Lịch sử Quân sự Việt Nam
Tin tức: Lịch sử quân sự Việt Nam
 
*
Chào Khách. Bạn có thể đăng nhập hoặc đăng ký. 16 Tháng Tư, 2024, 11:40:55 pm


Đăng nhập với Tên truy nhập, Mật khẩu và thời gian tự động thoát


Trang: « 1 2 3 4 5 6 7 8 9 »   Xuống
  In  
Tác giả Chủ đề: Liên khu II những ngày đầu Thủ đô kháng chiến  (Đọc 3139 lần)
0 Thành viên và 1 Khách đang xem chủ đề.
vnmilitaryhistory
Moderator
*
Bài viết: 1830



« Trả lời #10 vào lúc: 15 Tháng Tư, 2022, 06:54:27 am »

THEO DẤU CHÂN TIỂU ĐOÀN 212 HÀ NỘI


Năm lần đi làm nhiệm vụ quốc tế.

Tham gia mở đầu toàn quốc kháng chiến chống thực dân Pháp ở Hà Nội năm 1946 và kết thúc cuộc giải phóng dân tộc tại Sài Gòn ngày 30/4/1975.

Ngay sau ngày 19/8/1945 tại Hà Nội, tiểu đoàn 212 từng bước được hình thành. Nòng cốt của tiểu đoàn là những phân đội Quân giải phóng từ Việt Bắc về, những đoàn viên Thanh niên cứu quốc và Tự vệ thành Hoàng Diệu tham gia Cách mạng Tháng Tám ở Hà Nội. Nhiều học sinh, sinh viên, thanh niên có tinh thần hăng hái cách mạng và binh sĩ của chẽ độ cũ giác ngộ cách mạng được Mặt trận Việt Minh giới thiệu vào tiểu đoàn. Các chỉ huy trung đội, đại đội của tiểu đoàn phần đông là các thanh niên của các Hội cứu quốc được cử đi học một lớp quân chính ngắn hạn, nhìn chung còn rất trẻ.


Ban đầu tiểu đoàn còn chưa có số hiệu nên lấy tến người chỉ huy để gọi, là tiểu đoàn Anh Đệ - Tuấn Sơn. Vinh dự đầu tiên của tiểu đoàn là được làm nhiệm vụ đội quân danh dự trong Lễ độc lập 2/9/1945 tại quảng trường Ba Đình. Ngay sau đó tiểu đoàn được lệnh cấp tốc sang chiến đấu ở Sầm Nưa. Có thể nói đây là một cuộc hành quân sang nước bạn đầy hiểm nghèo, gian khổ, kinh nghiệm chiến đấu chưa có, ngôn ngữ bất đồng, vật chất thiếu thốn, có lúc đi gần ngày đường không thấy bóng người, nhưng được sự đùm bọc của nhân dân Lào, tháng 10/1945, tiểu đoàn đã thắng trận đầu ở Mường Láp, đánh một đòn phủ đầu vào âm mưu tái chiếm Đông Dương của thực dân Pháp. Sau nửa năm phối hợp chiến đấu và giúp bạn xây dựng lực lượng, xây dựng chính quyền cách mạng, tháng 5/1946 tiểu đoàn được lệnh trở về Hà Nội với phiên hiệu tiểu đoàn 2, rồi tiểu đoàn 212. Lúc bấy giờ, tiểu đoàn bộ đóng ở sân bay Bạch Mai.


Lúc này, tiểu đoàn 212 có 3 đại đội: đại đội 14 đóng tại đài phát thanh Vọng, đại đội 15 đóng ở sân bay Bạch Mai, đại đội 16 đóng tại trại Hàn Lân. Anh Quang Tuần làm tiểu đoàn trưởng kiêm chỉ huy trưởng Liên khu II (quận Hai Bà Trưng ngày nay), anh Bùi Cúc là tiểu đoàn phó và anh Văn Tân là chính trị viên tiểu đoàn. Để chuẩn bị cho cuộc chiến đấu không sớm thì muộn sẽ phải xảy ra, nhiều cán bộ của tiểu đoàn đã được cử đi học lớp bổ túc quân sự ở Tông (Sơn Tây) do Quân ủy trung ương mở.


Ngày 19/12/1946, sau khi họp với Bộ Tư lệnh Mặt trận Hà Nội nắm vững chủ trương mở đầu kháng cniến toàn quốc, tiểu đoàn trưởng Quang Tuần lệnh cho các đơn vị cấp tốc hành quân vào nội đô và triển khai đội hình chuẩn bị triển khai tấn công.


Đại đội 16 của đồng chí Nguyễn Như Trang trấn giữ trụ sở cũ của Bộ Tư lệnh Hà Nội tại Lò Lợn (lúc này Bộ Tư lệnh đã rút vào Hà Đông), đại đội 15 của Triệu Minh, Đặng Quý lên đóng tại Nhà thương Chó (nay là Tổng cục Lâm nghiệp), đại đội 14 của Lê Tỵ, Lê Ngọc Chữ đóng tại khu vực dãy nhà 24 gian phố Duy Tân. Lúc 8 giờ 03 phút đèn điện tắt và tiếng nổ lớn ở Nhà máy điện báo hiệu cuộc kháng chiến toàn quốc bắt đầu. Hai trung đội của đại đội 16 tấn công vào cảng Phà Đen, 1 trung đội còn lại tấn công vào nhà 3 sĩ quan cao cấp Pháp trên đường Trần Khánh Dư. Đại đội 14 chia nhỏ các tiểu đội đi phối hợp với các tự vệ tiêu diệt các ổ đề kháng của địch tại phố Lê Văn Hưu, Nguyễn Du, Bà Triệu, Hồ Xuân Hương, Ngô Thì Nhậm, Thi Sách...


Tại cảng Phà Đen địch có 1 đại đội cơ động bộ binh trên sông và một số thuyền chiến đấu, LCT và canô. Đêm 19/12 quân địch đóng tại đây chỉ có một trung đội nên khi 2 trung đội của đại đội 16 tiến đánh thì bọn chúng hốt hoảng bỏ chạy về nhà thương Đồn Thủy ngay từ những loạt lựu đạn đầu tiên, quân ta truy kích tiêu diệt một số và chiếm lĩnh cảng.


Đơn vị tấn công vào ba nhà sĩ quan cao cấp của Pháp, không tiến vào được vì bọn lính bảo vệ dựa vào công sự kiên cố bắn chặn quyết liệt.

Phía đại đội 15, đại đội phó Đặng Quý dẫn một trung đội tấn công viện Pasteur. Sau nhiều lần xung phong không vào được, đơn vị đã lợi dụng đường cống ngầm chui vào trong viện, bất ngờ tập kích tiêu diệt hai ổ súng máy ở cổng để quân ta xung phong vào chiếm lĩnh trận địa một cách thắng lợi. Một trung đội khác đóng tại trường Đại học Y đường Lê Thánh Tông đã chặn đánh một đoàn xe cơ giới của địch từ Đồn Thủy kéo ra chi viện cho quân của chúng đóng tại khu vực Nha khí tượng và khách sạn Métropole cạnh Nhà hát lớn. Bên đại đội 14 từ 21h ngày 19/12 đến 06h ngày 20/12 các tổ chiến đấu của đại đội cùng với tự vệ chiến đấu khu Lò Đúc, khu Chợ Hôm, khu Bảy Mẫu, tiêu diệt 18 ổ đề kháng.


Ngày 20/12 địch tấn công vào cảng Phà Đen và Viện Pasteur với lực lượng lớn có xe tăng, thiết giáp yểm trợ. Để bảo toàn lực lượng, quân ta đã rút về phía sau. Tại nhà thờ Hàm Long, địch cho xe bọc thép xuống đón một số kiều dân Pháp và một số tay sai người Việt Nam chạy trốn vào nhà thờ đêm 19/12 đã vấp phải hai trung đội của đại đội 15 đóng tại trường Hàm Long và đường Trần Hưng Đạo. Cuộc chiến đấu diễn ra ác liệt, mặc dầu có lợi thế về vũ khí địch vẫn không thể nào tiến vào trong trường, bị thương và chết khá nhiều trước mũi súng của quân ta cố thủ trong các lớp học. Đến 12h trưa địch buộc phải rút, bỏ lại một số xác chết không mang đi được.


Đêm 20/12, một trung đội của đại đội 14 phối hợp với một đơn vị của tiểu đoàn 77 tiêu diệt nốt ổ đề kháng cuối cùng của địch tại rạp Majestic.

Ngày 21/12 địch huy động lực lượng tấn công từ nhiều phía trong phạm vi trận địa của tiểu đoàn 212, có các trận ngã năm Lò Đúc, ngã tư Lò Đúc - Nguyễn Công Trứ và một trận lớn tại nhà Rượu.

Tại ngã năm Lò Đúc, mặc dầu địch dùng pháo 75 ly bắn phá vào ụ chiến đấu, nhưng bộ binh của chúng không làm sao tiến lên được vì bị lực lượng tự vệ Chợ Hôm đánh chặn rất quyết liệt. Tại ngã tư Lò Đúc - Nguyễn Công Trứ địch cũng vấp phải sự kháng cự rất mạnh của quân ta, đặc biệt là bị các chiến sĩ của đại đội 15 đánh ngang sườn từ trong Nhà thương Chó. Địch phải vòng qua Phạm Đình Hổ vào Hòa Mã phá đổ tường vào trong nhà Rượu. Tại đây quân địch lại vấp phải lực lượng chiến đấu của đại đội một tiểu đoàn 56 và 1 trung đội của đại đội 14 cùng với một tiểu đội tự vệ của tiểu khu Chùa Vua. Cuộc chiến đấu trong nhà máy Rượu diễn ra hết sức ác liệt suốt từ 10 giờ sáng đến 18 giờ chiều, địch không sao chiếm được nhà máy Rượu, đành phải rút lui.


Đêm 21/12 quân ta tấn công chiếm lại cảng Phà Đen và Viện Pasteur và giữ vững đến đêm 24/12 thì được lệnh rút về phía sau.

Ngày 22/12 địch tiếp tục tấn công vào ụ chiến đấu ngã tư Lò Đúc - Nguyễn Công Trứ.

Tại ụ chiến đấu địch dùng súng phóng lựu đạn bắn vào sau lưng các chiến sĩ của ta và sau đó dùng súng phun lửa quét vào cây lớn, bàn ghẽ xếp trên ụ, nên các chiến sĩ của ta phải rút vào trong nhà Rượu và khu Chùa Vua. Sau khi phá vỡ chướng ngại vật địch cho một mũi tiến công xuống Ô Đống Mác và một mũi tiến vào nhà Rượu. Tại đây đại đội 1, tiểu đoàn 56 đã được lệnh rút về giữ chốt Ô Cầu Dền, chỉ còn lại một trung đội của đại đội 14 và hai tiểu đội tự vệ khu Chợ Hôm nên sức chiến đấu giảm hơn trước rất nhiều. Quân ta cần cự được hơn 3 tiếng rồi phải rút về khu Chợ Hôm.


Ngày 23/12/1946 địch cho tăng và thiết giáp tiến về Ô Đống Mác và cho 150 lính bộ binh tiến theo đê Trần Khát Chân xuống dốc Vĩnh Tuy.

Tại đây ta có một trung đội thuộc đại đội Quang Biền của tiểu đoàn 17 và hai trung đội của đại đội Triệu Minh của tiểu đoàn 212. Trước hỏa lực dày đặc của địch, ba trung đội này dạt vào hai phía Lương Yên và Thanh Nhàn. Địch tiến đến đầu dốc Vĩnh Tuy, gặp ụ chiến đấu lớn của ta và bị hỏa lực của đại đội 16 bắn chặn, chúng phải rút về trú quân tại đình Lương Yên (một bộ phận về đóng ở Ô Đống Mác). Tại đình Lương Yên chúng mổ bò và tổ chức ăn uống, bất ngờ các đơn vị của ta áp sát và tấn công: hàng chục quả lựu đạn được tung vào giữa đám quân của địch đang sửa soạn ăn uống. Hàng chục tên bị trúng lựu đạn ngay từ loạt đạn đầu, bọn còn lại hốt hoảng la hét tháo chạy về phía Ô Đống Mác. Có tên còn không kịp xách theo vũ khí, bộ đội ta hò reo đuổi theo, có cả lực lượng của đại đội 14 ở Thanh Nhàn tham gia.


Quân Pháp ở Ô Đống Mác thấy đồng bọn hốt hoảng chạy về cũng vội vàng tháo chạy, quân ta truy kích địch đến gần Nhà thương Chó mới thôi. Trận đánh lớn này ta tiêu diệt gần 40 tên địch.
Logged
vnmilitaryhistory
Moderator
*
Bài viết: 1830



« Trả lời #11 vào lúc: 15 Tháng Tư, 2022, 06:55:32 am »

Đồng thời với trận đánh này, tại khu vực Chợ Hôm địch vây ta trong một khu vực gồm các phố Duy Tân, Lê Văn Hưu, Ngô Thì Nhậm và nhà Rượu, Nguyễn Công Trứ. Chúng bố trí xe tăng ở các ngã tư cho quân phá cửa các nhà dồn lực lượng chiến đấu của chúng ta từ nhà nọ sang nhà kia để tiêu diệt.


