Lịch sử Quân sự Việt Nam
Tin tức: Lịch sử quân sự Việt Nam
 
*
Chào Khách. Bạn có thể đăng nhập hoặc đăng ký. 29 Tháng Ba, 2024, 05:35:10 pm


Đăng nhập với Tên truy nhập, Mật khẩu và thời gian tự động thoát


Trang: « 1 2 3 4 5 6 7 8 9 »   Xuống
  In  
Tác giả Chủ đề: Liên khu II những ngày đầu Thủ đô kháng chiến  (Đọc 3039 lần)
0 Thành viên và 1 Khách đang xem chủ đề.
vnmilitaryhistory
Moderator
*
Bài viết: 1830



« Trả lời #70 vào lúc: 25 Tháng Năm, 2022, 06:53:29 am »

2. Nhập cuộc!

Tôi không nhớ rõ hai bên "cầm cự" nhau như vậy đã được mấy ngày, thì xảy ra việc anh Đức "đồ tể" tổ chức một trận đánh "tự mình chỉ huy", tay vo xông lên cướp trắng khẩu trung liên trong tay quân thù, giữa ban ngày ban mặt.


Điều đó diễn ra vào một buổi sáng mưa bụi dày trời. Có lẽ bọn địch muốn lợi dụng màn mưa, mò xuống tìm hiểu quân ta, nên đã cử một tên Xê-nê-ga-le vác khau trung liên lẻn xuống, leo lên, nằm trên mặt ụ. Đáng tiêc, tổ vọng tiêu của chúng tôi ở trên nóc nhà lơ Vũ Tạo đã không phát hiện kịp thời. Tên lính da đen đặt khẩu súng lên nóc ụ và đàng hoàng nằm xả từng loạt đạn dài xuống suốt chiều dọc của dãy phố Bạch Mai.


Nghe thấy tiếng trung liên nổ xé tai ở ngay ngoài cửa, chúng tôi ai nấy bật dậy nhào vội đến vị trí chiến đấu của mình.

Tiếng tiểu đội trưởng Viết hét:

- Tất cả... lên đạn, mã tấu cầm tay... chờ lệnh!

Tôi hé rộng khe cửa, vươn đầu qua bao cát nhòm lên nóc ụ nơi có tiếng trung liên đang réo lên liên hồi dưới màn mưa mù mịt. Ánh lửa đầu nòng của khẩu trung liên cứ leo léo nom thật tức mắt. Còn chưa biết nếp tẻ ra sao thì đã có tiếng đồng chí nào đó thì thào: "Chỉ có hỏa lực của mỗi khẩu trung liên thôi, sợ cóc khô gì!", tôi định góp lời thì đã thấy tiểu đội trưởng xua tay suỵt một tiếng ra hiệu cho mọi người im lặng, hình như anh đã phát hiện thấy điều gì lạ. Và rồi, rất nhanh anh nhoài sang gạt chốt cửa ra vào, quát:

- Ai, đứng lại!

Chúng tôi giật mình nhìn ra! Trời đất ơi, anh Đức "đồ tể"! Chẳng biết anh chui ra từ lỗ nào, đang nhẹ nhàng lướt qua ngoài cửa. Không hề tỏ ra kinh hãi gì tiếng quát của tiểu đội trưởng Viết, Đức chỉ đưa bàn tay trái ra sau lưng khẽ vẫy vẫy, ra ý nhắc chúng tôi đừng làm ồn, còn chân vẫn cứ rảo bước tiến thắng vào chân ụ, chẳng hề quan tâm tiếng nổ đầu nòng và luồng đạn của khẩu trung liên đang rít gió trên đầu!


Trong tình huống bất ngờ đó, chúng tôi bỗng quên mất rằng nơi đây là trận địa và quân thù đang nổ súng ngay trước mặt chúng tôi, với khoảng cách chưa đầy 20 thước. Cậu Cát lên tiếng trước giọng cay cú:

- Cái thằng "tứ cô vô thân" ấy nó định giờ trò gì ấy nhỉ?

Tiểu đội phó Mão thì nói với vẻ hoài nghi đầy thán phục:

- Kiểu kia, không biết chừng "ông ấy" muốn xơi tái thằng tây đen trên nóc ụ ấy chứ lỵ!

Trong khi đó thì Đức vẫn hệt như một người mất trí. Anh cứ đàng hoàng thẳng đầu rảo bước, không hề có ý tránh né cái luồng đạn quái ác kia!... Đột nhiên tôi chợt nhận ra: ụ súng quá cao mà khẩu trung liên lại có hai càng phải được chống xuống chỗ bằng phẳng. Chính do đặc điểm cấu tạo của khẩu súng đã bắt buộc tên lính phải nằm hơi sâu vào phía trong bờ ụ. Vì vậy mà "góc khuất" chân ụ phía bên ta đã "bị" kéo dài thêm ra, khiến cho ngẫu nhiên Đức được "ăn may!"


Đến chân ụ, Đức víu tay bám sườn bò lên lưng chừng ụ. Nhưng mỗi lần buông tay víu, định đứng lên với chiếc nòng khẩu trung liên đang tóe lửa thì đều bị trượt chân tụt trở lại chân ụ! Anh đứng lặng suy nghĩ, rồi đột nhiên bằng một cử chỉ quả quyết, anh vung cánh tay mạnh mẽ của mình cắm phập con dao bầu vào thành ụ, rồi nhanh nhẹn bò tới, dẫm một chân lên cán dao, thu mình ngồi chồm hỗm, rút chiếc khăn mặt bọc dao gài thắt lưng ra quấn vào bàn tay phải. Xong xuôi, anh vươn tay trái bám lấy thành ụ, ngước mắt lên chờ! Thái độ của anh lúc này khác hẳn lúc nãy, có vẻ ung dung bình tĩnh hoàn toàn không có sự hấp tấp vội vàng. Đúng lúc ấy, ánh lửa miệng nòng của khẩu trung liên ngừng nhấp nháy! Tôi thấy Đức đứng vụt dậy vươn tay phải tóm chặt lấy nó cùng với một tiếng thét dữ dội! Và... chưa kịp chớp mắt đã thấy Đức cùng khẩu trung liên văng xuống mặt đường. Dường như không biết đau, anh vùng ngay dậy xách súng vào sâu trong vỉa hè bên số lẻ, co chân chạy thục mạng, chốc chốc lại nhảy dựng lên huơ cao khẩu súng thét vang trời.

- Ông hè được súng của mày rồi, Tây ơi!...

Người chỉ huy trưởng mặt trận Ô Cầu Dền khi ấy là tiểu đoàn trưởng Quang Tuần. Đón nhận khẩu "ép em" (F.M) nước mạ còn xanh bóng từ tay Đức mang nộp, ông thực sự xúc động nói:

- Đồng chí thật giỏi, dũng cảm vô cùng! Đồng chí ở đơn vị nào?

- Báo cáo thượng cấp, em ở đơn vị... một mình ạ!

- Sao? Tức là tự vệ khu phố hả?

- Báo cáo thượng cấp, không ạ!

Tiểu đoàn trưởng hơi sửng sốt, lặng thinh giây lát rồi nhẹ nhàng đặt tay lên vai Đức, ân cần nói:

- Vậy thì thế này: Từ hôm nay tôi cử đồng chí chỉ huy 10 anh em đánh thực dân xâm lược Pháp. Nghĩa là làm tiểu đội trưởng. Đồng chí có thích không?

- Báo cáo thượng cấp, em... không ạ!

Không giấu được nỗi ngạc nhiên, tiểu đoàn trưởng "a" lên một tiếng hỏi lại:

- Vậy thì đồng chí thích gì nào?

- Báo cáo thượng cấp, em thích... kiếm đâu được chục quả lựu đạn nổ thật ác, hễ tương quả nào vào bọn lõ là cấm xịt. Vậy thôi ạ!...

Tiểu đoàn trưởng Quang Tuần khẽ gật đầu, anh quay lại bàn làm việc, nói với người lính trẻ quân phục rất chỉnh tề, vai khoác khẩu Xì-ten:

- Đồng chí sang bảo quân khí mở hòm lựu đạn Mỹ mà ta vừa thu được tối qua, mang ngay cho tôi ba quả!... À mà này bốn quả cũng được! Rõ chưa?
Logged
vnmilitaryhistory
Moderator
*
Bài viết: 1830



« Trả lời #71 vào lúc: 25 Tháng Năm, 2022, 06:54:26 am »

3. Trận đánh không rõ tên

Ngay chiều hôm ấy, chúng tôi đã thấy Đức thò đầu vào lỗ tường "giao thông" hỏi bâng quơ.

- Có "tên tiểu yêu" nào ngứa ngáy chân tay không hở?

Chúng tôi không ai trả lời câu hỏi, mà chỉ rối rít gọi anh vào, bắt anh phải kể lại cho nghe về cuộc "giao nộp vũ khí" hồi sáng. Anh lắc đầu gạt đi: "Chuyện mọn, bàn tán làm gì!". Tôi lập tức tranh thủ hỏi anh cái điều tôi đang thắc mắc:

- Thế còn cái việc hồi sáng ở lưng chừng ụ, sao mà anh cứ ngồi như phỗng mãi mà không chịu hạ thủ ngay là vì cớ gì?

Anh cau mặt gắt:

- Thì cũng phải chờ chứ.

- Chờ ai hở anh?

- Lại còn thế nữa!.... Đã là vệ quốc chính hiệu "bà lang trọc" mà còn không biết cái sự bắn súng à?... Tức là khi nổ súng thì tức là lúc thằng bắn phải ghì tay thật chắc vào cái báng súng! Mà bọn lõ thì đứa nào cũng như trâu đực cả. Phải chờ lúc nó ngơi tay thì mới chơi được chứ, hiểu không? Thế nào? Có tiểu yêu nào ngứa ngáy chân tay không, hở?

Tiểu đội trưởng Viết ôn tồn giải thích cho anh rõ vì sao chúng tôi không được phép tùy tiện hành động. Anh phẩy tay cười nhạt:

- Tức là không "xừ" nào dám chơi chứ gì? Được thôi, "đơn thương, độc mã" chơi nhau với bọn lõ, thằng này đâu có ngán!

Dứt lời, anh ngoắt người chui qua lỗ hổng. Nhưng rồi bỗng thấy anh rụt chân quay đầu lại, hất hàm:

- Tên nào dư dật cho vay dăm tạc đạn - "ga lăng tì" không thèm quỵt!

Viết thay mặt chúng tôi, tạ trỏ tay vào thắt lưng của mình:

- "Lọ mực" hả?

Đức ưỡn bụng phơi rõ bốn quả lựu đạn mỏ vịt hình trái na sơn hình lá cây, cài rất chững trên chiếc thắt lung lụa đỏ, nói:

- Không có "hãng" này à?

- Của ấy thì ông phải sang bên kia vay chúng nó.

Đức bĩu môi:

- Chả phải thách! Tao chấp cả lò bọn lõ đấy!

