*
* *
Cũng những ngày tháng ấy năm 1945, ở nơi khác, đang vào mùa thu, ở làng tôi thì mùa nước. Đã qua con nước ròng rằm tháng tám (âm lịch). Nước trên con sông Cửu Long đã tràn qua mặt đường, ngập cả sân chợ. Xe hơi từ Sài Gòn không về, xe ngựa từ tỉnh, từ quận, từ các làng cũng không qua lại nữa. Cũng vì đó mà tin tức từ các nơi về mỗi ngày mỗi chậm mỗi thưa.
Buổi sáng, người ta chống xuồng trên con đường đá, ra chợ. Con đường đá của xe chạy đã trở thành con kinh.
Chợ hãy còn nhóm, nhưng tôi không ra chợ. Lội lõm bõm, dơ quần dơ áo mà chẳng được cái gì. Nước đã ngập lên sân nhà, cây cầu khỉ trước cửa chỉ còn cây vịn, một cây sào treo theo cột, con cầu thì cũng đã ngập rồi.
Tôi ngồi trên thảo bạt trên cầu thang, móc mồi, buông cần, câu những con cá đang nhởn nhơ, dưới bóng mát cây xoài. Tôi không câu được con nào lớn cũng không câu được con đáng tiền, tôi chỉ câu được cá lòng tong, cá chốt, may lắm mới câu được he vàng bằng ba ngón tay. Nhưng cái thú vui ngồi câu thu hết tâm trí tôi. Con cá nào đang rỉa mồi đây, sợi nhợ đang căng và cái cần đang gây cho bàn tay một cảm giác như điện giật. Tôi vừa nương tay theo nó thì cha tôi gọi giật tôi:
- Minh!
- Dạ!
- Bỏ đó, chạy ra chợ coi ai bị bắt.
Ngước nhìn lên, tôi thấy có một đoàn người quần áo màu dà bị giải qua cửa bót cò cũ.
Tôi nhảy xuống, nước ngập đến gối, tôi đi theo cây cầu ngầm, qua con đường đá. Con đường trước nhà tôi mới đắp, và cũng là đoạn qua cầu sắt, cao như một cái dốc, nước mới lé đé hai bên lề. Mọi năm, cái dốc đường này cũng sẽ ngập khi nước chan đồng. Và khi cái dốc này bị ngập cũng là nước sắp rút trở về sông.
Tôi chạy ra đến đầu phố. Chợ đang nhóm bằng xuồng trên sân chợ. Ở chợ có cái gì lạ, người trong phố cũng đổ ra, dòm ngó, bàn tán.
Hơn hai mươi người tín đồ Phật giáo Hòa Hảo tay bị trói bằng dây luộc, người này chuyền qua người kia thành hai hàng, đi giữa là một chiếc xuồng toàn đao kiếm. Họ lội nước trên sân chợ, nước ngập đến gối, đến bụng, trước bao nhiêu cặp mắt dòm ngó tò mò và những tiếng xì xào khiến họ cúi gằm mặt, sợ sệt, xấu hổ và căm giận. Ông Tư tôi đi đầu, bên mũi xuồng, chú Nguyễn Đa Điền đi sau cùng bên lái xuồng. Họ bị bắt cùng với vũ khí, bị giải vào trụ sở ủy ban, trước là nhà việc của làng. Tôi biết trong nhà việc có một trại giam. Ai bị đưa vào đó sẽ bị đóng trăn
(1).
Khi tôi chạy trở về báo cho cha tôi thì cha tôi nhìn tôi như chính tôi là thủ phạm khiến tôi vừa lui vừa cúi mặt.
- Có thấy thằng cha hương quản không?
- Dạ không.
Bất thình lình, ông hét vào mặt tôi:
- Dòm kỹ không.
- Dạ... dạ, kỹ.
Cha tôi quay vào, kêu to.
- Trí đâu?
- Dạ.
- Chạy kêu chú Ba mầy về, tao hỏi.
