh cho từng nhà và lối xóm. Ám ảnh về “một cuộc tắm máu” do bọn địch xuyên tạc đã nhường lại sự yên ả bình yên, hòa hợp cộng đồng.

Ngày 8 tháng 4 năm 1976, tôi được bổ nhiệm Trung đoàn phó Trung đoàn 95 anh hùng khi tròn tuổi 26. Đồng thời cũng nhận thông báo chuẩn bị đi bổ túc lớp cán bộ chỉ huy tham mưu cấp trung đoàn tại Học viện Lục quân Đà Lạt, mọi việc phải hoàn tất để ngày 1 tháng 7 năm 1976 khai giảng.

Tôi nhẩm tính từ hôm nay đến lúc vào trường còn gần 4 tháng, nên tôi mạnh dạn đề xuất với tiểu ban cán bộ trung đoàn: “Tôi chưa có gì phải bàn giao, nên công tác chuẩn bị cũng thuận lợi. Nhân dịp này để nghị trung đoàn cho tôi về lo việc gia đình rồi vào trường nhập học luôn”.

Ngày hôm sau, anh Thọ - Chính ủy trung đoàn gọi tôi lên và trao đổi: “Chờ anh Đắc - Trung đoàn trưởng mới về liên hoan chia tay anh Đặng Tụ về sư đoàn rồi Hùng nghỉ phép trước lúc vào trường. Nhưng trước hết là phải báo cáo lai lịch của người vợ sắp cưới đã chứ?...”. “Vâng ạ”. Vì quá mừng mà tôi quên mất các thủ tục quy định của cấp trên, mấy ngày hôm sau tôi điện cho anh trai ở quê nhà thăm dò gia đình Nhung và gửi gấp hồ sơ vào đơn vị duyệt...

Đến tháng 5 năm 1976 mọi thủ tục đã hoàn tất và hai gia đình dự kiến ngày tháng để tôi yên tâm lo bề “gia thất”. Từ đó thời gian cảm thấy như kéo dài ra, anh em tiểu ban tác huấn trung đoàn và Tiểu đoàn 5 nơi tôi đã từng gắn bó ngày đêm lo “vẽ” thiệp mời, mua cát sét Sony tặng cho tôi. Riêng tôi thì gia tài chỉ có một chiếc Lam-bét-ta, lúc bấy giờ trên dưới 1 chỉ vàng, thế là mọi việc cũng ổn...

Ngày 20 tháng 6 năm 1976, tôi lên đường về quê bao nhiêu chuyện cứ đến với tôi luôn nghĩ về Nhung, người bạn gắn bó bao kỷ niệm và nhớ nhung như thế nên trải hơn mười năm cầm súng đánh Mỹ trên nhiều chiến trường, tôi vẫn ghi sâu hình bóng của em. Tình yêu theo tôi, nâng cánh ước mơ và tiếp thêm nguồn sinh lực để vượt lên những thử thách, chông gai. Vì vậy, nay nước nhà hòa bình, thống nhất, được trên quan tâm cho tôi trở về quê hương để xây dựng “tổ ấm”. Trong niềm chung vui của bà con nơi chôn nhau cắt rốn, chứng kiến của hai họ và gia tộc Trần - Lê, tôi còn hạnh phúc hơn là được gặp lại mẹ và em. Mối tình duyên trên cát biển quê hương thêm vị mặn cuộc đời và bão táp lịch sử đã vun đắp cho chúng tôi đến với nhau trong hạnh phúc lứa đôi được tổ chức vào ngày 25 tháng 6 năm 1976. Nhưng vì binh nghiệp, tôi lại lên đường, để lại em và mẹ già nơi xóm nhỏ...
Logged

Tự hào thay, mác búp đa
Khởi đầu những bản hùng ca lẫy lừng.
Thô sơ, gian khổ đã từng
Chính quy, hiện đại, không ngừng tiến lên.
macbupda
Trung tá
*
Bài viết: 11970