Tại khu vực Trần Xuân Soạn, Hòa Mã, kế hoạch này chúng không thực hiện được vì các nhà ở đây thông nhau, lực lượng chiến đấu của đại đội 3, tiểu đoàn 77 và tự vệ khu Chợ Hôm chẹn cửa rất an toàn, nơi nào địch vào được đều bị chặn lại. Riêng tại khu vực ngõ Huế, Duy Tân, Ngô Thì Nhậm, Nguyễn Công Trứ, phía sau là nghĩa địa Sài Gòn và vườn rau trống trải (nay là khu vực Công ty xe khách 14), trung đội Việt Tử của đại đội 15 đóng tại đây bị địch bao vây bốn phía đã chiến đấu anh dũng suốt cả ngày và hy sinh tới người cuối cùng.


Tin trung đội Việt Tử hy sinh đã khơi dậy lòng căm thù của tất cả các chiến sĩ trong tiểu đoàn 212, nên đêm 23/12 khi ban chỉ huy Liên khu II ra lệnh tất cả đơn vị tiến công vào các mục tiêu của địch thì các chiến sĩ tiểu đoàn nhất tề xuất kích. Đại đội 16 tấn công khu vực Đồn Thủy và trụ sở công binh của địch, đại đội 15 tấn công trường Đại học và Nha khí tượng, đại đội 14 tấn công vào số cơ sở của địch bên hồ Thiền Quang gây cho địch nhiều thiệt hại. Đặc biệt đại đội 15 đã tiêu diệt hai tiểu đội Pháp và giải thoát cho hơn 20 đồng bào bị giam cầm tại đây.


Ngày 24/12 địch tổ chức càn quét khu vực Vân Hồ và khu vực Chùa Vua, cũng vấp phải sự kháng cự của đại đội 15 và đại đội 14, đến 16 giờ chiều cả hai đại đội được lệnh rút sang phía kia đê Bành Lao và đê Đại Cồ Việt.


Từ ngày 25/12 kết thúc giai đoạn 1 của cuộc chiến đấu tại Liên khu II Hà Nội, giai đoạn chiến đấu trên đường phố, và bắt đầu giai đoạn 2 là giai đoạn phòng ngự trên các chốt Ô Đống Mác, Ô Cầu Dền, ngã tư Kim Liên chống địch tấn công ra ngoại thành.


Đại đội 14 được bố trí từ Ô Cầu Dền vào làng Quỳnh Lôi ngăn địch tấn công qua đê Bành Lao. Đại đội 15 bố trí trong làng Thanh Nhàn và chiếm cứ Ô Đống Mác, đại đội 16 đóng trong khu vực Lương Yên và Vĩnh Tuy chốt giữ đầu dốc Vĩnh Tuy và ngã ba Vĩnh Tuy - Minh Khai.


Ngày 27/12 tiểu đoàn trưởng Quang Tuần lên làm tham mưu đốc chiến tại ban chỉ huy mặt trận Liên khu II Hà Nội, đồng chí Tuấn Sơn về làm tiểu đoàn trưởng.

Từ ngày 26/12/1946 đến ngày 14/1/1947, ngày nào địch cũng cho quân đánh vào tuyến phòng ngự của ta nhưng đều vấp phải sự đánh trả quyết liệt nên không sao tiến qua được.

Đặc biệt có trận đánh ngày 13/1/1947, địch huy động hai tuyến quân đồng thời tiến đánh Ô Đống Mác theo đường Lò Đúc và chốt Ba Hàng đầu dốc Vĩnh Tuy theo đường đê từ Lương Yên xuống.

Mũi tấn công Ô Đống Mác bị đại đội 15 chặn đánh quyết liệt nên địch không thể qua được. Mũi đánh Ba Hàng địch cho xe tăng, xe thiết giáp, pháo 37 ly và trọng liên 12 ly 7 bắn xối xả vào chốt.

Tại khu vực đại đội 16 có lần tư lệnh trưởng Mặt trận Hà Nội là đồng chí Vương Thừa Vũ đến thăm. Dưới sự chỉ đạo của đồng chí tư lệnh, đại đội trưởng Như Trang cho ém quân dưới các bãi ngô dọc theo chân đê và dùng súng cối 60 và 81 ly bắn vào xe của địch. Lần đầu tiên bị đánh bất ngờ bằng súng cối, tăng thiết giáp của địch rút chạy bỏ mặc bộ binh trơ vơ trên đê, bộ đội ta nhất tề xung phong, quân địch hốt hoảng bỏ chạy. Quân ta truy kích tới gần Lò Lợn mới thôi.


Ngày 18/1/1947 địch tổ chức tiến công dọc theo bờ đê xuống Thúy Lĩnh và Nam Dư nhưng bị lực lượng của tiểu đoàn chặn đánh dữ dội.

Tại Nam Dư đại đội 16 được chi viện của trung pháo 75 ly (bí mật đưa từ Thủ Khối - Gia Lâm sang) chặn đánh bắn hỏng hai xe tăng và tiêu diệt một số sĩ quan binh lính địch. Ngày 1/2/1947 địch tổ chức càn quét khu vực Hoàng Mai, Mai Động và các khu Giáp Nhị, Giáp Tứ, Giáp Lục cũng bị đại đội 14 và dân quân du kích Hoàng Mai chặn đánh khiến cho cuộc càn quét của chúng thất bại. Địch phải rút về nội thành.


Ngày 7/2/1947 toàn bộ tiểu đoàn được lệnh rút khỏi Hà Nội để đi làm nhiệm vụ khác. Trong 50 ngày đêm chiến đấu tại Mặt trận Hà Nội, tiểu đoàn đã tiêu diệt khoảng 180 tên địch, phá hỏng 4 xe tăng và thiết giáp, thu 50 vũ khí bộ binh các loại, về mặt quân số, 56 cán bộ chiến sĩ của tiểu đoàn đã hi sinh, nhưng đồng thời hai trung đội tự vệ của khu Lò Đúc và Thanh Nhàn đã được bổ sung vào biên chế của tiểu đoàn.


Vào khoảng 20/2/1947, sau tết Nguyên đán Đinh Hợi, tiểu đoàn được lệnh chuyển quân lên Xuân Mai (Hà Tây) để chấn chỉnh đội ngũ và chuẩn bị lên đường đi Sơn La, Lai Châu với mục tiêu là đánh phá địch phía Thượng Lào, giữ sườn phía tây của quân ta và phối hợp với quân cách mạng của nước Lào. Đến thời điểm này tiểu đoàn 212 được đổi tên thành tiểu đoàn 150 do anh Tuấn Sơn làm tiểu đoàn trưởng, anh Bình Kim làm tiểu đoàn phó, anh Lê Tư làm chính trị viên.


Sau khi ổn định tổ chức, tiểu đoàn hành quân về hướng Tây, theo đường số 6 qua Lương Sơn, Phương Lâm, Chợ Bò, Suối Rút rồi tiếp theo ngược dòng sông Mã đánh chiếm Mường Lát, sau đó tiến đánh Sốp Hào, Sốp Bao (Lào). Đây là lần thứ hai tiểu đoàn hành quân đường dài lên miền Tây và trở lại Sầm Nưa. Tiểu đoàn đã cùng các đơn vị bạn đánh nhanh, đánh mạnh làm cho địch tháo chạy tán loạn, giải phóng một vùng dọc hữu ngạn sông Mã tới Sầm Tố, giúp bạn Lào xây dựng căn cứ kháng chiến.


Một giai đoạn mới của cuộc chiến đấu vô cùng gian khổ, ác liệt những hết sức vẻ vang của tiểu đoàn đã bắt đầu từ đó.

Năm 1948, tiểu đoàn trong đội hình trung đoàn 52 trở lại Hòa Bình với nhiệm vụ là tiểu đoàn tập trung, hỗ trợ cho các đại đội độc lập hoạt động vũ trang diệt địch và xây dựng căn cứ kháng chiến trên điạ bàn tỉnh Hòa Bình và hai huyện Nho Quan, Gia Viễn tỉnh Ninh Bình. Tiểu đoàn đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ chủ lực cơ động bảo vệ vùng giải phóng.


Năm 1949, tiểu đoàn được điều động tăng cường cho trung đoàn 66 là đơn vị chủ lực cơ động của Liên khu III với phiên hiệu mới: Tiểu đoàn 776, mang bí danh tên người anh hùng dân tộc Nguyễn Huệ. Thi đua lập công cùng với các đơn vị bạn, tiểu đoàn đã góp phần tạo nên sức chiến đấu cao của trung đoàn, được Bộ Tổng tư lệnh tin cậy, đồng bào mến mộ và làm cho quân thù khiếp sợ.


Như có duyên với nước bạn, đầu thập kỷ 50, trong đội hình của trung đoàn 66, tiểu đoàn đã hành quân làm nghĩa vụ quốc tế lần thứ ba ở Thượng Lào vùng Xiêng Khoảng và lần thứ tư ở Trung Lào. Ở hai địa bàn này, tiểu đoàn đã góp phần vào thắng lợi của chiến dịch Đông Xuân 1953-1954 mà đỉnh cao là chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ. Thời ấy tiểu đoàn mang mật danh Xã Quảng, được phép thừa thắng vận động xuống Hạ Lào chiến đấu. Nơi đây bên cạnh các chiến công, tiểu đoàn còn ghi thêm một dấu ấn nghĩa tình "vừa là đồng chí, vừa là anh em", đào một con mương qua núi đá giúp dân lấy nước canh tác, được bà con Lào đặt tên là "mương Xã Quảng".


Trải qua nhiều năm tháng chiến đấu, nhiều cán bộ, chiến sĩ của tiểu đoàn đã anh dũng hy sinh, nhiều cán bộ chỉ huy của tiểu đoàn được điều động đi các đơn vị khác và nhiều cán bộ đã được bổ sung. Nhưng truyền thống tốt đẹp của tiểu đoàn như bản lĩnh chiến đấu, tinh thần khắc phục khó khăn, tình đoàn kết quân dân luôn được giữ vững và phát huy.


Đến thời kỳ chống Mỹ xâm lược, tiểu đoàn được đổi phiên hiệu là tiểu đoàn 9, vẫn là một đơn vị hợp thành của trung đoàn 66, trong đội hình sư đoàn Vinh Quang lừng danh thiện chiến. Tiểu đoàn đã cùng các đơn vị bạn đánh bại các sắc lính sừng sỏ và tàn ác của Mỹ ngụy, từ sông Bến Hải tới Sài Gòn và ngày 30/4/1975 tham gia đánh chiếm dinh Độc Lập, góp phần kết thúc thắng lợi cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước.


Trước khi trở ra Bắc, tiểu đoàn đã tham gia giúp nhân dân Campuchia thoát họa diệt chủng của bè lũ Pôn Pốt.

Trải qua hai cuộc kháng chiến với năm lần làm nghĩa vụ quốc tế, từ tiểu đoàn Vệ quốc quân 212 của Hà Nội, đến tiểu đoàn 150 Tây Tiến, tiểu đoàn 776 Nguyễn Huệ rồi tiểu đoàn 9, tiểu đoàn đã may mắn có được một vinh dự quý hiếm: là vừa là tác giả, vừa là nhân chứng của những mốc son trong lịch sử. Đó là: có nhiều thành viên tham gia khởi nghĩa tháng 8/1945 tại Hà Nội, lực lượng đầu tiên làm nghĩa vụ quốc tế và đánh thắng trận đầu ở Miền Tây, một lực lượng hỗ trợ đắc lực cho chiến thắng Điện Biên Phủ, một bộ phận trong lực lượng mũi nhọn chiếm dinh Độc Lập giải phóng Sài Gòn.


Hành trình của tiểu đoàn 212 Hà Nội trải qua suối chiều dài của đất nước và hai nước bạn thật đáng tự hào.

THANH TÙNG - NGUYỄN HlỂN
Logged
vnmilitaryhistory
Moderator
*
Bài viết: 1830



« Trả lời #12 vào lúc: 15 Tháng Tư, 2022, 06:57:12 am »

TIỂU ĐOÀN 64
KIÊN CƯỜNG CHIẾN ĐẤU TRONG VÒNG VÂY CỦA ĐỊCH


Cách mạng Tháng Tám năm 1945 thành công, chính quyền cách mạng còn non trẻ. Để đối phó với thù trong giặc ngoài, một yêu cầu cấp bách là phải nhanh chóng xây dựng củng cố chính quyền các địa phương và xây dựng lực lượng vũ trang ở các khu.


Tiểu đoàn 64 là một tiểu đoàn thuộc trung đoàn 37 của tỉnh Sơn Tây. Tiểu đoàn 64 được thành lập ngày 15/1/1946 ở trong thành Sơn Tây, do một đại đội quân tình nguyện được huấn luyện hai tháng rưỡi ở Ba Đình (Thanh Oai) lên tập kết tại trại lính Kim Đái, cùng với một đơn vị của tỉnh Sơn Tây.


Đây là một trong những đơn vị vũ trang đầu tiên của Chiến khu II. Cán bộ chiến sĩ của tiểu đoàn lúc đầu là những thanh niên ở Hà Đông và Sơn Tây, sau này được bổ sung thêm nhiều chiến sĩ là người Hà Nội.

