Lịch sử Quân sự Việt Nam
Tin tức: Lịch sử quân sự Việt Nam
 
*
Chào Khách. Bạn có thể đăng nhập hoặc đăng ký. 28 Tháng Ba, 2024, 08:01:01 pm


Đăng nhập với Tên truy nhập, Mật khẩu và thời gian tự động thoát


Trang: « 1 2 3 4 5 6 7 8 9 »   Xuống
  In  
Tác giả Chủ đề: Liên khu II những ngày đầu Thủ đô kháng chiến  (Đọc 3032 lần)
0 Thành viên và 1 Khách đang xem chủ đề.
vnmilitaryhistory
Moderator
*
Bài viết: 1830



« Trả lời #30 vào lúc: 28 Tháng Tư, 2022, 06:55:24 am »

Chúng tôi được lệnh chuyển cơ quan xuống Bạch Mai. Ở tạm một ngày trong căn nhà nhỏ của anh Phan, gần Trại Găng, rồi xuống hẳn dãy FACIDEO xế Chợ Mơ (Fabrication de Cigares d'. Extrême-orient - Xí nghiệp xì gà Viễn Đông!). Đây là một dãy nhà hai tầng bốn năm gian rộng liền nhau, Ban tuyên truyền ở hai gian đầu, còn lại là mấy đơn vị khác.


Hôm sau, Quy và tôi được phái lên địa điểm cũ phố Minh Khai xem còn đồ đạc giấy má gì thì đem về nốt. Sau khi chúng tôi thu gom mọi thứ trên gác đem xuống, mở chạn bếp thấy còn nhiều cơm nguội và mỡ, Quy nhóm bếp, bắc chảo lên bảo tôi rang cơm, còn anh thì chui lỗ tường sang bên cạnh. Lát sau anh đem về một chai còn gần nửa mật ong. Quy nói: "Tao không thổ phỉ của đồng bào đâu nhá. Đây là tao tước của Tây. Chốc nữa xuống đây chúng nó vơ hết, phí đi!". Chúng tôi ăn cơm rang, uống mỗi đứa nửa bát mật ong. Uống xong bụng nôn nao, đầu óc quay cuồng, đứng lên lảo đảo chỉ muốn đổ nhào, trong lúc tiếng súng lớn, súng nhỏ vang lại đã rất gần, tưởng như ngay ở đầu ngã tư nhà Rượu. Sau độ nửa giờ say mật ong, chúng tôi gượng dậy được, ôm đồ đạc lần theo các lỗ đục tường và men tường rào nhà máy Diêm về đến gần Ô Cầu Dền. Địch đang nã pháo và súng cối vào đây, một chiếc bà già vè vè trên không chỉ điểm, nhà lá bên xóm Tô Hoàng cháy phần phật. Chúng tôi nhảy xuống giao thông hào chữ chi dọc bờ sông Tô Lịch. Hai đoạn hào đầy người. Một anh tự vệ văng câu chửi tục rồi giương súng trường nhằm máy bay bà già bắn liền hai phát. Một anh khác quát: "Không được bắn, lộ mục tiêu!". Pháo địch ngớt, một anh có vẻ là chỉ huy đứng lên bờ hào nói to: "Bộ binh nó sắp đến đấy. Các đồng chí đồng bào, ai không có nhiệm vụ phải đi xuống dưới kia, để anh em chúng tôi còn sửa soạn chiến đấu". Mọi người tản đi. Hai đứa chúng tôi tách ra. Quy theo vệ sông ngược lên, qua chiếc cầu gỗ (lúc ấy hãy còn) vòng Việt Nam học xá về cơ quan. Còn tôi trèo qua ụ, xuôi thẳng phố Bạch Mai.


Tôi vừa qua khỏi ụ Ô Cầu Dền thì địch lại bắn dữ dội. Lần đầu nếm mùi đạn pháo, tôi cuống, cứ quáng quàng chạy trên vỉa hè nhảy cóc từ hố cá nhân này đến hố cá nhân khác, tai ù không còn nghe thấy tiếng nổ, chỉ loang loáng nhìn thấy từng đám bụi bay lên và những vầng sáng lòe bùng lên trước mặt. Mãi đến lúc có một ai đó ghé tận tai tôi hét to: "Tạt ngang ra! Cứ chạy dọc phố, ngu thế!" chỗ ấy là Trại Găng. Tôi tạt theo hàng cây găng, được một quãng xa thì ngồi thụp bên một mô đất, thở hồng hộc. Quả nhiên ngồi đây thì yên. Còn pháo địch cứ tiếp tục ùng oàng từ đầu Ô xuống cuối phố rồi ngược trở lại.


Pháo dứt, tôi về cơ quan, lần này thì bình tĩnh và cẩn thận, đi qua các lỗ đục tường, về đến nơi đã thấy Quy ung dung đánh máy chữ, thoáng thấy tôi, anh chỉ hất hàm như không có gì xảy ra. Một lúc lâu sau, Cảng cũng về, thì ra Cảng cũng được thưởng thức trận pháo địch dập xuống đầu ô vừa rồi. Cảng đi công tác, về đến cuối Mai Hắc Đế, vào một cơ quan của Liên khu thì một loạt pháo vừa bắn vào đây. Đạn trúng nhà, trong gian phòng đầy bụi và gạch vỡ, một anh tự vệ trúng mảnh đạn hy sinh, nằm ngay cạnh lò sưởi. Mấy người trong gia đình chủ nhà, có hai phụ nữ, lộ vẻ sợ hãi, Cảng giật lấy một tấm chăn, phủ lên thi thể anh tự vệ. Lúc trở ra đường, gặp một đơn vị Vệ quốc quân đang đến nhận thêm vũ khí để lên ngay trận địa, Cảng cũng xà vào khiêng giúp mấy quả đầu bom ba càng.


Một tuần đã qua. Sau khi chặn đánh và tiêu hao địch trong khu vực trung tâm thành phố, lực lượng ta ở LKII bố trí lại thành một tuyến từ Thanh Lương - Ô Đống Mác qua Ô Cầu Dền sang Kim Liên. Phố Bạch Mai trở thành xương sống của cả chiến tuyến. Đầu ô là chiến lũy Ô Cầu Dền, địch tập trung đánh phá nhưng trận địa ta rất kiên cố. Súng nổ suốt 24 giờ. Ngày địch đánh ta giữ. Đêm địch co cụm, ta luồn lên tấn công lại, có khi thọc sâu lên tận Chợ Hôm, Hàng Bài. Giữa và cuối phố, cả một vùng quanh ngã tư Trung Hiền và Việt Nam học xá tập trung các cơ sở hậu cần, y tế và các cơ quan của Liên khu, trong đó có Ban tuyên truyền chúng tôi. Pháo địch nổ rải rác cả ngày, chúng còn ném bom Chợ Mơ. Mọi người đi qua đều luồn theo lỗ đục tường. Cần qua đường thì men theo các sợi dây chăng ngang qua phố, trên vắt chăn vải để che mắt địch. Đi lại ban đêm phải nhớ mật khẩu mới qua được các trạm gác.


Dân đã tản cư hết. Các tiểu khu cũng không còn nguyên vẹn. Địa bàn công tác của chúng tôi lúc này thực tế là mặt trận phía nam Thủ đô, gồm phần đất còn lại của LKII gắn với ngoại thành Thanh Trì. Công việc chính của Ban tuyên truyền là xuất bản tờ báo mặt trận: tờ "Tin tức", cơ quan của UBKC LKII. "Tin tức" ra một tuần hai hoặc ba kỳ, bốn trang khổ nhỏ nửa tờ báo hàng ngày. Nội dung có tin tức kháng chiến trong và ngoài liên khu, có khi có cả chuyện vui, nụ cười mặt trận. Xã luận thường do anh Phục viết, dưới bút danh Trường Kỳ. Anh Phục trực tiếp phụ trách phần công việc về biên tập bài vở, anh Quỳnh chuyên lo tổ chức cơ quan, in ấn, phát hành. Báo in thời kỳ đầu ở Mơ Táo và làng Sét, cuối cùng thì ở Khúc Thủy, mỗi kỳ chỉ hơn trăm bản. Bính - họa sĩ - chịu trách nhiệm trình bày, tuy nhiên không có phương tiện in tranh, ảnh. Bọn "trẻ" chúng tôi thì có người nằm hẳn tại xương in, có người giúp công tác biên soạn, lấy tin, vận chuyển và phát báo.


Anh Phan không còn bận công tác của tiểu khu Bạch Mai nữa, anh vào hẳn cơ quan chúng tôi, trợ giúp anh Quỳnh trong mọi việc về các nhà in. Một người nữa mới đến, là anh Phấn, từ tự vệ chiến đấu chuyển sang, tuổi chỉ trên dưới 20 nhưng rất đạo mạo, ít nói và càng ít cười, lúc nào cũng đội chiếc mũ hướng đạo sinh trên đầu, anh phụ tá anh Phục về mặt biên tập. Anh Phấn là người duy nhất trong "tòa soạn" được các anh phụ trách cho phép đi theo các tổ chiến đấu luồn lên trên phõ đánh địch, bởi anh được huấn luyện quân sự hẳn hoi và đã từng chiến đấu trực tiếp. Trong các tin, bài anh Phấn viết, có một bài tả lại rất sinh động một cuộc xuất kích của các chiến sĩ ta đánh vào sau lưng địch, được anh Trần Vỹ, ủy viên quân sự, và các anh trên Liên khu rất khen ngợi. Báo "Tin tức" còn một bài nữa gây tiếng vang trong độc giả ở Liên khu, tôi không nhớ do ai viết, tả lại trận lần đầu tiên ta bắn cháy xe tăng địch bằng súng ba-dô-ka ở Ô Cầu Dền.


Cơ quan nhỏ bé của chúng tôi vẫn giữ được cái duyên hiếu khách. Các toán chiến đấu "lên ngược về xuôi" thường ghé vào nghỉ chân và cung cấp tin tức sốt dẻo. Anh chị em dân công đêm đêm lên sửa chiến lũy cũng hay tạt vào. Một số nhà văn, nhà báo đi thực tế mặt trận đều qua chỗ chúng tôi. Các anh Đồ Phồn, Hồng "kính" (Thép Mới) có lần ngủ đêm lại, chúng tôi tranh thủ mời các anh viết cho "Tin tức". Một lần anh Tô Hoài đến, anh Phục tự dẫn anh lên thăm chiến lũy Ô Cầu Dền.
Logged
vnmilitaryhistory
Moderator
*
Bài viết: 1830



« Trả lời #31 vào lúc: 28 Tháng Tư, 2022, 06:56:08 am »

Tại mặt trận cơm nóng, cháo nóng dành cho thương binh, còn chúng tôi ở cơ quan thì ngày hai bữa được phát cho hai nắm cơm kèm chút cá khô, thịt kho, muối vừng. Riêng Tết dương lịch 1/1/1947 chúng tôi được một bữa "tiệc" cơm nắm với thịt chó nấu... súp lơ. Cũng có khi mỗi bữa chỉ một nắm cơm không, chúng tôi tự kiếm muối, đường, nước mắm mà chấm (giữa phố Bạch Mai có một cửa hàng nước mắm, chui tường qua đấy mùi nước mắm vẫn lừng). Có lần Bùi Mộng Lục vớ đâu được lọ cà cuống, chúng tôi quệt cà cuống vào cơm nắm ăn ngon lành, có anh rẩy quá tay, rồi kêu đắng quá, nhưng vẫn hết băng băng. Nhân đây tôi xin ghi nhận một điều mà thời ấy chúng tôi cho là bình thường, là lẽ tự nhiên, nhưng về sau càng nghĩ lại càng thấy nó rất đặc biệt, thậm chí là một sự thật khó tin. Đó là: Suốt hơn 50 ngày đêm ở mặt trận khói lửa chúng tôi chưa hề một lần bị đứt bữa ăn, kể cả về sau này, khi trận tuyến phía Nam bị vỡ, một số cơ sở tiếp tế bị địch xông vào bắn phá, hoặc cả khi Liên khu II không còn nữa, các đơn vị, cơ quan của Liên khu chỉ là những bộ phận còn lại tạm ghép với nhau, thì hàng nghìn chiến sĩ, cán bộ, nhân viên vẫn được cung cấp đầy đủ ngày hai bữa.


