MỘT VINH QUANG VÔ ÍCH
Tiểu thuyết
Tác giả: Sergey Voronin (Nga)
NHÀ XUẤT BẢN VĂN HỌC, HÀ NỘI - 1998
Số hóa: hoi_ls 1.
Ai biết trước được tình yêu sẽ mang lại những gì? Trước đây, ai có thể ngờ anh chàng Ma-la-khốp lại vì tình yêu mà phải nếm bao nhiêu nỗi đắng cay? Nhưng chính mãi sau cái ngày anh gặp E-ka-tê-ri-na Rô-ma-nốp-na Lu-kô-ni-na lần đầu tiên, E-ka-tê-ri-na, mà bạn bè vẫn thường gọi tắt là Ka-ti-u-cha, thì nỗi đắng cay kia mới bất chợt hiện đến.
Hồi đó đang chiến tranh. Nói cho đúng thì chiến tranh chỉ tác hại rất ít đến làng Xê-li-a-nít-xi. Làng này chạy dọc con sông Vôn-ga ba cây số. Máy bay địch không bén mảng tới vùng này, tiếng đại bác cũng không vang tới. Nhưng ảnh hưởng của chiến tranh cũng không phải là không rõ rệt. Nam giới không mấy ai còn ở lại nông trường, càng ngày càng nghe thấy thêm tiếng nức nở của chị em phụ nữ. Và việc cày bừa mỗi ngày mỗi thêm khó khăn, vì trạm máy kéo không hoạt động nữa. Những mảnh đất trồng trọt này, như thông cảm với nỗi đau đang tràn ngập trên đất nước, đã mang lại một mùa thu hoạch chưa từng thấy. Chỉ một khóm khoai cũng có cả thúng củ; còn cỏ thì tốt um, đến nỗi liềm đưa vào không ăn thua gì cả.
Cần cỏ ngựa nên Ma-la-khốp đến nông trường này. Trung đoàn mà anh về đóng sau khi bình phục ở quân y viện ra, nằm mãi tít cuối làng Xê-li-a-nít-xi, về phía đồng cỏ thấp. Mới về, anh thấy dễ chịu được thênh thang đi lại, được tự do thoải mái. Tuy nhiên sau những ngày sống giữa tiếng đại bác réo lên và tiếng xe tăng chạy ầm ầm, anh thấy cái cảnh những làng mạc ở xa chiến trường nó phẳng lặng quá, những con người lại ưa nói tới cái lo lắng riêng mình hơn là nhắc tới chiến tranh. Cho nên anh rất bực mình khi tới làng Xê-li-a-nít-xi. Cái gì cũng làm anh cáu kỉnh: mấy con gà bình thản rẫy đất bụi mù, một bọn trẻ đang lê một giỏ tép, hai phụ nữ đang cười đùa bên giếng.
Anh dừng ngựa. Với cái giọng nhát gừng, anh vẫn thường dùng để nói với anh em binh lính những lúc bắt gặp họ phạm lỗi, anh hỏi thăm vào nhà ông chủ tịch nông trường.
Mấy chị phụ nữ đưa mắt nhìn nhau mỉm cười - thật là những cái cười không phải lúc khiến cho Ma-la-khốp càng phật ý - và đáp là ông chủ tịch hiện đi vắng, sang bên kia vùng Vôn-ga, nhưng nếu anh cần gì đến Ka-ti-u-cha Lu-kô-ni-na, chắc chắn là chị có mặt ở trại. Do đó Ma-la-khốp đoán chắc là dưới ông chủ tịch, chị Ka-ti-u-cha này hẳn là nhân vật quan trọng của nông trường.
Phía phải làng, dòng sông Vôn-ga lặng lẽ trôi, dưới ánh mặt trời, khác hẳn với khúc chảy qua vùng Sta-lin-gơ-rát. Đằng kia, phi cơ luôn luôn oanh tạc, tàu chỉ qua lại ban đêm, đèn đóm nghim nghỉm, và mùi gì như mùi cháy khét tràn ngập trên dòng sông . Nước sông Vôn-ga sặc mùi khói lửa và bom đạn. Còn ở đây, một chiếc sà lan lướt đi uể oải, một con gà gô co chân đứng yên trên bãi cát. Và cách đó không xa, một đàn ngỗng bứt cỏ trên bờ.