Ban chỉ huy tiểu đoàn gồm có:

Tiểu đoàn trưởng: Quốc Linh

Chính trị viên: Nguyễn Văn Dụ

Tiểu đoàn phó: Mạnh Quân

Nhiệm vụ lúc đầu của tiểu đoàn, là luyện tập quân sự, bảo vệ chính quyền tỉnh và xây dựng lực lượng dân quân.


Tháng 4/1946, theo lệnh của trên, tiểu đoàn hành quân về đóng tại huyện Phúc Thọ, đề phòng bọn Quốc dân đảng từ Vĩnh Yên tràn sang.

Lúc này tiểu đoàn gồm có hai đại đội:

- Đại đội 55 đóng quân từ Kiều Trung, Ký Ức về đến cầu Phùng.

Ban chỉ huy đại đội gồm có:

Đại đội trưởng: Nguyễn Trọng Quỳnh

Chính trị viên: Nguyễn Đức Phương

- Đại đội 68 đóng tại ven đê sông Hồng về đến Hát Môn.

Ban chỉ huy đại đội gồm có:

Đại đội trưởng: Lê Bính

Đại đội phó: Chu Hữu Cẩn

Chính trị viên: Mạnh Luân

- Ngoài ra, còn có một số bộ phận chuyển làm công tác huấn luyện tân binh, do các đồng chí Hồng Quân và Quốc Cường (nguyên là hai cán bộ tác chiến của tiểu đoàn) phụ trách.


Sau Tạm ước 14/9/1946, quân đội thực dân Pháp ngày càng tỏ ra hung hãn. Chúng lấn chiếm ở Hải Phòng, ra sức khiêu khích gây hấn ở Hà Nội. Tình hình càng trở nên nghiêm trọng. Tiểu đoàn được lệnh chuyển dịch về gần Hà Nội, đóng dọc theo đường Sơn Tây - Hà Nội. Nhiệm vụ của tiểu đoàn lúc này rất khẩn trương: tuyển mộ thêm tân binh, huấn luyện gấp rút về quân sự, mặt khác phối hợp với quân dân dẫn đường, đào công sự hình chữ Z trên chặng đường dài 20 km suốt từ Phùng về tới Sơn Tây, đề phòng địch từ Hà Nội đánh lên.


Cuộc kháng chiến toàn quốc bùng nổ, tiểu đoàn được lệnh về chiến đấu bảo vệ Thủ đô. Ngay đêm 19/12/1946, đại đội 55 nhận lệnh phá sập cầu Phùng. 20 giờ ngày 19/12/1946, toàn tiểu đoàn hành quân về Hà Nội, mờ sáng ngày 21/12/1946 tập kết ở khu Dịch Vọng - Cầu Giấy - Kim Lũ. Sáng ngày 22/12/1946, tiểu đoàn bộ và đại đội 68 vào nhận bàn giao vị trí tại Nhà thương Vọng (nay là bệnh viện Bạch Mai) và sân bay Bạch Mai. Đại đội 55 nhận vị trí tại Việt Nam học xá. Trên đường hành quân về Hà Nội, thể theo nguyện vọng của bộ đội địa phương huyện Đan Phượng, tiểu đoàn đã thu nhận một trung đội (do trung đội trưởng Nguyễn Duy Ứng chỉ huy) và biên chế ngay vào đại đội 68.


Cùng thời điểm này, có đại đội 157 của tiểu đoàn 56 Hà Đông chịu trách nhiệm bảo vệ khu vực từ Ô Chợ Dừa qua phố Khâm Thiên đến Nhà dầu Shell (ngã tư Khâm Thiên). Ban chỉ huy đại đội 157 gồm có:

Đại đội trưởng: Lê Công Tâm

Đại đội phó: Hoàng Quang Thanh Huệ

Chính trị viên: Lê Hữu Lập

Từ ngày 24/12/1946, sau khi quân Pháp chiếm được ga Hàng Cỏ, Nhà dầu Shell, và một bộ phận Liên khu II Hà Nội, thế trận giữa ta và địch là thế cài răng lược.

Địch tìm cách nống ra, ta kiên quyết chặn lại bằng cách tập kích vào vị trí của địch, phục kích bắn tỉa, đánh bom ba càng trên đường số 1 (bom ba càng là loại vũ khí mới nhất hồi đó, các chiến sĩ cảm tử quân sử dụng để phá tan xe tăng địch tại chỗ).


Trung đội cảm tử của tiểu đoàn do đồng chí Mai Hiền và đồng chí Mạnh Trung (người Nhật) phụ trách. Đêm ngày 25/12/1946, trung đội được lệnh diệt xe tăng địch đang giữ chốt tại khu vực Cây Si (ngã ba Kim Liên đường số 1). Cảm tử quân Lý Đàm Nguyên đã diệt tại chỗ một xe tăng.


Để thống nhất việc chỉ huy các lực lượng tham gia chiến đấu trên địa bàn Hà Nội, các đơn vị tự vệ của các khu phố được chuyển thành đơn vị Vệ quốc quân. Tiểu đoàn 64 tiếp nhận ba đội tự vệ của Liên khu II Hà Nội, hợp thành một đại đội Vệ quốc quân mang số hiệu là đại đội 4. Ban chỉ huy đại đội 4 lúc này gồm có:

Đại đội trưởng: Hồng Quân (tên thật là Đỗ Viết Hưởng)

Chính trị viên: Mạnh Lân

Ngoài ra, tiểu đoàn còn có một số trung đội hậu cần gồm hơn hai chục nữ tự vệ và một số em thiêu niên xung phong làm nhiệm vụ tiếp tế cứu thương liên lạc ...

Ngày 9/1/1947, đại đội 4 và trung đội hậu cần bắt đầu hành quân về đóng trong khu vực Nhà thương Vọng.

Cuộc chiến đấu giữa ta và địch ngày càng gay go quyết liệt. Quân địch ngày càng tăng cường lực lượng, chúng âm mưu chiếm đương chiến lược số 1 mà chốt quan trọng là Nhà thương Vọng, để chiếm giữ Thủ đô và tiêu diệt lực lượng kháng chiến non trẻ của ta.


Để kiềm chế địch, các chốt của tiểu đoàn 64 thường xuyên tổ chức các trận tấn công quấy rối địch, làm cho chúng mất ăn mất ngủ, như trận quấy rối Nhà dầu Shell của đại đội 157, trận tập kích ngã tư Kim Liên của đại đội 68, các trận chiến đấu quấy rối ở khu vực Kim Liên - Trung Tự của đại đội 4.
Logged
vnmilitaryhistory
Moderator
*
Bài viết: 1830



« Trả lời #13 vào lúc: 15 Tháng Tư, 2022, 06:58:20 am »

Ngày 15/1/1947, một trận chiến đấu ác liệt giũa tiểu đoàn 64 và quân Pháp diễn ra ở phía tây nam Hà Nội, mà trọng điểm là Nhà thương Vọng.

5 giờ sáng ngày 15/1/1947, súng nổ dữ dội ở phía đông bắc. Đạn pháo và hỏa lực (đại, trọng liên 12 ly 7) bắn mạnh về phía Nhà thương Vọng.

6 giờ, một đoàn cơ giới của địch từ Nhà ga, Nhà dầu Shell theo đường số 1 tiến xuống, dẫn đầu là hai xe tăng, theo sau là xe bọc thép và cơ giới bộ binh. Hai khẩu đại liên của ta (Hốt - kít và Mắc - xim) nhả đạn xối xả vào đội hình địch làm cho xe cơ giới phải dừng lại. Đạn pháo các cỡ của địch lại dồn dập rót vào trận địa của tiểu đoàn.


Khoảng 9 giờ sáng, địch cho một cánh quân gồm bộ binh và cơ giới có xe tăng yểm hộ, từ Phà Đen, Vĩnh Tuy tiến qua ngã tư Trung Hiền vào đường Đại La. Tổ bom ba càng của trung đội cảm tử đã phá được 1 xe tăng. Cùng lúc này, máy bay của địch quần đảo trên khu vực Nhà thương Vọng, thả lựu đạn và bom 25 kg xuống trận địa của ta.


Từ hướng bắc, quân địch vẫn tiến xuống, nhưng tiến rất chậm, vừa đi vừa dò mìn. Khoảng 10 giờ sáng, khẩu đại liên của ta ở phía bắc trúng đạn pháo, bị cong nòng gẫy chân, khẩu đội trưởng Nguyễn Văn Đa bị thương, phải rút về phía sau. Lợi dụng lúc này xe tăng địch áp sát, húc đổ tường góc phía bắc, nhưng bị trúng lựu đạn và đứt xích, nằm chắn luôn lối vào. Quân địch còn mở nhiều đợt tấn công nhưng đều bị đánh bật ra, bị thương vong, bỏ lại nhiều xe bị bắn hỏng.


Bên ta cũng đã có nhiều thương vong. Tổ tiền tiêu phía bắc (ở lò gạch) bị trúng đạn pháo của địch, toàn tổ hy sinh, trong đó có chính trị viên trung đội Hoàng Tường Chi.

Vào khoảng 13 giờ, địch lại mở đợt tấn công mới từ cả hai hướng bắc và đông. Cánh quân địch từ ngã tư Trung Hiền tiến vào đường Đại La từ buổi sáng đã chiếm được ga Vọng vào hồi 15 giờ và khống chế đường Tàu Bay. Cánh quân địch ở phía đường số 1 có 3 xe tăng cùng lính bộ binh Âu Phi và bọn Việt gian thổ phỉ mặc toàn đồ đen. Một xe tăng húc đổ cổng chính, một xe tăng khác húc đổ tường nhưng bị quân ta từ trong nhà bắn ra và bị lựu đạn từ trên gác cao thả xuống. Địch cố tiến vào, ta cố đánh bật chúng ra. Chính trị viên tiểu đoàn Nguyễn Văn Dụ bị thương. Chính trị viên đại đội Mạnh Lân, hai trung đội trưởng Vũ Bạch Liên và Nguyễn Duy úng cùng một số chiến sỹ hy sinh.


Đến 16 giờ, địch đã hình thành thế bao vây cả ba mặt, chỉ còn mặt tây nam là trống. Trước tình hình đó, tiểu đoàn trưởng Quốc Linh ra lệnh cho bộ đội rút về tuyến sau. Quân ta trong tầng hầm và trên tầng cao tòa nhà chính được lệnh đồng loạt tiến công địch. Bị bất ngờ, lính địch hoảng loạn nấp vào hào giao thông và sau xe bọc thép. Quân ta tranh thủ rút ra ngoài theo hướng đã định. Một số người còn bị kẹt trong tầng hầm của bệnh viện, mãi đến đêm mới rút ra được. Nơi tập kết của tiểu đoàn là làng Huỳnh Cung (huyện Thanh Trì). Trong lúc này, đại đội 55 đóng ở Việt Nam học xá vẫn bị bao vây.


Sau khi chiếm được Nhà thương Vọng, ngày hôm sau địch bắt đầu tấn công vào khu vực Việt Nam học xá từ hai phía: Từ đê La Thành xuống và từ Chợ Mơ sang. Nhưng lính địch chỉ vào được đến cách nhà A và nhà D chừng 100m thì phải dừng lại vì khoảng cách này là bãi trống, hỏa lực của ta bắn mạnh. Đại đội 55 được trang bị hai đại liên Nhật, hai trung liên, một cối 60 ly và một số tạc đạn 56 ly. Ba khẩu súng máy của ta đặt ở tầng hầm sát với bãi trống bắn liên tục làm cho lính địch không dám tiến lên. Xe tăng địch tiến vào thì bị tạc đạn 56 ly từ trên nóc nhà ném xuống. Địch tấn công ta trong hai ngày đều bị ta đánh trả mãnh liệt. Không tiến vào được, địch dùng pháo bắn vào các nhà có quân ta đóng, làm sập các cầu thang. Đến bốn giờ chiều ngày thứ hai thì địch rút.


Trong mấy ngày trước đó, dân quân du kích và một số bà con dân phố chưa đi tản cư từ phía Phố Huế và khu Bạch Mai dồn vào khu Việt Nam học xá, tổng cộng hơn 1000 người. Đại đội 55 phải sử dụng số gạo dự trữ của đại đội để nấu cơm cho mọi người ăn trong hai ngày và tổ chức cho họ rút ra khỏi khu vực Việt Nam học xá. Sau đó, đại đội 55 cũng nhận được lệnh cho rút ra ngoài theo hướng đầm Sét. Thế là sau bốn ngày trụ lại ở Việt Nam học xá, có 4 đồng chí hi sinh và 3 người bị thương, đại đội 55 về tập kết tại làng Đại Từ.


Sau khi chiếm được Nhà thương Vọng, địch cho quân sang đánh chiếm sân bay và trận địa của đại đội 157 ở Ngã Tư Sở. Đại đội 157 được lệnh rút về Huỳnh Cung và bắt đầu chính thức thuộc biên chế của tiểu đoàn 64.

Toàn tiểu đoàn đóng quân ở Huỳnh Cung để nghỉ ngơi, chấn chỉnh đội ngũ, bổ sung quân số và đón tết âm lịch. Chiều mồng 2 tết (23/1/1947), toàn tiểu đoàn hành quân lên phía tây bắc Hà Nội, đóng quân ở vùng Thạch Thất (Sơn Tây).


