Lịch sử Quân sự Việt Nam
Tin tức: Lịch sử quân sự Việt Nam
 
*
Chào Khách. Bạn có thể đăng nhập hoặc đăng ký. 28 Tháng Ba, 2024, 08:26:26 pm


Đăng nhập với Tên truy nhập, Mật khẩu và thời gian tự động thoát


Trang: « 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 16 17 »   Xuống
  In  
Tác giả Chủ đề: Anh hùng Lực lượng vũ trang Nhân dân - Tập 3  (Đọc 5489 lần)
0 Thành viên và 2 Khách đang xem chủ đề.
quansuvn
Moderator
*
Bài viết: 6589



WWW
« Trả lời #40 vào lúc: 24 Tháng Tư, 2022, 05:21:55 pm »

ANH HÙNG NGUYỄN ĐÌNH THỬ


Nguyễn Đình Thử, sinh năm 1933, dân tộc Kinh, quê ở xã Nam Thắng, huyện Tiền Hải, tỉnh Thái Bình, trú quán xá Sốp Cộp, huyện Sông Mã, tỉnh Sơn La, nhập ngũ năm 1954. Khi được tuyên dương Anh hùng, đồng chí là trung úy, phụ trách đội công tác cơ sở, thuộc đồn biên phòng Cốp Cộp, Công an nhân dân vũ trang tỉnh Sơn La, đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam.


Nguyễn Đình Thử sinh ra trong một gia đình nông dân nghèo, ruộng đất không có, đời sống rất khổ cực, cha mẹ phải đưa gia đình đi tìm công ăn việc làm ở khắp mọi nơi. Khi tới Nghĩa Lộ, không còn gì ăn, cha mẹ buộc lòng phải bán Nguyễn Đình Thử cho một địa chủ để lấy ít tiền, gạo nuôi các em. Sống ở địa phương có phong trào cách mạng và kháng chiến sôi nổi, có nhiều đơn vị bộ đội và cán bộ qua lại công tác, đồng chí được giác ngộ cách mạng nên trốn khỏi gia đình địa chủ vào bộ đội.


Kể từ khi Nguyễn Đình Thử nhập ngũ (1954) đến khi chuyển sang lực lượng Công an nhân dân vũ trang (1959) và những năm sau, đồng chí chuyên hoạt động ở những đơn vị biên phòng với nhiệm vụ vận động quần chúng, tiễu phỉ, trừ gian, bảo vệ trật tự trị an vùng đồng bào các dân tộc ở rẻo cao biên giới. Công tác trong nhiều hoàn cảnh rất khó khăn, nguy hiểm, Nguyễn Đình Thừ luôn luôn chiến đấu dũng cảm, mưu trí và sáng tạo, hoàn thành xuất sắc mọi nhiệm vụ.


Từ cuối năm 1954, bọn phản động thổ phỉ ra sức phá hoại phong trào cách mạng ở các địa phương miền núi biên giới. Đồng chí cùng đơn vị thường xuyên nhịn đói, ngủ rừng, bám sát địa bàn, tuyên truyền vận động nhân dân gọi con em của mình theo phỉ trở về. Lần tiễu phỉ ở Lào Cai, đơn vị Nguyễn Đình Thử bị phỉ đánh úp, đồng chí chỉ huy một tổ chiến đấu dũng cảm diệt được 2 tên, bắn bị thương một số tên khác, thu vũ khí và tài liệu quan trọng. Sau đợt này, Nguyễn Đình Thử phát động quần chúng thu thêm được 2 thùng đạn, 250 ki-lô-gam gạo và gọi hàng được 1 tên cai phỉ.


Năm 1956, tại các bản đồng bào H’mông ở Mường Lạn, Huội Kha, Nguyễn Đình Thử đang xây dựng tổ đổi công, được nhân dân giúp đỡ đồng chí đã phá được 4 vụ xưng vua và gây lòng tin tưởng đối với đồng bào địa phương.


Đầu năm 1959, tuy mới chuyển về làm công, tác trinh sát thuộc đồn biên phòng Sốp Cộp, Sơn La, Nguyễn Đình Thử nhanh chóng tham gia lập hồ sơ xã, bắt tập trung, cải tạo 3 tên gián điệp, truy tìm và bắt được một số tên khác định chạy trốn sang Lào theo phỉ.


Tháng 9 năm 1962, phỉ xâm nhập vùng Huội Ca, Huội Niếng (Sơn La) dụ dỗ dân di cư sang Lào và chuẩn bị gây bạo loạn. Được cấp trên phân công, Nguyễn Đình Thử phụ trách một tổ đi sâu vào từng bản, chịu đựng nhiều gian khổ, tìm mọi cách tuyên truyền, giáo dục đồng bào ổn định đời sống, chống di cư theo phỉ. Đồng chí nắm được tên thống lý đứng đầu dòng họ người H’mông và qua nhiều ngày chịu đựng gian khổ, nguy hiểm, Nguyễn Đình Thử cùng đồng đội thuyết phục được tên thống lý làm trung gian để giải quyết mâu thẫn giữa 3 dòng họ trong vùng. Kết quả tên thống lý nộp cho Nguyễn Đình Thử 4 khẩu súng và khai báo nhiều tài liệu quan trọng về âm mưu của địch phá hoại vùng biên giới của ta. Các dòng họ ở các bản lang không còn mâu thuẫn, đồng bào không di cư, ổn định làm ăn. Đồng chí còn vận động được hai bản ở trên cao xuống thấp làm ruộng, định cư nên đời sống nhân dân ngày càng được cải thiện, đồng bào yêu quý Nguyễn Đình Thử như người ruột thịt.


Cuối năm 1964, lực lượng biên phòng của ta có nhiệm vụ phối hợp với lực lượng vũ trang cách mạng nước bạn Lào giữ gìn trật tự, an ninh vùng biên giới giữa hai nước. Nguyễn Đình Thử phụ trách một tổ vũ trang tuyên truyền giúp bạn xây dựng cơ sở cách mạng ở một vùng gồm sáu bản của người Mẹo, Xá, nước Lào. Vùng này giáp biên giới với ta, tuy đã được giải phóng, nhưng các cơ sở cách mạng của bạn còn non yếu, bọn phản động, thổ phỉ thường xuyên gây rối, phá hoại an ninh vùng biên giới cả hai nước. Sau một thời gian chịu đựng muôn vàn khó khăn, đói, rét, bệnh tật, đồng chí kiên trì, tận tụy và khôn khéo, vận động được nhân dân địa phương giúp đỡ cho tổ hoạt động. Và tuyên truyền vận động nhân dân vừa bồi dưỡng đào tạo cán bộ, thanh niên, tổ chức xây dựng dân quân, công an để bảo vệ trật tự trị an bản làng, kết quả Nguyễn Đình Thử cùng tổ giáo dục nhân dân cả sáu bản đều tích cực giúp đỡ cách mạng, ổn định đời sống, giới thiệu được hai cán bộ địa phương vảo ủy ban mặt trận huyện, bốn thanh niên tham gia bộ đội Pa-thét Lào. Các bản đều có cơ sở công an cách mạng giúp cho bạn bắt được 2 tên phỉ, khai thác tài liệu và dùng chúng để đánh vào sào huyệt thổ phỉ địa phương. Nguyễn Đình Thử trực tiếp giúp bạn chỉ đạo phá 2 vụ xưng vua, bắt tên Thào Ba Dơ cùng 12 tên khác chuẩn bị vũ trang bạo loạn, làm cho tình hình trật tự, trị an vùng biên giới hai nước ổn định, đồng bào các dân tộc phấn khởi làm ăn và càng tin tưởng vào cách mạng.


