Lịch sử Quân sự Việt Nam
Tin tức: Lịch sử quân sự Việt Nam
 
*
Chào Khách. Bạn có thể đăng nhập hoặc đăng ký. 29 Tháng Ba, 2024, 01:51:49 pm


Đăng nhập với Tên truy nhập, Mật khẩu và thời gian tự động thoát


Trang: « 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 16 17 18 19 20 21 22 23 24 25 26 27 28 29 30 31 32 33 34 »   Xuống
  In  
Tác giả Chủ đề: Điện Biên Phủ - Hợp tuyển công trình khoa học  (Đọc 15866 lần)
0 Thành viên và 1 Khách đang xem chủ đề.
chuongxedap
Đại tá
*
Bài viết: 13138



« Trả lời #190 vào lúc: 20 Tháng Tư, 2022, 02:47:33 pm »


*

*        *

Chiến thắng Điện Biên Phủ đã ghi dấu vàng chói lọi trong lịch sử đấu tranh giải phóng dân tộc, để lại những bài học vô giá cho chúng ta trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc ngày nay. Phát huy truyền thống vẻ vang của chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ, vận dụng và phát huy những bài học kinh nghiệm vào hoàn cảnh mới, Quân đội nhân dân Việt Nam quyết tâm làm tròn nhiệm vụ trong giai đoạn cách mạng mới.

Tình hình thế giới những năm đầu thế kỷ XXI biến động rất phức tạp. Tuy hoà bình, hợp tác và phát triển vẫn là xu thế lớn của thế giới, là đòi hỏi bức xúc của các quốc gia, dân tộc, nhưng chiến tranh cục bộ, xung đột vũ trang, xung đột dân tộc, tôn giáo tiếp tục xảy ra ở nhiều nơi. Đặc biệt sau sự kiện ngày 11-9-2001 ở Mỹ, các hoạt động "khủng bố” và "chống khủng bố” trở thành vấn đề thời sự nóng bỏng toàn cầu. Chính phủ Mỹ đẩy mạnh các hoạt động nhằm khẳng định vị trí siêu cường lãnh đạo thế giới, thiết lập "trật tự thế giới một cực", tuyên bố chiến lược "đánh đòn phủ đầu" đối với những nước đe doạ an ninh và lợi ích của Mỹ. Vai trò của Liên hợp quốc và luật pháp quốc tế bị thách thức nghiêm trọng.

Tình hình khu vực Đông Nam Á vẫn tiềm ẩn những nhân tố gây mất ổn định. Hiệp hội các nước Đông Nam Á (ASEAN) là nhân tố quan trọng đối với hoà bình, ổn định, hợp tác ở khu vực, nhưng cũng đang phải đối phó với những thách thức mới trong cạnh tranh quốc tế, trong sự tranh giành ảnh hưởng về kinh tế, chính trị, quân sự giữa các nước lớn. An ninh ở Lào và Campuchia vẫn còn diễn biến phức tạp.

Đối với Việt Nam, các thế lực thù địch trong và ngoài nước vẫn ráo riết thực hiện chiến lược "diễn biến hoà bình" bạo loạn lật đổ, triệt để sử dụng chiêu bài dân chủ, nhân quyền, các vấn đề dân tộc, tôn giáo, kích động, lôi kéo quần chúng gây mất ổn định chính trị, trật tự an toàn xã hội, tạo cớ để can thiệp hòng xoá bỏ sự lãnh đạo của Đảng và chế độ xã hội chủ nghĩa ở nước ta.