Lính của PTL


« Trả lời #48 vào lúc: 21 Tháng Tư, 2022, 10:31:07 am »

Chương ba

NHỮNG NĂM THÁNG SAU CHIẾN TRANH

Đà Lạt đến Khe Sanh

Theo quy định học viên có mặt sớm để ổn định biên chế tổ chức và làm công tác chuẩn bị của Học viện Lục quân (địa điểm của trường võ bị Đà Lạt quân đội Sài Gòn, ta tiếp thu), một số thiết bị học tập được chuyển từ Trường Trung cao Hà Nội vào (nay là Học viện Quốc phòng) nên cần có người để sắp xếp và bảo dưỡng.

Thời gian khóa học bắt đầu từ ngày 3 tháng 9 năm 1976 khai giảng và kết thúc vào ngày 7 tháng 7 năm 1977. Tôi được biên chế vào Tiểu đội 11, do đồng chí Trần Văn Thân làm tổ trưởng, lớp K11B, anh Trần Ngọc Nhiên, chủ nhiệm lớp, hệ bổ túc 3... Nội dung học không có gì vất vả vì tôi cũng đã qua chiến đấu cấp tiểu đoàn và đã là Trung đoàn phó (4.1976 - 9.1976). Nhưng cái khó ở đây là lạnh, ngày học đêm phải gác như một người chiến sĩ, mặt khác thực hiện chỉ tiêu tăng gia. Đà Lạt là xứ rau, củ, quả không thiếu như nơi khác. Song học viên là nghĩa vụ mỗi tháng phải nạp 10kg/người.

Tôi có phần được ưu tiên hơn trong thực hiện các chế độ sinh hoạt, vì là hạt nhân văn nghệ và cộng tác viên tờ tin của hệ và nhà trường. Sau một tuần học tập hoặc đợt sát hạch phải có bài đăng tờ tin và có tin phát trên hệ thống truyền thanh của nhà trường, học lực của tôi các môn đều đạt khá trở lên đặc biệt là công tác tham mưu - tác chiến và phương pháp truyền đạt mỗi khi được đóng vai chỉ huy của khung tập, thường là trung đoàn trưởng hoặc trung đoàn phó - tham mưu trưởng đều được thầy giáo cho điểm giỏi.

Đạt được những kết quả học tập trên là nhờ các thầy giáo và trực tiếp là bạn Tiếu - trợ lý tham mưu, quê Điện Ngọc, Tuân - Khoa Hậu phương, quê Thăng Bình, hai bạn lúc nào cũng có mặt khi tôi gặp khó khăn, ngoài ra còn có đội ngũ nhân viên, chiến sĩ phục vụ rất nhiệt tình chu đáo trong đó có chị Phô, quê Quảng Nam làm nuôi quân bếp trung cấp. Chiều thứ 7 hay chủ nhật đều nhường phần cơm và thức ăn cho tôi nhiều hơn. Ngày lễ Tết thường dành phần dưa bồi dưỡng đến tận nơi ở cho cán bộ học viên... Đặc biệt hơn là tình quân dân nơi đây. Xóm Thái Phiên và khu tập thể Lâm viên toàn dân quê Quảng Nam, Quảng Ngãi vào đây trước giải phóng, khi gặp anh em chúng tôi đi mua hoặc xin hoa về cắm ngày lễ hoặc có hội nghị, liên hoan văn nghệ bà con không những không bán mà cho lấy thỏa thích rồi còn “bắt” mỗi tuần một bữa ra chơi ăn cơm với gia đình, tình cảm tha thiết đó cũng là một nguồn động viên cổ vũ chúng tôi học tập tốt hơn...

