saoden
Thành viên

Bài viết: 1054
|
 |
« Trả lời #10 vào lúc: 11 Tháng Tư, 2022, 03:57:29 pm » |
|
NATO - NỬA THẾ KỶ ĐỐI ĐẦU TRẦN NHUNG Chỉ 4 năm sau khi chiến tranh thế giới thứ 2 kết thúc, ngày 4-4-1949, tại Oa-sinh-tơn (Mỹ), khối quân sự của các nước phương Tây ra đời với tên gọi Tổ chức Hiệp ước Bắc Đại Tây Dương (NATO). Đây là liên minh quân sự nhằm chống các nước xã hội chủ nghĩa, phong trào giải phóng dân tộc và phong trào nổi dậy trong các nước tư bản. Lúc mới thành lập, NATO gồm các nước Mỹ, Ca-na-đa, Anh, Pháp, I-ta-li-a, Bỉ, Hà Lan, Lúc-xăm-bua, Bồ Đào Nha, Na-uy, Đan Mạch, Ai-xơ-len; sau đó thêm Hy Lạp, Thổ Nhĩ Kỳ (1952), Cộng hòa liên bang Đức (1955), Tây Ban Nha (1982), Ba Lan, Hung-ga-ri, Séc (1999). Khối NATO có tổ chức chặt chẽ, có lực lượng vũ trang hợp nhất triển khai trên phần lớn các nước thành viên. Khi một nước hay một số nước trong khối bị tấn công vũ trang thì các nước khác sẽ nhanh chóng giúp đỡ nước bị tấn công bằng các hoạt động xét thấy cần thiết, kể cả việc sử dụng lực lượng vũ trang. Thực chất, mục tiêu mà Mỹ và các nước chủ chốt trong NATO theo đuổi lại là ở những mặt chủ yếu sau đây: sử dụng lãnh thổ, lực lượng quân sự, tiềm lực kinh tế, kỹ thuật quốc phòng, nhân tài vật lực của các nước Tây Âu phục vụ chiến lược xâm lược; xây dựng Tây Âu thành pháo đài, làm công cụ để củng cố và tăng cường ảnh hưởng kinh tế, chính trị và quân sự trong các nước châu Âu và trên thế giới. 1. NATO Đông tiến - kế hoạch đầy tham vọngĐầu những năm 1990, lợi dụng việc Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa Đông Âu sụp đổ, Mỹ và NATO xây dựng kế hoạch mở rộng NATO nhằm cả mục tiêu trước mắt lẫn lâu dài. Trước mắt là củng cố và hiện đại hóa khối NATO, biến nó thành tổ chức quân sự hùng mạnh nhất, không có lực lượng đối trọng ở châu Âu. Lâu dài là thực hiện chiến lược toàn cầu, tư bản hóa các nước Trung, Đông Âu và mở rộng ra toàn thế giới. Các nhà chóp bu NATO liên tiếp mở nhiều hội nghị bàn về mở rộng NATO. Đó là các hội nghị thượng đỉnh NATO trong các năm 1991, 1992, 1993 và đặc biệt là cuộc họp mùa hè năm 1994 tại trụ sở khối NATO ở Brúc-xen (Bỉ). Tại các hội nghị này, NATO đưa ra kế hoạch NATO Đông tiến đầy tham vọng. Tuy nhiên, NATO vẫn lo ngại vì mặc dù Liên Xô tan rã nhưng nước Nga thay thế Liên Xô thực hiện các nghĩa vụ và cam kết quốc tế, tuy khó khăn trăm bề, nền kinh tế suy thoái, nhưng vẫn còn tiềm lực quân sự hùng hậu. Vì vậy NATO không thể không tính đến phản ứng của Nga trong kế hoạch Đông tiến của mình. Thận trọng, dò dẫm từng bước nhằm thử phản ứng của Nga, NATO xây dựng kế hoạch Đông tiến theo ba bước: - Bước 1, kết nạp thêm ba thành viên từ các nước Đông Âu vào năm 1999. Đó là Hung-ga-ri, Séc và Ba Lan. - Bước 2, kết nạp các nước Đông Âu còn lại, ba nước cộng hòa vùng biển Ban-tích tách ra từ Liên Xô là Lát-vi-a, Ét-xtô-ni và Lát-vi. - Bước 3, kết nạp các nước cộng hòa khác tách ra từ Liên Xô. Ngày 12-3-1999, NATO đã hoàn thành bước 1 mở rộng NATO là kết nạp Ba Lan, Hung-ga-ri và Séc. Sự kiện này làm tăng đáng kể sức mạnh quân sự NATO. Một là, kéo dài biên giới NATO sang phía Đông 700 km, đến gần hơn nước Nga. Hai là, NATO có thêm 13 sư đoàn bộ binh cơ giới, 29 lữ đoàn, 731 máy bay, 290 căn cứ không quân, 120 căn cứ hải quân, không kể cơ sở hạ tầng gồm đường giao thông, kho tàng, doanh trại quân đội... Nếu hoàn thành ba bước mở rộng NATO nói trên, NATO sẽ là khối quân sự có hơn bốn mươi nước thành viên, tạo thành một gọng kìm xiết chặt hơn châu Âu và nước Nga. 2. Cỗ xe NATO thêm 3 ngựa kéoNATO đã dạo nhạc cho vấn đề "Đông tiến" từ vài năm nay. Nhưng mãi tới ngày 12-3-1999, NATO mới có buổi lễ kết nạp 3 nước Ba Lan, Hung-ga-ri và Séc vào tổ chức của mình. Để gây "ấn tượng" mạnh mẽ, lễ được tổ chức tại thư viện mang tên Tổng thống Hary J.Tru-man (tổng thống thứ 33 của nước Mỹ, từ 1945-1953) ở bang Mít-xu-ri (Hoa Kỳ). Như vậy, NATO đã gồm 19 nước thành viên. Sự kiện đó gây chấn động lớn trong dư luận quốc tế. Bởi lẽ, lật lại trang sử chưa lâu, Ba Lan, Hung-ga-ri và Séc là đồng minh của Liên Xô cũ và là thành viên trong Hiệp ước Vác-xa-va. Tổng thư ký NATO còn nhấn mạnh thêm rằng: "Đây không phải là đợt mở rộng cuối cùng". Điều này cũng có thể cắt nghĩa: NATO sẽ tiến tới "thu nhận" cả những nước nào đó trong cộng đồng các quốc gia độc lập (SNG) nếu họ muốn". Kể cả những nước trong vùng Ban-tích như Lát-vi-a, Lít-va, Ét-tô-ni-a đang được Mỹ, phương Tây "cổ vũ" theo tinh thần ấy. Thực chất của vấn đề là gì? Không khó khăn lắm, người ta nhận ra ngay "diện mạo" của hành động mở rộng NATO nguy hiểm biết nhường nào. Trên thực tế, nó tạo một tình thế mới chưa từng có đang hình thành ở châu Âu kể từ khi chiến tranh thế giới thứ hai kết thúc đến nay: đây là việc làm "NATO hóa" châu Âu, đưa Mỹ và phương Tây lên địa vị bao trùm và độc tôn; một hành động trắng trợn, "tước mất" của nước Nga - người thừa kế Liên Xô trước đây - những không gian chiến lược truyền thống; là hoạt động quân sự, an ninh và chính trị vừa được "chắp nối" trong mối quan hệ đối tác Nga - NATO vào đường gập ghềnh, gấp khúc (đồng nghĩa với việc NATO vảy mực đen lên "Định ước cơ sở về quan hệ hợp tác và an ninh" mà tổ chức này ký với Nga vào ngày 27-3-1997). Dư luận không nói quá khi kết luận rằng: "Ở châu Âu đang hình thành một đường biên giới mới có tính chất chiến tranh lạnh". Mặt khác, "mở rộng NATO" về phía Đông là một mưu toan đen tối, chứa đựng hiểm họa của những nguy cơ bởi một sự ly khai mới ở châu Âu trong việc duy trì hòa bình. Tổ chức an ninh, hợp tác châu Âu (OSCE) và Cộng đồng các quốc gia độc lập (SNG) bị giáng một đòn nặng nề. Vị thế nước Nga bị "chao đảo" và bị dồn ép, vây hãm vào một không gian chiến lược chật hẹp. Đồng thời, NATO không thể lẩn tránh được tính bất hợp lý và không ai chấp nhận được sự hiện diện của nó sau chiến tranh lạnh. Ai cũng biết NATO là sản phẩm của chiến tranh lạnh Đông - Tây. Lẽ ra khi tổ chức Hiệp ước Vác-xa-va giải tán, Liên Xô cũ tan rã thì NATO cũng không còn lý do tồn tại. Nhưng Oa-sinh-tơn coi đây là "một cơ hội lịch sử" để thiết lập một trật tự thế giới dưới cây gậy chỉ huy của Mỹ mà NATO là công cụ sức mạnh hàng đầu (thông qua NATO, Mỹ "thi thố sức mạnh quân sự của mình để ép Xéc-bi-a trong Liên bang Nam Tư mới trong cuộc đàm phán tại Pari - Pháp về vấn đề "quyền tự trị" của người Cô-xô-vô gốc An-ba-ni). Mỹ đang theo đuổi một mưu toan dành cho NATO "quyền" tùy ý hành động để đần dần đi theo hướng "toàn cầu hóa" mà không cần sự ủy quyền của Liên hợp quốc. Nhìn xa hơn một chút, rõ ràng cỗ xe "NATO Đông tiến" đã tới ba bến: Ba Lan, Hung-ga-ri, Séc và còn "đi tiếp", có thể đẩy quan hệ Nga - NATO, Nga - Mỹ vào một thời kỳ căng thẳng, là "sự kích thích" cho một quá trình tập hợp lực lượng mới để đối trọng với Mỹ và NATO. Thủ tướng Nga Pri-ma-cốp đã để lộ ý tưởng: lập một tam giác chiến lược Nga - Trung Quốc - Ấn Độ. Tuy vậy, mọi việc không phải phát triển xuôi theo chiều ý kiến của Mỹ. Mỹ đang phải đương đầu "cuộc chiến tranh chuối" với EU. "Mỹ cao giọng" đe sẽ đánh thuế 100% hàng nhập khẩu của EU vào Mỹ nếu vấn đề "chuối" không được giải quyết. "Cuộc chiến" mở rộng, kéo dài đến mức hai bên phải nhờ WTO can thiệp, làm "trọng tài". Nước Anh luôn luôn là cái bóng của Mỹ cũng phải lên tiếng bất bình về cử chỉ "kẻ cả" của Mỹ. Đức, Pháp công khai bày tỏ thái độ không đồng tình (ở mức độ khác nhau) với Mỹ trong chiến dịch "Con cáo sa mạc", giội bom xuống I-rắc và đang hù dọa Xéc-bi-a. I-ta-li-a thì bất bình trước hành động coi rẻ sinh mạng con người của Ý: tòa án Mỹ tha bổng tên phi công lái máy bay đi quá thấp gây tai nạn làm chết 20 người dân thường vô tội. Xét trên tổng thể, Tây Âu thấy không cần đến cái ô bảo hộ của Mỹ như thời chiến tranh lạnh; chất dính của "keo" lợi ích quân sự, chính trị xưa không còn phù hợp và Tây Âu cũng phải "tự vươn" trở thành một "cực" trong thế giới đa cực trong chiến tranh lạnh. Cực Tây Âu này, Đức, Pháp đang cố chứng minh mình là "lõi", là trung tâm của Châu Âu. Xu thế "ly tâm" của Tây Âu với Mỹ đang rõ dần và ngày càng trở nên mạnh mẽ; Mỹ buộc phải có "nước cờ" trong chiến lược toàn cầu của mình bước vào thế kỷ 21. Xét cho cùng, các nước thành viên mới của NATO dưới con mắt của nhiều chính khách và dư luận rộng rãi thì cũng không phải là "đối tác" nặng cân lâm. Người ta làm phép tính đơn giản, so sánh về dân số thì tổng dân số cả ba nước là 59.604.774 người (Ba Lan: 38.650.000 người, Séc: 10.459.307 ngựởi, Hung-ga-ri: 10.495.467 người), chưa bằng dân số nước Pháp (60 triệu người). Một điều quan trọng đáng nói là, ngay chính nhân dân ba nước đó không "mong đợi", "chào mừng" sự kiện ngày 12-3-1999 tại thư viện mang tên Hary J.Tru-man ở Mít-xu-ri như bộ máy phương Tây tuyên truyền. Một cuộc điều tra mang tính khách quan vừa được phương tiện thông tin đại chúng ở Ba Lan, Séc và Hung-ga-ri công bố cho thấy phần lớn nhân dân quay lưng lại với việc nước họ gia nhập NATO. Cái gốc rễ không đồng tình đó chính là "lợi bất cập hại"; NATO đưa nước họ vào vòng xoáy của cuộc chạy đua vũ trang, chia rẽ xã hội, tổn thương đến sự phát triển kinh tế đất nước. Mỹ, NATO không dễ gì trong việc "chỉ huy thống nhất" và hòa đồng nền văn hóa phương Tây đối với đất nước mà nhân dân ở đó theo đạo Công giáo, Thiên chúa giáo La mã (Ba Lan, 90% dân số là Công giáo; Hung-ga-ri, 56% dân số và Séc, 39% dân số theo Thiên chúa giáo). Những người có lương tri và quan tâm đến hòa bình, công lý của nhân loại đều coi hành động mở rộng NATO là lỗi thời, phiêu lưu và đẩy thế giới vào một nguy cơ của thời kỳ chiến tranh lạnh. T.N
