Lịch sử Quân sự Việt Nam
Tin tức: Lịch sử quân sự Việt Nam
 
*
Chào Khách. Bạn có thể đăng nhập hoặc đăng ký. 20 Tháng Tư, 2024, 04:31:58 am


Đăng nhập với Tên truy nhập, Mật khẩu và thời gian tự động thoát


Trang: « 1 2 3 4 »   Xuống
  In  
Tác giả Chủ đề: Từ cây giáo đến khẩu súng - Tập 4  (Đọc 1559 lần)
0 Thành viên và 1 Khách đang xem chủ đề.
ktqsvn
Thành viên
*
Bài viết: 561



« Trả lời #10 vào lúc: 03 Tháng Ba, 2022, 07:26:58 am »

TƯƠNG KẾ, TỰU KẾ


Tương kế, tưu kế là một cụm từ gốc Hán. Về nghĩa quân sự, đó là “lợi dụng ngay mưu đồ của địch để đánh thắng chúng” như ngôn ngữ người Việt “gậy ông, đập lưng ông” hoặc như ngôn ngữ người Hán “dĩ độc chế độc” (lấy độc trị độc).


Nhìn từ góc độ văn hoá quân sự, tương kế tựu kế tức là: kế của địch tạo ra nhằm chống lại ta, ta giả vờ hiểu nhầm nhưng từ đó, bí mật tạo ra một kế khác để giành thắng lợi. Về thực chất, nói một cách hình tượng, “tương kế, tựu kế" là ta thuận theo ý địch, để rồi hình thành một thòng lọng to, dài hơn thòng long nhỏ hoặc như đào một cái hố lớn, rộng hơn cái hố bé của đối phương, khiến cuối cùng, chúng bị thít cổ vào tròng, bị sa chân xuống hố. Giả vờ hiểu nhầm chỉ là hiện tượng, là hình thức bề ngoài, là động tác giả, còn bí mật tạo ra một kế khác mới là bản chất, là nội dung bên trong của vấn đề.


Người chỉ huy quân sự sáng suốt, không những có thể thực hiện mưu kế kỳ diệu một cách chủ động trong chiến đấu mà còn là khi đối phương sử dụng quỷ kế nào đó, có thể kịp thời phát hiện ngay để lấy “gậy ông đập lưng ông”. Vì vậy, tương kế tựu kế tức là kế lạ trong kế lạ.


Để hành động tương kế, tựu kế đạt kết quả tốt, cần lưu ý hai điểm. Trước hết là phải lợi dụng cho được mưu kế của địch để chống lại chúng. Đó chính là lấy ngay cái địch đang lừa ta, làm cho chúng đinh ninh là ta đã bị lừa để rồi lừa lại chúng mà giành thắng lợi. Muốn vậy, phải có bản lĩnh, phải cao tay hơn đối phương, nghĩa là phải nắm chắc nội dung thực chất của mưu kế đó. Nếu làm ngược lại, không bao giờ đánh thắng được địch. Sau nữa là lợi dụng mưu kế địch để đánh thắng chúng mới chỉ là việc đề ra phương hướng hành động còn mục tiêu của hành động lại phải được nhận thức rõ hơn. Vì đây là khâu then chốt của hành động. Chung quanh vấn đề này, binh thư cổ từng chỉ rõ: “Địch không thắng được ta là do ta chuẩn bị. Ta thắng được địch là do địch sai lầm". Lợi dụng mưu kế của địch chính là phát hiện và khoét sâu sai lầm trong mưu kế của địch để đánh thắng chúng.


Về tương kế, tựu kế có rất nhiều, chỉ xin đưa ra một số dẫn chứng.

Thứ nhất là người lái trâu nước Trịnh tay không đánh lui quân Tần. Thời Xuân Thu (771 - 476 trước công nguyên), thừa dịp nước Trịnh không phòng bị, nước Tần liền cử tướng Mạnh Minh đem quân áp sát biên giới.

Nước Trịnh có một người lái trâu tên là Huyền Cao, trên đường đem trâu đi bán thì được một người bạn, từ nước Tần về, báo tin: quân Tần đã được lệnh đánh nước Trịnh, ngày Bính Tuất tháng 12 sẽ xuất phát. Thấy thế Huyền Cao rất lo lắng, liền nghĩ ngay ra một kế nhằm đảo ngược thế cờ. Đó là một mặt sai người về cấp báo cho vua nước Trịnh, một mặt chuẩn bị hai chục con trâu thật béo và giả đóng vai sứ thần, đem quà đến “úy lạo quân xâm lược”.

Gặp chủ tướng quân Tần, Huyền Cao giành ngay thế chủ động:

- Vua Trịnh biết tướng quân đem quân Tần tới đã cử sứ thần Huyền Cao này đến đón tiếp và úy lạo.

- Đến úy lạo sao không có giấy tờ?

- Tướng quân cất quân ngày Bính Tuất tháng 12, thời gian gấp quá, làm sao chuẩn bị kịp giấy tờ. Nhà vua chỉ nhắn miệng lời chào đến tướng quân.

Bị dồn vào thế bí, Mạnh Minh càng lúng túng suy nghĩ: đến ngày giờ cất quân của ta, sứ thần cũng nắm được, liền hiền lành đấu dịu:

- Quân ta không có ý định đánh nước Trịnh. Mục đích là đánh một nước khác, xin nhờ sứ thần chuyển lời cám ơn tới Trịnh Hầu.


Thứ hai là dưới thời Tam Quốc (220 - 280), Gia Cát Lượng dùng mưu bắt sống Hạ Hầu Mâu. Như chúng ta đã biết, trước khi xuất quân ở Kỳ Sơn, Gia Cát Lượng đã giao chiến với Thôi Lạng, Thái thú An Định ở quận Thiên Thuỷ. Thôi Lạng đã đầu hàng.

Đối với viên hàng tướng này, Gia Cát Lượng đối xử như thượng khách, mong ông ta lập công chuộc tội bằng cách giúp một tay trong việc bắt sống Hạ Hầu Mâu, viên tướng đang cố thủ thành Nam An. Ông nói với Thôi Lạng: "Nay túc hạ còn có hơn một trăm hàng binh. Một số tướng sĩ quân Thục sẽ cài vào đó, đóng giả quân An Định lọt vào thành, mai phục sẵn quanh tướng phủ của Hạ Hầu Mâu. Túc hạ bí mật bàn với Dương Lăng, Thái thú Nam An, chờ đến nửa đêm mở cửa thành sẽ trong, ngoài phối hợp".


Nào ngờ Thôi Lạng gian trá, không thực lòng, đã chạy đến bàn bạc trước với Dương Lăng và Hạ Hầu Mâu, tìm cách chống lại: "Cứ mở cửa thành, chờ cho quân Thục và Khổng Minh vào rồi sẽ chẹt cổ giết gọn".

Nhưng quỷ kế của Thôi Lạng đã bị Gia Cát Lượng nhanh chóng phát hiện. Ông liền lấy ngay kế của địch làm kế của mình.

Tối hôm đó, Gia Cát Lượng dặn trước công việc cho Quan Hưng và Trương Bào. Cứ thế, hai tướng dẫn quân lẫn lộn trong đám quân của Thôi Lạng cùng tiến đến chân thành Nam An. Chờ khi Dương Lăng vừa mở cổng thành ra đón, Quan Hưng vung dao giết ngay tại chỗ. Cùng lúc ấy, Trương Bào quay giáo đâm chết luôn Thôi Lạng. Thừa thắng, ba bề bốn bên, quân Thục ào ạt tiến vào thành, Hạ Hầu Mâu trở tay không kịp.


Như vậy, Thôi Lạng thực hiện quỷ kế, tưởng rằng có thể dùng ngay kế của Gia Cát Lượng, dụ được quân Thục vào thành, sẽ đóng cửa để ra tay. Ai hay, Giá Cát Lượng nhân kế đó, lại chưa vào thành vội, không đợi đến nửa đêm mà ngay từ đầu, đã phá kế của Thôi Lạng. Trong hành động, Gia Cát Lượng mưu cao hơn hắn kẻ địch một đầu. Kế mình đưa ra bị đối phương lợi dụng, Gia Cát Lượng lại dùng chính kế đó để đánh thắng. Rõ ràng đây là một kiểu tương kế, tựu kế “kép”.


Thứ ba là hành động của quân ta trong ngày toàn quốc kháng chiến, ngày 19 tháng 12 năm 1946. Theo lịch sử quân sự, cho đến đầu tháng 12 năm 1946, tình hình đấu tranh theo phương châm “hòa để tiến” của dân tộc ta ngày càng bế tắc, mặc dù Việt Nam và Pháp đã thoả thuận được với nhau qua hai văn kiện: Hiệp định sơ bộ ngày 6 tháng 3 và Tạm ước ngày 14 tháng 9. Đến đầu tháng 12, dã tâm xâm lược của thực dân Pháp đã bộc lộ rõ. Ngày 7 tháng 12 năm 1946, Xanh-tơ-ni, đại diện nước Pháp tuyên bố với các nhà báo: "Đã đến lúc giải quyết thời cuộc bằng quân sự. Quân đội Pháp sẵn sàng hành động". Chín ngày sau, ngày 16 tháng 12 năm 1946, Đô đốc Đác-giăng-li-ơ, Thượng sứ Pháp tại Việt Nam đòi khôi phục các điều ước bán nước mà triều đình nhà Nguyễn đã ký năm 1884 và coi Hà Nội, Hải Phòng, Đà Nẵng là lãnh thổ của nước Pháp. Thực hiện ý đồ đó, quân Pháp đóng ở Hà Nội ra phố khiêu khích, cố tình gây ra những xung đột vũ trang. Biết rằng không thể giải quyết vấn đề bằng con đường thương lượng, chúng ta đành phải chấp nhận con đường đấu tranh vũ trang mới có điều kiện giành lại độc lập, tự do. Theo hướng trên, quân dân ta bí mật, khẩn trương chuẩn bị để giành quyền chủ động chiến lược. Đúng 20 giờ 3 phút ngày 19 tháng 12 năm 1946, quân ta đã nhất tề nổ súng tại Hà Nội và sau đó là tại các thành phố lớn. Cuộc kháng chiến 9 năm (1945 - 1954) chống thực dân Pháp bắt đầu.


Thứ tư là trận Plây-me. Vào cuối năm 1965, khi cuộc kháng chiến chống Mỹ chuyển sang giai đoạn chiến tranh cục bộ, để triển khai lực lượng tham chiến trên toàn miền Nam nước ta, đế quốc Mỹ đã đưa vào chiến trường Tây Nguyên những đơn vị chiến đấu tinh nhuệ nhất mà nòng cốt là sư đoàn kỵ binh bay số 1. Cũng trong thời điểm đó, cụm cứ điểm Plây-me (do một tiểu đoàn bộ binh ngụy phòng ngự) bị quân ta bao vây, áp sát và gây nhiều thiệt hại nặng. Thậm chí chiến đoàn 3 thiết giáp ngụy đến cứu nguy cũng chịu chung số phận. Biết chắc là khi quân ngụy bị đòn đau, quân Mỹ thế nào cũng đến chi viện, quân ta chuyển toàn bộ lực lượng về vị trí chuẩn bị đón đánh và chọn thung lũng Ia Đrăng, phía tây của Plây-me làm điểm quyết chiến. Quả nhiên, để giải vây cho quân ngụy, đồng thời để “tìm diệt” Quân giải phóng, trên “thế mạnh”, lữ đoàn 3, thuộc sư đoàn kỵ binh bay số 1 dùng máy bay lên thẳng liên tiếp đổ quân xuống trận địa mai phục của quân ta. Qua bốn ngày giao tranh, 1 tiểu đoàn của địch bị ta tiêu diệt, lữ đoàn 3 bị loại khỏi vòng chiến đấu.
Logged
ktqsvn
Thành viên
*
Bài viết: 561



« Trả lời #11 vào lúc: 03 Tháng Ba, 2022, 07:28:01 am »

VIỄN GIAO CẬN CÔNG


Thư tịch cổ đại Trung Quốc vẫn hay nói đến cụm từ Viễn giao cận công. Đó là một thuật ngữ quân sự - chính trị - ngoại giao, có nghĩa là “giao hảo với nước ở xa để tiến công nước ở gần”.

Viễn giao cận công, một loại mưu lược nhằm mục đích đối phó với các quốc gia đối địch. Trong chiến tranh cát cứ và thôn tính, các quốc gia cổ đại Trung Quốc vẫn thường dùng mưu lược này. Nhưng không chỉ dưới thời cổ đại ở Trung Quốc mà ngay trong thế kỷ XX, mưu lược này vẫn được nhiều nước tận dụng.