Quá trình hoạt động, ở vùng rẻo cao biên giới khó khăn gian khổ, Nguyễn Đình Thử luôn luôn gương mẫu, tích cực công tác, đoàn kết nội bộ, đoàn kết với bạn, hiệp đồng chiến đấu tốt. lập nhiều thành tích xuất sắc, được đồng đội và đồng bào các dân tộc tin tưởng và yêu quý. Đồng chí là Chiến sĩ thi đua 4 năm liền, đã được tặng thưởng 2 Huân chương Chiến công hạng ba, nhiều bằng khen, giấy khen.


Ngày 1 tháng 1 năm 1967, Nguyễn Đình Thử được Chủ tịch nước Việt Nam dân chủ cộng hòa tặng danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân.
Logged

Ai công hầu, ai khanh tướng, vòng trần ai, ai dễ biết ai
Thế Chiến Quốc, thế Xuân Thu, gặp thời thế, thế thời phải thế
quansuvn
Moderator
*
Bài viết: 6589



WWW
« Trả lời #41 vào lúc: 24 Tháng Tư, 2022, 05:22:32 pm »

ANH HÙNG TRẦN VĂN NHỎ


Trần Văn Nhỏ, sinh năm 1929, dân tộc Kinh, quê ở xã Sơn Long, huyện Hương Khê, tỉnh Hà Tĩnh, nhập ngũ năm 1948. Khi được tuyên dương Anh hùng, đồng chí là trung úy, trung đội trưởng, trung đội 4, đại đội 2, trực thuộc trung đoàn 600, Bộ tư lệnh Công an nhân dân vũ trang, đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam.


Trần Văn Nhỏ sinh ra trong một gia đình nông dân ở một địa phương có ảnh hưởng của Xô-viết Nghệ Tĩnh rất sâu sắc trong mọi tầng lớp nhân dân, nhất là trong lứa tuổi thanh niên. Truyền thống đấu tranh cách mạng chống, đế quốc và phong kiến của quê hương đã làm cho đồng chí sớm giác ngộ cách mạng, hăng hái tham gia các tổ chức quần chúng ở địa phương rồi gia nhập bộ đội, chống Pháp, giải phóng Tổ quốc.


Trong kháng chiến từ năm 1948 đến 1954, Trần Văn Nhỏ tham gia 11 trận chiến đấu, luôn luôn nêu cao tinh thần chiến đấu dũng cảm, mưu trí, hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ, có trận bị thương nhưng không rời trận địa vẫn tiếp tục chiến đấu. Trận Ba Lay, phải vượt sông Đà, Trần Văn Nhỏ xung phong bơi qua sông, kéo bảy chuyến mảng chở vũ khí phục vụ kịp thời cho trận đánh thắng lợi.


Hòa bình lập lại ở miền Bắc, Trần Văn Nhỏ công tác tại một đơn vị bảo vệ các cơ quan Trung ương. Đồng chí luôn luôn nêu cao tinh thần cảnh giác, phát huy tốt truyền thống và bản chất của người quân nhân cách mạng, hoàn thành tốt nhiệm vụ được phân công.


Năm 1959, toàn đơn vị Trần Văn Nhỏ chuyển sang lực lượng Công an nhân dân vũ trang với nhiệm vụ bảo vệ an toàn tuyệt đối Trung ương Đảng và Chính phủ. Hàng chục năm làm công tác bảo vệ, Trần Văn Nhỏ luôn luôn nêu cao tinh thần vì Đảng, vì dân, vì cách mạng mà chiến đấu và công tác. Trong công tác bảo vệ, đồng chí luôn luôn chăm lo giáo dục chiến sĩ ý thức cảnh giác cách mạng, luyện tập thành thạo cho chiến sĩ những tình huống khó khăn phức tạp mọi lúc, mọi nơi khác nhau trong công tác bảo vệ Lãnh tụ khi ở nhà cũng như khi đi công tác. Là cán bộ trực tiếp phụ trách đơn vị cơ sở, Trần Văn Nhỏ luôn luôn là một người gương mẫu, tận tụy công tác, thức khuy, dậy sớm, đôn đốc và hướng dẫn đồng đội thực hiện nhiệm vụ, đạt hiệu suất cao. Đồng chí chịu khó học tập nâng cao trình độ năng lực chuyên môn và phát huy nhiều sáng kiến trong nghiệp vụ công tác bảo vệ, có những sáng kiến được cấp trên biểu dương khen thưởng và được phổ biến áp dụng rộng rãi ra các đơn vị bạn. Với tinh thần tận trung với Đảng, tận hiếu với dân, Trần Văn Nhỏ góp phần quan trọng trong phong trào xây dựng truyền thống tốt đẹp của cả trung đoàn và nhờ đó đơn vị của đồng chí năm nào cũng hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ bảo vệ an toàn tuyệt đối các cơ quan đầu não của Đảng và Nhà nước.


Trần Văn Nhỏ nêu một tấm gương làm việc giản dị, cần kiệm, khiêm tốn, luôn luôn có ý thức tranh thủ mọi lúc để tăng gia sản xuất tự túc lương thực, thực phẩm. Vì vậy có năm đơn vị đồng chí đã tự túc bình quân đầu người 40 ki-lô-gam chất bột, 8 tháng rau xanh, 8,5 ki-lô-gam thịt.


Trần Văn Nhỏ là một tấm gương tiêu biểu về lòng trung thành với Đảng, với dân từ khi còn là một chiến sĩ đến lúc trưởng thành là một cán bộ lãnh đạo đơn vị, ở bất kỳ cương vị công tác nào, đơn vị nào, đồng chí luôn luôn nêu cao tinh thần trách nhiệm, hoàn thành xuất sắc mọi nhiệm vụ. Trong phong trào thi đua xã hội chủ nghĩa, Trần Văn Nhỏ là Chiến sĩ thi đua, Chiến sĩ Quyết thắng liên tục trong 12 năm liền (1954 - 1966), được tặng thưởng hàng chục bằng khen và giấy khen, 1 Huân chương Chiến công hạng ba và được Hồ Chủ tịch tặng Huy hiệu của Người.