|
|
|
Logged
|
|
|
|
saoden
Thành viên

Bài viết: 1054
|
 |
« Trả lời #11 vào lúc: 11 Tháng Tư, 2022, 03:58:21 pm » |
|
"CHIẾN LƯỢC MỚI HAY LÀ THAM VỌNG MỚI? (Báo Nhân dân số ra ngày 11-6-1999) HOÀNG LIÊN Ngày 24-4, Hội nghị cấp cao khối Liên minh quân sự Bắc Đại Tây Dương (NATO) đã đưa ra "khái niệm chiến lược mới", vạch đường hướng của NATO trong thế kỷ mới, xóa bỏ thuyết "phòng thủ tập thể" trước đây, vạch ra các chức năng nhằm tiến hành các hành động bên ngoài lãnh thổ liên minh. Đây là bước phiêu lưu mới, phô bày những tham vọng hiếu chiến của tập đoàn quân sự hai bờ Đại Tây Dương, âm mưu qua mặt các tổ chức quốc tế, kể cả Hội đồng bảo an Liên hợp quđc, can thiệp công việc nội bộ của các quốc gia có chủ quyền, tiến hành các hoạt động quân sự trái với luật pháp quốc tế, nếu họ cho là cần thiết. Tại Oa-sinh-tơn, Tổng thư ký NATO H.Xô-la-na trình bày chiến lược mới này và coi đây là "lộ trình" cho 50 năm tới của NATO, đánh dấu sự chuyển đổi từ chính sách phòng thủ tập thể sang việc bảo đảm an ninh ở châu Âu và bên ngoài châu Âu. Ông H.Xô-la-na nói, sáng kiến đó là nhăm cho các lực lượng NATO cơ động hơn nữa và gia tăng sự chính xác của các hệ thống vũ khí. Một liên minh hùng mạnh hơn trước sẽ bảo đảm nền an ninh cho châu Âu và duy trì các giá trị dân chủ. Liên minh này sẽ có một vai trò then chốt trong việc giải quyết các tình huống khủng hoảng bên ngoài biên giới các nước NATO. Sự mở rộng NATO vẫn sẽ là một ưu tiên (!). NATO ra đời cách đây 50 năm với mục tiêu ngăn chặn sự lớn mạnh của Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa Đông Âu trước đây. Sự xuất hiện của tổ chức quân sự này đã thúc đẩy việc phân chia châu Âu thành hai chiến tuyến. Tháng 5-1954, tổ chức Hiệp ước Vác-xa-va, tổ chức quân sự của các nước Liên Xô và Đông Âu lúc đó được thành lập. Suốt trong nhiều thập kỷ, cuộc đối đầu Đông - Tây đã tồn tại với thực tế là Liên Xô, Đông Âu chưa bao giờ có hành động quân sự nào xâm phạm các nước thành viên NATO. Sau những sự kiện cuối những năm 80, đầu những năm 90, Tổ chức hiệp ước Vác-xa-va giải thể, lẽ ra NATO cũng phải giải thể. Song ngược lại, NATO không tự giải thể, mà còn được mở rộng theo chiến lược toàn cầu của Mỹ với mưu đồ nắm quyền kiểm soát an ninh của cả châu Âu và thế giới bảng sức mạnh quân sự, tham vọng can thiệp ở khắp nơi trên thế giới. "Chiến lược an ninh quốc gia của Mỹ cho thế kỷ 21" công bố tháng 8 - 1998, ghi rõ rằng "NATO tiếp tục là chỗ dựa cho sự có mặt của Mỹ ở châu Âu và là nòng cốt của hệ thống an ninh xuyên Đại Tây Dương. Chiến tranh lạnh kết thúc đã thay đổi bản chất của những nguy cơ tồn tại trong khu vực này, nhưng không làm giảm đi ý nghĩa của ổn định châu Âu đối với an ninh quốc gia của chúng ta (Mỹ)". Từ châu Âu, nhất là từ những nước thành viên mới của NATO ở Đông Âu và Trung Âu, Mỹ có khả năng kiểm soát và kịp thời phản ứng với những nguy cơ gây ra bởi đối thủ tiềm tàng nhất, có khả năng đe dọa vai trò siêu cường duy nhất của Mỹ trong tương lai, đó là nước Nga. Thực tế, sau chiến tranh lạnh, châu Âu cố gắn liên kết kinh tế, hướng tới một sự thống nhất có hiệu quả hơn, đặc biệt là việc cho ra đời đồng ơ-rô. Điều đó, theo các nhà phân tích cũng chẳng làm cho Mỹ thích thú gì. Thế nhưng về chính trị, quân sự, châu Âu vẫn ở dưới cái ô của Mỹ, vẫn hoàn toàn dựa vào Mỹ trong việc bảo đảm an ninh. Dịp NATO kỷ niệm 50 năm tồn tại trùng hợp một tháng diễn ra cuộc chiến ở Cô-xô-vô, Nam Tư. Cô-xô-vô là một thí dụ điển hình về chính sách sen đầm quốc tế của Mỹ. Mặc dù Cô-xô-vô thuộc Liên bang Nam Tư, là vấn đề nội bộ của Nam Tư. Mặc dù Nam Tư, nước thành viên Liên hợp quốc, có chủ quyền, không đe dọa, can thiệp các nước khác. Nhưng NATO, đứng đầu là Mỹ, ngang nhiên tiến công quân sự mà không được Hội đồng bảo an Liên hợp quốc cho phép. Một mặt, nhiều nhà bình luận quốc tế cho rằng đây là cuộc thử nghiệm về việc NATO thay đổi phương hướng chiến lược. Tại Hội nghị Oa-sinh-tơn, những người đứng đầu các quốc gia NATO và các đối tác canh cánh không yên trong việc kỷ niệm nửa thế kỷ hoạt động của NATO, mà còn phải tính toán cái giá của cuộc tiến công quân sự đối với nước họ. Riêng Mỹ, mỗi ngày chi phí cho cuộc chiến tranh này là từ 70-100 triệu USD. Cố vấn an ninh quốc gia Mỹ X.Bơ-gơ cho biết NATO định tập trung "một chút vào quá khứ và rất nhiều vào tương lai. Giờ đây cuộc gặp này phải tập trung rất nhiều vào hiện tại". Báo Mỹ Diễn đàn thông tin quốc tế bình luận rằng, cuộc chiến ở Cô-xô-vô làm lễ kỷ niệm như một "hội nghị chiến tranh". Các nhà quân sự của NATO đang dần dần thấm thìa cái giá của cuộc chiến tranh kéo dài, nhưng không mang lại kết quả mong muốn là buộc ban lãnh đạo Nam Tư phải đầu hàng. Bất chấp dư luận phản đối chiến tranh lan rộng khắp thế giới, Mỹ và các nước NATO tiếp tục leo thang chiến tranh; tăng cường quy mô và cường độ các cuộc bắn phá, ngoan cố tuyên bố bằng "bất kỳ giá nào NATO cũng phải chiến thắng ở Cô-xô-vô". Mặt khác, theo một số nhà phân tích, nếu thất bại trong cuộc chiến ở Cô-xô-vô, động lực để mở rộng NATO sẽ tiêu tan, một số nước Đông Âu có thể sẽ không còn hào hứng gia nhập liên minh này nữa. Không ít nhà phân tích đặt vấn đề: Phải chăng, "khái niệm chiến lược mới" là một sự đối phó lúng túng bị động của họ. Bởi vì Mỹ và các nước NATO khi bắt đầu tiến công Nam Tư hy vọng bằng sự khoa trương thanh thế, diễu võ giương oai sẽ làm cho kẻ yếu khiếp sợ, nhưng sau một thời gian không gặt hái được "chiến thắng", họ phải đưa ra chiến lược mới có tính răn đe này? "Khái niệm chiến lược mới" là cực kỳ nguy hiểm, đe dọa chủ quyền và nền độc lập, tự do của các quốc gia trên thế giới, loại bỏ vai trò của Liên hợp quốc cũng như của Hội đồng bảo an Liên hợp quốc, tổ chức đang có chức năng bảo đảm hòa bình và an ninh trên thế giới. Sau khi mở cuộc tiến công Nam Tư, tạo ra một tiền lệ nguy hiểm, Mỹ đang thực hiện ý đồ biến NATO thành công cụ bảo vệ lợi ích toàn cầu của mình, mặc dù trong thâm tâm các nước NATO mong muốn độc lập hơn với Mỹ. "Khái niệm chiến lược mới" là chính sách đã làm bộc lộ mâu thuẫn giữa những thành viên của NATO. Tổng thống Pháp G.Si-rắc, Thủ tướng Đức G.Xrô-ê-đơ phản đối việc coi hành động can thiệp quân sự của NATO ở Cô-xô-vô là khuôn mẫu để NATO mở rộng hoạt động từ nay về sau. Hiến chương Liên hợp quốc phải được tôn trọng và NATO không có quyền hành động ngoài khuôn khổ Liên hợp quốc. Báo A-sa-hi (Nhật Bản) ngày 26-4 phân tích, "Mỹ muốn xây dựng đối tác chiến lược với NATO, mở rộng phạm vi, can thiệp của NATO để phục vụ mục đích của Mỹ, muốn giành quyền lãnh đạo để đơn phương giải quyết phân tranh vì nếu chỉ một nước (Mỹ) tiến hành các hoạt động quân sự thì rất khó khăn do chi phí rất lớn và phản ứng chính trị mạnh mẽ trong nước". Mỹ và NATO cũng không thể tiếp tục phớt lờ sự phản đối của các nước, nhất là của Nga cả trong quá trình mở rộng NATO cũng như cuộc tiến công Nam Tư. Nga đã cắt đứt quan hệ ngoại giao với NATO từ những ngày đầu cuộc tiến công Ngày 25-4, Thủ tướng Nga E. Pri-ma-cốp nói, Nga có thể tăng ngân sách quốc phòng và xem xét lại mối quan hệ của Nga với các nước NATO, nếu NATO đưa bộ binh vào Nam Tư. Vì vậy, Tổng thống B.Clin-tơn, Bộ trưởng Ngoại giao Mỹ M.Ôn-brai đều phải tính đến "vai trò xây dựng của Nga trong việc tìm kiếm một giải pháp cho cuộc khủng hoảng Cô-xô-vô". Trên thực tế chưa hẳn đã vậy, nhưng họ từng nói ra điều cân nhắc đó. Cùng với Nga, dư luận các nước khác và nhiều chính khách, nhiều nhà khoa học trên thế giới cũng chỉ ra tính chất nguy hiểm chứa đựng trong "Khái niệm chiến lược mới" của NATO. Nhân Dân nhật báo (Trung Quốc) bình luận rằng, "chiến lược mới này mang tính tiến công và nguy hiểm, muốn mở rộng biên giới của NATO sang phía Đông, muốn can thiệp vào mọi nơi trên thế giới, muốn vượt quyền Liên hợp quốc tiến công quân sự vào các nước có chủ quyền. Chiến lược này được thông qua và thực thi sẽ phá vỡ trật tự chính trị, kinh tế quốc tế, không phù hợp trào lưu hòa bình và phát triển của thế giới...". Tổng thư ký Liên hợp quốc C.An-nan cảnh báo rằng mọi lực lượng hòa bình quốc tế vào Cô-xô-vô đều phải có sự ủy thác của Liên hợp quốc. Đưa ra "khái niệm chiến lược mới", Mỹ và các nước NATO hướng tới thực hiện vai trò sen đầm quốc tế, phục vụ lợi ích toàn cầu của Mỹ khi chiến tranh lạnh đã kết thúc, để thực thi luật của kẻ mạnh. Những âm mưu đó nhất định sẽ bị toàn thế giới lên án, vì loài người cần hòa bình chứ không cần chiến tranh, như Chủ tịch Đu-ma quốc gia Nga tuyên bố ngày 25-4, "Chúng tôi sẽ thành lập một tòa án dư luận đối với NATO. Quá trình luận tội cuộc chiến tranh chống Nam Tư chưa kết thúc, tòa án dư luận đang bắt đầu và ngày càng nghiêm khắc luận tội những âm mưu và hành động của NATO vi phạm chủ quyền và nền độc lập thiêng liêng của các quốc gia trên thế giới". H.L.
