fddinh
Thành viên
Bài viết: 324
Mít sờ tơ Khù văn Khoằm
|
|
« Trả lời #294 vào lúc: 25 Tháng Mười Một, 2009, 11:51:46 pm » |
|
Tiếng Huế không phải chỉ đơn giản tê mô răng rứa như thỉnh thoảng vẫn xuất hiện trong thơ, nhạc và văn xuôi, như những nét chấm phá rất dễ thương để nói về người và xứ Huế; mà nhức đầu, phức tạp, nhiêu khê, đa dạng và phong phú hơn nhiều. Tùy vào từng địa phương của Huế, cách phát âm có chỗ nặng nơi nhẹ; lúc thanh tao khi khó hiểu.
Xin được đơn cử một câu rất Huế, một tâm sự kín đáo giữa hai o đang tuổi lấy chồng:
"Tau noái với mi ri nì, en còn ở dôn, rứa mà bữa tê tề, en chộ tau phơi ló ngoài cươi, en kiêu tau vô, bồn tau lên chờn, cái ba... en đẩn. Mi quai chướng khôn?".
ý nghĩa:
"Tao nói với mày như vầy, ảnh còn ở rể, vậy mà hôm kia kìa, tao đang phơi lúa ngoài sân, ảnh kêu tao vào, bồng tao lên giường, rồi ảnh... Mày coi có kỳ không?".
Chữ "đẩn", ngoài ý nghĩa một trong bốn cái nhất của đời người trên còn có nghĩa như ăn:
"Đẩn cho bưa rồi đi nghể" - "Ăn cho no rồi đi ngắm gái"
Đẩn cũng có nghĩa là đánh đòn:
"Đẩn cho hắn một chặp!" Đục cho hắn một hồi!
Chữ đẩn còn được phong dao Huế ghi lại:
Được mùa thì chê cơm hẩm Mất mùa thì đẩn cơm thiu Xin được thêm một câu ngăn ngắn gần như rặt thổ ngữ của Huế mà, nếu không có... thông dịch viên gốc Huế hoặc Huế rặt, e rằng khó mà... đả thông kinh mạch cho được:
"Thưa cụ mự, bọ tui vô rú rút mây về đươn trẹt, bọ tui chộ con cọt, rứa mà nỏ biết ra răng, con cọt lủi, lủi năng lắm, bọ tui mờng rứa thê! Chừ mạ tui cúng con gà, cụ mự qua chút chò bui" -
(Thưa cậu mợ, bố con vào rừng rút mây về đan rá (hoặc nia), bố con thấy con cọp, vậy mà chẳng biết sao; con cọp chạy trốn, chạy lẹ lắm; bố con mừng quá. Giờ mẹ con đang cúng con gà, cậu mợ qua chút xíu cho vui).
Khó hiểu chưa?!
Thổ ngữ ở Huế thì nhiều lắm và cũng lạ lắm, và vì tiêu đề của bài này là lan man về những thổ ngữ đó, nên xin được nhẩn nha tìm lại chút ít những gì đã mất và ôn lại những gì đang còn xài. Vì trang báo có hạn, không thể giải thích từng chữ một, nên trong bài này, xin được ghép thổ ngữ thành từng câu, từng nhóm thổ ngữ, vừa đỡ nhàm chán lại ra câu ra kéo, có đầu có đuôi hơn:
"Đồ cái mặt trỏm lơ mà đòi rượn đực!" - (Thứ mặt mày hốc hác mà đòi hóng trai).
Độc chưa! O mô mà lỡ mang cái nhãn không cầu chứng tại tòa này chắc phải ở giá hoặc phải chọn kiếp... tha hương may ra mới có được tấm chồng. Chữ "rượn" gần đồng nghĩa với câu Con ngựa Thượng Tứ, câu này cũng độc không kém. Thượng Tứ là tên gọi của cửa Đông Nam, bên trong cửa này có Viện Thượng Kỵ gồm hai vệ Khinh kỵ vệ và Phi kỵ vệ chuyên nuôi dạy ngựa cho triều đình Huế. Vì thế gọi ngựa Thượng Tứ có nghĩa bóng bảy xa xôi rằng con đó nó ngựa lắm, nó đĩ lắm, nhưng thâm thúy hơn nhiều.
"Mệ cứ thộn ló vô lu, còn lưa, tui này lại!" (Bà cứ dồn lúa vô khạp (cho đầy), còn dư ra, con mua lại).