Ngày 1 tháng 1 năm 1967, Trần Văn Nhỏ được Chủ tịch nước Việt Nam dân chủ cộng hòa tặng danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân.
Logged

Ai công hầu, ai khanh tướng, vòng trần ai, ai dễ biết ai
Thế Chiến Quốc, thế Xuân Thu, gặp thời thế, thế thời phải thế
quansuvn
Moderator
*
Bài viết: 6589



WWW
« Trả lời #42 vào lúc: 24 Tháng Tư, 2022, 05:23:11 pm »

ANH HÙNG PHẠM BÁ HẠT


Phạm Bá Hạt, sinh năm 1941, dân tộc Kinh, quê ở xã Cảnh Dương, huyện Quảng Trạch, tỉnh Quảng Bình, nhập ngũ năm 1963. Khi được tuyên dương Anh hùng, đồng chí là trung sĩ, tiểu đội trưởng thuộc đồn biên phòng Ròn, Công an nhân dân vũ trang tỉnh Quảng Bình, đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam.


Phạm Bá Hạt xuất thân trong một gia đình nông dân nghèo đánh cá ở một địa phương có truyền thống kiên cường kháng chiến chống Pháp. Trưởng thành trong chế độ xã hội chủ nghĩa, được giáo dục về lòng yêu Tổ quốc, yêu độc lập, tự do, khi lớn lên đồng chí vào lực lượng Công an nhân dân vũ trang.


Trong những năm đầu chống chiến tranh phá hoại của giặc Mỹ, với cương vị là tiểu đội trưởng Phạm Bá Hạt đã thể hiện tinh thần chiến đấu cao, chỉ huy linh hoạt, gan dạ, phát huy nhiều sáng kiến, lập nhiều thành tích xuất sắc, xây dựng tiểu đội vững vàng về mọi mặt, góp phần tích cực trong công tác bảo vệ trật tự trị an và chiến đấu đánh trả máy bay Mỹ ở vùng ven biển tỉnh Quảng Bình.


Từ năm 1965 đến năm 1966, Phạm Bá Hạt đã tham gia chiến đấu 35 trận chống biệt kích vũ trang và máy bay địch, khi thì phối hợp với dân quân, khi thì băng qua dưới bom đạn của địch vừa đánh lại chúng, vừa cứu dân thoát khỏi nguy hiểm.


Ngày 25 tháng 5 năm 1965, rút kinh nghiệm của nhiều trận trước, Phạm Bá Hạt trực tiếp tổ chức trận đánh cố định và di động. Đúng như dự kiến, khoảng 9 giờ, 2 chiếc máy bay F.105 và 2 chiếc F.100 của địch lẻn vào đánh phá thôn cảnh Dương. Chờ máy bay địch xà thấp, đồng chí chỉ huy tiểu đội đồng loạt nổ súng. Một chiếc F.100 bốc cháy, lao đầu xuống biển, những chiếc còn lại tháo chạy.


Khoảng 22 giờ ngày 20 tháng 6 năm 1965, phát hiện 4 chiếc AD.6 bay từ biển vào thả pháo sáng, ném bom và bắn phá khu vực phà Ròn, Phạm Bá Hạt chỉ huy tiểu đội đánh trả địch quyết liệt. Địch bị rối loạn đội hình quay sang đánh phá khu vực bên cạnh. Phạm Bá Hạt cơ động tiểu đội đánh địch, kết hợp với đơn vị bạn bắn rơi 1 chiếc. Đó là chiếc máy bay Mỹ đầu tiên bị bắn rơi bằng súng bộ binh ban đêm của lực lượng Công an nhân dân vũ trang. Sau trận này, toàn đơn vị Phạm Bá Hạt được nêu gương học tập và được thưởng Huân chương Chiến công hạng nhất.


Khi đơn vị chuyển hướng công tác, đồng chí được điều về tham gia công tác vận động quần chúng, xây dựng cơ sở, bảo vệ trật tự trị an ở một số địa bàn thuộc phạm vi đồn biên phòng phụ trách. Tuy công tác mới mẻ, nhưng Phạm Bá Hạt rất tích cực đi sâu đi sát quần chúng, ổn định tư tưởng cho đồng bào địa phương, ngăn chặn chiến tranh tâm lý và những hành động chống phá cách mạng. Phạm Bá Hạt trực tiếp giúp đỡ địa phương xây dựng được một xã có phong trào bảo vệ trật tự trị an từ kém trở nên khá, bồi dưỡng ba cơ sở giúp đồng chí rất tích cực nắm tình hình địch và giải quyết một số vụ việc quan trọng. Dùng biện pháp nghiệp vụ và được quần chúng giúp đỡ, đồng chí tìm ra một gói tài liệu tuyệt mật của các cán bộ đem từ miền Nam ra Bắc, bị địch đánh phá lạc mất giữa biển khơi.


Đồng chí nắm vững và quản lý tốt 350 chiếc hầm phòng không của đồng bào trong hai xã Cảnh Dương và Quảng Tùng, vì vậy, có lần địa phương bị máy bay Mỹ đánh phá dữ dội, đồng chí biết rõ vị trí từng hầm bị sập, kịp thời cấp cứu nhân dân. Có ngày đồng bào đang sản xuất trên đồng thì bị máy bay địch đánh phá, đồng chí chỉ huy tiểu đội bắn mạnh thu hút địch về mình để nhân dân kịp sơ tán ẩn nấp, đảm bảo an toàn.


Phạm Bá Hạt là một tấm gương về tinh thần chiến đấu dũng cảm, mưu trí, công tác tận tụy, tích cực, phát huy tốt tinh thần đoàn kết, hiệp đồng chiến đấu đạt hiệu quả cao. Thường xuyên chăm lo giáo dục chiến sĩ nâng cao bản lĩnh chiến đấu và công tác, khiêm tốn học tập và giúp đỡ mọi người, đồng chí được cấp trên tin tưởng, đồng đội và nhân dân quý mến.


Đồng chí đã được thưởng 8 bằng khen và giấy khen, 2 năm (1965-1966) là Chiến sĩ thi đua của đơn vị, được tặng một Huy hiệu Anh hùng liệt sĩ Nguyễn Văn Trỗi, 1 Huân chương Chiến công hạng nhì.


Ngày 1 tháng 1 năm 1967 Phạm Bá Hạt được Chủ tịch nước Việt Nam dân chủ cộng hòa tặng danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân.
Logged

Ai công hầu, ai khanh tướng, vòng trần ai, ai dễ biết ai
Thế Chiến Quốc, thế Xuân Thu, gặp thời thế, thế thời phải thế
quansuvn
Moderator
*
Bài viết: 6589



WWW
« Trả lời #43 vào lúc: 24 Tháng Tư, 2022, 05:23:49 pm »

ANH HÙNG NGUYỄN HỒNG NHỊ


Nguyễn Hồng Nhị (tức Hồng Việt) sinh năm 1936, dân tộc Kinh, quê ở xã Hoài Sơn, huyện Hoài Nhơn, tỉnh Bình Định, nhập ngũ tháng 5 năm 1952. Khi được tuyên dương Anh hùng, đồng chí là đại úy, trung đoàn phó, trung đoàn 921 không quân, Quân chủng Phòng không - Không quân, đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam.