Khác với hồi sáng, lúc này mưa đã tạnh. Trời quang quẻ, hai phía trận tuyến nhìn sang nhau rõ mồn một. Chúng tôi thấy Đức đứng chờn vờn ở cửa, đầu hơi nghiêng nghiêng như đang chăm chú lắng nghe cái âm thanh nào đó! Thế rồi, bất thình lình, chỉ bằng ba bước chân anh đã vọt qua vỉa hè lẫn đường tầu điện, rồi lao như bay sang phía hè bên số lẻ, tựa áp ngay lưng vào cửa hàng tạp hóa của nhà bà Cả Chẩn, nheo mắt hướng về phía chúng tôi, đưa ngón tay cái lên mũi, bốn ngón còn lại khẽ vẫy vẫy và toét miệng ra cười! - (Chao ơi, quen biết anh kể đã hàng chục năm ròng, vậy mà, cho đến hôm nay tôi mới được nhìn thấy anh cười, cái cười lại nó ra cùng một lúc với năm ngón tay làm hiệu trêu chọc chúng tôi, sao mà nó tình đến thế?... Sao mà nó xa lạ với cái anh Đức "đồ tể" của quá khứ đến thế? Thì ra khi con người ta không còn phải lo kiếm miếng cơm hàng ngày đổ vào mồm và được sống trong không khí bình đẳng và thân ái, thì người ta ai cũng có thể cười được lắm chứ!).


Đức mang theo cả nét cười cùng năm ngón tay giễu cợt ấy lẩn nhanh vào bên trong cánh cửa. Và chỉ dăm phút sau, tổ vọng tiêu của chúng tôi đã phát hiện ra anh đang ào ào lội qua khúc sông Tô Lịch ở ngay đoạn đầu của con đê Bành Lao (đầu đường Trần Khát Chân hiện nay). Bọn lính gác trên nóc bốt cảnh sát ở góc đường Huế - Đại Cồ Việt cũng như bọn ở trên gác nhà sữa Minh Ngọc đều không phát hiện ra Đức. Chúng vẫn nổ súng vu vơ! Có lẽ bọn chúng đã quá chủ quan, không thể ngờ được rằng ngay giữa ban ngày ban mặt mà lại có "Việt Minh" mò đến tận đây để đùa giỡn với tử thần!


Dù có vì nguyên nhân nào thì Đức cũng đã hiển nhiên đang có mặt cách nơi đặt khẩu trọng liên 12 ly 7 của chúng không quá 20 mét, giữa ban ngày mà lại ở ngay chính diện. Từ chân đê Bành Lao, Đúc toài nhanh lên sát mặt đê, ngước mắt ngó sang bờ tường nhà sữa Minh Ngọc. Anh nhớ không sai: cả hai mép góc tường đều có hàng ống máng sứ chạy dọc từ sân thượng xuống tận rãnh nước. Mỗi khúc ống đều được đánh đai sắt ghim vào tường rất chắc. Đức sờ quanh bụng, bốn quả lựu đạn vẫn còn đủ. Anh yên tâm nhổm người lấy đà rồi phóng vút qua mặt đê, bám nhanh cả hai tay vào hàng ống máng phía sau, thoăn thoắt leo lên. Đến đỉnh ống máng, không chần chừ một giây, anh nhún người phóng qua sân thượng rồi áp vội lưng vào bờ tường vọng gác gần kề ngay cái lỗ hổng có nòng khẩu 12 ly 7 chõ ra đang khạc ra từng nhịp nổ chói tai! Trong nhóm xạ thủ trọng liên, có đứa đã phát hiện ra Đức, nó gào toáng lên. Cả bọn rối rít quát tháo nhau và lên đạn súng tiểu liên roàn roạt. Kệ tất cả, Đức rút vội một quả lựu đạn, bóp mỏ vịt rồi đưa vòng an toàn lên răng cắn và giật mạnh! Buông mỏ vịt thấy khói xanh xì ra, Đức yên tâm luồn tay bỏ tọt quả lựu đạn đang xì khói vào trong cái lỗ hổng của bức tường! Bọn xạ thủ rú lên những tiếng rú kinh hoàng rùng rợn bằng cái thứ tiếng rất lạ tai! Đức say máu, anh không thèm áp lưng vào tường nữa, mà quay hắn người, tựa vai sát vào cái nòng nóng bỏng của khẩu 12 ly 7, dùng cả hai bàn tay - tay phải cầm lựu đạn, tay trái rút vòng an toàn - tương thêm ba quả nữa vào góc nhà. Thứ tự nghe đủ 4 tiếng nổ chát chúa, Đức sung sướng nhảy cẫng lên tóm chặt lấy cái nòng trọng liên rồi gò lưng xuống, ra sức kéo. Anh hoàn toàn không biết rằng ngay sau tiếng nổ của quả lựu đạn thứ nhất vừa phát ra, thì khắp cả khu vực trận địa của bọn Pháp đã nháo cả lên! Tiếng kèn đồng, tiếng còi, tiếng hò hét, tiếng giầy đinh rầm rập chạy! Tiếp đó là tiếng nổ của đủ mọi loại súng và cỡ đạn mà chúng có trong tay!


Và rồi, cái điều xót xa ghê gớm mà không một ai trong tiểu đội chúng tôi đang ở bên này ụ Ô Cầu Dền, căng mắt dõi sang muốn phải chứng kiến, thì nó đã xảy ra!

... Tên lính Pháp với khẩu trung liên nằm gác trên nóc bốt cảnh sát bên kia đường đã phát hiện ra anh.

Lập tức hắn lấy đường ngắm nhằm thắng vào anh và bóp cò... Cả một băng đạn trung liên đã vút tới! Anh chợt sững người rồi chới với ngã nghiêng, một bàn tay vẫn còn nắm chặt nòng khẩu trọng liên 12 ly 7 của quân thù...

Hà Nội, ngày 1/12/1996
NGUYỄN VĂN HỒNG
Logged
vnmilitaryhistory
Moderator
*
Bài viết: 1830



« Trả lời #72 vào lúc: 02 Tháng Sáu, 2022, 07:41:40 pm »

MỘT SỐ GƯƠNG CHIẾN ĐẤU VÀ
PHỤC VỤ CHIẾN ĐẤU CỦA TIỂU ĐOÀN 56


1. Bệnh xá trưởng của tiểu đoàn ta như thế đấy!

Cách ngày 19/12/1946 mấy ngày, tôi từ một đại đội đóng ở Chi Nê được điều về làm cứu thương ở đại đội 4 (tiểu đoàn 56) đang trấn giữ ở Ô Cầu Dền. Tôi rất thích nghiên cứu về y học, vớ được bốn quyển sách dầy cộm bằng tiếng Pháp dạy băng bó, tiêm chủng và chữa nhiều bệnh, coi như cẩm nang, đi đâu nặng đến mấy cũng cố mang theo.


Những ngày đầu kháng chiến toàn quốc, thương binh cũng ít, có người nào thì băng bó và cáng ngay về Bạch Mai, sau này đưa về trạm quân y ở Văn Điển.

Một buổi tối, trên đưa về một lúc năm cô: Nhữ, Thanh, Tâm, Duyên, Quyết và bốn cậu Đắc, Tuyến, Kim, Di và bác Cúc (trạc 40 tuổi), giao cho tôi quản lý. Gay quá! Đông thế này thì lấy gì mà nuôi nhau. Lại còn thương binh nữa. Qua mấy ngày đầu, các cô cậu ấy đều làm việc rất nhiệt tình, lại biết băng bó, biết cả tiêm nữa, chứng tỏ họ đã được huấn luyện trước khi về đây. Tôi thấy nhẹ cả người. Nhà, cửa cơm nước cũng toàn dựa vào dân.


Tiểu đoàn 56 được lệnh rời mặt trận Hà Nội, trở về thị xã Hà Đông. Trạm quân y của tôi cũng chuyển theo về đình La Khê. Thương binh, bệnh binh ùn ùn đưa tới đông tới 30 người. Tôi bỗng nhận được một cái dấu tròn đề chữ Bệnh xá. Thuốc men, bông băng thì ra lĩnh ở Vân Đình, Ba Thá. Nhưng lấy gì nuôi gần 50 người (kể cả nhân viên quân y)? Nhìn con dấu tròn trong tay, tôi nảy ra sáng kiến lên danh sách thương binh, bệnh binh từng đại đội rồi đóng dấu đỏ ký tên bệnh xá trưởng đưa anh Quỳnh, liên lạc viên, đưa đến từng đơn vị đòi sinh hoạt phí.


Các đơn vị có người nằm ở bệnh xá rất sòng phẳng thanh toán nên sức khỏe của toàn bệnh xá được đảm bảo tốt. Chỉ phiền hà dân về chỗ ở và nhân công khi chuyển bệnh xá đi nơi khác mà thôi. Ở đây cũng cần phải ghi công anh Hợi, một mình lo cơm nước đúng giờ, ngon lành cho thương bệnh binh.


Về chuyên môn, tôi không có bằng cấp y tá lại càng không có bằng cấp y sĩ, bác sĩ mà lại phụ trách cả một bệnh xá. Trên đã tín nhiệm giao cho thì phải cố gắng khắc phục khó khăn cùng anh chị em nhân viên hoàn thành tốt. Các anh Phùng Thế Tài và Trần Quân Lập cũng đã hai lần đến thăm hỏi, động viên.


Một hôm, anh Luyến vốn là hải ngoại quân bị một viên đạn tiểu liên của địch bắn cắm sâu vào bụng chân. Người cao to, tính nóng. Tôi định đưa anh lên tuyến trên để mổ lấy đạn cho an toàn nhưng anh không nghe, đòi tôi phải lấy viên đạn ở ngay bệnh xá. Tự xét trình độ chuyên môn thấp, không phải nhiệm vụ phải làm, nhưng trước ông Trương Phi nóng như lửa này, tôi đành nhượng bộ. Có hai ống ête tôi đem phun vào vết thương để gây tê rồi lấy dao rạch sâu lấy ra viên đạn và băng bó. Anh Luyến gói ngay viên đạn nhét vào túi giữ làm kỷ niệm và nói:

- Nợ này phải trả!

Tôi cũng chứng kiến một cảnh đau lòng: Nằm la liệt trước mặt tôi là sáu cán bộ, chiến sĩ bị sốt rét ác tính, tóc rụng, mặt vàng khè chờ chết. Thuốc chữa lại không có.

Tôi tìm sách chữa bệnh của Pháp ra xem. May mắn tôi còn lưu trữ được một số viên ki-na-crin ngoại và một số giấy lọc ngoại. Tôi lấy nước mưa đun lên rồi lọc đi lọc lại tới bốn lần, đổ vào chai, mượn nồi cất rượu để hấp cho sát trùng. Đây là một cách làm thủ công, phản khoa học. Nhưng tình thế quá nguy cấp buộc phải làm, còn nước còn tát. Sau khi tiêm thuốc vào mạch máu, đã cứu sống được 5 người, trong đó có anh Nguyễn Trí Anh nay là thiếu tướng. Chết mất một anh cứu thương vì bệnh quá nặng. Anh còn rất trẻ, đẹp trai. Các cô nhân viên của bệnh xá vô cùng thương tiếc đã khóc suốt buổi.


Năm 1948, bệnh xá chuyển lên Phú Thọ rồi sáp nhập vào Khu 10. Còn tôi rời ngành y nhận công tác khác ở trung đoàn Sông Lô.


