*
* *
Những người thường tới lui với cha tôi đã đi hết, cái thảo bạt nhà tôi vắng teo. Chỉ còn có một mình cha tôi ngồi đó trên chiếc ghế, ngó mông ra cửa, và ông nghĩ gì tôi không sao hiểu nổi.
- Không muốn thấy mà phải thấy. - Ông nói một mình.
- Cái gì cha?
Ông hất hàm về phía bót cò, cái lá cờ ba sắc:
- Đ. mẹ (ít khi tôi nghe cha tôi chửi thề). Không lẽ mình ngồi xoay mặt vô vách.
Còn tôi, không còn ai nói chuyện để hóng nghe, đã bỏ cái nghề quấn thuốc, cũng không nghĩ gì đến chuyện học hành, chẳng có ai chơi, tôi long nhong từ trước ra sau, rồi từ sau ra trước, chán lại qua cây câu khỉ, ra phố, la cà ở chỗ đông người, ngóng nghe tin tức, chờ bữa cơm.
Nhưng rồi nhà tôi cũng có người đến nhưng lại đến vào lúc nửa đêm. Nghe tiếng gõ cửa biết là chuyện không lành, không phải gõ mà đập, đập một lần cả hai nắm tay dồn dập khẩn khoản, như báo động, cả nhà tôi choàng dậy, cả thằng út cũng giật mình ôm chặt lấy chị tôi.
Tôi đốt đèn, cha tôi mở cửa. Một người đàn bà mặc bà ba đen bỗng quỳ thụp xuống, ôm lấy chân cha tôi, khóc rống lên.
- Chuyện gì, chị Tư?
- Nhà tôi bị nó bắt rồi, anh Hai ơi.
- Ai bắt? Tây hả?
- Tây thì nói gì, Hòa Hảo, anh ơi! Lúc nó bắt, nó hỏi nhà tôi chiếc xe của mầy đâu thì nhà tôi nói: nếu nói tao có tội thì cứ bắt tao, chiếc xe tao tội tình gì mà hỏi nó. Nhà tôi nói vậy rồi nó xúm lại nó trói, nó dẫn đi.
- Chị nhận ra mặt ai không?
- Thì cũng người hàng xóm mình chớ ai, anh Hai. Có thằng Điền con chú Chín Hết nữa. Anh làm ơn anh xuống nói với cậu Tư giùm tôi, anh Hai. Họ muốn gì cũng được, anh Hai, nhà cửa với trại xuồng, tôi giao hết.
- Chị về trước đi. Tôi sẽ xuống.
- Đi ngay bây giờ nghe, anh Hai.
Người đàn bà ấy là vợ của chú Tư Chía, má anh Trung.
Bên ngoài trời tối đen. Tưởng như sờ đụng được bóng đêm. Cái bóng đêm như đặc hơn cái bóng đêm những đêm trước.
Cha tôi mặc quần áo xong, sửa soạn đi thì bất ngờ, như dưới đất hiện lên, ông Tư tôi sừng sững trước cửa nhà. Bộ đồ dà, hai con mắt trợn tròn, và bộ râu như dựng ngược lên, từ lồng ngực căng đầy của ông như ọe ra từng tiếng gay gắt:
- Đi đâu? Hử? Tao thấy nó chạy lên đây, tao biết mầy sẽ xuống tao. Xuống tao làm gì? Tội của Tư Chía chỉ có Đức Phật Thầy mới cứu được. Còn mầy, mầy đã có công lên quận xin thả anh em, anh em còn nhớ ơn mầy. Nhưng bây giờ, mầy mà đi loạng quạng ngoài đường, anh em người ta không tha mầy đâu. Mầy phải nghĩ tới bầy con của mầy... - ông lấy hơi, hét lên: - Ở nhà!
Không để cho cha tôi nói một lời nào, ông quay ra và tan mất trong bóng đen.
Cha tôi cứ đứng sững ra, nhìn bóng tối...
Ba hôm sau, trên dòng sông có nhiều thây ma nổi lên, sình chương trôi lên trôi xuống theo con nước ròng, con nước lớn.
Thím Tư, anh Trung và người làng nhận ra cái thây của chú Tư Chía nhờ cặp răng hô của chú.
Ông Chín Hết tôi lại có mặt tại nhà chú Tư Chía và cũng câu đầu bước vào nhà:
- Bây đâu, bắc nồi nước!