Liên khu phát giấy chứng minh. Mỗi người một tấm thẻ nhỉnh hơn bàn tay, bằng bìa mỏng màu vàng nhạt ghi tên, tuổi, đơn vị, có chữ ký của anh chủ tịch Nguyễn Văn Đào và đóng dấu Ủy ban kháng chiến Liên khu II thành phố Hà Nội. Cán bộ thì góc dưới bên trái thẻ có ký hiệu chữ CB, nhân viên và liên lạc chữ ZT. Đi lại trong khu vực mặt trận phải mang theo thẻ này để dễ kiểm soát.


Chúng tôi cũng được phát vũ khí. Phần tôi là một quả lựu đạn Phan Đình Phùng (tên xưởng quân giới của ta), loại "lọ mực" làm theo kiểu Nhật. Loại này sử dụng hơi lích kích và kém an toàn, phải quài tay ra sau đập vào gót giầy đinh hoặc vật gì cứng kêu "bép" một cái rồi mới ném đi. Một lần, trong toán chiến sĩ lên phố đánh đêm ghé vào chỗ chúng tôi, có một anh đứng tuổi, trông thấy tôi đeo lựu đạn, anh bảo: "Đưa "lọ mực" đây, đêm nay lên phố tao cho Tây xực luôn. Cho mày cái này, lịch sự hơn". Anh đổi cho tôi một quả lựu đạn mỏ chìa của Pháp.


Sống cảnh trận mạc, nhưng chúng tôi vẫn cứ vui nhộn, có điều kiện thì cũng bày trò chơi. Không hiểu ai kiếm đâu được một quả bóng bàn. Chúng tôi lấy phấn vạch lên đá hoa làm bàn, dựng hộp xì gà làm lưới, lấy nắp hộp làm vợt, đánh bóng với nhau. Một hôm, giữa lúc địch bắn pháo xuống, Cảng và tôi vẫn mê mải đấu bóng, bỗng đâu nghe một tiếng "bịch" rất nặng ngay ngoài cửa sổ sát chỗ chúng tôi chơi. Chạy ra xem, thì đó là một đầu đạn 105, nó rơi ngang nên không nổ và cũng không chui sâu xuống đất, sờ còn nóng rẫy. Nghe tiếng hò reo, anh Phấn chạy ra. Anh hí hửng như bắt được của, cởi luôn áo ngoài bọc quả đạn bê ra sau bếp, hét inh ỏi: "Tất cả chạy ra xa! Tao tháo thử xem sao!" Rồi anh lấy dao, kìm, đặt quả đạn lên đùi, định tháo thật. Nhưng các anh phụ trách kiên quyết không cho tháo, anh Phấn đành ôm đầu đạn ra phía sau, thả xuống một hố nước sâu.


Chắc chắn thanh niên Liên khu II chúng tôi nằm trong số những người đầu tiên đã hát vang bài "Người Hà Nội" của Nguyễn Đình Thi.

Ở tuổi "nhất quỷ nhì ma" của bọn tôi, khi hát vẫn thoáng một nét tinh nghịch. Cứ đến đến câu "bồi hồi chàng trai, những đôi mắt nào" là tất cả lại gật đầu làm hiệu hoặc chỉ tay vào Tài, làm anh chàng đỏ bừng mặt. Bởi Tài là người duy nhất trong bọn đã có được một "đôi mắt nào" để mà "bồi hồi".


Tin tức trong Liên khu nhà đã có nhiều nguồn cung cấp để đăng báo, anh Phục cho chúng tôi tìm cách sang lấy tin mặt trận các Liên khu bạn. Thoạt tiên, Cảng và tôi mò sang Liên khu III. Chúng tôi qua Vọng, vòng các vị trí quân ta ở nhà thương Bạch Mai và Kim Liên rồi men bờ ruộng và đường làng Trung Phụng, lên ngõ chợ Khâm Thiên, định mò ra tận chiến lũy, nhưng lúc ấy địch từ nhà chè Phú Xuân và quán cơm Hỏa xa đang bắn xuống rất rát, anh chỉ huy ở đây không cho đi.


Tiếp đấy, chúng tôi vào Liên khu I. Trong khoảng hơn chục ngày, tôi vào Liên khu I bốn lần. Lần thứ nhất và lần thứ tư đi một mình. Lần thứ hai đi cùng với Cảng. Lần thứ ba đi cùng với Bính - họa sĩ. Cả bốn lần theo một lộ trình không thay đổi, vì trong những ngày ấy thế trận của ta và địch giằng co, đánh nhau quyết liệt nhưng trận tuyến đại để vẫn như cũ. Từ ngã tư Trung Hiền, chúng tôi sang Vọng (mặt trận còn ở trên Kim Liên) sang Ngã Tư Sở (mặt trận còn ở mãi trên Khâm Thiên), Ô Cầu Giấy (địch còn ở tận Nhà tiền Kim Mã), Bưởi (ta đang chặn địch ở dốc Tam Đa), Tứ Tổng, Nhật Tân, đến đây phải xuống bãi, ra tận mép bờ sông, đi ngược lên đến bãi Phúc Xá. Dưới bãi thuộc về ta. Trên đê, địch kiểm soát suốt từ Đầu cầu đến Yên Phụ. Ở Nhật Tân, tôi hỏi thăm Quảng Bá và Nghi Tàm (quê tôi) do ta hay địch kiểm soát, thì không ai trả lời chắc cả. Chờ ở Phúc Xá cho tới khi trời thật tối mới chui qua cầu Long Biên, sang bãi bên kia, trổ lên đê đúng chỗ Cột đồng hồ, đó là cái cổng duy nhất để ra vào Liên khu I. "Lên đê trúng Cột đồng hồ" là vấn đề sinh tử, vì quãng đê còn trong tay quân ta chỉ hai ba trăm mét là cùng - từ Nhà máy nước đá trở xuống qua Bác Cổ, Đồn Thủy... lại là trận địa của quân địch rồi. Từ Cột đồng hồ qua ngõ Phất Lộc vào Hàng Bạc, Ban tuyên truyền Liên khu I đóng trong một căn gác giữa phố này. Chúng tôi chỉ ở lại một vài tiếng đồng hồ để trao đổi tài liệu, chuyện trò, ghi chép, xong phải ra ngay trong đêm vì rạng sáng không chui qua cầu được nữa (địch đóng chốt cả hai đầu cầu và có quân gác trên cầu).


Gặp các anh Ban tuyên truyền Liên khu I, chúng tôi rất mừng, các anh cũng rất mừng và có phần ngạc nhiên. Chúng tôi đưa các anh những số báo "Tin tức" mới nhất và truyền đơn, tài liệu do chúng tôi in. Các anh cho chúng tôi một số bản tin của Liên khu I. Kể cho nhau nghe chuyện đánh giặc và tình hình sinh hoạt. Chúng tôi thích thú và thấy lạ chuyện các anh kể về phố Hàng Buồm: đêm vẫn sáng đèn dầu và nến, các nhà Hoa kiều một số vẫn bán hàng. "Vui ra phết, các cậu vào vài hôm mà xem". Cơ ngơi và quang cảnh Ban tuyên truyền Liên khu I khá giống chỗ chúng tôi: Giấy má bề bộn, chăn chiếu ngổn ngang các góc nhà, ai nấy vui nhưng tất bật và luôn luôn buồn ngủ. Về "của nổi" thì các anh giầu sang hơn chúng tôi: nhiều máy chữ, rất nhiều đồ dùng văn phòng, nhưng "của chìm" thì Liên khu II chúng tôi hơn hẳn, chúng tôi có mấy xưởng in, và gắn với cả một hậu phương rộng lớn. Các anh tặng Ban tuyên truyền Liên khu II bút, giấy đánh máy, giấy than... Các anh bảo: "Tha hồ, muốn lấy bao nhiêu thì lấy", nhưng chúng tôi chỉ gói một số đủ sức mang, vì đường xa. Về cơ quan, tôi báo cáo các anh Liên khu I nói ở nhà in Lê Văn Tân còn nhiều chữ lắm, anh Quỳnh bảo tôi xin lấy một ít. Lần sau vào, tôi hỏi xin, các anh Liên khu I đồng ý và hứa sẽ lấy cho; nhưng rồi sau đó chiến sự biến đổi các anh không vào đấy được nữa.
Logged
vnmilitaryhistory
Moderator
*
Bài viết: 1830



« Trả lời #32 vào lúc: 28 Tháng Tư, 2022, 06:56:55 am »

Tôi đinh ninh sẽ lại vào Liên khu I một lần nữa, lần này nằm hẳn vài ngày để viết bài. Các anh trong ấy còn hẹn tôi vào ăn tết nữa kia. Nhưng rồi mặt trận Liên khu II có diễn biến đột ngột.

Một tối trung tuần tháng 1/1947, tôi nhớ đó là ngày ông Táo lên trời, tôi về Sét có công tác nhà in, rồi ngủ lại đây. Tinh mơ hôm sau, bỗng nghe tiếng súng nổ dồn dập ở phía trên, mỗi lúc một nhiều hơn và gần hơn. Từng đoàn người vội vã kéo về qua. Tôi không tin rằng địch có thể vượt qua được chiến lũy Ô Cầu Dền của chúng ta. Quả thật chúng đã không vượt qua được, nhưng chúng đánh gọng kìm vào phía sau. Địch đổ bộ Vĩnh Tuy, đồng thời tấn công Nhà thương Bạch Mai, từ hai phía tiến về ngã tư Trung Hiền. Trời sáng rõ thì anh em Ban tuyên truyền chúng tôi đã phải vượt dưới làn đạn để về Sét, vì địch ở hướng Vĩnh Tuy đã đến sát ngã tư. Anh Phục về đến nơi, lưng và vai bê bết máu, anh em hoảng lên, tưởng anh bị thương nhưng không phải: Qua ụ ngã tư, gặp một anh tự vệ bị thương, anh Phục cõng người ấy đến trạm xá. Một số đơn vị tự vệ và vệ quốc hành quân lên, nhân viên các cơ quan lần lượt rút xuõng.


Chiều hôm ấy, chúng tôi được lệnh chuyển hết xưởng in ở Sét và chiếc máy in ở Mơ Táo về Khúc Thủy. Thật ra thì số lớn máy móc giấy mực và công nhân ở Sét đã chuyển trước về Khúc Thủy rồi, Tài tham gia cuộc vận chuyển này: chở bằng thuyền từ Sét ra đường số 1, khiêng bộ qua làng Đại Từ sang sông Tô Lịch, lại chở tiếp bằng thuyền đến trên làng Tó thì đi vào sông Nhuệ và xuôi xuống Khúc Thủy - Cự Đà. Lần chuyển nôt này, chúng tôi cũng đi đường ấy, nhưng phải khiêng bộ suôt quãng Đại Từ tới làng Tó. Dân tuyên truyền đều thuộc loại vai học trò, nhưng tất cả chúng tôi đều tận lực. Có toán đi sau, đến Đại Từ thì tối, anh em ngủ luôn trong ngôi miếu giữa cánh đồng. Nhìn về hướng Thủ đô, ngay gần chúng tôi, bầu trời LKII rừng rực khói lửa suốt từ Vĩnh Tuy, Mai Động, qua Chợ Mơ tới Ngã Tư Vọng. Chúng tôi lại nghĩ tới bài hát: "Người Hà Nội":

   Bùng cháy, các phố ta ơi!
   Vùng lên chiến sĩ ta ơi!
   Trời Hà Nội đỏ máu...


Quy là "người hùng" của chúng tôi trong cuộc vận chuyển cấp tốc này. Các bộ phận máy in đều nặng, chúng tôi hai đứa mới khiêng nổi một cái bàn đạp, thế mà một mình Quy nhận lấy cái bánh xe tay quay, nặng hơn rất nhiều. Anh cứ đánh cái bánh xe lăn chồm chồm trên các con đường làng mấp mô, vừa chạy vừa hô "ếp ếp" vượt trước chúng tôi rất xa. Chúng tôi ới gọi bảo anh chạy chậm lại, anh gắt: "Chậm thế đếch nào được? Chậm thì kềnh bố nó ra chứ!". Sau, cái "xe tăng" của anh cứ chạy trước một quãng tựa vào gốc cây chờ anh em.