Trong bối cảnh đó, Quân đội nhân dân Việt Nam cần nỗ lực hoàn thành tốt nhiệm vụ quân sự, quốc phòng nhằm bảo vệ môi trường hoà bình, ổn định cho sự nghiệp đổi mới, công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước; tập trung xây dựng Đảng bộ quân đội vững mạnh về chính trị, tư tưởng và tổ chức; giữ vững và tăng cường bản chất giai cấp công nhân, giữ vững nguyên tắc lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt của Đảng đối với quân đội. Quán triệt sâu sắc và thực hiện thắng lợi Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX, Nghị quyết Đại hội Đảng bộ quân đội lần thứ VII và các nghị quyết của Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, nhất là Nghị quyết Trung ương 8 (khoá IX) về Chiến lược bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới. Hướng mạnh về cơ sở, bám sát sự phát triển của tình hình và nhiệm vụ, nâng cao bản lĩnh chính trị cho cán bộ, chiến sĩ, phát huy bản chất tốt đẹp của "Bộ đội Cụ Hồ"; bảo đảm cho lực lượng vũ trang mà nòng cốt là Quân đội nhân dân kiên định vững vàng về chính trị, nâng cao trình độ sẵn sàng chiến đấu và sức mạnh chiến đấu, phòng chống có hiệu quả mọi âm mưu, thủ đoạn chống phá của các thế lực thù địch, chủ động đối phó thắng lợi với mọi tình huống phúc tạp có thể xảy ra.

Tăng cường công tác nắm, nghiên cứu và dự báo tình hình, đánh giá đúng âm mưu, thủ đoạn hoạt động của các thế lực thù địch, tập trung đi sâu nghiên cứu chiến lược. Duy trì nghiêm chế độ trực sẵn sàng chiến đấu; phối hợp chặt chẽ với các lực lượng để giữ vững ổn định chính trị - xã hội, độc lập chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của đất nước, không để bị bất ngờ. Chủ động triển khai các biện pháp ngăn chặn kịp thời các hoạt động xâm nhập phá hoại của bọn phản động ngoài nước, không để chúng móc nối, câu kết với bọn phản động trong nước tổ chức lực lượng chống đối.

Tiếp tục xây dựng và củng cố nền quốc phòng toàn dân vững mạnh, xây dựng thế trận quốc phòng - an ninh vững chắc, nâng cao tiềm lực quốc phòng. Tăng cường công tác quản lý nhà nước về quốc phòng, nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác giáo dục quốc phòng. Tổ chức rút kinh nghiệm và nâng cao chất lượng xây dựng khu vực phòng thủ tỉnh, thành phố. Kết hợp chặt chẽ giữa quốc phòng - an ninh - kinh tế - đối ngoại. Chỉ đạo chặt chẽ xây dựng các khu kinh tế - quốc phòng trên tuyến biên giới, vùng sâu, vùng xa, tạo thế trận quốc phòng - an ninh bảo vệ Tổ quốc, phát triển kinh tế, xã hội, nâng cao đời sống nhân dân, xoá đói giảm nghèo, xây dựng "thế trận lòng dân" vững chắc ở các địa bàn chiến lược.

Tiếp tục nâng cao chất lượng tổng hợp, xây dựng Quân đội nhân dân cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại. Nghiên cứu tổ chức lực lượng hợp lý, đồng bộ, cân đối giữa bộ đội chủ lực, bộ đội địa phương và dân quân tự vệ, giữa lục quân và các quân, binh chủng, phù hợp với yêu cầu tác chiến mới. Nâng cao chất lượng công tác huấn luyện, đào tạo. Tiếp tục đổi mới nội dung, chương trình, phương pháp huấn luyện theo phương châm "cơ bản, thiết thực, vững chắc", coi trọng huấn luyện đồng bộ và chuyên sâu, sát với thực tế chiến đấu và đối tượng tác chiến, phù hợp với sự phát triển nghệ thuật quân sự, cách đánh truyền thống Việt Nam và yêu cầu tác chiến trong chiến tranh kẻ địch có sử dụng vũ khí công nghệ cao.

Quân đội nhân dân phải ra sức làm tốt chức năng là đội quân chiến đấu, đội quân công tác và đội quân lao động sản xuất. Toàn quân phải làm tốt công tác vận động quần chúng, gắn bó chặt chẽ với cấp uỷ, chính quyền và nhân dân các địa phương. Quân đội phải là lực lượng nòng cốt trong nhiệm vụ phòng chống và khắc phục hậu quả thiên tai, bão lụt, cứu hộ, cứu nạn. Tích cực tham gia trong công tác phòng chống hoả hoạn, chống cháy rừng.