NGUYỄN NHƯ NGUYÊN (76 tuổi)
Nguyên bệnh xá trưởng tiểu đoàn 56
Logged
vnmilitaryhistory
Moderator
*
Bài viết: 1830



« Trả lời #73 vào lúc: 02 Tháng Sáu, 2022, 07:42:21 pm »

2. Ký ức về người anh hùng 19 tuổi

Mọi người vẫn quen thuộc với tấm ảnh tư liệu quý, ghi được hình ảnh cách đây nửa thế kỷ: Chiến sĩ ôm bom ba càng trên đường phố chiến lũy Thủ đô. Bên Hồ Gươm thì đã xây dựng nhóm tượng đài "Quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh", anh vệ quốc quân đầu đội mũ ca lô gắn ngôi sao vàng, mặc áo trấn thủ, với trái bom ba càng trong tay hướng về phía quân thù.


Đấy là biểu tượng cho chủ nghĩa anh hùng cách mạng Việt Nam; có bao chiến sĩ ngày ấy đã vô danh!

Đầu xuân 1997 này, Nhà nước nêu danh một số chiến sĩ Vệ quốc đoàn. Trích tin trên báo: "Ngày 18/12 Thành ủy, UBND thành phố và Quân khu Thủ đô đã tổ chức trọng thể lễ truy tặng danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân và huân chương Chiến công hạng nhất cho các liệt sĩ có thành tích xuất sắc trong những ngày đầu Toàn quốc kháng chiến... Cách đây 50 năm, ngày 6/1/1947, với tinh thần "Quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh", tiểu đội trưởng Nguyễn Phúc Lai ôm bom ba càng lao vào diệt xe tăng địch và anh "dũng hy sinh".


Bác Nguyễn Phúc Nghiệp năm nay 74 tuổi, hiện ở khu tập thể quân đội K95, Phúc Xá (Ba Đình, Hà Nội). Một thời bác công tác tại tòa soạn báo Quân đội nhân dân, ngày ngày vẫn đạp xe qua ngôi nhà cũ. Nhớ lại ngày đầu tháng 4/1946, bác cùng hai anh em Thái và Lai, từ đây đã nhảy tàu điện vào Hà Đông đầu quân, thuộc tiểu đoàn 56. Rồi mỗi người một đại đội và chiến đấu ở mặt trận khác nhau, vẫn còn đây cột đèn ở ngã ba giữa phố Hàng Đậu và phố Nguyễn Thiệp, nơi đã bao lần bác cùng Nguyễn Phúc Lai ra đó ngồi học bài vì đèn trong nhà tối quá. Chú út Nguyễn Phúc Lai dáng thanh nhỏ, trắng trẻo hiền lành, rất siêng học, siêng làm. Sau ngày toàn quốc kháng chiến, dẫu biết chú ấy đã hy sinh nhưng bác không biết là hy sinh ở đâu, trong trường hợp nào?


Bác Nguyễn Viết Nhâm, năm nay 70 tuổi, nguyên đại tá, phó tổng biên tập Nhà xuất bản Quân đội nhân dân. Năm 1991 bác về hưu, bị một bệnh hiểm nghèo phải nằm liệt giường, ăn cháo loãng triền miên và đôi mắt cứ mờ dần. Trong những ngày bệnh tật dày vò đau đón, ký ức bác vẫn tươi rói, luôn hiện về hình ảnh những người đồng đội thân yêu của tiểu đoàn 56 Hà Đông. Trận chiến đấu không cân sức ngày ấy, quân Pháp với sự yểm trợ của máy bay, xe tăng, đại bác, đã ồ ạt tiến công trận địa ta ở Ô Chợ Dừa - Giảng Võ. Lúc đó bác là trung đội trưởng trung đội 1 (đại đội 2). Đơn vị đã ngoan cường bẻ gãy mấy đợt tấn công của địch. Nhiều chiến sĩ trong trung đội đã thương vong. Tiểu đội trưởng Nguyễn Phúc Lai với cây súng mút-cơ-tông đã hạ gục nhiều tên Pháp lấp ló. Bỗng một chiếc xe tăng hiện ra, sắp trườn ra chiến lũy. Tình thế trở nên cực kỳ nguy ngập. Nguyễn Phúc Lai bỏ cây súng trường, cầm trái bom ba càng của một chiến sĩ bị thương bên cạnh, lao lên. Một tiếng súng nổ dữ dội, xe tăng khựng lại, bốc cháy...


Bác Nhâm nghe đài, biết nhiều trường hợp Nhà nước đã truy phong danh hiệu anh hùng cho các chiến sĩ thời chống Pháp và chống Mỹ. Một lần bác Trần Quân Lập, nguyên chính trị viên tiểu đoàn 56, từ khi về hưu được bầu làm trưởng ban liên lạc cựu chiến binh tiểu đoàn 56, đến thăm. Bác Nhâm bảo: "Anh Lập ạ, trường hợp hy sinh của anh Nguyễn Phúc Lai rất oanh liệt. Chúng ta phải xác nhận cho anh ấy. Có như vậy, sau này chúng ta xuống suối vàng gặp anh ấy mới không hổ thẹn". Thế là hai bác, với một số cựu chiến binh khác và bác Nguyễn Phúc Nghiệp đã khẩn trương làm các thủ tục đề nghị lên cấp trên.


Ngày ấy, người chiến sĩ quyết tử ôm bom ba càng quyết tử mới 19 tuổi...

PHẠM QUANG ĐẦU
(Đăng trên báo Quân đội nhân dân cuối
tuần số 65-342 ra ngày 30/3/1997, trang Cool
Logged
vnmilitaryhistory
Moderator
*
Bài viết: 1830



« Trả lời #74 vào lúc: 02 Tháng Sáu, 2022, 07:43:25 pm »

3- Tiếng súng quân ta vẫn nổ vang trong lòng địch. Luồn sâu cắm chốt

Đêm 20/12/1946, trung đội tôi (thuộc đại đội 2, tiểu đoàn 56, Chiến khu II) đang ở Thanh Liệt (Hà Đông) được điều ra Hà Nội, đóng quân tại Việt Nam học xá.

Đêm 22/12, chúng tôi tập kích địch đóng ở khu vực hồ Thiền Quang nhằm quấy rối và trấn áp tinh thần lính địch.

Ngày 24/12, đại đội trưởng Vũ Công Định gặp tôi giao nhiệm vụ: "Theo lệnh cấp trên, đại đội ta cử một trung đội ngay đêm nay thọc sâu vào nội thành cắm chốt ở phố Chanceaulme (nay là phố Triệu Việt Vương), trụ được càng lâu càng tốt. Nếu trong phố còn có dân và có điều kiện thì đơn vị thọc sâu hơn nữa, vừa gây thanh thế cho ta, vừa gieo hoang mang trong hàng ngũ địch. Đại đội quyết định chọn trung đội cậu làm nhiệm vụ quan trọng này. Cậu hãy về đơn vị chuẩn bị gấp".


Trung đội được trang bị một khẩu trung liên, mỗi người ba quả lựu đạn, một súng trường (tạp nham đủ loại súng Tầu, súng Nhật, súng tây) và có hai nắm cơm kèm theo với thịt kho do nhân dân địa phương cung cấp, sau đó đơn vị tự túc lương thực.


Khoảng 9 giờ đêm ngày 24/12, chúng tôi hành quân do ba anh tự vệ dẫn đường. Phố xá vắng lặng, nhà cửa đóng im ỉm, không một ánh đèn, không một bóng người, cây cối, cột điện vẫn còn nằm ngổn ngang làm chướng ngại vật trên các đường giao thông. Chúng tôi nối đuôi nhau đi qua nghĩa địa Tây (giáp phố Nguyễn Công Trứ ngày nay) qua Phố Huế, rẽ vào phố Triệu Việt Vương.


Tôi bố trí hai tiểu đội đóng ở hai đầu phố, còn tôi cùng tiểu đội 3 ở giữa phố với khẩu trung liên, nhà dân đã đục tường sẵn từ nhà nọ thông sang nhà kia, quân ta dễ dàng cơ động ở trong nhà từ đầu phố đến cuối phố, biến cả dãy phố thành một pháo đài.


Có vào tới đây mới thấy nhân dân Hà Nội theo lời kêu gọi của Hồ Chủ tịch đã thực hiện tản cư triệt để, bất hợp tác với giặc, sẵn sàng hy sinh nhà cửa, của cải, biểu lộ lòng yêu nước nồng nàn cao độ.

Chiều ngày 25/12, đội tuần tra của địch đi xe "jeep" tiến vào phố Triệu Việt Vương. Chúng bắn súng thị uy để thăm dò. Ta vẫn im lặng. Chúng lại bắn tiếp. Lúc này ta mới lên tiếng, thỉnh thoảng lại bắn tỉa một phát. Hai bên chơi trò "ú tim" như vậy khá lâu rồi chúng rút. Chúng tôi vẫn trụ lại, củng cố công sự, chuẩn bị trận đánh tiếp theo. Như vậy là ngay ngày đầu tiên cắm chốt đã có tiếng súng quân ta đánh địch bắt đầu nổ ra giữa ban ngày trong lòng địch ở địa bàn Liên khu II (nay là quận Hai Bà Trưng).


Gần trưa ngày 26/12, địch lại kéo đến. Ta ở trên gác bắn chặn không cho chúng xông vào phá cửa nhà dưới. Giằng co khá lâu, cuối cùng địch đưa xe ô tô bọc thép và đại liên đến, chỉ bắn phá mà không xung phong vào trong nhà, rồi rút về căn cứ.


Một lần nữa, tiếng súng quân ta lại nổ vang giữa ban ngày trong lòng địch.

Chiều ngày 27/12 mới diễn ra trận giao chiến thực sự quyết liệt giữa ta và địch. Giặc đến đông hơn hôm trước có cả xe tăng, súng cối, đại liên ủng hộ. Còn ta chỉ có trung liên, súng trường, lựu đạn. Hai bên đấu súng với nhau một chặp. Để dứt điểm, địch tập trung vũ khí bắn phá dữ dội vào tiểu đội 3 nơi có khẩu trung liên đang nhả đạn vào chúng.


Địch đã xông được vào nhà dưới, leo thang để lên gác. Tôi và anh em tiểu đội 3 lúc thì bắn trung liên, khi thì bắn tỉa, ném lựu đạn để ngăn chặn. Địch bị thương vong gần mười tên. Không lên được gác, giặc bèn phun xăng đốt nhà định thiêu sống quân ta ở trên gác, khói lửa bốc mù mịt, lan tỏa khắp khu phố.


Nhá nhem tối, địch phải rút, bên ta không có ai thương vong.

Đêm đến, trung đội tôi cũng rút về Thanh Nhàn để nhận nhiệm vụ mới.

Tuy đơn vị mới luồn sâu cắm chốt được ba ngày trong lòng địch nhưng tiếng súng của quân ta đã nổ vang ở phố Triệu Việt Vương mấy ngày liền góp phần vào hoạt động của các đơn vị bạn, chứng minh lực lượng kháng chiến vẫn còn tồn tại trên địa bàn Liên khu II ở phía nam thành phố Hà Nội song song với sự tồn tại của Liên khu I oai hùng ở phía bắc Thủ đô.