Theo sử sách ghi lại, mưu lược viễn giao cận công được hình thành dưới thời Chiến Quốc (475 - 221 trước Công nguyên), trong điều kiện nước Tần đang trên quá trình thôn tính sáu nước Tề, Sở, Yên, Hàn, Triệu, Ngụy, thống nhất Trung Quốc. Để thực hiện ý đồ, Tần Chiêu Tương Vương đã dùng Phạm Thư làm thừa tướng nhằm mở mang thế lực nước mình. Nội dung công việc của Phạm Thư chính là mưu lược viễn giao cận công. Ngay trong buổi đầu hội kiến, khi biết quân Tần đang trên đường đi đánh nước Tề, ông đã trình bày rõ quan điểm của mình: "Nước Tề cách nước Tần rất xa, ở giữa còn có nước Hàn và nước Ngụy. Đại vương đem quân đi đánh Tề, giả sử đánh bại được Tề một cách thuận lợi thì cũng không có cách gì nối liền Tề với Tần.


Tôi trộm nghĩ thay cho Đại vương, biện pháp tốt nhất là viễn giao cận công. Đối với nước Tề ở xa nên tạm thời giao thiệp bình thường và trước hết nên đánh chiếm những nước lân cận, như vậy thì có thể mở rộng được đất đai của Tần, chiếm được một tấc là của ta một tấc, chiếm được một thước là của ta một thước. Cứ dần dần như thế, mà thôn tính hai nước Hàn, Ngụy. Đến lúc đó thì nước Tề cũng không thể giữ được nữa".


Dẫn chứng về viễn giao cận công có rất nhiều, ở đây chỉ xin nêu lên hai trường hợp: một thuộc về thời cổ đại ở phương Đông và một thuộc về thời hiện đại ở phương Tây.

Thật ra, mưu lược này mãi đến những năm 70 của thế kỷ III trước công nguyên, Phạm Thư mới nâng lên thành một kế sách thế nhưng trước đó, vào cuối thế kỷ IV trước công nguyên, khi tiến hành chủ trương “liên hoành” Trương Nghi cũng đã sử dụng thành công phương pháp “giao hảo với các nước ở xa, tiến công các nước ở gần” để chống lại chủ trương “hợp tung” của sáu nước.


Đầu tiên, Trương Nghi hội kiến với các tướng quốc của hai nước Tề, Sở ở xa. Ông nêu lên những điều hơn lẽ thiệt, khiến hai nước này bỏ điều ước hợp tung, kết giao với Tần, cô lập hai nước Hàn, Ngụy. Mấy năm sau, bốn nước Yên, Hàn, Triệu, Ngụy ở kề bên, định liên minh với Tề, Sở tiến đánh nước Tần nhưng hai nước này từ chối, cho nên liên quân bốn nước đã bị đánh bại.


Thừa thắng, một năm sau, nước Tần tiến đánh nước Hàn và đã chiến thắng lớn khiến các nước khác rất kinh sợ. Tiếp đó, Trương Nghi đến nước Ngụy, khuyên nên giao hảo với nước Tần. Còn nước Triệu, trước thất bại của liên quân bốn nước và nước Hàn bị tiêu diệt, vì không chịu nổi những lời đe dọa, cũng bỏ thế hợp tung, kết thân với nước Tần. Sau khi khuất phục ba nước Hàn, Triệu, Ngụy, Trương Nghi đến nước sở đề nghị tuyệt giao với nước Tề, nếu được, nước Tần sẽ nhường cho 600 dặm đất. Vua Sở đồng ý làm theo rồi cho người sang Tần nhận đất nhưng đấy chỉ là lời hứa hão. Nhẹ dạ, vua Sở ngỡ là nước Tần chưa thật tin mình, bèn cho người đến biên giới chửi rủa vua Tề. Tức giận, vua Tề tuyên bố cắt đứt quan hệ với Sở. Nhưng cuối cùng nước Tần vẫn không chịu giao đất. Biết mình bị lừa, vua Sở tuyên bố tuyệt giao với Tần nhưng lại bị quân Tần đánh bại, đành phải cắt đất cầu hoà. Thắng được nước Sở, Trương Nghi lại đến nước Tề hăm dọa: “Ba nước Hàn, Triệu, Ngụy vốn là bình phong của Tề, nước Tần khó mà tiến đánh được. Nhưng hiện nay, cả ba nước đó đã kết thân với Tần. Nếu không giao hảo với Tần, sẽ là điều bất lợi cho Tề". Trước tình hình đó, vua Tề buộc phải đồng ý. Cuối cùng, Trương Nghi lại đến răn đe khiến nước Yên phải kết thân với Tần. Như vậy là bằng kế viễn giao cận công, Trương Nghi đã thành công lớn trong chủ trương “liên hoành”.


Còn trong Chiến tranh thế giới lần thứ hai, Hít-le mưu toan thôn tính châu Âu nhưng lại sợ các nước ở châu lục này liên minh chống lại nên cũng đã thực hiện mưu lược viễn giao cận công.

Trước hết, hắn ký kết với Anh, Pháp hiệp định Muy-ních, lôi kéo hai nước này vào mục đích cùng chống cộng, chống Liên Xô. Trước đó, về phía mình, Liên Xô đã muốn liên hiệp với Anh, Pháp để chống Đức nhưng bị cự tuyệt. Để bảo vệ lợi ích quốc gia, Liên Xô phải ký điều ước không xâm phạm với Đức.


Biết chắc các nước Đồng minh phương Tây và Liên Xô sẽ không viện trợ cho Ba Lan, đầu tiên Hít-le tiến đánh Ba Lan, Tiệp Khắc rồi Đan Mạch, Hà Lan, Na Uy, Bỉ, Luých-xăm-bua và tiến quân đến eo biển Măng-sơ của nước Pháp. Như vậy, đến năm 1941, Hít-le đã lần lượt đánh bại từng nước và hình thành một vòng cung bao vây Liên Xô.


Để làm tê liệt Liên Xô, Hít-le đã thông qua nhiều hoạt động ngoại giao nhằm che đậy mưu đồ chiến lược thâm độc của mình rồi bất ngờ, rạng sáng ngày 22 tháng 6 năm 1941, tung 117 sư đoàn tiến công toàn diện vào Liên Xô. Trong buổi đầu chiến tranh, vô số quân lính Liên Xô bị tiêu diệt, nhiều thành phố, nông trang, xí nghiệp, trường học bị triệt hạ.


Mưu lược viễn giao cận cộng của Hít-le đã đem lại cho nhân dân thế giới một tai họa vô cùng bi thảm.
Logged
ktqsvn
Thành viên
*
Bài viết: 561



« Trả lời #12 vào lúc: 03 Tháng Ba, 2022, 07:28:50 am »

LẤY NHÀN ĐỢI NHỌC


Trong sự nghiệp đấu tranh vũ trang chống ngoại xâm, tổ tiên ta thường thực hiện phương pháp tác chiến lấy nhàn đợi nhọc. Đó là một tư tưởng được rút ra từ thiên Hư thực trong Binh pháp thập tam thiên của Tôn Tử. "Phàm tiên xử chiến địa nhi đãi địch giả dật, hậu xử chiến địa nhi xu chiến giả lao. Cố thiện chiến giả, chí nhân nhi bất chí vu nhân" (Phàm người đến chiến trường trước rồi đợi địch đến giao chiến thì nhàn hạ, kẻ đến chiến trường sau và vội vã giao chiến thì mệt nhọc. Cho nên, người chỉ huy tác chiến giỏi, bao giờ cũng tìm cách điều động địch, chứ không để địch điều động mình).


Những ý tứ của đoạn văn trên là sự biểu hiện sắc thái cụ thể của một quy luật muôn thuở trong chiến tranh: mạnh đươc yếu thua. Mạnh ở đây là nhàn hạ, nghĩa là không phải hành quân, cơ động, không phải giao chiến trước khi xuất trận mà nếu cần thì công sức bỏ ra chỉ "một nửa" để thắng lợi thu về được "gấp đôi". Nếu trong khi vận dụng, phàm việc gì cũng chuẩn bị trước cho thật đầy đủ, bình tĩnh, điềm đạm thì vẫn đủ sức đối phó với sự quấy rối nảy sinh từ bên ngoài. Bất kể việc gì cũng đều có thể lấy nhàn hạ mà ứng xử với mệt nhọc.


Theo thông lệ, khi giải quyết công việc, người ta vẫn thường cho rằng việc hôm nay không nên để tới ngày mai, hiệu suất càng nhanh càng tốt. Điều đó rất chính xác. Thế nhưng khi phải xử lý một vấn đề rắc rối, khó khăn có khi lần lữa lại là một biện pháp tốt nhất. Làm như vậy không có nghĩa là nhút nhát, yếu hèn, cũng không có nghĩa là tắc trách, sở dĩ phải như thế vì đây là một thủ đoạn quyền biến. Nó làm cho ý chí của mình không bị lôi cuốn bởi những sự kiện đột nhiên xảy ra khiến mình dễ bị động.


Về mặt tiêu cực mà nói, đây là ngồi im, quan sát sự vật thay đổi để rồi tìm ra quyết sách cuối cùng. Còn về mặt tích cực, lại là tìm phương pháp làm cho đối phương mệt mỏi, mất nhuệ khí, sau đó thừa cơ xuất kích đánh cho ngã gục không gượng dậy được, đúng như lời Tôn Tử "vùi nó xuống chín tấc đất, tung nó lên chín tầng trời".


Khi dùng phương pháp này, điều cốt yếu là phải điềm tĩnh ứng biến, phải cân nhắc tính toán, phải so sánh, đối chiếu cụ thể rõ ràng hoàn cảnh và ý đồ, cả về thực lực giữa hai bên tham chiến, bám sát tình hình từng lúc, từng nơi, khôn khéo chú ý sự thay đổi của thực tế khách quan trên chiến trường. Thời cơ chưa đến phải "án binh bất động", thời cơ đến, phải nhanh chóng, mạnh mẽ, đủ sức nghiêng sông, lấp biển. Phương pháp này nếu thực hiện tốt, có thể lấy ít đánh nhiều, lấy yếu chống mạnh làm xoay chuyển tình hình.


Từng được các nhà chỉ huy quân sự lừng danh trên thế giới nhận thức ra, cho nên phương pháp này đã được thực hiện ngay từ thời cổ đại. Chẳng hạn như ở Hy Lạp (thế kỷ VIII - năm 30 trước công nguyên), trong quá trình tiến quân vào Ba Tư, biết rõ mình thiếu sức mạnh trên biển Địa Trung Hải, trước hết A-lếch-xăng - xứ Ma-xê-đoan tổ chức đánh chiếm ngay vùng ven biển Trung Đông, lấy đó làm bàn đạp, ông đưa lực lượng thuần túy mặt đất tiến lên đánh chiếm các căn cứ hải quân đối phương rồi men theo bờ biển Xi-ri và Phê-ni-xi, mở cuộc tiến công thắng lợi vào hạm đội Ba Tư. Hay trận Can, năm 216 trước công nguyên, trên đất La Mã tuy chỉ có 50.000 người nhưng quân Các-ta-giơ (một nhà nước cổ đại ở Bắc Phi), dưới sự chỉ huy của Han-ni-ban, do được huấn luyện và nghỉ ngơi tại chỗ nên đã bao vây và tiêu diệt gọn 86.000 quân La Mã dưới sự chỉ huy của Va-rông, do còn mệt nhọc vì vừa hành quân từ xa tới. Dưới thời Tây Hán (năm 206 trước công nguyên - 24), trong trận Tỉnh Hình, năm 204 trước công nguyên, Hàn Tín chỉ có 5 vạn quân nhưng đã khôn khéo đánh lừa, dụ 10 vạn quân Triệu vào trận địa bày sẵn để tiêu diệt. Còn dưới thời Đông Tấn, mặc dù với số quân chỉ 8 vạn nhưng dưới sự chỉ huy của Tạ Huyền vẫn dàn quân tại bờ sông Phì Thủy để chống lại 90 vạn quân Tần xâm lược vào năm 283. Với một tương quan lực lượng quá ư chênh lệch, Tạ Huyền đã nhử cho đối phương chịu lui về phía sau trước khi giao chiến. Lợi dụng lúc quân địch đang rút lui, hàng ngũ còn lộn xộn, ông chớp thời cơ, tổ chức công kích và đã làm tan rã toàn bộ khối quân đông, ngót một triệu người.