Còn những cái thây khác, từ cù lao ông Chưởng theo con nước trôi ra, từ miệt trên trôi xuống, chẳng biết ai. Con sông không thấy xuồng, không thấy ghe, không thấy buồm, chỉ có những cái thây lình bình, trôi lên lại trôi xuống, với những bầy quạ đen quần theo, đáp xuống bay lên, quang quác trên mặt sông. Những cái bến nước dài theo con sông, những cây cầu có cái gáo dừa để người ta tắm, người ta gánh nước để trẻ con lặn hụp, đùa giỡn, để cho các cô, các chị, các bà ngồi giặt quần áo, bây giờ chẳng thấy ai. Những cái bến nước với cây cầu trơ ra, thấy thêm buồn. Thỉnh thoảng mới có một người ra bến nước, họ không làm cho sông nước vui lên, mà thấy thêm lẻ loi.
Và quạ, chẳng biết từ đâu kéo tới, cứ từng bầy như những đám tàn sau một trận cháy, bay đen trên mặt sông, kêu quang quác...
Sau khi chôn cất chú Tư Chía xong, má con anh Trung bỏ nhà đi, chẳng biết đi đâu, có người bảo trốn vào chiến khu, có người bảo trốn lên Sài Gòn ẩn náu.
- Cha ơi! Sao nhà mình không trốn đi cha?
Chị tôi hỏi sau khi được tin vợ chú Tư Khởi đã bỏ nhà đi, trong xóm không còn ai bán bánh bèo. Và những người có dính líu với Việt Minh trong làng ngoài chợ - người lên Sài Gòn người qua Đồng Tháp, người ngược nước lên Nam Vang.
- Lúc nào cần đi, cha sẽ đi. Chẳng lẽ bỏ đi hết. Cha nhớ hồi nhỏ, ông nội bà nội với cha với chú Ba con đi xuồng qua sông lớn. Tới giữa sông thì gặp sóng to gió lớn. Sóng ba bên bốn phía bủa tới, chiếc xuồng nhào lên hụp xuống, tưởng chìm đến nơi, nhưng ông nội con giỏi lắm, cứ cho mũi xuồng cỡi lên lưng con sóng. Cha nhớ, khi xuồng cặp lại bến rồi, ông nội con vô quán kêu một ly rượu, trong lúc cha với chú Ba đứng nhìn sóng bủa trắng cả con sông, vẫn còn sợ thì ông nội con hỏi “Hai con có thấy vui không? Biết lèo lái rồi sẽ qua”.
Cha tôi ngồi trên ghế xoay mặt vào nhà với chị em tôi nên ông không thấy một người lính mặc ka ki vàng, vai đeo cây tiểu liên đang,bước lên cây cầu khỉ nhà tôi. Tôi chồm dậy, hốt hoảng:
- Cha ơi, lính!
Tôi thoáng nghĩ là cha tôi sẽ bị bắt. Cha tôi quay ra, tên lính Việt gian ấy đã qua nửa cây cầu. Cha tôi bước ra đầu cầu thang, nheo mắt. Tên lính Việt gian bỗng dừng lại, cầm cây tiểu liên đưa lên trời, reo lên:
- Ô! Anh Hai.
Cha tôi đưa tay ngoắc:
- Vô, vô đây.
Người lính ấy như chạy trên cây cầu khỉ. Ông ta bước một lần hai bậc cầu thang, mang súng vào vai, đưa hai tay nắm lấy hai tay cha tôi.
- Trời! Trời! Lâu quá anh Hai. Có nghe chị Hai mất mà không sao về thăm được, có lỗi quá. - Nhìn thấy tôi đang lẩn quẩn bên cha tôi, ông hất hàm: - Thằng đi học có lương đây hả?
- Nó đó.
Ông ta vồ đến tôi. Khi ông ta đưa hai tay ôm lấy đầu tôi, thì tôi rúc cổ, muốn tuột đi, nhưng ông ta đã kéo tôi vào lòng. Áp mặt vào cái bộ đồ lính của ông ta, tôi nghe có mùi khét.
- Đây là chú Sáu Mạnh, bên Cái Sao, một xóm với ông nội con. Hồi ông nội con chết, chú Sáu đã khiêng quan tài của ông nội con. Lúc đó con còn nhỏ, con chưa biết.