Một phóng viên hãng thông tấn xã Pháp AFP đã viết về cuộc chiến ở Hà Nội như sau: "Tiếng súng nổ cả ban ngày không phải chỉ ở những nơi có giới tuyến rõ rệt, mà cả những khu quân Pháp cho là đã quét sạch. Những nơi mà tôi vừa đi qua một giờ sau người ta đã thấy xác lính Pháp chết gục ở đây rồi".


Đại tá NGUYỄN VIẾT NHÂM
Nguyên trung đội trưởng trung đội 1
(Nguyễn Phúc Nghiệp ghi 26/4/1999)
Logged
vnmilitaryhistory
Moderator
*
Bài viết: 1830



« Trả lời #75 vào lúc: 02 Tháng Sáu, 2022, 07:44:59 pm »

Ở MỘT TỔ GIAO LIÊN 50 NĂM VỀ TRƯỚC


Hướng về những người con trung hiếu, những thiếu niên Liên khu II Hà Nội đã ra đi chiến đấu không trở về, tôi xin nghiêng mình tưởng nhớ các anh và ngược dòng thời gian tìm lại những dấu vết xưa.

Sáng ngày 1/12/1946, bốn chúng tôi nguyên là đoàn viên, học sinh cứu quốc trong trường Bưởi cũ, được tin báo đến trụ sở Thanh niên cứu quốc Thành (góc Bà Triệu, Tô Hiến Thành, trụ sở Hải quan bây giờ). Cuộc họp không đông, không kéo dài. Theo yêu cầu mới, chúng tôi đến tập trung gần trụ sở và đựợc giao việc căn vẽ bản đồ Hà Nội và viết truyền đơn, bươm bướm.


Mỗi một tờ truyền đơn mang một lời kêu gọi bằng tiếng Pháp, nguyên văn như sau:

- A bas le colonialisme français!
(Đả đảo chủ nghĩa thực dân Pháp!)

- A bas la guerre agressive contre le peuple Vietnamien!
(Đả đảo chiến tranh xâm lược chống Việt Nam)

- Soldats! Exigez d'urgence le rapatriement!
(Hỡi binh sĩ! Đòi hồi hương ngay tức khắc)

- Joignez nos rangs au nom de la liberté et de la démocratie!
(Nhân danh tự do và dân chủ hãy gia nhập hàng ngũ chúng tôi).


Chúng tôi viết không đẹp, tùy hứng nhưng đảm bảo đúng chính tả. Anh Kỳ phụ trách yêu cầu chúng tôi không rời khỏi "cơ quan" nếu chưa được phép. Lúc rảnh việc, chúng tôi chỉ còn giải trí bằng sách báo.

Chúng tôi miệt mài viết cho đủ số truyền đơn để chuyển đến Ban địch vận Thành... Đang tuổi hiếu động, cứ ngồi một chỗ vẽ vẽ viết viết hàng ngày, bọn chúng tôi tù cẳng quá nhưng chưa dám nói ra cái câu "lẽ nào mình chỉ cầm bút mà ngồi đánh giặc?"... Như thấu hiểu ẩn ý đó, sau khi kết thúc việc vẽ viết, các anh đã điều mỗi người chúng tôi đi nhận một nhiệm vụ mới.


Chia tay nhóm ấn loát, tôi đến ban giao thông liên lạc, thuộc ủy ban bảo vệ Liên khu II (sau là Ủy ban kháng chiến Liên khu II). Tổ giao liên chúng tôi mới đầu có bốn đội viên sau tăng dần đến bảy, tám đội viên (Lộc, Lục, Chiêu, Hồng, Bảy, Khuông, Thư...) - Các anh Duy Tám, Lê Vân - phụ trách ban - đã giao cho chúng tôi nhiệm vụ giữ liên lạc thường xuyên giữa các ban và ủy ban, đột xuất với Thành và các Liên khu bạn. Các ban trong ủy ban gồm có: tác chiến, phá hoại, giao liên, tiếp tế, cứu thương, tản cư, thông tin tuyên truyền...


Giờ huấn luyện, ngồi quây tròn dưới sàn nhà anh An - cán bộ quốc phòng - tại phố Bà Triệu, các anh giảng cho chúng tôi về tổ chức đường dây và trạm giao liên, về nhiệm vụ của giao thông viên (ZTV). Bài học truyền khẩu, dễ hiểu, dễ nhớ, nhiều mục mới lạ và hấp dẫn: ký hiệu, ám hiệu, nghi trang, xử trí khi gặp địch...


Ngày 15/12/1946, tổ tôi dự "tổng diễn tập" đạt yêu cầu nhanh, đúng, bí mật... ZTV đều gần sàn tuổi 15, chưa quen biết nhau bao giờ, nhưng khi đã vào tổ cùng ăn gạo lứt, ngủ trên sàn chúng tôi nhanh chóng vào nền nếp quân sự hóa, luôn vui nhộn, ca hát mà hồn nhiên chờ đợi cuộc chiến đấu chưa hề hình dung nổi.


Xẩm tối 19/12/1946, anh Duy Tám báo cho tổ tôi biết lệnh chuyển cơ quan, "áp sát trung tâm trong tầm cầu vồng". Chúng tôi vừa tới chân dốc Hàng Gà thì đèn điện vụt tắt, bóng tối bao phủ. Một tiếng nổ rung chuyển phố xá, tiếp theo hàng loạt đạn pháo nô rền trên phía thành Cửa Bắc, Cột Cờ, khu Bách Thảo...


Giây phút ngỡ ngàng nhanh chóng qua đi, tôi thấy náo nức lạ thường: đánh nhau thực sự rồi!

Nỗi căm giặc dồn nén đã lâu nay có dịp bung ra như nước vỡ bờ. Trong pháo nổ vọng mãi, vọng mãi như có tiếng người hô: "Báo thù!...ù!...ù!". Nhiều thanh niên ra đường ngóng về phía pháo nổ, vỗ tay, reo hò theo nhịp bắn: "Hoan hô! Pháo của ta"...


Nhìn lửa cháy, giặc đốt nhà dân (ở bãi sông Hồng), ai cũng muốn nhập cùng các anh Vệ quốc đoàn xông lên tuyến trước, nhưng nhiệm vụ buộc chúng tôi phải có mặt ở trạm, hơn nữa, lúc này chúng tôi chưa được trang bị vũ khí. Chúng tôi thức trắng đêm, chạy báo cáo, truyền lệnh khẩn, đi lấy tin từ các mũi xung kích, dẫn đường cho cứu thương, tải thương. Tin chiến sự dồn dập về Ủy ban kháng chiến. Vừa về trạm, có hỏa tốc là anh em lại lao vút đi ngay, quên cả ăn cả ngủ, ai nấy vẫn tỉnh như sáo.


Nửa đêm về sáng, tiếng súng tạm lắng, lửa cháy lụi dần. Trăng hạ tuần từ từ ló ra tỏa sáng khắp phố phường. "Chà, trăng đẹp quá!" tiếng một chị cứu thương thốt lên... "Vẫn còn mơ mộng thế em ơi". Một anh tự vệ trêu chị. Các anh tự vệ chiến đấu tiếp tục ngả cây, dựng chướng ngại vật bằng đủ thứ đồ đạc, khuân từ các nhà ven đường ra. Tại các góc phố, các anh Vệ quốc đoàn đào công sự, đặt súng, cảnh giới, sẵn sàng đánh địch phản kích. Mọi việc phải hoàn thành trước khi trời sáng, đó cũng là lệnh từ ban tác chiến truyền xuống.


Sáng 20/12/1946, anh Tích - chủ tịch UBKC - đến chỗ tổ tôi thường trực. Anh giao cho tôi một cuốn sách mỏng, khổ hẹp, bìa ngoài có hàng chữ "Quốc hội là gì?" tôi chưa rõ sách để làm gì lúc này, thì anh đã giảng cho tôi về những "khóa" để lập mật mã và giải mã. Anh dặn tôi giữ cẩn thận cuốn sách, tôi hiểu đây là "cốt" VTĐ, những ngày ở Liên khu quyển "cốt" chỉ sử dụng vài lần nhưng với tôi, nó là vũ khí bất li thân.


Sau này, qua ngàn đêm kháng chiến, dù ở bất cứ nơi đâu, suối, rừng, trăng, gió lại gợi nhớ cho tôi về đêm mở màn kháng chiến trường kỳ 19/12. Một đêm có súng nổ và lửa cháy, có trăng sáng cùng lời nói chị cứu thương, và cuốn sách nho nhỏ bí ẩn, những kỷ vật đó hiếm hoi mà sâu sắc trong đời chiến sĩ của tôi.


Từ sau ngày 21/12, địch đánh ra LKII, mục tiêu công kích nhằm khu Đấu Xảo, khu Đồn Thủy, khu VQĐ... Các khu khác nằm trong phạm vi phong tỏa của phi pháo địch. Chúng cho nhiều mũi đánh thốc xuống khu phố dưới xe half-track đi đầu ủi và đốt các chướng ngại vật, lính Lê dương theo sau đột nhập nhà dân bắn phá, khủng bố, vơ vét, rồi lại rút về...


Sáng 23/12, ta và địch giao chiến ở Lò Lợn, viện Pasteur, nhà Rượu. Máy bay "đầm già" lượn trên Ô Cầu Dền thám thính trận địa ta. Lúc đó tổ tôi có mặt cùng một phân đội VQĐ bố trí dọc phố Lê Bình, Huyền Trân (cuối Mai Hắc Đế). Anh em đi lại lố nhố, bị địch phát hiện. "Đầm già" lượn một vòng, nghiêng cánh, thả một quả đạn khói xuống đầu đường Đại Cồ Việt. Tức thì dàn cối 81 của địch tới tấp bay đến, nổ không sót quả nào. Cửa kính vỡ loảng xoảng, cát bụi mù mịt. Đơn vị bạn đã có anh bị thương! Qua vố này, chúng tôi mới thấy rõ lợi hại của con "đầm già".


Địch đã rút chạy. Bữa chiều, chúng tôi đang ăn vui vẻ bỗng bạn Lộc hắt ngay ra một mảnh cối lẫn trong cơm. Anh em nói đùa: đúng món sườn rang không xắp muối của mụ "đầm già".

Sau mấy trận, tại địa điểm mới số 500 đường Nam Bộ (đường Trương Định bây giờ). Anh Duy Tám cho họp tổ ZTV, động viên tinh thần dũng cảm công tác và rút kinh nghiệm. Anh nhắc nhở: không được coi nhẹ việc làm hầm tránh phi pháo. Phải giữ bí mật vị trí trú quân. Phải thay nhau cảnh giới khi địch đã có dấu hiệu tiến đánh ra. Phải quan sát, phán đoán địch tình trước khi hành tiến dưới hỏa lực địch... Đó chỉ là những điều thường thức quân sự nhưng ngày ấy có qua thử lửa ở Liên khu II, chúng tôi mới nhận ra được.


