Lịch sử Quân sự Việt Nam
Tin tức: Lịch sử quân sự Việt Nam
 
*
Chào Khách. Bạn có thể đăng nhập hoặc đăng ký. 18 Tháng Tư, 2024, 10:20:27 am


Đăng nhập với Tên truy nhập, Mật khẩu và thời gian tự động thoát


Trang: « 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 16 17 18 19 20 21 22 »   Xuống
  In  
Tác giả Chủ đề: Tính trước nguy cơ - Suy ngẫm sau 20 năm Đảng Cộng sản Liên Xô mất Đảng  (Đọc 7136 lần)
0 Thành viên và 1 Khách đang xem chủ đề.
nhinrathegioi
Thành viên
*
Bài viết: 1023



« Trả lời #70 vào lúc: 26 Tháng Hai, 2022, 07:44:08 am »

4. "Tư duy mới" trong quan hệ đối ngoại và Liên Xô "Tây hóa cả gói"

Do trong thời gian dài Liên Xô thực thi chiến lược đối ngoại tranh giành bá quyền với Mỹ, dưới ngọn cờ "xuất khẩu cách mạng" và "đánh trận quyết chiến với chủ nghĩa tư bản", tiến hành khuếch trương điên cuống ở khắp mọi nơi trên thế giới trong khi thực lực của nước mình lại không thế xoay xở trong thời gian dài/ tranh giành phạm vi thế lực, can thiệp vào nội chính nước khác, chạy đua vũ trang với Mỹ, đối lập đối kháng, gia tăng cục diện căng thẳng ở các nơi trên thế giới, dẫn đến sự bất mãn của đông đảo các nước thuộc thế giới thứ ba, làm cho Liên Xô ngày càng bị cô lập trên vũ đài quốc tế. Đồng thời, đối kháng và tranh bá trong một thời gian dài làm cho kinh tế Liên Xô rơi vào tình trạng chuẩn bị chiến tranh bán quân sự hóa, cơ cấu kinh tế biến dạng nghiêm trọng, công nghiệp nặng và công nghiệp nhẹ mất cân đối, nông nghiệp đình trệ nghiêm trọng, sản xuất cung ứng hàng tiêu dùng không đủ, hạn chế việc nâng cao mức sống của người dân, kích thích sự bất mãn của đông đảo quần chúng. Trong tình thế trong ngoài chồng chất khó khăn, sau khi lên cầm quyền năm 1985, để thoát khỏi hoàn cảnh khó khăn, Gorbachev đề ra phải "thực hiện tư duy chính trị mới". Tháng 11 năm 1987, Gorbachev cho ra đời cuốn sách Cải tổ và tư duy mới đối với nước ta và thế giới, tập đầu cuốn sách chuyên nói về cải tổ trong nước, tập sau chuyên nói về tình hình quốc tế và tư duy mới trong quan hệ đối ngoại của Liên Xô. Sau này, trong rất nhiều bài viết của Gorbachev, trong các nghị quyết và các văn kiện được Đảng Cộng sản Liên Xô và chính quyền Liên Xô thông qua, "tư duy mới" được miêu tả và phát huy thêm một bước, làm cho "tư duy mới" trở thành một lý luận có nội dung rộng rãi và hệ thống, cùng với lý luận "chủ nghĩa xã hội dân chủ nhân đạo" dung hòa làm một.


Sau khi Gorbachev lên cầm quyền, đề ra phải nhận thức lại từ đầu thời đại mà Liên Xô đang sống. Ngày 2 tháng 11 năm 1987, trong báo cáo tại Lễ kỷ niệm 70 năm Cách mạng Tháng Mười Nga, Gorbachev nói: "Trái ngược với dự đoán ban đầu, đập tan 'mắt xích yếu nhất' của chế độ tư bản chủ nghĩa không phải là 'cuộc chiến mang tính quyết định cuối cùng', mà là sự mở đầu của một quá trình lâu dài và phức tạp". Trước kia, nhận thức về tính chất thối nát, giãy chết của chủ nghĩa tư bản và chủ nghĩa xã hội chiến thắng chủ nghĩa tư bản quá đơn giản, phải nhận ra rằng chủ nghĩa tư bản không "đình trệ tuyệt đối", "cuộc sống đã uốn nắn nhận thức của chúng ta về quy luật và tốc độ của quá độ lên chủ nghĩa xã hội, thay đổi hiểu biết về vai trò của chủ nghĩa xã hội trên phạm vi thế giới"1 (Tham khảo Gorbachev: "Cách mạng Tháng Mười Nga và cải cách: cách mạng đang tiếp tục", báo Sự thật, ngày 3-11-1987). Ông còn cho rằng, cách nói tổng khủng hoảng tư bản chủ nghĩa không ngừng sâu sắc trước đây là không thỏa đáng, bởi vì "trong mỗi vòng xoáy lịch sử, thế lực của thế giới cũ đều có khả năng xóa bỏ mâu thuẫn nguy hiểm nhất lúc đó, kéo dài sự thống trị của mình"2 (Phát biểu của Gorbachev tại cuộc gặp gỡ các đại biểu của các Đảng và phong trào đến dự Lễ kỷ niệm Cách mạng Tháng Mười Nga, báo Sự thật, ngày 5-11-1987). Những quan điểm này có ý nghĩa tích cực nhất định đối với việc khắc phục tính phiến diện, tính hạn chế trong phương châm đối ngoại của Liên Xô và thay đổi chính sách mở rộng tranh bá. Nhưng lý luận "tư duy mới" trong quan hệ đối ngoại của Gorbachev lại tổn tại nhiều sai lầm chết người.


Một là, Cổ xúy "thế giới đã bắt đầu bước vào đại hợp tác"1 (Gorbachev: "Thế giới tương lai và chủ nghĩa xã hội", [Liên Xô] Giai cấp công nhân và thế giới đương đại, kỳ 2 năm 1990), "nhân loại đã bước vào giai đoạn mọi người cùng dựa vào nhau"2 (Gorbachev: cải tổ và tư duy mới đối với nước ta và thế giới, Sđd, tr.243, 177, 288). Trong mắt Gorbachev, đấu tranh giai cấp trong phạm vi quốc tế không còn nữa, mâu thuẫn giữa giành hòa bình và chủ nghĩa bá quyền không còn nữa, mâu thuẫn giữa chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa tư bản không còn nữa, mâu thuẫn do các nước tư bản chủ nghĩa phát triển cướp đoạt và áp bức thế giới thứ ba không còn nữa. Tóm lại, thái bình trong cộng đồng quốc tế, mọi mâu thuẫn và đấu tranh đều không còn nữa. Điều này hiển nhiên tự đưa mình vào sợi dây thòng lọng tự lừa gạt, hủy diệt mình.


Hai là, đề xướng "nhân đạo hóa" trong quan hệ quốc tế. Gorbachev nói: "Phải coi tiêu chuẩn luân lý đạo đức xã hội là nền tảng chính trị quốc tế làm cho quan hệ quốc tế nhân tính hóa, nhân đạo hóa". Ông lại nói: "Nguy cơ chiến tranh ngày càng nghiêm trọng. Lối thoát là ở chỗ nhân đạo hóa quan hệ quốc tế"3 (Gorbachev: cải tổ và tư duy mới đối với nước ta và thế giới, Sđd, tr.243, 177, 288). Ông còn nói căn cứ của chính sách ngoại giao của Liên Xô là "phi ý thức hệ trong quan hệ giữa các quốc gia"4 (Gorbachev: Phát biểu ở Kiev, ngày 23 tháng 2 năm 1989; tham khảo Hoàng Hùng, Kỷ Ngọc Tường: Phóng sự 7 năm "cải tổ" của Liên Xô cũ, Sđd, tr.131). Thế nhưng, trong bối cảnh vũ đài quốc tế đầy ắp những mâu thuẫn, đấu tranh và xung đột thì quan hệ quốc tế có thể thực hiện "nhân đạo hóa" được sao? Trong bối cảnh các nước phương Tây ra sức thi hành chiến lược "diễn biến hòa bình" đẩy nhanh thẩm thấu ý thức hệ, quan hệ quốc tế còn có thể "phi ý thức hệ" được sao? Các nước xã hội chủ nghĩa làm như vậy, thì chỉ có thể lơ là cảnh giác, vứt bỏ vũ trang tư tưởng, vứt bỏ ý thức hệ xã hội chủ nghĩa, công nhận ý thức hệ của giai cấp tư sản phương Tây, thuận theo "diễn biến hòa bình" của phương Tây.


Ba là, tuyên bố rộng rãi thuyết chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa tư bản ngày càng có "cùng xu hướng". Gorbachev nói, phải "xóa bỏ tính đối kháng giữa hai hệ thống xã hội lớn hiện nay"; "trong xã hội tư bản chủ nghĩa và xã hội xã hội chủ nghĩa có tiến trình rất giống nhau về nội dung, bởi vì hai xã hội này cuối cùng phải phát triển lực lượng sản xuấy: hiện đại, phải có khoa học kỹ thuật tiến bộ"1 (Gorbachev: "Tư tưởng xã hội chủ nghĩa và cải cách mang tính cách mạng", báo Sự thật, ngày 26 tháng 11 năm 1989; tham khảo Tập hợp các bài dịch về vấn đề Liên Xô, Đông Âu, kỳ 1 năm 1990, tr.25, 32). "Chủ nghĩa xã hội là một loại quá trình thế giới, nó không giới hạn trong phạm vi các nước xã hội chủ nghĩa. Chúng ta nhìn thấy rất nhiều biểu hiện của nó trong các nước tư bản chủ nghĩa có nền công nghiệp phát triển. Những đặc điểm của chủ nghĩa xã hội, ví dụ như chế độ công hữu, tính kế hoạch, an sinh xã hội, trong một mức độ và phạm vi nào đó trở thành bộ phận cấu thành quen thuộc trong đời sống xã hội phương Tây tiên tiến"2 (Gorbachev: "Thế giới tương lai và chủ nghĩa xã hội", Tlđd). Trong mắt Gorbachev, chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa tư bản ngày càng gần nhau, gần như đi cùng nhau, ngày mà chủ nghĩa tư bản tự nhiên biến thành chủ nghĩa xã hội không còn xa nữa.
Logged
nhinrathegioi
Thành viên
*
Bài viết: 1023



« Trả lời #71 vào lúc: 26 Tháng Hai, 2022, 07:45:31 am »

Bốn là, cổ xúy "lợi ích toàn nhân loại cao hơn tất cả". Đây là cốt lõi của "tư duy mới". Không thể phủ nhận được rằng, có một số việc trên thế giới thuộc về phạm trù "lợi ích toàn nhân loại", ví dụ như ngăn chặn bùng nổ chiến tranh hạt nhân, bảo vệ môi trường sinh thái, thậm chí là cấm hút thuốc phiện, phòng chống AIDS và chống khủng bố quốc tế cũng mang đặc điểm "lợi ích toàn nhân loại". Nhưng trong xã hội có giai cấp, rất nhiều sự việc mang dấu ấn giai cấp rõ ràng, mặc dù là "lợi ích toàn nhân loại", các giai cấp khác nhau có lập trường và thái độ khác nhau, thậm chí ranh giới rõ ràng, quyết không hòa đồng. Đồng thời, các quốc gia và dân tộc khác nhau còn có lợi ích quốc gia và lợi ích dân tộc khác nhau. Thế nhưng Gorbachev nhấn mạnh "lợi ích toàn nhân loại", mục đích chủ yếu là để đi ngược lại hoặc vứt bỏ học thuyết đấu tranh giai cấp và phương pháp cơ bản phân tích giai cấp của chủ nghĩa Mác. Ông chủ trương tất cả đều phải tuân theo "lợi ích toàn nhân loại", xóa bỏ hoàn toàn "lợi ích giai cấp" và "lợi ích quốc gia". Trong mắt ông, lợi ích giai cấp và đấu tranh giai cấp không còn nữa, lợi ích của giai cấp vô sản bị xóa bỏ, phương hướng xã hội chủ nghĩa và lý tưởng cộng sản chủ nghĩa không cần nữa, lợi ích của quốc gia khác nhau cũng vứt bỏ.