Sau này tôi được biết, chú sanh cùng năm cùng tháng với cha tôi, cũng tuổi Thìn, chỉ nhỏ hơn có vài ngày. Bà nội tôi với má của chú đều bị thiếu sữa, nên cả hai cùng bú thép với một người mẹ hàng xóm. Vậy là cha tôi với chú chỉ là người cùng xóm, nhưng lớn lên cùng một bầu sữa.
Tôi cúi đầu thưa và ngước nhìn lại chú. Chú tên Mạnh cũng phải. Người chú to lớn, gồ ghề với nước da đậm như màu đồng điếu. Từ cái trán, cái gò má cho đến cái quai hàm đều có góc có cạnh rõ ràng, cả cái chân râu của chú cũng có một màu riêng, như một bãi cỏ được cắt đến tận gốc, vẫn còn giữ lại một màu xanh, từ mép cho đến cằm.
Mỗi lần có khách, chị tôi biết mình là phận gái, thường lui vào trong với ba đứa em, hoặc xuống bếp. Còn tôi thì tìm đủ cách, la cà nghe chuyện.
- Thím với mấy đứa nhỏ khỏe chớ? - Cha tôi hỏi khi hai người ngồi vào ghế.
- Cũng khỏe, anh Hai. Nhưng cũng kẹt lắm!
- Sao mà kẹt?
Chú Sáu Mạnh thở dài, ngao ngán:
- Hồi trước mình cũng đi lính. Mình về làng, người ta không trọng thì người ta cũng sợ; nếu khinh, người ta cũng để bụng. Còn bây giờ, cũng chẳng lâu la gì mà khác quá. Bà con xóm giềng, ai cũng dè bỉu vợ con mình là vợ con của thằng Việt gian, bị xóm giềng nhìn mình bằng nửa con mắt. Còn cô Bảy, người mà tụi mình bú thép hồi nhỏ, cô nói: “Nếu tôi biết bây giờ nó làm Việt gian, hồi nhỏ, tôi cho nó bú làm gì. Nghĩ mà tiếc cái dòng sữa của mình”. Anh nghe có đau không? - Chú vừa nói vừa đưa nắm đấm vỗ vào ngực. - Tôi định đưa vợ con tôi sang đây, cho khuất mắt bà con dòng họ, nhưng nghĩ lại, cái thân làm lính, mà vợ con lằng nhằng sau lưng, cũng kẹt quá, anh Hai. Nghe được đổi về đây, tôi mừng muốn hết lớn, ít ra cũng còn có anh, với anh em. Tôi về đây hồi chiều hôm qua, không kịp qua thăm ai cũng không kịp hỏi thăm ai. Tôi sợ nhứt là anh bị Hòa Hảo bắt, hai là sợ anh cũng đã bỏ đi. Tối hôm qua, nhìn thấy ngọn đèn của nhà anh, tôi mừng lắm. Thôi, có gì thì cũng nhờ anh với anh em che chở cho.
Lúc đầu, tôi tưởng chú là người lính được lịnh mang súng đến bắt cha tôi, bây giờ lại nghe chú nhờ cha tôi che chở. Cha tôi mảnh khảnh, ốm yếu vậy, làm sao có thể che chở được một con người mạnh khỏe, gồ ghề với súng ống như chú? Tôi ngạc nhiên nhưng rồi cũng cảm thấy hiểu.
Một con người có bộ mặt hung dữ mà xịu xuống buồn rầu, trông thảm não làm sao!
- Tin tức mấy bữa nay ra sao? - Cha tôi hỏi.
- Coi như nó đã chiếm hết lục tỉnh Nam Kỳ rồi anh Hai. Anh em đang kéo nhau về rừng, lập chiến khu, chờ thời.
- Thằng cò nầy, thằng thế nào?
- Thế nào rồi cũng là Tây thôi anh. Là thằng “pôtilích”
(1) chớ không phải “milite”
(2).
- Chú đổi về đây làm gì?
- Tôi “xú”
(3) quyền nó.
- Theo chú thì sắp tới nó định làm gì cái làng này?