Ở Việt Nam, phương pháp tác chiến trên hầu như được dùng thường xuyên trong các cuộc chiến tranh yêu nước, đúng như kết luận nổi tiếng của Nguyễn Trãi trong bài Bình Ngô đai cáo ở đầu thế kỷ XV:

''Lấy yếu chống mạnh, hay đánh bất ngờ,
Lấy ít địch nhiều, thường dùng mai phục".

Tại sao như vậy? Vì theo một nguyên tắc bất di bất dịch, nghệ thuật quân sự bao giờ cũng hình thành trên cơ sở tương quan lực lượng địch - ta. Địch mạnh vì nhiều, ta yếu vì ít. Yếu chống mạnh mà muốn chiến thắng phải tiến hành theo hai phương pháp. Thứ nhất là đánh địch trong điều kiện chúng bị bất ngờ, không dè trước. Thứ hai là đánh địch khi ta có ưu thế hơn. Ưu thế đó được thể hiện dưới hai hình thức. Hoặc là đánh địch ngay tại chỗ. Hoặc là chờ địch mệt mỏi mới xuất kích.


Xét về nghệ thuật quân sự, lấy nhàn đợi nhọc được thực hiện ở hai quy mô khác nhau.

Ở quy mô chiến lược, trước hết là từ đầu đến cuối các cuộc chiến tranh, lấy lực lượng tại chỗ, bao gồm quân chủ lực đồn trú tại các địa phương và dân binh, thổ binh xóm làng - tức lực lượng chưa bị hao phí sức lực vì không phải di chuyển và chưa phải giao chiến để chống quân địch khi lực lượng của chúng đã bị mệt mỏi, tổn thất ít nhiều trong vận động, trong giao chiến trên đường hành quân. Cứ thế trên phạm vi cả nước, các lực lượng tại chỗ đã góp phần tiêu hao địch, dẫn tới sự chuyển hóa lực lượng hai bên, tạo thuận lợi cho chủ lực ra quân, giáng đòn quyết định. Tiếp đến là đại quân án binh bất động, giấu kín, "nuôi sức, chờ thời" ở giai đoạn đầu cuộc chiến, khi quân xâm lược chưa bị chiến tranh tại chỗ tiêu hao, mài mòn để rồi giáng đòn tiêu diệt chiến lược, giành thắng lợi quyết định vào đối phương khi chúng đã bị sứt mẻ, hao hụt ở giai đoạn cuối, giai đoạn phản công chiến lược. Điều này thường được thực hiện trong các cuộc chiến tranh bảo vệ Tổ quốc. Ở thế kỷ XIII là sự rút lui chiến lược, chờ cho chiến tranh tại chỗ "mài mòn" lực lượng địch, chủ lực mới ra quân, tổ chức phản công chiến lược, tiêu diệt chúng trên đường tháo chạy bằng các trận phục kích lớn. Ở thế kỷ XVIII cũng vậy. Các cuộc chiến tranh năm 1785 và 1789 được diễn ra bằng cách rút lui của các lực lượng đồn trú phía trước, né tránh đụng độ để đại quân kịp chuẩn bị, tiến lên giáng đòn quyết định.


Ở quy mô chiến thuật là dựa vào địa hình, vào thế hiểm, tổ chức những trận phục kích để chặn đánh, tiêu diệt địch. Đây là một phương pháp tác chiến chiến thuật phổ biến hầu như ở mọi cuộc chiến tranh chống ngoại xâm. Những trận đánh lớn trong hơn một ngàn năm giữ nước trở lại đây phần lớn đều thực hiện theo phương pháp tác chiến này. Trong chiến tranh bảo vệ Tổ quốc, đó là hai trận Bạch Đằng, năm 938 và năm 1288, các trận Chương Dương, Vạn Kiếp năm 1285, trận Rạch Gầm - Xoài Mút năm 1785, trận Đầm Mực năm 1789. Trong chiến tranh giải phóng ở thế kỷ XV, đó là các trận Tốt Động - Chúc Động năm 1426, Chi Lăng 1427; ở thế kỷ XX, dưới thời kháng chiến chống Pháp, đó là các trận Bông Lau năm 1950, đèo An Khê năm 1954, dưới thời kháng chiến chống Mỹ, đó là trận Phú Bổn năm 1975.
Logged
ktqsvn
Thành viên
*
Bài viết: 561



« Trả lời #13 vào lúc: 03 Tháng Ba, 2022, 07:30:53 am »

TANG BỒNG HỒ THỈ


Tang bồng hồ thỉ là một cụm từ gốc Hán. Về nghĩa đen, tang là gỗ dâu, bồng là cỏ bồng, hồ là cây cung, thỉ là mũi tên. Cụ thể hơn là gỗ dâu dùng làm cung, cỏ bồng dùng làm tên. Nói gọn lại, tang bồng hồ thỉ là cung tên. Từ đó, về nghĩa bóng, tang bồng hồ thỉ hoặc đảo ngược lại là hồ thỉ tang bồng, là tang hồ bồng thỉ hoặc rút gọn là tang bồng, là hồ thỉ đều nhằm biểu thị chí làm trai, tức là công danh sự nghiêp. Và đã là kẻ trượng phu, sống trên đời, nhất thiết phải phấn đấu để trả cho được món nợ đó.
Chính vì vậy, Nguyễn Công Trứ viết:

   "Tang bồng hồ thỉ, nam nhi trái,
   Cái công danh là cái nợ đời".

Tại sao cung tên lại có mối quan hệ đến chí làm trai, đến công danh sự nghiệp? Để giải đáp câu hỏi này, chúng ta hãy trở về với xã hội phong kiến Trung Quốc xưa. Theo phong tục lúc bấy giờ, khi nhà vua sinh hạ hoàng tử, người ta lấy cung bằng gỗ dâu và sáu mũi tên bằng cỏ bồng, bắn ra sáu phía là: lên trời, xuống đất và bốn phương đông, tây, nam, bắc, để cầu chúc cho cậu bé sau này lớn lên có chí làm trai, làm nên công danh sự nghiệp, như mũi tên bay đi khắp mọi nơi. Còn người dân thường, khi sinh, con trai cũng lấy một cây cung và một mũi tên treo ở bên trái, phía trên cửa ra vào. Bởi vậy mà có từ huyền hồ nghĩa đen là treo cung, nghĩa bóng là sinh con trai.


Sở dĩ thời ấy, từ nhà vua đến người dân thường, đều cầu mong cho con trai mình sau này làm nên công danh sự nghiệp và thể hiện điều ước mong đó qua vật tượng trưng là cây cung và mũi tên bởi vì cung tên là vũ khí, là công cụ để tiến hành chiến tranh. Mà chiến tranh vốn dĩ là một nơi rèn luyện, thử thách ác liệt, gay go nhất và cũng là nơi thể hiện rõ nhất ý chí, tài năng của đấng nam nhi.


Nhưng do đâu lại chỉ lấy cung tên mà không lấy giáo mác để biểu thị cho chí làm trai? Đó là vì bước sang thời trung đại - cũng là thời đại tương ứng với chế độ phong kiến - nhất là từ thế kỷ X trở đi, kỵ binh cùng với vũ khí cung tên giữ vai trò quyết định trên chiến địa còn bộ binh với vũ khí giáo mác đã bị đẩy xuống hàng thứ yếu. Và đến khi bộ binh được tái sinh thì vũ khí cầm tay của họ đã là khẩu súng trường.


Từ khía cạnh khác, cũng phải thấy là dưới thời phong kiến, bắn cung và cưỡi ngựa là hình mẫu của người chỉ huy quân sự. Chí làm trai là muốn lập công danh, là phấn đấu vươn tới hình mẫu đó (hình mẫu đã được biểu tượng hóa thành cung tên) mà không muốn dừng lại ở giáo mác của người lính bình thường.


Ở đây có một điều đáng chú ý là cho đến cuối thế kỷ XIX, khi súng đạn đã có khoảng 600 năm lịch sử, người ta vẫn còn hay nhắc đến tang bồng hồ thỉ, tức là nhắc đến cung tên. Bởi lẽ súng đạn và cung tên tuy thuộc hai loại vũ khí hoàn toàn khác nhau (từ chất liệu chế tác đến năng lượng sử dụng) nhưng lại đồng nhất với nhau về tính năng, tác dụng là ở chỗ chúng đều dùng để đánh xa, khác với giáo gươm chỉ dùng để đánh gần. Muốn hiểu rõ hơn, chúng ta hãy bắt đầu từ thời nguyên thủy.


Dưới thời này, nếu như lao giáo là những công cụ xuất hiện đầu tiên trong săn bắn để rồi trở thành vũ khí đánh gần trong chiến tranh thì cung tên xuất hiện sau đó đã mở ra thời đại vũ khí đánh xa của loài người. Thật vậy, lúc bấy giờ, khi thịt làm thực phẩm đã trở nên khó khăn vì lao giáo bất lực trước những thú rừng to lớn, đặc biệt là có sức chạy nhanh, chạy xa thì cung tên bắt đầu hình thành. Từ đó, việc săn bắn đã trở thành một trong những ngành lao động thường ngày. Cung, dây cung và tên là những công cụ rất phức tạp. Loại vũ khí này tuy xuất hiện muộn hơn dưới thời nguyên thủy và có nhiều loại, song vẫn có thể quy vào hai loại chính: một loại cung thuần gỗ, làm bằng cả một khúc gỗ, một loại cung ghép bao gồm gỗ, xương và sừng, nhưng về công hiệu, cung thuần gỗ thường tốt hơn cung ghép. Bởi thế, chỉ những nơi không tìm được gỗ thích hợp, để làm loại cung thứ nhất, người ta mới làm loại cung thứ hai. Mũi tên thường làm bằng gỗ, bằng tre, có khi bằng sậy. Chính vì thế, trong tiếng Hán, từ tiễn còn đọc là tiến - là mũi tên, cũng có nghĩa là que tre nhỏ. Đầu mũi tên thường vót nhọn hoặc cắm thêm đá, xương hoặc răng thú để dễ bay tới đích. Vì là vũ khí đánh xa, mũi tên giữ vai trò cầu nối giữa cây cung với đích qua động tác bắn. Từ đó, người Hán có thành ngữ "hữu đích phóng thỉ" (bắn tên có mục đích). Nguyên liệu làm dây cung là da thuộc, gân thú hoặc là tước nhỏ vỏ cây thành sợi rồi se lại. Việc chế tạo mũi tên tẩm thuốc độc cũng đã được thực hiện rộng rãi trong nhiều bộ lạc. Sau cùng là việc chế tạo ra loại mũi tên mang theo lửa, đủ sức đốt cháy trụi nhà cửa của cả một làng thù địch. Có thể vào thời điểm ấy, cung tên đã bắt đầu chuyển từ vai trò của công cụ săn bắn sang vai trò của vũ khí chiến đấu. Như vậy, muốn phát minh ra cung tên, rõ ràng là phải có kinh nghiệm tích lũy lâu ngày và phải có trí lực phát triển hơn và vì thế cũng đồng thời phải biết thêm nhiều phát minh khác nhau như nghề làm đồ gốm, nghề mài công cụ đá, nghề dệt bằng tay (không có khung cửi)... và đã bắt đầu xuất hiện những mầm mống của một cuộc sống định cư thành xóm làng. Cứ thế cho đến mãi tận cuối thời nguyên thủy, trước sau cung tên vẫn được xem là thứ vũ khí chủ yếu trong xã hội loài người, đúng như nhận định của Ph. Ăng-ghen: "Cung tên đối với thời đại mông muội thì cũng giống như thanh kiếm sắt đối với thời đại dã man và khẩu súng đối với thời đại văn minh: đó là thứ vũ khí có tính chất quyết định".


Như vậy là từ xa xưa, trước khi có sử sách, cung tên đã có một vai trò rất to lớn. Rồi kim loại ra đời, đưa tới xã hội có giai cấp cùng với chiến tranh, gươm giáo (bằng chất liệu đồng rồi sắt, thép) có làm lu mờ cung tên khoảng hơn một ngàn năm nhưng khi kỵ binh chiếm vai trò quyết định trên chiến trường, loại vũ khí đánh xa này lại trở về vị trí của nó như xưa kia, có khác hơn là chất liệu chế tác đã bằng kim loại, thậm chí khi súng đạn ra đời thì tính năng đánh xa lại được kế thừa và phát huy mạnh mẽ hơn bao giờ hết.