|
|
|
Logged
|
|
|
|
saoden
Thành viên

Bài viết: 1054
|
 |
« Trả lời #12 vào lúc: 13 Tháng Tư, 2022, 06:54:24 am » |
|
NATO - CÔNG CỤ CHIẾN LƯỢC TOÀN CẦU CỦA MỸ LÊ THẾ MẪU Không phải chờ đến dịp kỷ niệm 50 năm thành lập Tổ chức Hiệp ước Bắc Đại Tây Dương - NATO (24-04-1949 - 24-04-1999) với cái gọi là "Tuyên bố về khái niệm chiến lược quân sự mới" thế giới mới biết rõ rằng khối quân sự lớn nhất hành tinh này có bản chất xâm lược, rằng NATO là công cụ của chiến lược toàn cầu của Mỹ. Ngay từ khi đang cùng các nước đồng minh chiến đấu chống khối phát xít Đức - Ý - Nhật, giới lãnh đạo chính trị - quân sự Mỹ đã dự báo sự thất bại không thể tránh khỏi của chủ nghĩa phát xít. Theo các chiến lược gia ở Oa-sinh-tơn, trong tương lai sau thế chiến thứ haỉ Liên Xô sẽ là mối đe doạ chủ yếu đối với cấc lợi ích của Mỹ trên quy mô toàn cầu. Vì thế, chiến tranh thế giới thứ hai chưa kết thúc, nhưng các nhà chiến lược quân sự Mỹ đã nghĩ đến cách thức đối đầu với Liên Xô thời hậu chiến. Để thực hiện mục tiêu chiến lược đó, giới chính trị - quân sự Mỹ đã không từ một thủ đoạn nào để xúc tiến kế hoạch chế tạo bom nguyên tử nhằm làm công cụ sức mạnh chủ yếu thực hiện chiến lược toàn cầu của họ. Bộ chỉ huy các lực lượng Mỹ tham gia lực lượng đồng minh ở châu Âu đã cho quân đổ bộ đường không vào các khu vực lẽ ra thuộc quyền kiểm soát của Hồng quân Liên Xô mà họ nghi có các cơ sở hạt nhân của Đức quốc xã để đánh chiếm trước khi quân đội Liên Xô tiến vào giải phóng. Nếu không kịp đánh chiếm, họ cho không quân cường kích chiến lược ném bom huỷ diệt các khu vực đó để bí mật hạt nhân của Đức không rơi vào tay các nhà khoa học Liên Xô. Tháng 8 năm 1945, Tổng thống Mỹ Tơ-ru-man ra lệnh ném bom nguyên tử xuống hai thành phố Nhật Bản là Hi-rô-si-ma và Na-ga-da-ki, hoàn toàn không xuất phát từ yêu cầu nhiệm vụ đánh bại phát xít Nhật, vì không có hai quả bom đó thì Hồng quân Liên Xô cũng đã đánh bại đội quân Quan Đông mạnh nhất của phát xít Nhật buộc chúng phải đầu hàng vô điều kiện. Viện cớ giả tạo đánh phát xít Nhật, Mỹ quyết định sử dụng bom nguyên tử trước hết để đe doạ Liên Xô và các lực lượng cách mạng thế giới trong hoạch định sức mạnh, quyền lợi và ảnh hưởng của Mỹ sau thế chiến thứ hai. Hành động đó của Mỹ báo hiệu một kỷ nguyên mới trong quan hệ quốc tế - kỷ nguyên dùng sức mạnh của vũ khí hạt nhân để giải quyết các mâu thuẫn giữa các nước trên quy mô toàn cầu. Chẳng bao lâu sau, với nỗ lực phi thường, Liên Xô cũng làm chủ được công nghệ chế tạo bom nguyên tử và phá bỏ thế độc quyền của Mỹ. Núp dưới ô hạt nhân, thế giới phân chia thành hai cực, thực chất là hai hệ thống chính trị đối đầu nhau về ý thức hệ. Ở châu Âu hỉnh thành hai khối quân sự lớn nhất và mạnh nhất hành tinh đối đầu nhau với bản chất trái ngược nhau: khối NATO - công cụ xâm lược và là công cụ quan trọng nhất của chiến lược toàn cầu của Mỹ - và khối Vác-xa-va trở thành trụ cột chủ yếu của hoà bình thế giới. Trong thực tế, việc thành lập NATO là do Mỹ chủ trương tập hợp lực lượng phương Tây, trước hết là các nước tư bản phát triển nhất và lớn nhất, trừ Nhật Bản, để kiềm chế Liên Xô - đối thủ số một đang thách thức lợi ích toàn cầu của Mỹ. Theo Hiệp ước Bắc Đại Tây Dương ký ngày 04-4-1949 tại Oa-sinh-tơn và có hiệu lực ngày 24-4-1949, ngay từ thời bình, NATO đã có một lực lượng vũ trang liên quân hùng hậu. Theo điều 5 của Hiệp ước, trong trường hợp một nước thành viên hoặc một nhóm nước thành viên bị tấn công vũ trang thì các thành viên NATO nhanh chóng viện trợ ở mức độ cần thiết, kể cả việc sử dụng sức mạnh quân sự. Cơ quan chỉ huy cao nhất của khối là Hội nghị của Hội đồng NATO được triệu tập hai lần trong một năm ở cấp ngoại trưởng hoặc thủ tướng của tất cả các nước thành viên có sự tham gia của Bộ trưởng Quốc phòng, Bộ trưởng Tài chính hoặc các bộ trưởng khác tuỳ thuộc vào nội dung cần thảo luận để thống qua quyết định. Giữa hai kỳ Hội nghị có hai cơ quan điều hành Hội đồng NATO là Hội đồng thường trực và Ủy ban quân sự. Toàn bộ công việc hàng ngày của khối do Ban thư ký quốc tế phụ trách. Đứng đầu tổ chức quân sự NATO là Ủy ban lập kế hoạch quân sự. Trực thuộc uỷ ban này có Ủy ban quân sự - cơ quan chấp hành cao nhất về mặt quân sự, và Ủy ban phòng thủ hạt nhân chuyên trách soạn thảo chiến lược hạt nhân của khối. Ủy ban quân sự họp ít nhất 2 lần trong năm ở cấp Tham mưu trưởng liên quân của các nước thành viên. Riêng Ai-giơ-len không có quân đội nên họ cử một đại diện dân sự. Hoạt động quân sự hàng ngày của khối do Ủy ban thường trực quân sự đảm nhiệm bao gồm đại diện từ các Bộ tổng tham mưu quân đội các nước thành viên. Cơ quan chấp hành của uỷ ban này là Ban thư ký quân sự quốc tế (còn gọi là Ban tham mưu). Thành viên của Ủy ban phòng thủ hạt nhân là Bộ trưởng Quốc phòng quân đội các nước thành viên. Riêng Ai-giơ-len và Lúc-xăm-bua không tham gia uỷ ban này. Cơ quan điều hành Ủy ban phòng thủ hạt nhân là nhóm kế hoạch hạt nhân có 4 thành viên thường trực là Mỹ, Anh, Đức, I-ta-li-a và 3 thành viên không thường trực thay phiên nhau 18 tháng 1 lần. Để chỉ huy các lực lượng vũ trang liên quân, khối NATO thành lập 4 vùng chỉ huy liên quân: ở châu Âu, ở Đại Tây Dương, ở eo biển La Măng Sơ, nhóm vạch kế hoạch chiến lược Mỹ - Ca-na-đa. Tổng tư lệnh tối cao thực hiện chỉ huy các lực lượng liên quân ở châu Âu thông qua các bộ chỉ huy chủ yếu của 3 chiến trường châu Âu: Bộ chỉ huy Bắc Âu, bộ tham mưu đóng tại Cô-lốt, gần Ô-xlô, Na-uy. Bộ chỉ huy Trung Âu, bộ tham mưu đóng tại Bruc-khe-um, Hà Lan. Bộ chỉ huy Nam Âu, bộ tham mưu đóng tại Ne-a-pôn. Mỹ theo đuổi mục tiêu sử dụng quân đội và lãnh thổ các nước thành viên phục vụ các lợi ích riêng của mình, biến Tây Âu thành bàn đạp tiến hành các hoạt động xâm lược. Đồng thời, Mỹ cũng sử dụng khối này để củng cố sự hiện diện về kinh tế, chính trị, quân sự của họ ở Tây Âu. Các nước NATO ở Tây Âu chuẩn bị chiến tranh xâm lược trên tất cả các lĩnh vực quân sự, chính trị, kinh tế, tư tưởng, tiến hành cuộc chạy đua vũ trang mạnh mẽ chưa từng có. Họ đã bỏ ra khối lượng chi phí khổng lồ để xây dựng cơ sở hạ tầng quân dụng và dân dụng phục vụ cho mục đích chuẩn bị chiến tranh.
|
|
|
Logged
|
|
|
|
saoden
Thành viên

Bài viết: 1054
|
 |
« Trả lời #13 vào lúc: 13 Tháng Tư, 2022, 06:55:06 am » |
|
Xét về mặt hình thức bề ngoài, NATO dường như chỉ có tính chất phòng thủ, phòng thủ tập thể. Nhưng ngay sau khi thành lập, trong các văn bản chính thức và công khai của khối đã không chỉ nhấn mạnh đến các cuộc tấn công vũ trang từ bên ngoài mà cả các mối đe doạ lợi ích sống còn của các thành viên trong khối. Không những thế, họ còn nói đến cái gọi là "các khu vực trách nhiệm của các thành viên". Bằng chứng cho nhận định này là Tuyên bố Bruc-xen năm 1967, trong đó nhấn mạnh: "Không nên xem xét các khu vực trách nhiệm của khối NATO tách khỏi thế giới bên ngoài. Khủng hoảng và xung đột bên ngoài lãnh thổ các nước thành viên đều làm phương hại đến lợi ích an ninh của khối một cách trực tiếp hoặc do thay đổi cán cân lực lượng toàn cầu". Thí dụ điển hình cho sự can thiệp của NATO vào công việc nội bộ các nước là vụ can thiệp ở Hy Lạp năm 1967. Để trấn áp phong trào yêu nước và củng cố ảnh hưởng của khối tại nước này, NATO đã thực hiện chiến dịch "Prô-mê-tê" để giúp phái quân sự tiến hành đảo chính và thiết lập chế độ độc tài phát xít. Chế độ đó tồn tạị cho tới năm 1974 thì bị sụp đổ.
Năm 1982, Hội đồng NATO đưa ra nhận định: "Các biến cố bên ngoài phạm vi khu vực trách nhiệm của NATO đều đe doạ các lợi ích sống còn của chúng ta... Các nước thành viên thoả thuận nghiên cứu khả năng của các nước riêng rẽ bảo đảm đưa quân ra ngoài phạm vi khu vực trách nhiệm của khối". Như vậy, vấn đề toàn cầu hoá NATO đã được đề cập đến ngay cả trước khi Liên Xô tan rã.
Về thực chất, chiến lược quân sự của NATO là một chiến lược con trong chiến lược lớn toàn cầu của Mỹ và vì thế cũng đã trải qua nhiều giai đoạn theo bước thăng trầm của chiến lược lớn.
