Lịch sử Quân sự Việt Nam
Tin tức: Lịch sử quân sự Việt Nam
 
*
Chào Khách. Bạn có thể đăng nhập hoặc đăng ký. 17 Tháng Tư, 2024, 04:13:32 am


Đăng nhập với Tên truy nhập, Mật khẩu và thời gian tự động thoát


Trang: « 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 »   Xuống
  In  
Tác giả Chủ đề: Hiệp định Paris về Việt Nam năm 1973 qua tài liệu của chính quyền Sài Gòn - T1  (Đọc 4047 lần)
0 Thành viên và 1 Khách đang xem chủ đề.
quansuvn
Moderator
*
Bài viết: 6599



WWW
« Trả lời #20 vào lúc: 10 Tháng Tư, 2022, 08:35:53 pm »

Trước đó, ngày 12-5-1968, qua thư của Chủ tịch Nguyễn Hữu Thọ gửi Chủ tịch Hồ Chí Minh, Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam cũng tỏ rõ lập trường đối với việc giải quyết vấn đề chiến tranh Việt Nam.

Thủ tướng Việt Nam Dân chủ Cộng hòa công bố lập trường 4 điểm ngày 8-4-19681 (Hồ sơ 964, ĐIICH, TTLTII)





Thư của Chủ tịch Ủy ban Trung ương Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam Nguyễn Hữu Thọ gửi Hồ Chủ tịch ngày 12-5-19681 (Hồ sơ 857, ĐIICH, TTLTII)






Logged

Ai công hầu, ai khanh tướng, vòng trần ai, ai dễ biết ai
Thế Chiến Quốc, thế Xuân Thu, gặp thời thế, thế thời phải thế
quansuvn
Moderator
*
Bài viết: 6599



WWW
« Trả lời #21 vào lúc: 10 Tháng Tư, 2022, 08:37:00 pm »

Toàn văn thư nêu rõ:

"Thưa Hồ Chủ tịch kính mến!

Giữa lúc toàn quân toàn dân miền Nam trên khắp các chiến trường đang thừa thắng xốc tới, liên tục tấn công và nổi dậy, giành được những thắng lợi mới hết sức to lớn và chuẩn bị mừng thọ Hồ Chủ tịch, thì thơ của Hồ Chủ tịch, từ trái tim cả nước đã truyền đến khắp miền Nam làm cho mọi người đều xúc động và nức lòng phấn khởi, tăng thêm nghị lực và niềm tin...


Trên khắp các đường phố ở Sài Gòn, Gia Định, Huế, Đà Nẵng cũng như vùng đồng bằng rộng mênh mông của Nam Bộ và núi rừng trùng điệp của Tây Nguyên, toàn thể đồng bào miền Nam và các lực lượng vũ trang yêu nước không phân biệt già trẻ, gái trai, kinh, thượng, bộ đội chủ lực, bộ đội địa phương, dân quân du kích, đã lắng nghe từng lời nồng nàn và sâu sắc trong thơ của Hồ Chủ tịch, theo đó là một niềm cổ vũ và khích lệ lớn lao, sự biểu dương và sự duy tân của Tổ quốc là ánh sáng chói ngời của chân lý.


Thưa Hồ Chủ tịch kính mến!

Đã hơn 13 năm nay, đế quốc Mỹ tiến hành một cuộc chiến tranh xâm lược cực kỳ dã man và tàn bạo ở miền Nam Việt Nam, kế tục và phát huy truyền thống cực kỳ bất khuất dân tộc, nhân dân miền Nam Việt Nam đã đứng lên chiến đấu đánh bại mọi âm mưu và kế hoạch xâm lược của đế quốc Mỹ, giành hết thắng lợi này đến thắng lợi khác. Từ đầu Xuân đến nay, đồng bào, chiến sĩ và cán bộ miền Nam liên tục tấn công và nổi dậy đồng loạt giáng cho Mỹ - ngụy những đòn sấm sét, giành được những thắng lợi to lớn hết sức và toàn diện. Những thắng lợi đó đã mở ra một cục diện mới hết sức thuận lợi cho nhân dân miền Nam Việt Nam, tạo điều kiện để cách mạng giải phóng miền Nam tiến lên mạnh mẽ, vững chắc đi đến thắng lợi hoàn toàn. Những thắng lợi hết sức to lớn và toàn diện của quân dân miền Nam Việt Nam đã giành được là thắng lợi của đường lối chánh trị, đường lối quân sự hoàn toàn đúng đắn và sáng tạo của cách mạng Việt Nam, thắng lợi của cách mạng đoàn kết và tinh thần tranh đấu bất khuất của 14 triệu nhân dân miền Nam đã thề "thà hy sinh tất cả, chứ nhất định không chịu mất nước, nhất định không chịu làm nô lệ". Những thắng lợi đó gắn liền với sự giúp đỡ hết lòng hết sức hỗ trợ của 17 triệu đồng bào miền Bắc, gắn liền với sự chăm lo săn sóc từng ngày từng giờ, sự động viên cổ võ hết sức quý báu của Hồ Chủ tịch, lãnh đạo vĩ đại của dân tộc đã suốt đời hy sinh phấn đấu cho sự nghiệp giải phóng cho dân tộc.


Hiện nay, tuy bị thua nặng và lâm vào tình thể khó khăn và nguy khốn, đế quốc Mỹ còn ngoan cố và xảo quyệt, vì vậy toàn dân và toàn quân miền Nam quyết đoàn kết chặt chẽ hơn nữa, luôn luôn nêu cao cảnh giác và tinh thần quyết chiến quyết thắng, ra sức phát huy no đủ, sửa chữa khuyết điểm, vượt qua mọi gian khổ hy sinh, đánh liên tục, đánh đều khắp, giành những thắng lợi mới to lớn hơn nữa.


Trong những giờ phút hết sức sôi nổi và oanh liệt này của sự nghiệp giải phóng dân tộc, miền Nam xin hứa với Hồ Chủ tịch và 17 triệu đồng bào ruột thịt miền Bắc rằng:

Chừng nào đế quốc Mỹ chưa chấm dứt chiêh tranh xâm lược miền Nam, để nhân dân miền Nam Việt Nam tự quyết định lấy vận mạng của mình thì nhân dân miền Nam và các lực lượng võ trang yêu nước của mình đoàn kết triệu người như một, nắm chắc tay súng và quyết tâm chiến đấu đến cùng. Có như vậy mới xứng đáng với lời khen của Hồ Chủ tịch, không có gì quý hơn độc lập tự do, không có sức mạnh bạo tàn nào, không có thế lực phản động nào, không có thủ đoạn xảo quyệt nào có thể lay chuyển được ý chí quyết chiến, quyết thắng và ngăn cản được nhân dân Nam Việt Nam tiến lên để thắng lợi cuối cùng.


Cả miền Nam quyết tiến lên, liên tục tấn công và nổi dậy và tiến công đánh bọn giặc Mỹ xâm lược, đập tan ngụy quyền và ngụy quân, giành lấy thắng lợi hoàn toàn. Cả miền Nam quyết tiến lên hoàn thành một cách đầy đủ nhiệm vụ trọng đại của dân tộc và nghĩa vụ quốc tế vẻ vang thái bình. Miền Nam Việt Nam nhất định được giải phóng, miền Bắc một lòng, toàn dân ta quyết định thắng đế quốc Mỹ. Tổ quốc Việt Nam nhất định được thống nhất"1 (Thư của Luật sư Nguyễn Hữu Thọ - Chủ tịch Chủ tịch đoàn Ủy ban Trung ương Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam gửi cho Chủ tịch Hồ Chí Minh ngày 12-5-1968, Hồ sơ 857, ĐIICH, TTLTII).
Logged

Ai công hầu, ai khanh tướng, vòng trần ai, ai dễ biết ai
Thế Chiến Quốc, thế Xuân Thu, gặp thời thế, thế thời phải thế
quansuvn
Moderator
*
Bài viết: 6599



WWW
« Trả lời #22 vào lúc: 10 Tháng Tư, 2022, 08:37:45 pm »

Phía Hoa Kỳ không đi vào giải quyết các vấn đề giữa hai bên như đã tuyên bố là trước hết giải quyết vấn đề về chấm dứt chiến tranh chống nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa rồi mới đề cập đến các vấn đề khác liên quan. Hoa Kỳ đưa ra quan điểm nhằm thực hiện mưu đồ đưa cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam của Hoa Kỳ trở về thời điểm xuất phát năm 1954, với các đòi hỏi phi lý: Tôn trọng trong vùng phi quân sự theo Hiệp định Genève 1954; Việt Nam Dân chủ Cộng hòa phải đáp ứng xuống thang; miền Nam tự do chọn lựa chính thể của họ theo phương thức "one man one vote" (một người một phiếu bầu); tôn trọng trung lập Lào (Genève 62); tôn trọng trung lập Campuchia; Hoa Kỳ và Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đồng triệt thoát tất cả lực lượng.