Quân đội nhân dân tổ chức thực hiện thắng lợi nhiệm vụ quân sự, quốc phòng trong giai đoạn cách mạng mới là thiết thực phát huy truyền thống vẻ vang và thành quả của chiến thắng Điện Biên Phủ, phấn đấu cùng toàn Đảng, toàn dân thực hiện thắng lợi hai nhiệm vụ chiến lược: Xây dựng thành công và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa, thực hiện bằng được mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.
Logged
chuongxedap
Đại tá
*
Bài viết: 13138



« Trả lời #191 vào lúc: 20 Tháng Tư, 2022, 02:56:20 pm »

 
SỨC MẠNH CỦA CHIẾN TRANH NHÂN DÂN VIỆT NAM DO ĐẢNG CỘNG SẢN VÀ CHỦ TỊCH HỒ CHÍ MINH LÃNH ĐẠO ĐÃ LÀM NÊN CHIẾN THẮNG LỊCH SỬ ĐIỆN BIÊN PHỦ1

Thượng tướng LÊ VĂN DŨNG
Bí thư Trung ương Đảng,
Chủ nhiệm Tổng cục Chính trị Quân đội nhân dân Việt Nam

Trọng thể kỷ niệm 50 năm chiến thắng Điện Biên Phủ, chúng ta cùng nhau ôn lại những trang sử hào hùng của dân tộc, càng cảm nhận sâu sắc và tự hào về bản lĩnh và sức mạnh của dân tộc Việt Nam. Chính sức mạnh của chiến tranh nhân dân, của đại đoàn kết toàn dân tộc do Đảng Cộng sản Việt Nam và Bác Hồ kính yêu lãnh đạo là nhân tố quyết định làm nên chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ và thắng lợi của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược.

Ôn lại lịch sử, chúng ta biết rằng qua bảy năm tiến hành chiến tranh xâm lược Việt Nam (1945-1952), các kế hoạch của thực dân Pháp nối tiếp nhau bị phá sản, đội quân xâm lược bị thiệt hại hơn 30 vạn. Thế trận chiến tranh nhân dân Việt Nam đã làm cho quân Pháp mệt mỏi và suy yếu, bị động và bế tắc. Trước tình trạng nguy khốn ở Đông Dương, sau khi thoả thuận với Mỹ, ngày 7-5-1953, Chính phủ Pháp quyết định cử Đại tướng Hăngri Nava sang Việt Nam làm Tổng Chỉ huy thứ bảy của quân đội viễn chinh xâm lược. Vào lúc này, ngay sau khi bị thất bại và buộc phải đình chiến ở Triều Tiên, đế quốc Mỹ tăng cường can thiệp vào Đông Dương, cấu kết với thực dân Pháp để thực hiện âm mưu kéo dài và mở rộng chiến tranh, biến Đông Dương thành căn cứ quân sự của Mỹ làm bàn đạp tấn công các nước Đông Nam Á. Ngày 24-7-1953, Ủy ban phòng thủ quốc gia do Tổng thống Pháp chủ trì đã thông qua kế hoạch Nava nhằm mục tiêu trong vòng 18 tháng giành lại thế chủ động trên chiến trường Đông Dương, với giải pháp cơ bản là tăng thêm quân cùng với sự chi viện của Mỹ, xây dựng các binh đoàn cơ động chiến lược mạnh để thoát khỏi thế phòng ngự bị động. Lộ trình của kế hoạch Nava chia làm hai giai đoạn: Đông Xuân 1953-1954 giữ thế phòng ngự ở phía bắc vĩ tuyến 18, đồng thời tiến công ở phía nam; từ Thu Đông 1954 đến giữa năm 1955, thực hành "tổng giao chiến" ở phía bắc tiêu diệt chủ lực của ta, giáng đòn quyết định nhằm tạo ra "điều kiện quân sự cho một giải pháp chính trị vinh dự"2.