Có thể nói rằng, từ săn bắn dưới thời nguyên thủy đến chiến đấu dưới thời trung đại, cung tên đã có một cuộc sống qua nhiều ngàn năm và đã đạt nhiều thành tựu rực rỡ. Vĩ vậy, nó đã trở thành một biểu tượng cho chí làm trai, cho công danh sự nghiệp dưới cụm từ tang bồng hồ thỉ hay hồ thỉ tang bồng.


Các nhà khoa học đoán định rằng, việc phát minh ra cung tên chỉ là một hiện tượng "xôi đỗ", nghĩa là không phải của chung ở tất cả các bộ lạc thời nguyên thủy. Một số bộ lạc này biết sử dụng cung tên chỉ là làm theo cái kết quả của một số bộ lạc khác. Người Ô-xtơ-ra-li-a và một số bộ lạc lạc hậu cá biệt ở lưu vực sông A-ma-dôn (Nam Mỹ) đều không biết sử dụng cung tên. Ở Thái Bình Dương cũng vậy, một số bộ lạc trên quần đảo Mê-la-nê-di-a không hề biết cung tên là gì. Còn người Pô-lê-nê-di-a và người Mi-crô-nê-di-a, khi mới được "phát hiện" đều chưa biết dùng cung tên làm vũ khí săn bắn hoặc chiến đấu. Ở những bộ lạc đã phát triển tới trình độ cao rồi mà vẫn chưa có được một thứ vũ khí nguyên thủy trọng yếu như vậy. Đó chính là một sự thật mà cho đến nay chưa có một sự giải thích nào thỏa đáng.


Sự xuất hiện cây nỏ cũng là một trường hợp tương tự. Hiện nay người ta chưa thu thập được sử liệu đầy đủ về cây nỏ trên phạm vi toàn thế giới nhưng rõ ràng ở phương Đông, nỏ là một sáng tạo riêng của cư dân Đông - Nam Á. Nỏ hoặc ná (hiện là phương ngữ vùng Nghệ - Tĩnh) là một ngôn ngữ phương Nam. Tiếng La-ha (Mường La, Sơn La) gọi là nả, tiếng Chăm-pa gọi là nư, tiếng Ê-đê (Tây Nguyên) gọi là hna. Từ thời nguyên thủy, người Trung Hoa chỉ có cây cung mặc dù trong tiếng Hán, từ nỗ là cây nỏ đã có từ lâu nhưng phải là sau khi từ Đông Nam Á, nỏ du nhập vào Trung Quốc.


Bước sang thế kỷ XX, vũ khí đánh xa đã có bước phát triển vượt bậc. Đạn nói chung đã tách rời súng cho nên ở phương Đông, cụ thể là Trung Quốc và Việt Nam, biểu tượng hoàn chỉnh về cung tên không còn được sử dụng để nói về chí làm trai như từ thế kỷ XIX trở về trước. Người ta đã tách rời mũi tên ra khỏi cây cung để xây dựng một biểu tượng văn hóa quân sự mới là tên lửa. Biểu tượng này được bắt nguồn từ mũi tên mang lửa (do cây cung bắn đi) cách đây nhiều ngàn năm nhưng lại để chỉ một loại vũ khí có vai trò quan trọng hàng đầu trong tiến công và phòng thủ quân sự, đặc biệt là loại có điều khiển với độ xác suất trúng đích cao, với tính hiệu quả chiến đấu lớn. Nó đã, đang và sẽ là loại vũ khí cơ bản trong chiến tranh tương lai. Đó là tên lửa. Mặc dù trong cùng một tên gọi nhưng giữa "tên lửa, tên tre" (như cách so sánh thú vị của nhà thơ Tố Hữu trong thi phẩm của mình) thời gian ra đời và hiệu quả công phá, đã cách xa nhau như một trời, một vực.
Logged
ktqsvn
Thành viên
*
Bài viết: 561



« Trả lời #14 vào lúc: 03 Tháng Ba, 2022, 07:31:45 am »

DA NGỰA BỌC THÂY


Da ngựa bọc thây là một cụm từ thuần Việt. Từ điển tiếng Việt, do Hoàng Phê chủ biên định nghĩa là: "Chết ở giữa chiến trường, dùng da ngựa bọc xác (nói về chí khí của người con trai thời xưa, có chết thì chết oanh liệt ở mặt trận).


Nhưng thật ra, cụm từ trên được dịch từ một cụm từ tiếng Hán: mã cách quả thi. Mã cách: da ngựa; quả thi: bọc thây. Quả còn đọc là quá, là lõa, là khỏa. Nguyên văn cụm từ trên vốn là ở trong câu nói nổi tiếng của Mã Viện (14 trước công nguyên - năm 49), một danh tướng thời Đông Hán: "Kẻ đại trượng phu nên chết ở nơi chiến trường, lấy da ngựa bọc thây".


Thời cổ đại Trung Quốc, ở chiến trường, do đi lại khó khăn, quan tài không đem theo được, khi người chỉ huy quân sự tử trận, binh lính dưới quyền, giết ngay con ngựa chiến của người ấy, lấy da bọc thi hài đem về quê chôn cất.


Lấy da ngựa bọc thây về sau đã trở thành một nghi thức tang lễ quân sự. Cũng tương tự như vậy, thời cổ đại Hy Lạp, ngươi chỉ huy quân sự tử trận, binh lính lại lấy ngay tấm lá chắn và cây giáo của người ấy làm cáng khiêng đi mai táng. Ngày nay, nghi thức tang lễ đối với các tướng lĩnh quân đội và cả những nhà lãnh đạo tối cao quốc gia ở nhiều nước là đặt thi hài trên xe thiết giáp hoặc trên bệ pháo.


Dần dần theo thời gian, nghi thức da ngựa bọc thây đã trở thành một biểu tượng văn hoá quân sự để nói lên chí khí của người con trai đối với đất nước. Chẳng hạn như trong Chinh phụ ngâm ở cuối thế kỷ XVIII, Đặng Trần Côn viết: "Chí làm trai dặm nghìn da ngựa". Hoặc như trong Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc ở cuối thế kỷ XIX, Nguyễn Đình Chiểu tỏ lòng thương tiếc: "Một chắc sa trường rằng chữ “hạnh”, nào hay da ngựa bọc thây”.


Nhưng ngày nay, da ngựa bọc thây đã trở thành từ cổ - cả hình thức ngôn ngữ lẫn nội dung khái niệm - và từ lâu lắm, không còn ai dùng tới nữa. Ở đây cũng xin nói rõ, tác giả của cụm từ này, đối với dân tộc ta, chẳng phải là người có lai lịch tốt đẹp gì. Mã Viện với tên thật là Mã Văn Uyên, vốn là một tướng của nghĩa quân nông dân, sau đã phản bội, bỏ chạy sang đầu hàng triều đình Đông Hán và quay lại, thẳng tay đàn áp những người anh em đã từng cùng chí hướng với mình để đạt tới danh hiệu Phục Ba tướng quân. (Phục là chinh phục, đàn áp; Ba, nghĩa đen là sóng, nghĩa bóng là những phong trào khởi nghĩa của nhân dân). Danh hiệu đó có nghĩa là người chỉ huy quân sự có công lao đánh dẹp những cuộc nổi dậy của quần chúng. Hơn thế nữa, ông ta còn là một hình mẫu sau này của những tên chủ tướng các đạo quân xâm lược vào nước ta giống như Quách Quỳ ở thế kỷ XI, Thoát Hoan ở thế kỷ XIII, Trương Phụ, Vương Thông ở thế kỷ XV, Tôn Sĩ Nghị ở thế kỷ XVIII. Chính ông ta là "tên đồ tể" trong việc đàn áp khốc liệt cuộc khỏi nghĩa của Hai Bà Trưng vào các năm 43 - 44. Nếu quá trình “đồng hóa” đối với dân tộc ta của chính quyền thống trị ngoại bang đã liên tục kéo dài suốt hơn một ngàn năm Bắc thuộc và đã thất bại thì ông ta là kẻ mở đầu qua lời tâu với vua Hán Quang Vũ: "... Luật Việt và luật Hán khác nhau tới hơn mười việc. Xin làm sáng tỏ cựu chế đối với người Việt". Tàn ác hơn, ông ta còn vơ vét hết các trống đồng Đông Sơn, đem đúc lại thành hai con ngựa, mang về đặt tại cổng thành Lạc Dương - kinh đô đương thời của nhà Đông Hán. Về sự việc này, sách Hậu Hán Thư ghi rõ: "Mã Viện thích cưỡi ngựa, giỏi phân biệt ngựa tốt. Ông ta lấy được trống đồng Lạc Việt ở Giao Chỉ bèn đúc thành ngựa mẫu... Ngựa cao 3 thước 5 tấc (khoảng hơn 1m), vòng thân ngựa 4 thước 4 tấc khoảng 1,5m), vua xuống chiếu đặt ngựa mẫu ở dưới điện Tuyên Đức để làm ngựa mẫu tốt".


Không những thế, sử sách còn ghi lại, sau khi đàn áp dã man cuộc khởi nghĩa Hai Bà Trưng, cùng với việc đem theo một số trống đồng về nước, đúc thành ngựa mẫu, Mã Viện còn muốn nhổ tận gốc rễ các thế lực chống đối nên đã bắt 300 cừ suý của nước ta đày sang Linh Lăng và thiêu huỷ đi rất nhiều trống đồng. Gần đây, một số nhà khoa học đã chứng minh được rằng từ xa xưa, trống đồng là biểu tượng cho linh hồn và quyền uy của đất nước Văn Lang, là vật linh hiệu triệu dân tộc chống ngoại xâm chứ không phải là một loại nhạc cụ. Lần đầu tiên gặp loại vật linh này, có thể là nhầm hoặc đúng hơn là Mã Viện đã cố ý làm cho người Lạc Việt dùng nó như “cổ” (trống) - một nhạc cụ của người Hán để quên đi nguồn gốc của dân tộc mình. Đồng thời nhận thấy nó làm bằng đồng, khác với trống làm bằng gỗ và da ở Trung Quốc, nên người thời Mã Viện đã ghép từ chỉ chức năng là "cổ" với từ chỉ chất liệu là “đồng” thành thuật ngữ "đồng cổ" và xem là một thứ nhạc cụ. Từ thuật ngữ tiếng Hán đó, ngày nay người Việt dịch ngược lại thành “trống đồng” còn tên gọi nguyên sơ của loại vật linh này của tổ tiên chúng ta thì đã không còn nữa. Việc làm đó của Mã Viện không ngoài mục đích nhằm giáng một đòn nhục mạ vào nền văn hoá của người Việt lúc bấy giờ. Cũng chính ông ta la người đã dựng cột đồng và ghi lên đó dòng chữ "Đồng trụ chiết, Giao Chỉ diệt” (cột đồng gẫy, Giao Chỉ mất). Sự thật đau thương trong lịch sử dân tộc ta là như thế nhưng trái lại, Mã Viện là “người hùng”, là danh tướng của Nhà nước phong kiến Đông Hán. Bởi vì từ việc làm đến lời nói của ông ta đã biếu lộ sự “hết mình” với triều đình ấy và dĩ nhiên được trân trọng đưa vào sử sách Trung Quốc.


Đấy là xét về ý nghĩa chính trị - xã hội của cụm từ da ngựa bọc thây còn trong việc làm cụ thể thì ngay cả lúc đương thời, cũng rất khó thực hiện vì không phải chiến trường nào cũng sẵn ngựa chiến như vùng thảo nguyên ở phía bắc sông Hoàng Hà. Đối với Việt Nam, một đất nước nhiều sông ngòi và ruộng lầy, hình thức mai táng theo kiểu đó lại càng khó khăn, không những thế, đấy lại là một nghi thức tang lễ quân sự, chỉ dành cho người chỉ huy. Thời xưa, binh lính tử trận - nhất là trong chiến tranh chinh phạt, xâm lược - không hề có một hình thức chôn cất nào được quy định rõ. Trong văn học cổ, người ta thường nhắc đến hình tượng "thây phơi ngoài chiến địa" hoặc thân phận hẩm hiu của người lính chiến "Chinh phu, tử sĩ mấy người, nào ai mạc mặt, nào ai gọi hồn"... không phải là thiếu căn cứ. Nó đúng cả nghĩa đen lẫn nghĩa bóng. Vì thi thể binh lính tử trận không ai quản lý nên thường bị phía đối phương tùy tiện “chặt đầu, cắt tai” làm vật chứng cho chiến công. Danh từ “thủ cấp” dưới thời Tần Thuỷ Hoàng nghĩa là người lập chiến công phải có đầu giặc kèm theo thì mới được thăng cấp. “Bêu đầu” chẳng qua chỉ là sự biến tướng man rợ của hình thức “phơi thây” nhưng có sự giám sát nghiêm mật của nhà chức trách chuyên quyền.