Cùng luận điệu, ngày 15-5-1968, Phái bộ liên lạc của chính quyền Sài Gòn tại Paris phát đi bản "tuyên ngôn" với lập trường cơ bản: nêu lên tính hợp pháp của cái gọi là Việt Nam Cộng hòa - chính thể được thiết lập trên sự phủ nhận và phá hoại Hiệp định Genève về Việt Nam năm 1954; và đòi hỏi Việt Nam Dân chủ Cộng hòa phải tôn trọng Hiệp định Genève năm 1954.


Tuy nhiên, mục đích chính yếu trong bản tuyên ngôn của chính quyền Sài Gòn không phải ở việc nêu lên lập trường đối với cuộc đàm phán về Việt Nam. Mục tiêu chính của bản tuyên ngôn hướng tới khẳng định trước dư luận vai trò của chính quyền Sài Gòn trong cuộc đàm phán mà họ đã bị gạt sang một bên; và nhắc nhở Hoa Kỳ phải có sự thảo luận với chính quyền Sài Gòn trước khi đưa ra bất kỳ quyết định gì liên quan đến Việt Nam. Ngay trong phần mở đầu của bản tuyên ngôn, chính quyền Sài Gòn đã nêu rõ: Chính phủ VNCH với sự đồng ý hoàn toàn của các nước đồng minh, đã chấp thuận sáng kiến của đồng minh Hoa Kỳ là nước đang mở một cuộc hội đàm sơ bộ với nhà cầm quyền Bắc Việt trong mục đích tìm kiếm hòa bình. Tuy nhiên, cuộc hội đàm này không thể nào đề cập sâu rộng đến vấn đề Việt Nam mà không có sự tham dự của VNCH, là nước sẽ đảm nhiệm vai trò chính yếu và quyết định khi bắt đầu những cuộc thương thuyết liên quan đến tương lai của VNCH"1 (Tuyên ngôn của Phái bộ liên lạc Việt Nam Cộng hòa tại Paris ngày 15-5- 1968, Hồ sơ 834, ĐIICH, TTLTII). Tại điều 3 của bản tuyên ngôn, chính quyền Sài Gòn tỏ ra quyết liệt, thậm chí mang tính đe dọa khi nhắc nhở Hoa Kỳ rằng: "Mọi sự dàn xếp có liên hệ trực tiếp hoặc gián tiếp đến tương lai của nhân dân miền Nam Việt Nam phải được sự thỏa thuận trước và rõ rệt của những đại diện hợp pháp của họ, tức là Chính phủ VNCH. Mọi giải pháp không tôn trọng nguyên tắc căn bản này; chẳng những không đưa đến nền hòa bình mong muốn mà chỉ làm cho cuộc xung đột hiện nay trầm trọng thêm"2 (Tuyên ngôn của Phái bộ liên lạc Việt Nam Cộng hòa tại Paris ngày 15-5- 1968, Tlđd).


Trước những đòi hỏi vô lý của Hoa Kỳ và chính quyền Sài Gòn, ngày 14-5-1968, trong bài phát biểu tại Trường đại học Alberta (Canada), Tổng thư ký Liên hợp quốc U. Thant tỏ rõ lập trường ủng hộ quan điểm của Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và kêu gọi Chính phủ Hoa Kỳ thực hiện một cuộc ngưng oanh tạc toàn diện vô điều kiện miền Bắc - vấn đề mà ông cho là bước đầu tiên hệ trọng để tiến tới hòa đàm3 (Tài liệu của Phủ Tổng thống Việt Nam Cộng hòa về lịch trình tiến triển Hội nghị sơ bộ Mỹ - Bắc Việt tại Ba Lê năm 1968, Hồ sơ 834, ĐIICH, TTLTII).


Như vậy, trải qua tiến trình dài, từ tháng 1-1967, khi những "tín hiệu" hòa đàm được chính Tổng thống Johnson phát đi, đến thời điểm Hoa Kỳ bị Quân Giải phóng đánh một đòn "choáng váng" trong dịp Tết Mậu Thân 1968, buộc phải ngồi vào đàm phán, Hội nghị Paris về Việt Nam mới chính thức được khai mạc.


Diễn tiến của quá trình đi đến khai mạc Hội nghị Paris về Việt Nam cho thấy, chính quyền Hoa Kỳ đến với cuộc đàm phán về chấm dứt chiến tranh ở Việt Nam thực tế không xuất phát từ mong muốn lập lại hòa bình cho nhân dân Việt Nam. Hoa Kỳ đổ quân, vũ khí và tiền bạc vào một cuộc chiến tranh không có lối thoát, khiến Hoa Kỳ bị chia rẽ sâu sắc. Dư luận Hoa Kỳ không ngừng kêu gọi chính phủ phải rút quân về nước, chấm dứt can thiệp vào Việt Nam. Do đó, chính quyền Johnson đẩy mạnh cuộc chiến trên mặt trận ngoại giao - tạo ra thứ "bánh vẽ" nhằm hướng dư luận Hoa Kỳ và thế giới xa rời diễn biến nóng bỏng trên chiến trường miền Nam Việt Nam. Song cuộc Tổng tiến công và nổi dậy của quân và dân miền Nam Việt Nam trong dịp Tết Mậu Thân 1968 và những ngày sau đó đã làm nhân dân yêu chuộng hòa bình tại Hoa Kỳ và thế giới bừng tỉnh, khiến Hoa Kỳ rơi vào sự chia rẽ sâu sắc nhất trong lịch sử. Những tổn thất nặng nề về nhân lực, vật lực của Hoa Kỳ vào một cuộc chiến tranh mà thắng lợi ngày càng xa vời khiến dư luận Hoa Kỳ công phẫn, đòi chính phủ thực hiện đàm phán, chấm dứt can thiệp vào Việt Nam. Chính phủ Hoa Kỳ không còn giải pháp nào khác hơn là buộc phải ngồi vào bàn đàm phán với Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa tại Paris.


Tuy nhiên, ngay từ phiên họp chính thức đầu tiên ngày 13-5-1968, chính quyền Johnson không đi vào giải quyết các vấn đề cơ bản mà đưa ra những đòi hỏi phi lý nhằm kéo dài cuộc đàm phán. Đồng thời, tại chiến trường miền Nam Việt Nam, liên quân Hoa Kỳ - Việt Nam Cộng hòa ra sức thực hiện các cuộc hành quân "quét giữ" giải tỏa áp lực của Quân Giải phóng tại các đô thị, tiến tới đẩy lui và tiêu diệt chủ lực quân của Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam, âm mưu dùng thắng lợi quân sự làm sức ép trong đàm phán.
Logged

Ai công hầu, ai khanh tướng, vòng trần ai, ai dễ biết ai
Thế Chiến Quốc, thế Xuân Thu, gặp thời thế, thế thời phải thế
quansuvn
Moderator
*
Bài viết: 6599



WWW
« Trả lời #23 vào lúc: 07 Tháng Năm, 2022, 07:24:49 am »

Phần hai
HOA KỲ LEO THANG CHIẾN TRANH - ĐÀM PHÁN TRÊN THẾ MẠNH


1. Chiến cuộc Hè - Thu năm 1968 và vòng đàm phán hai bên về Việt Nam

Bước vào tháng 5-1968, cục diện chiến tranh Việt Nam có sự diễn biến phức tạp. Trên mặt trận chính trị, ngoại giao, cuộc đấu tranh của nhân dân Việt Nam đã đạt nhiều thắng lợi to lớn. Cuộc kháng chiến trường kỳ của nhân dân Việt Nam đón nhận được sự ủng hộ rộng rãi của nhân dân yêu chuộng hòa bình trên thế giới, trong đó có cả đông đảo các tầng lớp nhân dân tiến bộ Hoa Kỳ. Ngược lại, Hoa Kỳ ngày càng bị cô lập trên trường quốc tế. Phong trào phản đối chiến tranh, chống can thiệp Mỹ trong nước nổ ra rầm rộ ở khắp nơi. Đặc biệt phong trào phản đối chiến tranh của nhân dân Mỹ đã khiến Hoa Kỳ rơi vào tình trạng bị chia rẽ sâu sắc. Trong lĩnh vực ngoại giao, ngày 10-5-1968, Hoa Kỳ buộc phải ngồi vào bàn đàm phán với Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa tại Paris.