Ngay sau khi bắt đầu thực hiện kế hoạch, Nava huy động được 480.000 quân với 267 tiểu đoàn, trong đó có 84 tiểu đoàn cơ động. So sánh tương quan lực lượng lúc đó, thực dân Pháp có tiềm lực kinh tế và quân sự mạnh hơn ta gấp nhiều lần, lại được Mỹ tăng cường viện trợ về tài chính và vũ khí trang bị, chi viện về không quân và hải quân. Vậy vì sao Việt Nam lại giành được chiến thắng, lập nên chiến công hiển hách "lừng lẫy năm châu, chấn động địa cầu"? Nguyên nhân trước hết và có ý nghĩa quyết định là toàn dân tộc Việt Nam đã đoàn kết một lòng dưới sự lãnh đạo đúng đắn, sáng tạo của Đảng và Bác Hồ kính yêu, phát huy cao độ chủ nghĩa yêu nước Việt Nam, tiến hành cuộc chiến tranh toàn dân, toàn diện sâu rộng trên cả nước, hội tụ được đầy đủ những yếu tố "thiên thời, địa lợi, nhân hòa" trong đó quan trọng nhất là "nhân hòa", tạo nên sự chuyển hóa cả về thế, thời và lực đủ sức áp đảo và đánh bại kẻ thù xâm lược. Chính Hăngri Nava đã phải cay đắng thừa nhận thất bại của thực dân Pháp trong chiến tranh xâm lược Việt Nam là do "quân đội viễn chinh Pháp không chỉ phải chống chọi với một quân đội chính quy, mà còn phải đương đầu với cả một dân tộc"3.

Để đối phó với kế hoạch Nava, tháng 9-1953, Bộ Chính trị đã họp thông qua kế hoạch tác chiến chiến lược Đông Xuân 1953-1954. Trong hội nghị này, Bác Hồ đã dùng một hình ảnh giản dị, dễ hiểu nhưng khái quát hóa rất cao tư tưởng chỉ đạo chiến lược của Đảng ta mà sau này Đại tướng Võ Nguyên Giáp đã kể lại: "Bàn tay Bác đặt trên bàn bỗng giơ lên và nắm lại. Người nói: Địch tập trung quân cơ động để tạo nên sức mạnh... không sợ! Ta buộc chúng phải phân tán binh lực thì sức mạnh đó không còn. Bàn tay Bác mở ra, mỗi ngón tay trở về một hướng"4. Đó chính là tư tưởng chỉ đạo chiến lược phát huy sức mạnh của chiến tranh nhân dân căng địch ra trên toàn chiến trường Đông Dương mà đánh, trói địch lại trên mặt trận Điện Biên Phủ để diệt.

Thực hiện quyết tâm chiến lược của Đảng, một bộ phận chủ lực của ta phối hợp chặt chẽ cùng bộ đội địa phương, dân quân du kích và nhân dân chủ động liên tiếp mở các cuộc tiến công lên Tây Bắc, bắc Tây Nguyên, đồng thời phối hợp với quân và dân Lào, Campuchia tiến công địch ở Thượng Lào, Trung Lào, Hạ Lào và đông - bắc Campuchia. Đó là những hướng địch tương đối yếu nhưng lại hiểm và có ý nghĩa chiến lược về chính trị - quân sự. Phối hợp chặt chẽ với năm đòn tiến công chiến lược trên các hướng nói trên, chiến tranh nhân dân cũng phát triển mạnh mẽ ở đồng bằng Bắc Bộ, Bình-Trị-Thiên, cực nam Trung Bộ và Nam Bộ, buộc địch phải phân tán co kéo lực lượng, bị động đối phó.