- Tôi mới đổi về chiều qua, chưa biết hết. Nhưng tôi qua, ngồi nói chuyện với nó, nó cho tôi biết, trước hết là phải ổn định lòng dân. Có người đã xui nó lùng bắt những người trước đây đã đi hôi của bên nhà thờ cù lao Giêng. Nó cười, bảo: trên thế giới này, ở đâu cũng vậy, khi nông dân mà nổi dậy thì họ cướp phá là chuyện thường. Nếu bắt thì phải bắt hết cả cái làng này. Cho qua! Để dân chúng thấy chánh phủ Pháp là người đại lượng. Còn chuyện trả thù, trả oán, bắt bớ và chém giết, cứ để cho họ. Nó nói với tôi vậy, và anh cũng thấy đó. Hòa Hảo bắt Việt Minh, giết thả trôi sông, nó làm ngơ. Nó cũng ra lịnh cho tôi, đêm đi “ba trui” chỉ đi từ chợ đến xóm nhà thờ, và từ chợ đến cột dây thép, trong vườn, trong ngọn thì giao cho Hòa Hảo.
- Có cái chuyện đó nữa sao? - Cha tôi hỏi lại và hai con mắt của cha tôi cứ sững lại, mặt thừ ra như người không hồn. Ông nắm chặt quả đấm nhưng không đấm xuống bàn mà từ từ đặt xuống và ấn xuống, ông ấn mạnh đến nỗi cái lưng cứ rướn thẳng lên.
- Mình cũng có nghĩ tới, nhưng không ngờ cơ sự lại đến nỗi như vầy, rõ quá rồi.
Cha tôi lắc đầu, ngả người ra ghế, vẻ chán chường. Chợt nhớ điều gì, ông quay lại, thấy tôi đang ngồi bó gối trong góc, ngước mặt hóng chuyện, ông bảo:
- Con vào trong chơi!
Có thể nói, đó là lần thứ hai, cha tôi không muốn cho tôi nghe chuyện của người lớn. Chuyện của hai người mãi về sau tôi mới biết được.
Tôi nhận được thông báo của nhà trường gởi đến tận nhà. Thông báo nói chánh phủ Pháp đã chiếm lại Nam Kỳ, tình hình đã được ổn định, và gọi học sinh trở lại trường.
Trường làng tôi lại thùng thùng tiếng trống, học trò lại cắp sách đến trường. Trên đường xe hơi từ Sài Gòn lại chạy về làng, và xe ngựa lại gõ vó trên các mặt đường. Chợ vẫn nhóm như xưa, dưới bến xuồng ghe lại tấp nập. Các cửa tiệm trong phố lại mở rộng cửa đón khách. Xem chừng đâu lại vào đó như xưa, nhưng lòng tôi lại chưa ổn định, không được như xưa, - cái xưa ấy không quá một năm, nên tôi chưa muốn trở lại trường. Dù không muốn học tiếp, tôi vẫn bồi hồi nhớ lại cuộc đời học trò. Cuộc đời học trò của tôi, có hai thầy tôi yêu quý. Thầy Hưng, một ông thầy tính điềm đạm và hiền từ. Thầy không đánh đứa nào và cũng không hề nặng lời với ai. Không hiểu thầy buồn cái nỗi gì mà đêm nào cũng gõ mõ tụng kinh. Cũng mang giày, nhưng mỗi lần vào lớp, chân thầy bước nhẹ nhàng, không một tiếng động.
Có những lời thầy dạy, ngoài bài vở, nhưng lại là những lời khai hóa cho sự hiểu biết của chúng tôi. Thầy nói:
- Nước Pháp là mẫu quốc, nói vậy thôi, chớ họ có đẻ ra mình được đâu? Người Cộng sản là người yêu nước chống lại Pháp để giành lại đất nước.
Thầy nói vậy rồi nhìn cả lớp học với đôi mắt buồn rầu, không nói gì thêm và cũng không bao giờ nhắc lại.
Thế là, từ đó, tôi hiểu. Sự hiểu biết ban đầu, như một hạt giống gieo xuống, nảy mầm, thành gốc, thành rễ sâu xa trong trí não. Tôi cám ơn thầy biết bao.
Người thầy thứ hai, thầy giáo Ngọc. Hai thầy tính nết trái hẳn nhau. Thầy Ngọc chừng ba mươi tuổi, vừa cao lại vừa gầy, hai tay dài lõng thõng, đeo kính cận, lúc nào cũng vui nhộn. Chuyện gì của thầy cũng cười được. Cái nụ cười của thầy rất lạ, khi thầy cười, mọi người muốn cười theo. Gặp mặt thầy, chưa cần thầy nói gì cũng đã thấy vui rồi. Mỗi chiều sau giờ học, cùng với cây đàn băng giô, thầy ngồi tréo chân lên bàn, vừa đàn vừa dạy chúng tôi hát.