Tuy nhiên, trên mặt trận quân sự, chiến cuộc ở miền Nam Việt Nam lại diễn ra sự giằng co ác liệt. Sau cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Tết Mậu Thân năm 1968, liên quân Hoa Kỷ - Việt Nam Cộng hòa tiến hành chiến dịch "quét và giữ" với quy mô và cường độ lớn gây ra những khó khăn không nhỏ cho Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam. Các cơ sở cách mạng ở vùng đô thị bị bóc gỡ, triệt phá. Tại địa bàn nông thôn, cơ sở hậu cần và địa bàn đứng chân của Quân Giải phóng bị uy hiếp mạnh.


Từ thực tế chiến trường, đầu tháng 5-1968, Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam quyết định mở đợt 2 cuộc Tổng tiến công và nổi dậy năm 1968 nhằm giành lại thế chủ động trên chiến trường và tạo cú hích cho bàn đàm phán hòa bình về Việt Nam.


Đêm 4 rạng 5-5, Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam mở màn đợt 2 Tổng tiến công bằng cuộc "Tổng pháo kích" vào các tỉnh lỵ, thị xã, chi khu, phi trường,... ở tổng cộng 127 địa điểm trên toàn miền Nam Việt Nam, "đặc biệt tấn công tỉnh lỵ Hậu Nghĩa và tái đột nhập Thủ đô Sài Gòn - Gia Định".

Ở chiến trường miền Trung - Tây Nguyên, Quân Giải phóng mở cuộc tấn công quy mô vào Đông Hà và Huế. Đồng thời, điều động Sư đoàn 325C từ Khe Sanh xuống phía tây Dakto để tăng cường cho mặt trận B3 uy hiếp Kontum.


Đối với Sài Gòn - Gia Định, chiến trường chính của cuộc tổng tiến công đợt 2, Quân Giải phóng thực hiện một số kế hoạch táo bạo bằng cách sử dụng 23 tiểu đoàn tấn công Sài Gòn và vùng phụ cận; đồng thời đưa lực lượng đặc công và cơ sở cách mạng trong nội thị đánh phá mạnh tại các Chi khu 5,6, 7 và 8. Không thực hiện phân tán lực lượng như cuộc tổng tấn công đợt 1, Quân Giải phóng tập trung đánh vào một số mục tiêu có giới hạn với hoả lực mạnh nhằm thọc sâu vào trung tâm Sài Gòn.


Phía tây Sài Gòn được coi là chiến trường Điểm, Quân Giải phóng sử dụng lực lượng lớn gồm Sư đoàn CT9, Trung đoàn 1 Phân khu 2 và một tiểu đoàn của Trung đoàn 88, đánh mạnh vào các mục tiêu Trung tâm cải huấn Chí Hòa, Bộ Tư lệnh Biệt khu thủ đô, phi trường Tân Sơn Nhất.


Theo báo cáo của Võ phòng, Phủ Tổng thống chính quyền Sài Gòn cho thấy:

Tại chiến trường Diện 1, phía đông bắc Sài Gòn, với lực lượng gồm Trung đoàn Đồng Nai, Tiểu đoàn 2 Trung đoàn 274, Tiểu đoàn 3 Dĩ An, Tiểu đoàn 4 Thủ Đức, Quân Giải phóng đánh vào các mục tiêu cầu Bình Lợi, cầu Xa Lộ, khu vực Hàng Xanh, khu vực cầu Thị Nghè và cầu Phan Thanh Giản.


Chiến trường Diện 2, phía nam Sài Gòn, lực lượng Quân Giải phóng gồm Tiểu đoàn Phú Lợi 2, Tiểu đoàn 508, Tiểu đoàn 5 Nhà Bè, Tiểu đoàn 265 tiến công các mục tiêu khu vực cầu Nhị Thiên Đường, khu vực Khánh Hội, trại gia binh cầu chữ Y.


Trong khi đó, ở phía bắc Sài Gòn, Quân Giải phóng triển khai mũi thọc sâu đánh vào Biệt khu thủ đô chính quyền Sài Gòn và chạm súng với liên quân Mỹ - Sài Gòn tại các khu vực vành đai ngoài ở Long An, Bình Dương, Hậu Nghĩa1 (Phiếu trình số 170/P.Th.T/VoP/2 ngày 18-5-1968 của Văn phòng Phủ Thủ tướng Việt Nam Cộng hòa về hoạt động VC, Hồ sơ 16175, PTTg, TTLTII).


Sau khi kết thúc cao điểm đầu của đợt 2 cuộc Tổng tiến công, cuối tháng 5, đầu tháng 6 năm 1968, Quân Giải phóng thực hiện cao điểm hai đánh vào trung tâm Sài Gòn - Gia Định. Tuy nhiên, do không còn yếu tố bí mật, bất ngờ, cao điểm hai của đợt 2 cuộc tổng tiến công không đạt được hiệu quả cao và gặp phải sự phản công mạnh của liên quân Hoa Kỳ - Việt Nam Cộng hòa. Nhất là từ cuối tháng 6-1968, chính quyền Thiệu đẩy mạnh chính sách chiến tranh với việc ban hành lệnh tổng động viên (ngày 19-6-1968); thực hiện kế hoạch "Tam thắng" (ngày 25-6-1968) giải tỏa Sài Gòn - Gia Đình; tổ chức chiến dịch Phụng Hoàng (ngày 1-7-1968), huy động mọi nguồn lực, tập trung đánh mạnh vào cơ sở hậu cần và địa bàn đứng chân của Quân Giải phóng ở vùng nông thôn. Đẩy mạnh chính sách chiến tranh, Hoa Kỳ và chính quyền Sài Gòn không chỉ hướng tới mục tiêu giành thế chủ động trên chiến trường mà còn âm mưu dùng sức ép quân sự, tạo thế mạnh trong đàm phán. Tuy nhiên, dù chiếm ưu thế hơn hẳn về người và phương tiện chiến tranh, nhưng trên chiến trường, liên quấn Hoa Kỳ - Việt Nam Cộng hòa không đạt được kết quả nào đáng kể. Kết thúc mùa Hè năm 1968, cục diễn chiến trường miền Nam vẫn ở thế giằng co ác liệt. Và vì vậy, trên bàn đàm phán tại Paris, phái đoàn Hoa Kỳ tiếp tục lảng tránh đi vào thảo luận thực chất vấn đề.


Mặc dù, ngay trong tuyên bố ngày 3-5-1968 - tuyên bố đã được Tổng thống Johnson chấp nhận để đi đến bàn phán tại Paris, Chính phủ nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đã xác định rõ lập trường đối với vòng đàm phán hai bên về Việt Nam. Đó là, trước hết phải giải quyết vấn đề tiên quyết - thảo luận việc Hoa Kỳ chấm dứt mọi hành động chiến tranh, chống phá nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, rồi mới bàn đến các vấn đề khác liên quan đến hai bên. Và ngay từ phiên họp thứ hai của vòng đàm phán hai bên về Việt Nam, ngày 15- 5-1968, Bộ trưởng Ngoại giao, Trưởng phái đoàn Việt Nam Dân chủ Cộng hòa - Xuân Thủy tiếp tục khẳng định lập trường nhất quán để tiến tới giải pháp hòa bình cho vấn đề Việt Nam là:

"1. Trước tiên Chính phủ Mỹ phải chấm dứt vĩnh viễn và không điều kiện việc ném bom bắn phá trên toàn lãnh thổ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa (nhất là từ Thanh Hóa đến Vĩnh Linh).

2. Chính phủ Mỹ phải chấm dứt ngay mọi hành động chiến tranh khác như (thả truyền đơn, thả quà tâm lý, thả biệt kích vào Bắc Việt,...).

3. Chính phủ Mỹ phải thi hành điều kiện trên nhưng không được đặt bất cứ điều kiện gì với nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.
Logged

Ai công hầu, ai khanh tướng, vòng trần ai, ai dễ biết ai
Thế Chiến Quốc, thế Xuân Thu, gặp thời thế, thế thời phải thế
quansuvn
Moderator
*
Bài viết: 6599



WWW
« Trả lời #24 vào lúc: 07 Tháng Năm, 2022, 07:28:58 am »

Để tỏ ra mình có thiện chí, Chính phủ Mỹ phải thực hiện những đòi hỏi chính đáng và vô cùng bức thiết nêu trên. Về phần Việt Nam Dân chủ Cộng hòa với thiện chí đã cử đại diện tới Ba Lê nói chuyện chính thức và nghiêm chỉnh với đại diện của Mỹ"1 (Bản tóm lược một số quan điểm về hòa bình số 1737 ngày 11-6-1968 của Bộ Ngoại giao Việt Nam Cộng hòa, Hồ sơ 834, ĐIICH, TTLTII).