Nhưng rồi người ta ngày càng nhận thức rõ vai trò quyết định của những người trực tiếp cầm vũ khí chiến đấu trên chiến trường, như nhận định của V.I. Lênin: "Trong mọi cuộc chiến tranh, rốt cuộc thắng lợi đều tuỳ thuộc vào tinh thần của quần chúng trên chiến trường". Mọi người tham chiến, từ binh nhì đến nguyên soái, khi ngã xuống, tuy công trạng cao thấp có khác nhau nhưng đều có chung một niềm vinh quang như nhau, khi tử trận đều có những nghi thức mai táng tương đồng. Từ đó, người Pháp xem tử trận là "chết trên trường danh dự". Đặc biệt là đối với những chiến sĩ đã ngã xuống trong những cuộc chiến tranh giữ nước chống ngoại xâm như ở Việt Nam suốt 10 thế kỷ trước kia cũng như 30 năm gần đây thì muôn đời được “tên ghi gác Khói, tượng truyền đài Lân”, mãi mãi được nhân dân cả nước tôn thờ, sùng kính, với lòng cầu mong được ơn đáp, nghĩa đền.
Logged
ktqsvn
Thành viên
*
Bài viết: 561



« Trả lời #15 vào lúc: 03 Tháng Ba, 2022, 07:32:33 am »

TUNG HOÀNH


Ngày nay, tung hoành là một thuật ngữ quân sự, nhưng xưa kia, nó không phải như vậy. Tung hoành vốn là một cặp từ gốc Hán. Theo nghĩa đen, tung là dọc, hoành là ngang; theo nghĩa bóng, tung hoành là có chí khí dọc ngang, không gì ngăn cản nổi.


Với nghĩa đó, để chỉ người chiến sĩ Giải phóng quân miền Nam, Tố Hữu viết: "Anh đi xuôi ngược tung hoành, bước dài như gió, lay thành chuyển non”. Hay là trong truyện Kiều, Nguyễn Du cũng miêu tả Từ Hải: "Chọc trời, quấy nước mặc dầu, dọc ngang nào biết trên đầu có ai".


Như đã nói, xưa kia, tung hoành không phải là một thuật ngữ quân sự. Dưới thời Chiến Quốc, cách đây hơn 2.200 năm, thuật ngữ tung hoành có nghĩa là thủ đoạn ngoại giao và thuật ngữ tung hoành hoc chỉ một học phái ngoại giao mà hai tung hoành gia tiêu biểu là Tô Tần và Trương Nghi. Họ Tô chủ trương hợp sức các nước ở phía nam và phía bắc, theo chiều dọc, gọi là hợp tung, để chống nước Tần. Trái lại, họ Trương chủ trương liên kết các nước ở phía đông và phía tầy, theo chiều ngang, gọi là liên hoành, để giúp nước Tần. Kết quả là liên hoành chiến thắng, Tần Thuỷ Hoàng đã thống nhât được lãnh thổ Trung Quốc vào năm 221 trước công nguyên.


Trong thời hiện đại, trên trường quổc tế, người ta hay dùng cụm từ “ngoại giao con thoi”. Phải chăng đấy cũng là một kiểu “tung hoành” của sứ giả giữa các nước.

Tung là dọc, hoành là ngang, đem điều đó đối chiếu với tư thế con người, sẽ có dọc là chiều đi lên phía trước mặt và lùi về phía sau lưng, còn gọi là chiều dài, ngang là chiều rẽ sang bên trái và rẽ sang bên phải, còn gọi là chiều rộng.


Tuy thế nhưng khi đưa vào đời sống, dài và rộng vẫn được dùng theo nghĩa toán học, còn dọc và ngang lại được dùng theo nghĩa xã hội nhiều hơn. Từ dọc thường được dùng với nghĩa tích cực, nghĩa là người ta thích nói đến tiến, tức là chỉ muốn nói đến hướng đi lên phía trước mặt mà không muốn nói đến lùi, tức là không muốn nói đến hướng tụt về phía sau. Còn trái lại, từ ngang, tuy không phải là tất cả, hay được dùng với nghĩa tiêu cực, nhằm chỉ những người có hành vi, tính cách không bình thương mà khẩu ngữ nói gọn là ngang. Nội dung của ngữ nghĩa này được thể hiện ở trong mấy trường hợp. Thứ nhất là làm gián đoạn, nửa chừng như: phá ngang, cắt ngang câu chuyện..., thứ hai là không thuận theo lẽ thường trong nói năng, trong hành động như: nói ngang, bàn ngang, ngang phè phè, ngang như cua..., thứ ba là không bình thường, là lạ, gây cảm giác khó chịu, khó nghe như: mùi ngang ngang, ngang tai, trái mắt.


Đóng góp vào từ ngang còn có những từ dịch từ hoành của tiếng Hán: hoành bao (bao là hung ác): ngang tàng, hung ác; hoành nghịch (nghịch là trái): ngang trái; hoành mục (mục là mắt): con mắt nhìn ngang, tỏ thái độ giận dữ.


Khi nói về từ ngang trong tiếng Việt, xin đừng nhầm lẫn với từ ngang trong tiếng Hán với hai nghĩa: một là ngẩng cao đầu, không chịu thua ai và hai là đắt đỏ, giá cao. Về nghĩa thứ nhất, có thể tìm thấy những cặp từ: ngang tàng (tàng là chứa đựng): nghệnh ngang, ngất ngưởng, tỏ vẻ không sợ gì; hiên ngang (hiên là tự tin): vững vàng, không chịu khuất phục trước mọi đe dọa.


Như thế, nhưng tại sao từ một thuật ngữ ngoại giao, tung hoành lại trở thành một thuật ngữ quân sự? Để giải đáp câu hỏi này, chúng ta hãy tìm hiểu những hành động chiến đấu của người lính trên chiến trường.

Nếu cho rằng tung hoành chỉ dừng lại ở những động tác cá nhân của người chiến binh cầm vũ khí tiến dọc, rẽ ngang trong giao chiến thì vấn đề thật quá đơn giản. Đúng ra, đó là một biểu tượng chỉ chung về mọi hoạt động quân sự.


Như đã thấy trong đời sống xã hội, người ta thiên về chiều dọc thì trái lại trong chiến đấu, người lính phải quán xuyến đầy đủ cả hai chiều của tung, hoành. Mỗi chiều có một giá trị riêng.

Nhìn một cách tổng quát, quá trình phát triến đội hình chiến đấu qua các thời đại vũ khí hoàn toàn phụ thuộc vào việc cải tiến và tạo ra những phương tiện sát thương mới cùng với việc trang bị các phương tiện đó cho người lính. Nhưng nhìn từ góc độ văn hoá quân sự thì hình thức của sự phát triển này lại không bao giờ thoát ra khỏi hai chiều không gian của tung hoành.


Thật vậy, từ xưa tới nay sâu và rộng luôn luôn đấu tranh với nhau trong sự phát triển của đội hình chiến đấu. Sâu là tính về số lượng các lớp chiến binh xếp theo chiều dọc, rộng là tính về số lượng các lớp chiến binh xếp theo chiều ngang. Dưới thời đại vũ khí lạnh nói chung, người ta chú ý nhiều đến chiều ngang của đội hình chiến đấu. Chẳng hạn như đội hình của người Hi Lạp, có chiều ngang tới hơn 1000m (trong hội chiến Ma-ra-tông, năm 490 trước công nguyên), mà chiều dọc chỉ có 2,5m. Vì ở thời điểm ấy, sức tiến công của gươm giáo khó mà chọc thủng được 8 lớp chiến binh xếp theo chiều dọc. Lúc bấy giờ, hoành giữ vị trí chủ đạo.


Sang thời đại vũ khí nóng, do thuật quân sự phát triển, nội dung chiến thuật cũng thay đổi theo. Vì vậy, lúc đầu chiều ngang của đội hình buộc phải thu hẹp dần và các lớp chiến binh xếp theo chiều dọc được tăng cường nhằm hạn chế thương vong. Vào thời điểm ấy, tung giữ vị trí chính yếu. Đội hình chiến đấu của quân Tây Sơn trong cuộc chiến tranh bảo vệ Tổ quốc năm 1789, hầu hết là những khối dọc kết hợp với đội hình dãn thưa, nhưng rồi tính năng, tác dụng của súng, cối, pháo, ngày càng được nâng cao dần làm cho không gian tác chiến tiếp tục dài ra và rộng hơn. Từ đó, chiến tranh không thể giải quyết bằng một, vài mà phải bằng nhiều trận chiến đấu liên tiếp diễn ra trong mối quan hệ khăng khít với nhau. Một hình thức tác chiến mới ra đời, đó là chiến dịch. Cũng từ đó mà những đội quân đông người, có khi tới hàng triệu, được đưa vào chiến trận. Lực lượng tham chiến không chỉ là những sư đoàn, những quân đoàn mà còn là những tập đoàn quân, những phương diện quân, những dã chiến quân. Điều này làm cho tuyến chiến đấu ngày càng được phát triển theo chiều ngang. Như vậy, bên cạnh chiều dọc, chiều sâu - tức là tung, chiến địa còn có thêm chiều rộng, chiều ngang - tức là hoành.


Thế nhưng, tung hoành trong quân sự, về nội dung thực chất cũng chỉ là một biểu tượng chỉ rõ các hành động chiến đấu của người lính nói chung, diễn ra trên mặt phẳng, tức là trên hai chiều dọc - ngang của không gian trước khi không quân ra đời. Ngày, nay, hành động chiến đấu đã diễn ra trên cả chiều cao, chiều thứ ba vô cùng, vô tận của không gian. Biểu tượng trên, không còn bao quát được nữa. Mặc dù vậy, cặp từ tung hoành cho đến ngày nay vẫn còn được sử dụng với ý nghĩa là mang theo một dấu ấn lịch sử chiến đấu của loài người qua mấy ngàn năm.
Logged
ktqsvn
Thành viên
*
Bài viết: 561



« Trả lời #16 vào lúc: 03 Tháng Ba, 2022, 07:33:25 am »

VÀO SINH RA TỬ


Vào sinh ra tử, qua Từ điển tiếng Việt, do Hoàng Phê chủ biên, thì theo nghĩa đen là vào sống ra chết và theo nghĩa bóng là xông pha nơi trận mạc nguy nan, qua những hoàn cảnh hiểm nghèo, giữa cái sống và cái chết. Còn theo Từ điển Hán - Việt của hai tác giả Trung Quốc là Hầu Hàn Giang và Mạch Vĩ Lương, xuất bản ở Bắc Kinh năm 1994, thì cụm từ này được dịch từ cụm từ Hán xuất sinh nhập tử. Tiếp theo nghĩa vào sinh ra tử còn có thêm một nghĩa nữa là ra sống vào chết. Như vậy, đến đây chúng ta thấy có hai cách nói khác nhau giữa người Việt và người Hán. Một bên là vào sống ra chết và ngược lại, một bên là ra sống vào chết. Tình hình này khiến chúng ta phải suy nghĩ về cơ sở hình thành của các cụm từ đó.


Xuất sinh nhập tử là một thuật ngữ quân sự. Chúng ta giả định rằng cơ sở hình thành cụm từ này là Bát trận đồ, tức Bát môn kim toả (thế trận 8 cửa có khoá bằng vàng), một thế trận được phát triển từ Trận đồ bát quái (một kiểu bố trí lực lượng trong đội hình chiến đấu, với “tám trở ngại”, của bộ binh người Hán ở Hoa Hạ chống lại người - ngựa của dân du mục phương Bắc). Đây là một thế trận truyền thống lâu đời ở Trung Nguyên mà cho đến nay vẫn còn nhiều tranh luận trên hai điểm: một là thời điểm ra đời và hai là phương pháp công phá.