Tan họp, chúng tôi xoay vào làm hầm ngay, gọi là kê hầm thì đúng hơn, vì dùng toàn cánh phản, cánh cửa, bàn ghế kê chồng lên nhau. Anh em gọi đùa nó là hầm kiểu "gầm giường".
Logged
vnmilitaryhistory
Moderator
*
Bài viết: 1830



« Trả lời #76 vào lúc: 02 Tháng Sáu, 2022, 07:46:03 pm »

Một đêm đông lành lạnh, trên đường qua Liên khu III sang Liên khu I, ba chúng tôi (Chiêu, Hồng, Khuông) tới quãng đê làng Võng Thị (ven Hồ Tây) thì pháo của ta từ Xuân Tảo nã vào địch ở hướng Bách Thảo. Lợi dụng bóng đêm, chúng tôi ung dung bước đi dưới tầm đạn của ta. Tới quãng đê trống trải, bên phải là mặt hồ mênh mông, bên trái là đồng ruộng, bỗng từ mặt hồ phản chiếu những chùm tia lửa vun vút lao đến phía chúng tôi, tiếng đạn réo qua đầu: pháo địch. Chúng tôi đã lọt vào tọa độ pháo kích của chúng.


Đạn réo, nổ đinh tai, mảnh vung vãi, cành cây gẫy, khói bụi khét lẹt chúng tôi bò toài trên mặt đê, thỉnh thoảng lại hỏi nhau: "Có ai làm sao không?" Địch dồn mấy khẩu đội, nhả đạn hết đợt này tới đợt khác, tưởng chừng có thể đánh tan trận dịa pháo ta. Nhưng không, từ trận địa hai, pháo ta lại quật vào. Lúc này có cái hầm kiểu "gầm giường" để che thân cũng tốt.


Qua ánh lửa đạn, Hồng thấy lỗ châu mai của một ụ súng thấp sát mặt đê. Người gầy mình nhỏ, Hồng chui lọt vào trong rồi cất tiếng gọi to: "Bên trái có hầm, tất cả lùi lại đây" Cậu Chiêu vướng phải bộ mông to quá, lách mãi mới lọt. Tôi để văng mất túi đeo giấy tờ, còn đang quờ quạng. Nghe Hồng gọi: "Tụt xuống sườn đê, theo giao thông hào mà vào hầm!". Tôi vào hầm nốt, mọi người an toàn cả, tôi vui mừng. Đây chính là công sự của các anh tự vệ chiến đấu cảnh giới mặt hồ, chặn địch đổ bộ bằng ca - nô sang trận địa pháo ta.


Dứt đợt pháo, biết chúng tôi là ZTV đi công tác qua, các anh tìm giúp túi dết cho tôi; một anh ôn tồn bảo: "Bị pháo ta đánh là bọn chúng "trả lời" ngay, gọi là địch phản pháo. Đi lại trên đê trong lúc đấu pháo như bọn các em vừa rồi là rất liều lĩnh. Từ nay rút kinh nghiệm nhé!"


Thêm một bài học cho chúng tôi. Đến đất lạ, chưa rõ địa hình, địch tìm, chỉ xem bản đồ rồi đi văng mạng, có ngày nguy to! Tiếp tục chuyến đi, anh em lại buồn cười cho cái kiểu vào hầm bằng lỗ châu mai, và đùa bạn Chiêu:

- Tí nữa thì bộ mông nó phản cậu!

- Đừng hòng! Nó bắn kiểu ấy chỉ tổ tốn đạn, làm quái gì nhau!

- Này, chúng mình còn i tờ quân sự lắm! cần phải học các anh Tự vệ, các anh Vệ quốc thì mới đánh nhau được.

Điểm lại các trận đánh địch tại Liên khu II, không thể quên trận kịch chiến Ô Cầu Dền.

Ô Cầu Dền là cửa ngõ của phía nam của Liên khu II, có lũy cao thành dày, quân địch chưa bao giờ tới gần được. Đêm đêm, quân ta thường xuất kích từ đây, tiến vào đột kích và tiêu diệt sinh lực địch.

Sau nhiều lần thăm dò thám thính, một ngày cuối tháng 12/1946, địch dùng hai xe half-track mở đường, xông thắng tới chân ụ đất chắn ngang đầu đường Bạch Mai. Một tia lửa xanh lóe lên, một tiếng nổ đanh và gọn: xe half-track đi đầu bốc cháy, xe sau quay đuôi chạy biến ... Từ đó, địch "kiêng nể" Ô Cầu Dền, nhưng lại trả đũa bằng ném bom ngã tư Trung Hiền, cho phi pháo bắn phá Chợ Mơ, khu Việt Nam học xá, thôn Quỳnh Lôi...


Lúc đầu ta giữ bí mật việc bắn thử badôka. Sau này, báo của ta đã. đăng tin đầy đủ. Tổ chúng tôi cũng hay kháo chuyện "vũ khí mới". Bạn Cảng, ZTV của ban tuyên truyền có vẻ thành thạo:

- Đây là vũ khí mới, quân Mỹ dùng để đánh Nhật ở quần đảo Luy-xông, diệt thiết giáp dày 20 ly, nhưng chỉ bắn ở tầm gần 30m.

- Theo tớ thì lựu đạn cũng diệt được Half-track! Lộc nói vẻ rất tự tin... Hôm ấy mà sẵn lựu đạn thì tớ cũng diệt ngay một xe ở góc phố Gia Long rồi!

- Hôm nào? Hôm nào? Cậu nói mê đấy à?

Bị anh em xét hỏi, Lộc biết đã lỡ lời, đành phải xưng hết:

- Hôm ấy tớ mò về phố trên, đang len lỏi thì bắt gặp tụi nó đi tuần! Tớ chuồn lên tầng hai, nom trông rất rõ khẩu 12,7 ly, và thằng chỉ huy râu dê đứng trên xe, nó chạy lại dưới ban công! Thoát chết cho nó vì tớ không có lựu đạn!...

- Hết chối nhé! Cậu đã vượt tuyến, lên phố trên?

- Thảo nào hôm đó, đi công văn gần mà cậu ta về muộn thế?

- Lại còn có đường và cà phê cho tổ uống, kêu là: "Của nhà hàng bánh kẹo ủng hộ, các anh tự vệ chia cho..."

Anh em cười sảng khoái, còn Lộc thì lẩm bẩm thanh minh: - ...Nhớ phố cũ quá, lẻn về một lát rồi lại đi ngay thôi!

Vui chiến đấu, thèm vũ khí, nhưng chỉ mới xa phố cũ vài tuần là nỗi khát khao được theo xung kích đột nhập phố cũ để được bước đi trên lề hè nhìn lại nó thôi cũng thành một ước mơ sâu lắng của những thiếu niên đã có mặt ở Liên khu II ngày đó.


Dù chiến sự diễn biến, công tác lưu động, chúng tôi vẫn nhận được báo Cứu quốc với lời kêu gọi Toàn quốc kháng chiến của Hồ Chủ tịch; rồi cả bản nhạc "Bài hát Người Hà Nội" do tác giả "Diệt phát xít" sáng tác kịp thời ngày nổ súng.


Chiều chiều, trong căn nhà 500 đường Nam Bộ, không đèn đóm chúng tôi quây quần, đọc đến thuộc lòng những câu "Không! Thà hy sinh tất cả, chúng ta nhất định không thể để mất nước, dân ta nhất định không chịu làm nô lệ một lần nữa..." - Rồi lại đồng ca "Đây... lắng hồn....núi sông ngàn năm...." Cho đến lúc buồn ngủ kéo đến, chúng tôi đã cất tiếng ngáy đều đều trong những chiếc chăn, chiếc chiếu, tất cả ngủ lăn lóc trên sàn nhà, càng chen chúc càng ấm, ngủ càng say. Đó là những đêm đông kháng chiến đầu tiên mà tiếng súng còn vẳng trong giấc mơ; và khi ngon giấc đã phải lay nhau dậy, vì lúc lờ mờ sương, địch hay xuất kích rất sớm.


Đáng nhớ nữa là thư của UBKC Thành do chú Vương Thừa Vũ gửi khen các giao thông viên. Có bạn nói:

- Công văn này vừa được bóc xem, vừa không phải chuyển vì của chú VTV gửi các ZTV!

Dịp tết đến, tôi nhận được của Chương - tổ ấn loát cũ một số báo Tin tức (của Liên khu II) in trên tờ pơ luya hồng, đáng chú ý có một bài tường thuật do Chương viết. Tôi rất mừng vì bạn đã trở thành "phóng viên mặt trận".


Dù địch tiến đánh hay không, chúng tôi luôn được tiếp tế đầy đủ, ăn no, nhưng vẫn thiếu rau. Những ruộng rau ở gần khu học xá không ai thu hoạch, địch hay câu cối vào khu này. Ngay sau ngôi nhà tổ đang trú quân, cũng không có một vườn rau tới lứa, chúng tôi thường ra hái su hào, cà rốt về ăn sống! Dân làng triệt để tản cư, cửa nhà đồ đạc bỏ lại, rau quả bỏ phí, trông rất tiếc cho "người trồng cây tới ngày hái quả". Nhân dân thực hiện "vườn không nhà trống", hưởng ứng lời của Hồ Chủ tịch "Thà hy sinh tất cả", tất cả những hình ảnh không ồn ào này đã nhen lên trong lòng bọn trẻ chúng tôi một đức hy sinh tận tụy và một niềm tin "có chiến thắng lại sẽ có tất cả".


Giữa tháng 1/1947, một buổi sáng nhiều sương mù, địch xuất kích tấn công LKII. Mũi thứ nhất xuôi sông Hồng bằng ca nô, cập bến Phà Đen, qua đê Vĩnh Tuy đánh vào các thôn ven đường Đại La, tuyến sau của LKII. Mũi thứ hai có thiết giáp yểm trợ, tiến đánh theo đường số 1, tới nhà thờ làng Tám, bỏ qua đê La Thành và Ô Cầu Dền, hình thành thế vây hãm LKII. Từ hai mũi chính, địch cho nhiều mũi đánh tạt ngang vào sườn của LKII. Chúng cho các tên trinh sát cải trang, đội nón, khoác áo tơi lá tiến trước, nổ súng "tắc, bọp!" làm hiệu cho xung kích Lê dương tràn theo. Các "kỵ sĩ tung hoành" này tha hồ cướp phá, bắn giết dã man những đồng bào ta vô tội chậm chân, chúng được lệnh "24 giờ ngoài vòng pháp luật". Quanh khu vực đặt "bốt", chúng đốt trụi tất cả những gì mà chúng cho là có thể làm nơi ẩn nấp cho quân du kích, chúng đặt đại liên trên gác chuông nhà thờ làng Tám... Tiến đến đâu chúng cũng gặp cầu gãy, đường xẻ hố dọc ngang, vào làng xóm thì vườn không nhà trống, lọt vào ổ phục kích thì bỏ mạng.


Hình thái chiến đấu ở LKII không còn là phòng ngự theo chiến tuyến đường phố như những ngày đầu. Trước một kẻ địch "nhà nghề" đông về quân số, hơn về hỏa lực và cơ động, ta phải tìm ra cách vừa đánh địch, vừa xây dựng lực lượng, vừa bảo vệ nhân dân và chính quyền...