Một dãy nhà nối đuôi dọc đường cái, những căn nhà mái lợp tồi tàn, những nhà một tầng gác, cái thò ra, cái thụt vào, đây xây bằng đá, kia lợp gỗ. Bên ngoài cửa trạm trổ ngộ nghĩnh, quả thực mắt Ma-la-khốp chưa hề nhìn thấy bao giờ.
Xưa kia nơi này là một thị trấn thương mại lớn, nổi danh vì có nghề làm bột, có những cối xay gió, và ngôi chợ và nhất là vì có ngày hội “Ngày Đức Chúa”. Trong hồi nội chiến, thị trấn này đã bị bọn xanh đốt phá hai lần. Các nhà máy bị cháy, cánh quạt cối xay vãy vãy một cách vô hiệu nhưng cũng bị ngọn lửa thiêu trụi, họa hoằn mới có nhà thoát khỏi. Sau đó đời sống Xê-li-a-nít-xi trở nên yên tĩnh hơn. Tuy nhiên cứ mỗi năm mỗi lần, nhân có ngày hội “Ngày Đức Chúa”, những cuộc chè chén náo nhiệt lại được sống lại.
Ngày mở hội, trên khắp ngả phố tràn ngập không khí thuận hòa. Những người dù là có thù “bất cộng đái thiên” với nhau trước đây đi nữa, lúc này cũng quên hết cãi cọ, cùng nhau nghe giảng kinh, làm dấu một cách thành kính và tát những cái nên thân vào mặt bọn trẻ hỗn xược nào dám đến cãi cọ trước nhà thờ.
Ngày thứ hai, bắt đầu là bọn lau nhau đấm đá. Bọn anh của chúng xen dần vào cuộc. Rồi đến các bậc bố, bậc ông hầm hè rấp nước bọt tay nhổ cả cọc hàng rào xông ra. Thế là đến cuộc hỗn chiến thật sự, bằng dao găm, búa và gậy gộc. Anh cảnh vệ độc nhất của địa phương không lạ gì phong tục đó, nên vừa bảnh mắt, anh ta liền đi lánh mặt vào một nơi kín đáo, nán công chờ cho đến đêm, khi tiếng kêu và tiếng rên đã bặt, anh mới thò ra.
Ngày thứ ba, bao nhiêu sự tranh chấp ấy lại quên đi, cả làng Xê-li-a-nít-xi lại cùng nhau kéo ra đồng, ở đấy dân làng Bô-rô-vít-xi lân cận đã đứng sẵn. Cuộc hỗn chiến mới này lại diễn ra dưới một quy mô khác. Vấn đề trọng đại ở đây là phải làm sao đừng để chân mình bị mất thế đứng, đừng lẩn trốn. Vì rằng bọn đào ngũ đó người ta xử ngay không thương tiếc.
Từ đó cho đến hết năm làng Xê-li-a-nít-xi lại trở nên yên tĩnh và tươi vui. Những ai bị thương thì đi chạy chữa. Bọn người bị hy sinh thì cả mẹ, vợ góa hoặc vị hôn thê cứ việc mà ròng rã sướt mướt. Nhưng làng đây là một làng quá lớn nên những sự thiệt hại như vậy cũng chẳng thấm vào đâu. Và cứ như thế, cuộc đời trôi đi lặng lẽ như thường lệ.