Ngược lại, ngay từ những phiên họp đầu tiên, phái đoàn Hoa Kỳ tránh né giải quyết vấn đề chấm dứt chiến tranh phá hoại miền Bắc mà liên tục đưa ra và thay đổi các luận điểm, đề nghị về giải quyết vấn đề chính trị của miền Nam Việt Nam. Tại phiên họp thứ nhất, ngày 13-5-1968, phái đoàn Hoa Kỳ âm mưu đưa cuộc chiến tranh Việt Nam trở về thời điểm năm 1954. Thì tại phiên họp thứ hai, ngày 15-5-1968, Harriman - Trưởng phái đoàn Hoa Kỳ, đưa thêm một số giải pháp chính trị cho miền Nam Việt Nam, như: "Đề cập tới một miền Nam Việt Nam độc lập và dân chủ; vấn đề nội bộ của miền Nam Việt Nam do chính nhân dân miền Nam Việt Nam tự giải quyết; thống nhất Việt Nam bằng phương pháp ôn hòa và sự lựa chọn tự do của nhân dân hai miền Nam Bắc",...2 (Bản tóm lược một số quan điểm về hòa bình số 1737 ngày 11-6-1968 của Bộ Ngoại giao Việt Nam Cộng hòa, Tlđd). Đến phiên họp thứ 9, ngày 19-6-1968, phái đoàn Hoa Kỳ tiếp tục đưa ra luận điệu xuyên tạc Hiệp định Genève năm 1954 về Việt Nam:

"1. Hoa Kỳ tin tưởng rằng Hiệp định Genève 1954 có thể dùng làm căn bản vững chắc để tiến tới sử dàn xếp cho vấn đề Việt Nam.

2. Mục đích vùng phi quân sự là chia Việt Nam thành hai chính thể khác biệt nhằm giảm các cuộc xung đột giữa hai phe, chứ không làm trở ngại cho việc thống nhất đất nước bằng phương tiện ôn hòa.

3. Hoa Kỳ tán thành các biện pháp nêu tại Hiệp định Genève 1954, như việc ngừng chiến, tái lập vùng phi quân sự, từ bỏ mọi hành động võ lực, sự kiểm soát quốc tế hữu hiệu, và tổng tuyển cử tự do, không bị cưỡng bức hoặc sự can thiệp ngoại giao"1 (Công văn số 363/VP/M ngày 22-6-1968 về cuộc họp lần thứ 9 ngày 19-6-1968 giữa Hoa Kỳ và Bắc Việt tại Paris của Bộ Ngoại giao Việt Nam Cộng hòa, Hồ sơ 870, ĐIICH, TTLTII).


Trước những lời lẽ tráo trở và lập luận phi lý của phái đoàn Hoa Kỳ, tại phiên họp thứ tư, ngày 22-5-1968, Bộ trưởng Xuân Thủy vạch trần tính chất tay sai, bù nhìn cho chủ nghĩa thực dân mới Mỹ của chính quyền Sài Gòn. Đồng thời, ông mạnh mẽ truy vấn phái đoàn Hoa Kỳ về chính các đề nghị của họ, với các câu hỏi trực diện, như "Liệu Hoa Kỳ có dám công nhận quyền tự quyết của nhân dân miền Nam không?" và bao giờ Hoa Kỳ chấm dứt hành động chiến tranh chống phá miền Bắc? Bị truy vấn bất ngờ, Trưởng phái đoàn Hoa Kỳ - Harriman tỏ ra lúng túng, trả lời tránh né. Với câu hỏi thứ nhất, ông ta nói: "Tổng thống Johnson đã nói rằng, chúng tôi có mặt tại Việt Nam để bảo vệ quyền của nhấn dân Nam Việt Nam trên căn bản mỗi người một lá phiếu"2 (Bản tóm lược một số quan điểm về hòa bình số 1737 ngày 11-6-1968 của Bộ Ngoại giao Việt Nam Cộng hòa, Hồ sơ 834, ĐIICH, TTLTII). Câu hỏi thứ hai, ông ta cũng trích lời Tổng thống Johnson trong tuyên bố ngày 31-3-1968: "ngay chính cuộc oanh tạc hạn chế miền Bắc cũng có thể sớm chấm dứt, nếu sự hạn chế của chúng ta đáp ứng bằng một hạn chế của Hà Nội"3 (Bản tóm lược một số quan điểm về hòa bình số 1737 ngày 11-6-1968 của Bộ Ngoại giao Việt Nam Cộng hòa, Tlđd).


Do thái độ tránh né của Hoa Kỳ, các phiên họp tiếp theo trở thành "diễn đàn" tranh luận về tính chất của cuộc chiến tranh Việt Nam, về sự xâm lược của Hoa Kỳ và bản chất tay sai của chính quyền Sài Gòn,... mà không có sự tiến triển nào. Tuy nhiên, từ phiên họp thứ sáu, Hội nghị Paris về Việt Nam xuất hiện hiện tượng mới. Trong phiên họp thứ 6, ngày 31-5-1968, Harriman - Trưởng phái đoàn Hoa Kỳ, trong lúc họp đã đề nghị với phái đoàn Việt Nam Dân chủ Cộng hòa nghỉ giải lao 15 phút. Trong thời gian giải lao, phái đoàn Hoa Kỳ mời phái đoàn Việt Nam Dân chủ Cộng hòa tới phòng riêng uống trà và chỉ nói chuyện thời tiết1 (Phiếu gửi số 330 BNG/VP/M phúc trình hoạt động từ ngày 31-5 đến 5-6 của Phái đoàn liên lạc Việt Nam Cộng hòa tại Paris, Hồ sơ 780, ĐIICH, TTLTII). Và từ sau phiên họp thứ sáu, hiện tượng ngưng họp để giải lao trở thành lệ. Động thái trên của phái đoàn Hoa Kỳ thể hiện rõ chính sách đàm phán trì hoãn, hòng tìm kiếm những thắng lợi về quân sự làm thay đổi cục diện chiến trường, đi đến kết thúc chiến tranh trên thế mạnh của Hoa Kỳ.


Ngày 26-6-1968, tại phiên họp thứ 10, trong bài phát biểu dài, Bộ trưởng Ngoại giao Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, Xuân Thủy đã mạnh mẽ chỉ trích thái độ đàm phán không nghiêm chỉnh của Hoa Kỳ. Toàn văn bài phát biểu của ông nêu rõ:

"Trong phiên họp trước, các ngài lại tiếp tục xuyên tạc tinh thần cơ bản của Hiệp nghị Genève, tô điểm cho ngụy quyền Sài Gòn và vẫn không chịu xác định "việc chấm dứt không điều kiện việc ném bom và mọi hành động chiến tranh khác chống nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa".

Hôm nay, tôi phát biểu ý kiến thêm về vấn đề này.

Mỹ đã xuyên tạc nội dung cơ bản của Hiệp nghị Genève 1954 về Việt Nam nhằm phục vụ cho âm mưu xâm lược của Mỹ:

Sau gần một thế kỷ dưới ách thực dân, nhân dân Việt Nam đã đấu tranh không mệt mỏi để thực hiện cách mạng giải phóng dân tộc và đã thành công trong cuộc Tổng khởi nghĩa Tháng Tám 1945. Bản Tuyên ngôn độc lập của nhân dân Việt Nam được công bố trước nhân dân thế giới vào ngày 2-9-1945 và nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ra đời từ đó. Ngày 6-1-1946, cuộc tổng tuyển cử đã được tiến hành trong cả nước Việt Nam, để bầu ra Quốc hội và tháng 11-1946, Quốc hội nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đã thông qua bản hiến pháp đầu tiên trong lịch sử Việt Nam. Nhưng thực dân đã gây chiến tranh xâm lược trở lại. Mặc dù được Mỹ ủng hộ và giúp đỡ, chiến tranh xâm lược đó đã thất bại. Cuộc kháng chiến yêu nước của nhân dân Việt Nam đã đạt được thắng lợi vẻ vang. Chính trong điều kiện lịch sử đó mà Hiệp nghị Genève 1954 về Việt Nam được ký kết.