Thời gian học tại trường có một kỷ niệm mà đến bây giờ tôi không thể nào nguôi. Đó là vào những ngày Tết năm 1976 - 1977, do thời gian học có một năm nên nhà trường không cho đi tranh thủ vì chỉ có 3 ngày Tết sợ vào không kịp học, tôi đã báo cho gia đình và Nhung không về Tết (thư đến nhà, còn Nhung học bổ túc văn hóa tại Hội An không biết tin). Mãi gần 27 Tết thì nhà trường thông báo: “Anh em quê từ Đà Nẵng trở vào được về ăn Tết...” tiện có xe bạn quen của Tuân và Tiếu là Nhung, quê Quảng Ngãi, ngày 28 Tết đưa hoa và rau quả ra Đà Nẵng, cho tôi đi cùng.

Đêm 29 Tết năm đó, vừa về đến nhà cũng là lúc Tuân và Tiếu điện cho tôi: “Nhung đang ở khách sạn Ka-ti-na của học viện... Hùng vào ngay...”. Thế là đêm 30 Tết, sau khi rước ông bà, tôi và Chín - em trai út phóng Honda ra Đà Nẵng để vào Đà Lạt. Chạy ngược chạy xuôi ở bến xe liên tỉnh, chỉ duy nhất còn một chiếc. Nhưng khách chỉ có 1/3 xe nên chủ xe không chạy. Bí kế em tôi lo là không đi được, lục túi trong người chỉ có 20 đồng, Chín đưa thêm 5 đồng mẹ cho mua đồ chơi Tết. Nhưng chủ xe yêu cầu: “Nếu bà con có nhu cầu đi, mỗi người mua 2 vé thì mới đủ tiền xăng dầu...”.

Mọi người lưỡng lự, cùng cảnh xa quê toàn từ ngoài Bắc vào thăm người thân sau giải phóng. Tôi là bộ đội nên mạnh dạn “quân vận”: Thưa bà con, năm hết tết đến, thà ta chịu gấp đôi tiền vé chỉ sau một ngày đêm sẽ vào đến nơi, còn nằm lại giữa bến xe như “màn trời chiếu đất” 2-3 ngày thì còn tốn hơn... Nếu ai đi thì đăng ký để tôi thương lượng với chủ xe... Bà con nghe tôi nói có lý nên cử tôi làm “trưởng đoàn” hành quân. Mỗi người 2 vé – nếu có Honda là 1 vé nữa như vậy tôi phải mất 3 vé bằng 30 đồng trong lúc đó chỉ có 25 đồng. “Tiến thoái lưỡng nan” để xe lại thì gửi cho ai (Chín chưa đi được) mặt khác vào đơn vị lại không có cái để đi mấy ngày Tết... Cuối cùng tôi quyết đi đến Nha Trang, đoạn đường còn lại phóng Honda vượt đèo Xông Pha để kịp gặp em!

Cái tuổi 26 lúc đó sao mà mạnh mẽ vậy? 16 giờ 30 phút ngày mồng Một Tết năm 1977 về đến Đà Lạt, tôi đang thả hồn trên Hồ Xuân Hương để lấy sức thì thấy anh Trần Minh Thiệt và chị Liễu đang rảo bước từ Đồi Cù xuống Thúy Vạ. Thấy tôi đang ngồi, anh chị ngạc nhiên hỏi: “Nhung bọn mình nhờ Tuân và Tiếu đưa ra Thái Phiên nhờ Nhung B chăm sóc chờ mày mồng 3 vào sao đã ở đây? Tôi đáp: “Sức mạnh của trái tim mà anh...!”, “Thôi bọn mình về cho Nhung vui...”.

Ngày mồng 6 Tết em lại về và tôi lại học, suốt 11 tháng miệt mài đèn sách mà vẫn chưa nguôi được nỗi vất vả suốt chặng đường ra vào giữa mùa xuân, để rồi sau đó tôi bị một trận cảm vừa sốt vừa ho mà quân y của nhà trường không tìm ra nguyên nhân... Mãi một hôm Tuân bạn của tôi vừa xuống lớp ghé thăm thấy tôi nằm co ro trong phòng, Tuân gọi Kế (vợ của Tuân) đi tìm lá đưa vào nấu nước xông, 1 nồi, 2 nồi, rồi 3 nồi. Cho đến ngày hôm sau tôi ăn, ngủ được tiếp tục đến lớp, đúng là tình bạn thật nồng thắm và chân thành biết nhường nào, dù đi đâu làm gì tôi vẫn không thể quên cái tình cảm thân thương ấy...