Ngày 25/1/1947 đã có một cuộc phiên chế lại các đơn vị. Ban chỉ huy lúc này gồm có: Tiểu đoàn trưởng Quốc Linh, tiểu đoàn phó Nguyễn Huy Thọ. Các đơn vị thuộc tiểu đoàn gồm có:

- Đại đội 68 (gồm đại đội 4 và đại đội 68 cũ nhập làm một):

Đại đội trưởng: Lê Bính

Đại đội phó: Chu Hữu Cần

Chính trị viên đại đội: Hồng Quân (Đỗ Viết Hưởng)

- Đại đội 55:

Đại đội trưởng: Nguyễn Trọng Quỳnh

Chính trị viên đại đội: Nguyễn Đức Phương

- Đại đội 157:

Đại đội trưởng: Lê Công Tâm

Đại đội phó: Hoàng Quang Thanh Huệ

Chính trị viên đại đội: Lê Hữu Lập

- Và một trung đội hậu cần (sau đổi thành đội úy lạo).

Sau khi chiếm được Nhà thương Vọng và Ngã Tư Sở, địch đánh chiếm thị xã Hà Đông rồi tiến lên Mai Lĩnh để bảo vệ cho thị xã Hà Đông. Các đơn vị thuộc tiểu đoàn 64 đã quấy rối tiêu hao quân địch. Đại đội 157 ở vùng tây nam ngoại thành Hà Nội, đại đội 68 ở vùng Sấu Giá, Đại Đồng, đại đội 55 đột kích vào làng Cổ Nhuế, có tiếng vang tốt. Mờ sáng ngày 20/3/1947, tiểu đoàn 64 tham gia trận tấn công thị xã Hà Đông (cùng các đơn vị khác trong trung đoàn).


Sau ngày 20/3/1947, trung đoàn 37 của tỉnh Sơn Tây và trung đoàn 35 của tỉnh Hòa Bình được sáp nhập thành một trung đoàn mới gọi là trung đoàn 37, sau đổi là trung đoàn 66, là trung đoàn chủ lực của Chiến khu II. Tiểu đoàn 64 là một tiểu đoàn mạnh nằm trong đội hình trung đoàn 66.


Tiểu đoàn 64 làm nhiệm vụ bảo vệ Tả ngạn sông Đà, đã đánh địch nhảy dù ở Ba Vành (gần thị xã Hòa Bình). Giữa năm 1947, tiểu đoàn 64 được đổi phiên hiệu thành tiểu đoàn 171 và chiến đấu ở dốc Lễ, Trung Hà, Lễ Khê (Sơn Tây).


Sang năm 1948, tiểu đoàn 171 đã tham gia chiến đấu ở Lao Phong (Hòa Bình), ở Bằng Sở, Chùa Thông (phía nam Hà Nội).

Giữa năm 1948, tiểu đoàn 171 lại đổi phiên hiệu thành tiểu đoàn 626 và tham gia đánh quân nhảy dù ở Vân Đình (9/1948), đánh địch ở Gò Cáo (11/1948), phá càn của địch ở Mỹ Đức, Hà Đông (12/1948).

Đầu năm 1949, đại đoàn đầu tiên của quân đội ta được thành lập mang phiên hiệu đại đoàn 308, còn gọi là đại đoàn Quân tiên phong. Theo mệnh lệnh số 42-CTM-PL ngày 19/2/1949 của Bộ Tổng chỉ huy, tiểu đoàn 626 là một đơn vị có kinh nghiệm chiến đấu ở đồng bằng được tách khỏi trung đoàn 66 để tham gia thành lập đại đoàn 308.


Thế là tiểu đoàn 64, sau hai lần đổi phiên hiệu thành tiểu đoàn 171 rồi thành tiểu đoàn 626, từ nay sẽ xa trung đoàn 66 và xa vùng đồng bằng Liên khu III để hòa vào đội hình của đại đoàn 308 và gắn với địa bàn Việt Bắc.


NGUYỄN HỢP - ĐẶNG TRẦN CƯ
NGUYỄN NGỌC NINH
Logged
vnmilitaryhistory
Moderator
*
Bài viết: 1830



« Trả lời #14 vào lúc: 15 Tháng Tư, 2022, 06:59:42 am »

TIỂU ĐOÀN 56
MỘT CHẶNG ĐƯỜNG LỊCH SỬ HÀO HÙNG


Tiểu đoàn 56 (còn được gọi là tiểu đoàn Hà Đông), là đơn vị quân đội cách mạng chính quy đầu tiên của tỉnh Hà Đông. Tiểu đoàn được thành lập vào ngày 23/8/1945 (ngày khởi nghĩa tại tỉnh lỵ Hà Đông). Lực lượng nòng cốt của tiểu đoàn lấy từ các đội Tự vệ cứu quốc đã từng có thành tích trong phong trào chống Nhật cứu nước, và tổng khởi nghĩa cướp chính quyền... từ xã, huyện đến tỉnh. Dưới sự chỉ huy của đồng chí Lê Trọng Tấn ủy viên quân sự trong ủy ban cách mạng lâm thời của tỉnh. Đặt dưới quyền lãnh đạo trực tiếp của tỉnh ủy Hà Đông. Thời gian đầu mang tên Giải phóng quân Hà Đông, sau đó đổi thành Vệ quốc đoàn.


Trải qua hơn một năm rèn luyện quân sự, học tập chính trị và thường trực bảo vệ chính quyền cách mạng trong tỉnh, tiểu đoàn 56 đã dần dần lớn mạnh, phát triển lên (cho đến trước ngày toàn quốc kháng chiến) thành 6 đại đội, mang số hiệu 1, 2, 3, 4, 5, và 134 (trong đó có đại đội có lính hải ngoại, "khố đỏ" từ Pháp mới được hồi hương, tình nguyện xin gia nhập quân đội cách mạng). Ban chỉ huy tiểu đoàn lúc này gồm có: Đồng chí Nguyễn Anh Đệ tiểu đoàn trưởng, đồng chí Lê Thanh chính trị viên. Ban chỉ huy các đại đội: Đại đội 1 do Thế Môn làm đội trưởng, Tế Độ làm chính trị viên, Trần Dương Oai làm đại đội phó. Đại đội 2 do Vũ Công Định làm đội trưởng, Lê Chí Thực làm chính trị viên. Đại đội 3 do Lê Công Tâm làm đội trưởng, Lê Lập làm chính trị viên, Hoàng Quang Thanh Huệ làm đại đội phó. Đại đội 4 do Lâm Văn làm đại đội trưởng, Trần Quang Lập làm chính viên. Đại đội 5 do Nguyễn Mẫn làm đại đội trưởng, Thế Sinh làm chính trị viên. Đại đội 134 do Nguyễn Hảo Đăng làm đại đội trưởng, Văn Dung làm chính trị viên.


Được lệnh sẵn sàng xuất quân chi viện cho Hà Nội, tiểu đoàn 56 triển khai đội hình như sau: Đại đội 1 trú quân tại Cổ Nhuế; đại đội 2 trú quân tại Quang Tó; đại đội 3 trú quân tại Đại Mỗ; đại đội 4 tại trại Vệ quốc đoàn thị xã Hà Đông; đại đội 5 trú tại Phùng Khoang; đại đội 134 trú tại Ngọc Trục...


Ngày 19 /12/1946, tiểu đoàn xuất phát tiến vào Hà Nội.

- Đại đội 1 chiếm lĩnh khu vực Ngọc Hà, Đội Cấn (phối thuộc tiểu đoàn 145 khu 1 tại Hà Nội)

- Đại đội 3 chiếm lĩnh khu vực Khâm Thiên (phối thuộc tiểu đoàn 523 Liên khu III Hà Nội)

- Đại đội 5 chiếm lĩnh Ô Cầu Dền (phối thuộc tiểu đoàn 77 Liên khu II Hà Nội).

Tối 21/12/1946, tiểu đoàn trưởng Anh Đệ cùng chính trị viên Lê Thanh chỉ huy đại đội 2 và đại đội 4 theo hướng Hà Đông, Văn Điển tiến vào Hà Nội, tăng cường cho hai khu vực Ô Cầu Dền và Ô Đống Mác.

(Đại đội 134 ở lại Hà Đông làm lực lượng dự bị đồng bảo vệ Hà Đông).

Như vậy là: Riêng tại Mặt trận Liên khu II Hà Nội, tiểu đoàn 56 có tới ba đại đội tham chiến. Cụ thể: đại đội 5 tác chiến ở khu vực Ô Cầu Dền (là chính); đại đội 4 tác chiến ở khu vực Hai Bà Trưng, Nhà rượu Ô Cầu Dền (là chính); đại đội 2 tác chiến tại khu vực Đống Mác, Thanh Lương (là chính).


Sở dĩ nói "là chính" bởi vì thời bấy giờ trận đánh diễn ra với qui mô thường là không lớn, và lại tác chiẽn trong thành phố (rất thích hợp với đơn vị nhỏ - cỡ trung, tiểu đội), một đại đội có khi phải chia xẻ ra làm hai hoặc làm ba điểm đánh địch ví dụ như đại đội 2 chiếm lĩnh trận địa và tác chiến ở khu vực Ô Đống Mác, nhưng đã cử một trung đội do đội trưởng Nguyễn Viết Nhâm chỉ huy, thọc tận vào phó) Săng-xôm (nay là phố Triệu Việt Vương) chiến đấu liền 3 ngày đêm (từ ngày 21 đến 24 /12/1946) diệt gần 10 tên địch và rút về an toàn.


Tại Liên khu II Hà Nội, ba đại đội của tiểu đoàn 56 đã đánh liên tục, bắt đầu từ ngày 24/12/1946 (khi địch nống ra) được tiểu đoàn bố trí chiến đấu ở Đồng Nhân (đền Hai Bà, Nhà Rượu), Ô Đống Mác, Thanh Lương, Ô Cầu Dền cho đến ngày 31/12/1946 thì hai đại đội 2 và 4 của tiểu đoàn chuyển sang mặt trận Liên khu III bố trí tại Ô Chợ Dừa và Giảng Võ. Đại đội 5 tiếp tục ở lại Ô Cầu Dền chiến đấu ở cửa ô.


Đơn vị nào cũng được đánh địch hàng chục trận. Có những trận rất tiêu biểu như:

1/ Trận phòng ngự Ô Cầu Dền ngày 28/12/1946, đại đội 5 cùng tự vệ Bạch Mai đã đội bom và đại bác của địch kiên cường chống trả xe tăng, thiết giáp cùng với bộ binh địch liên tục xung phong toan đánh chiếm ụ Ô Cầu Dền. Ta trụ vững tới cùng. Bắn cháy một xe tăng, bắn đổ một xe thiết giáp và dũng cảm vượt ụ Ô Cầu Dền xung phong lên đuổi địch tới tận nhà nước mắm Phan Thiết (sâu trong khu vực chiếm đóng của địch chừng 300m) tiêu diệt hơn 80 tên phá hủy 2 ô tô vận tải một xe jeep và một trận địa súng cối...


2/ Trận Đồng Nhân, Nhà Rượu ngày 24/12/1946 đại đội 4 cùng một số anh em tự vệ Lò Đúc và Phố Huế đã chặn đánh mũi tiến công của địch từ hai hướng: Đồn Thủy qua Viện Pasteur tiến vào, và từ Chợ Hôm phố Jắc - canh chọc xuống. Trận đánh diễn ra ác liệt suốt từ sáng tới chiều, quân địch bị ta chặn đứng lại không sao tiến lên được. Chúng thương vong rất nặng nề nhưng ta không nắm được số liệu cụ thể là bao nhiêu, chỉ biết khi rút lui chúng phải dùng tới 3 xe ô tô tải chở đầy xác chết và lính bị thương đi theo...


3/ Trận Ba Hàng, Thanh Lương ngày 28/12/1946, đại đội 2 cùng anh chị em dân quân của hai làng Thanh lương, Ba Hàng với đội tự vệ Lò Đúc... đã chiếm lĩnh trận địa từ trước, và quần nhau với Pháp vài ba keo rồi, đang sẵn sàng chờ chúng mò đến. Bọn chúng mở đầu cuộc tiến công theo hai hướng: Một mũi tên theo đê sông Hồng (đường Trần Khánh Dư bây giờ), chọc xuống; một mũi theo dốc Thọ Lão qua Ô Đống Mác đánh sang. Nhưng lần này ở phía bờ sông Hồng chúng có thêm xe tăng hỗ trợ. Và cách thức tấn công của chúng vẫn y nguyên theo bài bản cũ: Máy bay dội bom, đại bác nã đạn chán chê rồi mới tới xe tăng bộ binh vừa bắn vừa hùng hổ tiến đến.

Tại khu vực Ba Hàng, hỏa lực đại liên và lựu đạn kèm ét - xăng - crếp của ta đã chặn đứng từng đợt xung phong của quân Pháp, không cho chúng xông vào trận địa của chúng ta.