Điều kiện lịch sử đó đã quyết định tinh thần, nguyên tắc cơ bản và điều khoản chủ yếu của Hiệp nghị Genève về Việt Nam.

Tinh thần quán triệt của Hiệp nghị đó là, chống đế quốc, thực dân và công nhận các quyền dân tộc cơ bản của nhân dân Việt Nam. Trên cơ sở đó đảm bảo hòa bình thực sự, vững chắc và lâu dài ở Việt Nam và Đông Dương.


Nguyên tắc cơ bản của Hiệp nghị Genève là công nhận độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của Việt Nam, cấm nước ngoài không được can thiệp vào công việc nội bộ của Việt Nam.

Điều khoản chủ yếu của Hiệp nghị Genève là quân đội xâm lược phải tập kết phía Nam giới tuyến quân sự tạm thời được quy định ở vĩ tuyến 17 để chờ ngày rút khỏi Việt Nam. Giới tuyến quân sự tạm thời bị xóa bỏ, nước Việt Nam sẽ được thống nhất bằng tổng tuyển cử tự do trong cả nước vào tháng 7-1956. Hiệp nghị Genève còn cấm liên minh quân sự với nước ngoài, cấm nước ngoài đưa quân đội, dụng cụ chiến tranh và đặt căn cứ quân sự ở Việt Nam.
Logged

Ai công hầu, ai khanh tướng, vòng trần ai, ai dễ biết ai
Thế Chiến Quốc, thế Xuân Thu, gặp thời thế, thế thời phải thế
quansuvn
Moderator
*
Bài viết: 6599



WWW
« Trả lời #25 vào lúc: 07 Tháng Năm, 2022, 07:30:11 am »

Ai cũng nhớ rằng trong phiên họp cuối cùng của Hội nghị Genève ngày 20-7-1954, đại diện của Mỹ là B. Smith đã long trọng tuyên bố không "xâm phạm đến Hiệp nghị bằng đe dọa dùng vũ lực hoặc bằng cách dùng vũ lực".


Nhưng vốn không thích thú Hiệp nghị Genève mà bắt buộc phải thừa nhận, nên ngay ngày hôm sau (21-7-1954), Tổng thống Mỹ Eisenhower lại tuyên bố rằng "Mỹ không tham gia những quyết định của hội nghị cho nên không bị quyết định đó ràng buộc".


Giờ đây, phía Mỹ lại cho rằng Mỹ vẫn tin tưởng là hòa bình có thể và phải được lập lại trên cơ sở những điều cơ bản của Hiệp định Genève. Như vậy, chẳng qua là Mỹ lại dùng một thủ đoạn mới để tiếp tục phá hoại Hiệp định Genève về Việt Nam và tiếp tục âm mưu xâm lược.


Mỹ đã lảng tránh những nguyên tắc cơ bản và điều khoản chủ yếu có giá trị vĩnh viễn của Hiệp nghị mà chỉ dựa vào những điều khoản quy định biện pháp tạm thời gắn liền với việc ngừng bắn để thực hiện ý đồ đen tối của Mỹ. Về vấn đề nay tôi đã vạch rõ trong nhiều lần trước đây và sẽ dành quyền nói trở lại sau này. Hôm nay, tôi chỉ nói đến mấy điều xuyên tạc Hiệp nghị Genève đã nêu ra trong bài phát biểu ngày 19-6-1968 của phía Mỹ.


a) Theo Mỹ thì điều khoản cơ bản thứ nhất của Hiệp nghị Genève là tập kết và chuyển quân.

Nhưng theo đúng Hiệp định Genève thì những điều khoản về tập kết và chuyển quân chỉ là tạm thời và được quy định để thực hiện ngừng bắn và rút quân đội xâm lược ra khỏi Việt Nam. Điều cơ bản là công nhận độc lập chủ quyền thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của Việt Nam.

b) Theo Mỹ thì điều khoản cơ bản thứ hai là việc thành lập khu phi quân sự. Nhưng rõ ràng là khu phi quân sự gắn liền với giới tuyến quân sự tạm thời và có tính chất tạm thời như giới tuyến. Trong khi cho rằng đây là điều khoản cơ bản, ý đồ của Mỹ là nhằm thay đổi tính chất của giới tuyến quân sự tạm thời, biến nó thành biên giới chính trị và lãnh thổ, vĩnh viễn, mặc dù Mỹ có chối cãi điều đó.

c) Theo Mỹ thì điều khoản cơ bản thứ ba là hai bên không được dùng vũ lực nữa". Mỹ lấy việc hai bên cùng ngừng bắn, trong thời kỳ 1954-1955 làm thành nguyên tắc, để ngăn cản cuộc đấu tranh giải phóng sáng ngời chính nghĩa của nhân dân Việt Nam chống xâm lược Mỹ và tay sai.

d) Mỹ cho rằng điều cơ bản thứ tư là phải có sự giám sát quốc tế. Nhưng thực ra Mỹ muốn lợi dụng sự giám sát quốc tế để vĩnh viễn thống trị Việt Nam.

e) Mỹ cho rằng việc xác định tương lai chính trị phải do nhân dân Việt Nam và phải có hòa bình thì nhân dân mới có thể tự do biểu thị ý nguyện của mình. Nhưng chính Mỹ đã phá hoại những biện pháp cụ thể để thực hiện hòa bình thống nhất Việt Nam.

Đặc biệt là phía Mỹ đã xuyên tạc Hiệp định Genève để bào chữa cho ngụy quyền Sài Gòn một cách rất gượng gạo và khá trơ trẽn.


Ngụy quyền Sài Gòn chỉ là một công cụ của Mỹ để nô dịch nhân dân miền Nam, phục vụ cho chiến tranh xâm lược của Mỹ phá hoại Hiệp định Genève:

Trong các phiên họp trước, tôi đã nhiều lần vạch trần tính chất bất hợp pháp của chính quyền tay sai do Mỹ dựng lên ở miền Nam Việt Nam nhằm phục vụ chính sách xâm lược và nô dịch của Mỹ. Giờ đây phía Mỹ lại đi ngược lên xa hơn lịch sử cho rằng chính quyền đã "có trước Hiệp nghị Genève" để tìm ra một cơ sở "hợp pháp" cho nó.


Nhưng, mọi người đều biết, ngay trong cuộc chiến tranh Đông Dương trước đây, đi đôi với tăng cường can thiệp về quân sự; Mỹ đã có âm mưu dần dần tạo nên một chính quyền bù nhìn thân Mỹ dưới chiêu bài "độc lập" giả hiệu, theo chính sách thực dân kiểu mới của Mỹ. Âm mưu của Mỹ là sử dụng chính quyền đó vừa làm công cụ để chống lại cuộc kháng chiến của nhân dân Việt Nam, vừa để cho Mỹ có thể dễ dàng can thiệp sâu vào Việt Nam.


Cho nên bọn bù nhìn đó chẳng những không đại diện cho nhân dân mà còn bị nhân dân chống lại và cuối cùng chúng đã phải "tập kết" theo quân đội thực dân vào miền Nam và theo Hiệp định Genève 1954, nó chỉ có trách nhiệm quản lý hành chính tạm thời trong lúc chờ đợi tổng tuyển cử để thống nhất nước Việt Nam.


Từ sau khi có Hiệp nghị Genève thì việc Mỹ tạo nên ở miền Nam Việt Nam một quốc gia riêng rẽ bằng các trò hề "trưng cầu dân ý" lập "nước Cộng hòa Việt Nam", ban hành "Hiến ước tạm thời" đồng thời cự tuyệt tổng tuyển cử để thống nhất Việt Nam vào tháng 7 năm 1956 là hoàn toàn trái với Hiệp nghị Genève về Việt Nam. Vì vậy sự tồn tại của cái gọi là "nước Cộng hòa Việt Nam" với các thể chế quốc gia của nó sau tháng 7 năm 1956 lại càng bất hợp pháp.


Mỹ lại còn rêu rao về cái trò hề "bầu cử", "hiến pháp", "thượng hạ nghị viện" của bọn Nguyễn Văn Thiệu và Nguyễn Cao Kỳ hiện nay. Tôi đã vạch trần những trò bịp này trong các bài phát biểu trước của tôi nhất là trong ngày 12-6-1968. Hôm nay, tôi xin nói thêm một số điểm.