Về điểm thứ nhất, chúng ta có thể tìm hiểu qua một số tác phẩm đáng tin cậy. Chẳng hạn như sách Đại Việt sử ký toàn thư do Ngô Sĩ Liên chủ biên ở thế kỷ XV, và sách Hổ trướng khu cơ của Đào Duy Từ ở thế kỷ XVII. Cả hai cuốn đều nói rõ Hiên Viên Hoàng đế lập phép tỉnh điền để đặt binh thế nhằm đánh Xi Vưu. Điều đó có nghĩa là Trận đồ bát quái có thể ra đời khoảng hơn 2.200 năm trước công nguyên. Rồi qua các tác phẩm khác như Lục Thao của Khương Tử Nha, Binh pháp thập tam thiên của Tôn Tử, Đông Chu liệt quốc của Phùng Mộng Long, chúng ta lại biết thêm Trận đồ bát quái phát triến dần qua các thời Tam đại (Hạ-Thương-Chu), Xuân Thu, Chiến Quốc đến thời Tam Quốc (Hậu Hán) thì được bảy nhà quân sự nôi tiếng ở Long Trung, trong đó có Khổng Minh, chỉnh đốn và cải biến thành Bát trận đồ, tức Bát môn kim toả. Trong Hổ trưởng khu cơ, Đào Duy Từ nói rõ: "Bảy người hiền... là Thuỷ Kinh Tư Mã Huy, Bàng Đức Công, Gia Cát Khổng Minh, Thôi Châu Bình, Thạch Quảng Tuyền, Từ Thứ, Mạnh Công Uy". "Trận Bát môn kim toả của Nam Dương tiên sinh đời Hậu Hán là bắt chước số bát môn, bát quái mà đặt ra. Đó là phép Khổng Minh vẫn thường dùng, hình như cái khoá, phép rất khít khao, cho nên gọi là kim toả". Thế nhưng về điểm thứ hai, phương pháp công phá, cụ thể là vào, ra trận đồ thì từ xưa đến nay, tuyệt nhiên chưa thấy một cuốn sách nào trình bày được thoả đáng, có đầy đủ luận cứ. Cho nên xác định rõ là “vào sống” hay “ra sống” cũng không phải đơn giản.


Nếu để tìm ra phương pháp công phá thế trận Bát môn kim toả rõ ràng là điều khó khăn, chắc chắn rằng chúng ta không làm nổi. Nhưng để xác minh tính đúng đắn của một trong hai cụm từ trên, thì có thể căn cứ vào hai lần dàn thế trận của Khổng Minh qua tác phẩm Tam Quốc diễn nghĩa của La Quán Trung. Vì đây là tiểu thuyết lịch sử cho nên tác giả không thể không tái hiện đúng đắn những hành vi quan trọng, như nó có, về một nhân vật lịch sử đặc biệt là Khổng Minh. Hai lần dàn thế trận đó là: lần đấu trận pháp giữa Khổng Minh và tướng của Tào Ngụy là Tư Mã Ý trên một chiến địa cạnh bờ sông Vị và lần tướng của Tôn Ngô là Lục Tốn lạc vào thạch trận của Khổng Minh bày sẵn ở bến Ngư Phúc.


Như chúng ta đã biết, Bát môn kim toả có 8 cửa với những tên gọi khác nhau là Hưu (thờ ơ), Sinh (sống), Thương (cản trở), Đỗ (chặn lại), Cảnh (đề phòng), Tử (chết), Kinh (quấy phá), Khai (mở ra). Vấn đề liên quan đến hai cụm từ chỉ xoay quanh hai cửa: cửa tử và nhất là cửa sinh. Trước thế trận của Khổng Minh bày ra, có thể Tư Mã Ý quan niệm cửa sinh là cửa sống, nên ông ta hướng dẫn các bộ tướng đưa quân lính theo đó mà vào, chắc chắn là sẽ công phá được. Nào ngờ, tất cả đều bị bắt, không sót một ai. Trái lại, vì không biết, Lục Tốn theo cửa tử đi vào nên không sao thoát ra được, may mắn nhờ Hoàng Thừa Ngạn, bố vợ Khổng Minh, chỉ cho lối ra bằng con đường qua cửa sinh.


Như vậy là những viên tướng đối địch với Khổng Minh đều hoạt động qua cửa sinh của Bát môn kim toả. Một người từ cửa sinh đi ra thì sống còn những người khác từ cửa sinh đi vào thì bị bắt.

Nghĩa là chỉ có thể xuất sinh chứ không thể nhập sinh. Từ đó, suy rộng ra, chúng ta thấy rõ Trận đồ bát quái là một thế trận bí hiếm, quái dị, nếu không may sa vào đấy sẽ thất bại, sẽ chết, chỉ có thoát ra thì mới sống. Bởi thế, cụm từ xuất sinh nhập tử (tức ra sống vào chết) là đúng vì đã vận động, biến hoá theo cùng với cơ sở hình thành ra nó là trận đồ Bát môn kim toả.


Căn cứ vào ý kiến trên, có người cho rằng nên chỉnh cụm từ vào sinh ra tử thành ra sinh vào tử thì mới đúng với nguyên văn của cụm từ tiếng Hán. Về lý thuyết có thể là như thế nhưng về thực hành thì không nên vì mấy lý do:

Thứ nhất, xuất sinh nhập tử là cụm từ Hán, được hình thành trên cơ sở trận đồ Bát môn kim toả. Khi dịch sang tiếng Việt, cụm từ vào sinh ra tử đã thoát khỏi cơ sở hình thành lúc ban đầu và mang theo nghĩa mới, nghĩa khái quát, nên không nhất thiết phải trở về với nghĩa củ.


Thứ hai, thông thường, từ xưa đến nay, những từ Hán du nhập vào tiếng Việt hầu như đều mang theo một nghĩa phái sinh và có một cuộc sống độc lập. Chẳng hạn như: lịch sự trong tiếng Hán là “từng trải sự việc” nhưng trong tiếng Việt lại có nghĩa là “có cách giao thiệp, cư xử khiến người ta vui lòng”. Hay như trong tiếng Hán hương hoả là “hương và lửa”, hương để thắp, lửa để đốt đèn, “chỉ việc thờ cúng tổ tiên”. Còn khi hỏa đã dịch thành lửa trong cặp từ hương lửa của tiếng Việt thì lại có nghĩa là “tình yêu thương thắm thiết giữa vợ chồng”. Vào sinh ra tử là một trong nhừng trường hợp tương tự.


Thứ ba, ngôn ngữ là sản phẩm xã hội, nó hình thành và phát triển theo quy ước xã hội. Đối với từ, giá trị thông dụng quyết định tất cả.
Logged
ktqsvn
Thành viên
*
Bài viết: 561



« Trả lời #17 vào lúc: 03 Tháng Ba, 2022, 07:34:03 am »

MỘC VÀ KHIÊN


Mộc và khiên là những thuật ngữ quân sự gốc Hán, chỉ các kiểu lá chắn, loại phương tiện phòng hộ cá nhân của người lính, khác với vũ khí là phương tiện tiến công.

Trong quá trình phát triển các phương tiện chiến đấu nói chung, lá chắn là loại phương tiện phòng hộ đơn giản nhất, ra đời sớm nhất. Giáp trụ xuất hiện sau cùng và là loại phương tiện phòng hộ hoàn chỉnh nhất vì bao gồm cả áo che thân và mũ đội đầu. Thế nhưng tấm lá chắn cũng chỉ được sử dụng trong chiến trận dưới thời đại vũ khí lạnh. Khi vũ khí nóng, nhất là súng liên thanh, ra đời thì nó không còn tác dụng nữa. Tuy ngày nay trên đường phố ở các nước tư bản hiện đại, người ta vẫn còn thấy những tên cảnh sát vũ trang lăm lăm trong tay những chiếc dùi cui cùng với những tấm lá chắn trong suốt bằng chất liệu compôdit, đứng trước những đoàn người biểu tình. Thật ra, đó chỉ là hành động nhằm ngăn chặn sự phẫn nộ quá khích của quần chúng, chứ không phải là công việc chuẩn bị tham gia chiến trận theo đúng nghĩa của nó.


Trong tiếng Hán, tấm lá chắn có tên là thuẫn, là can. Theo sách cổ thì can cũng đồng nghĩa tuyệt đối với thuẫn. Ngày nay, những tên gọi đó đã không còn nguyên nghĩa như xưa nữa, có thể vì thời đại vũ khí lạnh đã lùi quá sâu vào dĩ vãng. Chúng đã mang theo những nghĩa phái sinh khác như thuẫn trong mâu thuẫn để chỉ một phạm trù triết học hay như can trong can qua để chỉ chung về chiến tranh. Không những thế, nghĩa của từ can còn đi xa hơn nữa khi dạng tự của nó chỉ từ càn trong càn khôn và từ cán trong cán bộ khi sử dụng loại chữ giản thể.


Mộc là tên gọi tấm lá chắn trong tiếng Việt với chất liệu tạo thành bằng gỗ. Nói một cách khác, dưới thời đại vũ khí lạnh, để chống lại gươm giáo, cung tên với sức công phá chưa cao như súng đạn sau này nên người ta dùng gỗ cứng để làm tấm lá chắn trong giao tranh. Cũng có khi lá chắn gỗ còn được bọc thêm một lớp da thuộc. Vì vậy đã sinh ra từ binh cách. Binh là vũ khí. Cách là da thuộc, chất liệu làm phương tiện phòng hộ như bọc lá chắn, may áo giáp. Ở Việt Nam, mộc thường làm bằng gỗ sung. Khi khô, loại gỗ này trở nên xốp và nhẹ, có thể nổi trên mặt nước. Như vậy đã rõ, mộc là loại lá chắn bằng gỗ. Từ đó, mộc biến thành tên gọi vì trong tiếng Hán, gỗ có nghĩa đen là mộc.


Khiên cũng là tên gọi tấm lá chắn trong tiếng Việt nhưng lại không làm bằng gỗ mà "đan bằng mây" như "Từ điển tiếng Việt" của Hoàng Phê, "Từ điển tiếng Việt" của Văn Tân, "Đại từ điển tiếng Việt" của Nguyễn Như Ý và "Từ điển từ và ngữ Việt Nam" của Nguyễn Lân đã định nghĩa. Có thể là do thiếu gỗ cứng, phải dùng mây hoặc là vì một lý do nào đấy, chưa ai phát hiện ra. Trong tiếng Hán, mây được gọi là đằng, như đằng tiên (roi mây), đằng kỷ (ghế mây).


Ngay từ khi các quân đội đầu tiên trên thế giới ra đời, tấm lắ chắn đã có mặt trong thành phần trang bị của người lính. Dưới thời Xuân Thu - Chiến Quốc ở Trung Quốc cũng đã xuất hiện tấm lá chắn của các chiến binh trên xe chiến để bảo vệ những người chỉ huy quân sự mặc dù phía trước xe đã có những tấm lá chắn lớn, ghép bằng gỗ dày và cứng.


Nếu như ở Đông Á, tấm lá chắn chỉ là một chiến cụ sơ sài, đơn giản thì trái lại ở Trung Cận Đông và Bắc Địa Trung Hải, nó lại được thiết kế kỹ càng và được sử dụng “bài bản” hơn. Trước hết là về hình dáng và chất liệu. Nếu trong quân đội Ai Cập cổ đại, tấm lá chắn chỉ làm bằng gỗ thì trong quân đội Át-xi-ri, tấm lá chắn có hình dáng gọn ghẽ hơn và được chế tạo tốt hơn. Không những làm bằng gỗ mà bên ngoài tấm lá chắn còn được bọc da thuộc hoặc dạ thô. Trong quân đội Ba Tư, tấm lá chắn không còn là chất liệu gỗ nữa mà phần lớn được đan kết bằng những vòng sắt nhỏ. Trong quân đội Hy Lạp - một quân đội dựa trên cơ sở chế độ chiếm hữu nô lệ - tất cả những người đàn ông tự do, làm nghĩa vụ quân sự, được tổ chức thành bộ binh nặng và giữ vai trò quyết định trong chiến trận khi bộ binh được bổ sung thêm kỵ binh và bộ binh nhẹ. Ngoài hộ tâm phiến che kín ngực, bộ binh nặng còn được trang bị một tấm lá chắn lớn, bằng gỗ bọc da, đủ che kín cả người, làm phương tiện phòng hộ. Riêng trong quân đội Xpáctơ, tấm lá chắn của người lính lại có dây quàng vào cô hoặc buộc chặt vào cánh tay trái để hai bàn tay có thể sử dụng vũ khí được dễ dàng. Ở đây, người dân rất xem trọng tấm lá chắn trong chiến đấu. Họ coi người lính thất trận mà đánh mất tấm lá chắn là điều hết sức nhục nhã. Vì thế, bằng mọi giá, người lính phải giữ cho được thứ phương tiện phòng hộ này. Trong quân đội La Mã, tấm lá chắn bằng gỗ lại được tạo dáng hình mu rùa, dài khoảng 1,20m, rộng 0,75m, bọc da, có đóng đinh sắt. Ở chính giữa mặt tấm lá chắn có gò nổi lên để gạt những mũi nhọn của vũ khí lạnh từ phía trước đâm tới.