Như những dòng nước nhỏ theo sông dồn về biển lớn, các chiến sĩ thiếu niên LKII đã được biên chế lại và phân công vào các đơn vị, các cơ quan kháng chiến của Thủ đô và các địa phương lân cận.

Năm 1996.

Giờ đây, 50 năm đã trôi qua.

Cuộc chiến tranh "bẩn thỉu" mà chính thực dân Pháp cũng lên án đã kết thúc thảm hại cho những kẻ hiếu chiến.

Con đường hận thù đầy máu và nước mắt đã khép lại. Cánh cửa hữu nghị đang mở ra. Trên đường phố LKII ngày nay, người Hà Nội hãnh diện bước đi, trong số bạn bè và khách quý đến Hà Nội, có thể có cả những con cháu của những kẻ hôm xưa còn đe dọa "dội thép và lửa lên đầu" chúng ta, tất cả đều hồ hởi như có một niềm vui đang vẫy gọi, thiện chí đang đón chào.


Còn chúng tôi, giữa trăm ngàn khuôn mặt thân thương, vẫn đau đáu một niềm thiếu vắng số bạn chiến đấu thời học niên, và trong huyết quản lại rộn ràng một dòng máu nóng hổi như khi nghe tiếng pháo bắn báo hiệu đã điểm giờ nổ súng.

Hà Nội, ngày 19/10/1996
NGUYỄN QUÝ KHUÔNG
Nguyên giao thông viên Liên khu II
Logged
vnmilitaryhistory
Moderator
*
Bài viết: 1830



« Trả lời #77 vào lúc: 02 Tháng Sáu, 2022, 07:46:53 pm »

NHỚ VỀ LIÊN KHU II HÀ NỘI


Cách mạng Tháng Tám thành công (19/8/1945) nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà ra đời (2/9/1945) với Tuyên ngôn độc lập lịch sử, với Chủ tịch nước vĩ đại: Chủ tịch Hồ Chí Minh.

Hà Nội trở thành Thủ đô, trung tâm chính trị, quân sự văn hóa... của cả nước.

Hà Nội nổ súng đầu tiên, báo hiệu mở đầu cuộc kháng chiến toàn quốc (19/12/1946).

Hà Nội là quê hương tôi với Lãng Yên quê cha, Thanh Nhàn quê mẹ thuộc Liên khu II, nay là quận Hai Bà Trưng. Tại đây tôi được cha mẹ sinh ra và trưởng thành. Cha tôi là cụ Nguyễn Văn Tích, học trường Bách nghệ, làm công nhân Xưởng Bưu điện Hà Nội, mẹ tôi là cụ Trịnh Thị Chông thuộc gia đình lao động nông nghiệp, mất sớm khi tôi còn nhỏ dại.


Hà Nội là địa phương tôi tham gia hoạt động cách mạng, được Đảng đào tạo từ những ngày đầu của cuộc đòi theo Đảng, sớm trở thành một cán bộ được giao nhiều nhiệm vụ khác nhau qua nhiều giai đoạn lịch sử: kháng chiến, bảo vệ và xây dựng đất nước.


Hơn nửa thế kỷ qua, hàng năm vào dịp kỷ niệm ngày Cách mạng Tháng Tám, Toàn quốc kháng chiến, tôi nhớ lại những năm tháng công tác tại Liên khu II Hà Nội với nhiều ký ức, nhiều kỷ niệm nhất là vào năm 1946.

Theo nhiệm vụ được giao, tôi vẫn làm điện thoại viên tại Bưu điện Hà Nội, đồng thời làm Bí thư phụ nữ cứu quốc Hoàng Diệu, tôi được đến báo cáo trực tiếp với anh Phạm Văn Đồng lúc đó là Bộ trưởng Bộ Tài chính, đề nghị xin giữ nguyên lương cho chị em nữ điện thoại viên Bưu điện Hà Nội. Làm việc xong anh bảo tôi ở lại ăn cơm. Chỉ có hai anh em. Một bữa cơm thật thanh bạch. Anh giải thích cho tôi hiểu tình hình chung, tình hình khó khăn mọi mặt mà Đảng và chính phủ phải hoạch định kế hoạch đối phó. Anh nói phải chuẩn bị kháng chiến, chuẩn bị chiến khu. Tôi chăm chú nghe không sao hiểu hết được những trù tính và chủ trương sáng suốt của Đảng, chỉ biết tin tưởng vào sự lãnh đạo sáng suốt của Đảng, của Bác Hồ. Trong tâm trí tôi cũng đã ý thức được những đòi hỏi về nhiệm vụ của người đảng viên Đảng Cộng sản Đông Dương. Nếu kháng chiến nổ ra, phải rời Hà Nội lên chiến khu, phải xa bố và các em, tình cảm và trách nhiệm đan xen. Những băn khoăn đó sớm thoảng qua. Lòng hăng say cách mạng đã làm tôi có quyết tâm khắc phục được mọi lo lắng riêng tư. Và trong quá trình công tác sau này, tôi càng ý thức được rõ trong sứ mệnh lãnh đạo, Đảng đã quan tâm xây dựng Đảng, xây dựng và củng cố chính quyền cách mạng, xây dựng lực lượng chiến đấu (bộ đội chính quy, Tự vệ chiến đấu, Tự vệ Thành...) xây dựng lực lượng cách mạng trong Mặt trận Việt Minh, trong các đoàn thể cứu quốc (Thanh niên cứu quốc, Phụ nữ cứu quốc, Công nhân cứu quốc) để bảo vệ thành quả cách mạng sẵn sàng bằng kháng chiến toàn dân toàn diện, quyết tâm giữ vững độc lập tự do chống âm mưu xâm lược của đẽ quốc Pháp.


Lần theo ký ức, tôi nhớ đầu năm 1946, theo hệ thống của Đảng, nội thành Hà Nội chia làm ba Liên khu: Liên khu I, Liên khu II, Liên khu III. Hà Nội có Thành ủy, Liên khu có Liên khu ủy, ngay từ khi mới thành lập đểu do thường vụ Xứ Uỷ chỉ định, điều động về. Đồng chí Trần Diệp - tù chính trị Côn Đảo trở về - là thành ủy viên kiêm bí thư Liên khu ủy II đồng thời phụ trách Thanh niên cứu quốc Liên khu. Đồng chí Trần Vỹ trong ban chỉ huy Tự vệ chiến đấu Thành là phó bí thư. Khi đồng chí Trần Diệp được thường vụ Xứ ủy điểu động về Nam Định, đồng chí Trần Vỹ được chỉ định làm bí thư, đồng chí Vũ Quang - chấp hành Thành đoàn Thanh niên cứu quốc về tham gia Liên khu ủy phụ trách thanh niên Liên khu. Đồng chí Hà Giang tham gia Liên khu ủy II một thời gian ngắn, phụ trách khối chị em phụ nữ làm "cô đầu" ở Bạch Mai và Khâm Thiên. Sau chị về sinh hoạt theo ngành dọc chấp hành Thành hội Phụ nữ cứu quốc. Đồng chí Bích Thuận - bí thư Phụ nữ cứu quốc Liên khu. Đồng chí Hoàng Thị Nhàn - chấp hành Thành hội Phụ nữ cứu quốc chịu trách nhiệm theo hệ dọc đối với Phụ nữ cứu quốc Liên khu II.


Đảng coi trọng công tác phát triển Đảng. Nhiều đồng chí trong Liên khu II đều được kết nạp vào Đảng sau Cách mạng Tháng Tám hoặc trong quá trình chuẩn bị chiến đấu (vào tháng 11 năm 1945 vì sách lược, Đảng rút lui (vào hoạt động bí mật). Việc đào tạo bồi dưỡng lý luận cách mạng, phương pháp tuyên truyền tổ chức vận động quần chúng... cho đội ngũ đảng viên trẻ, cán bộ cốt cán trong các đoàn thể cứu quốc đều được quan tâm. Các lớp học chính trị ngắn ngày đều được các cấp ủy tổ chức. Có lớp đặc biệt do Bác Hồ, anh Nhân (Trường Chinh), anh Lê Duẩn giảng tại Bắc Bộ phủ, Liên khu ủy II, có các đồng chí Trần Vỹ, Hà Giang, Bích Thuận được theo học. Đồng chí Đỗ Đức Kiên và một số đồng chí trong ban chỉ huy tự vệ chiến đấu cũng học lớp này. Có lớp của Thường vụ Xứ ủy, của Thành ủy Hà Nội tại trụ sở của Thành ủy (107 Trần Hưng Đạo), giảng viên là anh Trần Quốc Hoàn - thường vụ Xứ ủy, anh Trần Quang Huy (Nguyễn Huy Khôi) - Bí thư Thành uỷ Hà Nội. Tổng bộ Việt Minh cũng mở lớp, anh Xuân Thủy làm giảng viên. Trong số cán bộ của Liên khu II, nhiều anh chị em được dự học.


Tình hình Hà Nội ngày càng căng thẳng, anh Nhân (Trường Chinh), anh Võ Nguyên Giáp rất bận với nhiệm vụ quan trọng khẩn trương nhưng vẫn dành thời gian vào một số buổi tối đến nói chuyện thời sự với cán bộ tại Tòa thị chính (nay là ƯBND Thành phố).


Thực tế tại Liên khu II những đảng viên cán bộ nằm trong quy hoạch đào tạo đã trở thành những cán bộ lãnh đạo của Đảng, của lực lượng vũ trang, của các đoàn thể quần chúng đã lãnh đạo Liên khu II chiến đấu lập nhiều chiến công oanh liệt, cản bước tiến của quân xâm lược Pháp, hỗ trợ cho Liên khu I bám trụ, duy trì sức chiến đấu giữa Thành phố. Hệ thống tổ chức của Mặt trận Việt Minh cũng dần dần được ổn định. Liên khu bộ Việt Minh Liên khu II được tổ chức. Đồng chí Tạ Hoàng Cơ chịu trách nhiệm chung và phụ trách đoàn thể Việt Nam cứu quốc. Đồng chí Nông (Vệ) chịu trách nhiệm về Thanh niên cứu quốc, đồng chí Bích Thuận chịu trách nhiệm về Phụ nữ Liên khu II (còn một hai đồng chí nữa tôi không nhớ rõ)... Đồng chí Tạ Hoàng Cơ nhiều tuổi tính điềm đạm, phát biểu chậm rãi, thường bị tôi ngồi cạnh thúc giục: "Anh phát biểu nhanh lên nhé". Anh rất mát tính không tự ái, không giận tôi. Sau này gặp nhau ngoài kháng chiến, anh vẫn nhớ và nhắc nhở lại. Còn đồng chí Nông hay nói lắp cứ bị tôi trêu. Mỗi lần đồng chí phát biểu không thể không nói lắp. Nhưng khi đó nếu tôi nhìn đồng chí thẳng vào mặt là đồng chí lại càng nói lắp, mặt đỏ lên. Vui vậy thôi chứ chúng tôi rất tôn trọng nhau. Sau này đồng chí và tôi gặp nhau trong Bộ Nội vụ chúng tôi vẫn nhớ đến nhà 159 phố Bà Triệu là cơ quan của Liên khu ủy II - nay là cơ quan của Cục Hải quan Hà Nội. Chính tại các cuộc họp về Đảng về Việt Minh này, đảng viên và cán bộ Việt Minh được phổ biến về tình hình chung, về hoạt động khiêu khích của quân viễn chinh Pháp, về nội dung cần tuyên truyền, về tránh mọi âm mưu khiêu khích của kẻ địch, về nội dung chuẩn bị khi kháng chiến nổ ra ...
Logged
vnmilitaryhistory
Moderator
*
Bài viết: 1830



« Trả lời #78 vào lúc: 02 Tháng Sáu, 2022, 07:47:54 pm »

Đồng thời Đảng ch 1 trương tập hợp lực lượng đảng viên sống tại khu phố. Theo sự giới thiệu của trên, tôi về bắt liên lạc với hai đồng chí đảng viên mới là sinh viên phố Lò Đúc. Đó là đồng chí Nguyễn Thương sau này là cán bộ của Bộ Ngoại giao và đồng chí Trà sau này là chủ nhiệm khoa, khoa mắt bệnh viên Quân đội 108.