Sau khi Diệm - Nhu chết, trước phong trào đấu tranh mạnh mẽ của nhân dân và với thủ đoạn "nay dùng mai bỏ" như thay áo, chỉ trong vòng 19 tháng, từ tháng 11-1963 đến tháng 6-1965, qua 13 lần đảo chính và có lúc mệnh danh là "chỉnh lý nội bộ", Mỹ đã thay đổi nhiều kiểu ngụy quyền, nhiều hạng tay sai, mà không tài nào ổn định được ngụy quyền.


Trong lúc đó, chiến lược "chiến tranh đặc biệt" của Mỹ bị phá sản. Mỹ bắt đầu đưa quân viễn chinh Hoa Kỳ tiến hành "chiến tranh cục bộ" xâm lược miền Nam Việt Nam. Đồng thời, tiến hành cuộc chiến tranh phá hoại đối với miền Bắc Việt Nam. Vì đã tự bóc trần bộ mặt xâm lược thực dân, cho nên Mỹ càng phải cố gắng xây dụng và củng cố ngụy quyền làm chỗ dựa về chánh trị, hòng che dâu bớt tính chât chiến tranh xàm lược" của Mỹ. Mỹ đã đưa những tên tay sai hung hăng, hiếu chiến nhất, như Nguyễn Văn Thiệu, Nguyễn Cao Kỳ ra cầm đầu bộ máy ngụy quyền và ngụy quân. Đồng thời, Mỹ đã ruồng bỏ nhiều tay sai khác mà chúng thấy không cần thiết nữa, thậm chí đầy đọa và buộc họ phải sống lưu vong ở nước ngoài.


Từ khi Thiệu - Kỳ lên cầm đầu ngụy quyền, ngụy quân, cuộc đấu tranh của nhân dân và các lực lượng vũ trang nhân dân giải phóng ngày càng tăng cường và thắng lợi, sự lục đục tan rã của ngụy quyền Sài Gòn càng diễn ra liên tục. Trước tình hình ấy, Mỹ phải đề cả một kế hoạch củng cố và ổn định ngụy quyền, cố tạo lại cho nó cái mặt nạ dân chủ và hợp pháp. Trong vòng mấy tháng, Mỹ đã đạo diễn cho bọn tay sai tiến hành nào là "bầu cử quốc hội lập hiến", thảo "hiến pháp", "bầu cử Tổng thống", "thượng nghị viện" và "hạ nghị viện".
Logged

Ai công hầu, ai khanh tướng, vòng trần ai, ai dễ biết ai
Thế Chiến Quốc, thế Xuân Thu, gặp thời thế, thế thời phải thế
quansuvn
Moderator
*
Bài viết: 6599



WWW
« Trả lời #26 vào lúc: 07 Tháng Năm, 2022, 07:31:07 am »

Nhưng nhân dân miền Nam tiếp tục thắng lợi, đã bước sang thời kỳ mới, tổng tấn công và nổi dậy đồng loạt từ tháng 1-1968 đến nay, cho nên những trò hề này kết thúc chưa được 7 tháng thì cái gọi là "chính phủ dân sự" do Nguyễn Văn Lộc làm thủ tướng đã bị phế bỏ. Trần Văn Hương đã bị gạt bỏ năm 1965, lại được Mỹ cho ra lập "chính phủ" bù nhìn. Một cuộc tranh giành quyển hành địa vị đang diễn ra gay gắt giữa Thiệu và Kỳ và giữa bọn bù nhìn khác với nhau.


Nếu Ngô Đình Diệm đã lộ nguyên hình là tên bạo chúa thời Trung cổ, thì bọn Thiệu - Kỳ ngày nay tàn ác cũng không kém. Được đội quân viễn chinh xâm lược Mỹ trên nửa triệu người đứng bên cạnh, chúng đã và đang huy động ngụy quân và lực lượng cảnh sát hàng ngày dùng các loại dụng cụ chiến tranh và vũ khí hiện đại của Mỹ; kể cả máy bay chiến lược, bom napan, chất độc hóa học và hơi độc, giết hại nhân dân miền Nam Việt Nam. Chúng dồn dân, cướp đất, lập những vành đai trắng và những trại tập trung kiểu phát xít, ngụy trang dưới nhiều tên từ "khu trù mật" đến "ấp chiến lược", "ấp tân sinh". Thực hiện chính sách "phá sạch, đốt sạch, giết sạch", chúng đã hủy diệt từng thôn, ấp, có trận giết chết hoặc thiêu sống một lúc hàng mấy trăm người. Chúng đã đem quân đội và cảnh sát đàn áp hết sức khốc liệt nhân dân các thành thị đứng lên chống chế độ độc tài, quân sự, đòi độc lập tự do, đòi dân sinh, dân chủ, đòi chấm dứt chiến tranh xâm lược của Mỹ,.... Chúng đã dựng trường bắn ngay giữa thành phố Sài Gòn để bắn giết những người yêu nước. Gần đây, chúng đã dùng máy bay, đại bác, ném bom, bắn phá, hủy nhiều khu phố đông dân ở các thành phố, nhất là Huế, Sài Gòn làm cho hàng vạn người bị chết, hàng chục vạn người không nơi ăn chôn ở, chiếu đất, màn trời. Trắng trợn hơn nữa, Thiệu - Kỳ còn ra đạo luật đặt những người cộng sản và trung lập ra ngoài vòng pháp luật để đàn áp, khủng bố những ai chống lại chánh sách làm tay sai cho Mỹ của chúng. Bất kỳ người nào nói đến hòa bình, trung lập, nói đến chống chiến tranh cũng đều bị chúng khủng bố. Nhiều nhà tu và tín đồ các tôn giáo, nhiều sinh viên và trí thức, cả những nhà công thương yêu nước đã bị chúng bắt bớ giam cầm.


Chỉ trong mười mấy năm qua, theo sổ liệu chưa đầy đủ, Mỹ và tay sai ở miền Nam Việt Nam đã giết chết hơn 170.000 người, làm bị thương và tra tân đèn tàn phế hơn 800.000 người (trong đó có hơn 150.000 là phụ nữ và trẻ em), giam cầm trên 500.000 người trong hơn 1.000 nhà tù, đó là chưa kể chúng giam 5.000.000 người trong 8.000 trại giam trá hình và "ấp chiến lược". Chúng đã hãm hiếp hơn 40.000 phụ nữ, trong đó có nhiều em bé và người tu hành. Chúng đã mổ bụng, moi gan, chôn sống trên 5.000 người.


Mỹ và tay sai còn bóc lột hà khắc công nhân, nông dân và nhân dân lao động, bóp nghẹt và làm phá sản các ngành công thương nghiệp và thủ công nghiệp, đưa nền công, nông nghiệp của miền Nam Việt Nam vào tình trạng đình đốn, hoàn toàn lệ thuộc vào kinh tế, tài chính Mỹ. Về nông nghiệp, miền Nam là nơi xuất cảng lúa. Trước đây, hàng năm vẫn bán ra trên nửa triệu tấn gạo, thì nay phải nhập cảng của Mỹ và các nước chư hầu Mỹ một khối lượng gạo tương tự. Từ cây kim, sợi chỉ đều phải mua của Mỹ: Nạn thất nghiệp càng ngày càng tăng, chẳng những Mỹ, ngụy không giải quyết mà còn lợi dụng để bắt thanh niên đi lính làm bia đỡ đạn cho chúng và đưa phụ nữ vào con đường sa đọa.


Ngụy quyền Sài Gòn đã đem văn hóa đồi trụy, ngoại lai của Mỹ đầu độc nhân dân miền Nam Việt Nam, làm cho phong hóa suy đồi, luân thường đảo ngược, phong tục, tập quán tốt đẹp lâu đời của nhân dân Việt Nam bị chà đạp, ai thấy cũng căm thù. Trần Ngọc Liễng, Bộ trưởng Thanh niên lúc Nguyễn Cao Kỳ làm thủ tướng đã thú nhận: "nạn mãi dâm hiện nay đang bành trướng khủng khiếp và số thanh niên phạm pháp lên đến con số 300.000" (UPI 26-8-1966).


Tình trạng tham nhũng, thối nát, tranh ăn trong bọn cầm đầu ngụy quân và ngụy quyền trở thành một căn bệnh không thể nào chữa được. Một báo cáo của tiểu ban về tị nạn trong Thượng nghị viện Mỹ gần đây nhất cũng phải nhận rằng "sự tham nhũng đầy rẫy ờ mọi cấp chính quyền Sài Gòn".