Tại khu vực Thanh Lương, ta bố trí lại đội hình; cho quân rút khỏi tuyến chiến đấu ở cổng làng, chỉ để lại vài tổ đánh nhử cho địch vào sâu trong làng, rồi dùng hỏa lực bắn mạnh từ hai bên sườn và đánh thốc vào một cách dữ dội. Bị bất ngờ, quân Pháp hốt hoảng quay đầu tháo chạy thục mạng, bỏ lại hàng chục xác chết. Quân ta phấn khởi hăng hái hò reo rượt đuổi tới tận dốc Thọ Lão diệt thêm được gần mười tên địch nữa mới chịu dừng ...


Trước Tết Đinh Hợi tiểu đoàn 56 theo lệnh của ban chỉ huy mặt trận, trở về tổ chức tuyến phòng ngự tại thị xã Hà Đông. Lúc này lực lượng của tiểu đoàn chỉ giữ lại đủ 3 đại đội.


Đại đội 134 vẫn giữ nguyên vẹn như cũ (kể cả quần áo số lẫn ban chỉ huy và phiên hiệu đơn vị), có nhiệm vụ phối hợp cùng lực lượng quân dân tại chỗ. Lập tuyến phòng ngự Tây Mỗ, Đại Mỗ, Ngọc Trục bảo vệ cánh trái thị xã.


Đại đội 4 (nay đổi thành phiên hiệu 262 do Lâm Văn Do làm đại đội trưởng, Trọng Khang làm chính trị viên) phối hợp với dân quân tại chỗ lập tuyến phòng ngự tại Đa Sĩ, Mậu Lương, Tó, tổ chức bảo vệ cánh phải của thị xã.

- Đại đội 1 (nay đổi thành phiên hiệu 225) do Trần Quang Liên làm đội trưởng, Nguyễn Tính làm chính trị viên, phối hợp với quân dân tại chỗ lập tuyến phòng ngự Mỗ Lao, Phùng Khoang, Triều Khúc, chặn địch từ Cầu Mới theo quốc lộ 6 tiến vào.

Ban chỉ huy tiểu đoàn gồm có: tiểu đoàn trưởng Anh Đệ, chính trị viên tiểu đoàn Trần Quân Lập, tiểu đoàn phó Đỗ Hẹ... tiểu đoàn bộ đóng tại Cầu Đơ.


Từ Mặt trận Hà Nội rút về, tiểu đoàn 56 đã sẵn sàng chờ giặc, để đi tiếp cuộc trường chinh đối với đất nước với tư thế của những người chiến sĩ nguyện một lòng trung dũng theo Bác Hồ tiến hành cuộc Trường Kỳ Kháng Chiến Nhất Định Thắng Lợi.

TRẦN QUÂN LẬP
(Bài viết lấy từ tư liệu ban liên lạc CCB d56
và tập K2 những ngày đầu Thủ đố K.C)
Logged
vnmilitaryhistory
Moderator
*
Bài viết: 1830



« Trả lời #15 vào lúc: 20 Tháng Tư, 2022, 06:46:49 am »

ĐỘI TỰ VỆ
CHIẾN ĐẤU CỨU QUỐC HOÀNG DIỆU


Sau ngày 19/8/1945, cả Hà Nội tiếp tục sục sôi khí thế cách mạng. Cuộc đấu tranh giành chính quyền coi như đã kết thúc, nhưng cuộc đấu tranh xây dựng và giữ chính quyền chỉ mới bắt đầu.

Cũng như cả nước, Hà Nội bước vào cuộc chiến cam go và mới mẻ này trong bối cảnh bên cạnh những thuận lợi cơ bản do Cách mạng thắng lợi đem lại, đang còn phải đối mặt với nhiều khó khăn to lớn.

Ở miền Bắc, quân Tầu Tưởngg, nhân danh đồng minh được phân công làm nhiệm vụ giải giáp quân đội Nhật thất trận sắp tràn vào, kéo theo bọn Việt cách, Việt quốc khét tiếng phản động. Ở miền Nam, theo gót quân Anh vào giải giáp quân đội Nhật, quân Pháp cũng đang lăm le trở lại.


Việc xây dựng và củng cố lực lượng cách mạng để đối phó thù trong giặc ngoài là một đòi hỏi hết sức cấp thiết. Trên địa bàn thành phố, riêng về mặt lực lượng vũ trang, bên bộ đội chủ lực, công an, lực lượng tự vệ nằm dưới các khu phố, làng xã, Thành ủy Hà Nội thấy cần thiết xây dựng thêm một lực lượng tự vệ chiến đấu tập trung thường trực.


Ngày 25/8/1945, được sự chỉ đạo của Trung ương, trực tiếp là đồng chí Trần Quốc Hoàn, hội nghị toàn ban Thành ủy Hà Nội đã quyết nghị thành lập Đội tự vệ chiến đấu cứu quốc Hoàng Diệu, trụ sở đầu tiên đặt ở 107 đường Trần Hưng Đạo. Đồng chí Lê Trung Toản, thành ủy viên phụ trách quân sự địa phương được phân công trực tiếp làm đội trưởng của đội.


Đội được trao hai nhiệm vụ chủ yếu: "Đội Cận vệ" và "Đội Xung kích". Quân số của đội lúc cao nhất là 400 người, sau chia bớt lực lượng sang xây dựng công an, đi làm kinh tế, đi sản xuất vũ khí... còn khoảng 300 người.


Về nhiệm vụ "Đội Cận vệ", đội đã hoàn thành nhiệm vụ canh gác bảo vệ một số nơi cần thiẽt như trụ sở của Hội công nhân cứu quốc và báo Lao động ở 51 Hàng Bồ, trụ sở Bộ Thanh niên trên đường Trần Nhân Tông, Đài phát thanh Ngã Tư Vọng... Tháng 10/1945, Đội được vinh dự cử hai người đi làm vệ sĩ cho Hồ Chủ tịch và một tổ bốn người đi bảo vệ nơi Bác làm việc và ngủ đêm ở ngoại thành.


Về nhiệm vụ "Đội Xung kích", đội cũng lập được nhiều thành tích to lớn. Đứng hàng đầu trong công việc này là việc mở rộng diện thâm nhập vào các tầng lớp đồng bào, động viên họ tham gia các cuộc vận động của thành phố, tổ chức họ vào các tổ chức quần chúng. Việc thứ hai là phát triển mạnh mẽ lực lượng tự vệ đường phố tự vệ các xí nghiệp... góp phần hết sức quan trọng vào việc giữ an ninh, trật tự công cộng, bảo vệ đời sống nhân dân.


Thành tích công tác to lớn và sự tiến bộ của đội đã Bác Hồ đánh giá thật tốt đẹp trong bài Người viết với bút danh Q.T. đăng trên báo Cứu quốc ngày 14/6/1946: "Anh em tự vệ chiến đấu thành Hoàng Diệu thật xứng đáng làm gương cho không những tự vệ các địa phương mà cho cả các hạng thanh niên nữa".


Đi vào cuộc kháng chiến chống Pháp.

Sau sự kiện Pháp đánh chiếm Hải Phòng, Lạng Sơn, Hà Nội rõ ràng đã trở thành mục tiêu đánh chiếm tiếp theo của chúng.

Đội tự vệ chiến đấu được giao nhiệm vụ phối hợp với quân đội quốc gia và làm nòng cốt cho tự vệ Thành "quyết chiến bảo vệ Thủ đố đến cùng".

Đội nhận lệnh khẩn trương phân bố lực lượng về các Liên khu để cùng các lực lượng tự vệ thành, công an và các đoàn thể khác đẩy mạnh hơn nữa các mặt chuẩn bị chống giặc.

Lãnh đạo đội thực tế lúc này chỉ còn mình đồng chí Nguyễn Anh Bảo, từ tháng 7 đã làm đội trưởng thay đồng chí Lê Trung Toản, đội trưởng Đội đầu tiên, đã được điều đi làm Bí thư Thành ủy Hải Phòng, xong nhiệm vụ đã trở về nhưng được giao nhiệm vụ Phó Bí thư Liên khu ủy kiêm Chủ tịch Ủy ban bảo vệ Liên khu I. Đồng chí Đỗ Đức Kiên từ tháng 8 đã chuyển từ chức trưởng ban tuyên truyền Thành lên làm Bí thư Mặt trận Việt Minh Thành, đồng chí Hoàng Phương vừa phụ trách Mặt trận Việt Minh Liên khu I vừa làm Phó Chủ tịch Ban chấp hành Đoàn thanh niên Tự vệ thống nhất Thành, đồng chí Đỗ Trình học xong lớp chính trị Nguyễn Ái Quốc được cử về Liên khu III làm Bí thư Liên khu ủy kiêm Chủ tịch Ủy ban bảo vệ Liên khu II. Đồng chí Trần Vỹ chỉ huy trung đội Trần Quốc Toản (thay đồng chí Vũ Văn Đôn được điều làm kinh tế) và phụ trách Mặt trận Việt Minh Liên khu II, được cử làm Phó bí thư Liên khu ủy Liên Khu II kiêm Phó chủ tịch, phụ trách quân sự Ủy ban bảo vệ Liên khu II (do đồng chí Nguyễn Văn Đào làm Bí thư Liên khu ủy kiêm Chủ tịch). Đồng chí Vũ Yên phái viên quân sự của Đội trực tiếp làm phụ tá cho đội trưởng Nguyễn Anh Bảo, đồng chí Phùng Văn Phúc phó của đồng chí Vũ Yên được cử về Liên khu III giúp đồng chí Đỗ Trình.


Các trung đội lúc này trừ Phó Đức Chính vẫn chốt giữ ở Đài phát thanh Ngã Tư Vọng và Ký Con vẫn còn phải rải quân bảo vệ các mục tiêu đội phải bảo vệ, còn đã tập trung về doanh trại Đấu Xảo để huấn luyện sẵn sàng chiến đấu.


Một ban chỉ huy đại đội gồm 3 người: Vị Hải đại đội trưởng, Nguyễn Văn Cừ chính trị viên, Phạm Văn Tường đại đội phó được lập ra để điều hành các công việc cụ thể thường ngày giúp đội trưởng chỉ huy các trung đội.


Chấp hành lệnh, đội đã quyết định:

1/ Trung đội Trần Quốc Toản, bố trí dọc trục Tràng Thi, Nhà hát lớn: một tiểu đội tách hẳn ra tăng cường cho trung đội Vệ quốc đoàn (thuộc tiểu đoàn 101 Liên khu I) chốt ở Nhà hát lớn, lực lượng còn lại ban đầu tập trung chốt tại nhà số 3 Cửa Nam, nhà đồng chí Thoa, vợ đồng chí Trình, sẵn sàng đánh địch ở ngã năm trước chợ Cửa Nam, sau dàn quân ra bố trí tại nhà thuốc Thẩm Hoàng Tín để phối hợp với binh lực của Tõ Hiệu bố trí tại nhà bác sĩ Trần Duy Hưng bên phố Thợ Nhuộm, tấn công nhà tên sĩ quan pháo binh Lơ Mét ở góc đường Thợ Nhuộm - Phan Bội Châu và nhà thuốc Hoàng Xuân Hãn, đánh địch đi lại đoạn đầu phố Tràng Thi, xong nhiệm vụ ở Cửa Nam sẽ về tiếp tục chiến đấu ở Liên khu II.


2/ Trung đội Tô Hiệu cần tăng cường bộ phận chốt tại nhà bác sĩ Trần Duy Hưng phố Thợ Nhuộm thành mũi chủ công đánh nhà Lơ Mét, có sự phối hợp bằng hỏa lực của quân Trần Quốc Toản bố trí bên nhà thuốc Thẩm Hoàng Tín, lực lượng còn lại đưa ra chốt tại nhà sơn Rê-dít-tăng-cô đầu đường Cột Cờ, chặn địch từ Thành ra theo đường Cột Cờ tiến xuống. Xong nhiệm vụ Tô Hiệu chuyển về tiếp tục chiến đấu ở Liên khu I.


3/ Trung đội Hà Huy Tập phân về cho Liên khu III chủ yếu cũng chỉ tập trung bố trí dọc đường Khâm Thiên, cụ thể ở đâu do Ủy ban bảo vệ của Liên khu quyết định.


4/ Trung đội Phó Đức Chính bố trí ở Đài phát thanh Vọng, cử thêm năm người về giúp đồng chí Nguyễn Văn Sâm, cán bộ đội được cử về làm Chủ tịch Ủy ban bảo vệ khu Bạch Mai, đẩy mạnh việc xây dựng khu thành căn cứ địa của Liên khu II.

Đồng chí Nguyễn Văn Cừ - chính trị viên đại đội cùng anh em về Liên khu II được giao nhiệm vụ đặc biệt, cùng các cán bộ công đoàn của Đài phát thanh tổ chức sơ tán Đài đến căn cứ và phá hủy triệt để những máy lớn không đưa đi được, "không được để địch chiếm Đài phát thanh của ta như ở Sài Gòn".


5/ Trung đội Ký Con là lực lượng trực tiếp bảo vệ Đấu Xảo và các mục tiêu đội đang còn phải bảo vệ.