Gorbachev đề ra "tư duy mới", về cơ bản thay đổi tư tưởng chỉ đạo chính sách đối ngoại của Liên Xô, mở đường cho Liên Xô lùi bước, thỏa hiệp với phương Tây. Ai cũng biết, các nước phương Tây luôn luôn kiên trì lợi ích giai cấp và lợi ích quốc gia của họ. Nguyên Tổng thống Mỹ Nixon nói: Cạnh tranh là cốt lõi trong quan hệ Mỹ - Xô; cái mà chúng ta ưu tiên bảo vệ nhất là lợi ích thiết thân của chúng ta; để bảo vệ lợi ích thiết thân của chúng ta, chúng ta phải không hề do dự điều động bộ binh hải quân1 (Tham khảo [Mỹ] Richard Nixon: Năm 1999 không đánh mà thắng, Nxb. Thế giới tri thức, 1997, tr.105-106). Các nước phương Tây cũng quyết tâm thực hiện chiến lược "diễn biến hòa bình", mưu đồ lật đổ các nước xã hội chủ nghĩa. Tổng thống Mỹ lúc đó là Reagan nhấn mạnh phải thông qua "truyền bá tư tưởng và thông tin" để ảnh hưởng tới nhân dân Liên Xô. Ngày 13 tháng 5 năm 1989, tân Tổng thống Mỹ Bush phát biểu tại Texas, đề ra thêm chiến lược "vượt trên ngăn chặn" nhấn mạnh "phương Tây phải cổ vũ Liên Xô diễn tiến theo xã hội mở cửa", đồng thời yêu cầu Liên Xô "hợp tác với phương Tây"1 (Hứa Chinh Phàm: Kho tàng lý luận xã hội chủ nghĩa, Nxb. Bắc Kinh, Nxb. Đại học Nhân dân Trung Quốc, 1998, quyển hạ, tr.958). Đứng trước tình hình này, để tránh chiến tranh hạt nhân, vì cái gọi là "lợi ích toàn nhân loại", vì mưu cầu hợp tác quốc tế Gorbachev bèn vứt bỏ đấu tranh và đối kháng, đi theo con đường hy sinh lợi ích của chủ nghĩa xã hội thế giới và lợi ích của nước Liên Xô để hòa hợp với Mỹ. Sau này, Gorbachev hoàn toàn nhượng bộ và khuất phục, đặc biệt là dẫn dắt Đông Âu thay đổi mạnh mẽ, đưa các nước xã hội chủ nghĩa ở Đông Âu đi theo phương Tây, để mặc cho Tây Đức "nuốt chửng" Đông Đức, từ đó làm cho Liên Xô mất đi rất nhiều đồng minh, mất đi không gian chiến lược và vùng đệm rộng rãi. Tất cả những việc mà Gorbachev đã làm phù hợp với lợi ích của phương Tây, do đó nhận được sự khen ngợi rộng rãi của phương Tây. Bà Thatcher, Thủ tướng Anh lúc đó, nói ít nhiều cũng có lý là, Đông Âu có biến đổi mạnh mẽ thì phải "cảm ơn Gorbachev": "Vì thay đổi mang ý nghĩa lịch sử lan rộng cả châu Âu, Gorbachev đáng lẽ ra phải nhận được sự khen ngợi đặc biệt"2 (Hãng tin AFP: Điện từ Luân Đôn, ngày 1 tháng 1 năm 1990). Tổng thống Mỹ Bush khen ngợi Gorbachev: "Nếu nói về việc ông xử lý hoặc cổ vũ biến đổi hòa bình của Đông Âu như thế nào, chúng tôi đương nhiên là khen ngợi"; "tôi cho rằng, kết quả của các công việc mà ông đã làm là Đông Âu biến đổi hòa bình, sự biến đổi này bất kỳ ai trong chúng ta đều không thể dự đoán trước được"3 (Nhật báo Phố Wall (Mỹ), ngày 2 tháng 2 năm 1990). Không khó để nhận ra rằng, đánh giá của các chính trị gia phương Tây đối với người phản bội lại chủ nghĩa Mác và chủ nghĩa xã hội Gorbachev là rất tỉnh táo.


Gorbachev đề ra "tư duy mới", xu hướng giá trị công nhận phương Tây, tự nhiên cũng sẽ dẫn đến cải cách trong nước, tạo cơ hội tốt cho phương Tây thực hiện "diễn biến hòa bình" ở Liên Xô. Do Gorbachev đưa "tư duy mới" từ quan hệ đối ngoại nhanh chóng chuyển hướng sang cải tổ trong nước, cải tổ của Liên Xô ngày càng lấy mô hình của phương Tây làm phương hướng. Đảng Cộng sản Liên Xô chủ trương rập khuôn phương Tây, về chính trị thực hiện "chính trị dân chủ" theo kiểu phương Tầy, về kinh tế  thực hiện "kinh tế  thị trường tự do" theo kiểu phương Tây, về ý thức hệ lại công nhận giá trị quan của phương Tây. Cũng có nghĩa là, phải thay đổi căn bản chế độ xã hội của Liên Xô, du nhập toàn diện mô hình phương Tây, tức là phải "Tây hóa cả gói" Liên Xô.


Nói tóm lại, quán triệt trên tất cả các lĩnh vực nội chính, ngoại giao theo "tư duy mới" của Gorbachev, Liên Xô đã mất đi năng lực phát triển chủ quyền quốc gia, đồng thời nhanh chóng đi đến sụp đổ.
Logged
nhinrathegioi
Thành viên
*
Bài viết: 1023



« Trả lời #72 vào lúc: 26 Tháng Hai, 2022, 07:47:42 am »

Chương III
CÔNG TÁC Ý THỨC HỆ CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN LIÊN XÔ


Đảng Cộng sản lấy lý luận cơ bản chủ nghĩa Mác làm tư tưởng chỉ đạo, mà lý luận cơ bản và tư tưởng chỉ đạo của Đảng Cộng sản cần thông qua công tác ý thức hệ của Đảng để quán triệt và thể hiện tới toàn Đảng và toàn xã hội. Công tác ý thức hệ là sợi dây cáp và nhịp cầu nối liền tư tưởng lý luận của Đảng Cộng sản với các công tác khác, thậm chí với đông đảo quần chúng, có vai trò cực kỳ quan trọng đối với sự thành bại, được mất của sự nghiệp cách mạng, vì thế đó là một việc lớn được toàn Đảng coi trọng cao độ. Công tác ý thức hệ có nội dung rộng, thông thường liên quan tới nhiều lĩnh vực như nghiên cứu lý luận, văn hóa nghệ thuật, tuyên truyền cổ động, giáo dục tư tưởng và truyền thông đại chúng... Công tác ý thức hệ có tính giai cấp rõ rệt, vì vậy quyền lãnh đạo cần phải được nắm trong tay những nhà mácxít trung thành; đồng thời tăng cường xây dựng đội ngũ cán bộ, xây dựng một đội ngũ chuyên làm công tác ý thức hệ, kiên trì tính Đảng, ngọn cờ rõ ràng, dám đấu tranh trước những vấn đề đúng sai lớn; kiên trì bám chắc trận địa tư tưởng, chiếm lĩnh một loạt cơ quan nghiên cứu và công cụ truyền thông như báo chí, xuất bản, đài phát thanh, đài truyền hình, mạng internet..., lấy chủ nghĩa Mác làm tư tưởng chỉ đạo, nắm chắc định hướng dư luận đúng đắn; đồng thời cố gắng hoàn thiện phương thức, phương pháp của công tác ý thức hệ, khiến cho công tác giáo dục tư tưởng đi sâu vào lòng người, bám sát đông đảo quần chúng, tạo ra sức tập hợp lớn mạnh.


Hơn 70 năm cầm quyền, Đảng Cộng sản Liên Xô vừa sáng tạo ra nhiều kinh nghiệm, vừa phạm phải không ít sai lầm về mặt công tác ý thức hệ. Đặc biệt là thời kỳ Gorbachev nắm quyền, lý luận cơ bản và công tác ý thức hệ của Đảng Cộng sản Liên Xô đã phạm phải sai lầm về tính phương hướng, từ chủ nghĩa giáo điều diễn biến thành đa nguyên hóa, tự do hóa, "Tây hóa" ý thức hệ, đi ngược lại, thậm chí, phản bội lại nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác, gây mất niềm tin trong và ngoài Đảng, tư tưởng chia rẽ, rơi vào hỗn loạn, cuối cùng dẫn tới chỗ Đảng Cộng sản Liên Xô bại vong và Liên Xô tan rã. Nghiên cứu và tổng kết những kinh nghiệm và bài học của Đảng Cộng sản Liên Xô về mặt công tác ý thức hệ sẽ giúp chúng ta nhận rõ những nhân tố tư tưởng và tinh thần dẫn tới Đảng Cộng sản Liên Xô bại vong, là việc làm có ý nghĩa lý luận và ý nghĩa hiện thực sâu sắc.


I. NHỮNG VẤN ĐỀ VỀ TỔ CHỨC LÃNH ĐẠO VÀ ĐỊNH HƯỚNG DƯ LUẬN

Trong tác phẩm Hệ tư tưởng Đức, Mác - Ăngghen chỉ ra: "Trong mỗi thời đại, tư tưởng của giai cấp thống trị đều là tư tưởng chiếm địa vị thống trị"1 (Mác - Ăngghen: Toàn tập, Sđd, q.3, tr.52). Là thế giới quan và hệ thống tư tưởng của giai cấp vô sản, chủ nghĩa Mác tất yếu trở thành tư tưởng chỉ đạo của toàn xã hội tại các nước xã hội chủ nghĩa. Vì vậy, Đảng Cộng sản cần phải kiên trì công tác ý thức hệ, nắm chắc quyền chủ đạo của công tác ý thức hệ, kiên trì địa vị chỉ đạo của chủ nghĩa Mác trong lĩnh vực ý thức hệ, nắm bắt chính xác định hướng dư luận, tích cực dẫn dắt nhân dân toàn quốc tiếp nhận và tin theo chủ nghĩa Mác. Vấn đề tổ chức lãnh đạo và vấn đề định hướng dư luận là hai vấn đề lớn hết sức quan trọng trong công tác ý thức hệ.