Trong giai đoạn I (1949-1954), chiến lược đó dựa trên quan niệm "phòng thủ châu Âu" có tính đến kết cục thế chiến thứ hai và khả năng Mỹ có vũ khí hạt nhân. Chiến tranh có thể xảy ra theo mô hình thế chiến thứ hai, vũ khí hạt nhân chỉ có tác dụng tăng cường sức mạnh vũ khí chiến lược vì khi đó trình độ khoa học chưa cho phép cả Mỹ và NATO chưa hiểu hết tính năng khủng khiếp của loại vũ khí này.
Trong giai đoạn II (1954-1967), chiến lược NATO có tên là "thanh kiếm và lá chắn" dựa trên cơ sở chiến lược "trả đũa ồ ạt" của Mỹ. "Thanh kiếm" là vũ khí hạt nhân của Mỹ, còn "lá chắn" là các lực lượng thông thường liên quân của NATO trên các chiến trường châu Âu và Đại Tây Dương. Chiến lược này bước đầu căn cứ vào ưu thế vũ khí hạt nhân vượt trội của Mỹ so với Liên Xô. Đến năm 1961, do không còn giữ được ưu thế vũ khí hạt nhân, Mỹ buộc phải chuyển sang chiến lược "phản ứng linh hoạt" dự kiến tiến hành chiến tranh hạt nhân tổng lực và chiến tranh thông thưởng hạn chế. Từ đó chiến lược quân sự của khối cũng thay đổi và được thông qua năm 1967, trong đó coi chiến tranh hạn chế là bước leo thang thành chiến tranh hạt nhân tổng lực.
Giai đoạn III diễn ra trong những năm sau đó, chiến lược NATO phát triển dưới tác động của chiến lược "răn đe thực tế" chấp nhận chiến tranh hạn chế có sử dụng vũ khí hạt nhân và chiến lược "đối đầu trực tiếp" chấp nhận chiến tranh hạt nhân tổng lực được Mỹ đề xuất đầu những năm 70 và 80.
Trong giai đoạn IV, trước những đổi thay có tính chất toàn cầu những năm 90, Mỹ và NATO buộc phải thay đổi và điều chỉnh chiến lược của khối. Tháng 11 năm 1991, NATO đưa ra chiến lược mới với 3 nguyên tắc: "phòng thủ" (có nghĩa là tăng cường tiềm lực quân sự), "đối thoại" (có nghĩa là giảm cường độ đối đầu trên thế mạnh) và "hợp tác" (có nghĩa là mở rộng quan hệ hợp tác toàn diện với các nước khối Vác-xa-va củ, nhưng không đả động gì đến chuyện không dùng sức mạnh trong quan hệ với các nước đó, đặc biệt là các nước SNG). Các nước Đông Âu và các nước Ban-tích thuộc Liên Xô trước đây được coi là "các khu vực có lợi ích sống còn của NATO". Chính sách mới của NATO là vừa hợp tác với các nước Xô - viết cũ, vừa loại trừ khả năng xuất hiện một siêu cường hoặc khối liên minh đe doạ lợi ích của khối tại các khu vực có lợi ích sống còn. Năm 1994, tại kỳ họp bất thường của Hội đồng NATO ở Bruc-xen đã thông qua quyết định mở rộng khối về phía Đông và chấp nhận nguyện vọng của các nước mới muốn gia nhập khối sau đây: An-ba-ni, Bun-ga-ri, Hung-ga-ri, Lát-vi-a (cộng hoà Xô-viết cũ), Lít-va (cộng hoà Xô-viết cũ), E-xtô-ni-a (cộng hoà Xô-viết cũ), Ma-kê-đô-nhi-a (một nước cộng hoà trong Liên bang Nam Tư cũ), Ba Lan, Ru-ma-ni, Xlô-va-ki-a, Séc, Xlô-ve-ni-a.
Năm 1999, ba nước Ba Lan, Séc và Hung-ga-ri chính thức trở thành thành viên mới của NATO.
Theo quan điểm mới của NATO thì tiềm lực quân sự của Liên Xô trước đây do Nga kế thừa vẫn còn là mối đe doạ tiềm tàng lớn nhất đối với an ninh của các nước NATO. Vì thế, bằng mọi cách, Mỹ phong toả và kiềm chế hàng ngàn xí nghiệp công nghiệp quân sự của Nga, đưa các xí nghiệp đó đến chỗ giải thể hoặc sống dở chết dở. Ngoài ra, trong chiến lược của NATO vẫn giữ nguyên quan điểm tiến hành hai loại hình chiến tranh: chiến tranh tổng lực và chiến tranh hạn chế chủ yếu bằng vũ khí thông thường, nhưng chiến tranh tổng lực trong tương lai trước mắt rất ít khả năng xảy ra.
Một trong những hướng ưu tiên trong chức năng của khối là kiểm soát khủng hoảng bằng tất cả các biện pháp chính trị, quân sự, kinh tế và các biện pháp khác. Để thực hiện chức năng đó, NATO có thể sử dụng lực lượng quân sự bên ngoài các khu vực trách nhiệm của khối. Như vậy NATO thực sự công khai trở thành công cụ của Mỹ trong việc thiết lập trật tự thế giới mới theo ý đồ của Mỹ. Dưới góc độ đó, NATO từ chỗ một khối có tính chất "phòng thủ tập thể" chuyển thành khối "bảo vệ lợi ích tập thể" ở bất kỳ nơi nào trên thế giới. NATO sẽ đáp ứng bất kỳ yêu cầu giúp đỡ nào trong trường hợp bị đe doạ từ các chế độ "phi dân chủ" và các nước chế tạo vũ khí sát thương hàng loạt. Như vây, bất kỳ nước nào theo đuổi chính sách độc lập hoặc kiên quyết bảo vệ lợi ích quốc gia của họ đều bị coi là "mối đe doạ các lợi ích của Mỹ và NATO".
Mỹ ngang nhiên và vô cớ cho rằng các công dân và lợi ích của nước Mỹ đang bị đe dọa ở nhiều nơi và trong nhiều vấn đề như xung đột khu vực, các phong trào nổi dậy đến chủ nghĩa khủng bố, tội phạm và xung đột sắc tộc. Cái cớ này làm người ta nhớ lại việc Mỹ viện cớ đánh Nhật để ném bom nguyên tử trong thế chiến thứ hai. Mỹ phải đơn phương hành động hoặc phối hợp với các đồng minh đáng tin cậy nhất (trước hết là NATO) để bảo vệ lợi ích của Mỹ trên toàn thế giới. Đó cũng chính là lý do để Mỹ biện minh cho sự tổn tại và tiếp tục bành trướng khối quân sự lớn nhất và mạnh nhất hành tinh này làm một công cụ quan trọng nhất để Mỹ thực hiện chiến lược toàn cầu của họ trong điều kiện mới. Để thực hiện tham vọng đó, Mỹ phải duy trì các lực lượng quân sự đủ mạnh để có thể cùng một lúc tiến hành đồng thời các chiến dịch ở nhiều khu vực cách xa nhau trên thế giới. Ở châu Á, Mỹ viện cớ thành lập hệ thống phòng chống tên lửa hạt nhân để lôi kéo Nhật Bản, và có thể một số nước khác vào một liên minh quân sự mới nhằm trước hết khống chế Trung Quốc - một ứng cử viên sáng giá thách thức chiến lược toàn cầu của Mỹ - để các liên minh đó có thể yểm trợ tốt hơn cho các hoạt động viễn chinh can thiệp trên quy mô toàn cầu của Mỹ.
|
|
|
Logged
|
|
|
|
saoden
Thành viên

Bài viết: 1054
|
 |
« Trả lời #14 vào lúc: 13 Tháng Tư, 2022, 06:55:37 am » |
|
Thực chất của chiến lược toàn cầu cũa Mỹ trong điều kiện mới là toàn cầu hoá kinh tế phục vụ cho lợi ích của Mỹ, mở rộng hệ thống cốc nước "dân chủ" có chế độ thị trường tự do, củng cố và mở rộng thị trường đầu tư và xuất khẩu của người Mỹ và các xí nghiệp Mỹ. Để thực hiện mục tiêu đó, Mỹ sử dụng hai công cụ chủ yếu. Một là sức mạnh kinh tế thống qua các tổ chức tài chính và ngân hàng mạnh nhất do Mỹ khống chế như Ngân hàng thế giới (WB), Tổ chức thương mại thế giới (WTO), Quỹ tiền tệ quốc tế (IMF)... Hai là sức mạnh quân sự, trong đó chiến tranh bằng vũ khí công nghệ cao là yếu tố then chốt quyết định. Cuộc chiến tranh Vùng Vịnh là dấu hiệu đầu tiên về loại hình chiến tranh bằng vũ khí công nghệ cao do Mỹ tiến hành. Sau cuộc chiến đó, các chiến lược gia Mỹ cho rằng Mỹ sẽ sẵn sàng "xung trận ở bất kỳ đâu, bất cứ lúc nào, chống bất kỳ ai". Mỹ đã nhiều lần dùng vũ khí công nghệ cao trong chiến dịch "Con cáo sa mạc", trong cuộc không kích tấn công Li-băng, Ap-ga-ni-xtan... Nhưng cuộc chiến tranh bằng không quân của NATO do Mỹ chỉ huy nhằm vào Nam Tư lần này mới thể hiện đầy đủ nhất công cụ quân sự trong chiến lược toàn cầu của Mỹ. Quyết định ném bom Nam Tư là một bước quan trọng trong kế hoạch chiến lược toàn cầu đã được phác họa rõ ràng, mở đầu cho một loạt hoạt động can thiệp bằng quân sự ở nước ngoài. Trong cuộc họp thượng đỉnh nhân kỷ niệm ngày thành lập NATO lần thứ 50 ở Oa-sinh-tơn ngày 24-4-1999, liên minh quân sự lớn nhất hành tinh này chính thức chấp nhận "khái niệm chiến lược mới", trong đó xác định rõ vai trò "gìn giữ hoà bình" của nó trong các cuộc xung đột bên ngoài lãnh thổ của các nước thành viên, mà thực chất là vai trò cảnh sát quốc tế. Trước hết, tính chất cảnh sát quốc tế thể hiện ở cái cớ gây chiến. Mỹ và NATO lấy cớ "can thiệp nhân đạo", "bảo vệ" người Cô-xô-vô gốc An-ba-ni bị người Xéc-bi-a phân biệt đối xử, để gây chiến tranh không cần biết đến Liên hợp quốc. Đây là cái cớ được Mỹ khái quát thành một trong ba luận điểm chủ yếu để can thiệp quân sự, nhằm thực hiện chiến lược toàn cầu trong kỷ nguyên sau chiến tranh lạnh. Một là, sau khi Liên Xô tan rã, Mỹ không còn chạy đua vũ trang và tăng cường sức mạnh quân sự, nhưng họ vẫn ngang nhiên lấy việc trừng phạt hành động "vi phạm nhân quyền" và "bảo vệ nhân đạo" để gây chiến tranh. Hai là, Mỹ tự cho mình là một siêu cường thế giới với lợi ích kinh tế trên toàn cầu, cần duy trì sự ổn định quốc tế. Vì không có một cường quốc nào khác có thể bảo đảm sự ổn định đó, nên Mỹ phải đơn phương hành động và phối hợp với các đồng minh đáng tin cậy, trước hết là NATO. Đó là lý do để Mỹ biện minh cho sự tồn tại và tiếp tục bành trướng khối quân sự lớn nhất và mạnh nhất hành tinh này thành một công cụ quan trọng nhất để thực hiện chiến lược toàn cầu của họ. Ba là, Mỹ phải duy trì một lực lượng quân sự đủ mạnh để có thể tiến hành đồng thời các chiến dịch ở nhiều khu vực cách xa nhau trên thế giới và sẵn sàng đối đầu với các ứng cử viên vào vị tri" siêu cường như Trung Quốc và Nga. Ba nội dung trên đây được triển khai trong chương trình chiến lược mới của Mỹ, được thể hiện bằng 112 tỉ USD mà Tổng thống B.Clin-tơn sẽ bổ sung cho ngân sách quốc phòng 6 năm tới để mua sâm thêm vũ khí trang bị, đảm bảo khả năng "tung sức mạnh" tới bất kỳ đâu, bất cứ lúc nào. Diễn văn đọc ngày 26-2-1999 ở Xan Fran-xi-xcô, Tổng thống Mỹ B.Clin-tơn đã nói toạc ý đồ chiến lược của Mỹ: "Quả thật là chúng ta không có khả năng và không nên làm mọi việc hoặc có mặt ở khắp nơi. Nhưng ở những nơi mà giá trị và lợi ích của chúng ta bị đe doạ, những nơi mà chúng ta có thể làm thay đổi tình hình, thì chúng ta phải sẵn sàng làm". Chiến lược quân sự mới của NATO thực sự là một hiểm hoạ còn thể hiện trong cái gọi là chính sách "quy chuẩn nước đôi". Theo quy chuẩn này, lợi ích sẽ định hướng cho chính sách. Thí dụ điển hình cho chính sách nước đôi đó là họ vừa dùng sức mạnh quân sự ở Cô-xô-vô chống lại quân đội Nam Tư, đồng thời lại phớt lờ chuyện Thổ Nhĩ Kỳ đàn áp và diệt chủng người Cuốc, họ "tỏ ý lo ngại" về việc các bên sử dụng sức mạnh quân sự ở Che-snhi-a, Na-gốt-nưi Cô-rơ-bát (Nga). Với những nỗ lực đó, NATO có ý định thiết lập một trật tự công pháp quốc tế mới, trong đó vai trò trung tâm không phải thuộc về Liên hợp quốc mà là NATO. Hiểm hoạ này làm cho nguyên tắc thiêng liêng về chủ quyền quốc gia của các nhà nước bị lung lay và làm tái hiện học thuyết Ru-giơ-ven, theo đó một quốc gia "văn minh" có quyền dùng vũ khí lập lại trật tự ở một quốc gia "kém văn minh" hơn, mở toang mọi cánh cửa cho sự độc đoán chuyên quyền của Mỹ và sẽ gây ra những hậu quả nghiêm trọng đối với toàn bộ hệ thống các quan hệ quốc tế. Các nước trên thế giới lại phải lao vào một cuộc chạy đua vũ trang mới, kể cả việc nghiên cứu chế tạo vũ khí hạt nhân, vì các nước đều cho rằng chỉ có bằng cách làm chủ vũ khí hạt nhân và các vũ khí sát thương hàng loạt khác mới có thể làm cho Mỹ biết thế nào là "lễ độ" trong các quan hệ quốc tế. Như vậy, loài người không còn sức lực tập trung vào giải quyết các vấn đề toàn cầu có ý nghĩa sống còn đối với mọi quốc gia, mọi dân tộc như ô nhiễm môi trường, cạn kiệt tài nguyên, nạn đói và bệnh tật, tệ nạn ma tuý... Chiến lược quân sự mới của Mỹ và NATO cùng với việc coi thường vai trò của Liên hợp quốc và thao túng Toà án quốc tế vốn là các tổ chức có trách nhiệm giải quyết khủng hoảng và duy trì trật tự trên thế giới khiến cho một trong những nhân vật có tiếng là "diều hâu" nhất ở Mỹ như nhà phân tích chính sách đối ngoại Sa-mu-en Hun-tin-tơn phải cảnh cáo rằng phần lớn cốc nước trên thế giới hiện nay coi Mỹ là mối đe doạ thực sự. Ngay cả châu Âu cũng chịu nguy cơ trở thành con tin của chính sách phiêu lưu đầy tham vọng và vô trách nhiệm của Mỹ - NATO. L.T.M.