Về đoàn thể PNCQ Liên Khu chị em một phần đã được tập hợp từ sau Cách mạng Tháng Tám, phát triển và ổn định tổ chức theo hệ thống tổ chức của thành hội PNCQ Hoàng Diệu. Tới khi chuẩn bị kháng chiến, Liên khu II đã có năm tổ Phụ nữ Cứu quốc.

Tổ PNCQ Quán Sứ gồm các chị ở ngõ Tân Hưng nay là ngõ Tức Mạc (Linh - Tâm - Dung...)

Tổ PNCQ Chợ Hôm gồm các chị ở Phố Huế (Thanh - Trinh - Nhã - Thục....)

Tổ PNCQ Bạch Mai gồm các chị ở phố Bạch Mai (Thọ - Phi - Thanh - Mỵ...)

Tổ PNCQ Bà Triệu gồm các chị ở phố Bà Triệu, Phố Triệu Việt Vương, phố Bùi Thị Xuân (Dung - Trinh - Mão - Lạc...)

Tổ PNCQ Lò Đúc gồm các chị ở phố Lò Đúc - từ cây đa Nhà Bò đến chợ Ô Đống Mác (An - Hiền - Tín - Hồng ...)


Các chị phần lớn là học sinh chịu ảnh hưởng ít nhiều của phong trào Việt Minh thành Hoàng Diệu nên hoạt động tự giác, tích cực, sinh hoạt đều đặn theo chương trình hoạt động của thành hội PNCQ và sự chỉ đạo ngang của Liên khu ủy và Liên khu bộ Việt Minh. Riêng phụ nữ Liên khu II tổ chức được một phòng đọc sách cho chị em. Số sách báo, truyện đều do các chị em mang đến và tự tìm đọc trước và sau những buổi họp tập trung hoặc những giờ nhàn rỗi đối với chị em ở gần trụ sở 159 bà Triệu.


Khi tình hình căng thẳng, việc chuẩn bị tác chiến khẩn trương, theo chủ trương của Thành hội các chị em đều học cứu thương, biết băng bó những vết thương thông thường ở tay, chân, đầu... Người học trước phổ biến cho người học sau. Mỗi tổ được phát bông băng không được nhiều mà phải mua thêm hoặc đi quyên. Trong sinh hoạt tổ chị em đều được nghe tình hình có liên quan đến kháng chiến, yêu cầu nâng cao tinh thần cách mạng yêu nước sẵn sàng chiến đấu và phục vụ cho chiến đấu, sự cần thiết phải đưa ông, bà già, trẻ con ra ngoài thành trước. Những biện pháp làm ụ kháng chiến cũng được đưa ra bàn bạc với lời khuyên không nên tiếc của. Trước mắt là tìm cách cản bước tiến của quân xâm lược. Chính chị em về làm công tác tư tưởng cho gia đình mình và gia đình xung quanh. Việc tuyên truyền theo vết dầu loang. Chưa sử dụng đến biện pháp tuyên truyền công khai trên loa phóng thanh. Chị em thể hiện rõ lòng yêu nước, căm thù giặc, vững vàng tin tưởng ở Chính phủ ở Đảng. Vì vậy mà khi tác chiến chị em sẵn sàng nhận mọi nhiệm vụ, cứu thương, tiếp tế, nuôi quân ... Những nhiệm vụ phục vụ chiến đấu ấy cũng vô cùng quan trọng để duy trì và bảo vệ sức chiến đấu.


Tại Liên khu II ngoài lực lượng Phụ nữ cứu quốc, còn lực lượng nữ Công nhân cứu quốc ở các nhà máy (Nhà máy Rượu, Nhà máy Diêm...) Chị Lê Minh được Ban Công vận Xứ giao nhiệm vụ trực tiếp liên lạc với các nhà máy tổ chức, tuyên truyền tinh thần giác ngộ cách mạng, ý thức và trách nhiệm của người công nhân dưới chẽ độ của nhà nước ta. Nhìn chung nhiệm vụ của công nhân là bảo vệ nhà máy, chống âm mưu phá hoại của Việt quốc, Việt cách và chiến đấu, phục vụ chiến đấu như cứu thương, tiếp tế, sẵn sàng tham gia chiến đấu với lực lượng vũ trang của khu phố khi nổ ra kháng chiến.


Tinh thần chiến đấu của chị em rất anh dũng. Đã có hai người hy sinh và được công nhận là liệt sĩ. Đó là đồng chí Vân (Vinh) bí thư chi bộ của Khu 12 (khu Lò Đúc) và chị Minh PNCQ Khu Bạch Mai.

Càng vào cuối năm 1946, tình hình chuẩn bị chiến đấu càng khẩn trương. Theo sự chỉ đạo của Thường vụ Xứ ủy, Thành ủy Hà Nội củng cố đội ngũ cán bộ ở lại bố trí lực lượng chiến đấu, điều động cán bộ đảm nhiệm những nhiệm vụ cần thiết. Tôi được điều động về cơ quan của Thường vụ Xứ ủy do anh Trần Quốc Hoàn đặc phái viên của Trung ương bên cạnh Mặt trận Hà Nội phụ trách. Đồng chí Đỗ Thị Ngọc (Đặng Minh Thuần) về khu Lò Đúc thay tôi, đồng chí Hoàng Thị Nhàn về Khu Đại học (Việt Nam học xá), đồng chí Trần Thị Lan Anh về làm bí thư PNCQ Bạch Mai. về Liên khu ủy II, đồng chí Nguyễn Văn Đào làm bí thư Liên khu ủy, đồng chí Trần Vĩ làm chủ tịch Ủy ban kháng chiến Liên khu.


Ngày này, nhớ về Liên khu II kháng chiến, về Hà Nội, tôi không thể quên nhiệm vụ được anh Trần Quốc Hoàn giao làm công tác mật mã. Tôi đã mã hóa bức điện lịch sử của Bác Hồ điện vào Mặt trận Hà Nội cho cán bộ chiến sĩ Liên khu I theo điện đài mật của Trung ương. Lời Bác Hồ điện là "các em quyết tử cho tổ quốc quyết sinh". Đồng thời tôi đã mở khóa dịch bức điện cho anh Lê Trung Toản thay mặt Trung đoàn Thủ đô điện ra xin thề quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh.


Quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh là lời hịch của Bác Hồ, lời thề thiêng liêng của Trung đoàn Thủ đô và nhân dân Thủ đô trong kháng chiến chống Pháp. Tôi không thể nào quên được.


31 - 7 - 2001
NGUYỄN THỊ BÍCH THUẬN
Nguyên ủy viên Liên khu ủy II
Logged
vnmilitaryhistory
Moderator
*
Bài viết: 1830



« Trả lời #79 vào lúc: 02 Tháng Sáu, 2022, 07:48:50 pm »

ĐÊM ẤY...


Sau hơn nửa thế kỷ, ngày và tháng của những trận đánh tôi từng tham dự đã phai mờ trong ký ức, nhưng khi nhân câu chuyện nào đó nhắc đến Thu - Đông năm 1947 - 1948, đêm tập kích vào Hà Nội liền hiển hiện trong trí nhớ.

Nhận lệnh của ban chỉ huy tiểu đoàn tôi trở về ngay đại đội. Để giữ bí mật tôi chỉ triệu tập các cán bộ trung đội và tiểu đội truyền đạt nhiệm vụ trong trận đánh sắp tới. Tôi nhấn mạnh những chi tiết theo tôi từ cán bộ đến đội viên phải tuân thủ với mức nghiêm ngặt nhất. Các cán bộ trung đội tiểu đội hình như ai nấy cũng đều sửng sốt khi nghe nhiệm vụ tập kích vào một mục tiêu trong Hà Nội. Tôi sung sướng giải thích với anh em, như hồi nãy sung sướng nghe tiểu đoàn trưởng giảng giải cặn kẽ kế hoạch của trận đánh. Đường hành quân từ đây đến mục tiêu không thể đi liền trong một đêm. Tối nay, đại đội sẽ xuất phát, để gần sớm mai dừng chân trú quân tại một xóm nhỏ cách Hà Nội hơn 10 km. Và từ đấy, tiến lên Ô Cầu Dền đánh vào vị trí của địch đóng tại nhà nước mắm cá bạc Vạn Vân. Ban chỉ huy quân sự quận Liên Nam phái một tổ cán bộ do đồng chí đại đội trưởng Bích chỉ huy, đưa đường chúng tôi vượt qua những vùng kiểm soát của địch. Tô cán bộ này vốn là những người đã từng hoạt động ở vùng Thanh Trì và Thường Tín nên nắm được các quy luật tuần tiễu, canh gác của địch. Tôi yêu cầu các cán bộ phải kiểm tra thật chặt chẽ vũ khí của đội viên để khi hành quân không có chuyện va chạm phát ra tiếng động. Trời mưa bụi, đường sẽ trơn. Dù khó đi, tuyệt đối không được chống gậy, tránh để lại dấu vết trên đường hành quân. Sau cuộc họp ra về, phải lo cho anh em mỗi người một miếng vải trắng buộc trên cánh tay trái, để nhận ra nhau trong đêm tối. Nhắc anh em người nào hay ho cần tìm khăn quấn cổ. Để chia xẻ niềm vui với đồng chí, tôi nói với họ những cảm nghĩ của mình, những cảm nghĩ khi nhận lệnh của cấp trên. Đêm nay, chúng ta trở về nổ súng báo hiệu cho đồng bào đang phải sống trong Hà Nội bị tạm chiếm rằng: chúng ta luôn có mặt quanh Hà Nội, chúng ta không hề bị dồn lên rừng như địch đã rêu rao. Chúng ta tự hào sau những ngày kìm chân địch tại Hà Nội, đêm nay chúng ta - một đơn vị của tiểu đoàn 77, sẽ mở một mũi tấn công vào đồn bốt địch. Đòn đánh ấy cảnh cáo bọn Việt gian trong Hội đồng An dân do Pháp lập nên phải liệu hồn. Có lẽ tôi đã bốc trong nỗi mừng khi nhận và khi truyền đạt mệnh lệnh, nên các cán bộ cũng mừng, cũng bốc như tôi. Có người đã vỗ tay.