1. Vấn đề tổ chức lãnh đạo

Sau khi Cách mạng Tháng Mười Nga thắng lợi, Lênin hết sức coi trọng vấn đề quyền lãnh đạo của chính đảng vô sản trong lĩnh vực ý thức hệ. Lúc đó, một nhiệm vụ quan trọng mà chính đảng vô sản Nga gặp phải chính là làm cho thế giới quan khoa học của chủ nghĩa Mác từ trong Đảng mở rộng ra ngoài Đảng, từ giai cấp vô sản phát triển sang các giai cấp lao động khác, được toàn thể nhân dân nắm bắt. Ở một nước Nga kinh tế văn hóa lạc hậu, muốn làm cho mọi người ở các giai cấp khác nhau, tầng lớp khác nhau phổ biến tiếp nhận thế giới quan mácxít, rõ ràng là một nhiệm vụ khó khăn và lâu dài. Lênin hết sức nhấn mạnh tính Đảng và tính giai cấp của công tác ý thức hệ, ông cho rằng, ý đồ "... phải đứng lên trên cả hai 'cực' là chủ nghĩa duy tâm và chủ nghĩa duy vật này"1 (Lênin: Toàn tập, Sđd, q.43, tr.27) là không thể đứng vững. Dưới sự lãnh đạo của Lênin, chính quyền Xôviết đã triển khai cuộc đấu tranh toàn diện trên các lĩnh vực tư tưởng, lý luận, văn học nghệ thuật và văn hóa giáo dục, đặt cơ sở vững chắc cho việc xác lập địa vị chỉ đạo của chủ nghĩa Mác trong lĩnh vực ý thức hệ, bảo đảm phương hướng xã hội chủ nghĩa của sự nghiệp văn hóa. Trong cuộc đấu tranh giữa hai đường lối, Đảng Bônsêvích do Lênin lãnh đạo kiên quyết từ bỏ luận điểm sai lầm cho rằng nhà nước không thể can thiệp vào văn hóa, đã xây dựng toàn diện sự lãnh đạo đối với lĩnh vực văn hóa tư tưởng, đồng thời cũng tăng cường đầu tư cho sự nghiệp văn hóa giáo dục.


Sau khi Lênin qua đời, Xtalin hết sức coi trọng vũ trang lý luận và triển khai đấu tranh trong lĩnh vực tư tưởng. Đảng Cộng sản Liên Xô tích cực tận dụng nắm bắt những điều kiện thuận lợi của chính quyền nhà nước, thu thập rộng rãi ở trong và ngoài nước, chỉnh lý và xuất bản các tác phẩm của Mác - Ăngghen, Lênin. Đã lần lượt thành lập các cơ quan chuyên môn như Viện nghiên cứu chủ nghĩa Mác - Ăngghen, Lênin và Học viện Giáo sư Đỏ, đã xuất bản, phát hành các tạp chí và sách truyền bá về chủ nghĩa Mác - Lênin, triển khai phong trào tuyên truyền giáo dục về chủ nghĩa xã hội. Công tác của thời kỳ này đã có tác dụng to lớn đối với việc truyền bá rộng rãi chủ nghĩa Mác - Lênin. Cùng với việc thúc đẩy công tác chính trị tư tưởng, Xtalin từng bước đã xác lập địa vị quyền uy lý luận không thể hoài nghi của mình ở trong và ngoài Đảng. Đồng thời, nhà nước và xã hội cũng hình thành một thể chế công tác ý thức hệ với ngọn cờ rõ ràng, giàu sức sống. Các học giả Nga ngày nay bình luận rằng, xã hội Liên Xô khi đó, "về mặt lý luận tư tưởng, về lĩnh vực ý thức xã hội có thể dùng một từ để hình dung - 'một cục sắt'. Mọi người tin tưởng vào công bằng xã hội, tin tưởng vào tương lai của mình và tương lai của đất nước. Xét vào lúc đó, đừng nói là tiêu diệt một xã hội như vậy, thậm chí ngay cả lay chuyển nó cũng tuyệt đối không thể được"1 ([Nga] V.A. Lusikin, L.A. Shelepin (Từ Hàn Xương dịch): Chiến tranh thế giới thứ ba: Chiến tranh thông tin tâm lý, Nxb. Văn hiến Khoa học xã hội, 2003, tr.76).
Logged
nhinrathegioi
Thành viên
*
Bài viết: 1023



« Trả lời #73 vào lúc: 26 Tháng Hai, 2022, 07:48:42 am »

Kể từ những năm 30 của thế kỷ XX, trong tình hình trong nước và quốc tế nghiêm trọng, đấu tranh trong lĩnh vực ý thức hệ và đấu tranh chính trị, quân sự trong và ngoài nước gắn chặt với nhau, vì vậy cũng đã xuất hiện tình trạng đấu tranh tư tưởng "mở rộng, chính trị hóa, hình thức hóa". Trong thời kỳ này, Đảng Cộng sản Liên Xô đã có sự thay đổi rõ rệt về mặt tổ chức lãnh đạo công tác ý thức hệ, khuynh hướng nôn nóng thành công và mở rộng đấu tranh ngày một rõ rệt. Đến Đại hội XIX Đảng Cộng sản Liên Xô họp năm 1952 đã không còn nhắc tới đấu tranh trong Đảng nữa. Luận cứ khi đó là, đội ngũ cơ bản của Đảng đã đổi mới mạnh mẽ. Thế nhưng tình hình thực tế thì lại là, tuy đội ngũ tổ chức của Đảng khi đó có một số thay đổi nhưng đa số cán bộ thiếu sự rèn luyện về mặt chính trị tư tưởng. Cùng với việc các nhà cách mạng vô sản tiền bối lần lượt qua đời, Ban lãnh đạo Trung ương Đảng Cộng sản Liên Xô đa số đến từ các cơ quan kinh tế và tổ chức, nhận thức đối với chủ nghĩa Mác - Lênin hết sức hạn chế tu dưỡng lý luận quả thực không cao1 (Năm 1948, Zhdanov phụ trách công tác ý thức hệ đột ngột qua đời, còn tình hình sức khỏe của Xtalin xấu đi nghiêm trọng. Cuộc đấu tranh tranh giành quyền lãnh đạo Đảng và Nhà nước càng gay gắt hơn. Lúc đó, Ban lãnh đạo Đảng và Nhà nước Liên Xô có ba nhóm quan trọng: Một là, nhóm được cấu thành bởi các nhà kinh tế học và cán bộ quản lý với lãnh tụ tính thần là Zhdanov, các thành viên chủ yếu bao gồm Voznesensky đã từng lãnh đạo Ủy ban Kế hoạch Nhà nước, Bí thư Trung ương Kuznetsov; hai là, nhóm được cấu thành bởi các quan chức trong Đảng, đứng đầu là Malenkov, Khrushchev; ba là, nhóm được cấu thành bởi các cán bộ trong ngành quốc phòng và an ninh, đứng đầu là Beria. Xtalin coi nhóm đầu tiên là người kế thừa của mình. Thế nhưng, Malenkov, Khrushchev lại thông qua tạo ra "vụ án Lêningrát", bắt và xử tử các thành viên chủ chốt của nhóm thứ nhất vào năm 1949. Sau năm 1951 lại dần dần thông qua các vụ việc như "vụ án sinh viên ngành y" để thay thế các cán bộ trong ngành an ninh. Tháng 6 năm 1953, Beria bị bắt với tội danh "gián điệp của Anh", và bị tử hình vào tháng 12. Tham khảo [Nga] V. A. Lusikin, L.A. Shelepin (Từ Hàn Xương dịch): Chiến tranh thế giới thứ ba: Chiến tranh thông tin tâm lý, Sđd, tr.80, 86-98). Trước và sau những năm 60 của thế kỷ XX, tình trạng trình độ tổ chức lãnh đạo ý thức hệ của Đảng Cộng sản Liên Xô giảm sút ngày một rõ rệt2 (Tham khảo Lý Hưng Canh (biên soạn): Bài học từ vết xe trước: Tổng thuật các loại quan điểm của nước Nga về vấn đề sự kiện Liên Xô, Nxb. Nhân dân, 2003, tr.97).


Sau khi Xtalin qua đời, trong Đảng Cộng sản Liên Xô từng có một thời gian hình thành truyền thống Bí thư thứ hai phụ trách công tác ý thức hệ. Đảng Cộng sản Liên Xô thường xuyên nhấn mạnh, công tác ý thức hệ là sự nghiệp của toàn Đảng, tuy vấn đề kinh tế, vấn đề tổ chức cũng như những vấn đề khác hết sức quan trọng, nhưng công tác ý thức hệ cần được đặt lên vị trí hàng đầu1 (Tham khảo Tuyển tập văn kiện Hội nghị toàn thể Trung ương Đảng Cộng sản Liên Xô (ngày 14 - 15-6-1983), bản tiếng Nga, Mátxcơva, 1983). Thế nhưng, tình hình thực tế trong một thời gian dài của mặt trận tuyên truyền tư tưởng thì lại là: cán bộ lãnh đạo lời nói không đi đôi với việc làm; lý luận trừu tượng, né tránh những vấn đề hiện thực sinh động; tuyên truyền trống rỗng, vô vị khiến cho đông đảo quần chúng cảm thấy chán ngán; nghiên cứu của các nhà mácxít thực thụ bị hạn chế nghiêm trọng; ý thức hệ nhà nước ẩn chứa sự dọa dẫm hoặc cưỡng ép đã chèn ép một bộ phận trí thức thực sự lương thiện và biết suy nghĩ; xử lý đơn giản hóa kiểu mệnh lệnh hành chính trong công tác giáo dục tư tưởng khiến cho bề ngoài ai cũng nói một kiểu, thống nhất cao độ về chủ nghĩa Mác - Lênin, trên thực tế thì không giải quyết căn bản được vấn đề. Trong thời gian gần 40 năm, Ban lãnh đạo cấp cao của Đảng Cộng sản Liên Xô đánh mất truyền thống của thời kỳ Lênin, Xtalin, tư tưởng trì trệ không tiến lên được, làm việc thì bằng lòng với hiện trạng, không biết độc lập suy nghĩ và hoạch định chiến lược, thường thoả mãn với những lời sáo rỗng kiểu ru ngủ và những lời quan cách câu nào cũng giống câu nào do Ban cố vẵn, chuyên gia và các trợ thủ viết2 (Tham khảo Lý Hưng Canh (biên soạn): Bài học từ vết xe trước: Tổng thuật các loại quan điểm của nước Nga về vấn đề sự kiện Liên Xô, Sđd, tr.97-100). Năm 1983, sau khi đi khảo sát thăm mấy nước xã hội chủ nghĩa Đông Âu, Nixon đã rút ra kết luận thế này: "Những người cộng sản đã mất niềm tin, một thế hệ các nhà lãnh đạo mới nổi lên không phải là những nhà tư tưởng mà là những người hoạt động thực tiễn"1 (Chuyển dẫn từ Lý Thận Minh: Chiến tranh, hòa bình và chủ nghĩa xã hội, Nxb. Văn hiến khoa học xã hội, 2000, tr.289).


Đảng Cộng sản Liên Xô thời kỳ sau này đã xuất hiện không ít sai lầm về cơ chế và phương thức, phương pháp tổ chức và lãnh đạo công tác ý thức hệ, nhưng sai lầm mấu chốt vẫn là ở Ban lãnh đạo: người lãnh đạo tối cao của Đảng Cộng sản Liên Xô thiếu tu dưỡng lý luận nghiêm trọng, lý tưởng niềm tin chủ nghĩa cộng sản dao động, họ trước tiên đánh mất tư duy lý luận và năng lực sáng tạo, về sau lại đem quyền lãnh đạo công tác ý thức hệ hai tay dâng cho những kẻ phản bội lại Đảng Cộng sản Liên Xô.