|
|
|
Logged
|
|
|
|
saoden
Thành viên

Bài viết: 1054
|
 |
« Trả lời #15 vào lúc: 21 Tháng Tư, 2022, 08:21:38 am » |
|
VÌ SAO NAM TƯ KHÔNG BỊ NATO KHUẤT PHỤC? LÊ THẾ MẪU Đến nay đã hơn hai tháng không kích ác liệt, với số bom có sức công phá xấp xỉ 10 quả bom nguyên tử ném xuống Hi-rô-si-na, Mỹ và NATO không bẻ gảy được ý chí chiến đấu của Nam Tư, buộc phải tính đến khả năng tác chiến trên bộ không mấy hy vọng tháng cuộc, vì sao vậy? Theo các chuyên gia quân sự nước ngoài, cùng với ý chí quật cường của một dân tộc có truyền thống anh hùng chống giặc ngoại xâm, tinh thần quả cảm hiếm có, quyết tâm bảo vệ Tổ quốc đến người cuối cùng của quân và dân Nam Tư, các lực lượng vũ trang Xéc-bi-a còn tỏ rõ tải thao lược trong một cuộc chiến tranh du kích khác thường chống lại cuộc chiến tranh ở trình độ công nghệ cao nhất thế kỷ 20. Ngoài ra, cuộc chiến ở Nam Tư cũng chứng tỏ vũ khí công nghệ cao của Mỹ và NATO không phải là "độc chiêu" như họ vẫn tuyên truyền quảng cáo để dọa nạt những ai yếu bóng vía, mà cũng có vô khối nhược điểm, dù chúng có "thông minh", "tinh khôn" đến đâu vẫn chưa vượt qua được trí tuệ con người. Theo xác nhận của báo chí nước ngoài, mặc dù được sự hỗ trợ của 24 vệ tinh định vị toàn cầu kiểu mới (GPS), tên lửa và các loại bom "thông minh" chỉ đánh trúng mục tiêu với xác suất rất thấp. Theo đánh giá của NATO, độ chính xác tính theo lý thuyết của tên lửa hành trình là 80-85%, nhưng các chuyên gia Nga đánh giá trên thực tế chỉ vào khoảng 50%. Sau đợt tấn công đầu tiên, các chuyên gia phương Tây đã phải thú nhận các vệ tinh của Mỹ và NATO chưa có khả năng bảo đảm trinh sát và tấn công đồng thời, nghĩa là từ thời điểm phát hiện đến khi tấn công còn có khoảng cách. Người Xéc-bi-a đã biết khôn khéo khai thác "khoảng thời gian vàng" này để đối phó. Ngoài ra, các vệ tinh và các phương tiện trinh sát khác của Mỹ chưa có khả năng nhận dạng chính xác mục tiêu. Theo số liệu mới công bố gần đây, độ phân giải của các vệ tinh trinh sát của Mỹ đối với cầu cống là khoảng 6 mét, các đơn vị quân đội: 6 mét, máy bay: 5 mét, đường giao thông: 6-9 mét... và vì thế chúng chưa có khả năng phân biệt mục tiêu thật với mục tiêu giả. Theo đánh giá của dư luận nước ngoài, hệ thống phòng không Nam Tư bao gồm tên lửa phòng không và máy bay tiêm kích đã lập được công lớn là không chỉ bảo toàn được phần lớn lực lượng mà quan trọng hơn là không để cho không quân NATO thực hiện được ý định theo dự kiến. Cần lưu ý rằng các cuộc tấn công ồ ạt ban đầu của tên lửa và bom có điều khiển nhằm vào các mục tiêu đa số là cố định như sân bay, sở chỉ huy, trạm truyền thông tin, doanh trại quân đội, kho tàng. Còn đối với các mục tiêu di động thì sao? Theo các chuyên gia quần sự Nga, dù được sự hỗ trợ của các vệ tinh trinh sát và dẫn đường từ trên vũ trụ, tên lửa hành trình và bom tự dẫn ít có hiệu quả khi không kích các mục tiêu quân sự di động. Các đơn vị quân đội Nam Tư đã biết khôn khéo khai thác điểm yếu này của đối phương trong cách tổ chức, bố trí và cơ động lực lượng để ngụy trang và đánh lừa các quả tên lửa hành trình được quảng cáo là "thông minh" nhưng thực ra lại rất "ngớ ngẩn". Nam Tư không đánh theo bài bản. Một chuyên gia quân sự hàng đầu của khối NATO đã dự báo cách đây hơn mười năm rằng thập kỷ 90 là thập kỷ của những nỗ lực nhằm nâng cao khả năng sống sót. Để phơi mình ra trước một đối phương có khả năng trinh sát và tấn công nhanh, coi như hành động tự sát. Theo các chuyên gia Nga, chiến thuật của tên lửa phòng không của Nam Tư trong trường hợp bắn rơi F-117A là luôn cơ động và im lặng vô tuyến, chờ cho nó vào vị trí phóng bom mới phát hỏa. Cũng theo các chuyên gia quân sự Nga, lực lượng pháo, tên lửa phòng không và súng bộ binh của Nam Tư rất giỏi đánh theo chiến thuật du kích. Một số chuyên gia quân sự của Lầu năm góc đã có lời cảnh báo phải dè chừng trước đối thủ này. Theo họ, đây không phải là sa mạc Trung Đông với địa hình đơn điệu. Đây là vùng Ban-căng, nơi có người Xéc-bi-a rất tài giỏi trong nghệ thuật dùng binh, lại có địa hình huyền bí hơn ở Trung Đông. Họ đã từng làm cho lực lượng không quân phương Tây điêu đứng hơn 5 năm về trước trong cuộc xung đột Bô-xni-a. Quân đội Nam Tư đã được kế thừa kinh nghiệm phong phú được đúc kết từ nhiều chiến trường khác nhau trên thế giới do các chuyên gia Nga truyền thụ lại. Quân đội các nưởc Trung Đông đã áp dụng thành công chiến thuật phục kích đánh máy bay ngay cả trong điều kiện địa hình sa mạc đơn điệu. Giờ đây, bộ đội Nam Tư lại phát triển chiến thuật này để chống lại các cuộc không kích của không quân NATO, dĩ nhiên ở mức độ cao hơn, điêu luyện hơn nhiều. Các tên lửa SAM-2 trước đây nay cũng được cải tiến nhiều về kỹ thuật và vẫn có hiệu lực tốt. Ngoài tên lửa phòng không, quân đội Nam Tư còn có 15 máy bay tiêm kích Mig-29, 80 máy bay Mig-21 cải tiến đều có khả năng đối phó với máy bay của NATO. Theo đánh giá của các chuyên gia quân sự Nga, nếu biết kết hợp chặt chẽ tất cả các phương tiện trình sát và các vũ khí phòng không hiện có (pháo, súng bộ binh, tên lửa mảy bay), biết thu thập và xử lý thông tin, có hệ thống chỉ huy hiệu quả, hoàn toàn có khả năng đối phó được các khí tài bay của NATO. Để đạt kết quả, cần đặc biệt chú ý biện pháp ngụy trang trong tác chiến và tuyệt đối giữ bí mật về các mục tiêu quân sự vì NATO không chỉ cậy vào các vệ tinh tình báo, họ vẫn thường sử dụng bọn phản động lén lút gắn phao vô tuyến vào các mục tỉêu quân sự để dẫn đưòmg cho tên lửa. Không kích từ xa không đạt được mục đích đề ra, NATO buộc phải hạ thấp độ cao không kích xuống tầm thấp và tầm vừa. Thậm chí còn có kế hoạch đưa cả máy bay lên thẳng Apache được mệnh danh là "Xe tăng bay" vào tham chiến. Lúc đó, khả năng phòng không của Nam Tư sẽ tăng lên gấp bội nhờ các tổ bợp tên lửa phòng không vác vai mua của Nga với ước tính khoảng 2.000 bộ. Những tên lửa đó hoạt động độc lập, không cần ra-đa, do đó không sợ tên lửa tự dẫn bằng ra-đa của NATO. Quân đội Nam Tư là một đội quân thiện nghệ trong cách đánh du kích và đánh đặc công vớỉ các đội đặc nhiệm đã từng làm thất kinh bọn phát xít Đức trong thế chiến thứ hai. Với truyền thống đó, họ sẽ khai thác triệt để điều kiện địa hình quen thuộc hoặc chuyển hoạt động chiến đấu sang phục kích ngay sau lưng đối phương. Khi chiến đấu trên bộ, quân đội NATO sẽ mất hẳn ưu thế trước một đội quân có tài biến hóa và được "chơi trên sân nhà". Đó chính là tình thế đáng sợ đối với quân Mỹ và NATO. L.T.M.