Đồng chí Vị Hải là đội trưởng và đồng chí Phạm Văn Tường đại đội phó được bố trí ở lại lo các phần việc còn lại của đại đội trong đó có việc giữ Đấu Xảo, chỉ đạo tác chiến khu Cửa Nam và tiếp tục bảo vệ các mục tiêu - quân của đội Ký Con đảm nhiệm - ở 51 Hàng Bồ, 47 Hàng Trống, nhà Khai Trí Tiến Đức, nhà số 7 Ôn Như Hầu và 107 Trần Hưng Đạo, ở đây các đồng chí Nguyễn Anh Bảo và Đỗ Đức Kiên vẫn tiếp tục ăn ở và làm việc.
Logged
vnmilitaryhistory
Moderator
*
Bài viết: 1830



« Trả lời #16 vào lúc: 20 Tháng Tư, 2022, 06:47:39 am »

Nội dung công việc chuẩn bị kháng chiến phải xúc tiến ở tất cả các đơn vị là: bố trí tại nơi mình chốt giữ, các hỏa điểm bí mật, có công sự bảo vệ, vững chắc được chừng nào hay chừng ấy, nơi nào có điều kiện thì mở thông đường liên lạc và cơ động ra phía sau.


Các trung đội còn phải cử người đi bàn kế hoạch đánh địch với anh em tự vệ Thành tại các khu phố được giao liên hệ, và trên cơ sơ đó đôn đốc việc khẩn trương chuẩn bị, vận động nhân dân cho đục thông tường nhà nọ sang nhà kia. Ở những nhà lẻ, khi bố trí lực lượng chiến đấu cũng xây dựng ngầm phía trong các ụ súng, có công sự, kiên cố được càng tốt. Tại những phố xa địch như Nguyễn Trường Tộ ở Liên khu I, Lò Đúc, Ô Cầu Dền, Ô Đống Mác ở Liên khu II, Khâm Thiên ở Liên khu III thì cùng tự vệ Thành và huy động cả lực lượng nhân dân tham dự lập nên các ụ chướng ngại ít nhiều kiên cố nhằm chặn bớt việc quân lính Pháp xâm nhập bừa vào nhà dân cướp bóc; khi xảy ra tác chiến, các ụ đó phải được kịp thời đắp bổ sung vào cho thêm phần vững chắc bằng những vật chướng ngại đã được chuẩn bị. Việc khoan sẵn các lỗ để nhét mìn hạ cây nhằm ngăn cản địch cơ động đi lại trên một số đoạn đường, anh em cũng phải tích cực tiẽn hành. Việc điều tra phát hiện và nắm chắc các ổ chiến đấu bí mật mà địch đã chuẩn bị để kịp thời tiêu diệt khi súng bắt đầu nổ, cũng phải thật khẩn trương xúc tiến.


Đội cử hai đồng chí Lê Giới và Nguyễn Quýnh tham gia vào Ban phá hoại của Thành do đồng chí Trần Cừ thành ủy viên đặc trách.

Đầu tháng 12 không khí chiến tranh như đã bao trùm Hà Nội. Pháp bí mật đưa thêm quân lính và vũ khí từ Hải Phòng lên Hà Nội, dùng bọn tay sai đặt các nhà thầu mua vét gạo và trâu bò đưa vào Thành dự trữ, dùng bọn thổ phỉ tay sai đi dò la tình hình chuẩn bị đối phó của ta. Chúng khiêu khích dồn dập: ngày mồng 2 và 3 tháng 12 đốt nhà thông tin của ta ở Bờ Hồ, 7/12 chiếm nhà Ngân hàng Pháp Hoa, sau đó là rạp chiếu bóng Majestic đối diện với trại Trung ương Vệ quốc đoàn và cho 200 quân lên đóng ngay ở tầng cao khách sạn Mê-tơ-rô-pôn, trông sang Bắc Bộ phủ.


Các công tác chuẩn bị cho kháng chiến được tiến hành càng thêm ráo riết. Hai đồng chí Vũ Yên, Vị Hải xuống Hải Phòng nghiên cứu thực tế về đã phổ biến nhiều kinh nghiệm đánh và tránh địch được anh em hết sức chú ý. Theo kế hoạch của Bộ chỉ huy Khu XI, anh em được Ban chỉ huy đội chỉ thị đào đường hầm từ nhà đồng chí Trần Duy Hưng (quân của đội Tô Hiệu bố trí) và từ nhà thuốc Thẩm Hoàng Tín, (quân của đội Trần Quốc Toản đóng) sang nhà Lơ Mét để tấn công, và cả đường hầm từ nhà thuốc Hoàng Xuân Hãn ra giữa đường Tràng Thi đã đặt bom để cản trở việc cơ động của địch. Tại doanh trại Đấu Xảo, dưới sự chỉ huy và đôn đốc của đồng chí Vũ Yên và đồng chí Vị Hải, anh em đào giao thông hào dọc hai bên các nhà ngang từ ngoài cổng vào nhà bảo tàng, đào dọc chân tường và chìm qua tường thông ra ngoài tới các ụ súng phía trước, còn để chặn lối vào cổng thì đã bố trí một hàng rào cự mã, chôn một quả lựu đạn, xen lẫn những hàng hố úp bát, nồi để nghi binh, sát trước cổng gỗ được chôn chéo các thanh sắt đường ray hướng ra phía ngoài đường. Tại các nơi đóng quân canh gác khác anh em cũng ra sức khẩn trương củng cố các vị trí chiến đấu: tiểu đội Trần Quốc Toản tăng cường cho trung đội Vệ quốc đoàn ở Nhà hát lớn đã thống nhất với Vệ quốc đoàn về kế hoạch bố phòng; nửa tiểu đội Ký Con chốt tại tòa báo Cứu quốc đắp ụ bằng bao cát khá vững chắc ở bên mép trái cổng sắt ra vào, súng ống, ngoài súng trường, tiểu liên, lựu đạn anh em còn được tăng cường một trung liên "càng cua" quà tặng của đồng chí Xuân Thủy, chị quản lý tòa báo còn cho anh em tới 10 cân cốm để làm lương khô... Đâu đâu anh em cũng hòa cùng với các anh em tự vệ Thành, tự vệ các nhà máy tiến hành mọi công việc được giao một cách tích cực. Tất cả anh em cũng như đồng bào đều hết sức căm thù quân giặc nhưng cố giữ nén lòng, nghiêm chỉnh chấp hành lệnh của cấp trên "không để kẻ thù khiêu khích".


Các mặt công tác đảm bảo tác chiến như thông tin tuyên truyền, tiếp tế, cứu thương, tản cư dân chúng, các cán bộ của đội được phân công về phụ trách hoặc công tác tại các liên khu đều hết sức quan tâm. Do cơ sở vật chất còn rất thiếu thốn nên các mặt công tác trên đường gặp rất nhiều khó khăn nhưng nhờ có cách làm việc đúng đắn, biết tôn trọng và liên kết các ngành, đoàn kết cùng nhau bàn bạc, cuối cùng khó khăn cũng được giải quyết.


Đến trung tuần tháng 12 mọi mặt chuẩn bị kháng chiến đã cơ bản hoàn thành. Người già nua ốm yếu và trẻ nhỏ đã tản cư gần vãn về các khu an toàn. Gia đình nhà thuốc Thẩm Hoàng Tín cũng đã đi khỏi thành phố, một tổ năm người của trung đội Trần Quốc Toản kịp thời ra triển khai và bắt tay ngay vào việc đào hào ngầm sang nhà Lơ Mét qua phố Phan Bội Châu.


Ngày 17-12 quân địch đã có một hành động khiêu khích quy mô. Mới từ sớm máy bay đã quần đảo trên không, ở Liên khu II, chúng cho quân tới phá ụ chướng ngại của tự vệ Lò Đúc và bắn súng bừa bãi vào dân, ở Liên khu I chúng bao vây trụ sở Công an ở phố Hàng Đậu, đốt nhà dân ở khu Trúc Bạch, bắn tự vệ và thanh niên đào đường và làm ụ ở ngã ba Yên Ninh - Nguyễn Trường Tộ, bị anh em bắn trả, chúng đã huy động cả một tiểu đoàn lính Lê - Dương có pháo binh và xe tăng yểm hộ tấn công, gây ra vụ thảm sát, giết trên 40 đồng bào ta, trong đó có 5 tự vệ, còn lại là dân thường, có cả phụ nữ, cụ già, con trẻ, bắt đi 15 người.


Bộ chỉ huy mặt trận nhận định: "Địch sắp đánh ta thật sự" và hạ lệnh: "Vệ quốc đoàn, tự vệ, công an toàn thành từ giờ phút này phải chuẩn bị gấp để chờ lệnh. Bất kỳ giờ phút nào hễ có lệnh là phải triệt để tấn công vào các vị trí của địch theo nhiệm vụ đơn vị đã được quy định".


Kế hoạch tác chiến của Bộ Chỉ huy quân sự đã quy định rõ: "Các lực lượng tự vệ bố trí xen kẽ với lực lượng Vệ quốc đoàn phối hợp chiến đấu theo kế hoạch đã định, nơi nào không có Vệ quốc đoàn thì tự vệ độc lập tác chiến".

Khu vực Cửa Nam không bố trí lực lượng Vệ quốc đoàn. Phát hiện muộn mằn về thực tế này, đội trưởng Nguyễn Anh Bảo khẩn trương hội ý với Bộ Chỉ huy mặt trận rồi lập tức bớt quân ở Đấu Xảo tổ chức cùng một lúc hai tổ cảm tử dùng bom đánh tăng, một tổ do Châu làm tổ trưởng đưa ra bố trí ở nhà thuốc Hoàng Xuân Hãn, đánh địch trên đường phố Tràng Thi, một tổ do Toàn phụ trách ra bố trí bên trái tổ Trần Quốc Toản ở nhà thuốc Thẩm Hoàng Tín. Đồng chí Ninh Hữu Cẩn, một tiểu đội trưởng của Tô Hiệu, cũng được phái xuống tăng cường cho chỉ huy trưởng tự vệ Cửa Nam. Một số anh em còn lại của trung đội Tô Hiệu, trong đó có Tô An, Hà Giáp không bố trí phía trước được biên chế hòa vào lực lượng chốt giữ Đấu Xảo gồm có quân của trung đội Ký Con, quân Đội bộ và của cả các trung đội khác.


Các lực lượng mới được điều động đều hoàn thành việc chiếm lĩnh vị trí chiến đấu của mình ngay trong đêm 17.

Đấu Xảo như vậy đã không còn là vị trí quan trọng hàng đầu như trong thời gian trước. Đồng chí Vũ Yên và đồng chí Vị Hải đều được điều về tăng cường cho Liên khu I, đồng chí Vũ Yên cùng đồng chí Hoàng Phương giúp thêm cho đồng chí Lê Trung Toản, đồng chí Vị Hải về làm Chủ tịch Ủy ban bảo vệ khu Trúc Bạch rồi của Liên khu Trúc Lãng, ở khu Trúc Bạch và cả ở hai khu vực ngoài bãi còn cả chục đội viên cũ của trung đội Tô Hiệu nằm lại, nhiệm vụ của Vị Hải là cùng số anh em đó đôn đốc các mặt công tác chuẩn bị tác chiến và tác chiến ở phần phía bắc thành phố và bảo đảm đường liên lạc thông suốt của Liên khu I với Bộ Chỉ huy mặt trận Khu XI đóng ở ngoại thành. Ban chỉ huy đại đội như vậy là chỉ còn mình đồng chí Phạm Văn Tường ở lại, trực tiếp đôn đốc chỉ huy tác chiến khu vực Cửa Nam, khu vực Đấu Xảo và trụ sở 107 Trần Hưng Đạo trụ sở của Mặt trận Việt Minh Thành và của đội. Ở Đấu Xảo tất cả còn khoảng hai tiểu đội giao cho hai đồng chí Tô An - trưởng và Hà Giáp - phó phụ trách, ở 107 Trần Hưng Đạo, lúc đầu bố trí hai tổ sau đồng chí Trường đã điều đi một tổ và ba người ra bố trí ở nhà số 30 Thợ Nhuộm giám sát và sẵn sàng tiêu diệt địch trong một nhà Pháp kiều ở số nhà đối diện.


Toàn đội, bắt đầu từ sáng 18, đã ở vào tư thế sẵn sàng chiến đấu, tất cả từ chiến sĩ đến cán bộ đều đã được nhắc nhở thêm là phải phát huy vai trò tích cực nhất của mình trong hoạt động tác chiến phối hợp với các lực lượng bạn, nhất là với tự vệ Thành, đồng thời vẫn phải chú ý việc giữ gìn lực lượng, về mặt chỉ huy, do lực lượng đội đã được phân bổ về các Liên khu nên anh em sẽ chịu sự chỉ huy của các Ủy ban Liên khu là chính, tuy nhiên các đồng chí lãnh đạo của Đội đều đã được Khu XI bố trí về tham gia bộ máy chỉ đạo kháng chiến của Liên khu, kể cả đồng chí Anh Bảo và đồng chí Đỗ Đức Kiên cũng đã được phân công về Ủy ban Liên khu II cùng đồng chí Trần Vỹ, nên anh em hoạt động ở đâu thực ra cũng đều có sự chỉ huy của cán bộ cấp trên của mình ở đó và đó là điều kiện thuận lợi.