Thời kỳ giữa những năm 80 của thế kỷ XX, Gorbachev giữ chức Tổng Bí thư Trung ương Đảng Cộng sản Liên Xô, công tác ý thức hệ của Đảng Cộng sản Liên Xô từ thái cực này chuyển sang thái cực khác. Các nhà lãnh đạo Đảng Cộng sản Liên Xô, trong đó có Gorbachev, đã từ bỏ lý tưởng cộng sản, phản bội lý luận cơ bản chủ nghĩa Mác - Lênin, từ đó gây ảnh hưởng rất lớn đối với phương hướng và nội dung của công tác ý thức hệ. Gorbachev từng phỉ báng "chủ nghĩa cộng sản" là "cấp tiến", "tư tưởng chuyên chế cách mạng, chủ nghĩa bình quân hoàn toàn tuyệt đối". Ông ta công kích chủ nghĩa Lênin là "tư tưởng đã chết đi vào những năm cuối đời của Mác", bị đưa vào Nga là một sai lầm. Ông ta điên cuồng phản đối lý luận và thực tiễn xây dựng chủ nghĩa xã hội Liên Xô của Xtalin, nói: "Ngay từ thời học sinh, tôi đã phát hiện ra rằng, hiện thực và lý tưởng chủ nghĩa xã hội cách xa nhau một vạn tám ngàn dặm"; "bản chất tinh thần của phong trào cải tổ do ông ta phát động chính là lật đổ hoàn toàn chủ nghĩa Xtalin"2 ([Nga] Gorbachev, [Nhật] Daisaku Ikeda: Bài học tinh thần của thế kỷ XX, Nxb. Văn hiến Khoa học xã hội, 2005, tr.384, 116). Tháng 6 năm 1988, tại Hội nghị đại biểu lần thứ 19 Đảng Cộng sản Liên Xô, Gorbachev nêu ra: "Chúng tôi khẳng định đa nguyên hóa dư luận, từ bỏ cách làm lũng đoạn tinh thần"1 (Gorbachev: "Bài phát biểu tại Lễ bế mạc Hội nghị đại biểu toàn quốc lần thứ 19 Đảng Cộng sản Liên Xô", Báo Sự thật, ngày 1 tháng 7 năm 1988). Ông ta còn nói, cần phải phế bỏ "chủ nghĩa chuyên chế ý thức hệ", "lũng đoạn tinh thần" trước đây, khiến cho các luồng tư tưởng và ý kiến ngoài chủ nghĩa Mác tự do tồn tại và truyền bá.
Logged
nhinrathegioi
Thành viên
*
Bài viết: 1023



« Trả lời #74 vào lúc: 26 Tháng Hai, 2022, 07:49:52 am »

Để thực hiện ý đồ của mình, Gorbachev đề bạt và trọng dụng Yakovlev - người có khuynh hướng phản bội rõ rệt, để ông ta thay thế Ligachev phụ trách công tác ý thức hệ của Đảng Cộng sản Liên Xô. Theo nguyên lãnh đạo của Đảng Cộng sản Liên Xô Ligachev nhớ lại: "Ngay từ tháng 7 năm 1985, Gorbachev đã từng đề nghị Yakovlev làm ứng cử viên chức Trưởng ban Tuyên truyền cổ động Trung ương Đảng Cộng sản Liên Xô, mấy tháng sau Yakovlev được bầu làm Bí thư Ban Chấp hành Trung ương và bắt đầu nghiên cứu vấn đề ý thức hệ. Tôi vốn là Ủy viên Bộ Chính trị phụ trách giám sát quản lý vấn đề ý thức hệ, nhưng rất nhanh đã xác định một kiểu phân công nội bộ: Tôi phụ trách vấn đề văn hóa, khoa học và giáo dục quốc dân, còn Yakovlev chủ yếu nắm công tác truyền thông đại chúng. Điểm đặc biệt chủ yếu của cách phân chia trách nhiệm này là ở chỗ: Để Yakovlev danh chính ngôn thuận lãnh đạo những hành động thay đổi chủ biên các báo chí. Còn nhớ, lúc đó khi bàn tới vấn đề tính cần thiết của việc đổi mới cán bộ biên tập, tôi từng đùa, nhắc tới câu nói của Lênin: Mọi người đều biết ông ấy từng nói, khởi nghĩa cách mạng được bắt đầu từ giành lấy Cục bưu điện và điện báo. Chà! Câu nói đùa của tôi về sau đã trở thành sự thật đau khổ: Tôi tin rằng bọn họ quả thực muốn giành lấy truyền thông đại chúng. Nguyên nhân là ở chỗ, Yakovlev luôn lãnh đạo Ban Tuyên truyền cổ động Trung ương Đảng Cộng sản Liên Xô (giữ chức quyền Trưởng ban này) từ năm 1967 đến 1972, rất hiểu tình hình cán bộ ý thức hệ. Trong mấy tháng đó, tôi làm sao có thể dự đoán được, để phát huy vai trò hết sức đặc biệt trong các sự kiện sắp tới, Yakovlev trên thực tế đang thành lập 'tổ chức cấp tiến' truyền thông đại chúng của mình cơ chứ?"1 (Tham khảo V.A. Lusikin, L.A. Shelepin (Từ Hàn Xương dịch): Chiến tranh thế giới lần thứ ba: Chiến tranh thông tin tâm lý, Sđd, tr.210).


Là tâm phúc của Gorbachev, bản thân Ủy viên Bộ Chính trị Yakovlev chính là người phản bội lại chủ nghĩa Mác, là người tiên phong cấp tiến, cực lực phản đối và tẩy chay chủ nghĩa Mác, thù hận Cách mạng Tháng Mười Nga và chủ nghĩa Bônsêvích. Ngay từ tháng 12 năm 1985, Yakovlev đã khuyên Gorbachev rằng: "Với thực tiễn của nước ta, chủ nghĩa Mác không phải là cái gì khác, mà là một kiểu tôn giáo mới, nó khuất phục theo lợi ích của chính quyền chuyên chế và yêu cầu mang tính tùy tiện của nó". "Những trình bày giáo điều của chủ nghĩa Mác - Lênin nguy hiểm ở chỗ đã đủ khiến cho bất kỳ tư duy sáng tạo nào, thậm chí cả tư duy kinh điển, đều bị huỷ diệt hết thảy"2 ([Nga] A.N.Yakovlev: Một ly rượu đắng - chủ nghĩa Bônsêvích và phong trào cải tổ của Nga, Nxb. Tân Hoa, 1999, tr.28). Ngày 2 tháng 8 năm 1991, khi trả lời phỏng vấn của phóng viên hãng TASS, Yakovlev công khai nói, "Bất hạnh của chúng tôi bắt nguồn từ sự giáo điều của chủ nghĩa Mác", "Tôi phản đối coi chủ nghĩa Mác là kim chỉ nam hành động, chắc chắn rằng chủ nghĩa xã hội sẽ thất bại"3 (Hãng TASS, điện Mátxcơva ngày 2 tháng 8 năm 1991). Ngày 3 tháng 10 cùng năm, ông ta đã dỡ bỏ lớp ngụy trang, lộ ra bộ mặt thật của mình, ngang nhiên nói, "Chủ nghĩa Mác cuối cùng khiến chúng ta rơi vào diệt vong, lạc hậu và mất đi lương tâm"; chủ nghĩa cộng sản "trong gien của nó hàm chứa cả những tội ác nguyên thủy"1 (Hãng TASS, điện Mátxcơva ngày 3 tháng 10 năm 1991). Song song với việc công kích cay độc chủ nghĩa Mác, Yakovlev lại ca ngợi không ngớt lời, cúi gập người trước chủ nghĩa tư bản. Ông ta nói: "Chủ nghĩa tư bản đã đem lại luân lý của chủ nghĩa thực dụng. Trong khẩu hiệu tự do, bình đẳng, bác ái của chủ nghĩa tư bản đã thể hiện chủ nghĩa lý tưởng cao cả..."2 ([Nga] A.N.Yakovlev: Một ly rượu đắng - chủ nghĩa Bônsêvích và phong trào cải tổ của Nga, Sđd, tr.33, 39, 175-176).


Một phần tử biến thái như vậy của Đảng Cộng sản Liên Xô đã được trao trọng trách, nắm giữ đại quyền lãnh đạo ý thức hệ vào thời điểm then chốt Đảng Cộng sản Liên Xô thúc đẩy cải tổ. Một khi thời cơ tới, bộ mặt hung ác tất lộ, lập trường chính trị và tư tưởng của ông ta quay ngoắt 180°. Là lãnh đạo tối cao phụ trách công tác ý thức hệ của Đảng Cộng sản Liên Xô, ông ta thừa thế quay lại giáng cho một đòn, từ nội bộ Đảng Cộng sản Liên Xô, áp dụng chiến thuật vu hồi, đánh cho Đảng Cộng sản Liên Xô một đòn chí mạng. Yakovlev về sau thừa nhận rằng, ngay từ đầu ông ta đã không tin cách nói "hoàn thiện toàn diện chủ nghĩa xã hội" của Gorbachev, cho rằng đó là một kiểu "ảo tưởng", chỉ có thể hoàn toàn đánh tan, triệt để đánh sụp nền chuyên chính quan liêu. Mà muốn đánh đổ hoàn toàn chế độ Liên Xô, chỉ có thế dựa vào "chơi trò thủ đoạn chính trị mang tính đầu cơ", bởi vì cơ quan quyền lực của Liên Xô lấy bạo lực làm nền tảng, hết sức mạnh, hơn nữa thẩm thấu rộng rãi, muốn đánh đổ những cơ quan này từ chính diện là điều không tưởng. Biện pháp tấn công chỉ có thể áp dụng chiến thuật vu hồi, linh hoạt cơ trí và lợi dụng biện pháp đã qua được nhiều thử thách là "lời nói không đi đối với việc làm" từ ý nghĩa chính diện3 ([Nga] A.N.Yakovlev: Một ly rượu đắng - chủ nghĩa Bônsêvích và phong trào cải tổ của Nga, Sđd, tr.33, 39, 175-176).