Biết là việc quan trọng, và mỗi khi cha tôi đã nổi nóng thì trong nhà không ai dám cãi, anh tôi từ trong nhà vọt ra, chỉ mặc một cái quần cụt, anh không dám trở vào nhà mặc áo, cứ để lưng trần, từ trên thảo bạt nhảy ùm xuống cái sân nước, qua cầu lên con đường đá, chạy đi. Chú tôi vẫn ở trên xóm Cột dây thép, nếu không gặp xuồng quá giang, anh phải lội nước trên một cây số.
Vì sự đi lại khó khăn, và ai cũng có việc, nên bạn bè của cha tôi ít đến chơi. Cái thảo bạt nhà tôi, sáng nay, chỉ có cha tôi. Nước đang chảy qua dưới sàn nhà mà chân cha tôi như đạp lửa. Cha tôi đứng ngồi không yên, chốc chốc lại đưa tay cuộn cái xà rông kéo lên bụng, như sợ nó tụt xuống vậy. Đôi mắt của cha tôi vốn đã sâu, lúc ấy tôi thấy như sâu hơn với đôi chân mày đang nhíu lại. Tôi biết cha tôi đang bực bội, và ông có thể nổi nóng với con cái trong nhà. Đứng xớ rớ một lúc rồi tôi xách cái cần câu ra sau hè. Chị tôi đang lúi húi dưới bếp, hỏi:
- Chuyện gì mà cha la hét vậy?
- Ông Tư với chú Điền bị bắt.
- Sao vậy?
Tôi lắc đầu và lại ngồi câu cá. Tôi câu chưa được con nào thì cha tôi gọi:
- Con đứng đó cha nói cho nghe.
Cha tôi ngồi dựa lưng trên ghế, điếu thuốc cầm tay, chỉ cái chỗ đứng cho tôi, trước mặt ông.
- Theo ý cha, mình không nên bắt người ta. Làm vậy, chỉ gây thù gây oán, sau này gỡ không nổi. Con hiểu chưa?
Tôi không có một nhận định gì trong đầu, tôi vẫn dạ.
- Dẫu sao, trước là bà con trong dòng họ, sau là đồng bào. Với nghĩ cho cùng, ông Tư với chú Điền của con đâu có phải là người xấu, chẳng qua là vì dốt, vì nhẹ dạ mà tin lời đường mật của kẻ khác. Cha giận ông Tư con, giận thì giận vậy, nằm đêm gẫm lại, cha thương ông Tư con lắm. Hồi cha bỏ nhà, trốn lên Nam Vang, nếu không có ông Tư con thì mấy con, nhứt là con lấy đâu mà nương tựa. Chú Điền con cũng vậy, lúc má con đau ốm, ai đã chèo chống đưa má con đi. Bữa nay cha nói với con vì cha thấy con không còn nhỏ nhít gì nữa, không nên hùa theo người khác, con nghe chưa?
- Dạ.
Có lẽ vì không còn ai, nên ông trút nỗi bất bình lên đầu tôi, biết vậy, tôi đứng im. Tôi nhớ, sau Cách mạng tháng Tám được mấy ngày, ông chủ tịch quận đi chiếc xe hơi màu đen đậu lại bên đường, trước cửa nhà tôi. Ông chủ tịch quận ấy, tôi gọi bằng bác, bác Sáu Thẩm, người thợ mộc ở xóm Cột dây thép. Nghe cha tôi nói, bác đã hoạt động từ thời còn thầy Châu Văn Liêm. Suốt một cuộc đời vào tù ra khám, bác đã từ nhà tù Bà Rá trở về, là người trong ban lãnh đạo ngày cướp chánh quyền của quận nhà. Bác hơn cha tôi vài tuổi, tóc hoa râm, vừa thấp vừa mập, người bác tròn trịa, gọn gàng. Ông nội tôi, qua tấm ảnh trên trang thờ, với bộ ria củ ấu của ông, trông ông dữ quá. Còn bác Sáu Thẩm, bác cũng để ria nhưng ria dấu ớ (^), trông bác vừa hiền vừa dí dỏm, bộ ria của bác làm cho tôi vui mắt. Tôi có cảm tưởng rất kỳ lạ, nếu bác không để ria thì bác sẽ trở thành một người khác, và không thể làm ông chủ tịch quận. Bác mặc bộ đồ tây màu xám tro, đi giày đen. Dù đi giày - hai bàn chân cứng ngắc - bác qua cầu khỉ nhà tôi vẫn thoăn thoắt, không cần phải đưa tay vịn.