Sinh trưởng trong một gia đình nghèo, sớm được giác ngộ cách mạng, năm 16 tuổi Nguyễn Hồng Nhị đã tình nguyện vào bộ đội, chiến đấu ở chiến trường Liên khu 5, năm 1954 tập kết ra Bắc và được đào tạo trở thành chiến sĩ lái máy bay của Không quân nhân dân Việt Nam.


Trong cuộc chiến đấu chống chiến tranh phá hoại của đế quốc Mỹ, Nguyễn Hồng Nhị luôn luôn thể hiện tinh thần dũng cảm, mưu trí, tích cực tiến công, hạ được nhiều máy bay địch. Từ năm 1966 đến năm 1968, đồng chí tham gia chiến đấu 15 trận, 12 lần nổ súng, hạ 8 máy bay địch (gồm 3 chiếc F.4, 3 chiếc F.105, 1 chiếc F.8 và 1 máy bay không người lái). Ngoài ra Nguyễn Hồng Nhị còn chỉ huy biên đội bắn rơi 2 chiếc máy bay khác.


Trận ngày 4 tháng 1 năm 1966 trên vùng trời tỉnh Quảng Ninh, được sở chỉ huy hướng dẫn tốt, lại có kỹ thuật thành thạo, Nguyễn Hồng Nhị là người đầu tiên của Không quân nhân dân Việt Nam hạ 1 máy bay không người lái ở độ cao 18 ki-lô-mét.


Trận ngày 9 tháng 10 năm 1967 trên vùng trời Chiêm Hóa (Tuyên Quang), Nguyễn Hồng Nhị nhanh chóng phát hiện địch từ xa, mặc dù thấy địch có tới 16 máy bay F.4, đồng chí vẫn cùng đồng chí số 2, yểm hộ nhau chặt chẽ, tạo thế có lợi, mưu trí và dũng cảm xông thẳng vào đội hình máy bay địch, kịp thời nổ súng, mỗi người hạ 1 chiếc, làm cho số máy bay địch còn lại phải bỏ chạy tán loạn.


Trận ngày 7 tháng 11 năm 1967, trên vùng trời Vạn Yên (Nghĩa Lộ), địch có 16 máy bay F.4 và F.105 yểm hộ cho nhau khá chặt chẽ. Gặp một đội hình máy bay địch có chiến thuật khác lạ, Nguyễn Hồng Nhị bình tĩnh phán đoán, nhanh chóng tìm chỗ yếu của chúng, dũng cảm dẫn đầu biên đội đánh cẳt đội hình phía sau của địch. Tốp máy bay F.4 quay lại đối phó, đồng chí nhanh trí phóng một quả tên lửa làm rối loạn đội hình tốp này, rồi xông thẳng vào đánh tốp máy bay F.105 đi đầu, hạ ngay 1 chiếc. Máy bay địch hoảng hốt tháo chạy. Trận đánh thắng rất mưu trí và táo bạo đã giúp cho trung đoàn rút được nhiều kinh nghiệm trong việc vận dụng chiến thuật đánh những trận tiếp sau.


Nguyễn Hồng Nhị luôn luôn gương mẫu, cần cù, chịu khó học tập, rèn luyện bản lĩnh chiến đấu, xung phong nhận việc khó, đoàn kết giúp đỡ đồng đội, nghiêm chỉnh chấp hành chính sách, kỷ luật và mọi mệnh lệnh của cấp trên.


Đồng chí đã được tặng thưởng 1 Huân chương Quân công hạng ba, 1 Huân chương Chiến công hạng nhì.


Ngày 18 tháng 6 năm 1969, Nguyễn Hồng Nhị được Chủ tịch nước Việt Nam dân chủ cộng hòa tặng danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân.
Logged

Ai công hầu, ai khanh tướng, vòng trần ai, ai dễ biết ai
Thế Chiến Quốc, thế Xuân Thu, gặp thời thế, thế thời phải thế
quansuvn
Moderator
*
Bài viết: 6589



WWW
« Trả lời #44 vào lúc: 24 Tháng Tư, 2022, 05:24:22 pm »

ANH HÙNG PHẠM THANH NGÂN


Phạm Thanh Ngân, sinh năm 1939, dân tộc Kinh, quê ở xã Lương Phú, huyện Phú Bình, tỉnh Bâc Thái, vào bộ đội ngày 21 tháng 3 năm 1959. Khi được tuyên dương Anh hùng, đồng chí là thượng úy đại đội trưởng đại đội 1 thuộc trung đoàn 921 không quân, Quân chủng Phòng không - Không quân, đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam.


Nhận rõ trách nhiệm và vinh dự được cử đi học lái máy bay chiến đấu để góp phần vào cuộc chiến đấu bảo vệ miền Bắc, giải phóng miền Nam, thống nhất Tổ quốc, Phạm Thanh Ngân đã ra sức học tập, đạt kết quả xuất sắc, nắm vững kỹ thuật, sử dụng thành thạo loại máy bay Mích 21.


Từ năm 1966 đến năm 1969, trong những trận không chiến với giặc Mỹ xâm lược, đồng chí đã bắn rơi 8 máy   bay Mỹ gồm: 3 F.4, 2 F.105, 1 RF.101, 1 F.102 và 1 máy bay không người lái. (Năm 1966 hạ 1 chiếc, năm 1967 hạ 6 chiếc và năm 1968 hạ 1 chiếc). Ngoài ra Phạm Thanh Ngân còn chỉ huy biên đội bắn rơi 8 chiếc khác.


Ngày 7 tháng 10 năm 1967, đón đánh địch trên vùng trời Hà Tây, Phạm Thanh Ngân chỉ huy biên đội Mích 21 chiến đấu với 12 chiếc F.4 địch. Mặc dù lực lượng đối phương đông hơn gấp nhiều lần, điều kiện dẫn đường của ta có nhiều khó khăn, đồng chí vẫn bình tĩnh, dũng cảm và mưu trí chỉ huy biên đội vừa chiến đấu vừa yểm hộ cho nhau, rất nhanh chóng phát hiện chỗ yếu của địch, bất ngờ xông thẳng vào đội hình địch bắn 2 phát tên lửa hạ 2 F.4 (Phạm Thanh Ngân bắn rơi 1 chiếc). Địch hốt hoảng quăng bom bừa bãi ngoài mục tiêu rồi quay ra. Biên đội hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ, phá tan cuộc tiến công của địch và trở về hạ cánh an toàn.