Để làm tan rã Đảng Cộng sản Liên Xô về tư tưởng, đạt tới mục đích đánh đổ Đảng Cộng sản Liên Xô, Yakovlev hoặc là đưa ra kế sách, hoặc thông qua các con đường như trình báo cáo, bài viết, diễn giảng..., lợi dụng mọi cơ hội để tuyên truyền chủ trương của mình. Ông ta đã lợi dụng thành công nhược điểm ý chí yếu ớt, lúc thế này lúc thế kia của Gorbachev, khống chế đầu óc của ông ta, lợi dụng cái miệng và quyền lực của ông ta, từ đó đạt tới mục đích chính trị của mình. Do công tác lâu năm trong cơ quan tuyên truyền của Đảng Cộng sản Liên Xô, Yakovlev am hiểu sâu sắc những kỹ xảo đấu tranh tư tưởng và triển khai công trình làm tan rã nội bộ. Ông ta viết, trong điều kiện lúc bây giờ, để quét sạch hoàn toàn chủ nghĩa Bônsêvích, đánh tan các cơ quan của Liên Xô, không thể áp dụng phương thức tiến công trực diện... Muốn tránh thất bại, thì cần chú ý đến sách lược, im lặng không nói trước một số việc, một số vấn đề thì cần đi đường vòng, như thế mới có thể đạt được mục đích. Yakovlev một mặt lợi dụng thân phận "tâm phúc và thân tín" của Gorbachev, trực tiếp hiến kế hoặc áp dụng sách lược vu hồi thích hợp; mặt khác thì nhờ vào cơ hội phụ trách ý thức hệ và tuyên truyền trong thời gian dài, giăng lưới một loạt lãnh đạo báo chí và công cụ dư luận của Đảng Cộng sản Liên Xô đã biến chất, buông lỏng và định hướng dư luận một cách có ý thức. Trong thời gian từ năm 1986 đến 1988, một loạt cơ quan báo chí có ảnh hưởng của Liên Xô lần lượt bị "người mới" tiếp quản, như báo Tin tức, họa báo Ngọn lửa nhỏ, Tin tức Mátxcơva, báo Sự thật Đoàn thanh niên cộng sản, tuần báo Luận cứ và sự thực, báo Sự thật Mátxcơva, báo Đoàn viên thanh niên cộng sản Mátxcơva, tạp chí Thanh xuân, tạp chí Thế giới mới... Ban biên tập của các cơ quan báo chí như báo Sự thật, tạp chí Người cộng sản, báo Kinh tế cũng bị điều chỉnh lớn. Trong đó, Kosolapov - chủ biên của tạp chí Người cộng sản, ấn phẩm lý luận quan trọng nhất của cơ quan Đảng Cộng sản Liên Xô đã bị tước bỏ chức vụ, điều tới giảng dạy tại Đại học Mátxcơva. Còn Frolov - người được Gorbachev đích thân lựa chọn, bạn thân cùng phòng của phu nhân ông ta, Raisa - thì lần lượt được bổ nhiệm làm chủ biên tạp chí Người cộng sản và báo Sự thật1 (Tham khảo [Nga] Gorbachev: Chân tướng và tự bạch - Hồi ký Gorbachev, Nxb. Văn hiến Khoa học xã hội, 2002, tr.154-155). Với sự cho phép và ủng hộ của Yakovlev, từ năm 1987 đến trước khi Liên Xô giải thể năm 1991, chính những tờ báo có khả năng và châm ngòi cho báo chí chủ lưu có tính toàn Liên Xô đã trở thành tiên phong cấp tiến của phong trào "công khai", đúng là thổi gió châm lửa, chao đảo dư luận của những tờ báo, tạp chí chủ lun có tính toàn Liên Xô này, trở thành tiên phong cấp tiến của phong trào "công khai". Năm 2000, Yakovlev công khai thừa nhận trong cuốn Vòng xoáy ký ức rằng, ông ta chủ động gánh vác trách nhiệm bảo vệ một số tác giả bài viết sắc sảo, "đã bảo vệ một số người, dung túng một số người"2 (Tham khảo [Nga] A.N.Yakovlev: Vòng xoáy ký ức, bản tiếng Nga, Mátxcơva, 2000, tr.256). Như vậy, với sự ủng hộ của Gorbachev, Yakovlev muốn gì được nấy, làm rối loạn toàn Đảng về tư tưởng từ nội bộ. Đối với "công trạng" làm tan rã Đảng Cộng sản Liên Xô từ bên trong của Yakovlev, ngay cả A. Chernyaev vốn luôn vì lấy lòng mà cãi nhau với ông trước mặt Gorbachev cũng không hề giấu giếm: "Mặc dù vậy, tôi vẫn không muốn phủ định vai trò tiến bộ to lớn của ông ta trong việc đập tan những lời dối trá và giáo điều của chủ nghĩa Mác, chủ nghĩa Lênin, chủ nghĩa Xtalin đã thống trị chúng tôi mấy chục năm qua"3 (Chernyaev: Sáu năm ở bên cạnh Gorbachev, Nxb. Tri thức thế giới, 2001, tr.226).
Logged
nhinrathegioi
Thành viên
*
Bài viết: 1023



« Trả lời #75 vào lúc: 26 Tháng Hai, 2022, 07:50:29 am »

Năm 1988, Gorbachev lại tiến hành một đợt "cải tổ chính trị", để Bí thư Trung ương "bảo thủ" Ligachev phụ trách nông nghiệp, để Bí thư Trung ương "cấp tiến" Yakovlev phụ trách vấn đề quốc tế, lại bổ nhiệm một Bí thư Trung ương "trung dung" khác là W.A.Medvedev phụ trách công tác ý thức hệ. Nhà lãnh đạo phụ trách công tác ý thức hệ cuối cùng của Đảng Cộng sản Liên Xô, Medvedev, trên thực tế tài năng bình thường, có sự kế thừa thống nhất với Gorbachev, Yakovlev về mặt tư tưởng chính trị1 (Lúc đó, những người trong đó có Gorbachev không thể nói không coi trọng công tác "ý thức hệ". Ngược lại, họ coi những trí thức làm việc trong lĩnh vực tin tức báo chí, sáng tác văn học, nghiên cứu khoa học xã hội là những tiên phong của phong trào "công khai". Không những Trung ương Đảng Cộng sản Liên Xô thường xuyên tổ chức các hội nghị của các nhà lãnh đạo giới báo chí và văn nghệ, Gorbachev, Yakovlev, Medvedev... còn thường xuyên tham gia các cuộc gặp gỡ báo chí, họp báo, cố gắng tiếp xúc với trí thức, thanh niên. Tham khảo A.S. Barsebkov: Dẫn luận lịch sử nước Nga đương đại (1985-1991), bản tiếng Nga, Mátxcơva, 2002, tr.72, 84, 85). Lúc đó, dưới sự khuấy động của "công khai", "dân chủ hóa" và "đổi mới tư duy", xã hội Liên Xô u ám, đầy mây đen và chướng khí, liên tục xuất hiện những phát ngôn và bài viết chửi rủa Đảng Cộng sản Liên Xô và chủ nghĩa cộng sản, phỉ báng lịch sử, phủ định chủ nghĩa xã hội, thậm chí đây đó xuất hiện tiếng nói công khai kêu gọi lật đổ chuyên chính của Đảng Cộng sản Liên Xô. Đảng Cộng sản Liên Xô về tư tưởng đã mất đi sức chiến đấu cần có, đã đánh mất trận địa dư luận tư tưởng, thế lớn đã qua, khó có thể ứng phó nổi. Bản thân Medvedev thừa nhận, lúc đó mặc cho ông ta hô hào thế nào, một số nhà xuất bản và tạp chí vẫn làm theo ý mình, công khai phát hành những "sách cấm" của các nhà văn, trong đó có cả Solzhenitsyn2 (Tham khảo W. Medvedev: Quan sát, thần thoại hay là phản bội?, bản tiếng Nga, Mátxcơva, 1998, tr.275). Năm 1989, Ban Tuyên truyền Trung ương Đảng Cộng sản Liên Xô do Medvedev lãnh đạo đã thành lập cái gọi là "Tiểu ban phản ứng nhanh" nhằm ứng phó với một số vấn đề bộc lộ trong dư luận, bao gồm cả việc bóp méo lịch sử, thế nhưng sự việc không được như mong muốn, không hề có hiệu quả. Medvedev nói, năm 1989, với tư cách là Bí thư Trung ương Đảng Cộng sản Liên Xô, ông ta từng chỉ thị cho lãnh đạo của Viện Nghiên cứu Mác - Lênin tiến hành sàng lọc đối với một số sự thực trong cuốn sách Quần đảo Gulag của Solzhenitsyn sắp sửa phát hành, nhằm để cho độc giả phân biệt rõ đúng sai, nhưng mặc dù ông ta nhiều lần đốc thúc, cũng không nhận được sự hưởng ứng của các chuyên gia, kết quả là việc này cũng không đi đến đâu cả1 (Tham khảo W. Medvedev: Quan sát, thần thoại hay là phản bội?, Sđd, tr. 304, 254).


Từ năm 1990 đến đầu năm 1991, dưới sự giáp công từ bên trong và bên ngoài của người lãnh đạo công tác ý thức hệ của Đảng Cộng sản Liên Xô và thế lực thù địch, Đảng Cộng sản Liên Xô giống như "người khổng lồ chân đất" mất đi linh hồn, chỉ còn lại cái vỏ bề ngoài, bên trong đã trống rỗng không còn gì và bắt đầu tan rã, sụp đổ. Các nhà lãnh đạo Đảng Cộng sản Liên Xô đã xa rời tâm đức với đông đảo đảng viên; đội ngũ đảng viên khổng lồ không những bề ngang chia thành ba phái tả, trung, hữu, hơn nữa bề dọc cũng xuất hiện tách rời ba cấp: Ủy viên Trung ương, Đảng ủy địa phương các cấp và tổ chức cơ sở của Đảng2 (Tham khảo W. Medvedev: Quan sát, thần thoại hay là phản bội?, Sđd, tr. 304, 254). Sự phân liệt về mặt cương lĩnh chính trị tại Đại hội đại biểu Đảng cuối cùng của Đảng Cộng sản Liên Xô - Đại hội đại biểu lần thứ XXVIII là biểu hiện tập trung nhất. Tất cả những cái đó đều cho thấy công tác ý thức hệ của Đảng Cộng sản Liên Xô đã bị những con sâu mọt nằm trong Đảng ăn rỗng toàn bộ. Điều này có liên quan mật thiết với những sai lầm về tính phương hướng mà công tác lãnh đạo tổ chức của Đảng Cộng sản Liên Xô đã phạm phải.
Logged
nhinrathegioi
Thành viên
*
Bài viết: 1023



« Trả lời #76 vào lúc: 27 Tháng Hai, 2022, 07:51:27 am »

2. Vấn đề định hướng dư luận

Kinh nghiệm lịch sử cho thấy, định hướng dư luận đúng đắn hay không có tác dụng quan trọng đối với sự trưởng thành lớn mạnh của Đảng, đối với việc xây dựng củng cố chính quyền nhân dân, đối với sự đoàn kết của nhân dân và phồn vinh giàu mạnh của đất nước. Định hướng dư luận đúng đắn là hạnh phúc của Đảng và nhân dân; định hướng dư luận sai lầm là cái họa của Đảng và nhân dân. Bài học về lãnh đạo công tác tuyên truyền báo chí và định hướng dư luận xã hội thời kỳ cuoỉ của Đảng Cộng sản Liên Xô là hết sức sâu sắc1 (Tham khảo: "Hiệu ứng trào lưu tư tưởng trong cải tổ của Nga", Tình hình khoa học xã hội nước ngoài, số 3 năm 1996; Dương Tiểu Yến: "Đánh giá vai trò của định hướng dư luận qua việc Liên Xô cũ giải thể", Lý luận và đương đại, số 6 năm 1997).


Sinh thời, Lênin hết sức coi trọng vấn đề định hướng dư luận của báo chí, đặc biệt là của báo Đảng. Lênin từng nhiều lần nhấn mạnh nguyên tắc tính Đảng của báo Đảng, coi trọng sự lãnh đạo và giám sát đối với báo Đảng và cố gắng thực hiện điều đó. Lúc đó, chính quyền Xôviết đã có cố gắng rất lớn nhằm truyền bá một cách toàn diện và sâu sắc chủ nghĩa Mác, khiến cho hệ thống tư tưởng giai cấp vô sản giành được vị trí chủ đạo ở nước Nga. Thế nhưng, hệ thống tư tưởng giai cấp tư sản không phải là tự động diệt vong, đại diện của nó ở trong nước vẫn tồn tại, thế lực thù địch bên ngoài vẫn trừng trừng như hổ đói. Dưới sự lãnh đạo của Lênin, chính quyền Xôviết đã triển khai cuộc đấu tranh tư tưởng kịch liệt trong các lĩnh vực văn hóa, khoa học, xuất bản và giáo dục, chủ động phát động cuộc tiến công trong lĩnh vực ý thức hệ.


Đồng thời, chính quyền Xôviết ra sức tăng cường giáo dục chủ nghĩa xã hội đối với quần chúng công nông và tích cực tìm tòi các kiểu hình thức giáo dục tư tưởng lâu dài và hiệu quả. Trong thành phố lần lượt xây dựng nhiều nhà hát, phòng hòa nhạc, bảo tàng và bảo tàng mỹ thuật nhằm đáp ứng nhu cầu tinh thần của quần chúng. Theo đề xướng của Lênin, chính quyền Xôviết tích cực tận dụng những ngày lễ kỷ niệm và những nhân vật có tính kỷ niệm để tiến hành công tác giáo dục. Lần lượt có hàng chục bia kỷ niệm của các nhà tư tưởng, nhà cách mạng và nhà hoạt động văn hóa kiệt xuất được khánh thành, như bia kỷ niệm Mác và Ăngghen tại Mátxcơva, bia chóp vuông Hiến pháp Xôviết. Trước và sau đó, một loạt ngày lễ cách mạng có ý nghĩa kỷ niệm đã được xác lập, việc biểu diễn các chương trình kịch, văn nghệ cũng tích cực tuyên truyền lịch sử cách mạng và truyền thống tốt đẹp. Lênin còn nhiệt tình cổ vũ quần chúng tích cực tham gia vào các loại hoạt động văn hóa và giáo dục nghiệp dư. Tất cả những cái đó đều giúp khơi dậy tính tích cực và tính chủ động của xã hội.