Cha tôi đón bác từ đầu cầu thang. Hai người chơi thân đến cỡ nào, tôi không được biết, nhưng thấy hai người vừa bắt tay vừa vỗ vai với nụ cười rạng rỡ, tôi bỗng cảm động lây.
- Năm ở Bà Rá tao nhớ mầy quá, Hai.
- Tôi lo cho anh quá, không ngờ anh còn khỏe được như vầy.
- Nhờ có cái vỏ, còn bên trong thì cũng rệu lắm rồi, Hai.
Quay qua thấy tôi, bác hỏi:
- Thằng thứ mấy đây, Hai?
- Thứ năm.
- Học lớp mấy rồi, cháu?
Tôi khoanh tay thưa:
- Dạ, học hết trường quận.
Bác nhìn tôi, nhếch cái bộ ria lên cười:
- Đi theo bác, bác sẽ cho đi học ở Liên Xô, chịu không?
Dù nói đùa hay nói thật, lời của bác cũng đã để lại trong tôi một niềm mơ ước. Tôi vừa cúi đầu vừa cười đáp lại bác.
Bác kéo ghế, ngả lưng vào ghế, thở phào một hơi dài:
- Nhớ hồi còn thầy Châu Văn Liêm, hai anh em dẫn đội banh đi hoạt động khắp nơi, cái thời trai trẻ, vui quá, mới đây mà đã mười lăm năm, bây giờ gặp lại, đứa nào tóc cũng hoa râm.
- Anh Sáu đi đâu ghé qua đây, hay là đến thăm tôi để có việc gì, anh Sáu?
Bác Sáu lại nhếch cái bộ ria vừa cười vừa ngả người ra sau:
- Mầy hỏi vậy là đoán đúng ý tao đó. Hai, tao ghé thăm mầy là có việc.
- Tôi biết công việc của anh lúc nầy bận rộn lắm mà.
- Lúc mình hoạt động, mình mơ tưởng sẽ giành lại đất nước, bây giờ giành được chánh quyền rồi, anh em phân công mình làm chủ quận, mình thấy sao lu bu quá. Có xe có cộ mà không sao đi thăm được bạn bè. Thôi, mầy đã hỏi thì tao nói. Anh em mình ở quận cũng như ở xã đã bàn với nhau, cử tao đi thăm mầy, và mời mầy ra làm chủ tịch xã nhà.
Tôi ngồi tựa cửa, phía sau lưng cha tôi, nghe nói vậy, tôi mừng quá. Vậy là cha tôi sẽ ra làm chủ tịch. Nhưng cha tôi vẫn làm thinh không nói.
- Sao, mầy thấy sao?
Cha tôi vẫn làm thinh. Tiếc rằng tôi không thấy được gương mặt của cha tôi lúc ấy, tôi chỉ thấy cái gáy và lưng tôm của người thợ bạc lâu năm.
- Sao? - Bác Sáu Thẩm lại hỏi.
Cha tôi khẽ lắc đầu, và giọng của cha tôi nghe khác hơn giọng nói thường ngày, không to, không nhỏ, vừa đủ nghe và chậm rãi từng lời:
- Việc này nên để cho anh em khác, anh Sáu. Nên để cho người anh em có công trạng, đúng hơn tôi.
Cái bộ ria của bác Sáu Thẩm lại nhếch lên, bác cười:
- Mầy đâu phải là người không có công?
- So với anh em vào tù ra khám thì nhằm gì.
- Mỗi người mỗi việc, Hai à. Số anh em đó, như thằng Ba “cửa tủ” em mầy, xứng đáng, nhưng làm ở bên trong, phải chỗ hơn. Còn cái ghế chủ tịch thì phải là người có tiếng ở trong làng, được nhiều người thương. Được chưa?