Tóm lại, từ Diệm - Nhu đến Thiệu - Kỳ, ngụy quyền Sài Gòn chẳng những là hoàn toàn bất hợp pháp, trái với Hiệp nghị Genève mà chúng đã "bán đứng miền Nam Việt Nam cho đế quốc Mỹ. Chúng áp bức, bóc lột đồng bào miền Nam một cách vô cùng tàn bạo. Chúng bắt thanh niên miền Nam đi lính cho Mỹ giết hại đồng bào. Chúng còn bày trò xây dựng hiến pháp, bầu cử đề mị dân. Chúng chỉ là một bọn Việt gian bán nước, hại dân, một công cụ của đế quốc Mỹ, để nô dịch nhân dân miền Nam, chia cắt lâu dài nước Việt Nam và phục vụ chiến tranh xâm lược của Mỹ" (Cương lĩnh chính trị của Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam).


Hàng ngày những hành động man rợ của chúng đã phá hoại sự sống còn của nhân dân và đất nước, động chạm đến nên vãn hóa nghìn năm của dân tộc, lương tâm tình cảm con người, không một người Việt Nam yêu nước nào không căm thù nguyền rủa chúng.


Ở miền Nam Việt Nam, người đại diện chân chính của nhân dân là Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam:

Đẻ ra trong phong trào yêu nước của nhân dân chống Mỹ và tay sai, lớn lên cùng với sự lớn mạnh của phong trào, Mặt trận ngày càng có cơ sở vững mạnh và ảnh hưởng sâu rộng. Mặt trận bao gồm trên 40 tổ chức yêu nước của các tầng lớp nhân dân, các đảng phái chính trị, các tôn giáo ở miền Nam Việt Nam phản ánh khối đại đoàn kết toàn dân, chống Mỹ, cứu nước. Mặt trận đã tổ chức, lãnh đạo cuộc kháng chiến ngày càng thắng lợi, giải phóng phần lớn đất đai, dân số, cấp cho nông dân hai triệu hécta ruộng đất và đã trở thành một chính quyền trên thực tế, một chính quyền dân chủ, bảo vệ nhân dân, phát triển kinh tế và văn hóa, chăm lo đời sống của nhân dân miền Nam Việt Nam.

Lực lượng vũ trang của Mặt trận đã từ những đơn vị nhỏ tiến lên những sư đoàn, từ trang bị vũ khí thô sơ, tiến lên trang bị vũ khí ngày càng hiện đại, từ chiến đâu lẻ tẻ tiến lên đánh tập trung vận động, giành những thắng lợi ngày càng to lớn.


Dưới sự lãnh đạo sáng suốt của Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam, nhân dân miền Nam Việt Nam không những giành được thắng lợi to lớn ở miền Nam Việt Nam mà cả ở trên trường quốc tế. Ngót 20 nước đã nhận cơ quan đại diện chính thức của Mặt trận đặt tại nước mình. Mặt trận cũng có đại diện chính thức trong nhiều tổ chức quốc tế dân chủ của nhiều tầng lớp trên thế giới. Mặt trận đã cử đại biểu tham dự hơn 70 kỳ họp của các hội nghị quốc tế và quốc gia, hơn 80 lần đi thăm hữu nghị nhiều nước ở châu Á, Phi, Mỹ latinh và châu Âu. Nhiều nước, nhiều tổ chức quần chúng sẵn sàng đưa quân tình nguyện sang giúp nhân dân miền Nam Việt Nam, giúp Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam chống Mỹ xâm lược.


Mặt trận tiếp tục vẻ vang truyền thống chống ngoại xâm của dân tộc Việt Nam là lực lượng chính trị to lớn đảm đương nhiệm vụ lịch sử hiện nay là chiến thắng xâm lược Mỹ và tay sai để giải phóng miền Nam Việt Nam bảo vệ miền Bắc, tiến tới hòa bình thống nhất nước nhà, góp phần bảo vệ hòa bình Đông Dương, Đông Nam Á và thế giới.
Logged

Ai công hầu, ai khanh tướng, vòng trần ai, ai dễ biết ai
Thế Chiến Quốc, thế Xuân Thu, gặp thời thế, thế thời phải thế
quansuvn
Moderator
*
Bài viết: 6599



WWW
« Trả lời #27 vào lúc: 07 Tháng Năm, 2022, 07:32:57 am »

Liên minh các lực lượng, dân chủ và hòa bình Việt Nam vừa được thành lập ở miền Nam Việt Nam do Luật sư Trịnh Đình Thảo đứng đầu tuyên bố kiên quyết chống ngoại xâm, đánh đổ toàn bộ chế độ bù nhìn Thiệu - Kỳ giành độc lập dân chủ và hòa bình, tỏ ý đoàn kết với Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam do Luật sư Nguyễn Hữu Thọ đứng đầu. Rõ ràng là ở miền Nam Việt Nam, mặt trận chống Mỹ và tay sai ngày càng mở rộng.


Cơ sở của sức mạnh, uy tín của Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam là ở đâu? Chính là ở chỗ Mặt trận là tiêu biểu cho những nguyện vọng thiết tha nhất của nhân dân miền Nam Việt Nam.

Cương lĩnh chính trị của Mặt trận đã nói rõ: "Đoàn kết toàn dân, kiên quyết đánh bại chiến tranh xâm lược của đế quốc Mỹ, đánh đổ ngụy quyền tay sai của chúng, thành lập chính quyền liên hiệp dân tộc và dân chủ rộng rãi, xây dựng miền Nam Việt Nam độc lập dân chủ, hòa bình, trung lập và phồn vinh, tiến tới hòa bình thống nhất Tổ quốc" đúng theo quyên dân tộc mà hiệp nghị Genève 1954 đã quy định.


Để thực hiện mục tiêu của mình, khi nói về việc "thực hiện một chế độ dân chủ rộng rãi và tiến bộ", Mặt trận đã nêu rõ là:

"Xóa bỏ chế độ thuộc địa trá hình do đế quốc Mỹ đặt ra ở miền Nam Việt Nam: đánh đổ ngụy quyền bù nhìn tay sai Mỹ, không thừa nhận quốc hội bù nhìn do đế quốc Mỹ và tay sai nặn ra; bãi bỏ hiến pháp và mọi luật lệ phản dân tộc, phản dân chủ của đế quốc Mỹ và ngụy quyền".

"Tổ chức tổng tuyển cử tự do, bầu ra quốc hội một cách thật sự dân chủ, theo nguyên tắc phổ thông, bình đẳng, trực tiếp và bỏ phiếu kín. Quốc hội đó sẽ là cơ quan nhà nước có quyền lực cao nhất ở miền Nam Việt Nam; nó sẽ xây dựng một hiến pháp dân chủ thể hiện đầy đủ nguyện vọng cơ bản và tha thiết nhất của các tầng lớp nhân dân miền Nam, bảo đảm thiết lập một cơ cấu nhà nước dân chủ rộng rãi và tiến bộ. Bảo đảm quyền bất khả xâm phạm của các đại biểu quốc hội".

"Thành lập chính phủ liên hiệp dân tộc và dân chủ bao gồm những người tiêu biểu nhất của các tầng lớp nhân dân, các dân tộc, các tôn giáo, các đảng phái yêu nước và dân chủ, các nhân sĩ yêu nước, các lực lượng đã góp phần vào sự nghiệp giải phóng dân tộc"....

Chỉ có dựa trên cơ sở đúng đắn của Cương lĩnh chính trị của Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam thì ở miền Nam Việt Nam mới có được một quốc hội thực sự do dân bầu ra, có một hiến pháp dân chủ và mới có thể thành lập một chính phủ liên hiệp dân tộc và dân chủ thực sự đại diện cho nhân dân.


Cương lĩnh chính trị của Mặt trận cũng đã có những chính sách cụ thể:

- Xây dựng một nền kinh tế độc lập, tự chủ, cải thiện dân sinh.

- Thi hành chính sách ruộng đất, thực hiện khẩu hiệu người cày có ruộng.

- Xây dựng văn hóa, giáo dục dân tộc và dân chủ phát triển khoa học và phát triển y tế.

- Đảm bảo quyền lợi và châm lo đời sống của công nhân, lao động và viên chức.

- Biết ơn các liệt sĩ, chăm sóc thương binh, khen thưởng các chiến sĩ và đông bào có thành tích trong sự nghiệp chống Mỹ, cứu nước.

- Tổ chức cứu tế xã hội.

- Thực hiện nam nữ bình đẳng, bảo vệ người mẹ và trẻ em.

- Tăng cường đoàn kết các dân tộc; thực hiện bình đẳng và tương trợ giữa các dân tộc.

- Tôn trọng tự do tín ngưỡng, thực hiện đoàn kết và bình đẳng giữa các tôn giáo.