Như vậy là lực lượng của Đội tự vệ chiến đấu được phân công về Liên khu II ngoài ba cán bộ lãnh đạo tham gia Liên khu ủy và Ủy ban kháng chiến Liên khu, thì đơn vị chiến đấu chính thức chỉ có hai trung đội Trần Quốc Toản và Phó Đức Chính cùng lực lượng hỗn hợp của Tô An, Hà Giáp bố trí ở Đấu Xảo. Trung đội Tô Hiệu chỉ hoạt động trên phần đất của Liên khu II trong lúc đầu, xong nhiệm vụ được giao sẽ về tiếp tục chiến đấu ở Liên khu I.


Tới ngày 19/12/1946 tất cả các lực lượng đầu đã vào vị trí chiến đấu sẵn sàng đợi lệnh.

Đồng chí Nguyễn Anh Bảo và đồng chí Đỗ Đức Kiên từ chiều cũng đã về nhận nhiệm vụ tham gia Liên khu ủy và Ủy ban kháng chiến Liên khu II.

Từ đó cho đến 22/12 các đơn vị tự vệ chiến đấu Cứu quốc Hoàng Diệu về Liên khu II đã chấp hành nghiêm chỉnh mệnh lệnh được giao.

Trận tấn công địch ở nhà tên Lơ Mét, các trận chặn đánh địch ở nhà Đấu Xảo, ở khu vực Cửa Nam, ở trụ sở đội 107 đường Trần Hưng Đạo, việc phối hợp với công nhân xung phong quyết tử thuộc công đoàn điện tín phá hủy Đài phát thanh Bạch Mai... mãi mãi là niềm tự hào của các chiến sĩ.

ĐỖ ĐỨC KIÊN
Logged
vnmilitaryhistory
Moderator
*
Bài viết: 1830



« Trả lời #17 vào lúc: 20 Tháng Tư, 2022, 06:48:36 am »

LỰC LƯỢNG VŨ TRANG CÔNG AN THỦ ĐÔ
NHỮNG NGÀY ĐẦU KHÁNG CHIẾN


... Cuối năm 1946 thực dân Pháp phản bội những điều đã cam kết trong Hiệp định Sơ bộ ngày 6/3/1946 và Tạm ước 14/9/1946, ráo riết chuẩn bị lực lượng thực hiện một cuộc "chiến tranh chớp nhoáng" nhằm tiêu diệt chủ lực của ta tại Hà Nội, bắt gọn các cơ quan trung ương đầu não, mưu toan trở lại thống trị dân tộc ta một lần nữa. Sau khi đánh chiếm Hải Phòng và Lạng Sơn chúng tăng cường khiêu khích ở Hà Nội. Ngày 17/12/1946, giặc Pháp tàn sát nhân dân ta ở phố Hàng Bún (ngõ Yên Ninh) giết chết 43 người có cả cụ già, trẻ nhỏ và phụ nữ, nã pháo vào một số khu phố nội thành. Ngày 18/12/1946 chúng bao vây trụ sở Công an Hàng Đậu. Lực lượng cảnh sát vũ trang ở đây đã hết sức kiềm chế, tránh gây xung đột khi chưa có lệnh. Cùng ngày, bọn lính mũ đỏ đến chiếm Bộ Tài chính, Bộ Giao thông công chính và gửi một tối hậu thư yêu cầu ta phải đình chỉ mọi hoạt động chuẩn bị kháng chiến, đòi tước vũ khí các lực lượng vũ trang.


Với tinh thần "thà hi sinh tất cả, nhất định không chịu mất nước, nhất định không chịu làm nô lệ", "cảm tử cho Tổ quốc quyết sinh", quân và dân Thủ đô thề chiến đấu đến cùng, bảo vệ phố phường đất nước.

Các lực lượng Vệ quốc đoàn, Công an xung phong, Cảnh sát xung phong, Tự vệ chiến đấu chấp hành mệnh lệnh chiến đấu của Ban Chỉ huy Mặt trận Thủ đô ngay trong trận đầu tiên (19/12/1946) đã đồng loạt tiến công các vị trí địch; đồng thời ở các vị trí được phân công chốt giữ đã đánh trả quyết liệt nhiều đợt tiến công đánh chiếm của các đội quân Lê dương Pháp.


Tại Liên khu II, các lực lượng phối hợp Vệ quốc đoàn, Công an xung phong và Cảnh sát ở quận Hàng Trống được phân công làm hai tổ: một tổ vừa chốt giữ trụ sở vừa nhanh chóng đánh chiếm nhà 71 phố Hàng Trống, nơi ở của tên tướng Moóc-li-e, tư lệnh đội quân viễn chinh Pháp ở miền Bắc Đông Dương, Tướng Moóc-li-e bị thương, quân Pháp đồn trú ở đây phải gọi quân cứu viện từ trong thành ra. Một tổ được phân chốt giữ đầu đường Tràng Thi chặn đánh mũi tiến công của bọn lính mũ đỏ từ phía nam thành tiến lên theo đường Tràng Thi. Tổ lực lượng phối hợp ở đây đã chặn đánh quyết liệt, đẩy lùi nhiều đợt tiến công của địch vào trụ sở Quận Công an Hàng Trống, diệt 19 tên, đốt cháy 2 xe bọc thép, thu 4 súng tiểu liên, giữ vững vị trí chiến đấu từ đêm 19/12/1946 đến rạng sáng ngày 20/12/1946, bên ta có chiến sĩ Tập bắn súng máy và chiến sĩ Tích ném bom xăng hi sinh.


Sáng ngày 20/12/1946, địch đánh rất mạnh. Dựa vào tường nhà và công sự dã chiến, ta chống trả quyết liệt gây cho địch thêm một số thương vong, sau đó ta rút sang trụ sở Tổng bộ Việt Minh và tòa báo Cứu quốc (nay là trụ sở báo Hà Nội mới).


Địch không vào chiếm đóng trụ sở Quận Công an Hàng Trống mà chia quân tiến theo phố Hàng Khay, phố Tràng Tiền định chiếm Nhà hát lớn và Bắc Bộ phủ, đồng thời ngăn chặn quân ta từ Quận Công an Hàng Trống đánh lên. Cuộc chiến đấu giữa ta và địch ở khu vực diễn ra rất quyết liệt từ sáng đến 16 giờ chiều. Sau đó để bảo toàn lực lượng quân ta một bộ phận rút về khu 36 phố phường, một bộ phận rút theo đường phố Hàng Bài.


Cùng thời gian này ở khu vực Hàng Đậu, chợ Đồng Xuân, đầu cầu Long Biên các lực lượng vũ trang phối hợp cùng với nhân dân khu phố đã anh dũng chiến đấu chặn đứng cánh quân Pháp từ Cửa Bắc tiến lên đánh cầu Long Biên, định bắt liên lạc với cánh quân Pháp từ Gia Lâm tiến sang, gây cho chúng nhiều thiệt hại: 70 tên giặc đền tội, 2 xe tăng bị phá hủy buộc bọn chúng phải rút về trong thành. Các đơn vị vũ trang ở đây cùng tiến công đơn vị quân Pháp đóng tại nhà tắm đầu đường Cổ Ngư tiêu diệt 5 tên giặc và đốt cháy 1 xe Jeep.


Trong khi đó một cánh quân khác của địch cũng từ phía nam thành tiến ra qua đường Cột Cờ (tức là đường Điện Biên Phủ hiện nay) rồi theo đường Hàng Lọng (nay là đường Lê Duẩn) tiến đánh ga Hàng Cỏ đồng thời cứu viện cho nhóm quân Pháp đang bị nguy khốn ở khu vực nhà dầu Shell ngã tư Khâm Thiên. Bọn chúng bị chặn đứng ở ngã ba Hàng Lọng nên phải chuyển hướng quay sang đường Trường Thi, rẽ sang phố Quán Sứ, chiếm viện Radium (tức viện K hiện nay), khu vực Hỏa Lò, Tòa án, bao vây Sở Hỏa xa Việt Điền (nay là trụ sở Tổng Liên đoàn), sau đó tiến đánh Nha Công an Bắc bộ (tức sở Công an Hà Nội hiện nay). Một bộ phận quân địch được tách ra đi giải vây cho khu vực ga Hàng Cỏ và nhà dầu Shell, đồng thời đánh chiếm trụ sở cũ của Đội tự vệ chiến đấu Hoàng Diệu ở 107 phố Gambetta (tức đường Trần Hưng Đạo hiện nay) nhưng đánh mãi không chiếm được chúng đành phải rút. Bên ta hai chiến sĩ hy sinh.


Từ nhà 107 địch quay về chiếm đánh trụ sở Nha Công an Bắc bộ, ở 87 Gambetta (đường Trần Hưng Đạo hiện nay). Hai nhân viên công an được giao trách nhiệm ở lại đánh bom phá sập ngôi nhà chính nhưng bom không nổ, các ổ tác chiến bí mật của địch ở các phố Trần Hưng Đạo, Trần Quốc Toản, Yết Kiêu đã bị các lực lượng vũ trang phối hợp và các lực lượng tự vệ chiến đấu tiêu diệt, thu 2 súng cácbin và nhiều đạn.


Lúc này trên các đường Nguyễn Du, Yết Kiêu, Trần Quốc Toản, Ôn Như Hầu, Phan Bội Châu... nhân dân tản cư, chạy giặc dồn về phía hồ Thiền Quang, nhà Đấu Xảo. Ở đây các lực lượng vũ trang phối hợp cùng với các lực lượng tự vệ chiến đấu tổ chức một ổ đề kháng chống địch lấn chiếm đánh trả quyết liệt bảo vệ và hướng dẫn cho hơn 1000 đồng bào rút ra theo đường Yết Kiêu, Trần Bình Trọng xuống hồ Bảy Mẫu, ra đường Đại Cồ Việt. Đồng chí Vương Quốc Trung tức Ba Hương, đại đội trưởng Công an xung phong đã chỉ huy các lực lượng vũ trang ở đây đánh bật nhiều đợt tiến công của giặc, giữ vững vị trí chiến đấu. Ngày 24/12/1946 được lệnh của Ủy ban kháng chiến Khu 9, các đơn vị đã phá vây rút ra ngoài để bảo toàn lực lượng. Một tiểu đội công an xung phong đã hy sinh anh dũng. Các đơn vị còn lại được lệnh tiến xuống chốt giữ Ô Cầu Dền và được Ban chỉ huy quân sự Khu giao cho sử dụng thí điểm khẩu Badôca (Bazooka) duy nhất của chiến trường Hà Nội hồi ấy. Một hàng binh người Nhật đã hướng dẫn các lực lượng vũ trang phối hợp sử dụng khẩu súng đó, diệt 2 xe tăng địch, đánh lui đợt tiến công của quân Pháp định tiến xuống Bạch Mai. Ngày 29/12/1946 các đơn vị ở đây lại lập thành tích lớn diệt vị trí quân Pháp ở 94 phố Wiélé (nay là trụ sở Công an quận Hai Bà Trưng 94 Tô Hiến Thành) thu nhiều súng đạn và đài vô tuyến. Trong các lực lượng chiến đấu ở nhà Đấu Xảo (nay là Cung Văn hóa hữu nghị Việt Xô) có đại đội Công an xung phong được Bộ Chỉ huy Khu 9 (lúc này về mặt quân sự Khu 9 đã sát nhập vào Liên khu II ngày 24/12/1946) Ủy ban kháng chiến Khu 9, Nha Công an Việt Nam tặng bằng khen và một khẩu súng ngắn Colt.
Logged
vnmilitaryhistory
Moderator
*
Bài viết: 1830



« Trả lời #18 vào lúc: 20 Tháng Tư, 2022, 06:49:11 am »

Ở khu vực trụ sở Bộ Quốc phòng và Trại Vệ quốc đoàn trung ương ta đã chủ động tiến đánh quân Pháp đóng ngay tại rạp Majestic. Ta đã đào một đường ngầm sang rạp chiếu bóng nhằm đặt bom cho nổ nhưng không đào thông được vì gặp cống ngầm. Sau đó chờ cho nhân dân đã xem phim về hết ta mới cho quân xuất kích vào lúc 20 giờ 30. Lực lượng gồm hai tiểu đội: một tiểu đội thuộc đại đội 3 tiểu đoàn 77 và hai tiểu đội thuộc lực lượng tự vệ chiến đấu tiểu khu Hàm Long. Cuộc chiến đấu diễn ra rất ác liệt suốt đêm 19/12 đến đêm 20/12/1946 địch ở Majestic mới đầu hàng: 14 tên bị diệt, 4 tên bị bắt làm tù binh, ta thu 18 tiểu liên và súng trường tự động, rất nhiều lựu đạn.


Ngày 21/12/1946 địch phản công đưa bộ binh có xe tăng, xe thiết giáp hỗ trợ đến bao vây khu vực. Với công sự vững chắc, trung đội cảnh vệ chốt ở đây đã chiến đấu rất quyết liệt. Sau khi được tăng cường hai tiểu đội tự vệ khu Đại La, ta bố trí lại trận địa đón đánh địch trên phía đường Hàng Bài (tức mặt trước trường Đồng Khánh được dùng làm trụ sở Bộ Quốc phòng) và trên đường Lý Thường Kiệt (lối vào trại Trung ương Vệ quốc đoàn). Trước sự chống trả rất quyết liệt của ta, địch phải cho máy bay sang ném bom gây cho ta nhiều thương vong (trong đó có cả chỉ huy đơn vị). Đến đêm 21/12/1946 ta rút quân về Bạch Mai.