Nghe bác nói vậy, tôi tưởng là cha tôi xiêu lòng, không ngờ cha tôi lại cương quyết hơn:
- Không được đâu anh Sáu. Tôi biết sức tôi mà. Làm chánh trị khó lắm. Nhờ anh nói lại với anh em cho tôi được như từ trước đến nay. Tôi nhớ, hồi đó, tôi có thể đứng đầu một đội banh của anh em, chớ không thể đứng đầu một cái làng. Trong sân banh, tôi vừa là thủ quân, vừa là cầu thủ, nhưng trên sân khấu chánh trị thì tôi không đủ sức làm việc nầy. Tôi không làm một cầu thủ nhưng vẫn coi đội banh là đội nhà, tôi đứng ngoài, tôi lượm bóng, tôi cổ võ. Đội banh được nhiều người cổ võ, đội banh cũng thêm mạnh chớ anh Sáu. Không lẽ tất cả đều ùa vô sân. Người cổ võ cũng buồn vui khi thắng bại, có khi lại cay cú hơn người trong sân nữa là đằng khác, phải không anh?
- Hai, mầy nói vậy, tao chẳng biết nói sao.
Bác Sáu Thẩm, ông chủ tịch quận, nheo mắt nhìn cha tôi, bộ ria nhếch lên, để lộ một bên răng, nhưng không phải cười, và cái ngón tay trỏ của bác gõ xuống bàn từng tiếng đều đều như tiếng tích tắc của cái đồng hồ.
Như sực nhớ điều gì, cha tôi quay lại, thấy tôi ngồi nhóng mỏ nghe, ông hất mặt:
- Con vào nhà chơi!
Đó là lần đầu, ông không muốn cho tôi nghe chuyện giữa ông với khách. Tôi lẳng lặng vào trong, đi xuống bếp.
Chị tôi đang khom người thổi bếp lửa, chị quay lại:
- Cha không làm đâu.
Nói vậy rồi chị quay vào bếp, thản nhiên.
- Sao chị biết?
- Tánh của cha.
Hóa ra chị tôi biết tánh của cha sâu hơn tôi.
Câu chuyện giữa hai người trên thảo bạt tôi không được nghe tiếp, chỉ biết vài hôm sau, một thầy giáo dạy trường tư ở xóm kinh bên kia cầu sắt ra làm chủ tịch, ông cũng trạc tuổi cha tôi, người dong dỏng cao, hay đeo kính mát màu lá non.
Nhớ lại chuyện ấy, tôi bật hỏi lại cha tôi:
- Sao cha không làm chủ tịch?
- Ý con muốn nói, nếu cha làm chủ tịch thì cha không bắt ông Tư với chú Điền của con chớ gì?
- ...
- Nếu cha làm chủ tịch thì cha cũng phải bắt thôi. Vì bắt mấy người theo đạo Hòa Hảo không phải tự ý của một người. Bắt là phải có lịnh trên, không của tỉnh thì của quận. Dầu không muốn cũng phải thi hành lịnh trên. Khó vậy nên cha biết cha không làm được. Tánh của cha, cái gì cha thích cha mới làm, tánh của cha dở vậy. Với lại, con cũng thấy, nhà mình đó, thằng út mới hai ba tuổi, thằng Tám mới năm sáu tuổi, con Sáu mười, mười một, con mười ba mười bốn, chị Tư con mười sáu mười bảy, anh Ba con mười chín hai mươi, có đứa nào lo được miếng ăn. Nêu cha ra làm việc, cha bỏ mấy con ở nhà cho ai?
Nhìn đôi mắt vốn nghiêm khắc đang đượm một nỗi buồn của cha tôi, tôi bỗng thấy mủi lòng, rơm rớm nước mắt.
Cha tôi lại ngước mắt nhìn ra đường, càu nhàu, sốt ruột:
- Cái thằng, sai đi một chút, rồi đi biệt.
Không thể ngồi chờ, cha tôi quay vào nhà, thay chiếc xà rông, mặc quần tây dài, nhưng lại xắn đến gối, lội qua cây cầu khỉ. Lên tới đường ông xả quần, rồi tất tả đi. Trong nhà cha tôi thường mặc xà rông, ra đường thì áo quần lúc nào cũng chỉnh tề, không xuềnh xoàng như những người thợ bạc khác.