Cầu làng Quang bắc qua sông Tô Lịch lúc này chỉ còn hai thanh tre bắc ngang, chúng tôi rất vất vả mới đưa được các bộ phận máy in qua mà không ai bị rơi xuống nước. Đường Quang về Tó dễ đi hơn, dọc hai bên vương vãi nhiều bông băng thấm máu, chắc có một trạm quân y nào cũng vừa chuyển qua đây.


Chiến tuyến ở Bạch Mai đã vỡ, nhưng Liên khu II vẫn tiếp tục chiến đấu, và ở nhà in Khúc Thủy, Ban tuyên truyền của Liên khu vẫn gấp rút hoàn thành số báo Tết Đinh Hợi. Đây là số báo đặc biệt in trên bốn trang khổ to, giấy mầu hồng. Các anh phụ trách động viên chúng tôi viết bài "phông" cho số tết. Bài của Thướng được giải nhất và được đăng. Bài này mang cái tít độc đáo, mỗi một từ: Anh! Ca ngợi tinh thần chiến đấu bất khuất của chiến sĩ bảo vệ Thủ đô. Số báo ấy in nhiều hơn thường lệ, sau khi phân phát đi các đơn vị, còn dành ra một phần phát hành cho dân chúng, dạo ấy người Hà Nội tản cư còn tập trung khá đông ở vùng Cự Đà, nơi ấy vẫn thoang thoáng cái vẻ dập dìu của các "tài tử giai nhân" thời chiến. Anh Quỳnh cho chúng tôi biết: hồi ấy phần lớn đội thiếu nhi Hàng Bè theo gia đình tản cư ra Cự Đà, đã thường xuyên giúp việc phát hành báo "Cứu quốc thủ đô" và báo "Tin tức".


Số "Tin tức" Tết Đinh Hợi là số báo cuối cùng của chúng tôi.

Tôi 30 Tết anh Quỳnh triệu tập tất cả, ngồi gọn trên hai tấm chiếu. Đêm yên tĩnh. Nhìn về hướng Hà Nội, trời vẫn sáng lên vài đám hồng hồng. Anh Quỳnh nói sơ về tình chiến sự và nhấn mạnh kháng chiến còn lâu dài gian khổ. Anh động viên chúng tôi tiếp tục tham gia kháng chiến đến thắng lợi cuối cùng. Anh nói: "Con đường của tất cả chúng mình là "cờ - bờ - chờ ngờ " - cán bộ chuyên nghiệp. Các cậu đừng tưởng đã sớm quay về đi học được đâu".


Đó là buổi họp mặt đông đủ cuối cùng của Ban tuyên truyền Liên khu II và cuộc nói chuyện ngắn của anh Quỳnh là lời nhắn nhủ chuẩn bị chia tay. Dần dần anh Phục, anh Quỳnh và anh em lần lượt chuyển đi công tác khác, nhà in bây giờ hoàn toàn là nhà in của báo "Cứu quốc thủ đô" và cũng rục rịch di chuyển.

Ban tuyên truyền Liên khu II chúng tôi đã hoàn thành nhiệm vụ.

NGUYỄN CHƯƠNG
Logged
vnmilitaryhistory
Moderator
*
Bài viết: 1830



« Trả lời #33 vào lúc: 28 Tháng Tư, 2022, 06:58:10 am »

CHẶN ĐÁNH GIẶC Ở TRƯỜNG HÀM LONG


Ngay trong đêm 19/12/1946 khi lực lượng Vệ quốc quân còn phải đảm nhiệm việc đánh chiếm các vị trí tập trung của địch như ở bưu điện Bờ Hồ, Bắc Bộ phủ, nhà Sainteny và rạp chiếu bóng Majestic thì tự vệ chiến đấu của Liên khu II cũng phải giải quyết nhanh các ổ tác chiến của địch ở số nhà 74 phố Jacquin (Ngô Thì Nhậm) và đầu ngõ Bernard de Beau (Nguyễn Chế Nghĩa). Hai ổ tác chiến của địch đều nằm trong địa bàn của tiểu khu Chợ Hôm. Và chỉ trong ngày 20/12/1946, tự vệ chiến đấu đã buộc hai tác chiến của địch phải rút chạy.


Ngày 21/12/1946 địch nổ súng tấn công từ ngã tư Hàng Bài - Phố Huế. Các tổ Vệ quốc cùng tự vệ đã phối hợp với nhau canh chừng và đánh địch khi chúng kéo bộ binh xuống. Nhưng độ nửa giờ sau thì địch im tiếng súng và cả ngày hôm ấy chiến sự ở Liên khu II tương đối im lặng.


Trụ sở của tự vệ tiểu khu Chợ Hôm đóng ở số nhà 108 Phố Huế. Nơi đây có cổng thông sang phố Charron (Mai Hắc Đế). Chúng tôi nhận định cuộc tấn công của địch ngày 21/12 là để thăm dò cách phòng ngự của ta và để chúng chuẩn bị cuộc tấn công sắp tới. Tôi phụ trách lực lượng tự vệ của tiểu khu Chợ Hôm đã phối hợp với Vệ quốc quân của đại đội 3 do Bảo Cường làm đại đội trưởng và Lê Ngọc Tấn làm chính trị viên thuộc tiểu đoàn Hoàng Kiện (Lê Ngọc Tấn nay là đại tá Cục chính trị Tổng cục hậu cần, đã về hưu). Tấn và tôi bàn cách bố trí lực lượng chặn đánh địch, cùng nhận thấy ngã tư Hàng Bài - Phố Huế và trường Hàm Long là hai nơi mà địch sẽ tấn công xuống. Chúng tôi đã bố trí 5-6 tự vệ với một tổ Vệ quốc quân để giúp nhau về vũ khí chiến đấu...


Tảng sáng ngày 22/12/1946, chúng tôi vừa bố trí xong lực lượng thì thấy anh Lê Ninh trong đội hỏa thực (tiếp tế) đã đem cơm nắm, thịt kho khiêng lên phân phát cho tất cả mọi người, không phân biệt tự vệ hay vệ quốc (sau này anh Lê Ninh lấy tên là Lê Khởi Nghĩa, là thư ký riêng cho thủ tướng Phạm Văn Đồng suốt chín năm kháng chiến chống Pháp). Nhìn anh cao lêu nghêu, gầy gò, hai tay ôm thúng cơm nặng, lưng giắt quả lựu đạn, quần áo lấm lem vôi gạch... anh em vệ quốc và tự vệ thương anh lắm, vì có được số cơm nắm nhiều như thế này thì các anh, chị Ban tiếp tế phải thức suốt đêm qua mới làm xong.


Mọi người vừa ăn cơm, vừa chỉ cho nhau nơi nấp chặn đánh địch và hướng tấn công của chúng. Một lúc sau thì súng địch nổ dữ dội. Có anh vội vứt bỏ nắm cơm đang ăn dở, có anh cẩn thận gói lại cất vào túi rồi cầm lấy vũ khí của mình chạy lên nằm sát chân tường có hàng rào song sắt sát với hè đường. Địch từ ngõ Nguyễn Chế Nghĩa nổ súng rất mạnh vào vị trí trường Hàm Long. Chúng định chiếm lấy trường này làm vị trí thọc sâu xuống Phố Huẽ và đường Jacquin, Lò Đúc... lực lượng của ta cũng chặn đánh địch quyết liệt bằng lựu đạn và súng trường nổ từng phát một nhằm vào những tên liều lĩnh định vượt qua tường sang trường Hàm Long. Hai bên cầm cự nhau suốt gần một giờ. Mặc dù địch có nhiều súng đạn, bắn không tiếc, nhưng anh em tự vệ và vệ quốc vẫn bám chặt lấy vị trí. Chúng kéo đến một xe Halftrack (xe bọc thép) bố trí ở ngay đầu ngõ Nguyễn Chế Nghĩa, bắn súng trọng liên 13,2 ly vào trường. Bộ binh chúng đã chiếm được mấy căn nhà gác bắn xuống sân trường. Quân ta ở vị trí thấp nên bất lợi, tuy vậy anh em vẫn nằm sát chân bờ tường chờ kẻ địch nào liều lĩnh vọt qua đường là nổ súng hạ ngay. Anh em vệ quốc thấy khẩu súng 13,2 ly của địch rất lợi hại bắn ghìm đầu nên một anh được lệnh cảm tử đứng thẳng người mặc luồng đạn của địch bao quanh người, lao quả đạn Bảo toàn (là viên đạn đại bác 75 ly có buộc kèm một đoạn tre dài do ông Trần Đại Nghĩa sáng kiến chế ra thay cho bom ba càng nguy hiểm vì phải hi sinh cả người cầm bom lao vào xe địch) ra giữa đường. Đạn nổ làm chiếc xe Halftrack bốc cháy... Địch im tiếng súng và rút quân... Trận đánh đầu tiên làm cho anh em vệ quốc và tự vệ thêm được kinh nghiệm chiến đấu. Cả ngày hôm ấy, tôi và anh Tấn lên thăm lại các vị trí và sắp xếp lại lực lượng đón chờ trận chiến ngày hôm sau. Tối hôm ấy anh Hồng Hà và anh Tích (Trần Vỹ) phó bí thư LKII đã họp với chúng tôi để nhận định kế hoạch tác chiến mới. Một lực lượng tự vệ được điểu lên phối hợp chặn đánh địch ở trường Hàm Long là một vị trí quan trọng mà địch cố chiếm bằng được.


Anh em đang chỉ cho nhau cách ẩn nấp đánh địch thì bất ngờ súng địch nổ ráo riẽt và lúc này cả mặt trận LKII ầm ầm tiếng súng. Tôi không nắm được tình hình chiến sự mặt Phố Huế mà chỉ biết có chiến sự ở trường Hàm Long. Ta nổ súng chặn địch rất bình tĩnh, đĩnh đạc. Khi có tên địch liều vượt qua đường bị hạ gục, em Lương là liên lạc theo sát tôi chỉ lăm le xông ra cướp súng địch. Tôi phải kìm em lại và quát không cho em mạo hiểm như vậy. Tiếng súng của hai bên vẫn nổ chát chúa. Vì ta ở vị trí thấp nên sau một lúc chặn đánh địch, anh em vệ quốc và tự vệ phải rút lui vào hàng hiên của trường bắn trả. Hai bên cầm cự nhau chỉ cách có khoảng đường nhỏ hẹp. Kẻ địch muốn nhảy vào sân trường nhưng có tên nào nhô lên khỏi hàng rào song sắt là bị trúng đạn gục xuống ngay nên sau một hồi ráo riết xung phong, địch không vào được sân trường lại bị thiệt hại nặng nên chúng rút về bên kia đường. Chợt một chùm lựu đạn của địch tung sang ở sân trường nổ làm bốc lên làn khói đỏ như bụi gạch. Anh em hít phải hơi đó thấy cay sè mắt mũi và đắng họng, phổi như bị hun lửa. Lúc này anh em còn chưa hiểu địch dùng loại vũ khí gì, nên ai cũng ôm ngực ho rồi ào ào rút lui qua các lỗ tường đục ở các nhà về phía sau. Tôi cũng hít phải hơi khói ấy, nước mắt, nước mũi ràn rụa, biết là địch ném lựu đạn hơi cay, chúng tôi bảo nhau dùng khăn tay hoặc xé vạt áo bịt chặt mũi miệng lại, rồi trèo lên gác cao để tránh làn khói độc và để nổ súng đánh địch nếu chúng tràn sang trường...