Ở đồng bằng Bắc Bộ, quân và dân ta tiến công tiêu diệt hàng loạt căn cứ quan trọng của địch như Hoàng Đan (Hà Nam), La Tiến (Thái Bình), Từ Sơn (Bắc Ninh), Phù Lưu Tế (Hà Đông), Kinh Môn (Hải Dương)... Đường số 5 là huyết mạnh của địch bị uy hiếp nghiêm trọng. Trong hai cuộc tập kích lớn vào sân bay Cát Bi, sân bay Gia Lâm ta đã phá hủy 78 máy bay địch. Vùng căn cứ du kích được mở rộng chiếm 3/4 vùng địch tạm chiếm.

Quân và dân ta ở Bình - Trị - Thiên liên tiếp tiến công địch trên dọc tuyến đường số 1 và đường số 9, tiêu diệt và bức rút nhiều đồn bốt, giải phóng huyện Hướng Hóa và một phần huyện Cam Lộ (Quảng Bình), mở rộng khu du kích nam Quảng Bình, Triệu Phong, Hải Lăng (Quảng Trị), Phong Điền, Quảng Phong (Thừa Thiên)...

Tại Liên khu V, cùng với đòn tiến công chiến lược ở bắc Tây Nguyên, phong trào du kích cũng phát triển mạnh từ bắc Quảng Nam - Đà Nẵng đến cực nam Trung Bộ. Quân và dân ta đồng loạt tiến công tiêu diệt địch ở Gò Đinh, Châu Lâu, Non Nước, Hội An (Quảng Nam - Đà Nẵng), La Lung và sân bay Tuy Hòa (Phú Yên), căn cứ Pascal, Sông Cạn (Ninh Thuận - Bình Thuận), căn cứ tiếp vận Ninh Hòa và kho xăng dầu Nha Trang (Khánh Hòa)... giải phóng Điện Bàn (Quảng Nam), Hòn Khói và tây - bắc Khánh Hòa, Tánh Linh và Lương Sơn (Bình Thuận)... đồng thời bảo vệ vững chắc vùng giải phóng rộng lớn từ ven biển đến biên giới Việt - Lào.
____________________________________________________
1. Tham luận tại Hội thảo khoa học: Chiến thắng Điện Biên Phủ và chiến trường đông Nam Bộ, cực nam Trung Bộ, do Quân khu 7 tổ chức tại thành phố Hồ Chí Minh, ngày 23-4-2004.
2, 3. H. Nava: Đông Dương hấp hối, Sđd.
4. Đại tướng Võ Nguyên Giáp: Điện Biên Phủ, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1998.
Logged
chuongxedap
Đại tá
*
Bài viết: 13138



« Trả lời #192 vào lúc: 20 Tháng Tư, 2022, 02:57:04 pm »


Chiến trường Nam Bộ tuy ở xa Điện Biên Phủ, nhưng có mối liên hệ rất chặt chẽ và nhạy cảm về chiến lược. Nơi đây là đầu cầu quan trọng nhất nối nước Pháp với Đông Dương. Không phải ngẫu nhiên mà thực dân Pháp ra sức củng cố, xây dựng nơi đây thành hậu phương trực tiếp, làm bàn đạp để tiến đánh Trung Bộ, Bắc Bộ, Lào và Campuchia. Thực hiện kế hoạch tác chiến chiến lược Đông Xuân 1953-1954 được Bộ Chính trị thông qua, dưới sự lãnh đạo, chỉ đạo trực tiếp của Trung ương Cục miền Nam, quân và dân ta ở Nam Bộ đã chủ động phối hợp với các chiến trường, đẩy mạnh tiến công quân sự, chính trị kết hợp với địch vận, tiêu diệt và tiêu hao một bộ phận quan trọng sinh lực và phương tiện chiến tranh của địch: 1.200 đồn bốt địch bị tiêu diệt hoặc bức rút, bức hàng; hàng trăm xe quân sự, hàng chục tàu chiến, máy bay và nhiều kho tàng của địch bị phá huỷ; hàng ngàn tên địch bị tiêu diệt, hàng vạn tên rã ngũ hoặc ra hàng... Có những trận ta thắng lớn, đạt hiệu suất chiến đấu cao như: Bến Tranh, Cầu Định (Thủ Biên), Bàu Sen (Gia Ninh), Hiệp Thạnh, Kênh Bùi (Mỹ Tho), An Biên (Rạch Giá),... Điển hình là trận tập kích kho Phú Thọ Hòa (Sài Gòn - Chợ Lớn) ta đã phá hủy 10 ngàn tấn bom đạn, 2 triệu lít xăng dầu và toàn bộ vũ khí phương tiện chiến tranh trong kho, diệt gọn toàn bộ đại đội lính Âu-Phi bảo vệ. Quân và dân ta cũng mở rộng vùng giải phóng ở các tỉnh Gia Ninh, Thủ Biên, Gia Định, Vĩnh Trà, Sóc Trăng, Gò Công, Mỹ Tho, Long Châu Sa... góp phần rất quan trọng bồi dưỡng, phát triển thế lực của ta.