Trước giờ hành quân tôi kiểm tra một lần nữa vũ khí và trang phục của các chiến sĩ, phổ biến mật khẩu. Sau khi cùng đồng chí Bích duyệt lại kế hoạch hành quân từ Triều Đông đến điểm dừng chân, chúng tôi cùng một ý: Không có gì đáng ngại. Mọi việc như vậy đã được tính toán cặn kẽ.


Chúng tôi lên đường khi mưa bụi thấm lạnh da mặt. Đường chúng tôi đi là những con đường xa làng mạc, tứ phía là bóng tối, không tiếng chó sủa, không khí đượm vẻ thê lương. Bầu trời thì xám lạnh, đôi vì sao co ro như những con đom đóm mệt mỏi hụt hơi không tỏa được ánh sáng lân tinh trong đêm gió lộng. Tôi không cảm thấy lạnh và tôi chợt nhớ lời nhạc trong bài "Đoàn quân đi" của nhạc sĩ Việt Lang: "Mưa trơn, đường xấu". Nhưng chúng tôi đâu phải là toán quân xa vời. Đơn vị đang trở về Hà Nội, dù chỉ trong một trận tập kích. Đồng chí Bích dẫn đại đội tới chỗ trú quân, lúc sương mù đã trải đầy cánh đồng. Tôi biết đây là xóm Trại Chuối, một xóm trại ngoài làng Nam Dư. Trong xóm trại này có một số đồng bào bị bệnh phong sinh sống. Đồng chí Bích nhắc tôi dặn dò anh em tránh mọi hành động, lời ăn tiếng nói vô ý làm những người mắc bệnh buồn tủi. Tôi nhắc đi nhắc lại: bệnh hủi không lây qua đường ăn uống.


Sau phút ban đầu ngỡ ngàng, đồng bào đón chúng tôi với niềm vui trong những nụ cười trên những khóe mắt. Đồng bào tưởng chúng tôi sẽ đóng ở đây lâu và tất nhiên không để địch đến làm xáo trộn cuộc sống, như mới đây chúng dã phá phách những chuỗi ngày yên ấm của mọi người.


Trú quân trong xóm Trại, thời gian như ngưng lại. Các cán bộ bồn chồn không ngủ, nhưng nhiều anh em sau đêm dài hành quân đã ngủ vùi. Đồng chí Bích đoán chắc rằng bọn tề điệp không dám bén mảng đến nơi này. Nếu chúng lò dò tới đây, thì đó là điều bất hạnh đối với chúng. Trong tích tắc, chúng sẽ bị trói gô, nhét giẻ vào mồm. Nghe đồng chí Bích nói, tôi cười, tin tưởng. Không khí nơi trú quân gần kề sát địch bớt căng thẳng, dễ chịu hơn. Tôi tin vào sự phán đoán tình hình của ban chỉ huy quân sự quận Liên Nam nhưng không vì thế có thể chợp mắt dù chỉ trong một tiếng đồng hồ. Tôi thở những hơi thở sâu khoan khoái khi trời dần dần tối. Bóng đêm là một đồng minh tin cậy, và yếu tố bất ngờ, đây là lực lượng, giúp chúng tôi ra đòn đánh địch. Chúng sẽ hốt hoảng, đó là điều chắc chắn. Đồng chí Bích và tôi dẫn đại đội tiếp tục hành quân vòng qua những đồn bốt địch, qua làng Quỳnh Lôi, tiến dọc theo hàng hiên phố Bạch Mai. Tại nơi này, chúng tôi đã đánh địch ở Việt Nam học xá, tiêu diệt bọn biệt kích ở xóm Đình Đại. Tại chiến lũy Ô Cầu Dền, chúng tôi đã giam chân địch trong nhiều ngày. Khác với đi ngoài cánh đồng, khi hướng đến mục tiêu chúng tôi hồi hộp, thận trọng nghe ngóng và cùng trút súng khỏi vai. Một cánh tay từ trong cửa hé mở, vươn ra đặt lên vai, tôi giật mình, chưa kịp phản ứng, bàn tay đã nắm chặt tay tôi. Một tiếng nói thì thầm khẽ vọng vào tai: "Các anh. Các anh. Các anh đã về!". Sau trận đánh, tôi được biết đã có nhiều cánh tay như thế vươn ra nắm vai, nắm tay các chiến sĩ Và không chỉ nắm, những bàn tay ấy còn đặt những gói quà nho nhỏ vào tay các đồng đội tôi. Cử chỉ ấy dù là chỉ một thoáng cũng đủ làm chúng tôi cảm động. Nhưng để giữ bí mật đến cùng, chúng tôi không ai kịp thốt lời cảm ơn. Lòng biết ơn nhân dân chỉ kịp thể hiện bằng cách xiết chặt hơn nhưng bàn tay vừa chạm vào mình.


Đơn vị chia thành ba mũi như kế hoạch đã định. Vượt qua cầu Tô Hoàng, một chiếc cầu nhỏ trên sông Tô Lịch. Vượt qua ngã tư Ô Cầu Dền, một trung đội tiếp cận mục tiêu, trung đội khác án ngữ đường Lê Đại Hành.


Địch đóng trong ngôi nhà hai tầng vốn là cửa hiệu bán nước mắm cá bạc Vạn Vân. Vị trí này án ngữ ngã ba phố Huế và phố Chùa Vua. Được báo các đơn vị đã chiếm lĩnh xong vị trí, tôi lệnh cho nổ một tràng trung liên và ném ba quả lựu đạn phát lệnh tấn công. Im lặng vỡ tan trong tiếng súng. Bóng đêm cũng bị rách tung vì những làn đạn đỏ lừ lao vào vị trí địch. Cùng lúc ấy, tôi nghe dậy lên tiếng nổ từ phía trên vọng tối. Các đội biệt động của ta đã đánh phá các trạm biến thế điện của địch. Một tổ, rồi hai tổ theo lệnh bò sát vị trí địch, dùng lựu đạn công phá. Đại liên địch từng loạt, từng loạt xối xả băm nát các vỉa hè. Nghe tiếng súng của ta, hẳn địch đoán được lực lượng đối phương không đông nên vội vàng phản kích. Tôi và đồng chí Bích hội ý quyết định lui về phía Bạch Mai để bảo toàn lực lượng. Mục đích của trận đánh không phải là tiêu diệt địch nên lúc này đã có thể rời trận địa. Xe tăng địch đang tiến xuống cửa Ô Cầu Dền, súng cối của chúng từ các vị trí phía trên bắt đầu câu tới tấp. Đá trên đường bị đạn cối văng tới chỗ chúng tôi ẩn nấp. Nguy hiểm đã xuất hiện khi chiếc xe tăng cứ thẳng đường lao xuống. Một tràng trung liên bỗng rít lên. Hứa Văn Du vừa tiểu đội trưởng, vừa là xạ thủ trung liên đã nhanh trí xiết cò. Tôi nghe tiếng xe tăng không gầm rú nữa. Nó dừng lại nghe ngóng không dám dấn thân. Đại liên trên tháp xe tăng bắn như đổ đạn. Hứa Văn Du vẫn điềm tĩnh đối phó bằng những loạt trung liên rắn đanh, để đồng đội lần lượt lui về phía sau. Cuộc đấu súng không cân sức, nhưng chiếc xe tăng đã không còn hùng hổ xông tới. Hứa Văn Du không thể mải miết bắn cản vì phải tiết kiệm đạn. Thằng địch ngồi trong xe tăng, còn Hứa Văn Du nằm dưới mái hiên nhà không công sự. Tình thế hoàn toàn bất lợi, dù sao tôi cũng không thể hạ lệnh cho Du rút ngay. Không có khẩu súng trung liên này cản đường, chiếc xe tăng sẽ ung dung xông tới cắt đứt đường lui quân của đơn vị. Hơn ai hết, Hứa Văn Du hiểu điều ấy nên khi tôi chờ cho Du bắn xong hai loạt đạn nữa, hạ lệnh cho Du rút lui, thì Du từ chối một cách hiền lành nhưng quả quyết: "Nếu ngừng bắn lúc này nó sẽ xộc tới, anh cho đơn vị rút xa thêm, lát nữa tôi sẽ rút sau".


Tôi không thể chùng chình hơn nữa, đường từ đây về nơi tập kết qua vùng địch kiểm soát khá dày, nếu trời sáng đơn vị lập tức rơi vào thế bị bao vây. Tôi hạ lệnh cho tổ súng máy của Du bắn cản xe tăng địch thêm lát nữa và rút theo đại đội.


Người tiểu đội trưởng kiêm xạ thụ trung liên chấp hành mệnh lệnh bằng một lời hứa: "Anh yên tâm".

Tôi nghe trung liên của Du nổ rền phía sau lưng. Bọn địch trên xe tăng không dám liều mạng đuổi theo chúng tôi. Về đến địa điểm tập kết, tôi mới biết Hứa Văn Du đã dùng quyền tiểu đội trưởng của mình buộc hai chiến sĩ phải rút theo đại đội. Du vừa bắn, vừa giục hai đồng chí của mình: "Trời gần sáng rồi. Các cậu rút đi, tớ sẽ rút sau". Nhưng Hứa Văn Du không rút. Tiếng trung liên của anh thưa dần và tắt hẳn. Súng địch vẫn xối xả. Một tiếng lựu đạn vang lên. Hai đội viên hiểu ngay đồng chí tiểu đội trưởng của mình đã tung quả lựu đạn duy nhất về phía địch.


Đơn vị tập kết an toàn, tôi được thông báo: nhiều trạm biến thế của địch bị ta phá hủy. Các đồn bốt từ ngã tư Trung Hiền tới Giáp Bát đều án binh bất động liền trong mấy ngày không dám xua quân đi lùng sục. Nhiệm vụ tập kích của đơn vị đã hoàn thành.


Riêng Hứa Văn Du là người độc nhất hy sinh trong trận tập kích này. Quê anh ở làng Thụy Khuê. Anh tham gia bộ đội ngay sau ngày khởi nghĩa. Đồng đội vẫn nhớ đến anh khi nhắc đến trận tập kích vào Hà Nội Thu -   Đông năm ấy. Câu nói cuối cùng của anh vang vọng trong tâm khảm chúng tôi: "Đi đi! Chỉ cần mình tớ là đủ". Người tiểu đội trưởng hiền lành, trắng trẻo với dáng vóc cao cao, để bảo vệ cho đồng đội đã tự nguyện nằm lại trên hè phố Thủ đô. Năm ấy Hứa Văn Du hai mươi bốn tuổi.


NGUYỄN VĂN GIÁP
Nguyên đại đội trưởng, tiểu đoàn 77
Thời kỳ cuối 1947 - 1949
Logged
Trang: « 1 2 3 4 5 6 7 8 9 »   Lên
  In  
 
Chuyển tới:  

Powered by MySQL Powered by PHP Powered by SMF 1.1.21 | SMF © 2006-2008, Simple Machines

Valid XHTML 1.0! Valid CSS! Dilber MC Theme by HarzeM