Tôi lại ngồi câu cá. Cha tôi bỏ cơm trưa, mãi đến xế chiều mới về.
Ông lại thay quần, mặc xà rông, áo thun lá, ngồi dựa ghế hút thuốc, ngóng ra đường.
- Từ sớm tới giờ có ai hỏi cha không?
- Dạ không. Cha không gặp ai sao?
- Nghe chú Ba mầy bận họp, cha mới đi rải qua mấy xóm. Trở về chỗ trụ sở ủy ban, nước lên tới gối mà người ta cứ đứng vây quanh, không nghe gì, không thấy gì, mà hết người nầy đến người khác cứ lố nhố dòm vô, kỳ quá.
- Chú Ba về! - Tôi reo lên, vui lây với nỗi chờ đợi của cha.
Một chiếc xuồng có cắm cờ, anh tôi bơi lái, trong xuồng có chú tôi và cả chú Ba Giáo.
Chiếc xuồng cặp sát bên cầu thang. Hai người vừa bước lên thảo bạt, chưa kịp vào đến ghế, cha tôi đã hỏi:
- Có chuyện gì mà bắt người ta vậy Ba?
- Chắc cũng phải có chuyện gì chớ anh Hai. - Chú Ba Giáo mau miệng trả lời thay cho chú tôi.
Chú tôi trông hốc hác và già đi nhiều, mái tóc của chú lại nhiều sợi bạc hơn tóc của cha tôi. Chú ngồi vào ghế, hai tay đan vào nhau, với đôi mắt hốc hác và buồn rầu, nhìn ra mặt nước trước nhà, giọng của chú chậm rãi, lạnh lùng:
- Mình ở xa, lại nhằm mùa nước, tin tức với báo chí về hơi chậm. Chưa yên! Thực dân Pháp dựa thế Đông minh, đang lăm le đánh chiếm đất nước thì họ muốn giành lấy chánh quyền. Ở Cần Thơ vừa xảy ra một cuộc xung đột đổ máu giữa nhóm Hòa Hảo của Năm Lửa với anh em đằng mình.
Cha tôi như giật mình, quay mặt nhìn lại chú tôi:
- Có đổ máu?
- Đổ máu rồi, anh Hai. - Chú Ba Giáo lại nhanh miệng trả lời thay cho chú tôi. Chú tôi vẫn buồn rầu với giọng nói lạnh lùng chậm rãi:
- Các nơi họ đang rục rịch, định nổi dậy, đành phải giữ họ lại. Anh thử nghĩ có cách nào hơn?
Tôi tưởng, khi gặp lại chú tôi, cha tôi sẽ nổi nóng. Bây giờ, qua mấy lời của chú, cha tôi chỉ lắc đầu, thở dài và tắc lưỡi:
- Rối quá! Bậy quá! Độc lập rồi, đất nước đã có Cụ Hồ, chưa muốn, còn muốn gì nữa?
Chú Ba Giáo đang làm trưởng ban tuyên truyền của xã, công việc này thật hợp với cái tài ăn nói của chú. Gương mặt của chú càng ngày càng sáng với cái mũi thanh tú của chú. Có khác hơn ngày thường, chú ăn mặc giản dị hơn, người cao ráo với bộ bà ba đen, chiếc khăn rằn quấn qua cổ. Vẫn nhẹ nhàng, vui vẻ, chú nói:
- Đối với Huỳnh Phú Sổ, mình vẫn chủ trương đoàn kết, đã mời ông ta vào ủy ban hành chánh Nam Bộ, từng ấy tuổi với chức vụ như vậy, đâu phải nhỏ. Nhưng vì cái mộng làm vua nên mới ra nông nỗi nầy, đã gây ra biết bao tai họa cho tín đồ, vì cuồng tín, họ đâu có biết. Cái đạo của ông ta bây giờ chia làm bốn khối: Năm Lửa, Ba Cụt, Hai Ngoán, Nguyễn Giác Ngộ, cả bốn tên đều là dân bất hảo, là dân đứng bến xe, dân trộm, dân bán thịt heo và lính mã tà. Không có một người nào coi được. Nếu vừa rồi, anh ra ngồi ghế chủ tịch, anh cũng ký giữ họ lại thôi anh Hai.