Năm học kết thúc, lý luận khoa học quân sự được hun đúc sau 30 năm cuộc chiến tranh giải phóng dân tộc được Đảng, Bác Hồ dẫn đường chỉ lối để chúng tôi được đào luyện hôm nay, để ngày mai vận dụng vào thực tiễn của người chỉ huy. Nhưng tôi lại đang đứng giữa hai sự lựa chọn: Nhà trường thông báo giữ tôi lại làm giáo viên khoa Tham mưu; một mặt đơn vị đang cần tôi sớm trở về... Vì lúc này ở nhà chỉ có một mình anh Trần Thiện Thuật, Phó Chính ủy; Trung đoàn trưởng và Chính ủy đều đi vắng. Một năm học trôi qua đã giúp tôi trưởng thành cả về lý luận và thực hành đủ để nhận thức sâu sắc nhiệm vụ và chức năng của lực lượng vũ trang, nhưng dù ở đâu cũng là sự phân công của tổ chức, nhưng suy nghĩ của tôi là sau khi tốt nghiệp phải trở về đội ngũ cầm quân chiến đấu, nơi đó có thêm thời gian để vận dụng lý luận vào thực tiễn.
Logged

Tự hào thay, mác búp đa
Khởi đầu những bản hùng ca lẫy lừng.
Thô sơ, gian khổ đã từng
Chính quy, hiện đại, không ngừng tiến lên.
macbupda
Trung tá
*
Bài viết: 11970


Lính của PTL


« Trả lời #49 vào lúc: 21 Tháng Tư, 2022, 10:32:57 am »

Nguyện vọng của tôi được chấp nhận, thay vào đó là đồng chí quê ở gần Đà Lạt. Tôi cảm ơn thầy và nhà trường trải bước dưới màu xanh của núi rừng bốn mùa hoa thơm trái ngọt với tấm bằng đạt loại giỏi sau một năm tập trung trí tuệ vào học tập và tu dưỡng để trở về phục vụ quân đội lâu dài. Ngày 3 tháng 9 năm 1977, khi tuổi đời cũng vừa tròn 27 xuân xanh, tôi tiếp tục đảm nhiệm Trung đoàn phó Trung đoàn 95 Sư Đoàn 325 Quân Đoàn 2. Thời gian này Trung đoàn trưởng, Tham mưu trưởng, Trưởng ban Tác huấn đều đi học, tôi lao vào huấn luyện chiến sĩ mới 3 tháng một khóa. Việc huấn luyện chiến sĩ mới không đáng lo mà cái lo nhất ở đây là sau một năm xa đơn vị, cơ quan biến đổi, cán bộ cơ sở biến động và giữa lúc cả đơn vị đang trải qua một cơn “ác mộng” là tệ quân phiệt nảy nở ở một số cán bộ từ cấp tiểu đoàn trở xuống, tình hình kỷ luật bị buông lỏng, tư tưởng thiếu yên tâm xây dựng đơn vị nảy sinh, đoàn kết nội bộ trên dưới thiếu lòng tin lẫn nhau chủ yếu là năng lực và phương pháp công tác.

“Trăm dâu đổ đầu tằm”. Tôi và anh Thuật, Phó Chính ủy tập trung tìm cách xoay xở, bên cạnh cái chung thì đã đành, cái riêng thì mọi người đang nhìn vào “Ông Trung đoàn phó” vừa ra trường về sẽ làm ăn ra sao đây? Khó thật, bởi từ năm 1968 đến năm 1972 tôi chỉ huy phân đội đâu có phụ thuộc vào cơ quan, nay là chỉ huy trung đoàn thì không thể một mình đương đầu với cái thiếu: năng lực, tác phong, cảm phục đang chờ... Đan xen giữa cái chung và cái riêng, với tư cách là một chỉ huy quân sự khi cấp trưởng và cơ quan tham mưu vắng cán bộ chủ trì, bất chấp “dư luận”, được Phó Chính ủy đồng tình, tôi quyết định triệu tập hội nghị cán bộ khi kết thúc 1/3 tháng huấn luyện để tìm nguyên nhân.