Thời kỳ Xtalin, Đảng Cộng sản Liên Xô đã dần dần hình thành trong lĩnh vực ý thức hệ một bầu không khí tích cực vươn lên, giàu tính chiến đấu. Một mặt, sự nghiệp xã hội chủ nghĩa Liên Xô bừng bừng đi lên, uy tín của Xtalin nổi như cổn; mặt khác, sự tấn công của Liên Xô đối với các thế lực thù địch bên trong cũng không nể nang gì, việc vạch trần giai cáp tư sản và thế lực đế quốc bên ngoài trở thành dòng chính của dư luận tư tưởng. Tinh thần yêu nước, chủ nghĩa anh hùng cách mạng, chủ nghĩa tập thể, chủ nghĩa quốc tế tinh thần hiên thân vì chủ nghĩa cộng sản là giai điệu chính của tuyên truyển báo chí và tác phẩm văn nghệ. Khi đó, Liên Xô hết sức coi trọng công tác giáo dục tư tưởng, chú trọng việc tôn trọng tri thức và nhân tài, chú trọng vai trò của tâm gương xã hội. Ví dụ, năm 1927 Liên Xô lập danh hiệu Anh hùng lao động (năm 1938 đổi thành Anh hùng lao động xã hội chủ nghĩa), năm 1930 lập Bằng khen Lênin. Bắt đầu từ năm 1929, toàn Liên Xô triển khai hoạt động thi đua lao động xã hội chủ nghĩa, sau đó lại lần lượt triển khai các phong trào như kiến nghị hợp lý hóa, phong trào đội xung kích, phong trào Stachanov... Như vậy, thông qua quy phạm hóa chế độ và tuyên truyền tư tưởng, xã hội Liên Xô dần dần hình thành một bầu không khí yêu chủ nghĩa xã hội, lao động là vinh quang; coi lười nhác, luồn lọt, đầu cơ là sỉ nhục. Tuyên truyền tư tưởng và sáng tác văn nghệ cũng hát vang giai điệu chính của giai cấp vô sản. Tóm lại, công tác giáo dục chính trị tư tưởng kết hợp chặt chẽ với công tác kinh tế, công tác quân sự, giáo dục, công đoàn, đoàn thanh niên và phụ nữ, triển khai tuyên truyền cổ động sôi nổi, đã khơi dậy mạnh mẽ sự nhiệt tình lao động quên mình và tinh thần cống hiến của đông đảo quần chúng.


Thời kỳ Khrushchev trở thành bước ngoặt của công tác giáo dục tư tưởng của Đảng Cộng sản Liên Xô. Sự phê phán đối với việc sùng bái cá nhân Xtalin sau khi Khrushchev lên nắm quyền trong một chừng mực nào đó có lợi cho việc làm dịu đi đời sống chính trị căng thẳng, làm dịu đi tinh thần của mọi người, nhưng động cơ chính trị không thể nói ra và phương thức hành sự của Khrushchev, đặc biệt là "báo cáo bí mật", thì lại gây ra sự hỗn loạn cực kỳ lớn cho bên trong và bên ngoài Liên Xô. Giới tư tưởng và tâm lý quần chúng Liên Xô bị tác động mạnh mẽ và bóp méo lớn, dẫn đến chủ nghĩa hư vô lịch sử lan tràn, xuất hiện khủng hoảng niềm tin nghiêm trọng, và sinh ra một loạt phần tử tư tưởng kỷ luật khác biệt và "người bất đồng chính kiến" trong nội bộ. Một số người trong đó có Gorbachev, Yakovlev nói thẳng rằng, chính "báo cáo bí mật" của Khrushchev đã gây tác động tư tưởng và chấn động tâm hồn mạnh mẽ đối với họ. Lúc này, đời sống xã hội Liên Xô bắt đầu xuất hiện cái gọi là khuynh hướng "nhân đạo hóa". Xtalin qua đời không lâu, báo Văn học ngày 16 tháng 4 năm 1953 đăng một bài bình luận, phê phán rằng cái chủ yếu mà các tác phẩm thi ca của Liên Xô thiếu chính là không có "con người". Tháng 5 năm 1954, nhà văn nổi tiếng Ehrenburg đã đăng tiểu thuyết vừa có tựa đề Giải đông trên tạp chí Ngọn cờ, lấy "giải đông" sông băng để ví với sự kết thúc của thời đại Xtalin, và nói "thời tiết giải đông đã tới", "mùa xuân đang ở trước mắt". Từ đó, các tác phẩm với đặc trưng phản đối áp chế quan liêu, tuyên dương chủ nghĩa nhân đạo trừu tượng nườm nượp ra đời. Đến những năm 60 của thế kỷ XX, "chủ nghĩa nhân đạo xã hội chủ nghĩa" đã trở thành khẩu hiệu quan trọng của giới văn nghệ Liên Xô. "Lớp người thập kỷ 60" về sau hoạt động sôi nổi trong giới chính trị và giới lý luận Liên Xô chính là trưởng thành lên trong bối cảnh và bầu không khí dư luận như vậy.
Logged
nhinrathegioi
Thành viên
*
Bài viết: 1023



« Trả lời #77 vào lúc: 27 Tháng Hai, 2022, 07:52:45 am »

Đến thời kỳ Brezhnev, hiệu quả của bộ máy tuyên truyền lớn mạnh của Đảng Cộng sản Liên Xô đã giảm dần, công tác tuyên truyền chính trị xa rời thực tế nghiêm trọng, trống rỗng vô vị, đơn giản hóa và toàn những lời sáo rỗng, không những không giúp tăng cường sự yêu mến của quần chúng nhân dân đối với chủ nghĩa xã hội, ngược lại dẫn đến tâm lý đối nghịch mạnh mẽ. Chủ nghĩa hình thức thịnh hành nói suông biểu hiện nổi bật trong lĩnh vực chính trị tư tưởng. Ví dụ, nhiều Đại hội đại biểu Đảng và Hội nghị Trung ương của Đảng Cộng sản Liên Xô đã ban hành các nghị quyết và văn kiện về tăng cường công tác giáo dục chính trị tư tưởng, nhưng trong công tác thực tế thì lại thu được hiệu quả hết sức nhỏ1 (Theo thống kê, thời kỳ Liên Xô, Trung ương Đảng Cộng sản Liên Xô lần lượt đưa ra 130 nghị quyết về vấn đề báo chí, hơn 70 nghị quyết về vấn đề xuất bản sách, 20 nghị quyết liên quan đến mặt phát thanh và truyền hình. Tham khảo [Nga] B.I. Valesky: Trang sách sột soạt, lá cờ phần phật - Báo chí Nga dưới ba loại chế độ chính trị, bản tiếng Nga, Mátxcơva, 2001, tr.88-89). Tuyển tập phát biểu của Brezhnev thường xuyên được tái bản và phát tán rộng rãi, các bài diễn giảng và bài viết của các "chuyên gia ý thức hệ" của Đảng Cộng sản Liên Xô được đăng đầy rẫy, nhưng những lời vô bổ, trống rỗng đó không thể chống chọi được tác động của các tiểu thuyết trinh thám đến từ phương Tây, tác phẩm của kiều dân Liên Xô đã di cư ra nước ngoài hoặc các tác phẩm hội họa của các nhà nghệ thuật theo trường phái trừu tượng. Phương thức, phương pháp công tác giáo dục chính trị tư tưởng của tổ chức các cấp của Đảng Cộng sản Liên Xô đơn giản, khi gặp vấn đề không đưa ra phân tích cụ thể, không dám loại bỏ ảnh hưởng của các tư tưởng sai lầm trong quần chúng và giới dư luận, mà thường sử dụng quá nhiều mệnh lệnh hành chính thậm chí biện pháp của đặc vụ an ninh để giải quyết. Dưới sức ép của cuộc chiến tranh tâm lý của phương Tây, các "chuyên gia ý thức hệ" của Đảng Cộng sản Liên Xô thường dùng giọng điệu quan cách, hình thức, trăm bài như một để "bảo vệ" chế độ xã hội chủ nghĩa, nói năng hùng hồn, chắc nịch, không hề có nội dung thực tế khiến người ta nghe mà phát ngán1 (Tham khảo V.A. Lusikin, L.A. Shelepin (Từ Hàn Xương dịch): Chiến tranh thế giới thứ ba: Chiến tranh thông tin tâm lý, Sđd, tr.229).


Thời kỳ giữa và cuối những năm 80 của thế kỷ XX, các nhà lãnh đạo Đảng Cộng sản Liên Xô trong đó có Gorbachev đã phản bội lại nguyên tắc cơ bản của chủ nghĩa Mác, chủ động từ bỏ sự lãnh đạo của Đảng đối với truyền thông báo chí, xóa bỏ chế độ kiểm duyệt báo chí, phó mặc buông trôi trong mặt định hướng báo chí, mặc cho các loại phát biểu công kích, đồn đại và mê hoặc lòng người lan tràn tuỳ tiện, dẫn tới Đảng Cộng sản Liên Xô đã mất đi khả năng kiểm soát đối với các phương tiện truyền thông chủ yếu, cuối cùng bị nhấn chìm dưới làn sóng âm thanh ào ạt của phe chống đối. Đúng như nguyên Ủy viên Bộ Chính trị Trung ương, Bí thư Trung ương Đảng Cộng sản Liên Xô Ligachev từng nói, một bài học hết sức sâu sắc của việc Đảng Cộng sản Liên Xô sụp đổ, cũng có thể là bài học quan trọng nhất, chính là đã từ bỏ sự kiểm soát đối với truyền thông báo chí, nhất là vào cuối những năm 1980. N.Ryzhkov, trước kia đã từng làm Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng Liên Xô, cũng nói, thời kỳ cuối những năm 1980, truyền thông báo chí của Liên Xô đã bị khéo léo biến thành một "lực lượng quan trọng" chống đối Đảng Cộng sản Liên Xô. Tóm lại, chỉ trong vẻn vẹn vài năm, do sai lầm định hướng dư luận, Đảng Cộng sản Liên Xô đã dần dần mất đi trận địa dư luận tư tưởng, còn trào lưu tư tưởng của các loại phe chống đối thì lại lớp sau cao hơn lớp trước.


Đảng Cộng sản Liên Xô khi đó đã xuất hiện mấy sai lầm nghiêm trọng về tính phương hướng trong mặt tuyên truyền và định hướng dư luận sau đây.

Thứ nhất, đề xướng cái gọi là "công khai", kết quả chĩa mũi nhọn vào Đảng Cộng sản Liên Xô và chế độ xã hội chủ nghĩa. Cụm từ "công khai" đã từng sử dụng ở thời kỳ Lênin, mục đích ban đầu là nhằm tăng cường kênh liên hệ với quần chúng, tìm hiểu ý kiến của dư luận xã hội và nhân dân lao động. Nhưng "công khai" mà Gorbachev đề xướng thì lại có dụng ý khác. Năm 1986, Gorbachev phát biểu với báo chí rằng: "Nhiều hiện tượng bảo thủ, sai lầm và sai sót khiến cho tư tưởng và hành động của Đảng và Nhà nước giậm chân tại chỗ, là có liên quan tới việc thiếu phe đối lập, thiếu ý kiến khác"1 (Tham khảo [Nga] Nenashev: Con tin của thời đại, bản tiếng Nga, Mátxcơva, 1993, tr.351). Với việc đích thân Gorbachev phát động, phong trào "công khai" bùng phát lên và không thể kiểm soát nổi.