Từ đó, đã có bao nhiêu sự đổi thay. Công tác quân sự đã rèn giũa và văn minh hóa bọn thanh niên. Họ không còn tin ở chúa nữa, và do đó ngày “Ngày Đức Chúa” họ vẫn làm việc như thường. Từ ngày có phong trào hợp tác hóa, ngày hội với những sự chém giết nhau đó đã bị xếp xó thành câu chuyện cổ. Bây giờ những “kẻ thù” đã cùng làm với nhau một kíp, và các nông trường đang sôi nổi thi đua. Chả lẽ lúc này còn bày chuyện chém giết nhau. Thật ra lúc đầu, cái lề lối thi đua đó cũng còn những cái tức cười, anh chị em đã dè bỉu phũ phàng những người quá kém. Nhưng những cái đó rồi cũng qua đi. Rồi người ta trở thành bạn bè thân thiết; nhiều cuộc cưới xin được tổ chức giữa làng này với làng nọ. Vì vậy, Ka-ti-u-cha Lu-cô-ni-na người làng Xê-li-a-nít-xi đã kết hôn với anh Ti-khôn Át-đê-i-ép bên làng Bô-rô-vít-xi, cuộc sống rõ ràng đã thay đổi hẳn.
Ra tới chỗ gần trại thì Ma-la-khốp tìm được ra Lu-kô-ni-na. Chị đang mải miết lấy ngón tay đếm. Hai mớ tóc tết đuôi sam nuột nà xõa xuống ngực. Lúc này Ma-la-khốp tưởng chừng như đi giao thiệp với một cô thiếu nữ.
- Tôi được lệnh đến nông trường này lĩnh cỏ ngựa. Chị giải quyết cho. - Ma-la-khốp vẫn ngồi trên yên trên mình ngựa, tay chìa lá phiếu.
Ka-ti-u-cha đỡ lấy mảnh giấy, đọc, môi mấp máy. Ma-la-khốp ngắm nhìn chị. Đúng thế, đâu có phải là một cô thiếu nữ, quả là một phụ nữ có chồng. Nhưng của đáng tội, chị ta đẹp thật!
- Đúng là anh làm cho tôi lúng túng. Chính chúng tôi cũng đang thiếu rơm đây.
Đột nhiên, đôi mắt xanh của chị long lanh nhìn Ma-la-khốp. Một cái nhìn tuy ngạc nhiên nhưng vẫn bình tĩnh.
Anh chưa hề bao giờ được nhìn đôi mắt giống như đôi mắt ấy. Cả cái mầu biêng biếc của nước sông Vôn-ga đều tập trung vào đó cả.
- Thôi được - Ka-ti-u-cha suy nghĩ một lát rồi nói tiếp:
- Ngày mai trung đoàn sẽ có rơm.
Thế là chị bỏ đi. Ma-la-khốp nhìn theo, mỉm cười rồi phóng thẳng một mạch.
Đó là cuộc gặp gỡ đầu tiên chớp nhoáng giữa anh và Ka-ti-u-cha. Nhưng có cái lạ là hình ảnh ấy ăn sâu vào trí não anh, đến khi anh lại bị một vết thương nặng, vừa được đưa vào bệnh viện N. thì hình ảnh ấy bỗng nhiên hiện ra trước mắt. Có lẽ là vì từ N. đến Xê-li-a-nít chưa đầy hai mươi cây số. Từ đây đến đó có xa gì cho cam. Vậy thì tại sao anh lại không thể nhìn mặt chị được nhỉ?
Khi Ka-ti-u-cha nhận được lá thư của anh thì trời đã muộn. Chị nhún vai phân vân, chả hiểu anh chàng nào lại viết cho chị như vậy. Khi đọc phải để tâm một lúc lâu, chị mới nhớ ra là có anh chàng sĩ quan năm ngoái đã đến lấy rơm ở đây. Khi nhớ ra chị suýt phát khóc cho rằng anh sĩ quan trẻ này chắc là cô đơn và khổ não lắm mới phải viết cho chị là người thật ra anh ta có quen thuộc gì cho cam. Trên mảnh thư nhỏ ấy anh ta tỏ ý hỏi thăm tin tức của nông trường và cũng mong được trả lời. Đối với lá thư này, Ka-ti-u-cha chả cần gì phải giấu giếm. Chị đã nói ngay với cô bạn là Đu-ni-a, bí thư chi bộ. Chị cười, và nhún vai, nghĩ bụng cũng không hiểu tại sao anh sĩ quan bị thương này lại có ý nghĩ viết cho chị như vây. Thế là chị đi, mang theo một số quà bánh. Quà của nông trường.