|
|
|
Logged
|
|
|
|
saoden
Thành viên

Bài viết: 1054
|
 |
« Trả lời #16 vào lúc: 21 Tháng Tư, 2022, 08:22:36 am » |
|
MỘT SỐ TƯ LIỆU VỀ NƯỚC CỘNG HÒA LIÊN BANG NAM TƯ Cộng hòa liên bang Nam Tư gồm hai nước: Cộng hòa Xéc-bi-a và Cộng hòạ Mông-tê-nê-grô nằm trên bán đảo Ban-căng ở về phía đông nam châu Âu. Nam Tư phía bắc giáp nước Hung-ga-ri, phía đông giáp nước Ru-ma-ni và Bun-ga-ri, phía nam giáp nước Ma-xê-đô-ni-a và An-ba-ni, phía tây có đường biên giới chung với nước Bô-xni-a Héc-xê-gô-vi-na. Diện tích của Liên bang Nam Tư là 102.173km2 (Xéc-bi-a: 88.361km2, Mông-tê-nê-grô: 13.812km2). Thủ đô Bê-ô-grát nằm trên lãnh thổ của Xéc-bi-a. Địa hình của Liên bang Nam Tư đa dạng: Cộng hòa Xéc-bi-a nằm ở phía Bắc chiếm 86% diện tích toàn Liên bang, gồm ba khu vực chính: Khu vực Vô-giơ-vơ-đi-na (năm 1963 là khu tự trị) nằm ở phía bắc Xéc-bi-a, là một vùng đồng bằng rộng lớn màu mỡ, được bồi đáp bởi các con sông Đa-nuýp, Xa-va-tie-đa và Ma-ra-vin. Khu Xu-ma-đi-ga là một vùng đồi nằm ở miền Trung Xéc-bi-a, dân cư đông đúc. Khu Cô-xô-vô (năm 1963 là khu tự trị) là vùng núi nằm ở phía nam Xéc-bi-a. Cộng hòa Mông-tê-nê-grô nằm ở Tây Nam, giáp biển Ađri-a-tíc, bờ biển dài 190km. Địa hình ở đây phần lớn là núi có độ cao từ 762 đến 2.438 mét so với mực nước biển. Mông-tê-nê-grô là một phần của cao nguyên Ca-xtơ rộng lớn chạy dọc ven biển Ađri-a-tíc. Đất trồng trọt chủ yếu là lưu vực sông Da-ta và vùng quanh hồ Xcu-tơ-ri (hồ lớn nhất ở biên giới với nước An-ba-ni). Cộng hòa liên bang Nam Tư có số dân là 11.223.000 người. Người Xéc-bi-a chiếm tỷ lệ cao nhất (62,6%), phần lớn theo đạo Cơ đốc giáo chính thống. Người An-ba-ni, phần lớn theo đạo Hồi, là bộ phận dân cư đông thứ hai, chủ yếu sống ở Cô-xô-vô có đường biên giới chung với An-ba-ni. Người Mông-tê-nê-grô là bộ phận dân cư đông thứ ba, phần đông sống ở nước Cộng hòa Mông-tê-nê-grô. Người Hung-ga-ri sống chủ yếu ở Nô-giơ-vô-đi-na (miền Bắc Xéc-bi-a) có biên giới chung với Hung-ga-ri. Thủ đô Bê-ô-grát: 1.136.786 người, thành phố Nô-vi-xát: 178.896 người, thành phố Nis: 175.555 người. Thành phố Pri-xti-na thủ phủ của tỉnh Cô-xô-vô: 108.083 người. Ngôn ngữ chính thức của Cộng hòa liên bang Nam Tư là tiếng Xéc-bi-a. Người Mông-tê-nê-grô nói tiếng Xéc-bi-a địa phương, người An-ba-ni nói tiếng An-ba-ni và người Hung-ga-ri nói tiếng Hung-ga-ri. Nền kinh tế của Liên bang Nam Tư bị suy yếu nặng nề do việc 4 nước cộng hòa (Crô-a-ti-a, Xlô-vê-ni-a, Ma-xê-đô-ni-a và Bô-xni-a Héc-xê-gô-vi-na) tách ra khỏi Liên bang Nam Tư cũ vào những năm đầu thập kỷ 90, các cuộc chiến tranh liên tiếp và những đòn trừng phạt kinh tế của cộng đồng quốc tế. Liên bang Nam Tư mới cũng không được kế thừa tư cách thành viên của Nam Tư cũ trong các tổ chức kinh tế của IMF. Hậu quả là Cộng hòa liên bang Nam Tư lâm vào lạm pháp lớn, tỷ lệ thất nghiệp cao, tăng trưởng kinh tế thấp. Thu nhập bình quân đầu người theo GDP năm 1990 là 4.200 đô la Mỹ, giảm dần đến năm 1997 chỉ còn 2.280 đô la Mỹ. Cộng hòa liên bang Nam Tư có nền công nghiệp khai thác mỏ phát triển, trữ lượng đồng lớn nhất châu Âu nằm ở Xéc-bi-a. Ở đây còn có các mỏ như: bô-xít, than, chì, kẽm... Công nghệ chế tạo của Cộng hòa liên bang Nam Tư như hóa chất, điện tử, sât, thép, chế tạo máy và thiết bị vận chuyển phát triển khá ở châu Âu. Sản phẩm nông nghiệp, lâm nghiệp cũng đóng góp một phần quan trọng vào nền kinh tế của Cộng hòa liên bang Nam Tư. Về quốc phòng, Cộng hòa liên bang Nam Tư thực hiện chế độ nghĩa vụ quân sự, tất cả thanh niên ở tuổi 19 có khả năng được gọi vào quân đội. Sau 1 năm tại ngũ, họ giải ngũ và trở thành quân dự bị cho đến tuổi 55 (tuổi 60 cho sĩ quan). Nữ thanh niên không phải thi hành nghĩa vụ quân sự nhưng được khuyến khích phục vụ trong các nhiệm vụ phi chiến đấu, đặc biệt trong lực lượng phòng thủ dân sự. Ngân sách quốc phòng 725 triệu đô la Mỹ, chiếm 6-10% tổng chi tiêu của chính phủ. Hiện nay lục quân quân đội Nam Tư có khoảng 90.000 người, gồm 3 tập đoàn quân, 7 quân đoàn, 3 sư đoàn, 6 lữ đoàn tăng, 1 lữ đoàn cận vệ, 1 lữ đoàn pháo tự hành, 4 lữ đoàn cơ giới, 8 lữ đoàn bộ binh cơ giới, 5 lữ đoàn pháo binh hỗn hợp. Trang bị: 785 xe tăng T.55; 239 xe M-84 (T.74, xe tăng T.72 cải tiến); 181 xe T.34; 65 xe tăng T.72 bọc thép chở quân PT.7; 88 xe BRDM-2; 588 xe chiến đấu của bộ binh M.80; 169 xe bọc thép chở quân M.608, v.v... Lực lượng phòng không gồm: 8 tiểu đoàn tên lửa phòng không SAM2, 6 tiểu đoàn tên lửa phòng không SAM3, 15 trung đoàn phòng không và một hệ thống ra-đa báo động sớm, chỉ huy, kiểm soát và truyền thông bố trí phân tán trên toàn quốc. Các hệ thống SAM6 và SAM11 cơ động mới triển khai những năm gần đây. Tên lửa SAM6 là loại rất có hiệu quả đối với những mục tiêu bay ở tầm trung bình. Điều đáng lưu ý, hệ thống tên lửa đất đối không tầm thấp cơ động SAVA là biến thể của tên lửa SAM13 của Nga, có khả năng tấn công máy bay bay thấp, máy bay lên thẳng và máy bay không người lái. Lực lượng không quân: với số quân khoảng 16.700 người, trang bị 238 máy bay chiến đấu, 52 trực thăng vũ trang được biên chế thành 4 phi đội. Lực lượng vũ trang Nam Tư có truyền thống chống ngoại xâm, quân đội Nam Tư là một đội quân thiện chiến họ đã từng làm kinh hoàng bọn phát xít Đức trong thế chiến thứ hai. Quân đội và các lực lượng vũ trang Nam Tư với truyền thống và kinh nghiệm chiến đấu phong phú của mình họ sẽ khai thác triệt để điều kiện địa hình quen thuộc và với tài biến hóa trong tác chiến nhất định quân và dân Nam Tư không chịu khuất phục bất cứ đội quân xâm lược nào. H.T (Sưu tầm)
|
|
|
Logged
|
|
|
|
saoden
Thành viên

Bài viết: 1054
|
 |
« Trả lời #17 vào lúc: 21 Tháng Tư, 2022, 08:24:37 am » |
|
DIỄN BIẾN CUỘC KHÔNG KÍCH CỦA MỸ - NATO CHỐNG NAM TƯ THANH TRÀ Sau khi Tổng thư ký NATO H.Xô-la-na ra lệnh tiến công quân sự chống Nam Tư, đêm 24-3, máy bay và tàu chiến của Mỹ và các nước NATO khác bắt đầu ném bom và bắn tên lửa xuống 40 mục tiêu ở Nam Tư. Nga tuyên bố ngừng toàn bộ sự hợp tác với NATO. - Ngày 24-3: Nam Tư tuyên bố cắt đứt quan hệ ngoại giao với Mỹ, Anh, Pháp và Đức. - Ngày 26-3: NATO lần đầu tiên ném bom Nam Tư vào ban ngày. Bắt đầu xuất hiện sự rạn nứt trong khối NATO khi Hy Lạp đòi ngừng tiến công quân sự chống Nam Tư. - Ngày 27-3: Máy bay tàng hình F-117A đầu tiên của Mỹ bị bộ đội phòng không không quân của Nam Tư bẳn rơi. Những trận bắn phá ác liệt ngày và đêm vào các mục tiêu ở Cô-xô-vô gây ra làn sóng người tị nạn Cô-xô-vô chạy sang các nước láng giềng. - Ngày 30-3: Nam Tư đưa ra đề nghị giảm bớt lực lượng Xéc-bi-a và Nam Tư ở Cô-xô-vô nếu NATO ngừng tiến công quân sự. Mỹ, Anh và Đức bác bỏ đề nghị này. NATO chuyển sang giai đoạn 2 của chiến dịch tiến công quân sự chống Nam Tư, mở rộng mục tiêu bắn phá không chỉ ở Cô-xô-vô mà cả khu vực ngoại vi thủ đô Bê-ô-grát. - Ngày 1-4: Tàu trinh sát Nga được tàu chiến hộ tống, đến Địa Trung Hải. - Ngày 3-4: NATO leo thang đánh phá Nam Tư, lần đầu tiến đánh trung tâm Bê-ô-grát, tên lửa phá hủy các tòa nhà của Bộ Nội vụ, Bộ Quốc phòng Xéc-bi-a và Nam Tư. - Ngày 5-4, Mỹ đưa 24 máy bay lên thẳng tiến công A-pa-sơ và 2.000 bộ binh đến An-ba-ni, chuẩn bị đổ bộ vào Cô-xô-vô. - Ngày 6-4: Nam Tư đơn phương tuyên bố ngừng tất cả các hoạt động quân sự nhằm vào Quân đội giải phóng Cô-xô-vô (KLA) của người gốc An-ba-ni. Mỹ - NATO tiếp