"Không ai được rút lui! Không ai được rút lui!". Tôi gào lên như vậy, nhưng chắc không ai nghe tiếng tôi được vì tôi đã bịt chặt mũi và miệng, nên anh em vẫn ào ào chui qua tường rút lui. Tôi phải nắm từng người lại rồi chỉ cho anh em lên gác cao tránh luồng khói cay. Gió bắc thổi mạnh xua tan ngay làn khói đỏ như bụi gạch. Mọi người lại ở vị trí chiến đấu trên cao, nhằm sang sân trường nổ súng chặn địch. Đồng chí tiểu đội trưởng vệ quốc đi thu thập từng người, dẫn về vị trí cũ án ngữ cuộc tấn công mới của địch. Qua cơn hoảng sợ anh em tự vệ lại cười nói chuyện tếu, cũng trở lại bố trí trong các lớp học của trường. Lúc này tôi đã đỡ tức ngực, nằm dài xuống sàn nhà để thở thì Tấn đưa thêm tiểu đội vệ quốc lên bổ sung. Thấy chị cứu thương đang làm hồi sức cho tôi, anh Tấn hỏi ngay: "Tuấn bị thương à?".

- Mình bị tức ngực thôi vì hít phải nhiều khói độc... Lúc nãy anh em còn chưa hiểu địch dùng thứ vũ khí gì nên có hoang mang, nay lại về vị trí cũ rồi... Địch cũng không dám chiếm đóng trường Hàm Long.

- Mình nghe tiếng súng ở mạn này bất chợt im lặng, sợ phòng tuyến bị thủng nên đưa thêm một tiểu đội lên hỗ trợ... Tuấn về phía sau nghỉ, mình sẽ ở lại đây với anh em. Cậu chú ý mặt phố Jacquin và bên kia phố Charron nhé... đề phòng địch thọc xuống bao vây quân mình phía trên nóc.

Tôi và em Lương khó nhọc chui qua các lỗ đục tường xuống phía dưới gặp anh Oánh (đại tá Lê Thanh Quang, phó tư lệnh tỉnh Hà Sơn Bình cũ), anh cho biết tin về tình hình địch:

Bọn Pháp cho hai cánh quân đánh dọc phố Jacquin, đã chiếm đoạn phố Laveran (Lê Văn Hưu) và ngã tư Lò Đúc (Armand Rousseau), bên kia đường chúng đã tung quân theo đường Gia Long (Bà Triệu bây giờ) đánh quặt sang phố Riquier (Nguyễn Du), tiến xuống cuối phố Charron... Mình chặn đánh địch mặt Phố Huẽ bên này, còn phía Charron chưa có ai chỉ huy. Tuấn sang bên ấy cản địch lại, đừng để cho chúng cắt đuôi chúng mình...


Tôi kéo em Lương theo đường giao thông hào qua mặt đường Phố Huế đoạn phố Trần Xuân Soạn (Harmand), sang được bên kia đường, chúng tôi lần theo lỗ đục tường thấy cuối đường Charron có một tổ tự vệ bốn người đang canh chừng địch có chiếc xe án ngữ ngã tư Miribel (Trần Nhân Tông) và Charron (Mai Hắc Đế). Một anh hỏi tôi: "Chúng mình bị cắt đuôi rồi hở anh?".

- Mặc kệ, nó chỉ dám chặn đường bằng xe tăng thôi còn bộ binh không dám liều lĩnh chui vào các nhà đâu, chúng mình sẽ tìm cách bật chiếc xe này là xong... Anh nào có lựu đạn đi với tôi xuống gần chỗ xe tăng nào.

Một anh đeo lựu đạn và mấy chai ét-xăng crếp hăng hái đi ngay. Tôi kéo em Lương và anh tự vệ xuống cuối Phố Huế đến đầu ngã tư Miribel, trèo lên gác, nhìn qua khe cửa sổ thấy rõ mồn một chiếc xe tăng ngay dưới đường. Mấy tến lính Pháp nghênh ngang tựa vào thành xe hút thuốc lá phì phèo.


Tôi bàn với anh tự vệ là bất thần mở cửa sổ trên gác ném lựu đạn và chai xăng vào xe địch, trong khi tôi nổ súng bắn vào lũ bộ binh của chúng... Bất chợt, chúng tôi đẩy cánh cửa sổ, anh tự vệ ném quả lựu đạn cùng với hai chai xăng-crếp. Tôi nổ cả băng đạn vào tụi bộ binh. Em Lương có quả lựu đạn mỏ vịt cũng "làm ăn" theo. Địch bị tấn công bất ngờ, tưởng lực lượng của ta đã đến chặn đánh chúng nên rối loạn chạy vào ẩn nấp sau xe tăng. Khi thấy nòng súng đại bác trên tháp xe quay về phía trạm gác chúng tôi đang nấp, tôi liền kéo em Lương và giục anh tự vệ trượt nhanh xuống cầu thang, luồn qua lỗ đục tường lên mấy nhà phía trên. Vừa chui qua được mấy nhà thì tiếng đại bác nổ chói tai. Em Lương lè lưỡi nhìn tôi cười nói: "Chậm một tí thì anh em mình bay cả lên trời rồi".


Sau phát đại bác của địch phá nát căn gác, tôi nghe thấy tiếng xe địch gầm rú chạy ra xa về phía ngã tư phố Lê Lợi (Bà Triệu dưới).

Tiếng súng toàn mặt trận LKII đột nhiên im ắng... Chúng tôi về trụ sở của ban chỉ huy tiểu khu Chợ Hôm lúc này đã lui xuống đóng ở nhà Bùi Duy Dần (hiệu thuốc quận Hai Bà Trưng bây giờ).

Ban đêm anh em tự vệ và vệ quốc lại trở về các khu phố của LKII, đánh địch trong các vị trí đóng quân của chúng làm cho địch không yên thân để mở các cuộc tấn công mới.

Năm mươi năm, một nửa đời người... Năm mươi năm kể từ ngày đất nước đã đứng lên kháng chiến chống quân ngoại xâm, kiên quyết lấy tính mạng của mình để bảo vệ nền độc lập non trẻ của nước nhà và sống chết với lời thề "bảo vệ Thủ đô"... Năm mươi năm ấy vẫn là những kỷ niệm bồi hồi của những chàng trai, cô gái trẻ năm xưa, con em của Hà Nội thân thương đã đổ máu xương của mình giữ gìn Thủ đô của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa...

LÊ TUẤN
Logged
vnmilitaryhistory
Moderator
*
Bài viết: 1830



« Trả lời #34 vào lúc: 28 Tháng Tư, 2022, 06:59:01 am »

TRẬN ĐÁNH BẢO VỆ TRỤ SỞ ĐẦU TIÊN
CỦA BỘ TỔNG THAM MƯU


Số nhà 18 Nguyễn Du, thời thuộc Pháp là trường mồ côi, đến thời Nhật trở thành trại lính, sau Tổng khởi nghĩa Tháng Tám, tự vệ khu phố dùng làm nới hội họp. Với diện tích gần 1000m2, có sân rộng tường cao, một nhà lớn hai tầng 30m dài, 8m rộng, xa nơi đóng quân của lính Tưởng và các đơn vị quân Nhật vẫn còn trong thành phố. Ngày 9/9/45 đại tướng Hoàng Văn Thái, người được Chủ tịch Hồ Chí Minh giao nhiệm vụ làm Tổng tham mưu trưởng đầu tiên của quân đội, đã chọn nơi này làm trụ sở của Bộ Tổng tham mưu.


Tại đây, trong thời gian một năm ba tháng mười ngày, tức là cho tới ngày 19/12/1946, ngày mở đầu cuộc kháng chiến toàn quốc chống Pháp, cơ quan được sự chăm sóc ân cần của Hồ Chủ tịch, sự đi sát giúp đỡ thiết thực của đồng chí Võ Nguyên Giáp, sự động viên ủng hộ của toàn quân đã từ không đến có, từ nhỏ đến lớn, vừa học vừa làm, vừa làm vừa tiến bộ... nhanh chóng định hình về mặt tổ chức với bốn bộ phận: tác chiến đồ bản, tình báo, thông tin liên lạc và văn phòng. Và khẩn trương đi vào thực thi những nhiệm vụ trọng đại đã được giao: nắm địch, nắm ta, nắm các khu vực chiến trường, chi viện người và của cho cuộc kháng chiến chống Pháp của đồng bào miền Nam; đối phó thắng lợi với âm mưu, thủ đoạn lật đổ của quân đội Tưởng và bọn tay sai Việt cách, Việt quốc của chúng ở miền Bắc; xây dựng bộ đội và dân quân; tổ chức chiến trường; cùng các cơ quan có liên quan tổ chức ra các mặt trận bảo đảm... đến khi có Hiệp định Sơ bộ 6/3/1946 Chính phủ ta ký với Pháp thì kịp thời xây dựng và tổ chức việc thi hành Hiệp định, nhận Pháp vào, thúc Tưởng rút, đấu tranh chống những hành động vi phạm của Pháp và chuẩn bị về mọi mặt để sẵn sàng quật lại nếu Pháp bội ước gây chiến... Tất cả những cố gắng đó đã góp phần không nhỏ vào thành công to lớn của cuộc đấu tranh bảo vệ và phát huy thành quả cách mạng của nhân dân ta theo đường lối, chủ trương chiến lược, sách lược của Đảng và Hồ Chủ tịch, bảo đảm cho đất nước đi vào chiến tranh một cách chủ động, ngay trong cuộc đụng độ đầu tiên đã có thể khẳng định "Ta nhất định thắng".


Chủ tịch Hồ Chí Minh, lãnh tụ tối cao của Đảng và của dân tộc, người cha thân yêu của các lực lượng vũ trang, mặc dù còn phải lo trăm công ngàn việc, vẫn dành cho thủ trưởng và cơ quan Bộ Tổng tham mưu một sự quan tâm và ưu ái to lớn.


Ngày 7/9, tại nơi làm việc ở phủ Bắc bộ, Người đã trao nhiệm vụ cho Tổng tham mưu trưởng Hoàng Văn Thái một cách đầy đủ, rõ ràng kèm theo là lời động viên khuyên khích rất mực thân tình.

Ngày 20/12/1945, nhân dịp kỷ niệm một năm ngày thành lập Đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân 22/12/1944 - 22/12/1945, Người đã đến thăm cơ quan, kiểm tra nơi ăn chốn ở và công việc đang được tiến hành, khen ngợi anh chị em phấn đấu tiến bộ, căn dặn anh chị em về những công việc trọng tâm trước mắt phải dồn sức vào làm, đặc biệt là vấn đề chi viện cho đồng bào, đồng chí miền Nam đánh giặc, rồi chúc anh chị em sức khỏe dồi dào, hoàn thành tốt nhiệm vụ.


Đêm giao thừa và ngày mồng 1 Tết Bính Tuất, Người còn gọi điện thoại xuống cơ quan chúc mừng năm mới, cơ quan sơ xuất, lúc giao thừa không có thường trực, ngày mồng 1, Người gọi lại, gặp được Tổng tham mưu trưởng Hoàng Văn Thái, Người chúc mừng năm mới rồi nhẹ nhàng phê bình và nhắc nhở thủ trưởng tham mưu phải làm gương cho toàn quân noi theo về tinh thần cảnh giác và chấp hành nghiêm chỉnh các chế độ quy định.


Đồng chí Võ Nguyên Giáp, người anh cả của các lực lượng vũ trang cũng năm lần đến với cơ quan, nói chuyện thời sự, phổ biến chủ trương, kiểm tra công việc, khuyến khích, biểu dương và chỉ dẫn bổ sung những điều cần thiết. Mỗi lần đồng chí đến là một lần cơ quan được tiếp thêm nguồn sinh lực để vươn tới.


Quân viễn chinh Pháp vào theo những điều khoản của Hiệp định Sơ bộ và những quy định cùng ta ký kết trong an toàn và trật tự. Nhưng chỉ một thời gian ngắn sau, ý đồ xấu xa phá hoại Hiệp định và dã tâm xâm lược của chúng đã bộc lộ ra bằng những hành động khiêu khích và lấn chiếm ngày một quy mô và trắng trợn ở nhiều nơi trên đất nước ta và ngay cả ở Thủ đô Hà Nội.


Bộ Tổng tham mưu là một trong những mục tiêu hàng đầu trong kế hoạch của quân đội viễn chinh Pháp nhằm đánh chiếm Hà Nội. Trong tháng 9/1946, hai lần chúng đã cho xe tăng thiết giáp đến chạy vòng quanh trụ sở cơ quan gây khiêu khích và là để tập dượt. Chúng còn móc ngoặc với một gia đình người Hoa luôn trưng cò Trung Hoa dân quốc, nhà ở số 63 dốc Hàng Kèn, ngay bên sườn phải của trụ sở cơ quan, chúng bố trí ở đó một ổ tác chiến bí mật, đêm 19/12 bọn này nổ súng cản trở việc di chuyển của bộ đội và cả đồng bào ta tản cư, ta mới phát hiện.