Tại phòng quân y viện chị hơi bỡ ngỡ cố tìm trong số người bị thương nằm điều trị, vẫn không tìm ra cái người mà trước đây chị chỉ được gặp giây phút. Trong không khí sặc mùi hôi hám, cái thứ không khí thường có ở những khu mổ xẻ - anh này thì rên rỉ, anh kia thì lặng lẽ ngồi trên giường. Trong một góc tít đằng xa, một người mặt quấn băng kín mít chỉ hở có đôi mắt đen nháy và dữ tợn đang nhìn chị. Ka-ti-u-cha đâm lo, chỉ sợ người ấy lại đúng là anh sĩ quan mà chị đến tìm. Lòng chị xe lại vì thương hại. Nhưng vừa lúc đó có tiếng ho đằng sau, chị quay người lại và nhận ra Ma-la-khốp. Chị bật lên một tiếng cười sẽ đầy sung sướng khi nhìn thấy mặt anh chàng nguyên vẹn.
Ma-la-khốp đang nằm. Nét mặt nhuộm mầu xanh nhợt, dấu hiệu của những người đau phổi. Bác sỹ giải phẫu đã gắp ở ngực anh ra ba mảnh đạn.
Khi thấy Ka-ti-u-cha bước vào, anh chàng không tin ngay cả mắt mình. Đột nhiên bị cảm xúc, anh bật lên ho, một ít bọt hồng trào ra mép. Con mắt Ka-ti-u-cha nhìn nghiêm trang và rầu rầu. Ma-la-khốp ngượng ngập cười, cất giọng khàn khàn nói:
- Làm phiền chị thế này, chị có giận tôi không nhỉ?
- Đâu thế! - Ka-ti-u-cha đáp, lòng càng thương xót anh, chị mới lấy bánh kẹo vùng quê trong bọc ra, giọng ngọt ngào, tiếp: - Đây là của anh chị em trong nông trường biếu để anh ăn chóng khỏi - Trong đó có một vò bơ, trứng, sữa, mật ong, giò chả. Ăn hết cả đi là anh sẽ lành ngay.
- Nói thế! - Ma-la-khốp vừa trả lời, vừa cười - ít ra là phải một tuần một người mới ăn hết!
Một anh bị cụt tay nằm sát giường vội xen vào:
- Cứ yên tâm, anh em đây sẽ giúp cậu một tay!
Ka-ti-u-cha nghiêm nghị lườm anh ta một cái:
- Các anh đừng có mó vào mật và trứng đấy!
Nhưng chị lại hối ngay là ở đây ai chả như nhau, mình thật là sai.
- Nếu anh ấy có về nhà thì chị nói giúp hộ, sở dĩ tôi viết cho chị là vì ở nông trường ngoài chị ra tôi chẳng còn quen ai.
Một cơn ho lại nổi lên làm rung chuyển cả người anh.
- Tôi không có chồng.
Ka-ti-u-cha trả lời một cách rất đơn giản thế thôi. Ma-la-khốp không hỏi lại tại sao, nhưng câu nói đó làm anh khoan khoái.
Ka-ti-u-cha còn ngồi lại một lát nữa. Chị hẹn chủ nhật sau sẽ trở lại rồi ra về.
- Một “món” tuyệt! - Lời anh đại úy cụt nằm bên thốt ra - Có những kẻ sao mà tốt số gớm! Cậu mò ở đâu ra thế?
Ma-la-khốp không thèm nghe anh chàng này nói. Anh cũng chả nhìn thấy cả những món giò chả đặt trên bàn hết tự lúc nào nữa: cứ chén hết đi, mình chả cần!
Khi Ka-ti-u-cha đến thăm lần thứ hai, bệnh tình của Ma-la-khốp đã thuyên giảm nhiều. Anh ngồi dậy chuyện trò. Ka-ti-u-cha cho là có được như vậy là nhờ cái món một rất bổ đó và chị lại mang thêm tới một vò nữa.