Dưới thời Hùng Vương, người Việt Nam cũng đã biết sử dụng tấm lá chắn trong giao tranh. Ngày nay, chúng ta biết đến loại phương tiện phòng hộ này chủ yếu là nhờ những hình khắc trên trống, trên thạp đồng Đông Sơn. Trên trống đồng Hoàng Hạ, trên trống đồng Bản Thôm và trên thạp đồng Đào Thịnh đều có hình vẽ những chiến binh cầm lá chắn cùng với cây giáo hoặc rìu chiến. Điều dễ nhận thấy là tính ổn định và nhất quán trong cách sử dụng phương tiện phòng hộ này, nghía là tấm lá chắn luôn luôn được cầm ở cánh tay trái và giơ ra phía trước mặt. Đó cũng là cách sử dụng thống nhất chung một kiểu cách của mọi chiến binh trong giao tranh ở thời điểm ấy.


Qua tìm hiểu về tấm lá chắn của các chiến binh dưới thời đại vũ khí lạnh, từ phương Đông đến phương Tây, chúng ta thấy rõ vào lúc bấy giờ, phương tiện chiến đấu cơ bản của người lính là cây giáo và tấm lá chắn. Tấm lá chắn thường có chiều dài che kín cả chiều cao của thân người và phải làm bằng chất liệu rắn chắc, nặng trĩu mới đủ khả năng chống đỡ được những cú đòn mạnh mẽ của địch thủ. Vì vậy, dù sức vóc cao lớn như những người lính Hy Lạp, La Mã, Ba Tư... họ vẫn phải dùng dây nối liền tấm lá chắn quàng lên cổ hoặc buộc chặt vào cánh tay trái. Còn sức vóc nhỏ bé như người lính Việt Nam thì tấm lá chắn phải khoác lên vai khi cơ động là việc cần thiết. Đó là chưa nói đến quá trình giao tranh. Để tiến công, người lính phải dồn hết sức mạnh của toàn thân vào ngọn giáo và để chống đỡ khi bị tiến công, người lính cũng phải dồn hết sức mạnh của toàn thân vào tấm lá chắn. Cụ thể là người lính phải dồn sức mạnh của cả cánh tay trái kết hợp với đầu vai trái - vì cánh tay phải bận cầm cây giáo làm điểm tựa cho tấm khiên - đồng thời phải nghiêng người, thu hẹp mục tiêu nhằm chống đỡ khi mũi giáo của đối phương lao tới. Để giữ chắc, mặt sau tấm khiên có quai cho cánh tay trái luồn vào và để bảo hiểm, tấm khiên còn có sợi dây quàng qua vai trái như chiến binh Xpáctơ đã từng làm. Như vậy, nhiệm vụ cánh tay trái là giữ tấm khiên - chứ không phải chỉ riêng bàn tay trái - còn nhiệm vụ đầu vai trái là tạo điểm tựa, làm trụ vững cho tấm khiên chống đỡ mỗi khi bị tiến công. Cánh tay trái tuy thường xuyên ở bên cạnh tấm khiên nhưng những giây phút hiểm nguy của giao tranh nếu không có sức lực hiệp đồng của đầu vai trái, chắc chắn là việc chống đỡ không đạt kết quả. Rõ ràng, tấm khiên chỉ là sự hiện hữu ở phía trước còn điều khiển, tạo nên sức mạnh cho nó, nhất thiết phải là cánh tay và đầu vai trái ở phía sau. Trong đó, đầu vai giữ nhiệm vụ chủ chốt. Ngoài đời sống xã hội, vai của con người vẫn được xem là biểu tượng của sức lực. Vì thế mà đã hình thành những câu thành ngữ: chung vai gánh vác, kề vai sát cánh, sức dài vai rộng, bằng vai phải lứa... Đấy còn chưa kể những nghĩa phái sinh của vai như vai trò, chỉ tác dụng, chức năng trong sự hoạt động, sự phát triển của cái gì đó...; vai vế, chỉ thứ bậc trên dưới trong phạm vi gia đình hoặc vị trí cao sang, quan trọng trong xã hội. Trong chữ Nôm còn có một từ, vừa liên quan đến từ vai của tiếng Việt lại vừa liên quan đến từ khiên của tiếng Hán. Đó là từ khiêng, nghĩa là “nâng và chuyển vật nặng hoặc cồng kềnh bằng sức của hai hay nhiều người hợp lại” - được hình thành theo phép hội ý, gồm hai từ Hán: tài là “làm việc giỏi” và khiên là "vai". Cho nên, với những nội dung đã trình bày, khiên - nghĩa đen là vai - đã được biểu tượng hoá thành tên gọi của tấm lá chắn.
Logged
ktqsvn
Thành viên
*
Bài viết: 561



« Trả lời #18 vào lúc: 03 Tháng Ba, 2022, 07:34:58 am »

NHÂN HÒA LÀ QUAN TRỌNG HƠN HẾT


Vào thời kỳ đầu của ba mươi năm chiến tranh giải phóng vừa qua, Chủ tịch Hồ Chí Minh thường dạy quân đội ta: "Muốn thành công, phải có ba điều kiện là thiên thời, địa lợi và nhân hòa. Ba điều kiện ấy đều quan trọng cả, nhưng... nhân hòa là quan trọng hơn hết".


Trong triết lý của người phương Đông, thiên thời, địa lợi, nhân hòa là một khái niệm bộ ba hoàn chỉnh. Đây cũng là sự nhận thức từ cổ xưa đến ngày nay của văn hoá Việt Nam nói chung và văn hoá quân sự Việt Nam nói riêng về cấu trúc không gian vũ trụ dưới dạng mô hình ba yếu tố.


Theo đó, thiên thời là sự nhận thức được quy luật phát triển xã hội, đặc điểm biến đổi của thời đại và nhất là giành được thời cơ trong hành động. Địa lợi là sự nhận thức rõ và lợi dụng được hoàn cảnh xã hội, hoàn cảnh tự nhiên. Còn nhân hòa là sự nhận thức được con người và có phương pháp thích hợp, hiệu quả trong việc dùng người.


Trên cơ sở của lĩnh vực văn hoá nhận thức - mà những điều hiểu biết đầu tiên của con người là về vũ trụ và chính bản thân con người, một lĩnh vực giữ vai trò chủ đạo so với lĩnh vực văn hoá ứng xử và văn hoá tổ chức cộng đồng trong một nền văn hoá - Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khái quát rằng: nhân hoà giữ vị trí hàng đầu trước thiên nhiên, bởi lẽ đối với bất cứ một nền văn hóa nào, con người vẫn là chủ thể. Đã thế, trong quá trình đấu tranh cho sự nghiệp giải phóng dân tộc, một sự nghiệp mang tính nhân văn cao cả vì nó mang lại quyền độc lập, tự do cho mọi người dân và cũng chính là góp phần không nhỏ vào việc dựng xây một nền văn hoá thì đề cao vai trò con người, xem con người - một động lực chủ yếu là điều vô cùng chính xác.


Xét về nội dung thực chất, nhân hoà là sự thu phục lòng người trên cơ sở của tình yêu thương, của sự đồng cảm. Còn xét về mục đích, nhân hoà là nhằm hướng quần chúng vào một sự nghiệp lớn như tiến hành một cuộc cách mạng, tham gia một cuộc chiến tranh. Cơ sở xã hội của nhân hoà là làm thoả mãn nhu cầu của con người. Hai cái đó có quan hệ hữu cơ với nhau, tức là mức độ tăng, giảm của nhân hoà hoàn toàn phụ thuộc vào mức độ làm thoả mãn nhu cầu của con người. Vì vậy, muốn đạt tới nhân hòa, trước hết hãy tìm hiểu kỹ về nội dung của việc làm thoả mãn nhu cầu, cụ thể là xem quần chúng đang cần gì? Điều đáng lưu ý nhất để tạo nên nhân hoà chính là đem đến kịp thời, đúng lúc nhất cái mà quần chúng đang khao khát để sau khi được thoả mãn, họ sẽ sẵn sàng đền đáp, báo trả. Nói một cách khác, phương pháp đạt tới nhân hoà nên hiểu là sự điều tiết một cách hoà bình, êm thấm về nhu cầu giữa các tầng lớp nhân dân, khắc phục những nhân tố không có lợi, giảm bớt những trở ngại không cần thiết để tranh thủ được nhiều hơn sự đồng tình của mọi người. Không những thế, trong phương pháp đạt tới nhân hoà lại còn phải xem xét đầy đủ các nhân tố cần sử dụng để có biện pháp cụ thể. Điều đó có nghĩa là phải tuỳ theo thời gian, theo không gian và tuỳ theo con người mà định ra đối sách. Ngày nay, ai cũng biết rõ, nhân dân đồng nghĩa với vô cùng, có sức mạnh vô địch. Chống lại nhân dân là tự tìm lấy cái rủi ro, cái thất bại. Cho nên, muốn giành được sự nghiệp lớn, nhất thiết phải tìm tới nhân dân, tới nhân hoà.


Căn cứ vào thư tịch, vào tư liệu lịch sử, các nhà khoa học đoán định rằng, có thể từ thời Tây Chu (khoảng thế kỷ XI - 771 trước công nguyên), khái niệm “nhân hoà” đã được hình thành. Vào thời điểm ấy, các bậc thủ lĩnh, các nhà chỉ huy quân sự khi tiến hành chiến tranh thôn tính, chiến tranh thảo phạt đã biết hình thành hai con đương, một là "bá đạo" và hai là "vương đạo". "Bá đạo" là dùng bạo lực để đàn áp còn "vương đạo" là dùng nhân nghĩa để thu phục lòng người. Về thực chất, “vương đạo” là sự nhân hoà. Trong tiếng Hán từ Vương () bao gồm ba vạch ngang () thể hiện ba yếu tố thiên, địa, nhân và một vạch đứng (|) thể hiện sự thông suốt cả ba yếu tố đó của người cầm đầu. Chính vì vậy, "vương nghiệp" thống nhất lâu dài được cả thiên hạ còn "bá nghiệp" chỉ dừng lại ở vị trí lãnh tụ ngắn ngủi của các chư hầu. Thí dụ như Thiên tử nhà Chu so với Tề Hoàn Công, Tần Mục Công, sở Trang Công... Vào thời Chiến Quốc, trong cuốn Ngô Khởi binh pháp, tác giả cũng đã viết: "Ngày xưa, các bậc vua chúa mưu đồ việc nước, trước hết là lo dạy dỗ trăm họ và yêu thương muôn dân. Không nên hành động trong bốn tình huống có điều bất hoà: trong nước không thống nhất ý chí, không thể xuất quân; nội bộ quân đội không đoàn kết, không thể ra trận; khi lâm chiến, trận thế không chỉnh tề, không thế tiến đánh; hành động chiến đấu không phối hợp, không thể giành thắng lợi. Do đó, bậc vua anh minh, khi chuẩn bị đưa dân chúng vào chiến tranh, trước hết phải đoàn kết họ lại. Tuy vậy, (các vị đó) vẫn chưa dám tin vào mưu lược của mình mà còn cần phải tế cáo tổ miếu, bói xem lành dữ, xem xét thiên thời, thấy có điềm tốt mới hành động. Dân chúng khi biết rõ rằng nhà vua yêu quý tính mạng, thương xót cái chết của mình, đã chuân bị chu đáo như thế thì khi dẫn họ đi chiến đấu, họ sẽ hành động hết sức mình, lấy cái chết làm vinh hạnh, coi việc hèn nhát, lùi bước là điều sỉ nhục". Ngay từ ba thập kỷ cuối cùng của thế kỷ XIX trở đi, giới cầm quyển của các nhà nước đế quốc ở phương Tây cũng đã biết dùng mọi thủ đoạn xảo quyệt để ép buộc nhân dân tham gia vào những cuộc chiến tranh xâm lược của họ. Điều đó khiến V. I. Lênin, trong tác phẩm Cảng Lữ Thuận thất thủ, đã viết rằng: "Chiến tranh ngày nay do nhân dân tiến hành". Đó là một sự thật nhưng đầy man trá, phũ phàng và thiếu sự tự nguyện của quần chúng. Giới cầm quyền phản động có thể xô đẩy được những con người vào chiến tranh nhưng không tìm thấy ở đấy những tấm lòng. Tại những nơi xảy ra sự tàn sát đẫm máu, phi chính nghĩa này chỉ có riêng chữ “nhân” là người nhưng là những người dửng dưng, vô cảm và không hề có chữ “hoà” là đồng tình, nhất trí. Đấy chính là cơ sở, là mầm mống cho những phong trào chống bắt lính, những phong trào phản đối chiến tranh.