Đến ngày 19 cơ quan đã hoàn thành việc di chuyển ra ngoại thành để phục vụ việc chỉ huy tác chiến và chuẩn bị để sau đó hành quân tiếp lên An toàn khu tại căn cứ địa Việt Bắc. Trụ sở cơ quan được tổ chức lại thành chốt đề kháng, hạt nhân của một tổ chức phòng ngự, triển khai trên một khu vực tương đối rộng bao gồm cả các đoạn đường phố liên quan trên hai hướng đông và tây, phán đoán địch sẽ sử dụng liên tiếp quân tiếp cận, ngày đầu do lực lượng đội cảnh vệ cơ quan canh giữ, sau được trung đội Trần Thành thuộc đại đội 1, tiểu đoàn 77 vệ quốc đoàn Liên khu II Hà Nội về thay thế. Một trung đội khác của đại đội I phối hợp với một tiểu đội tự vệ phố Bà Triệu do đại đội trưởng đại đội I trực tiếp chỉ huy, ngay trong ngày 21 đã tiêu diệt gọn ổ tác chiến của địch ở số nhà 63 dốc Hàng Kèn (phố Bà Triệu ngày nay) gạt bỏ được mối nguy hiểm bên sườn trụ sở.


Trung đội Trần Thành về chiếm lĩnh trụ sở, tranh thủ thời gian khẩn trương củng cố vững chắc thêm vị trí chiến đấu đã được đơn vị cảnh vệ ở đó trước chuẩn bị, đưa tiền duyên phòng ngự ra hẳn đường phố, đào hầm cản xe cơ giới và làm trận địa công sự bố trí tổ chống tăng cách cổng trụ sở 50m trên hướng từ ngã năm vào, đoán sẽ là đường tiến quân tiếp cận chính của địch. Cuối ngày 21, anh em đã vào ở trong tư thế sẵn sàng nghênh chiến.
Logged
vnmilitaryhistory
Moderator
*
Bài viết: 1830



« Trả lời #35 vào lúc: 28 Tháng Tư, 2022, 06:59:33 am »

Lúc này, các vị trí của ta ở phía trước như trụ sở Đội tự vệ chiến đấu củu quốc Hoàng Diệu ở Đấu Xảo, trụ sở công ty Hỏa xa Vân Nam, trụ sở Sở Công an thành phố, trụ sở Bộ Quốc phòng và cả trại Trung ương Vệ quốc đoàn đều đã lọt vào tay địch; ta không chủ trương phòng ngự cố thủ giữ đất mà là tranh thủ tiêu hao, tiêu diệt được thật nhiều sinh lực địch, ngăn chặn được địch, kéo dài được chừng nào hay chừng nấy rồi rút lui để bảo toàn lực lượng đánh tiếp và kháng chiẽn lâu dài. Trận địa nơi trung đội Thành bố trí, ngày đầu là ở trong sâu, nay đã trở thành một mũi đột xuất ra ở ngay phía trước. Nhiệm vụ trung đội Trần Thành được giao quả thực là nặng nề và quan trọng, không chỉ vì lý do mục tiêu bảo vệ là trụ sở vừa đây của Bộ Tổng tham mưu, bộ phận quan trọng hàng đầu của tổng hành dinh, mà còn vì nơi đây hiện đang là chỗ sơ cứu những chiến sĩ và cả đồng bào bị thương từ các trận tuyến trước tập trung về chưa kịp đưa hết về tuyến sau, có đến 30 người vẫn còn tồn đọng. Dứt khoát mục tiêu bảo vệ phải giữ cho kỳ được. Trần Thành, Mát Chư - chiến sĩ quốc tế người Nhật - phó của Trần Thành và tất cả các anh em trong đơn vị đều xác định quyết tâm như vậy. Khó khăn to lớn là toàn trung đội có ba tiểu đội, mỗi tiểu đội chỉ có năm, sáu khẩu súng trường còn là mác búp đa, mã tấu, mỗi người có ba, bốn quả lựu đạn, phần lớn là loại lọ mực Phan Đình Phùng, cả trung đội có một trung liên với 200 viên đạn và một quả bom ba càng, vũ khí chống tăng lợi hại duy nhất.


Ngày 22/12, địch dùng một lực lượng nhỏ từ hai hướng đông tây tiến đánh mang tính chất thăm dò. Ở đây ta có: tự vệ khu Bảy Mẫu bố trí dọc đường Bà Triệu, đại đội tự vệ khu Chợ Hôm bố trí dọc đường Lê Văn Hưu và phố Duy Tân, phối hợp còn có nửa tiểu đội tự vệ sinh viên khu học xá (có khẩu đại liên là loại trang bị mạnh và hiếm đối với ta khi đó) chốt ở góc Nguyễn Du - Duy Tân hướng về phố Lê Văn Hưu. Quân ta kịp thời nổ súng chặn đánh, buộc địch phải rút.


Cuộc tấn công quy mô lớn của quân địch nhằm đánh chiếm trụ sở Bộ Tổng tham mưu ta ngày hôm sau, 23/12 diễn ra quyết liệt từ 8 giờ sáng. Sau đợt pháo bắn chuẩn bị, bộ binh địch có xe tăng và xe bọc thép đi cùng đã triển khai lực lượng tiến quân từ hai hướng. Hướng thứ yếu, một đại đội có một xe tăng từ đường Nguyễn Công Trứ và Lê Văn Hưu sang, sớm bị bộ đội ta và tự vệ dựa vào hệ thông vật chướng ngại dựng kẽ tiếp nhau trên lòng đường, ngăn chặn thắng lợi. Hướng chính có một đại đội Lê dương mũ đỏ có bốn xe tăng và xe bọc thép theo đường Bà Triệu xuống, sau khi chiếm lại nhà 63 dốc Hàng Kèn, chúng tạo lại mối uy hiếp trận địa ta từ bên sườn và triển khai lực lượng tại ngã năm rồi từ đó tiến vào đường Nguyễn Du tiếp cận trận địa ta bố trí. Ta dựa vào công sự thiết lập phía sau tường bao, cơ động dùng trung liên, súng trường và lựu đạn bắn và ném chính xác vào quân địch, gây cho chúng thiệt hại về sinh lực. Phát hiện ta chỉ có hỏa lực của trung liên, súng trường cùng lựu đạn, một xe tăng địch xông lên dẫn bộ binh xung phong. Xe tăng là lực lượng đột kích vô cùng lợi hại của quân địch, chống nó ta chỉ có một quả bom ba càng, trận địa chống tăng của ta cách cổng trụ sở có 50m. Trần Thành quyết định: đúng lúc xe tăng địch phải dừng lại trước hố ta đào, anh xông lên phía sườn xe tăng và đâm bom ba càng. Một tiếng nổ long trời, xe tăng địch đứt xích nằm chềnh ềnh ra trên đường phố. Địch bắn Trần Thành bị thương vào tay, nén đau, anh xoay lại, bò về phía cổng trụ sở. Khoảng 20 tên lính mũ đỏ xông lên định bắt sống, Trần Thành liền quay phắt trở lại và liền một lúc cho nổ luôn hai quả lựu đạn về phía bọn địch đang xô tới. Anh hy sinh anh dũng, lúc đó là 10 giờ 30 phút. Xác cả chục tên địch ngổn ngang cách anh không xa. Không ngờ bị đánh một đòn choáng váng, cả khối quân địch đang tấn công ùn lại không tiến tiếp. Một tên đại úy ngồi xe gíp từ phía sau xông lên (có thể đó là tên chỉ huy) để xử lý tình huống. Mát Chư, phó của Trần Thành đã kịp thời dùng trung liên bắn diệt, bốn tên lính lên lấy xác tên đại úy cũng bị anh em ta bắn chết.


Nhưng rồi cuộc tấn công của địch lại tiếp tục, khoảng 11 giờ một bộ phận nhỏ quân địch đã lọt được vào ngôi nhà gỗ nhỏ góc phía tây sân trước, từ đó chúng định phát triển đánh tiếp đến ngôi nhà lớn hai tầng. Quân ta, dưới sự chỉ huy của Mát Chư dồn lực lượng về đối phó. 15 giờ Mát Chư trúng đạn hy sinh, anh em vẫn kiên cường tiếp tục đánh chặn giết thêm được nhiều địch, không cho chúng tiến được tới khu nhà lớn.


Rồi trời tối dần, địch không tiến lên được, chúng bắt đầu rút quân. Ta củng cố lại vị trí chiến đấu, tổ chức chuyển tất cả những người bị thương về phía sau an toàn. Và đến 21 giờ, tất cả rút khỏi trụ sở về tập kết tại vị trí mới theo kế hoạch đã dự kiến.


Trận này ta giết và bắn bị thương khoảng 45 tên địch, có một đại úy bị giết, phá được một xe tăng của địch bằng bom ba càng. Ta có 18 vệ quốc quân và 12 tự vệ bị chết và bị thương. Trong số hy sinh có Trần Thành và Mát Chư, trung đội trưởng và trung đội phó.


Chiến công của trung đội Trần Thành cùng tấm gương hy sinh anh dũng, vô cùng lẫm liệt của anh, giữ được trụ sở cơ quan quan trọng hàng đầu của tổng hành dinh là Bộ Tổng tham mưu và bảo vệ được một số lượng đáng kể thương binh chưa kịp chuyển đi, làm thất bại cuộc tấn công quy mô bằng một binh lực có ưu thế áp đảo của quân địch, là phần đóng góp sáng giá vào thắng lợi chung to lớn của cuộc chiến chiến lược 60 ngày đêm của quân và dân Thủ đô, mở đầu thành công cuộc kháng chiến toàn dân chống Pháp.

ĐỖ ĐỨC KIÊN
(Theo tài liệu Tổng kết chiến thuật về
trận đánh ở BTTM của phòng Khoa học
công nghệ thuộc BTLQK Thủ đô)
Logged
vnmilitaryhistory
Moderator
*
Bài viết: 1830



« Trả lời #36 vào lúc: 05 Tháng Năm, 2022, 06:28:08 am »

TRẬN CHIẾN ĐẤU PHÒNG NGỰ Ô CẦU DỀN
(Từ 26 đến 28 tháng 12 năm 1946)


Ô Cầu Dền là ngã tư phố Duy Tân - Nam Bộ và Đại Cổ Việt - đê Bành Lao (nay là Phố Huế, Bạch Mai, Đại Cồ Việt và Trần Khát Chân). Đây là một trong các cửa ngõ ra vào nội thành lúc bấy giờ. Đầu phố Duy Tân - Nam Bộ trong phạm vi gần cửa ô là nhà gạch, có một số nhà hai tầng, như trường học Duy Tân, nhà Vạn Vân, nhà sữa Minh Ngọc, v.v... Đường Nam Bộ (Bạch Mai) là đường độc đạo xuống ngã tư Trung Hiền. Một mương thoát nước chạy dọc phía nam sát ngang đường Đại Cồ Việt và đê Bành Lao đến tận hồ Thanh Nhàn. Mương rộng chừng 15m nước, sâu hơn 1m, về mùa khô cây cầu xi măng bắc qua mương dài khoảng 20m là điểm nối của hai phố Duy Tân và phố Nam Bộ. Hai bên đường Đại Cồ Việt - Bành Lao là bãi và ruộng trồng rau, xen kẽ hồ ao. Địa hình ấy tạo thuận lợi cho ta tổ chức một chốt phòng ngự chặn địch nống ra phía nam Hà Nội. Đối với Liên khu II thì chốt cửa ô này chặn địch tiến vào khu Bạch Mai, căn cứ của Liên khu, trong đó có sở chỉ huy của các đơn vị, trạm y tế, kho thuốc, kho lương thực, v.v...