Ngày 18 tháng 11 năm 1967, trên vùng trời Phú Thọ - Hà Tây, Phạm Thanh Ngân chỉ huy biên đội đánh vào đội hình địch gồm 8 chiếc máy bay vừa F.105 vừa F.4. Phán đoán chính xác cự ly bay của chúng không thể tiếp cứu cho nhau nếu bị ta công kích chớp nhoáng, đồng chí chỉ huy biên đội kiên quyết, linh hoạt xông thẳng vào công kích tốp F.105 đi đầu, hạ ngay tại chỗ 2 chiếc (bản thân Phạm Thạnh Ngân bắn rơi 1 chiếc). Biên đội đồng chí hoàn thành nhiệm vụ tiêu diệt địch và bảo vệ mục tiêu, trở về hạ cánh an toàn.


Ngày 20 tháng 11 năm 1967, trên vùng trời Phú Thọ - Hà Tây, địch có 24 máy bay vừa F.105 vừa F.4 yểm hộ cho nhau khá chặt chẽ. Khi phát hiện 2 chiếc máy bay của biên đội Phạm Thanh Ngân, 4 chiếc F.4 liền quay lại triển khai đội hình đối phó với ta. Đồng chí bình tĩnh dũng cảm đánh giá tình hình, chọn đúng đối tượng và kiên quyết chỉ huy biên đội chủ động công kích trước, đánh vào đội hình lũ máy bay F.105 đi sau, hạ ngay 2 chiếc (Phạm Thanh Ngân hạ 1 chiếc), bẻ gãy một mũi tiến công của địch vào Hà Nội.


Phạm Thanh Ngân có ý chí chiến đấu cao, dũng cảm, mưu trí trong chiến đấu, kiên định, vững vàng trong mọi tình huống khó khăn, có nhiệt tình học tập và rèn luyện kỹ thuật, nâng cao năng lực chỉ huy và chiến đấu, gương mẫu trong công tác và sinh hoạt.


Đồng chí đã được tặng thưởng 1 Huân chương Quân công hạng ba, 1 Huân chương Chiến công hạng nhất, 1 Huân chương Chiến công hạng nhì và 2 Huân chương Chiến công hạng ba, là Chiến sĩ thi đua năm 1960 và chiến sĩ Quyết thắng năm 1966.


Ngày 18 tháng 6 năm 1969, Phạm Thanh Ngân được Chủ tịch nước Việt Nam dân chủ cộng hòa tặng danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân.
Logged

Ai công hầu, ai khanh tướng, vòng trần ai, ai dễ biết ai
Thế Chiến Quốc, thế Xuân Thu, gặp thời thế, thế thời phải thế
quansuvn
Moderator
*
Bài viết: 6589



WWW
« Trả lời #45 vào lúc: 24 Tháng Tư, 2022, 05:25:09 pm »

ANH HÙNG NGUYÊN VĂN CỐC


Nguyễn Văn Cốc, sinh năm 1943, dân tộc Kinh, quê ở xã Bích Sơn, huyện Việt Yên, tỉnh Hà Bắc, nhập ngũ tháng 6 năm 1961. Khi được tuyên dương Anh hùng, đồng chí là Đại úy, lái máy bay phản lực thuộc trung đoàn 921, Quân chủng Phòng không - Không quân, đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam.


Nguyễn Văn Cốc là một chiến sĩ lái máy bay luôn luôn có tinh thần chiến đấu dũng cảm, ngoan cường, mưu trí, tiến công địch, đạt hiệu suất chiến đấu cao. Đồng chí đã tham gia 10 trận đánh, 7 lần nổ súng, bắn rơi 6 máy bay Mỹ (gồm 4 chiếc F.105 và 2 chiếc F.4); ngoài ra còn yểm hộ tốt cho số 1, góp phần cùng đồng đội bắn rơi 9 máy bay khác của địch.


Ngày 23 tháng 8 năm 1967, Nguyễn Văn Cốc tham gia trận chiến đấu với máy bay Mỹ trên bầu trời Tuyên Quang, đồng chí làm nhiệm vụ số 2. Khi phát hiện địch đông tới 36 chiếc, Nguyễn Văn Cốc bình tĩnh quan sát, báo chính xác cho biên đội trưởng. Biên đội trưởng làm nhiệm vụ số 1 định lao vào công kích một tốp. Phát hiện tình hình nguy hiểm vì địch ở phía sau khá đông, Nguyễn Văn Cốc kịp thời báo cho số 1 chuyển sang đánh tốp cuối đội hình của chúng nên đã bí mật, bất ngờ, bắn rơi một máy bay địch. Nắm thời cơ địch vẫn chưa phát hiện được ta, đồng chí cùng với số 1 đồng thời vào công kích, bắn rơi 2 máy bay nữa của địch rồi trở về hạ cánh an toàn.


Ngày 20 tháng 11 năm 1967, trên bầu trời Phú Thọ, Nguyễn Văn Cốc làm nhiệm vụ số 2 trong biên đội. Tới khu vực chiến đấu, đồng chí phát hiện một tốp 4 chiếc F.4 của địch đang đối đầu với biên đội mình. Hiệp đồng chặt chẽ với số 1, Nguyễn Văn Cốc dũng cảm, mưu trí vượt lên trên đầu đội hình lũ F.4, rồi thọc sâu vào công kích tốp F.105, bắn rơi ngay tại chỗ một chiếc, phá vỡ đội hình của chúng, bảo vệ được mục tiêu. Khi trở về, gặp lúc địch đang đánh phá khu vực quanh sân bay, Nguyễn Văn Cốc vẫn bình tĩnh hạ cánh an toàn.


Nguyễn Văn Cốc là một chiến sĩ dũng cảm trong chiến đấu, cần cù, khiêm tốn trong học tập, chịu khó rèn luyện kỹ thuật, đi sâu nghiện cứu chiến thuật, vận dụng tốt trong chiến đấu nhằm nâng cao hiệu suất chiến đấu; có tinh thần đoàn kết hiệp đồng, lập công tập thể, có ý thức tổ chức, kỷ luật, được cấp trên tin yêu, đồng đội mến phục.


Nguyễn Văn Cốc đã được tặng thưởng 1 Huân chương Chiến công hạng nhì, 1 Huân chương Chiến công hạng ba và 1 bằng khen, được Bác Hồ tặng Huy hiệu của Người, là Chiến sĩ thi đua năm 1966.


Ngày 18 tháng 6 năm 1969, Nguyễn Văn Cốc được Chủ tịch nước Việt Nam dân chủ cộng hòa tặng danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân.
Logged

Ai công hầu, ai khanh tướng, vòng trần ai, ai dễ biết ai
Thế Chiến Quốc, thế Xuân Thu, gặp thời thế, thế thời phải thế
quansuvn
Moderator
*
Bài viết: 6589



WWW
« Trả lời #46 vào lúc: 01 Tháng Năm, 2022, 07:25:12 am »

ANH HÙNG NGUYỄN HUY HỒNG


Nguyễn Huy Hồng, sinh năm 1943, dân tộc Kinh, quê ở xã Phục Lễ, huyện Thủy Nguyên, thành phố Hải Phòng, nhập ngũ tháng 4 năm 1965. Khi được tuyên dương Anh hùng, đồng chí là thượng sĩ trung đội phó pháo cao xạ thuộc đại đội 3, trung đoàn 233, sư đoàn 361, Quân chủng Phòng không - Không quán, đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam.