tục leo thang quân sự, huy động thêm máy bay, tàu sân bay và tàu chiến tham gia chiến dịch đánh phá Nam Tư, số máy bay chiến đấu đánh phá Nam Tư tăng từ 450 lên 600. - Ngày 12-4: kế hoạch "đánh nhanh thắng nhanh" của NATO bị phá sản, Bộ trưởng Ngoại giao 19 nước NATO họp khẳng định tiếp tục bắn phá Nam Tư cho đến khi ban lãnh đạo nước này chấp nhận các điều kiện của NATO. Giới lãnh đạo chính trị và quân sự NATO bắt đầu lôi kéo Nga vào tiến trình tìm lối thoát ra khỏi vũng lầy Ban-căng. - Ngày 13-4: Cuộc gặp Bộ trưởng Ngoại giao Nga - Mỹ đầu tiên kể từ khi NATO đánh Nam Tư, nhưng không đạt được thỏa thuận nào về Cô-xô-vô. Mỹ - NATO tiếp tục đưa binh sĩ, điều thêm máy bay chiến đấu đến các nước gần kề Nam Tư. - Ngày 14-4: Liên hợp quốc tham gia quá trình tìm kiếm giải pháp cho Cô-xô-vô, khi Tổng thư ký C.An-nan được mời tham gia cuộc gặp cấp cao không chính thức EU tại Brúc-xen. NATO ném bom vào một đoàn xe chở người tị nạn gốc An-ba-ni ở Cô-xô-vô, giết hại 75 người, hàng chục người khác bị thương. - Ngày 16-4: Mỹ - NATO chuyển sang giai đoạn ba đánh phá Nam Tư, với việc tăng gấp đôi cường độ các trận bắn phá vào các mục tiêu được mở rộng trên toàn bộ lãnh thổ Xéc-bi-a, cả ngày và đêm, đặc biệt là các kho xăng dầu, vũ khí, nhà máy điện và hệ thống phát thanh, truyền hình. Nam Tư thông báo bắn rơi 36 máy bay và 119 tên lửa có cánh của NATO. - Ngày 18-4: Nam Tư cắt đứt quan hệ ngoại giao với An-ba-ni. - Ngày 20-4: Lần đầu tiên NATO tiến hành 500 vụ bắn phá trong vòng 24 giờ vào hàng loạt các mục tiêu kinh tế và dân sự ở Nam Tư. Mâu thuẫn trong nội bộ NATO tăng. Tổng thống Pháp G.Si-rắc phản đối giai đoạn ba đánh phá Nam Tư. Pháp bị loại khỏi các cuộc tham khảo ý kiến bí mật giữa Mỹ và Anh. Mỹ đặt mục tiêu ba tháng đánh bại Nam Tư. NATO đổ bộ các đơn vị đặc nhiệm vào Cô-xô-vô, gây sức ép với ba nước thành viên mới là Séc, Hung-ga-ri và Ba Lan, tranh thủ sự giúp đỡ của các nước láng giềng Nam Tư để chống lại Nam Tư. - Ngày 21-4: NATO ném bom trụ sở Đảng Xã hội Xéc-bi-a, phá hủy tám đài phát thanh và truyền hình tư nhân, 20 công ty trong cùng tòa nhà này. Mỹ cấm vận dầu mỏ chống Nam Tư, nhưng Hy Lạp, Đức, Pháp phản đối. Nội bộ NATO cũng bất đồng về mục tiêu đánh phá, với việc nhiều nước thành viên phản đối đánh vào các mục tiêu dân sự. - Ngày 23-4: NATO đánh phá đài truyền hình quốc gia Xéc-bi-a RTS ở Bê-ô-grát, giết hại 15 phóng viên và nhân viên, làm hàng chục người khác bị thương; đánh bom nhà riêng Tổng thống Mi-lô-xê-vích nhằm "chặt đứt cái đầu của Liên bang Nam Tư". Nam Tư lên án hành động này của NATO là "khủng bố có tổ chức", và "chưa từng có trong lịch sử". - Ngày 30-4: NATO leo thang bắn phá Nam Tư, tiến hành 600 vụ trong 24 giờ. - Ngày 1-5: Sau cuộc đàm phán nhiều giờ với phái viên đặc biệt của Tổng thống Nga về Ban-căng V.Tréc-nô-mư-rơ-đin, Nam Tư tuyên bố chấp nhận một lực lượng quốc tế phi vũ trang ở Cô-xô-vô, dưới sự bảo trợ của Liên hợp quốc. Mỹ và Anh bác bỏ đề nghị này. - Ngày 2-5: Nam Tư thả ba lính Mỹ bị bắt. B.Clin-tơn ký lệnh cấm vận kinh tế - thương mại chống Nam Tư. Lệnh cấm vận dầu mỏ của EU đối với Nam Tư có hiệu lực. NATO sử dụng bom chứa than chì làm tê liệt các nhà máy điện của Nam Tư. - Ngày 7-5: NATO phóng tên lửa vào Sứ quán Trung Quốc làm bốn người chết, hàng chục người khác bị thương, gây phản ứng mạnh từ phía Trung Quốc và thế giới. Trung Quốc ngừng mọi cuộc tiếp xúc, kể cả về quân sự, với Mỹ. - Ngày 10-5: Nam Tư tuyên bố rút một phần lực lượng khỏi Cô-xô-vô. NATO coi đề nghị này chỉ nhằm mục đích tuyên truyền. - Ngày 13-5: Mỹ gọi nhập ngũ thêm ba nghìn quân dự bị đưa sang Ban-căng. EU thông qua các biện pháp cấm vận kinh tế, thương mạỉ, hàng không chống Nam Tư. Nga đe dọa rút khỏi các nỗ lực tìm kiếm giải pháp cho Cô-xô-vô nếu các đề nghị của Nga không được cân nhắc. - Ngày 18-5: Anh thúc giục đưa bộ binh vào Cô-xô-vô nhưng NATO chia rẽ về vấn đề này: Mỹ chần chừ vì sợ thương vong và bị sa lầy; Đức, Pháp và Hy Lạp phản đối. Đàm phán tay ba V.Tréc-nô-mư-rơ-đin, X.Tan-bớt, đặc phái viên của Mỹ và M.Ac-ti-xa-a-ri đặc phái viên EU, nhằm thu hẹp bất đồng giữa các bên về giải pháp cho Cô-xô-vô. Nam Tư tuyên bố "để ngỏ" khả năng đàm phán về giải pháp do G8 nêu ra ngày 7-5. Kế hoạch 7 điểm này bao gồm: + Chấm dứt ngay và có kiểm soát hoạt động quân sự ở Cô-xô-vô. + Rút lực lượng quân sự và bán quân sự Xéc-bi-a khỏi tỉnh này. + Triển khai lực lượng an ninh và dân sự quốc tế sau khi có sự chuẩn y của Liên hợp quốc. + Lập cơ quan hành chính quá độ cho Cô-xô-vô theo nghị quyết của Hội đồng bảo an. + Đàm phán về tự quản cho Cô-xô-vô. + Giải giáp vũ khí KLA. + Triển khai nỗ lực phát triển và ổn định của khu vực khủng hoảng. - Ngày 23-5: NATO tăng cường bắn phá các mục tiêu kinh tế, dân sự ở Nam Tư, nâng số vụ lên 684 vụ trong 24 giờ, duy trì chiến lược "hai gọng kìm": đánh phá và tìm giải pháp ngoại giao, trên cơ sở "5 yêu cầu" của NATO đối với Nam Tư. B.Clin-tơn phê chuẩn 15 tỷ USD chi cho chiến dịch đánh phá Nam Tư. - Ngày 25-5: NATO nhất trí tăng số quân đưa vào Cô-xô-vô từ 28 nghìn lên 48 nghìn. - Ngày 27-5: Tòa hình sự Tòa án quốc tế La Hay truy tố Tổng thống Mi-lô-xê-vích và bốn quan chức Xéc-bi-a khác về tội chống lại loài người. Nam Tư và thế giới kịch liệt phản đối hành động này. - Ngày 28-5: Hãng Ta-ni-úc tuyên bố Nam Tư chấp nhận "những nguyên tắc chung" của nhóm G8 đưa ra làm cơ sở cho việc đem lại hòa bình cho Cô-xô-vô. - Ngày 1-6: Nam Tư gửi thư cho Đức tuyên bố chấp nhận các nguyên tắc của nhóm G8, yêu cầu NATO chấm dứt ném bom. - Ngày 2-6: Tòa án quốc tế La Hay bác bỏ yêu cầu của Nam Tư đòi NATO chấm dứt ném bom. Mỹ tuyên bố đưa 7.000 quân tham gia lực lượng quốc tế ở Cô-xô-vô. - Ngày 3-6: Nam Tư chấp nhộn kế hoạch do V.Tréc-nô-mư-rơ-đin và Mác-ti-xa-a-ri đưa đến Bê-ô-grát nhưng NATO tiếp tục đánh phá Nam Tư. - Ngày 5-6: Đại diện quân sự Nam Tư và NATO gặp nhau thảo luận kế hoạch rút lực lượng Xéc-bi-a khỏi Cô-xô-vô. - Tối 9-6, tại Cu-ma-nô-vô (Ma-xê-đô-nỉ-a), các đại diện của quân đội Nam Tư và NATO đã ký thỏa thuận quân sự kỹ thuật về việc rút quân đội và cảnh sát Nam Tư ra khỏi Cô-xô-vô, theo đó lực lượng vũ trang Nam Tư sẽ rút khỏi Cô-xô-vô trong vòng 11 ngày, trong đó lực lượng phòng không và không quân rút trong 3 ngày đầu tiên để từ khi ký thỏa thuận. Theo thỏa thuận này, các lực lượng an ninh quốc tế (KFOR) dưới sự bảo trợ của Liên hợp quốc sẽ bắt đầu triển khai ở Cô-xô-vô sau khi Hội đồng bảo an Liên hợp quốc thông qua một nghị quyết về giải pháp cho cuộc khủng hoảng, cho phép triển khai và giao các nhiệm vụ cụ thể cho lực lượng này. Lực lượng mặt đất của Nam Tư rút ra khỏi khu đệm cách địa giới Cô-xô-vô 5km, lực lượng không quân rút cách địa giới 25km và không hoạt động trên vùng trời khu đệm này. Vào ngày thứ 11 từ khi thỏa thuận này có hiệu lực, quân đội Nam Tư hoàn thành việc rút quân và không có mặt trên khu vực đệm. Trong ngày đầu tiên thực hiện thỏa thuận, một số đơn vị Nam Tư sẽ được rút khỏi một số khu vực ở Cô-xô-vô... và NATO sẽ bắt đầu ngừng không kích. Vào ngày thứ 3 sau khi thỏa thuận có hiệu lực, toàn bộ các máy bay, ra-đa, tên lửa đất đối không (kể cả tên lửa vác vai), pháo cao xạ rút khỏi khu vực đệm cách địa giới Cô-xô-vô 25km. NATO sẽ chấm dứt ném bom Nam Tư khi quân đội Nam Tư hoàn thành việc rút quân. T.T.