Sau khi đánh chiếm được trụ sở Bộ Tổng tham mưu (16 và 18 Nguyễn Du), Chợ Hôm - Đức Viên, ngày 23/12/1946, địch đã khống chế được khu vực phía bắc đường Đại Cồ Việt, phố Duy Tân. Chúng đã chiếm trường học Duy Tân, nhà nước mắm Vạn Vân, nhà sữa Minh Ngọc (khu vực quanh ngã ba phố Thịnh Yên - Huế bây giờ). Địch và ta chỉ cách nhau chừng 50-60m. Gần đó địch đóng ở nghĩa địa Tây, nhà Rượu, nhà Diêm, một số nhà cao ở phố Duy Tân, phố Lê Bình, v.v...


Như vậy Ô Cầu Dền là điểm ta và địch trực tiếp tiếp xúc, ranh giới là đường Đại Cồ Việt, đê Bành Lao.

Lực lượng phòng ngự tại đây là đại đội 3, tiểu đoàn 77 do đồng chí Nguyễn Mẫn làm đại đội trưởng (đại đội này nguyên của tiểu đoàn 56 bổ sung sang tiểu đoàn 77). Lực lượng bố trí chủ yếu ở Ô Cầu Dền gồm có một trung đội phía đường Đại Cồ Việt, một trung đội tự vệ Duy Tân. Hai tiểu đội phía đê Bành Lao ngăn địch phía Đống Mác vào.


Lực lượng đơn vị bạn phía Ô Đống Mác, Thanh Nhàn có một đại đội của tiểu đoàn 212. Vũ khí có một đại liên bố trí cạnh chiến lũy, một trung liên ở đình Tô Hoàng chặn địch phía đường Đại Cồ Việt, một trung liên phía đê Bành Lao. Đơn vị mới được tăng cường hai quả bom ba càng. Ngày 28/12 đơn vị được trên giao cho khẩu badôca Mỹ, với năm viên đạn. Đây là khẩu badôca duy nhất của Hà Nội.


Ngay từ giữa tháng 12 ta đã đắp một ụ chắn phía nam con mương chặn suốt chiều ngang đường Nam Bộ. Khi chiến sự chưa xảy ra, ta bớt một đoạn phía đường tàu điện để nhân dân đi lại. Từ chiều 19/12 trở đi ta đắp nốt, rất kiên cố. Hàng trăm cọc sắt, tà vẹt, cọc tre đóng chặt xuống đường rồi xếp bao cát, đào đất ở mương lên đắp cao tới 4m, chân rộng 8m, mặt từ 4-5m. Tiếp đó rất nhiều bàn ghế, tủ giường, đồ vật cồng kềnh được xếp quanh ụ. Phía đường Duy Tân ta úp nồi niêu rổ rá, trải rơm, xếp bàn ghế tủ giường khắp mặt đường kéo dài hàng trăm mét để nghi binh lừa địch. Phía đê Bành Lao ta lợi dụng mương nước đào hào chặn xe tăng địch, đồng thời làm hào giao thông để cơ động lực lượng về phía sau.


Ngày 26/12 địch tiến đánh Ô Cầu Dền để mở thông đường La Thành và chuẩn bị tiên xuống ngã tư Trung Hiền.

Sáng sớm máy bay địch loại Morane đến ném bom dọc phố Duy Tân và Nam Bộ trọng điểm là chiến lũy Cầu Dền, nhiều nhà cửa đổ sập. Một xe tăng, một xe bọc thép dẫn hơn 100 lính tiến từ phố Duy Tân xuống, vừa đi vừa bắn vào hai bên dãy phố và bắn 20 phát 37 ly vào chiến lũy. Bọn địch ở nhà Vạn Vân, trường Duy Tân, nhà sữa Minh Ngọc dùng đại liên bắn dữ dội về phía ta. Ta kiên quyết đánh trả, địch không phá được ụ và không tiến lên được. Chúng cho xe tăng vòng qua chiếm ngã ba Đại Cồ Việt - Lê Bình dùng pháo trên xe và súng 12 ly 7 bắn vào bên sườn chiến lũy và đình Tô Hoàng, nơi có khẩu trung liên của ta. Ta vẫn kiên trì chặn địch. 17 giờ địch không đột phá được chiến lũy phải ngừng tiến công, rút về phía sau. Đợt này địch chết 10 tên. Đêm đó ta củng cố lại chiến lũy, xếp thêm bao cát lên ụ thành những ụ chiến đấu.


Sớm hôm sau 27/12 địch tiến công lần thứ hai. Ta rút kinh nghiệm đã bố trí lực lượng kiềm chế các ổ đại liên của địch trên các nhà cao, một nhóm địch đã chiếm ụ và đặt trung liên trên ụ bắn về phía ta, song đã bị ta đánh trả, chúng phải rút1 (Có người kể chiến sĩ tự vệ tên là Đức đã xông lên cướp khẩu trung liên này). Cuộc tiến công lần này của địch cũng không có kết quả.


Ngày 28/12 địch mở đợt tiến công lần thứ ba vẫn theo đội hình cũ. Xe tăng, xe bọc thép đi đầu bắn phá, bộ binh đi sau, tới gần cửa ô xe địch đi chậm lại để bộ binh đến kiểm tra phá bỏ các nồi niêu rổ rác úp trên đường vì sợ có mìn thật. Từ sau chiến lũy, từ các nhà cao ta nổ súng, ném lựu đạn diệt bọn đi phá mìn. Xe tăng địch yểm trợ bắn dữ dội vào chiến lũy. Xạ thủ badôca của ta là một người Nhật tên Việt là Tâm2 (Có nhân chứng nói tên thật là A-ka-sư-đa) bắn ba phát đạn, cháy một xe tăng, hỏng một xe thiết giáp, địch khiếp sợ tháo chạy. Chiến sĩ người Nhật này sau bị trúng đạn đã hy sinh anh dũng. Ta thừa thắng xuất kích đánh chiếm nhà lơ Vũ Tạo, nhà sữa Minh Ngọc, diệt ổ súng đại liên ở ngã ba Đại Cồ Việt - Lê Bình, đánh vào trường học Duy Tân đốt cháy hai xe tải. Tổng cộng địch chết khoảng 20 tên, số bị thương không rõ, một xe tăng, một xe bọc thép bị phá hỏng. Số thương vong phía ta trong toàn bộ cuộc chiến đấu giữ Ô Cầu Dền của đại đội 3, tiểu đoàn 77 và tự vệ trong cả ba ngày lên tới trên dưới 100 người. Trong đó có một cán bộ đại đội, ba cán bộ trung đội, nhiều cán bộ tiểu đội. Chưa rõ số thương vong của dân, vì hiện nay không có tài liệu nào ghi chép được.


Sau đợt tiến công thất bại ngày 28/12 địch không tổ chức tiến công lớn vào Ô Cầu Dền nữa. Đến 15/01/1947 chúng từ Vĩnh Tuy và từ Vọng đánh sang ngã tư Trung Hiền buộc lực lượng giữ Ô Cầu Dền của ta phải vượt vây rút theo đường Ngõ Bò, Ngõ Quỳnh qua khu Đề Thám, Mê Linh về Nam Dư.

VIỆT HỒNG
(Theo tài liệu tổng kết chiến thuật
của Quân khu Thủ đô)
Logged
vnmilitaryhistory
Moderator
*
Bài viết: 1830



« Trả lời #37 vào lúc: 05 Tháng Năm, 2022, 06:29:30 am »

TRUNG ĐỘI HOÀNG HOA THÁM VÀ TRẬN ĐÁNH
TRÊN CÁNH ĐỒNG LÀNG QUỲNH


Cũng như mọi năm, vào một chiều thu chớm lạnh năm 1996, tôi cùng đồng chí Nguyễn Như Trương, hai ông già đã ở tuổi "cổ lai hi" đạp chiếc xe đạp mi ni đi thăm lại chiến trường xưa, nơi đã diễn ra trận đánh quyết tử của trung đội Hoàng Hoa Thám tại cánh đồng làng Quỳnh Lôi thuộc Liên khu II (mặt trận Hà Nội) trong những ngày đầu kháng chiến chống Pháp.


Và một lần nữa, tuy chẳng còn hy vọng có được một tin tức gì, chúng tôi vẫn đến ngôi nhà ngay cổng trường đại học Bách Khoa là nơi ở cách đây 50 năm của ba anh em ruột Hoàng Đình Mạc, Hoàng Đình Nghiên, Hoàng Đình Bút, đã hy sinh trong trận chiến đấu ấy. Người đi cùng với tôi là đồng chí Trương cũng có hoàn cảnh tương tự. Bốn anh em ruột đồng chí Trương cũng có mặt trong trận đấu này, thì ba người em là Nguyễn Như Nam, Nguyễn Như Giao, Nguyễn Như Tính, đã ngã xuống chiến hào. Sau này, trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, anh chị Trương đã bốn lần tiễn con đi đánh Mỹ để rồi "hai lần lại khóc thầm lặng lẽ". Các cháu Vĩnh và Hùng ra đi không trở về, đến nay vẫn chưa tìm được phần mộ. Bà mẹ đồng chí Trương có ba con và hai cháu nội là liệt sĩ. đã được Nhà nước truy tặng danh hiệu cao quý "Bà mẹ Việt Nam anh hùng".


Còn ba anh em Mạc, Nghiên, Bút, gia đình các anh suốt 50 năm nay bặt tin tức. Chúng tôi đã cố công tìm kiếm, nhưng vẫn không rõ gia đình ở đâu, ai còn, ai mất, đã được thực hiện chính sách đối với những người có công với Cách Mạng hay chưa. Điều đó làm cho những người còn sống trong chúng tôi day dứt nhiều1 (Rất may mắn, cuối cùng cũng đã tìm được người thân còn lại của các đồng chí Mạc, Nghiên, Bút. Ông bà thân sinh đều đã đã mất, nhưng còn một chị và một em gái của ba đồng chí. Năm 1999 hai chị đã được làm thù tục nhận ba tấm bằng "Tổ quốc ghi công" các liệt sĩ Hoàng Đình Mạc, Hoàng Đình Nghiên, Hoàng Đình Bút).


Là trung đội trưởng của trung đội Hoàng Hoa Thám lúc bấy giờ, tôi còn nhớ rõ quá trình xây dựng và chiến đấu của trung đội.

Trong khí thế sục sôi của phong trào cách mạng, ngày 17/8/1945, tổ Thanh niên cứu quốc phía nam khu phố Bạch Mai đã vận động hơn hai chục thanh niên cùng nhân dân tham gia biểu dương lực lượng tại cuộc mít tinh ở Nhà hát thành phố, và ngày 19/8 lại tham gia cướp chính quyền ở trại Bảo an binh Hà Nội. Cách mạng Tháng Tám thành công, chúng tôi thường xuyên tập trung làm công tác tuyên truyền cách mạng, vận động giữ gìn trật tự an ninh và gây phong trào ca hát, bơi lội thể dục thể thao v.v... Hiệp định Sơ bộ ngày 6/3/1946 được ký kết, tại cuộc mít tinh ở quảng trường Nhà hát thành phố, anh em vô cùng xúc động khi nghe câu nói của Bác: "Hồ Chí Minh thà chết chứ không bao giờ bán nước". Sau cuộc mít tinh trở về, sôi sục căm thù giặc Pháp đang lăm le quay lại định chiếm nước ta một lần nữa, anh em quyết định xin cấp trên cho tổ chức một đơn vị Tự vệ chiến đấu. Lúc đầu định thành lập một đại đội, vì đã có gần 50 người và dự tính sẽ có một số anh em nữa tham gia, nhưng sau xét đến nguồn trang bị có hạn, vả lại không phải tất cả các anh em đều đủ sức khỏe và điều kiện để có thể tập luyện liên tục nên chỉ tổ chức ra một trung đội, lấy tên trung đội là Hoàng Hoa Thám. Cán bộ do anh em bầu, đồng chí Trung là trung đội trưởng, đồng chí Nam là trung đội phó, hai đồng chí được cử đi học lớp quân sự ngắn ngày, sau đó lần lượt tất cả anh em đều được luyện tập quân sự ở Việt Nam học xá (Trường đại học Bách Khoa bây giờ) về các động tác bắn súng, lăn lê, bò toài, cá nhân chiến đấu...