Trường chúng tôi nằm bên con đường nhựa, đối diện với trường dạy nghề dệt. Một con đường râm mát dưới hai hàng cây dái ngựa, gần dinh quận; là con đường dẫn ra chợ nhưng bị cấm tất cả các loại xe cộ. Xe hơi hay xe ngựa, kể cả xe đạp, từ bên kia đầu cầu, muốn ra chợ, phải chạy theo con đường đá lỗ chỗ ổ gà vòng ra xóm nghèo. Nghe nói ông chủ quận này vốn đau thần kinh, mất ngủ và hay giật mình. Nghe kể, có một lần, nửa đêm, ông ta giật mình vì tiếng chó sủa xa; không dỗ được giấc ngủ, ông ta điên tiết lên, ra lịnh cho lính đi tìm đến tận nơi, bắt phạt chủ nhà và giết cả con chó. Cả tiếng gà gáy năm canh, ông ta cũng không ưa. Ngay tiếng vó ngựa gõ đều đều trên mặt đường qua cửa dinh ông ta, ông ta cũng không chịu nổi. Cho nên cái quãng đường nhựa ấy, chỉ có một chiếc xe được qua lại, đó là chiếc xe hơi màu sữa của ông. Vì vậy mà con đường trước cửa trường chúng tôi yên tĩnh đến buồn tẻ như đường lên chùa.
Tiếng đồng ca trong trẻo của đám học trò cùng với tiếng đàn băng giô của thầy đã khuấy động phần nào không khí trầm lặng của cái thị trấn hẻo lánh này. Và những bài hát mà thầy đã dạy cho chúng tôi như: Tiếng gọi thanh niên, Lên đàng, Xếp bút nghiên, Kinh cầu nguyện... đã khuấy động lên trong tâm hồn chúng tôi tình non nước.
Tôi nghe nói, trong những ngày trường bị đóng cửa, thầy đã trở về làng, cũng chẳng đâu xa, bên kia cù lao Giêng, thuộc làng Mỹ Hiệp, phía bên kia. Thầy đã lập một gánh hát, hát lấy tiền giúp Việt Minh. Không biết thầy còn trở lại dạy nữa không, hay cũng đã theo anh em. Nếu tôi lại đi học mà không có thầy thì chẳng khác nào phải trở lại chùa. Và anh Hoàng cũng đi rồi, biết đi nhờ xe ai vào ngày nghỉ.
Dù không muốn trở lại trường, tôi vẫn phải nói với cha tôi. Đọc cái giấy của nhà trường gởi về, cha tôi cười mỉm.
- Ổn định à? Cha không cần nói chắc con cũng thấy. Thời cuộc này, sao nói là ổn định. - Cha tôi lại ngước mặt ra sông - Con sông đang lặng sóng, nhưng thử lặn xuống đáy mà coi, sóng ngầm dữ lắm, không biết sóng sẽ nổi lên lúc nào. Thời cuộc bây giờ là vậy. Nếu con đi học, con sẽ đi thi, thi đậu con sẽ học ở Cần Thơ. Thời cuộc bây giờ, với cái tuổi của con, cha chưa muốn cho con đi xa. Thôi. Con ở nhà tiếp với cha, anh Ba con đi rồi, nhà chẳng còn ai.
- Tiếp cha chuyện gì cha?
- Cách đây mấy hôm, Bảy Hà, tiệm thuốc Tây ngoài chợ, rủ cha mở tiệm thợ bạc. ông ta có tiệm có vốn, còn cha thì hùn cái tên với cái nghề của cha. Anh em thợ nghe vậy cũng mừng, họ sẽ có chỗ làm, cũng nhân dịp, học thêm cái nghề của cha. Cha nghĩ rồi, làm vậy, tụi con sẽ có cơm qua ngày.
Cha tôi nói với giọng buồn rầu, chắc cha tôi nghĩ tôi sẽ buồn vì không được học, nên muốn an ủi tôi. Cha tôi đâu có dè tôi hết sức vui mừng. Cái mộng học cao để sau này làm thầy thông thầy ký, trong tôi tan vỡ lâu rồi.
-------------------------------------------------------------------------------
(1) Chính trị
(2) Quân sự
(3) Dưới