|
|
|
Logged
|
|
|
|
saoden
Thành viên

Bài viết: 1054
|
 |
« Trả lời #18 vào lúc: 21 Tháng Tư, 2022, 08:26:17 am » |
|
Ý CHÍ NGƯỜI DÂN NAM TƯ - Tổng thống Cộng hòa liên bang Nam Tư Mê-lô-xê-vích tuyên bố: Nhân dân Nam Tư kiên quyết chiến đấu đến cùng để bảo vệ Tổ quốc. Ông kịch liệt lên án các cuộc tiến công tội ác của Mỹ và NATO và khẳng định giải pháp chính trị là lối thoát duy nhất khỏi cuộc khủng hoảng hiện nay ở Nam Tư. - Đêm 7 tháng 4 năm 1999, tại cầu Bram-cốp bắc qua sông Xa-va ở thủ đô Bê-ô-grát đã diễn ra buổi hòa nhạc phản đối cuộc tiến công của Mỹ và NATO chống Nam Tư với sự tham gia của thành viên chính phủ Nam Tư và Cộng hòa Xéc-bi-a, sinh viên, trí thức, công nhân... Hàng nghìn người Bê-ô-grát vừa nghe hòa nhạc, vừa làm "bức tường sống" để ngăn cản máy bay Mỹ - NATO ném bom. Trên một chiếc cầu khác bác qua sông Đa-nuýp, hàng nghìn người dân thành phố Ni-vi Xát cùng đứng nắm tay nhau bảo vệ cầu. Cùng ngày, tại thủ đô Bê-ô-grát đã diễn ra trận đấu bóng đá giao hữu giữa câu lạc bộ "Pa-rơ-ti-dan" với câu lạc bộ KAEK của Hy Lạp tới thi đấu nhằm biễu thị tình đoàn kết với Nam Tư chống cuộc tiến công của Mỹ - NATO. Gần 15 nghìn người hâm mộ bóng đá của Nam Tư và Hy Lạp đã tới cổ vũ trận đấu, và cùng nắm tay hô vang khẩu hiệu đòi Mỹ phải chấm dứt không kích Nam Tư. CHÚNG TÔI THÍCH CHẾT HƠN LÀ LÀM NÔ LỆ(Bà Lê-pô-xa-va Mi-lê-xê-vích, Bộ trưởng Y tế trả lời phỏng vấn, đăng trên báo Người Pa-ri số ra mới đây) Hỏi: NATO ném bom đất nước bà đã 55 ngày rồi. Vậy mà vẫn chưa có lối thoát... Trả lời: Chúng tôi mở cửa cho mọi cuộc đối thoại. Nhưng NATO muốn giết chết Mi-lô-xê-vích. Nên nhớ Mi-lô-xê-vích không phải là người đàn ông duy nhất đương đầu với NATO mà là cả đất nước Xéc-bi-a. Nếu Mi-lô-xê-vích chấp nhận dâng Cô-xô-vô cho một cường quốc nào đó, nhân dân Xéc-bi-a sẽ giết chết ông ta ngay. Hỏi: Hậu quả của những trận ném bom như thế nào? Trả lời: Tính đến ngày hôm nay, đã có hơn 1.000 người chết, 6.000 người bị thương, trong đó có 2.000 người bị thương nghiêm trọng. Nếu số người bị thương nghiêm trọng này sống được thì cũng ở trong tình trạng tàn phế. Hỏi: Bà có chịu trách nhiệm về những thảm cảnh đó không? Trả lời: Không. Nhà báo có nghĩ rằng chúng tôi tổ chức chiến dịch tiêm chủng cho trẻ em An-ba-ni ở Cô-xô-vô để rồỉ sau đó giết chúng hoặc xua đuổi chúng ra khỏi đất nước chúng tối? Hỏi: Có rất nhiều nhân chúng đã thấy cảnh tàn bạo do lực lượng Xéc-bi-a gây ra... Trả lời: Không đúng. Đó chỉ là trò gian giảo của thời Bô-xni-a trước đây. Hỏi: Tổng thống G.Si-rắc nói ở Mát-xcơ-va rằng Xéc-bi-a đã sẵn sàng chấp nhận cho quân đội nước ngoài vào Cô-xô-vô. Trả lời: Chúng tôi chấp nhận tất cả những ai vì hòa bình kể cả những người từ sao Hỏa xuống. Nhưng chúng tôi không chấp nhận bất cứ ai có ý đồ giằng xé đất nước chúng tôi. Hỏi: Hiệp thương tốt hơn là chiến tranh chứ? Trả lời: Chúng tôi sẽ không bao giờ ký vào bản hiệp ước chấp nhận việc đất nước chúng tối bị chiếm đóng. Điều đó là không thể. Nếu thấy không hài lòng về cách cư xử của chúng tôi thì NATO cứ việc tiếp tục ném bom. Chúng tôi biết, mục tiêu của NATO là hủy diệt đất nước chúng tôi. Ngay đến những người không thích Mi-lô-xê-vích ở Xéc-bi-a cũng căm thù NATO. Hỏi: Xéc-bi-a sẽ không chịu khuất phục ư? Trả lời: Chúng tôi sẽ không ngừng chiến bởi vì chúng tôi không phải là người bắt đầu. Chính NATO sẽ phải ngừng chiến trước. Hỏi: Thái độ khảng khái của bà có thể chịu được bom đạn không? Trả lời: Đảng tôi, cánh tả mới đã tham gia chính phủ là vì hòa bình. Chúng tôi là những người dân chủ. Các ông muốn biến chúng tôi thành những người nô lệ. Tôi xin nói thẳng ra rằng chúng tôi thích chết hơn phải làm kiếp nô lệ cho các ông. Hỏi: Đó là quan điểm của bà, còn quan điểm của dân chúng Xéc-bi-a thì sao? Trả lời: Tôi có dịp tiếp xúc nhiều với người dân thủ đô Bê-ô-grát, tôi biết, chính phủ chúng tôi sẽ chẳng làm được gì nếu không có sự đồng tình của họ. Hỏi: Có thật chính phủ bà không làm được gì để ngăn chặn cuộc chiến tranh? Trả lời: Ông nói không đúng. Chúng tôi đã làm khá nhiều. Chúng tôi đã nêu sáng kiến đưa người tị nạn trở về. Chúng tôi đã rút một phần lớn số quân đóng ở Cô-xô-vô... Hỏi: Đảng của bà, cánh tả mới luôn luôn đứng sau Mi-lô-xê-vích? Trả lời: Vâng, bây giờ thì đúng. Hỏi: Bà có đoàn kết với chính phủ của bà không? Trả lời: Có chứ, tôi là một phần, của chính phủ mà. Hỏi: Nếu các nhà lãnh đạo phương Tây đến Bê-ô-grát, bà có tiếp họ không? Trả lời: Có chứ. Cái khó nhất đối với chúng tôi là không căm ghét các nhà làm chính trị phương Tây. Tôi sẽ cố gắng để làm được điều đó.
|
|
|
Logged
|
|
|
|
saoden
Thành viên

Bài viết: 1054
|
 |
« Trả lời #19 vào lúc: 27 Tháng Tư, 2022, 06:54:37 am » |
|
NAM TƯ KIÊN CƯỜNG CHỐNG TRẢ CUỘC KHÔNG KÍCH CỦA MỸ - NATO TRẦN NHUNG Các dân tộc Nam Tư có lịch sử oai hùng chống xâm lược, xây dựng và bảo vệ đất nước. Thế kỷ 20 đã hai lần chứng kiến cuộc chiến đấu chống xâm lược của các dân tộc Nam Tư. Là một trong số ít nước ở châu Âu, Nam Tư đã kiên cường đứng dậy chống chủ nghĩa phát xít hàng chục năm trời. Liên đoàn những người cộng sản Nam Tư do lãnh tụ Ti-tô lãnh đạo đã kết hợp đấu tranh chính trị và đấu tranh vũ trang chống ách đô hộ của phát xít Đức. Không phải đâu khác, chính Nam Tư là một trong những nước đầu tiên ở Ban-căng có những đội vũ trang du kích, bền bỉ chiến đấu trong những điều kiện cực kỳ ác liệt. Tướng phát xít Đức Giơ-ring đã có lần nói rằng: "Các đội vũ trang nhỏ bé của Nam Tư xuất quỷ nhập thần, là mối đe dọa cho các đơn vị đồn trú của quân Đức. Chúng ta đã tơi vào ổ kiến Nam Tư. Nếu chúng - các đơn vị du kích, xuất đầu lộ diện thì quân Đức sẽ tiêu diệt ngay nhưng chúng lại né tránh, lợi dụng đêm tối và rừng núi để bất thần tấn công, khiến quân ta bị tiêu hao từng ngày". Nhờ cuộc chiến đấu du kích, nhân dân Nam Tư đã giải phóng đất nước, giành được độc lập, thành lập Liên bang Nam Tư mùa Xuân 1945. Nhưng lần này, khi loài người sắp bước vào thiên niên kỷ mới thì Nam Tư lại chịu cuộc tấn công xâm lược quy mô lớn và tàn bạo của Mỹ - NATO. Cuộc tấn công này chẳng khác gì đem đá đập trứng, bởi Mỹ - NATO áp đảo Nam Tư về mọi mặt. Binh khí kỹ thuật, công nghệ chiến tranh, tiềm lực kinh tế,... các loại vũ khí của Nam Tư, loại mới nhất cũng lạc hậu đến hai thập kỷ. Mặt khác, đây là cuộc chiến tranh điện tử và bấm nút, Mỹ - NATO chỉ dùng máy bay và tàu chiến bắn tên lửa, cho nên đặt Nam Tư ở thế bị động đối phó, bất lợi về mọi phương diện. Nhưng Nam Tư đã nêu tấm gương chống xâm lược, kiên cường đứng vững trong bom đạn. Kết cục cuộc chiến Mỹ - NATO chống Nam Tư cho thấy Nam Tư đã giành thắng lợi chính trị, được loài người tiến bộ tin tưởng, cổ vũ và đồng tình ủng hộ. Báo chí phương Tây đã coi Nam Tư, coi Cô-xô-vô là cái nôi của nền văn minh dân tộc Xéc-bi-a. Dân tộc Xéc-bi-a định cư trên vùng đất hiện nay của nước Cộng hòa Xéc-bi-a tồn tại nhiều thế kỷ, bắt đầu tập trung đông đảo từ đầu thế kỷ thứ 9. Trải qua các thăng trầm của lịch sử, người Xéc-bi-a lúc thì quần tụ trên mảnh đất quê hương, lúc bị phiêu bạt đi các nước xung quanh bán đảo Ban-căng, vùng Trung và Đông Âu nhưng bao giờ cũng có ý thức cộng đồng và tinh thần yêu nước. Liên bang Nam Tư là một cấu trúc nhà nước đặc biệt. Từ một nước liên bang gồm 6 nước khi thành lập năm 1945, đến các cuộc biến động năm 1990 và 1991, 4 nước tách, ra thành các nhà nước độc lập, Liên bang Nam Tư mới chỉ còn 2 nước thành viên là Xéc-bi-a và Môn-tê-nê-grô nhưng là một nhà nước độc lập có chủ quyền, là nước thừa kế của Liên bang Nam Tư cũ. Cuộc chiến Mỹ - NATO chống Nam Tư đã đặt đất nước này trước thách thức nghiêm trọng nhất trong thế kỷ này. Nhưng Nam Tư đã không khuất phục trước xâm lược. Mục tiêu mà Mỹ - NATO đặt ra là chỉ sau 3 ngày, lâu nhất là 1 tuần không kích là buộc Nam Tư đầu hàng, nhưng phải tới gần 80 ngày không kích dữ dội nhất, cuối cùng Mỹ - NATO đành chấp nhận kết cục "không thắng không thua". Cuộc chiến Mỹ - NATO chống Nam Tư gây hậu quả cực kỳ nặng nề cho Nam Tư. Tính trong thời gian cao điểm nhất của chiến tranh là 72 ngày không kích, từ trận mở màn 25-3 (giờ Việt Nam) đến trận bão lửa đêm 3-6 (già Việt Nam) trước khi hai bên đi vào tìm giải pháp thương lượng qua trung gian hòa giải cửa Nga và Cộng hòa Phần Lan, Mỹ - NATO đã thực hiện 31.529 phi vụ, giội xuống đất nước Nam Tư nhỏ bé hơn 2 triệu tấn bom đạn, ném tổng cộng hơn 20.000 quả bom chùm. Thiệt hại về kinh tế của Nam Tư là vô cùng lớn. Tổng số thiệt hại lên tới 200 tỷ đô la Mỹ gồm hạ tầng cơ sở, nhà cửa, cơ quan, bệnh viện, trường học... Hàng triệu sợi than từ bao phủ lên các trạm biến thế và một số nhà máy làm Nam Tư bị mất điện hoàn toàn. Các loại bom chùm, đạn chứa chất u-ran, tên lửa hành trình... đã gây tác hại ghê gớm cho người, sinh vật và môi trường sống. Trong hơn 2 tháng không kích, Mỹ - NATO đã giết hại hơn 1.500 thường dân Nam Tư, 6.000 người bị thương, hơn 1 triệu người phải rời bỏ nhà cửa đi lánh nạn nơi khác. Mỹ - NATO san bằng 60 nhà máy lớn, toàn bộ ngành công nghiệp hóa dầu, đánh sập 50 cầu lớn trong đó có 34 cầu đường bộ, 11 cầu đường sẳt, hầu hết các đường cao tốc và giao thông huyết mạch, hầu hết cơ sở ngành du lịch, dịch vụ... Mặc dù phải lao vào cuộc chiến không cân sức nhưng nhân dân Nam Tư đã kiên cường chống trả những cuộc không kích của máy bay và tên lửa của Mỹ - NATO, gây cho chúng nhiều thiệt hại nặng nề. Tổng số máy bay các loại của Mỹ - NATO do Nam Tư bắn hạ là 72 chiếc, trong đó có 3 chiếc máy bay tàng hình tối tân F-117A và hơn 100 tên lửa hành trình. Nam Tư hạn chế được thiệt hại do biết lượng sức mình nên có cách phòng chống thích hợp. Các máy bay được đưa đi cất giấu, tổng cộng chỉ tham gia không chiến 8 lần. Các đơn vị quân sự thường xuyên di chuyển. Trong khi chống không kích, các trạm ra-đa chỉ hoạt động chốc lát hoặc ngừng hoạt động để tránh bị theo dõi và tiêu diệt. Nhờ ngụy trang tốt nên nhiều trận địa xe tăng, quân sự, pháo, tên lửa đã tránh bị oanh kích. Cuộc chiến Mỹ - NATO chống Nam Tư vừa qua là vết ô nhục trong thế giới hiện đại. Loài người đứng trước thách thức nghiêm trọng do việc Mỹ dùng bạo lực chống lại hòa bình, chống lại ý đồ độc lập tự chủ của các dân tộc muốn đi theo con đường do mình lựa chọn. T.N
|
|
|
Logged
|
|
|
|
|