Kháng chiến toàn quốc bùng nổ, cả Hà Nội vùng lên chiến đấu. Một ngày cuối tháng 12/1946, tôi gặp anh Vũ Văn Quý lúc bấy giờ là chủ tịch Ủy ban kháng chiến khu 17, anh nói tình hình khu vực chúng tôi sắp căng thẳng hơn lên, trung đội tự vệ chiến đấu phải củng cố mọi mặt, sẵn sàng tác chiến, Ủy ban sẽ cử một cán bộ quân sự xuống làm chính trị viên để tăng cường tổ chức và chỉ huy. Anh Đức xuống tham gia ban chỉ huy, thực tế đã làm cho sinh hoạt và mọi mặt hoạt động của đơn vị chặt chẽ và có hiệu quả hơn. Đầu tháng 1/1947 Ủy ban kháng chiến Liên khu II thông báo chính thức thành lập trung đội Hoàng Hoa Thám và quyết định sáp nhập trung đội chúng tôi vào Vệ quốc đoàn, thuộc tiểu đoàn đồng chí Quang Tuần.


Ngày 14/1/1947, tôi còn nhớ đó là 23 tháng chạp ta, ông Táo lên chầu trời, anh em trung đội đang liên hoan tại nhà đồng chí Trương ở ngõ Mai Hương thì nhận được lệnh bố trí ở cánh đồng Quỳnh Lôi, sẵn sàng chiến đấu. Nhiệm vụ giao cho trung đội là: Nếu địch tiến vào làng rồi thọc ra phố để đánh vào phía sau chiến lũy ở Ô Cầu Dền thì chúng tôi phải kiên quyết đánh chặn, không cho chúng vào làng và phố.


Bốn giờ sáng 15/1/1947, cả trung đội sẵn sàng ở vị trí chiến đấu. Trung đội bố trí thành đội hình hàng ngang hướng về sông Kim Ngưu, cách sông hơn 300m. Tiểu đội 1 có chính trị viên Đức và trung đội phó Nam đi cùng, bố trí nhô ra phía trước, lợi dụng khu gò có một số mả xây, các tiểu đội 2 và 3 bố trí ngay phía sau, cách gần 400m. Khoảng 6 giờ sáng, anh em phát hiện nhiều bóng, người đang kéo đi dọc sông xuống phía Mai Động, Hoàng Mai, một toán tới cánh đồng Quỳnh Lôi thì tiến thẳng về phía làng. Trời tháng chạp sương mù, cách vài trăm thước không nhìn rõ mặt người. Địch hay ta chưa xác định được, cả trung đội giữ bí mật trận địa, sẵn sàng nổ súng. Đến khi toán người vào cánh đồng làng Quỳnh chưa đầy 200m thì rõ đó là Tây. Để địch tiến thêm chục bước nữa, cả trung dội đồng loạt nổ súng. Bị bắn bất ngờ, lại giữa địa hình trống trải, địch chết hàng chục tên. Chúng dừng lại, bắn trả quyết liệt bằng mọi loại súng: súng trường, trung liên, đại liên. Rồi cối 60, 81 tới tấp bắn vào các tiểu đội của chúng tôi. Đợt chiến đấu này, trung đội bị thương vong sáu, bảy đồng chí, trong đó có cả chính trị viên Đức và trung đội phó Nam đã hy sinh vì một quả đạn cối nổ trúng vị trí nơi các đồng chí đang chỉ huy chiến đấu.


Địch bị thiệt hại nặng, chúng dừng lại để củng cố thế trận, kéo những tên chết và bị thương về phía sau, đưa thêm quân lên. Có thể chúng đoán biết phía trước chỉ là một đơn vị nhỏ của ta, nên khi chấn chỉnh xong, chúng lại hùng hổ kéo đến, vừa tiến bắn dữ dội, vừa la hét ầm ĩ. Lợi dụng địa hình tốt có chuẩn bị sẵn, cả trung đội đánh trả quyết liệt. Khoảng cách giữa hai bên rút ngắn dần. Tiểu đội 1 phía trước đánh giáp lá cà với địch. Súng bắn, lựu đạn nổ xen lẫn tiếng hô "xung phong" "quyết tử"... Từ phía tiểu đội 2 và 3, súng và lựu đạn cũng liên tiếp nổ vào địch. Đợt này rõ ràng lại hàng chục tên địch nữa bị bắn đổ, nhưng phía ta cũng thương vong hơn một chục đồng chí. Tiểu đội 1 hầu như không còn ai, cả trung đội chỉ còn khoảng một phần ba quân số, đạn dược còn lại ít, lựu đạn chỉ còn vài quả.


Chiếm được khu mả xây, địch dừng lại một chút rồi lại tiến vào, vừa đánh chính diện vừa bọc hai bên sườn định diệt gọn chúng tôi. Lực lượng quá chênh lệnh, trung đội vừa đánh vừa lợi dụng địa hình quen thuộc rút thec con mương về sát làng Quỳnh, dựa vào công sự và một số nhà cao tiếp tục chiến đấu. Đến đây địch không dám vào làng. Chúng dừng lại bắn, bắn tới tấp nhiều đợt về phía làng, rồi rút ra cụm lại giữa cánh đồng, bảo đảm bên sườn cho cánh quân đang kéo xuống phía nam. Cả hôm đó, số anh em còn lại của trung đội vẫn trụ lại ở một số nhà cao trong làng, đến chiều nhận được lệnh rút về ngõ Mai Hương rồi về Việt Nam học xá. Đêm hôm ấy, trong cuộc vượt vòng vây của địch, trung đội Hoàng Hoa Thám làm nhiệm vụ bảo vệ số đồng bào còn kẹt lại men theo đường mương cầu Đổ, rút về Thanh Trì.


Trong trận quyết tử ngày 15/1/1947 trên cánh đồng làng Quỳnh, trung đội có 34 người thì 19 đồng chí hy sinh, 2 bị thương. Trong số hy sinh có hai bộ ba anh em ruột ngã xuống trên cùng trận địa: Nam - Giao - Tính và Mạc - Nghiên - Bút.


Hơn một nửa thế kỷ trôi qua. Trung đội Hoàng Hoa Thám năm xưa nay chỉ còn lại dăm người. Nhưng thời gian có dài bao nhiêu cũng không thể xóa được trong tâm trí những người bạn của một thời trai trẻ và là những đồng đội thân thiết đã hy sinh trên mảnh đất quê hương vào một ngày mùa Đông năm ấy.

Đại tá THÀNH XUÂN CHUNG
Nguyên trung đội trưởng trung đội Hoàng Hoa Thám
Nguyên phó viện trưởng Viện Bảo tàng quân đội
Logged
vnmilitaryhistory
Moderator
*
Bài viết: 1830



« Trả lời #38 vào lúc: 05 Tháng Năm, 2022, 06:31:11 am »

TRẬN CHIẾN ĐẤU PHÒNG NGỰ
NHÀ THƯƠNG VỌNG (BỆNH VIỆN BẠCH MAI)
(15/01/1947)


Ngày 15/01/1947, địch từ Kim Liên tiến xuống đánh Nhà thương Vọng. Ta có đại đội 68 thuộc tiểu đoàn 64 cùng ba trung đội tự vệ và khoảng 100 cứu thương cấp dưỡng dồn từ phía trước về, tất cả khoảng 500 người có nhiệm vụ gấp rút tổ chức phòng ngự để chặn địch.


Nhà thương Vọng là một khu vực gần như vuông vức khá rộng, mỗi chiều khoảng 300m, có tường bao quanh. Phía bắc là một bãi bóng và một bãi trống có một số hố đấu và lò gạch nhỏ, phía đông là con đường sắt, đường xe điện và đường số 1 hình thành một bãi bằng khá rộng; phía nam là đường Tàu Bay (nay là đường Trường Chinh) nối liền với đường Đại La - Ngã Tư Vọng. Mặt tiền của bệnh viện trông ra đường số 1 có cổng vào. Trên cổng có một cái chòi.


Trong bệnh viện, có nhiều nhà ba tầng làm việc và nhà bệnh nhân nội trú. Góc phía tây bắc là nhà xác và có một tháp nước.

Khi được tin địch từ Kim Liên đánh xuống, ta cấp tốc triển khai lực lượng phòng ngự: ba trung đội tự vệ bố trí ở bãi trống phía bắc. Đại đội Vệ quốc đoàn bố trí ở trong bệnh viện, có một trung đội dọc theo tường rào phía bắc, một trung đội ở phía đông, một khẩu đại liên bố trí ở chòi cao cổng ra vào. Còn một khẩu ở mặt đất, đục lỗ tường bắn ra dọc đường số 1.


5 giờ sáng địch bắt đầu chuẩn bị hỏa lực mạnh, có pháo 75 ly cối 81 và máy bay tham gia.

Một đoàn tám xe tăng và thiết giáp, cùng mười xe vận tải chở khoảng 300 lính Xê-nê-ga-le ăn mặc giả thường dân kéo đến, cách bệnh viện 300m thì chúng triển khai lực lượng bắt thường dân ta đi đầu đội hình để tiến công.


Quân ta dùng súng trường bắn chỉ thiên cho dân chạy tản ra. Địch dùng súng máy bắn vào dân.

Địch tiếp tục tiến, ta chờ chúng đến gần, bất ngờ dùng khẩu đại liên ở chòi cổng bệnh viện bắn mạnh vào địch, nhiều tên tháo chạy. Địch tổ chức lại đội hình, lại xung phong và bị ta bắn chặn. Cho đến 10 giờ ta đánh lui sáu đợt xung phong của địch bằng súng đại liên, súng trường, lựu đạn của tự vệ và Vệ quốc đoàn, diệt và làm bị thương nhiều địch.


Địch dùng pháo trên xe tăng bắn mãnh liệt. 10 giờ chúng bắn sập hai lò gạch nhỏ ở phía bắc. Khoảng hơn một tiểu đội tự vệ của ta bị thương vong nhưng anh chị em vẫn ngoan cường bám trụ công sự để chặn địch. Một bộ phận thám báo địch tiến theo hướng tây bắc bệnh viện cũng bị ta chặn lại.


11 giờ địch bắn sập chòi đặt đại liên của ta ở cổng. Một chiến sĩ quốc tế người Nhật đã nhanh chóng xếp gạch bố trí lại khẩu đại liên để ngăn chặn địch.

Trước tình hình chiến đấu rất quyết liệt, Ban chỉ huy tiểu đoàn đã lệnh cho bộ phận nữ cứu thương cấp dưỡng theo lạch nước rút về hướng sân bay Bạch Mai. Ở hướng bắc, địch vẫn bị chặn lại.

Một cánh quân địch gồm 8 tăng thiết giáp, 15 xe vận tải chở 500 quân, sau khi đánh chiếm Vĩnh Tuy từ sớm và ngã tư Trung Hiền vào trưa, tiến theo đường Đại La và vào khoảng 14 giờ tiến đến Vọng đánh vào phía sau quân ta. Như vậy địch từ hai mặt giáp công; cánh bắc yếu hơn đã bị chặn đánh nhiều lần và cánh Ngã Tư Vọng phía nam mạnh hơn. Ở phía nam ta chưa tổ chức phòng ngự.


Địch dùng pháo trên tăng diệt ổ đại liên của ta ở cổng bệnh viện rồi cho xe tăng húc đổ tường, đột phá vào hướng đông nam của bệnh viện. Tổ bom ba càng đâm phá được một xe tăng. Chiếc tăng khác xông lên. Ta trụ bám từng nhà để chặn địch. Khoảng 18 giờ ta rút quân về hướng Khương Trung, sân bay Bạch Mai. Khoảng một trung đội rút xuống hầm ngầm của bệnh viện, khoảng nửa đêm lên khỏi hầm đánh địch mà rút.


Trận Nhà thương Vọng là một trận đánh oanh liệt, quân ta phải chống trả lại hai tiểu đoàn địch tiến công từ hai hướng, đánh lui nhiều đợt xung phong của địch diệt khoảng 200 tên, trụ bám suốt một ngày. Trận này ta bị thương vong khoảng 50 vệ quốc quân và khoảng 100 tự vệ trong đó có một chính trị viên đại đội và một trung đội trưởng.