- Cứ cố mà ăn đi, anh cần phải ăn nhiều, có ăn mới khỏi.
Chị vừa nói vừa mở chiếc ngăn kéo bàn ở đầu giường. Nhìn thấy những quà biếu hôm nọ đã biến vô tăm tích, chị mới hiểu rõ nguyên nhân tại sao, nghĩa là bọn bạn bè đã giúp anh ta một tay rồi. Chị không phản đối gì, nhưng chị bắt anh phải ăn ngay vò mật tức khắc.
Ma-la-khốp phân trần là mật cho lần trước anh ăn còn ứ đến tận cổ, nhưng chị khăng khăng không nghe.
- Mật này là của chị đấy à?
- Không, của nông trường.
- Tất nhiên là của nông trường, tôi cũng đoán vây.
Ánh nắng lùa vào gian phòng bệnh viện. Nhìn qua cửa kính, thấy từng giọt rơi như những vệt sáng. Ngày ngày, trời càng xanh biếc. Cho đến mùa xuân thì anh em thương binh đã lại sức.
Ma-la-khốp ngắm nhìn người phụ nữ ấy bằng con mắt say sưa. Hai bím tóc dài như của các cô thiếu nữ làm anh ưa thích. Chị không cài khuy chiếc áo khoác bệnh viện vì sợ nó chét lấy bộ ngực. Con người Ka-ti-u-cha có cái gì đầm ấm và thân tình, khiến anh không cần phải cố tìm chuyện ra mà nói. Chuyện này bắt sang chuyện khác, như thể Ma-la-khốp đang nói chuyện với một người thân cận.
Lần này, khi chia tay, Ka-ti-u-cha nói cho anh biết là chù nhật sau công việc bận chắc chị không thể đến thâm anh được.
- Chị đừng ngại, khỏi bệnh tôi sẽ đến thăm chị ngay.
Ma-la-khốp nói một cách quả quyết, con mắt long lanh, còn chị thì chị vẫn nhìn thẳng vào anh mà nói là thấy anh bình phục thì chị rất sung sướng. Nói xong chị ra về.
Đúng một tháng sau anh đến, chỉ đeo vẻn vẹn một chiếc bị trong đó có mấy chiếc quần áo sạch để thay, lương thực được cấp phát và một súc vải. Súc vải đó anh mua ngoài chợ do tiền dành dụm trong suốt thời gian nằm bệnh viện.
Ngôi nhà của Lu-kô-ni-na chả lấy gì làm to, có mấy cánh cửa trạm trổ, một chiếc hiên và một hàng rào. Trước bực thềm một chiếc thớt cối cũ rích dùng để làm cái chùi chân. Ma-la-khốp chùi giầy lên rồi đập cửa. Tiếng của Ka-ti-u-cha ở trong vọng ra:
- Cứ vào!
Anh bước vào, hớn hở, sung sướng được nhìn thấy chị.
- Tôi đây chị ạ! Tôi sẽ ở lại một tháng.
Vẻ bình dị đó làm Ka-ti-u-cha ngạc nhiên quá không nói được ra lời. Còn Ma-la-khốp thì lôi súc vải trong bọc ra và chìa vào tận tay chị.
- Thế này là thế nào? - Chị từ chối, hỏi lại.
- Đền ơn chị đây!
Miệng nói, tay anh quàng súc vải lên vai chị. Ka-ti-u-cha vừa hét vừa xua tay chạy:
- Kìa cửa mở toang ra thế này! Người ngoài nhìn vào còn ra thế nào chứ?
- Có chi mà ngại. Chị cầm lấy.
- Sao anh không nghĩ kỹ nhỉ, nhất là anh đang cần tiền bồi dưỡng để lấy lại sức cơ mà?
Chị vẫn khăng khăng. Nhưng đôi mắt anh long lanh sung sướng quá - khiến chị thấy không sao mà nỡ làm mích lòng được. Sau cùng chị đành chịu, khẽ mỉm cười, tiếp:
- Thôi được, xin cảm ơn anh... Anh đã cố ý thế thì... Tôi cũng không biết nói thế nào để cám ơn anh.