Sai lầm nghiêm trọng của Gorbachev chính là cho phép lợi dụng "công khai" để dấy lên làn sóng hỗn tạp chống cộng, chống chủ nghĩa xã hội. "Công khai" mà ông thúc đẩy, trên thực tế chuyên dùng để vạch ra những mặt tối và hiện tượng tiêu cực trong công tác của Đảng trong lịch sử và đời sống hiện thực, từ đó phủ định hoàn toàn lịch sử cách mạng, bôi xấu Đảng Cộng sản và chế độ xã hội chủ nghĩa. Ví dụ, bản thân ông ta đã lợi dụng ngọn cờ "công khai", thoạt đầu phê phán sự "trì trệ" và "cơ chế gây trở ngại" của thời kỳ Brezhnev, cho rằng thời kỳ này hoàn toàn sai; từ đó phê phán "tội ác" và "thể chế mệnh lệnh hành chính" của thời kỳ Xtalin, nói nó thành "'thể chế quan liêu ngang ngược", "chủ nghĩa cực quyền", "chủ nghĩa xã hội kiểu trại lính", và tiến hành phủ định toàn diện.


Dưới sự ủng hộ của Gorbachev và Yakovlev, một số nhà văn, nhà báo, nhà biên tập chính luận nhiệt tình với việc lật lại những món nợ lịch sử, bới tìm vấn đề, sau đó bóp méo phóng đại, khiến cho "công khai" trở thành đột phá khẩu làm tan rã dư luận xã hội Liên Xô. Mũi nhọn "công khai" chĩa thẳng vào những tử huyệt và những chỗ yếu của Đảng Cộng sản Liên Xô, phê phán một cách thành kiến. Mở rộng "công khai" trên thực tế trở thành phong trào tư tưởng làm bộc lộ những mặt tiêu cực xã hội và tuyên dương tấm gương phương Tây. Đúng như một học giả Nga nhớ lại, một số trí thức đã tham lam hít lấy từng bầu không khí mới mẻ tự do, ngược lại tạm thời quên đi những giá hàng trống rỗng và cơn đói trong bụng1 ([Nga] V. Sogrin: Lịch sử chính trị Nga đương đại: Từ Gorbachev đến Yeltsin (1985-1994), bản tiếng Nga, Mátxcơva, 1994, tr.32-36). Yakovlev hết sức thỏa mãn về điều này, ông ta viết: ""Công khai" đã thức tỉnh xã hội, khiến cho nó biến thành chính trị hóa. Thoạt đầu, không những muốn dùng tính công khai vào tự do xuất bản, hơn nữa coi nó là chìa khóa mở ra giám sát hoạt động của các cơ quan Đảng, chính quyền và đoàn thể xã hội, chí ít tôi cho là như vậy. Cá nhân tôi trao cho nó ý nghĩa đặc thù. Thực hiện nhiệm vụ này thì có thể phá huỷ được hệ thống bảo mật của bộ máy quan liêu trụ cột quan trọng nhất của chế độ hiện hành"2 ([Nga] A.N. Yakovlev: Một ly rượu đắng - chủ nghĩa Bônsêvích và phong trào cải tổ ở Nga, Sđd, tr.184).
Logged
nhinrathegioi
Thành viên
*
Bài viết: 1023



« Trả lời #78 vào lúc: 27 Tháng Hai, 2022, 07:53:38 am »

"Công khai" mà Gorbachev đề xướng cũng được các chuyên gia Mỹ coi là cơ hội tuyệt hảo để đánh thắng trận chiến tư tưởng, về điểm này, nhà lãnh đạo Đảng Cộng sản Nga G. Ziuganov có cảm nhận rất sâu sắc, ông ta viết: "Tiến hành gia công tinh xảo đối với dư luận dưới khẩu hiệu thâm hiểm xảo quyệt là 'tính công khai' này, tất cả những cái đó phát huy vai trò còn xa mới là thứ yếu trong việc đẩy nhanh quá trình tan rã của Liên Xô và đại gia đình xã hội chủ nghĩa quốc tế. Khéo léo chế tạo nhân dân và nhà nước Nga thành "hình tượng kẻ địch" ảo, cuối cùng dẫn tới sự tiêu vong của phe xã hội chủ nghĩa và sự tan rã của Liên Xô. Chi phí mà Mỹ dùng để ủng hộ 'cải tổ' và 'tính công khai' đã được đền đáp gấp hàng trăm lần: Một đối thủ địa chính trị đã bị đánh đổ"1 ([Nga] G. Ziuganov: Toàn cầu hóa và vận mệnh nhân loại, Nxb. Tân Hoa, 2004, tr.79).


Thứ hai, cổ xuý "thuyết đa nguyên", phủ định địa vị chỉ đạo của chủ nghĩa Mác - Lênin. Gorbachev thoạt đầu đưa ra "thuyết đa nguyên lợi ích", về sau lại cổ xuý "thuyết đa nguyên ý kiến". Về cách nói này, cần phải tiến hành phân tích hơn nữa. Đưa ra "đa nguyên ý kiến" nhằm vào quan niệm truyền thống của nước Nga trước kia chỉ nhấn mạnh phiến diện "thống nhất về chính trị, về đạo nghĩa" của xã hội xã hội chủ nghĩa, cũng như cách làm thực tế trong và ngoài Đảng không cho phép tồn tại ý kiến bất đồng. Nếu như ý kiến bất đồng là để bảo vệ chân lý, thì điều này vốn dĩ không cần phải bàn cãi. Thế nhưng, cho phép "đa nguyên ý kiến" lại biến thành phủ định địa vị chỉ đạo của chủ nghĩa Mác - Lênin, thực hiện đa nguyên hóa về tư tưởng chỉ đạo.
Sai lầm của Gorbachev là ở chỗ, nhấn mạnh phiến diện "đa nguyên ý kiến", không quan tâm tới lĩnh vực ý thức hệ cần phải lấy chủ nghĩa Mác - Lênin làm chỉ đạo, mà cho phép và cổ xuý các loại tư tưởng của giai cấp tư sản và quan điểm chống chủ nghĩa Mác tràn lan tự do. Tại Hội nghị đại biểu lần thứ 19 Đảng Cộng sản Liên Xô, ông ta đặt "thuyết đa nguyên", "dân chủ hóa" và "công khai" ngang hàng với "ba đề xướng mang tính cách mạng" mà Đảng Cộng sản Liên Xô đề ra. Ngày 26 tháng 12 năm 1989, Ủy ban giáo dục quốc dân quốc gia Liên Xô ban hành mệnh lệnh, xóa bỏ hoàn toàn môn học "chủ nghĩa Mác" mà học sinh các trường đại học và cao đẳng khác lúc đó vẫn phải học1 ([Nhật] Tin tức kinh tế ngành, đưa tin ngày 8 tháng 1 năm 1990). "Dự thảo Cương lĩnh hành động" được Hội nghị Trung ương Đảng Cộng sản Liên Xô thông qua tháng 2 năm 1990 nhấn mạnh, "Kiên quyết từ bỏ sự hạn chếý thức hệ, chủ nghĩa giáo điều và thái độ không chấp nhận đối với những quan điểm và tư tưởng khác". Những cách nói và cách làm này rõ ràng đều là nhằm vào chủ nghĩa Mác - Lênin. Cái gọi là từ bỏ "lũng đoạn tinh thần" và "hạn chế ý thức hệ" thực ra chính là từ bỏ địa vị chủ đạo của chủ nghĩa Mác - Lênin trong lĩnh vực ý thức hệ.


Sau đó, Gorbachev đã dùng hình thức pháp luật để cố định phương châm đa nguyên hóa ý thức hệ. Ngày 12 tháng 6 năm 1990, Gorbachev lợi dụng quyền hạn Tổng thổng phê chuẩn Luật xuất bản báo chí, tuyên bố "tự do báo chí", "không cho phép lũng đoạn bất cứ một công cụ dư luận nào". Ngày 15 tháng 7 cùng năm, Gorbachev lại ban bố lệnh Tổng thống về dân chủ hóa truyền hình và phát thanh, quy định sự nghiệp truyền hình và phát thanh nhà nước "độc lập với các tổ chức chính trị và xã hội", không cho phép "bất kỳ chính đảng nào" tiến hành lũng đoạn. Những cách làm này rõ ràng đều là nhằm vào Đảng Cộng sản Liên Xô. Cái gọi là "phản đối lũng đoạn công cụ dư luận", thực ra chính là phản đối Đảng Cộng sản Liên Xô dùng chủ nghĩa Mác - Lênin để thực hiện chỉ đạo đối với công cụ dư luận, thực hiện đa nguyên hóa ý thức hệ, gây rối loạn tư tưởng trong và ngoài Đảng, phó mặc cho tư tưởng tư sản lan tràn tự do. Và kết quả tất yếu của việc phủ định chủ nghĩa Mác - Lênin, một là, phá tan nền tảng lý luận của Đảng Cộng sản và chế độ xã hội chủ nghĩa, giúp cho các thế lực chống cộng, chống chủ nghĩa xã hội phát triển lớn mạnh; hai là, phá hoại sự bảo đảm ý thức hệ của nhà nước liên minh đa dân tộc, dẫn đến chủ nghĩa ly khai dân tộc bành trướng tồi tệ. Đây chính là một trong những nguyên nhân quan trọng khiến cho Liên Xô chuyển hóa và giải thể.