Chưa tròn 3 tuổi quân, Nguyễn Huy Hồng đã tham gia chiến đấu hơn 100 trận, đánh trận nào đồng chí cũng nêu cao tinh thần chiến đấu dũng cảm, ngoan cường, nhiều lần bị thương nặng vẫn không rời trận địa, kiên quyết đứng vững ở vị trí chiến đấu chỉ huy phân đội lập công xuất sắc.


Ngày 21 tháng 7 năm 1966, tại Đáp Cầu (Bắc Ninh), địch cho 24 lần chiếc máy bay gồm cả F.105 và F.4 thay nhau vào đánh phá cầu và khống chế trận địa pháo. Lần thứ nhất chúng lao vào bị đánh bật ra ngay, sau đó bọn địch lợi dụng trời nhiều mây, bay thấp từ nhiều hướng, thả bom bi, bom phá vào trận địa. Nguyễn Huy Hồng bị nhiều vết thương vào đầu, vào tay, vào mặt, bị những viên bi xuyên thủng 6 lỗ ở ruột và 3 lỗ ở gan. Máu ra nhiều, tay đau không nắm được cờ, đồng chí lấy khăn buộc chặt cán cờ vào tay, tiếp tục chỉ huy và động viên khẩu đội chiến đấu. Khẩu đội Nguyễn Huy Hồng cùng các khẩu đội bạn đánh trả quyết liệt lũ máy bay Mỹ, bắn rơi 1 chiếc. Khi vào viện quân y, nằm trên bàn mổ, đồng chí nén đau để các bác sĩ quân y hoàn thành tốt ca mổ khó.


Ngày 27 tháng 7 năm 1967, tại cầu Giẽ (Hà Tây), địch cho nhiều lần chiếc máy bay thay nhau vào đánh phá cầu và trận địa. Chúng ném cả bom bi, bom phá, bom nổ chậm vào trận địa. Khẩu đội Nguyễn Huy Hồng vẫn bình tĩnh, dũng cảm cùng các khẩu đội khác trong đại đội, chiến đấu nhiều đợt trong ngày, bắn rơi 1 máy bay Mỹ. Trong lúc đang chiến đấu ác liệt, trận địa mù mịt khói lửa, bom bi nổ liên hồi, Nguyễn Huy Hồng bị thương nặng vào đầu, vào ngực. Máu ra nhiều, bị choáng váng, không đứng vững được Nguyễn Huy Hồng chỉ định đồng chí số 5 thay mình chỉ huy khẩu đội tiếp tục chiến đấu, còn đồng chí vẫn kiên quyết không rời trận địa, nén chịu đau đứng tựa vào bánh xe pháo, động viên nhắc nhở anh em và góp ý với đồng chí thay mình, cho đến khi trận chiến đấu kết thúc.


Ngày 25 tháng 10 năm 1967, tại một trận địa bảo vệ Hà Nội, máy bay Mý ném bom trúng khẩu đội của Nguyễn Huy Hồng làm cho một số chiến sĩ bị thương vong. Đồng chí vừa làm nhiệm vụ khẩu đội trưởng chỉ huy phân đội chiến đấu, vừa làm nhiệm vụ số 5 tiếp đạn góp phần bắn rơi một máy bay Mỹ.


Nguyễn Huy Hồng còn luôn luôn tích cực, cần cù, trong công tác và học tập, gương mẫu xung phong nhận việc khó về mình, nhường thuận lợi cho bạn, đoàn kết chân thành giúp đỡ đồng đội, được mọi người tin yêu mến phục.


Đồng chí đã được tặng thưởng 1 Huân chương Chiến công hạng nhì, 1 Huân chương Chiến công hạng ba, 4 bằng khen và giấy khen, 2 năm liền là Chiến sĩ thi đua và Chiến sĩ Quyết thắng.


Ngày 18 tháng 6 năm 1969, Nguyễn Huy Hồng được Chủ tịch nước Việt Nam dân chủ cộng hòa tặng danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân.
Logged

Ai công hầu, ai khanh tướng, vòng trần ai, ai dễ biết ai
Thế Chiến Quốc, thế Xuân Thu, gặp thời thế, thế thời phải thế
quansuvn
Moderator
*
Bài viết: 6589



WWW
« Trả lời #47 vào lúc: 01 Tháng Năm, 2022, 07:25:49 am »

ANH HÙNG BÙI XUÂN CHIẾN


Bùi Xuân Chiến, sinh năm 1937, dân tộc Kinh, quê ở xã Yên Tân, huyện Ý Yên, tỉnh Nam Hà, nhập ngũ tháng 9 năm 1965. Khi được tuyên dương Anh hùng, đồng chí là hạ sĩ, khẩu đội trưởng pháo cao xạ 100 mi-li-mét thuộc đại đội 172, trung đoàn 240, sư đoàn 363, Quân chủng Phòng không - Không quân, đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam.


Kể từ khi giặc Mỹ gây chiến tranh phá hoại trên miền Bắc nước ta, Bùi Xuân Chiến đã tham gia chiến đấu hơn 300 trận, trận nào cũng bình tĩnh, dũng cảm, hoàn thành tốt nhiệm vụ.


Ngày 1 tháng 5 năm 1966, trong trận chiến đấu bảo vệ thành phố Vinh (Nghệ An), sau khi bắn được 2 loạt đạn, bộ phận tống vỏ đạn bị hỏng làm cho vỏ đạn trong súng không văng ra ngoài được. Mặc dù biết vỏ đạn vừa bắn đang nóng rực, cho tay vào sẽ bị bỏng, nhưng để liên tục chiến đấu, Bùi Xuân Chiến không nề hà nguy hiểm, dùng hai tay kéo vỏ đạn ra. Nhờ đó khẩu đội tiếp tục nổ súng được ngay góp phần với trận địa hoàn thành nhiệm vụ bảo vệ mục tiêu, cả hai tay Bùi Xuân Chiến đều bị bỏng, máu chảy nhiều, được đơn vị cho đi quân y, nhưng đồng chí vẫn xin ở lại chữa tại chỗ và tiếp tục làm nhiệm vụ.


Ngày 5 tháng 5 năm 1967, ở Hải Phòng, giữa lúc bom bi đang nổ, máy bay địch đang bắn rốc-két vào trận địa, trận chiến đấu diễn ra hết sức ác liệt thì khẩu đội trưởng bị thương. Bùi Xuân Chiến lên thay thế khẩu đội trưởng, đồng chí bình tĩnh gan dạ chỉ huy, động viên khẩu đội chiến đấu rất dũng cảm, góp phần với khẩu đội hoàn thành tốt nhiệm vụ. Sau trận này, đồng chí được tặng bằng khen.