- Có gì đâu.
- Chắc anh đói rồi thì phải?
- Không đâu. Trong bị, tôi mang theo bao nhiêu là thức ăn. - Ma-la-khốp giơ chiếc bị trước mặt Ka-ti-u-cha. Nhìn thấy vẻ mặt chị bối rối, anh tiếp: - Chị cầm lấy, cầm lấy đi. Chả lẽ tôi để ăn riêng!
Đến lúc này thì chị mới thật rõ là anh sĩ quan này đến đây mục đích là ở ngay nhà chị chứ không đi đâu hết. Chị đâm khó xử: Mình đâu lại mong làm mích lòng anh ta, nhưng không phải là chuyện giữ anh ta ở lại đây được.
Ma-la-khốp nói tiếp:
- Có thịt ướp, cá thu khô, pho mát...
Ka-ti-u-cha luống cuống trả lời:
- Thật tôi chẳng biết thế nào mà nói nữa. - Chị vội đi ra ngoài phòng để bình tĩnh lại và suy nghĩ.
Qua khung cửa sổ, một mảnh trời xanh tươi sáng. Một đám mây trắng in lên, tĩnh lại. Trong lối vào nhà mờ mờ tối, một chú muỗi do tiết trời ấm áp của buổi chiều được thức tỉnh, vo ve trong xó.
Ka-ti-u-cha đưa tay bóp đôi má nóng bỏng. Có một điều chị không hiểu rõ: tại sao anh sĩ quan này lại đến nhà chị? anh ta có ý định gì?
On-ga vừa ở đâu chạy về, không nhìn thấy mẹ, bước thẳng vào trong nhà. Ka-ti-u-cha nghĩ bụng: “Không, phải để anh ta nghỉ chỗ khác. Anh ta sẽ được thoải mái hơn, mà bản thân mình cũng vậy.” Nhưng khi quay trở vào, chị đã nhìn thấy trên bàn la liệt cả cái phần lương thực của anh trung úy đó. On-ga thì cầm trong tay một miếng pho mát kếch xù. Còn Ma-la-khốp thì đã ngồi ăn ở bàn, mặt rất thản nhiên.
- Con đã cảm ơn chưa đấy?
Chị nghiêm nghị hỏi con gái, On-ga vừa đáp vừa không ngừng gặm miếng pho mát rất ngon lành:
- Thưa có. Lại còn cả kẹo nữa.
Vừa nói, On-ga vừa chìa tay kia đầy một nắm kẹo dính.
Ka-ti-u-cha chẳng nói chẳng rằng gì nữa, đi mặc áo.
- Một giờ nữa tôi sẽ trở về.
- Được. On-ga và tôi, hai chú cháu sẽ chuyện trò với nhau một chút.
... Còn bé, Ka-ti-u-cha đã mồ côi mẹ. Hồi đầu, bố là người lao động rất hăng và lại nuông con. Nhưng chẳng bao lâu, ông cụ đâm rượu vào. Lúc Ka-ti-u-cha mười tám tuổi, một hôm sau một bữa rượu túy lúy, ông cụ cao hứng thế nào nhận gả phắt ngay chị cho Ti-khôn Át-đê-i-ép, một anh chàng mặt quằu quặu ở làng bên.
Thoạt mới lấy nhau, Ti-khôn nói ý cho chị biết, hắn mà lấy chị là may cho chị lắm đấy. Hắn đày đọa, có khi lại còn thượng cẳng chân hạ cẳng tay với chị nữa. Rút cục Ka-ti-u-cha phải trốn về làng. Giữa một đêm. Ti-khôn say mềm xông vào nhà bức chị phải quay về với hắn. Nhưng ông bố Ka-ti-u-cha đã cho hắn mấy quả đấm và chị ở lại. Sau đó ít lâu ông cụ mất. Đến lúc này Ka-ti-u-cha đã có On-ga rồi, Ti-khôn lại mò tới, tất nhiên với hy vọng rằng lần này Ka-ti-u-cha thể nào cũng phải theo hắn về. Nhưng chị đã thẳng tay mời hắn ra cửa... Mới hai mươi tuổi thôi, nhưng bài học đã làm cho chị mở mắt cho gì đi nữa chị cũng chả thèm đổi cái tự do một mình của chị lấy thứ hạnh phúc kiểu đó.