Chú tôi với chú Ba Giáo đang cố gắng nói sao cho cha tôi thấy việc bắt giữ ông tôi, chú tôi và những người theo đạo Hòa Hảo là phải. Chẳng biết cha tôi có xuôi theo hay không mà vẫn ngồi im. Rồi cả ba vẫn cứ ngồi im hút thuốc, mỗi người đeo đuổi theo ý nghĩ riêng của mình. Không khí im lặng nặng nề quá, tôi cứ phải ngồi im, không dám làm gì gây ra tiếng động.
May sao, có người đến: chú Tư Chía. Chú đi xuồng, chú bơi lái, trên xuồng vẫn chở theo chiếc xe. Chú Ba Giáo nhanh miệng:
- Đi xuồng mà chở xe theo làm gì vậy anh Tư?
Chú vừa rà mái dầm cặp xuồng vừa đáp:
- Có chỗ nào khô thì mình lên xe, vật bất ly thân mà. Có thằng Ba “cửa tủ” ở đây, may quá.
Chú bước lên thảo bạt nhà tôi, giọng vang vang đắc thắng:
- Chú Ba mầy thấy, xóm của tao làm như vậy có gọn không?
- Thằng hương quản, người đáng bắt sao không bắt? - Cha tôi hỏi.
- Bắt được nó thì còn nói gì nữa, anh Hai, nó trốn rôi.
- Người đáng bắt thì không bắt được - cha tôi lại tắc lưỡi.
Chú Tư Chía cũng lại tắc lưỡi tiếc rẻ:
- Trời ơi, sao mà họ ngu quá, tôi không hiểu. Một thằng hương quản chuyên bắt Cộng sản nộp cho Tây, mà bây giờ, họ chịu để cho làm Trưởng ban trị sự đạo, lại nghe lại tin nó. Tôi đã tính sẵn trong bụng, bắt được nó, tôi sẽ kêu bà con đạo Hòa Hảo tụ họp lại, tôi sẽ đưa tay, tôi gỡ cái đầu tóc giả của nó cho bà con thấy. Người ta tu, người ta để râu để tóc, còn nó thì nó bới đầu bằng tóc mượn. Giả, giả chịu không được.
Chú Ba Giáo ngửa mặt cười đắc ý:
- Đúng là đội lốt theo cái nghĩa bóng cũng như nghĩa đen.
- Nó trốn đâu? - Cha tôi hỏi, sốt ruột và bực dọc.
- Biết nó trốn đâu thì còn nói làm gì. Trời nước mênh mông vầy, nó có trốn đằng trời cũng không thoát. Rồi tôi sẽ cho dậm như dậm cù, trước sau gì cũng lòi ra. Chuyện của nó đâu còn có đó. Tôi lên đây là để hỏi chú Ba, mình sẽ giải họ đi hay là sao nữa?
- Trên tỉnh trên quận, chỗ nào cũng đầy hết, giải đi đâu, cứ giữ họ lại, chờ lịnh trên.
- Còn một việc nữa. Tôi đã “loa” đi khắp xóm, lịnh cho họ phải nộp vũ khí, người nào không nộp coi như có ý đồ đen tối. Tôi cũng lịnh, từ nay không được treo cờ dà nữa. Tổ quốc Việt Nam ta chỉ có một lá cờ đỏ sao vàng mà thôi. Tôi lịnh vậy, mấy anh thấy sao?
Tôi thấy chú Tư Chía có vẻ thích cái tiếng “lịnh” lắm, tiếng “lịnh” nào chú cũng nhấn mạnh với cái đầu gật xuống, như là hễ nghe đến lịnh thì phải cúi đầu vậy.
- Cứ làm theo lịnh ủy ban, anh Tư - chú tôi nói.