Chữ "lưa" cũng còn có nghĩa là "còn đó" như trong hai câu trong bài ca dao Huế:
Cây đa bến cộ (cũ) còn lưa (còn đó) Con đò đã khác năm xưa tê rồi
"Này lại" (mua lại)
tiếng này thường chỉ dùng nơi xóm giềng, thân cận; tương đương với chữ nhường lại, chia lại, mua lại. Chứ không dùng ở chợ búa hoặc nơi mua bán um sùm.
Đập chắc lỗ đầu, vại máu! (Đánh nhau bể đầu, toé máu!)
Thương bọ mạ để mô? Để côi trốt! "Thương bố mẹ để đâu? Để trên đầu!"
Rồi đưa ngón tay chỉ chỉ, miệng cười cười, nghe hoài không biết chán
Lên côi độn mà coi (Lên trên đồi mà xem) Nỏ là lối phủ nhận gọn gàng pha chút giận hờn, chanh cốm như chả biết, chả ăn, chả thèm vào!
Hắn mô rồi? Nỏ biết!
Chữ nỏ biết" ở đây pha chút, chút xíu thôi sự phủi tay về cái chuyện hắn đang ở đâu! Tục ngữ Huế:
Có vỏ mà nỏ có ruột.
En dòm tui, tui dị òm! (Anh ấy nhìn tôi, tôi thẹn quá!)
Chữ "òm" người Huế vẫn thường dùng để bổ túc cho cái phủ định của mình: Cái này các bạn cũng hay thường sử dụng nhưng lại không chú ý.
Ngon không? Dở òm!
O nớ răng mà không biết hổ ngươi! (Cô đó sao mà không biết mắc cỡ!)
Hổ ngươi cũng là tên của cây trinh nữ, cây mắc cỡ . Cũng như xấu hổ, thẹn, mắc cỡ thì ốt dột, dị và hổ ngươi có nghĩa khác nhau tuy chút ít nhưng tinh tế, nhẹ nhàng
Chiều hắn cho gắt, hắn được lờn!: Chiều nó cho lắm vào, nó làm tới.
Mời ôn mệ thời cơm: Mời ông bà dùng cơm .
Mệ tra rồi mệ chướng Bà ấy già nên sinh tật.
Chữ chướng, người Huế cũng thường dùng để chỉ mấy đấng nhóc tì khóc nhè, bướng bỉnh hoặc các vị có lối nói, cách hành xử ngang như cua
Bữa ni răng tau buồn chi lạ, buồn dễ sợ luôn ! (Sao hôm nay tao buồn quá, buồn quá trời luôn!)
Dễ sợ, với người Huế không đơn thuần ở nghĩa thấy mà ghê, hoặc khủng khiếp quá, mà còn có nghĩa rất nhiều, lắm, thí dụ:
Con nớ đẹp dễ sợ!: Con bé đó đẹp quá trời!
Răng mà cú tráu rứa tê ? Sao mà cộc cằn quá vậy ?
Chữ cú tráu nếu phát âm đúng với giọng Huế thì nghe nặng hơn chữ cộc cằn nhiều, có lẽ phải gom thêm mấy chữ như thô lỗ, vũ phu thì mới lột tả được hết nghĩa .
Huế nói trại
Nói trại là nói sai giọng, không đúng âm theo giọng viết, nói trại đôi khi cũng dùng trong trường hợp "nói khác đi, nói cách khác" . Cách nói bị biến âm này rất phổ thông ở Huế, nhất là dân cư vùng biển . Nói trại làm cho âm thanh nặng hơn, khó hiểu hơn .
Con tâu tắng ăn ngoài bụi te Con trâu trắng ăn ngoài bụi tre
Hầu hết những từ bắt đầu bằng "nh" đều được người Huế nói trại thành "gi":
già (nhà)
Những từ bắt đầu bằng "s" thì nói trại ra thành "th": (cái này các bạn thấy nhều nhưng cứ nghĩ người ta bị nói ngọng. Không! còn phải xem lại người ta sinh trưởng ở đâu. Vì đây là tiếng nói địa phương)
Ăn thung mặc thướng Ăn sung mặc sướng
Thầy gòn Sài gòn
Noái năng thòng phẳng nói cho sòng phẳng, rõ ràng
Tác giả: PHAN THỊNH
|