Thực vậy, sau một ngày tranh luận giữa cán bộ các cấp, nhất là cán bộ đại đội và tiểu đoàn đã chỉ ra: Khi đi tuyển quân thường hay về nhà; lúc huấn luyện ít bám bộ đội; cơ sở vật chất giữa các đợt huấn luyện chiến sĩ mới bàn giao cho đơn vị bạn thiếu rõ ràng; chiến sĩ yếu thì ít khuyên giải mà nặng về hình phạt, có trường hợp xúc phạm nặng đến nhân cách quân nhân buộc cơ quan pháp luật cấp trên phải vào cuộc... Nguyên nhân đã rõ, kế hoạch và biện pháp khắc phục cho mỗi cấp được đặt ra, nghị quyết của cấp ủy giám sát chặt chẽ đối với các cấp chỉ huy; giao ước thi đua giữa các đơn vị được kí kết, tình hình đơn vị dần ổn định, sư đoàn, quân đoàn biểu dương.

Tháng 11 năm 1977, Quân đoàn tuyển quân từ Quảng Trị đến Hà Tĩnh - Nghệ An, nơi giàu truyền thống cách mạng, quê hương Xô-viết với tiếng trống năm 30 đã đi vào lịch sử của dân tộc Việt Nam. Tuy tình hình kinh tế còn khó khăn nhưng thanh niên vẫn hăng hái lên đường để về xây dựng Quân đoàn 2 (Binh đoàn Hương Giang) đã một thời “thần tốc, thần tốc hơn nữa, táo bạo, quyết thắng” đánh thẳng vào dinh Độc Lập bắt Dương Văn Minh và nội các Sài Gòn đầu hàng vô điều kiện lúc 11 giờ 30 phút ngày 30 tháng 4 năm 1975 lịch sử.

Tôi được Quân đoàn giao phụ trách đợt tuyển quân này cho cả Quân đoàn. Riêng Trung Đoàn 95 nhận tại các huyện: Vĩnh Linh (Quảng Trị); Lệ Thủy, Đồng Hới, Bố Trạch (Quảng Bình); Kỳ Anh, Cẩm Xuyên, Thạch Hà (Hà Tĩnh); Hương Sơn, Hưng Nguyên (Nghệ An) và Trung đoàn 177 Quân khu 4 với tổng số 1.100 quân với thời gian hơn 20 ngày vừa hành quân, thâm nhập tuyển chọn. Cái khó nhất là có huyện không thực hiện đúng kế hoạch hiệp đồng giao quân, trước khi lên đường không có lương thực, thực phẩm đi cùng bộ đội... Đồng chí Lê Thế Phiệt, Chủ nhiệm Chính trị Trung đoàn cùng quê hương cũng không can thiệp được. Tôi từ Lệ Thủy - Quảng Bình phải ra “đàm đạo” với cấp ủy, chính quyền mà trực tiếp là huyện đội.

Tại một cuộc họp với lãnh đạo, chính quyền địa phương, tôi đã kiên trì phân tích rõ chức năng nhiệm vụ của các bên hữu quan trong công tác tuyển quân, nên khi ra khỏi hội trường, đồng chí Bí thư Huyện ủy cầm tay tôi phân bua: - Việc này địa phương chúng tôi sẽ rút kinh nghiệm, bây giờ anh nán lại vài tiếng đồng hồ để cho bên cửa hàng lương thực họ làm thủ tục vận chuyển ra xe cho bộ đội rồi đi cũng chưa muộn... Tôi cười và siết chặt tay ông mà lòng vơi đi bao nỗi nhọc nhằn.