Ở Xê-li-a-nít-xi người ta bắt đầu chế giễu chị. Đời thuở nhà ai, một phụ nữ lại đi bỏ chồng, mà lại có mụn con với nhau rồi cơ chứ! Nhưng rổi thời gian trôi qua, những người ác khẩu cũng phải im đi, còn những người biết điều thì kính nể chị. Chị đứng đắn, chả làm gì phải chê trách đạo đức của chị. Vả lại chị là người vắt sữa xuất sắc nhất của trại. Hình như chị chả còn ước mong gì hơn thế nữa. Chị chả mơ tưởng gì đi bước nữa tuy biết rõ là Ti-khôn ngay hồi trước chiến tranh đã cưới một vợ khác, cô này là cô vợ thứ ba rồi. Nếu chị có xây dựng với ai đi chăng nữa thì cũng chả ai dám nói nửa lời.
Trước khi đến trại, Ka-ti-u-cha rẽ qua vào nhà bà cụ Vít-tơ-rơ-han-kai-a, để hỏi xem bà cụ có đồng ý cho anh sĩ quan mà nông trường hồi trước đã có gửi biếu quà bánh đến Quân y viện ở nhờ được không. Bà cụ sống một mình. Các cô con gái, sau khi đi lấy chồng, đều ở riêng cả. Ông chồng thì đã quá cố từ lâu. To lớn và bẹo nhẹo như một thứ bột dẻo, bà cụ sống mòn vì buồn phiền. Thấy có người đến ở cho thêm vui vẻ cửa nhà, trong bụng bà cụ như mở cờ, nhưng lại không quên hỏi một cách hoài nghi.
- Thế còn chị? Sao chị không để cho anh ta ở?
- Thiên hạ có thể hiểu lầm nhiều thứ...
- Đâu thế! Một việc đẹp đẽ! Chả ai nói gì đâu. Hơ hớ con gái thế này lại đi ở một mình! Hay là anh ta...
- Bác chỉ có nghĩ linh tinh ! - Ka-ti-u-cha tươi cười nói, nhưng vội nhìn đi chỗ khác - Vậy bác có đồng ý không?
- Đồng ý đi chứ ! Đâu phải thiếu chỗ. Lúc nãy già này.... nghĩ đến ai đấy, nỡm ạ!
- Kìa, bác lại buộc cháu phải nói nặng bây giờ!
Bà già lại nháy nháy mắt, hóm hỉnh:
- Quả đúng là già này cũng nỡm thật! Sau này cháu muốn đến thì cứ tự nhiên mà đến đừng ngại, Ka-ti-u-cha ạ. Còn già này thì có thể lánh sang hàng xóm chơi một tiếng! Già này sẽ không có làm phiền gì cô cậu đâu...
Đôi mắt không còn sinh khí ấy sáng lóe lên. Chắc bà cụ nhớ tới thời thanh xuân của mình.
- Tôi thật là dại mà đến đây. Những chuyện ấy tôi không có hề nghĩ tới đâu nhá! Bác nên giữ gìn cái miệng một chút! Bác đã có tuổi rồi đấy!
Ka-ti-u-cha quay ra, nghĩ bụng: “Sao cái anh sĩ quan này lại cần ở đây đến thế chứ lại! Để bây giờ thiên hạ tha hồ đặt chuyện về mình!”
Bà già cắn môi xám xịt:
- Thôi cứ bảo anh ta đến. Với già này thì thế nào cũng được; già này chỉ ái ngại thay cho cháu đấy thôi.
Cả trại đều đã biết là nhà Ka-ti-u-cha có một sĩ quan. Chị vừa bước chân vào trại, bạn bè đã xúm quanh.