Ở Việt Nam, giữa những năm 40 của thế kỷ trước, sau khi chính quyền nhân dân mới thành lập, dân tộc ta buộc phải cầm vũ khí tiến hành một cuộc chiến tranh mà ngay từ đầu, chính nghĩa đã là một thuộc tính thì hướng nhân dân đi theo nó, nghĩa là tạo nên sự nhân hoà là điều hết sức hợp đạo lý, nhất là khi tương quan lực lượng địch - ta đang là phải “lấy ít địch nhiều, lấy yếu chống mạnh”.


Nói như thế, không có nghĩa là xem nhẹ hai yếu tố thiên thời và địa lợi. Thắng lợi của Cách mạng tháng Tám và chiến thắng mùa Xuân 1975, đưa tới việc thống nhất đất nước, không thể không nhắc tới nhân tố thời cơ. Hoặc như không biết lấy Hà Nội làm vị trí trung tâm cho cuộc Tổng khởi nghĩa vào ngày 19 tháng 8 năm 1945, sự thành công của Cách mạng tháng Tám sẽ có những diễn biến, những sắc thái theo một chiều hướng khác. Cũng như thế, trong cuộc kháng chiến chống Pháp, nếu như không biết lựa chọn vùng biên giới Việt - Trung và vùng Điện Biên Phủ để mở các chiến dịch tiến công thì dân tộc ta đã không thu được những thắng lợi đột biến, quyết định.


Nhưng như trên đã nói, trong ba yếu tố thiên, địa, nhân thì nhân hoà vẫn giữ vị trí chủ đạo. Những sự việc diễn ra trong ba mươi năm chiến tranh giải phóng vừa qua là một minh chứng sinh động.

Thứ nhất, về chính trị, là trên cơ sở chủ nghĩa yêu nước của một dân tộc luôn khát vọng tới độc lập tự do và trước một tình hình là chính quyền mà Cách mạng tháng Tám đem lại - một nhu cầu được thoả mãn cho nhân dân trong một thời gian quá ngắn ngủi - nhưng đứng trước mối đe doạ của một cuộc chiến tranh xâm lược, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã thực hiện chính sách đại đoàn kết làm cho mọi tầng lớp hoà quyện với nhau thành một khối thống nhất.


Thứ hai, về chiến tranh, là từ khối đoàn kết đó, mọi người Việt Nam đều đã nhất trí, đồng lòng tham gia vào cuộc chiến tranh giải phóng dân tộc.

Từ “toàn dân kháng chiến” dẫn đến “toàn diện kháng chiến” như lời dạy của Chủ tịch Hồ Chí Minh: “Chiến tranh ngày nay phức tạp và hết sức khó khăn. Không dùng toàn lực của nhân dân về đủ mọi mặt để ứng phó thì không thể thắng lợi được".


Thứ ba, về nghệ thuật quân sự, là từ toàn dân tham gia chiến tranh với 80 đến 90% cư dân là nông dân xóm làng thì những lực lượng nửa vũ trang đó đã tạo thành một cuộc “chiến tranh bề mặt”, “chiến tranh tại chỗ”, góp phần đánh tiêu hao, tiêu diệt nhỏ cùng quân chủ lực tiêu diệt lớn trên các chiến trường chính. Đó là một hình thức làm chuyển hoá tương quan lực lượng địch - ta để đưa đất nước đi tới đích cuối cùng của cuộc chiến tranh yêu nước.
Logged
ktqsvn
Thành viên
*
Bài viết: 561



« Trả lời #19 vào lúc: 10 Tháng Ba, 2022, 07:51:38 am »

ĐÁNH VÀ ĐÀM, NGUYÊN LÝ VỀ KẾT THÚC
CHIẾN TRANH GIỮ NƯỚC CỦA DÂN TỘC TA


Đã có một số người cho rằng trong chiến tranh, hai bên tham chiến thường “gặp nhau” bằng vũ khí mà không bao giờ “gặp nhau” bằng lời nói (nghĩa là chỉ có đánh mà không có đàm) bởi lẽ, đặc thù của chiến tranh là đấu tranh vũ trang.


Trên thực tế, sự việc diễn ra không hoàn toàn như thế. Trong chiến tranh, bên cạnh hành động vũ trang, là chủ yếu, vẫn có xen kẽ các hành động phi vũ trang. Vì vậy, vào cuối thời Xuân Thu (771 - 476 trước công nguyên) trong Binh pháp thập tam thiên Tôn Tử đã viết: "Cho nên trong việc dùng binh, để giành thắng lợi, biện pháp tốt nhất là dùng mưu lược, sau mới dùng đến ngoại giao, sau nữa mới dùng đến vũ trang, biện pháp cuối cùng mới đánh thành. Đánh thành là biện pháp phải làm trong cái thế không thể đừng được...". (Cố thượng binh phạt mưu, kỳ thứ phạt giao, kỳ thứ phạt binh, kỳ hạ công thành, công thành chi pháp, vi bất đắc dĩ...). Ở chỗ khác, Tôn Tử lại viết: “Vì vậy, người đánh trăm trận trăm thắng, chưa phải là người giỏi nhất, không đánh mà buộc địch phải đầu hàng mới là người giỏi nhất” (Thị cố bách chiến bách thắng, phi thiện chi thiện dã; bất chiến nhi khuất nhân chi binh, thiện chi thiên giả dã).


Với tinh thần đó, vào thế kỷ III trước công nguyên, các nhà ngoại giao thời Chiến Quốc (475 -221 trước công nguyên) như Tô Tần, chủ trương hợp sức các nước Tề, Sở, Yên, Hàn, Triệu, Ngụy theo chiều dọc (hợp tung) để phá cuộc chiến tranh thôn tính của Tần Thuỷ Hoàng. Trái lại, Trương Nghi chủ trương liên kết các nước theo chiều ngang (liên hoành) nhằm chống trả. nghĩa là để hàng phục Tần. Cuối cùng “liên hoành” đã thắng. Tần Thuỷ Hoàng diệt được sáu nước và thống nhất Trung Quốc.


Qua những phần vừa trình bày, từ lý luận của Tôn Tử đến các hành động ngoại giao của Tô Tần, Trương Nghi, trong việc tiến hành chiến tranh, chúng ta thấy nổi lên hai điều. Thứ nhất là người ta tìm cách hạn chế xương máu, tránh đụng độ, mà thiên về hành động phi vũ trang như biện pháp mưu lược, biện pháp ngoại giao. Thứ hai là để các hành động phi vũ trang có hiệu quả, nhất thiết phải có một tiềm lực quân sự đủ mạnh làm hậu thuẫn. Thật vậy, Tôn Tử không phủ nhận đòn bạo lực nhưng ông cho rằng trước đó, tốt nhất vẫn là dùng đòn mưu lược rồi đến đòn ngoại giao, cực chẳng đã mới dùng đến vũ khí. Như thế là đằng sau các đòn phi vũ trang vẫn phải tính đến đòn quyết định là vũ trang. Còn sở dĩ chính sách “hợp tung” sáu nước để chống lại một nước của Tô Tần mà vẫn thất bại trước chính sách "liên hoành" vì đằng sau lời đe dọa của Trương Nghi là cả một sức mạnh vũ trang hùng hậu của nước Tần. Rõ ràng là trong chiến tranh, hành động vũ trang và hành động phi vũ trang (cụ thể ở đây là đánh và đàm) có mối quan hệ biện chứng với nhau. Nói một cách khác, trong chiến tranh, đàm chỉ có hiệu lực, chỉ “có gang, có thép” trên cơ sở kết quả của đánh, của thực lực về sức mạnh, nếu không chỉ là lời nói suông, vô nghĩa.


Là một hiện tượng văn hóa quân sự, đánh và đàm ở Việt Nam ra đời từ cuối thế kỷ XI, trong cuộc chiến tranh chống quân xâm lược Tống lần thứ hai (1075 - 1077). Và từ thời điểm đó trở đi, trong sự nghiệp đấu tranh vũ trang chống ngoại xâm, hầu như nó đã trỏ thành môt nguyên lý, một luận điểm cơ bản của Học thuyết quân sự Việt Nam về việc kết thúc chiến tranh. Hiện tượng này hình thành trên cơ sở của hai yếu tố. Một là trong hoàn cảnh luôn luôn phải lấy ít địch nhiều, lấy yếu chống mạnh và hai là đức tính trọng nhân nghĩa của người Việt Nam.


Yếu tố thứ nhất chỉ rõ trong tương quan lực lượng của mọi cuộc chiến tranh giữ nước, dân tộc ta không bao giờ đủ khả năng tiêu diệt đến tên xâm lược cuối cùng. Khả năng đó chỉ có thể cho phép quân dân ta tiêu diệt được một bộ phận sinh lực quan trọng nào đấy của quân thù, đẩy chúng vào thế bị động để thấy rằng không thể tiến hành chiến tranh được nữa, cần phải dùng biện pháp thương lượng cho việc an toàn rút quân. Đó chính là tình trạng quân xâm lược Tống trong cuộc chiến tranh giữ nước năm 1075 - 1077. Sau khi bị tiêu diệt một số lớn sinh lực, chủ tướng Quách Quỳ rất lúng túng, tiến đánh nữa thì không đủ sức còn quay về lại sợ bị truy đuổi. Thấy thế, nhằm làm giảm xương máu cho quân sĩ lại bớt được nhọc nhằn cho trăm họ mà vẫn bảo toàn được lãnh thổ. Lý Thường Kiệt cử người sang cầu hoà: "Xin hạ chiếu rút đại quân về thì sẽ lập tức sai sứ sang tạ tội và tu cống". Như “chết đuối vớ được cọc", Quách Quỳ buộc phải chấp nhận việc thương lượng theo điều kiện của đối phương tuy còn huênh hoang tuyên bố để vớt vát sĩ diện: "Ta không đạp đổ được sào huyệt giặc, bắt được Càn Đức (vua Lý Nhân Tông), để báo mệnh triều đình. Đó là bởi trời! Thôi ta đành liều một thân ta, chịu tội với triều đình, để mong cứu 10 vạn nhân mạng (số quân xâm lược)". Nhưng sự kiện đó, về sau trong triều đình nhà Tống vẫn có người nhận thức ra: "May có lời giặc (phía Đại Việt) xin quy thuận, không thì làm thế nào?”.


Như đã biết, trong các cuộc chiến tranh chống ngoại xâm, từ tương quan lực lượng không cân sức, dân tộc ta đã cực kỳ khó khăn trong quá trình tiến hành đấu tranh vũ trang nhưng bù lại đã có sức mạnh của chính nghĩa và lòng nhân từ. Đó là con đường dẫn tới những đòn “mưu phạt tâm công”, góp phần không nhỏ làm nhụt ý chí chiến đấu của kẻ thù, và đó cũng chính là yếu tố thứ hai, yếu tố nhân nghĩa, làm cơ sở cho những cuộc thương thuyết khi mà nhân dân ta đã thu được những chiến thắng lớn về quân sự. Điều này đã thể hiện rõ trong cuộc chiến tranh giải phóng ở thế kỷ XV, đặc biệt là sau những đòn sấm sét ở Chi Lăng - Xương Giang và ở Lãnh Câu - Đan Xá. Những chiến công rực rỡ này cộng với chính sách nhân đạo của nhân dân ta đã buộc 10 vạn quân Minh cùng chủ tướng Vương Thông đang bị vây hãm trong thành Đông Quan phải chấp nhận những điều kiện của nghĩa quân Lam Sơn và tuyên bố hưu chiến bằng lời thề rất độc địa, xem như ngôn ngữ của một kẻ đầu hàng: "... Nếu không có lòng thực, lại tự trái lời thề... thì trời, đất cùng là danh sơn, đại xuyên và thần kỳ các xứ tất đem bọn Tổng binh quan Thành sơn hầu Vương Thông, tự bản thân cho đến cả nhà, thân thích, làm cho chết hết, và cả đến quan quân củng không người nào về được đến nhà...".
Logged
Trang: « 1 2 3 4 »   Lên
  In  
 
Chuyển tới:  

Powered by MySQL Powered by PHP Powered by SMF 1.1.21 | SMF © 2006-2008, Simple Machines

Valid XHTML 1.0! Valid CSS! Dilber MC Theme by HarzeM