- Hoan nghênh sĩ quan, binh lính ngụy quân và nhân viên công chức ngụy quyền trở về với chính sách; khoan hồng và đối xử nhân đạo với hàng binh và tù binh.

- Bảo vệ quyền lợi kiều bào ở nước ngoài.

- Bảo vệ quyền lợi chính đáng của ngoại kiều ở miền Nam Việt Nam.


Về việc thống nhất Tổ quốc, Mặt trận chủ trương:

1. Việc thống nhất nước Việt Nam sẽ tiến hành từng bước bằng phương pháp hòa bình, theo nguyên tắc hai miền cùng nhau thương lượng, không bên nào ép buộc bên nào và không có sự can thiệp của nước ngoài.

2. Trong khỉ nước nhà chưa thống nhất, nhân dân hai miền luôn luôn cùng nhau chung sức chống giặc ngoại xâm, bảo vệ Tổ quốc, đồng thời ra sức mở rộng trao đổi kinh tế văn hóa với nhau, nhân dân hai miền được tự do gửi thư cho nhau, tự do đi lại và cư trú. Về đối ngoại, Mặt trận thi hành chính sách ngoại giao hòa bình và trung lập, bảo đảm độc lập chủ quyền thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của nước nhà và giữ gìn hòa bình thế giới. Mặt trận chủ trương đặt quan hệ ngoại giao với tất cả các nước, không phân biệt chế độ chính trị và xã hội, theo nguyên tắc tôn trọng độc lập chủ quyên và toàn vẹn lãnh thổ của nhau, không xâm phạm lẫn nhau, không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau, bình đẳng và cùng có lợi, chung sống hòa bình"...

Nêu lên một số điểm về vị trí, vai trò, cương lĩnh chính trị chung và một số chính sách cụ thể của Mặt trận rõ ràng ai cũng thấy được rằng Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam là người đại diện chân chính cho nhân dân miền Nam, còn cái gọi là "quốc hội", "hiến pháp", "tổng thống", "chính phủ" do Mỹ dựng lên ở miền Nam Việt Nam hiện nay đều là phản động bất hợp pháp và vô giá trị. Chương trình và những hành động của chúng đều là phản dân hại nước.

Chẳng những Mỹ uổng công tô vẽ cho nó mà Mỹ càng tô vẽ, bảo vệ, nó lại càng chứng tỏ nó là con đẻ của Mỹ, để thực hiện chính sách thực dân kiểu mới của Mỹ và làm chỗ dựa cho Mỹ trong chiến tranh xâm lược.

3. Phải làm gì để cuộc nói chuyện ở Paris tiến triển tốt:

Sự thực đã rõ ràng: trong khi tiẽn hành chiến tranh cục bộ để xâm lược miền Nam Việt Nam, trong khi tiến hành chiến tranh phá hoại chống lại nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, Mỹ đã phá hoại toàn bộ Hiệp nghị Genève 1954 về Việt Nam, phá hoại nguyên tắc cơ bản và điều khoản chủ yếu của Hiệp nghị, phá hoại độc lập, thống nhất và hòa bình ở Việt Nam, đe dọa an ninh và hòa bình của các dân tộc ở Đông Nam Á và trên thế giới.


Muốn giải quyết vấn đề Việt Nam cho phù hợp với Hiệp nghị Genève và tình hình thực tế hiện nay không phải là xuyên tạc Hiệp nghị để hòng hợp pháp hóa việc xâm lược miền Nam Việt Nam mà phải thực hiện đúng nguyên tắc cơ bản và điều khoản chủ yếu của Hiệp nghị Genève thể hiện trong lập trường 4 điểm của Chính phủ nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Trước mắt là Mỹ phải chấm dứt không điều kiện việc ném bom và mọi hành động chiến tranh khác chống nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.


Lúc mới vào hội nghị, phía Mỹ cố lảng tránh vấn đề chủ yếu của cuộc nói chuyện, nhưng trước tình hình ngày càng bất lợi cho Mỹ, trước những lý lẽ của chúng tôi, phía Mỹ lại xoay ra nói Mỹ "sẵn sàng chấm dứt ném bom vào thời gian và hoàn cảnh thích hợp". Nhưng Mỹ lại đòi phải thảo luận những vấn đề có liên quan trước. Trong phiên họp thứ 8, tôi đã kiên quyết bác bỏ luận điểm sai trái đó của phía Mỹ. Tôi đã chỉ rõ là thời gian hiện nay, hoàn cảnh hiện nay là thích hợp cho việc Mỹ chấm dứt không điều kiện việc ném bom và mọi hành động chiến tranh khác chống nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Nhưng các phiên họp trước cuxng như hôm nay phía Mỹ lại vẫn đánh trống lảng.

Vừa đây Phó Tổng thống Mỹ Humphey đã đưa ra luận điệu về "ngưng bắn".

Phía Mỹ hòng làm lẫn lộn kẻ đi xâm lược và người chống xâm lược, nhằm lừa bịp dư luận thế giới và dư luận Mỹ là Chính phủ Mỹ "có thiện chí". Sự thực là Mỹ đưa ra luận điệu đó để lảng tránh việc chấm dứt không điều kiện việc ném bom và mọi hành động chiến tranh khác trên toàn bộ nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa mà nhân dân Việt Nam và dư luận thế giới đang đòi hỏi.


Trong khi tung ra những luận điệu bịp bợm, trong đó có đề nghị "ngưng bắn", cùng "xuống thang từng bước",... Mỹ vẫn ra sức tăng cường đánh phá một bộ phận quan trọng lãnh thổ nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa từ Thanh Hóa đến Vĩnh Linh, tăng quân Mỹ và chư hầu vào miền Nam, cho máy bay B.52 tàn sát nhân dân miền Nam Việt Nam, đặc biệt là quanh vùng Sài Gòn - Chợ Lớn, xin thêm tiền và tăng thuế để chi tiêu cho cuộc chiến tranh bẩn thỉu xâm lược Việt Nam.


Mỹ tiếp tục tăng cường chiến tranh, nhân dân Việt Nam phải tiếp tục đánh lại. Nhân dân Việt Nam rất yêu chuộng hòa bình, nhưng hòa bình phải trong độc lập tự do. Mỹ tiếp tục xâm lược Mỹ không thể đòi nhân dân Việt Nam ngừng chống xâm lược được.


Cuộc nói chuyện ở Paris không tiến triển được là do lập trường xâm lược của Mỹ, do thái độ quanh co của Mỹ. Tôi xin nhắc lại và nhấn mạnh muốn cho cuộc nói chuyện tiến triển trước hết Mỹ phải chấm dứt ngay và không điều kiện việc ném bom và mọi hành động chiến tranh khác chống nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, sau đó bàn những vấn đề khác liên quan đến hai bên"1 (Phát biểu của Bộ trưởng Ngoại giao Việt Nam Dân chủ Công hòa tại phiên họp thứ 10 Hội nghị Paris về Việt Nam ngày 26-6-1968, Hồ sơ 856, ĐIICH, TTLTII).
Logged

Ai công hầu, ai khanh tướng, vòng trần ai, ai dễ biết ai
Thế Chiến Quốc, thế Xuân Thu, gặp thời thế, thế thời phải thế
quansuvn
Moderator
*
Bài viết: 6599



WWW
« Trả lời #28 vào lúc: 07 Tháng Năm, 2022, 07:37:59 am »

Cương lĩnh chính trị của Mặt trận Dân tộc Giải phóng mỉền Nam Việt Nam năm 19671
(Hồ sơ 770, PTTg, TTLTII)






























Logged

Ai công hầu, ai khanh tướng, vòng trần ai, ai dễ biết ai
Thế Chiến Quốc, thế Xuân Thu, gặp thời thế, thế thời phải thế
quansuvn
Moderator
*
Bài viết: 6599



WWW
« Trả lời #29 vào lúc: 07 Tháng Năm, 2022, 07:40:28 am »

Tuyên bố của Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam  ngày 10-6-19681(Hồ sơ 857, ĐIICH, TTLTIi)



Logged

Ai công hầu, ai khanh tướng, vòng trần ai, ai dễ biết ai
Thế Chiến Quốc, thế Xuân Thu, gặp thời thế, thế thời phải thế
Trang: « 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 »   Lên
  In  
 
Chuyển tới:  

Powered by MySQL Powered by PHP Powered by SMF 1.1.21 | SMF © 2006-2008, Simple Machines

Valid XHTML 1.0! Valid CSS! Dilber MC Theme by HarzeM