- Ừ thì anh ta đến, thế sao nữa? Tôi đã đưa anh ta sang bên cụ Vít-tơ-rô-khan-kai-a ở. Gì nữa nào. - Hai tay chống nạnh, mặt sa sầm xuống, Ka-ti-u-cha phát khùng lên tiếp: các chị muốn cho hắn ta là tình nhân của tôi đấy hẳn?
A-nít-xi-a Xuốc-ba-tô-va, một chị béo mập nói:
- Có lẽ là một ý kiến hay đấy. Chắc chắn giúp cho mày đổi tính đi đấy Ka-ti-u-cha ạ.
Vừa nói xong thì Ka-ti-u-cha phá lên cười:
- Cứ mà rỗi hơi tán róc đi! Các cô ngồi tất cả đó đừng làm gì hết! Đến giờ đánh rơm rồi đó! Chị quản lý mà đến thì liệu hồn!
Như đã hẹn. Ka-ti-u-cha vắng mặt mất một tiếng thì trở về. Ma-la-khốp đang giúp On-ga làm một bài toán.
- Nghe chú nói đây này. Cứ cho là cháu có một tô-nô. Nó chứa được bao nhiêu? Bốn mươi thùng. Mẹ cháu lấy ra năm thùng, chú lấy đi mười thùng, và cháu lấy ra hai. Còn lại bao nhiêu trong tô-nô đó nào? Tính đi, nào tính đi!
On-ga cau cái trán nhỏ xíu, nhìn mẹ. Ma-la-khốp vừa cười, vừa nói:
- Thôi cháu đừng cố đi cậy nhờ người khác giúp.
Ka-ti-u-cha bỏ chiếc áo khoác ngoài và chiếc khăn bịt ra. Cho đến lúc này tất cả hầu như đối với chị là rất giản đơn thôi. Chị sẽ bảo anh là sang nghỉ bên nhà bà cụ, anh sẽ nhặt nhạnh đồ đạc rồi đi sang. Bây giờ, nhìn bộ mặt gày guộc, nghe tiếng nói trầm trầm, chị đâm ái ngại. Nhưng nén sự ái ngại, chờ cho con mình chép lại xong bài toán, chị nói với Ma-la-khốp:
- Tôi không có một ý định gì muốn làm phật ý anh, Vát-xi-li Ni-cô-lai-ê-vít ạ, nhưng hay hơn hết anh nên đến ở nhà bà cụ Vít-tơ-rô-khan-kai-a. Tôi đã thảo luận với cụ ấy rồi. Thật là một bà cụ già tử tế, bất cứ lúc nào bà ta cũng đi pha trà, nấu nướng cho anh được. Còn như tôi thì không bận ở trại, thì lại lên huyện, đi xoay rơm, xoay cỏ. Ngay nhiều khi tôi cũng phải gửi cả On-ga bên hàng xóm. Như vậy anh có ở đây anh cũng chả thành ra là nghỉ ngơi nữa.
Ma-la-khốp sa sầm nét mặt. Rõ ràng là anh ta phiền muộn. Chậm rãi, anh khoác chiếc ca-pốt và đội mũ. Ka-ti-u-cha thu vén những thức ăn vào trong bị. Với một giọng của người có khuyết điểm chị tiếp:
- Bà cụ ta ở cách đây mấy bước, tôi dẫn anh đến.
- Thôi chào tạm biệt On-ga. Ka-ti-u-cha, chúc chị gặp toàn may mắn. Nếu còn sống, sau khi chiến tranh kết thúc, tôi cũng vẫn sẽ trở lại đây. - Anh nói thật buồn. Nhét thuốc lá vào túi, anh đi ra. Ka-ti-u-cha đứng ngây như phỗng, chiếc bị vẫn còn nguyên trên tay. Chị vụt chay theo, nhưng Ma-la-khốp đã đi quá tít cuối phố rồi.
Mây nặng trĩu nước, từng hàng xít lại, ùn ùn trôi tới. Gió xuân phũ phàng đưa đẩy cành lá. Từ ngoài sông Vôn-ga, một hồi còi vĩnh biệt của con tàu vọng lên nhớ nhung.