Tại Liên khu III, Công an xung phong cùng với tự vệ chiến đấu và một đơn vị Vệ quốc đoàn tiến công địch ở Nhà máy bia Hommel (tức là nhà máy bia Hà Nội hiện nay) và Nhà máy thuộc da của tên tư bản Pháp Délévaux phố Hàng Bột. Một đơn vị Công an xung phong đã bám theo các lực lượng trinh sát chính trị và bộ đội đột kích cơ quan tình báo địch ở phố ông ích Khiêm bắt sổng một trung úy tình báo Pháp thu nhiều tài liệu. Hoạt động chiến đấu của các lực lượng Công an xung phong, Cảnh sát trật tự đã hỗ trợ cho lực lượng trinh sát chính trị được điều xuống hoạt động ở các khu phố bám dân, bám các địa bàn trọng điểm, vừa tổ chức công tác nắm tình hình địch làm nhiệm vụ quân báo, vừa truy lùng bắt những tên Việt gian còn ẩn núp ở lại làm tay sai cho giặc, phát hiện được nhiều tình hình địch có giá trị, bắt giữ được nhiều Việt gian tay sai của Phòng nhì Pháp và thổ phỉ đưa ra xét xử tại Tòa án quân sự thiết lập ở trong Liên khu I. Hầu hết các ổ vũ trang bí mật mà địch đã bố trí tại các phố lớn và trên các trục đường chính bị tiêu diệt. Nhiều toán thổ phỉ bắn lén, cướp bóc đồng bào bị diệt tại chỗ như toán thổ phỉ ở Ngõ Quỳnh (Bạch Mai).


Sau những trận chiến đấu đầu tiên tiêu diệt được một bộ phận sinh lực địch, các lực lượng vũ trang phối hợp ở Liên khu I vừa chiến đấu, vừa rút dần về phòng ngự ở khu vực 36 phố phường, biến nơi đây thành chốt thép thu hút sinh lực địch; còn các lực lượng đang chiến đấu ở Liên khu II và III cùng các lực lượng tự vệ chiến đấu lui ra bám chắc lấy các cửa ô, dựa vào vùng ngoại thành tạo một vành đai vây hãm địch, thực hiện chủ trương của Ban Chỉ huy mặt trận: đánh phối hợp trong ngoài, kiềm chế không để giặc Pháp có điều kiện tập trung lực lượng nhanh chóng chiếm đóng nội thành và uy hiếp các khu ven nội.


Cuộc chiến đấu giữa quân, dân Thủ đô và giặc Pháp diễn ra ngày càng ác liệt. Sau những ngày đầu bị động, quân Pháp đã lấy lại sức, dồn lực lượng tập kích mãnh liệt vào các vị trí phòng thủ của ta, chiếm được nhiều cứ điểm quan trọng ở nội thành: Khu vực Cửa Nam, khu vực hồ Hoàn Kiếm - Bắc Bộ phủ, Nhà hát lớn, Nhà thờ lớn, cầu Long Biên v.v... rồi tiến đánh các cửa ô mở rộng phạm vi chiếm đóng, phía bắc đẽn Nhật Tân, phía nam đến Ngã Tư Vọng, ngã tư Trung Hiền, phía tây đến Ô Chợ Dừa. Cuộc chiến đấu ở khu vực ngã tư Ô Chợ Dừa, Khâm Thiên, Hàng Bột diễn ra ác liệt. Trung đội Công an xung phong cùng với các lực lượng cảnh sát và trinh sát ở Liên khu III đã cùng với bộ đội, tự vệ chiến đấu anh dũng, nên mãi chiều ngày 30/12/1946 địch mới chiếm được Ô Chợ Dừa sau khi chiếm đóng được trụ sở Công an Khâm Thiên. Các Liên khu phố II, III rơi hoàn toàn vào tay giặc Pháp. Lực lượng Công an ở Liên khu I sáp nhập với hai khu Hồng Hà và Lãng Bạc, ở Liên khu II sáp nhập với các khu Mê Linh và Đề Thám, ở Liên khu III sáp nhập với các khu Đại La và Đống Đa để tiếp tục chiến đấu.

VĂN ÁNH
(Theo tài liệu của đại tá Nguyễn Bảo Hùng.
nguyên Chánh văn phòng Sở Công an Hà Nội)
Logged
vnmilitaryhistory
Moderator
*
Bài viết: 1830



« Trả lời #19 vào lúc: 20 Tháng Tư, 2022, 06:50:21 am »

ĐỘI TỰ VỆ KHU LÒ ĐÚC


Khu Lò Đúc, mang danh số 12 thuộc Liên khu II Hà Nội, là một khu vực địa dư bao gồm: phía bắc từ ngã năm Lò Đúc - Lê Văn Hưu chạy dọc phố Hàn Thuyên ra bờ sông Hồng; phía nam từ đê Bành Lao qua Ô Đống Mác - Lãng Yên ra cảng Phà Đen; phía đông từ dốc Vạn Kiếp xuôi theo ven đê sông Hồng xuống đến cảng Phà Đen; phía tây từ ngã năm Lê Văn Hưu - Lò Đúc chạy suốt dọc phố Lò Đúc qua dốc Thọ Lão đến Ô Đống Mác...


Hình thái địa dư khu này có đặc điểm gần giống với khu Chợ Hôm. Bởi cũng có một con đường huyết mạch từ trong nội đô chạy thẳng qua một cửa ô, trực tiếp thông xuống phía nam (phố Lò Đúc qua cửa Ô Đống Mác, theo đê sông Hồng đổ xuôi...).


Đội tự vệ khu Lò Đúc được hợp thành bởi toàn thể các lực lượng tự vệ của các tiểu khu hành chính, nằm trong giới hạn địa dư kể trên. Ngoài những đơn vị chỉ có mươi mười lăm anh em (cỡ chừng non già một tiểu đội), khu Lò Đúc trước ngày nổ súng kháng chiến toàn quốc có ba đơn vị tự vệ mạnh. Đó là: Trung đội tự vệ Lò Đúc 1 do hai đồng chí Trình và Quang Thọ chỉ huy (trung đội này hầu hết là học sinh, ở đoạn đầu phố Lò Đúc - từ ngã năm Lò Đúc - Lê Văn Hưu đến ngã tư Nhà thương Chó. Trung đội tự vệ Lò Đúc 2, còn gọi là trung đội Cẩm Hội, do hai đồng chí Xuân và Thu chỉ huy (trung đội này gồm có học sinh với các viên chức nhỏ và thợ thuyền... ở khúc đường từ ngã tư Nhà thương Chó tới dốc Thọ Lão - chủ yêu là xóm Cẩm Hội). Đơn vị tự vệ thứ ba là đại đội 12, gồm người ở từ dốc Thọ Lão đến Ô Đống Mác, hầu hết là anh em lao động tự do (phu khuân vác, xích lô ba gác, đồ tể ba toa...) đại đội này không bầu được người chỉ huy, vì anh em ai cũng chỉ muốn đánh Tây chứ không ai muốn nhận trách nhiệm là người chỉ huy...


Trong khi ấy, tôi vẫn đang là thợ ở xưởng STAI Quai, và là ủy viên quân sự phụ trách đội tự vệ xí nghiệp. Đồng thời, đối với địa phương, tôi được trên chỉ định là khu phố Khu 12 của Liên khu II Hà Nội và trong cuộc bầu cử chính quyền khu, tôi được bà con bầu là phó chủ tịch UBHC khu Lò Đúc (là Khu 12 thuộc Liên khu II Hà Nội).


Đại đội tự vệ tổ chức ra không bầu được người chỉ huy, họ đến "vận động" tôi làm đại đội trưởng cho họ. Là dân bản địa (gia đình tôi ở Ô Đống Mác) tôi rất hiểu anh em, và tôi đã nhận lời làm đại đội trưởng đại đội tự vệ này. Ban chỉ huy đại đội 12 chính thức gồm có: đại đội trưởng Phạm Đình An, chính trị viên Thảo, anh này hiện còn sống, là đại tá công an đã nghỉ hưu, đại đội phó là các anh Ban và Thìn, đều đã mất. Cán bộ trung đội gồm có: trung đội Thọ Lão do 2 anh Hổ và Sinh chỉ huy (anh Sinh đã từng đi lính Nhật), trung đội Đống Mác do 2 anh Hương và Thiện Ngôn chỉ huy, trung đội Ba Hàng do anh Tứ chỉ huy...


Theo cái đà ấy, các tổ chức khác như Thanh niên, Thiếu nhi... đều yêu cầu tôi phụ trách họ, và thế là tôi thành Khu trưởng thanh niên và Khu trưởng thiếu nhi.

Trên thực tế, tôi dành thời gian nhiều hơn vào công việc của một đại đội trưởng tự vệ (công việc của khu phố tôi dựa vào ông Phạm Trọng Thế, khu trưởng. Công việc phó chủ tịch Ủy ban, tôi dựa vào ông Nghiêm Xuân Quán, chủ tịch... là chính. Còn công việc về thanh niên và thiếu nhi, thì tôi chỉ đóng vai trò "có ý kiến chỉ đạo" mà thôi).


Bắt tay vào công việc chuẩn bị kháng chiến, ngoài những cuộc họp bàn trong ủy ban hành chính và Ban Chỉ huy quân sự khu, về tình hình và nhiệm vụ tôi tập trung khả năng vào công tác của một đại đội trưởng: tổ chức và chỉ huy đại đội tập tành, sinh hoạt và tổ chức cho anh em diễn tập (trong đó có một cuộc diễn tập chung với cả các đội tự vệ của khu vực Lò Lợn và Đồng Nhân). Đại đội còn tổ chức cho anh em mỗi tháng ra một tờ báo tường treo ỏ trụ sở để mọi người cùng viết và cùng đọc; làm một sân bóng chuyền và xà đơn xà kép cho anh em thường xuyên luyện tập; và tổ chức diễn kịch phục vụ các cuộc liên hoan trong những ngày lễ tết, tạo nên một không khí cách mạng rất sôi nổi trong toàn Khu 12. Tiếp đến tháng 11/1946, tình hình đã trở nên căng thẳng khi cái tin quân Pháp gây hấn ở Hải Phòng bay về Hà Nội. Khắp thành phố đâu đâu cũng xôn xao phẫn nộ. Chiến tranh đã đến rất gần...


Khu Lò Đúc cũng như 16 khu khác trong thành phố (Hà Nội khi ấy chia thành 17 khu) thực sự bắt tay vào việc: chúng tôi tổ chức quán triệt tình hình và nhiệm vụ xuống từng cơ sở. Các công việc cụ thể được triển khai rất nhanh. Tiểu khu nào cũng thành lập các tổ chức phá hoại, tiếp tế, tản cư, cứu thương, v.v... mỗi tổ phải đảm nhiệm một chức trách cụ thể để chuẩn bị kháng chiến. Ai nấy hăng hái dốc sức người sức của cho công việc, cả thành phố như sôi lên. Là một khu có đông nhân dân lao động, hàng ngày bà con vẫn phải tranh thủ đi kiếm ăn, thời gian còn lại hầu như ai nấy đều dành cả cho công việc chuẩn bị kháng chiến. Anh chị em trong các đội tự vệ là những người hăng hái nhất và cũng vất vả nhất. Ngoài việc học tập quân sự và canh gác, anh chị em còn là lực lượng chủ yếu trong các đội phá hoại và đào công sự, đắp chiến lũy (ngoài việc tham gia cùng Liên khu II đào đắp các ụ lớn ở ngã năm Lê Văn Hưu - Lò Đúc, anh chị em còn cùng với nhân dân trong khu mình đắp ba ụ chiến đấu, rải từ ngã tư Nhà thương Chó xuống đến Ô Đống Mác. Riêng cái ụ chỗ đầu Ô Đống Mác là một công trình rất kiên cố (khi ấy ở Ô Đống Mác có ông Mai Tiếp là chủ xưởng gỗ, trước đề nghị của anh em tự vệ, ông Mai Tiếp vui vẻ tình nguyện tặng cho anh em tất cả kho gỗ của ông để dùng vào việc chống Pháp. Anh em đã dùng gỗ lim nguyên cả cây chôn đứng 3 hàng dọc chạy ngang qua mặt đường, rồi chèn lấp cao hơn ba mét, xe tăng và cơ giới không tài nào vượt qua được - chiếc ụ này đã trụ lại đến cùng ở tại đấy, cho đến ngày quân ta rút khỏi Hà Nội). Và, dọc hai bên lề đường suốt từ Lò Đúc đến Ô Đống Mác đều có công sự cá nhân được anh em cùng bà con dân phố đào sẵn để đợi ngày đánh địch.
Logged
Trang: « 1 2 3 4 5 6 7 8 9 »   Lên
  In  
 
Chuyển tới:  

Powered by MySQL Powered by PHP Powered by SMF 1.1.21 | SMF © 2006-2008, Simple Machines

Valid XHTML 1.0! Valid CSS! Dilber MC Theme by HarzeM