(Tài liệu tổng kết chiến thuật
của Quân khu Thủ đô)
Logged
vnmilitaryhistory
Moderator
*
Bài viết: 1830



« Trả lời #39 vào lúc: 05 Tháng Năm, 2022, 06:33:42 am »

TRẬN CHIẾN ĐẤU PHÒNG NGỰ
TẠI KHU VIỆT NAM HỌC XÁ

(16, 17, 18 tháng 1 năm 1947)


Trận chiến đấu diễn ra trong tình huống Hà Nội đã tiến hành cuộc kháng chiến chống Pháp được 27 ngày. Liên khu I vẫn đứng vững, Liên khu III địch tạm thời hoạt động cầm chừng để dành lực lượng tập trung đánh chiếm Liên khu I và II...


Tuyến phòng ngự vững chắc của Liên khu II Hà Nội là Mặt trận Ô Cầu Dền. Đó là một phòng tuyến kéo dài suốt từ Ô Đống Mác qua Ô Cầu Dền sang tới tận ngã tư Kim Liên. Lợi dụng hình thế tự nhiên của khúc sông Tô Lịch rộng trên dưới 10 mét và sâu chừng 1,5 mét tới 2,5 mét, chảy ngăn cách giữa hai khu nội - ngoại thành. Các loại xe cơ giới không dễ dàng vượt qua. Ta đã tổ chức thành một tuyến phòng ngự vững chắc tại đây. Và, đã cầm chân địch được tới ngày 15/1/1947...


Khu Việt Nam học xá là tên gọi sau ngày Cách mạng Tháng Tám ta đặt cho khu Đông Dương học xá, nguyên là ký túc xá dành cho sinh viên của cả khối Đông Dương, gồm cả 3 nước Việt - Miên - Lào đến học tại trường đại học (duy nhất của Đông Dương) đặt tại Hà Nội.


Khu học xá gồm bốn ngôi nhà bốn tầng bê tông cốt thép (một tầng hầm nửa chìm nửa nổi với ba tầng lầu) dành cho sinh viên ở. Và hai ngôi nhà hai tầng dành cho giám thị và các nhân viên hành chính ở và làm việc.

Khu nhà được xây dựng trên một khu đất cao ráo và rất rộng, nằm giữa một vùng đồng ruộng, ao, chuôm. Và bao bọc bởi bốn con đường lớn giao nhau:

Phía bắc, cách chừng 1.000 mét là con đường Đại Cồ Việt, rộng chừng 6 mét, chạy từ Ô Cầu Dền tới ngã tư Kim Liên. Trên con đường này (khi ấy) là nơi nối tiếp với ba con đường từ nội thành đi ra: là phố Duy Tân (sau đổi trở lại là Phố Huế), phố Mai Hắc Đế, phố Bà Triệu. Và, ở phần mé bắc con đường chỉ có trường Trần Văn Khánh và bốt Ô Cầu Dền nằm gần kề ở ngay đầu đường; còn cuối đường là hồ Bảy Mẫu (ngoài ra là đất hoang và bãi rác của thành phố), ở phần mé dưới con đường (từ Ô Cầu Dền đến nghĩa địa Cô La-oa) có chừng năm ngôi nhà toóc-si bán học phẩm cho học sinh trường Trần Văn Khánh. Ngoài ra là các túp nhà lá ở dưới đê sông Tô Lịch, nằm rải rác từ dấy đến nghĩa địa Cô La- oa (ở đây có một con đường chạy ngang sông Tô Lịch vào nghĩa địa, ô tô đi được, nối tiếp với nó là đường "ruột mèo" có thể vào được khu học xá).


Phía nam: cách khu học xá chừng 600 mét là đương Đại La chạy từ ngã tư Trung Hiền đến Ngã Tư Vọng. Kế hai bên đường là dãy nhà gạch (đa số là một tầng, lác đác dăm bảy ngôi nhà hai tầng kiểu cũ, nhỏ và hẹp). Mé bắc con đường, đằng sau dãy nhà gạch là rất nhiều ngôi nhà lá, có chỗ tụ thành xóm, có chỗ rải rác, riêng lẻ, của thợ thuyền và những người trồng rau. Họ ở và trồng trọt sâu mãi vào bên trong (chỉ còn cách khu Học xá chừng 300 mét).


Phía đông là phố Bạch Mai, cách Học xá chừng 300 mét. Nhà gạch san sát liền tường, trải dài suốt từ Ô Cầu Dền xuống tận ngã tư Trung Hiền, phần lớn là nhà một tầng, xen kẽ có khoảng vài chục ngôi nhà hai tầng, và chỉ có hai ngôi nhà ba tầng (là nhà lơ Vũ Tạo ở đầu Ô Cầu Dền với nhà bà Ba Hoàn ở kề rạp hát Lạc Thành Đài, đối diện con đường cái đi vào khu Học xá). Bên từng dãy nhà đều có rất nhiều ngõ hẻm, chạy sâu vào phía trong. Có những ngõ khá rộng, như ngõ Tô Hoàng, ngõ Chùa Liên, ngõ Văn Chỉ, ngõ Giếng Mứt, ngõ Mai Hương, Ngõ Quỳnh, Ngõ Bò...


Phía tây là con đường quốc lộ 1 (nay là đường Giải Phóng) khúc từ Ngã Tư Vọng đến ngã tư Kim Liên; cách khu Học xá chừng 700 mét. Ở đây không có nhà, chỉ thuần ao chuôm và ruộng nước từ đường cái trải sâu vào phía trong, chỉ còn cách khu Học xá chừng 300 mét. Trên đoạn đường này có hai ba con đường ruột mèo chạy ngoằn ngoèo qua các rìa ao, bờ ruộng do dân trồng, cấy tạo nên (còn có một con đường đất đang mở dở dang, chạy từ đầu Ô Cầu Dền chéo qua giáp Tô Hoàng và rìa khu Học xá xuống còn cách Ngã Tư Vọng chừng 300 mét thì bỏ dở...). Con đường khi ấy có tên là đường Lý Bôn.


Đã có một sự kiện chính trị quan trọng xảy ra ngay tại khu Học xá: vào khoảng trung tuần tháng 2 năm 1946, Hồ Chủ tịch đã đến dự cuộc mít tinh lớn của sinh viên và nhân dân quanh vùng chào mừng sự ra mắt của Chính phủ nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đầu tiên trong lịch sử dựng nước, do Cụ Hồ lãnh đạo. Cuộc mít tinh được tổ chức tại sân vận động nằm giữa bốn ngôi nhà lớn của khu Học xá. Nhân dân trong vùng cùng với cán bộ chính quyền và đông đảo sinh viên hết sức vui mừng được đón chào Cụ Hồ và nghe Cụ nói chuyện...1 (Từ ngày Cách mạng Tháng Tám thành công đến ngày Toàn quốc kháng chiến 19/12/1946. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã bốn lần đến khu Việt Nam học xá: - Ngày 05/01/1946 Hồ Chủ tịch nói chuyện với đồng bào Liên khu II và khu Bạch Mai về ý nghĩa cuộc Tổng tuyển cử ngày 06/01/1946. - Trung tuần tháng Hai năm 1946 ta có tổ chức mít tinh lớn toàn thành tại sân vận động khu Việt Nam học xá chào mừng Chính phủ liên hiệp. Hồ Chủ tịch và các thành viên Chính phủ đã đến dự. - Đầu tháng 4/1946, bọn phản động Việt Nam Quốc dân Đảng ra sức xuyên tạc Hiệp định Sơ bộ 6-3. Ta tổ chức một hội nghị gồm các nhà trí thức, các nhà doanh nghiệp đại biểu nhân dân 17 khu của nội thành Hà Nội tại Việt Nam học xá. Hồ Chủ tịch đã nói chuyện, giải thích ý nghĩa và tầm quan trọng của Hiệp định Sơ bộ. - Thượng tuần tháng 8 năm 1946, nhân Hội nghị Fontainebleau, Chính phủ nước Cộng hòa Pháp mời Hồ Chủ tịch sang thăm. Nhiều tầng lớp nhân dân cả nước đã gửi kiến nghị xin Hồ Chủ tịch dừng nhận lời. Hồ Chú lịch đã đến Việt Nam học xá nói chuyện với giới trí thức, giới doanh nghiệp và đại biểu nhân dân về sự cần thiết phải nhận lời mời của Chính phủ Pháp. Tham dự cuộc nói chuyện này có tướng Salan, đại diện Bộ Tổng chỉ huy Pháp ở Đông Dương. Tướng Salan đã lên nói lời cam kết của Chính phủ Pháp bảo đảm an toàn tuyệt đối cho Hồ Chủ tịch).


Trước ngày nổ ra trận đánh, tại khu Học xá đã có sẵn đội tự vệ do anh em sinh viên tự tổ chức. Tổng hội sinh viên quyên góp, mua cho đội tự vệ được 1 khẩu đại liên (Hốt-kít) với hơn mười khẩu súng trường, cùng một số phương tiện và vũ khí khác (gươm, dao, lựu đạn, mìn v.v...). Đội có chừng gần ba chục anh em, phần lớn là người tỉnh xa về Hà Nội học. Trước tình hình đất nước phải đối mặt với nạn ngoại xâm, anh em tình nguyện ở lại cầm súng chiến đấu bảo vệ Hà Nội...


Cùng với đội tự vệ sinh viên, còn có đội tự vệ của phố Bạch Mai chừng 40 người, cũng tự trang bị được đại liên và súng trường tương tự đội tự vệ sinh viên...

(Trong những ngày quân Pháp chưa tràn tới Ô Cầu Dền, hai đội tự vệ này thường xuyên tự động dẫn nhau vào nội thành, tham gia tác chiến cùng các đơn vị bạn trong đó).

Ngày 22/12/1946, đại đội 55 thuộc trung đoàn 64 từ Sơn Tây được lệnh kéo về cùng tham gia giữ khu Việt Nam học xá. Đại đội 55 là một đại đội mạnh cả về quân số lẫn trang bị: đại đội gồm 3 trung đội khinh binh, hai tổ hỏa lực (đại liên và súng cối), với một cơ quan đại đội bộ... tổng cộng chừng 150 người. Trang bị một đại liên, ba trung liên, một súng cối 60 ly, với rất nhiều lựu đạn và đầu đạn 37 ly, 56 ly. Già nửa quân số có súng trường...


Sau ngày 22/12/1946 có thêm hai trung đội của tiểu đoàn 77, gồm một trung đội của đại đội I (thuộc quyền chỉ huy của đại đội trướng Ngọc); một trung đội của đại đội 3 (thuộc quyền chỉ huy của đại đội trưởng Mẫn), đến cùng bảo vệ khu Học xá.


Ngoài ra, ở đây còn có chừng 1000 người không thuộc quân số của đơn vị. Họ phần lớn là dân thường, vì nhiều lý do, cố nấn ná chờ chiến tranh kết thúc để trở về nhà, không muốn tản cư. Phần còn lại, là những nhân viên công tác ở các trạm y tế hoặc kho tàng... chưa kịp rút ra ngoài. Và, có khoảng vài chục anh em là bộ đội và tự vệ lạc đơn vị, hợp nhau lại tự chiến đấu...


Diễn biến chiến đấu: Đúng ngày đại đội 55 về đến Việt Nam học xá thì đội tự vệ sinh viên nhận được lệnh của Bộ Tổng tham mưu điều động đi nhận nhiệm vụ khác. Anh em cố tình nấn ná ở lại chiến đấu thêm đến cuối tháng 12/1946 mới chịu bàn giao vũ khí cho đại đội 55 để đi nhận nhiệm vụ mới; sau đội tự vệ sinh viên này đã tham gia đánh địch liên tục trong nội thành, tại các khu Đồn Thủy, Cửa Nam, nhà tên đại tá Lamy, nhà số 2 phố Ha-le (nay là phố Nguyễn Du). Và, đánh chặn các cuộc tiến công của địch trên đường phố Chợ Hôm.
Logged
Trang: « 1 2 3 4 5 6 7 8 9 »   Lên
  In  
 
Chuyển tới:  

Powered by MySQL Powered by PHP Powered by SMF 1.1.21 | SMF © 2006-2008, Simple Machines

Valid XHTML 1.0! Valid CSS! Dilber MC Theme by HarzeM