Từ kinh nghiệm tuyển quân đến ngày 28, 29 tháng 11 năm 1977, Quân đoàn tổ chức rút kinh nghiệm tại Sư đoàn 304 đóng quân trên địa bàn Đà Nẵng và đi thực tế để thăm quan các đơn vị của Quân khu 5, Quân khu 4, những vấn đề cốt lõi được rút ra để nâng cao chất lượng tuyển quân huấn luyện chiến sĩ mới là:

- Quán triệt phương châm, nội dung, yêu cầu, tiêu chuẩn, phương pháp...

- Nhiệm vụ cụ thể các ngành các cấp giữa địa phương và đơn vị...

- Trách nhiệm của đội ngũ cán bộ trực tiếp tuyển quân và huấn luyện...

- Tổ chức rút kinh nghiệm chặt chẽ, chỉ đạo kịp thời dứt điểm khâu yếu mặt yếu một cách thường xuyên và thành nền nếp...

Vì lẽ đó, trung đoàn tổ chức hội nghị rút kinh nghiệm 1 năm (10.1976 - 10.1977) với 3 khoá huấn luyện, mỗi khoá 16 đại đội mà tỷ lệ đạt thấp so với yêu cầu, chỉ đến khoá thứ 3 năm 1978 mới có 16 đại đội huấn luyện bắn đạn thật AK bài 1 đạt loại giỏi, bài 2 đạt loại khá... Đó là kết quả của sự lãnh đạo tập trung thống nhất của Đảng ủy các cấp, vai trò trách nhiệm của cán bộ làm công tác huấn luyện và vai trò làm chủ của quần chúng (chiến sĩ mới) được phát huy. Từ kết quả trên, tôi rút ra một điều là: khiêm tốn, giản dị, đoàn kết, dân chủ, kỷ luật, kiên quyết và chắc thắng luôn luôn là bản lĩnh, phương pháp, hành động của người cầm quân.

Trước yêu cầu nhiệm vụ mới, tháng 10 năm 1978 trung đoàn kiện toàn biên chế tổ chức đủ 3 tiểu đoàn bộ binh 4, 5 và 6, giải thể tiểu đoàn huấn luyện chiến sĩ mới để thành lập 8 đại đội trực thuộc; đồng thời di chuyển vị trí đóng quân từ sân bay Sa Mưu lên Khe Sanh, huyện Hướng Hoá, tỉnh Quảng Trị bằng một cuộc hành quân rèn luyện tổng hợp, vượt sông Rào Quán giữa mùa mưa lũ. Được đồng bào Vân Kiều ở các bản làng giúp đỡ, hướng dẫn bộ đội băng qua các nhịp cầu treo do bà con tự làm mất hai ngày đêm ròng rã, nhưng người, vũ khí trang bị an toàn hoàn thành nhiệm vụ hành quân diễn tập theo đúng kế hoạch.

Cuộc diễn tập vừa kết thúc, ban chỉ huy Trung đoàn 95 cũng được củng cố: Trung đoàn trưởng Nguyễn Văn Miên và Chính ủy Nguyễn Văn Thái được điều từ cơ quan Quân đoàn xuống để chuẩn bị cho cuộc hành quân làm nhiệm vụ chiến đấu ở mặt trận Tây Nam. Ngày 1 tháng 12 năm 1978, tôi được thăng quân hàm thiếu tá.
Logged

Tự hào thay, mác búp đa
Khởi đầu những bản hùng ca lẫy lừng.
Thô sơ, gian khổ đã từng
Chính quy, hiện đại, không ngừng tiến lên.
Trang: « 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 »   Lên
  In  
 
Chuyển tới:  

Powered by MySQL Powered by PHP Powered by SMF 1.1.21 | SMF © 2006-2008, Simple Machines

Valid XHTML 1.0! Valid CSS! Dilber MC Theme by HarzeM