- Có được một ông chủ tịch ấp như anh trong lúc nầy thật xứng đáng - cha tôi nói thật hay nói mỉa, tôi không hiểu, chỉ thấy mặt chú ửng lên, sượng sùng.
Hai chiếc xuồng xô ra, bơi đi rồi, cha tôi vẫn ngồi yên, không vui.
Ông Chín Hết lại bơi xuồng tới, bộ râu nón đỏ loe hoe.
Ông vừa buộc xuồng vừa hỏi cha tôi.
- Nghe gì chưa Hai?
- Cậu lên đây, chắc là chuyện cậu Tư với thằng Điền? Tôi có nghe.
Ông không lên ghế mà ngồi bệt xuống ván, hai tay khoanh lấy gối, trông thật buồn bã. Cha tôi cũng phải xuống ghế, ngồi cạnh bên.
- Cậu định đi tìm thằng Ba, nói với nó, đối với cậu Tư, dù sao cũng là bà con dòng họ, làm gì cũng nên nương tay. Còn thằng Điền, trẻ người non dạ, lại là con ngựa non háu đá, ai sai gì làm nấy, nó có biết cái gì. Còn vụ này nữa Hai, ngặt quá. Tao theo đạo Hòa Hảo hồi nào đâu, nhưng vì tao cũng để râu để tóc, lại là cha thằng Điền, mấy ông cũng coi tao là Hòa Hảo, bắt tao phải nộp vũ khí. Đao kiếm của thằng Điền họ tịch thu hết, tao có gì mà đem nộp. Tao nói vậy mà không nghe, cứ nói là tao còn mưu đồ đen tối. Túng quá, tao phải đem con dao ra nộp, mấy ông nói, con dao làm cá chớ không phải vũ khí, tao biết làm cách nào. Cũng có người, họ là Hòa Hảo thiệt, nhưng họ không có vũ khí mà cũng bắt họ phải nộp, tao nghe có người định đi mướn thợ rèn, rèn một cái đế đem nộp đó, Hai!
- Có chuyện vậy nữa!
- Ừ... ừm. Không ai được yên. Cậu lên đây để nhờ thằng Ba với mầy, nói với mấy ổng cho cậu một tiếng.
- Như vầy, cậu coi có được không. Sáng mai, cậu lên đây, tôi với cậu lên quận. Tôi muốn gặp anh Sáu Thẩm.
- Cần gì phải về rồi lại quay lên. Đêm nay tao ngủ đây, sáng hai cậu cháu mình đi sớm, tiện hơn không.
- Tôi sợ mợ Chín ở nhà trông cậu.
- Cậu đi cậu nói, chừng nào xong chuyện cậu mới về.
Cha tôi quay vào bảo tôi:
- Vô hỏi chị Tư mầy, nhà còn gì ăn, nấu cơm cho ông Chín.
Ông tôi khoát tay:
- Thôi! Mắm muối gì ăn cũng được. Nè con, trong nhà có cái mùng cũ, mùng rách gì không, đem ra đây, mấy ông cháu mình bắt cá.
- Dạ, có - nghe bắt cá là tôi muốn nhảy cẫng lên rồi. Cái mùng ông tôi căng ra, để dưới mặt nước, rồi rải lên một nắm cám. Nghe mùi cám, một bầy lòng tong kéo tới, bu đầy, vừa đớp, vừa giãy.
- Nè, dỡ!
Ông một đầu, tôi một đầu, dỡ cái mùng tung lên mặt nước. Ôi! Cá không biết bao nhiêu con, nó nhảy, nó nhảy đến văng cả những cái vảy bạc, sáng lấp lánh trên tấm vải mùng.
Câu chuyện của người lớn, dù không hiểu được bao nhiêu, tôi vẫn thấy nặng nề. Bấy giờ, được trầm mình dưới dòng nước mát lạnh, vừa chơi vừa bắt cá với ông, tôi bỗng thấy nhẹ nhàng. Và buổi cơm chiều, có cá lòng tong kho tộ, bữa cơm sẽ ngon lành.
--------------------------------------------------------------------------------
(1) Cùm