Ngày 21 tháng 9 năm 1967, ở Tân Dương (Hải Dương), máy bay địch bắn phá trận địa làm cho hầm đạn bị cháy. Giữa lúc máy bay địch đang gầm rú bắn phá, đạn đang nổ, không nề hà nguy hiểm Bùi Xuân Chiến nhảy ra ngoài công sự, múc nước cùng đồng đội dập tắt lửa, cứu được hơn một tấn đạn, bảo đảm an toàn cho cả khẩu đội.


Ngày 28 tháng 11 năm 1967, ở Vĩnh Khê, địch oanh tạc dữ dội trận địa làm cho một số anh em bị thương vong và hầm đạn bị cháy. Bùi Xuân Chiến lại dũng cảm cùng đồng đội xông tới dập tắt lửa đang cháy ở hầm đạn, cứu được 1 tấn đạn, và kịp thời chuyển 2 đồng chí bị thương ra ngoài giao cho dân quân đưa đi cấp cứu. Trở lại trận địa, thấy khẩu đội mình vẫn đánh tốt nhưng khẩu đội 5, bên cạnh không phát huy được hỏa lực, Bùi Xuân Chiến tạm giao quyền chỉ huy khẩu đội cho một đồng chí đã có dự kiến chuẩn bị thay thế khi cần thiết, rồi sang khẩu đội bạn nghiên cứu tình hình. Biết rõ anh em đang lúng túng thiếu chỉ huy vì khẩu đội trưởng khẩu đội 5 đã bị thương nặng, Bùi Xuân Chiến liền tạm thời thay thế chỉ huy chiến đấu, động viên khẩu đội quyết tâm lập công trả thù cho đồng đội. Trận chiến đấu kết thúc thắng lợi, sau khi góp phần ổn định tình hình, đồng chí mới trở về khẩu đội mình tiếp tục nhiệm vụ.


Gương dũng cảm chiến đấu, đoàn kết hiệp đồng, lập công tập thể của Bùi Xuân Chiến đã động viên lôi cuốn mọi người trong đơn vị noi theo.


Đồng chí đã được tặng thưởng 1 Huân chương Chiến công hạng nhì, 2 lần đạt danh hiệu Chiến sĩ Quyết thắng, 3 bằng khen, 3 giấy khen.


Ngày 18 tháng 6 năm 1969, Bùi Xuân Chiến đã được Chủ tịch nước Việt Nam dân chủ cộng hòa tặng danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân.
Logged

Ai công hầu, ai khanh tướng, vòng trần ai, ai dễ biết ai
Thế Chiến Quốc, thế Xuân Thu, gặp thời thế, thế thời phải thế
quansuvn
Moderator
*
Bài viết: 6589



WWW
« Trả lời #48 vào lúc: 01 Tháng Năm, 2022, 07:26:27 am »

ANH HÙNG NGÔ VĂN TÁC


Ngô Văn Tác, sinh năm 1939, dân tộc Kinh, quê ở xã Định Hòa, huyện Thiệu Yên, tỉnh Thanh Hóa, nhập ngũ ngày 29 tháng 3 năm 1959. Khi được tuyên dương Anh hùng, đồng chí là trung úy, trưởng xe kiêm sĩ quan điều khiển thuộc tiểu đoàn 71 tên lửa, trung đoàn 285, sư đoàn 369, Quân chủng Phòng không - Không quân, đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam.


Góp phần cùng binh chủng đánh bại cuộc chiến tranh phá hoại miền Bắc của giặc Mỹ, đơn vị Ngô Văn Tác đã cơ động nhiều nơi, tham gia chiến đấu ở nhiều tỉnh trên miền Bắc. Là sĩ quan điều khiển, tham gia chiến đấu 44 trận, đồng chí đả góp phần trực tiếp bắn rơi 22 máy bay giặc Mỹ, trong tổng số 26 chiếc đơn vị bắn rơi (có 5 chiếc rơi tại chỗ).


Ngày 3 tháng 3 năm 1966, đơn vị bố trí ở Hòa Bình, do phán đoán đúng thủ đoạn của địch, Ngô Văn Tác mưu trí đón địch, điều khiển tên lửa bắn rơi 2 chiếc F.105 khi chúng vừa ló ra khỏi khe núi, khiến cả bọn còn lại hoảng loạn bỏ chạy, phá tan âm mưu của chúng định đánh vào Hà Nội.


Ngày 25 tháng 7 năm 1966, ở Bắc Thái, Ngô Văn Tác điều khiển tên lửa hạ 1 F.105 góp phần cùng đơn vị bạn bảo vệ an toàn mục tiêu được phân công.


Ngày 23 tháng 8 năm 1966, trong điều kiện địch đã vào gần phải đánh gấp, rất ít thời gian chuẩn bị, nhưng Ngô Văn Tác vẫn bình tĩnh, khẩn trương cùng kíp trắc thủ thao tác, điều khiển tên lừa bắn tan xác 1 F.8 của hải quân Mỹ.


Ngày 29 tháng 8 năm 1966, tại Quảng Ninh, Ngô Văn Tác khéo léo điều khiển 3 quả tên lửa hạ 2 máy bay Mỹ định đánh vào mỏ Cọc 5 và tàu chở hàng của ta đậu ở cảng.


Ngày 9 tháng 9 năm 1966, địch định bất ngờ vào gây tội ác ban đêm ở Quảng Yên. Với tinh thần cảnh giác cao, Ngô Văn Tác cùng đồng đội trừng trị đích đáng kẻ địch, bắn rơi 1 F.4 của Mỹ.


Ngày 16 tháng 11 năm 1967, địch mở đầu một đợt leo thang mới đánh vào Hải Phòng, Ngô Văn Tác điều khiển tên lửa bắn rơi tại chỗ 1 máy bay địch. Trận đánh này không những diệt được địch, bảo vệ được mục tiêu mà còn rút được kinh nghiệm thực hiện cách đánh tập trung, đánh liên tục.


Những thành tích nổi bật nhất của Ngô Văn Tác là các trận ngày 24, 25, 26 tháng 4 năm 1967 chống lại tên lửa Sơ-rai của địch dùng để phá tên lửa của ta. Nắm chắc kỹ thuật tên lửa, với tinh thần bình tĩnh, mưu trí, quyết đoán khi xử trí tình huống, đồng chí vừa diệt được máy bay, vừa phá được Sơ-rai của địch, bảo đảm an toàn cho người và vũ khí, do đó gây niềm tin tưởng phấn khởi, hăng hái chiến đấu cho anh em trong đơn vị.


Ngô Văn Tác còn ham mê nghiên cứu, cần cù học tập, nâng cao trình độ kỹ thuật chuyên môn nên đã tự sửa chữa hoặc cùng tập thể sửa chữa tại chỗ được nhiều trường hợp hỏng hóc, kịp thời phục vụ giữa lúc chiến đấu khẩn trương. Ngô Văn Tác còn quan tâm bồi dưỡng đào tạo những đồng chí mới, nâng cao trình độ của các đồng chí trắc thủ cũ, góp phần xây dựng phân đội tiên tiến nhận cờ khá nhất 3 năm liền của đại đội.