Thứ ba, từ "cơn sốt giải cam" văn học phát triển sang "điên cuồng" tư tưởng. Năm 1987 là năm ý thức hệ và định hướng dư luận của Liên Xô có sự chuyển biến mạnh mẽ. Theo Gorbachev tự nói, '"tính công khai" không chỉ có nghĩa là phá vỡ những vùng cấm, cũng có nghĩa là chiếu lại những bộ phim bị cấm 'gác trên cao', công khai đăng những tác phẩm phê phán hiện thực gay gắt, ở trong nước tái bản gần như tất cả những tác phẩm của 'những người bất đồng chính kiến' và những nhà văn ở bên ngoài"1 ([Nga] Gorbachev: Chân tướng và tự bạch - Hồi ký Gorbachev, Sđd, tr.150). Tác phẩm văn học "giải câm" năm đó có Trái tim chó do nhà văn Bulgakov2 (Mikhail Bulgakov sinh năm 1891 tại Kiev, mất nằm 1940 tại Mátxcơva. Tác phẩm tiêu biểu có Trái tim chó, Bạch vệ quân, Đại sư và Magaret. Từ năm 1927 đến năm 1929, tác phẩm của ông không thể nào thông qua vòng kiểm duyệt do vấn đề tư tưởng. Năm 1930, ông ta đã viết thư cho Xtalin, bày tỏ Liên Xô không thể phát huy được tài năng văn học châm biếm của ông ta, đề nghị để ông ta di cư ra nước ngoài. Xtalin đích thân trả lời điện thoại cho ông ta, lần lượt bố trí ông ta công tác tại hai nhà hát ở Mátxcơva. Sau khi mất, nhà văn được phục hồi danh dự, văn đàn Liên Xô hai lần dấy lên "cơn sốt Bulgakov") sáng tác năm 1925, Hố móng sáng tác năm 1930 của Platonov, trường thi Đồng thoại về chân lý sáng tác những năm 40 của Isakovsky, Những đứa con của phố Arbat được hoàn thành trong giai đoạn 1966 - 1983 của Rybakov... Năm đó, Đại hội đại biểu Hội nhà văn Liên Xô còn quyết định sửa sai hoàn toàn đối với Pasternak, tác giả của cuốn tiểu thuyết Bác sĩ Zhivago, và xuất bản tác phẩm của ông ta1 (Bác sĩ Zhivago là tác phẩm tiêu biểu của nhà văn Liên Xô Pasternak, từng đoạt giải thưởng Nobel văn học năm 1958. Do chính quyền Liên Xô cấm cuốn sách này xuất bản bằng tiếng Nga ở trong nước, nhà văn bèn bí mật gửi bản thảo ra nước ngoài bằng máy bay. Theo tờ Thời báo chủ nhật của Anh ngày 14 tháng 1 năm 2007 đưa tin, tác giả của cuốn Nobel bị cướp bóc Tolstoy tiết lộ, lúc đó chính là dưới sự hỗ trợ trực tiếp của cơ quan tình báo Anh và Cục Tình báo Trung ương Mỹ, cuốn Bác sĩ Zhivago bản tiếng Nga được xuất bản tại Milan, Italy vào năm 1957. Như vậy, nhờ cuốn sách Bác sĩ Zhivago mà Pasternak được giải thưởng Nobel văn học năm 1958. Những điều đó ngay cả Viện Hàn lâm khoa học Hoàng gia Thụy Điển cũng đều cảm thấy ngạc nhiên, bởi vì đề nghị giải thưởng Nobel văn học, trước tiên đòi hỏi tác phẩm cần có bản bằng ngôn ngữ của chính dân tộc tác giả mới có thể tham gia bình xét. Cơ quan tình báo Anh và Cục Tình báo Trung ương Mỹ giúp đỡ xuất bản cuốn tiểu thuyết bị Điện Kremlin cấm lúc đó là một phần của sự tiến công ý thức hệ và thẩm thấu tư tưởng của phương Tây đối với Liên Xô trong Chiến tranh lạnh. Năm 1965, bộ phim cùng tên được cải biên từ cuốn tiểu thuyết này do đạo diễn Mỹ thực hiện đã từng giành được 5 giải Oscar. Năm 1989, Yevgeny Pasternak thay mặt cha nhận giải thưởng Nobel văn học, nói: "Cha tôi không tham gia vào hoạt động xuất bản cuốn tiểu thuyết này bằng tiếng Nga, ông cũng không biết Cục Tình báo Trung ương Mỹ hứng thú đối với chuyện này. Cha tôi chưa từng nghĩ tới việc mình có thể nhận được giải thưởng. Điều khiến người ta cảm thấy đau lòng là nó đã đem lại cho ông nhiều đau khổ và vất vả").
Logged
nhinrathegioi
Thành viên
*
Bài viết: 1023



« Trả lời #79 vào lúc: 27 Tháng Hai, 2022, 07:54:23 am »

Ca kịch, điện ảnh cũng vậy, có tới vài chục bộ phim bị cấm đã được chiếu. Tháng 7 năm 1987, tại Lễ bế mạc Liên hoan điện ảnh Mátxcơva đã chiếu bộ phim Chính ủy vốn bị cấm chiếu trong một thời gian dài, trong đó có cảnh miêu tả quần chúng tâm trạng tức giận xung đột nghiêm trọng với Hồng quân. Sau đó, một số đài truyền hình đã chiếu bộ phim tư liệu miêu tả thương vong của quân đội Liên Xô trong cuộc chiến tranh Ápganixtan và sự cố nhà máy điện hạt nhân Chernobyl, gây chấn động xã hội. Một số chuyên mục chính luận do Đài truyền hình quốc gia Liên Xô mở, như các chương trình "Bánh xe thứ 5", "Trước và sau 12 giờ đêm", "Điểm nhìn", không những dùng ngôn từ mạnh, mà còn có tư tưởng cấp tiến. Chương trình "Điểm nhìn" do vài người dẫn chương trình truyền hình trẻ tuổi mở, nội dung và lời nói của người dẫn chương trình tràn ngập sắc thái phản nghịch, giỏi kích động, mê hoặc lòng người, trong một thời gian có ảnh hưởng to lớn trong xã hội1 (Tham khảo [Nga] Sokurov: Sách giáo khoa lịch sử Liên Xô (1941-1991), bản tiếng Nga, Nxb. Đại học cao đẳng Mátxcơva, 1999, tr.348-349).


Thứ tư, từ "chống đặc quyền, chống quan liêu" phát triển tới lật đổ chế độ cơ bản của nhà nước. Cải tổ của Gorbachev tiến hành được hơn ba năm, nhưng cải cách kinh tế không hề thấy chút hiệu quả gì, công việc ngày một đi xuống. Thế là, ông ta đưa ra vấn đề "đặc quyền" và "bộ máy quan liêu", khiến cho nó trở thành cái đích công kích của mọi người. Kết quả, dư luận xã hội cho rằng, "tầng lớp đặc quyền" đối lập với quần chúng, chủ nghĩa quan liêu là "tội đồ" khiến Liên Xô lạc hậu, bộ máy quan liêu là tảng đá ngáng đường lớn nhất gây trở ngại cho cải tổ và tiến bộ2 (Tham khảo tuyển tập Kẻ thù xấu xa nhất từ bên trong, bản tiếng Nga, Mátxcơva, 1987; Báo Sự thật Mátxcơva [Liên Xô], ngày 7 tháng 5 năm 1987). Theo tư duy đó, Gorbachev nhận định, sở dĩ chính sách cải tổ khó thúc đây, là vì bộ máy quan liêu "ngáng trở từ bên trong". Ông ta cho rằng, cải tổ đụng chạm tới lợi ích thiết thân của quan chức các cấp, và các quan chức sợ mất đi quyền lực trong tay, vì vậy ngấm ngầm ra sức tẩy chay cải tổ; bộ máy quan liêu từ trên xuống dưới của xã hội Liên Xô đã hình thành hết tầng lưới này đến tầng lưới khác, hết lớp tường này đến lớp tường khác; con tàu cải tổ bị một thứ "cơ chế trở ngại" đặc biệt quấn chặt, di chuyển khó khăn. Thế nên, Gorbachev đưa ra, "nhiệm vụ cấp bách" của Đảng Cộng sản Liên Xô chính là cần phát động rộng rãi quần chúng, từ trên xuống dưới, gây sức ép với bộ máy quan liêu. Lúc đó, G.Popov, Giáo sư Khoa kinh tế trường Đại học Mátxcơva bỏ nhiều công sức nhất vào mặt này, và cũng nổi bật nhất. Ông ta cho rằng, cẩn phá bỏ hoàn toàn bộ máy quan liêu ở thượng tầng các bộ, ngành và địa phương, mở đường cho cải tổ.


Tháng 6 năm 1988, Đảng Cộng sản Liên Xô triệu tập Hội nghị đại biểu toàn quốc lần thứ 19, mở ra toàn diện bức màn cải tổ chính trị. Từ đó, làn sóng chính trị trong xã hội Liên Xô càng dâng cao hơn, vấn đề kinh tế dường như bị bỏ quên một xó. Bầu cử cạnh tranh năm 1989, tranh luận tại Đại hội Xôviết đã dẫn tới "con sốt chính trị" chưa từng có trong xã hội Liên Xô. Việc truyền hình trực tiếp Hội nghị đại biểu Đảng đã khiến cho nó trở thành "ngày hội chính trị của toàn dân". Các tầng lớp ở Liên Xô cảm nhận được sự hưng phấn chính trị chưa từng có. Toàn xã hội dường như rơi vào trong dòng lũ cải tổ chính trị cuồn cuộn. Một mặt, tâm trạng xã hội từng bước nóng lên, "cơn sốt chính trị" cao không giảm; mặt khác, quyền uy của Trung ương mất sạch, các địa phương ào ào chống nộp thuế, hiện tượng cát cứ kinh tế  nghiêm trọng, mối nguy hiểm địa phương chia tách, dân tộc ly khai tiến gần từng bước, nguy cơ về sự tồn vong của Liên Xô đã cận kề.


Thứ năm, từ giành lấy "quyền tự chủ địa phương" phát triển tới phong trào ly khai dân tộc. Thời kỳ cuối những năm 80 của thế kỷ XX, do cải tổ mãi vẫn chưa có hiệu quả, quyền uy của Trung ương ngày một đi xuống, Đảng Cộng sản Liên Xô và chính phủ Liên Xô trở thành "cái đích công kích của mọi người", khuynh hướng ly tâm và chủ nghĩa ly khai của các khu vực dân tộc ngày càng nghiêm trọng. Qua vài lần thăm dò, ba nước bờ biển Bantích đi đầu đưa ra ngọn cờ "chủ quyền và độc lập". Thoạt đầu là Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản của ba nước cộng hòa này gây khó dễ với Gorbachev, yêu cầu mở rộng dân chủ trong Đảng. Tiếp theo, một số tổ chức xã hội tên là "Mặt trận nhân dân" ào ào thành lập ở các nơi, thanh thế ngày một lớn, tuyên bố đòi "độc lập với Liên Xô". Nhiều quan chức dân tộc bắt đầu tô vẽ "sắc thái chủ nghĩa dân tộc", bỏ đi ý thức hệ chủ nghĩa Mác, lấy đó để thu hút sự ủng hộ của cử tri.


Liên bang Nga đứng đầu là Yeltsin đã phát huy vai trò đi đầu trong mặt này. Cuối những năm 80, đầu những năm 90 của thế kỷ XX, lời kêu gọi "thoát ly" được phát ra từ các nước cộng hoà xa xôi của Liên Xô đã được "phe dân chủ" trong nội bộ Đảng Cộng sản Liên Xô và các thế lực chống cộng trong xã hội tại thủ đô hưởng ứng tích cực. Họ lấy "Nga" làm hậu thuẫn, dựng lên ngọn cờ "độc lập", "tự do", phản đối Đảng Cộng sản Liên Xô, phản đối Trung ương liên minh, hình thành một mặt trận thống nhất. Phe tự do mà Gaidar làm đại diện đã công khai đề xuất, nước Nga cần "vứt bỏ những gánh nặng là các nước cộng hoà lạc hậu này", trước tiên "tự cứu", sau đó nhẹ nhàng lên đường, đến với vòng tay của các nước phát triển phương Tây. Lúc đó, dưới ngọn cờ "nước Nga dân chủ, độc lập", đã tập hợp được một lọat trí thức trong xã hội Nga. Trong con mắt của quần chúng phổ thông, "Liên bang xã hội chủ nghĩa Xôviết cùng với "Đảng Cộng sản Liên Xô", "xã hội chủ nghĩa" đã mất đi ánh hào quang xưa kia, chỉ có nước Nga mới thật sự là tượng trưng của dân tộc, quốc gia và truyền thống. Người Nga rất không muốn nghe thấy mình bị gọi là "người Liên Xô". Song song với mặc cảm về cách gọi "người Liên Xô", họ cảm thấy hân hoan phấn khởi, đầy tự hào về việc mình sẽ được gọi lại là "người Nga".


Và như vậy, Trung ương Liên bang cộng hoà Xôviết trước sau đều bị công kích, "độc lập dân tộc" và "dân chủ hóa" giống như hai mũi dao đâm thẳng tới. Dưới sức ép của tâm trạng xã hội mạnh mẽ, Gorbachev giống như "Don Quixote đánh nhau với cối xay gió", thoắt bên phải thoắt bên trái, liên tiếp bị đánh lui. Sự cải tổ mà ông ta đề xướng đã mất kiểm soát, cuối cùng đã "cải" đến đầu của mình.
Logged
Trang: « 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 16 17 18 19 20 21 22 »   Lên
  In  
 
Chuyển tới:  

Powered by MySQL Powered by PHP Powered by SMF 1.1.21 | SMF © 2006-2008, Simple Machines

Valid XHTML 1.0! Valid CSS! Dilber MC Theme by HarzeM