Trong sinh hoạt, Ngô Văn Tác luôn luôn khiêm tốn, giản dị, được đồng đội tin yêu quý mến, 3 lần đạt danh hiệu Chiến sĩ thi đua, 2 lần Chiến sĩ Quyết thắng, được tặng thưởng 1 Huân chương Chiến công hạng ba, 7 bằng khen và giấy khen.


Ngày 18 tháng 6 năm 1969 Ngô Văn Tác được Chủ tịch nước Việt Nam dân chủ cộng hòa tặng danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân.
Logged

Ai công hầu, ai khanh tướng, vòng trần ai, ai dễ biết ai
Thế Chiến Quốc, thế Xuân Thu, gặp thời thế, thế thời phải thế
quansuvn
Moderator
*
Bài viết: 6589



WWW
« Trả lời #49 vào lúc: 01 Tháng Năm, 2022, 07:27:27 am »

ANH HÙNG TRẦN CÔNG NHỠN


Trần Công Nhỡn sinh năm 1936, dân tộc Kinh, quê ở xã Đông Sơn, huyện Đông Hưng, tỉnh Thái Bình, nhập ngũ tháng 3 năm 1959. Khi được tuyên dương Anh hùng, đồng chí là thượng sĩ, trung đội trưởng lái xe thuộc đại đội 3, đoàn 878, binh trạm 16 Đoàn 500 Tổng cục Hậu cần, đảng viên Đảng Cộng sản Việt.


Gần 4 năm liên tục công tác ở Quảng Bình, Vĩnh Linh một tuyến đường địa hình phức tạp bị địch thường xuyên đánh phá ác liệt, Trần Công Nhỡn phụ trách tiểu đội mũi nhọn của đại đội thường xuyên được cử đi làm nhiệm vụ đột phả ở những chỗ công tác khó khăn nhất. Bất cứ nhiệm vụ nào, dù khó khăn nguy hiểm đến mấy, đồng chí cũng nêu cao ý chí chiến đấu bảo vệ miền Bắc, giải phóng miền Nam, thống nhất Tổ quốc, kiên quyết khắc phục khó khăn, hoàn thành xuất sắc mọi nhiệm vụ trên giao. Tính trung bình mỗi năm Trần Công Nhỡn lái xe đi 300 ngày đêm, có khi liên tục suốt cả tháng đi không nghỉ, hàng trăm lần bị máy bay địch đánh phá dọc đường, Trần Công Nhỡn vẫn bảo đảm đưa xe, hàng tới đích an toàn. Với ý thức quý trọng và bảo vệ của công, giữ gìn tài sản của Nhà nước, của nhân dân, đồng chí đã lái xe chở hàng suốt 155.000 ki-lô-mét an toàn.


Có lần xe qua dốc 19 (đường số 16), máy bay địch đánh phá dữ dội làm đường bị tắc, một số xe của đơn vị bạn phải quay về, nhưng nghĩ đến nhiệm vụ đưa hàng ra tiền tuyến để đánh thắng giặc Mỹ xâm lược, Trần Công Nhỡn dẫn đầu tiểu đội lái xe, cùng anh em dùng xẻng, cuốc san đường và đề nghị với công binh dùng thuốc nổ phá những cây to đổ ngang đường. Đường thông, xe của tiểu đội đồng chí đến đích trả hàng được ngay đêm hôm đó.


Một lần khác, tiểu đội của Trần Công Nhỡn đang dẫn đầu đoàn xe vào kho giao hàng thì giữa chừng bị địch ném bom tác đường. Thực hiện quyết tâm của chi bộ "Không có đường thì tìm đường mà đi", đồng chí tìm ra đường vòng tránh, cùng đồng đội dọn sửa 50 mét đường vòng qua hố bom đưa cả đoàn xe vào kho giao hàng đúng thời gian.


Một lần máy bay địch phát hiện, đánh phá bải để xe của đơn vị, Trần Công Nhỡn dũng cảm lái chiếc xe của mình vượt ra chỗ trống làm mục tiêu thu hút máy bay địch đuổi theo để anh em sơ tán toàn bộ xe đến chỗ an toàn. Đồng chí bình tính, mưu trí lừa được địch, đưa được xe vào nơi ẩn nấp kín đáo.


Trần Công Nhỡn còn luôn luôn chịu khó học tập, đi sâu vào chuyên môn kỹ thuật, dám nghĩ, dám làm, nêu cao ý thức bảo vệ của công, giữ gìn và bảo quản xe tốt.


Đồng chí tự nguyện nhận một chiếc xe cũ, xấu nhất của đại đội, ra công sửa chữa thành xe tốt và đã chạy hàng vạn ki-lô-mét an toàn. Với ý nghĩ không ngừng phấn đấu tăng hiệu suất vận chuyển hàng cho mặt trận, Trần Công Nhỡn lái xe chạy cung đường mỗi ngày một dài hơn: trong Đông Xuân 1965 - 1966, đồng chí chạy binh quân 50 - 60 km/đêm, năm 1966-1967, bình quân 60 - 80 km/đêm và năm 1967 - 1968 tăng lên 120 - 150 km/đêm.


Trong điều kiện bình điện khan hiếm, lại không có máy tiếp điện vào bình ắc-quy, Trần Công Nhõm gương mẫu thực hành tiết kiệm điện và động viên anh em áp dụng biện pháp "tăng quay giảm đề"1 (Đề-ma-rê (tiếng Pháp): khởi động bằng sức của bình điện), nâng lên thành phong trào chung, giải quyết được một phần khó khăn cho đơn vị.


Với tinh thần thương yêu đoàn kết giúp đỡ đồng chí, đồng đội những lúc khó khăn nguy hiểm, trên đường hành quân đồng chí nêu cao tinh thần sẵn sàng quên mình cứu xe, giúp bạn, cùng lập công tập thể.


Trần Công Nhỡn còn luôn luôn gương mẫu chấp hành chính sách, chế độ quy định, khiêm tốn, giản dị, được anh em yêu mến.


Đồng chí đã được tặng thưởng 1 Huân chương Chiến công hạng ba, 14 bằng khen và giấy khen, 2 năm là Chiến sĩ thi đua, 2 lẩn là Chiến sĩ Quyết thắng.


Ngày 18 tháng 6 năm 1969, Trần Công Nhỡn được Chủ tịch nước Việt Nam dân chủ cộng hòa tặng danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân.
Logged

Ai công hầu, ai khanh tướng, vòng trần ai, ai dễ biết ai
Thế Chiến Quốc, thế Xuân Thu, gặp thời thế, thế thời phải thế
Trang: « 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 16 17 »   Lên
  In  
 
Chuyển tới:  

Powered by MySQL Powered by PHP Powered by SMF 1.1.21 | SMF © 2006-2008, Simple Machines

Valid XHTML 1.0! Valid CSS! Dilber MC Theme by HarzeM