Thắng lợi to lớn của chiến tranh nhân dân trên khắp các chiến trường trong Đông Xuân 1953-1954 làm cho kế hoạch Nava bị đảo lộn và từng bước phá sản. Quân Pháp buộc phải điều động khoảng 70/84 tiểu đoàn cơ động căng ra trên các mặt trận, một bộ phận tinh nhuệ nhất bị giam chân ở Điện Biên Phủ. Chính Hăngri Nava cũng phải thú nhận hơn 80% lực lượng cơ động của Pháp bị phân tán trên các chiến trường, khi ta tiến đánh Điện Biên Phủ thì không thể tập trung lực lượng để đối phó. Trong khi đó, quân và dân ta có điều kiện tập trung ưu thế binh lực, hỏa lực để đánh đòn quyết định ở chiến trường chính Điện Biên Phủ, tiêu diệt lực lượng tinh nhuệ nhất của địch trong tập đoàn cứ điểm mạnh nhất của chúng ở Đông Dương (ta sử dụng 9 trung đoàn bộ binh, gồm 27 tiểu đoàn và toàn bộ pháo binh, công binh, phòng không tập trung cho Chiến dịch Điện Biên Phủ)1. Công tác bảo đảm hậu cần - kỹ thuật cho một lực lượng lớn ở xa hậu phương trong một thời gian dài gặp rất nhiều khó khăn, nhưng chúng ta đã giải quyết thành công do phát huy được sức mạnh của chiến tranh nhân dân.

Trong Chiến dịch Điện Biên Phủ, chúng ta cũng giải quyết thành công một vấn đề rất hệ trọng, liên quan đến thành bại của chiến dịch quyết chiến chiến lược trong kháng chiến chống Pháp là lựa chọn cách đánh chiến dịch. Đây là quyết định khó khăn nhất, như sau này Đại tướng Võ Nguyên Giáp kể lại2. Đảng ủy và Bộ Chỉ huy mặt trận do Đại tướng Võ Nguyên Giáp làm Bí thư kiêm Chỉ huy trưởng đã có quyết định rất đúng đắn, sáng suốt là thay đổi cách đánh từ "đánh nhanh, thắng nhanh" sang "đánh chắc, tiến chắc". Đánh theo cách này, trong điều kiện kém hơn địch về vũ khí đột phá như máy bay, xe tăng, pháo binh và hệ thống công sự vững chắc, chúng ta vẫn tập trung được binh lực, hỏa lực giành ưu thế tuyệt đối trong từng trận, tạo nên sức mạnh áp đảo đánh thắng địch. Đây cũng là điều Bác Hồ nhấn mạnh khi giao nhiệm vụ cho Đại tướng Võ Nguyên Giáp trực tiếp lãnh đạo, chỉ huy Chiến dịch Điện Biên Phủ. Đánh chắc thắng thực sự là một nguyên tắc tác chiến cơ bản của chiến tranh nhân dân Việt Nam và chiến tranh nhân dân là cốt lõi của học thuyết quân sự Việt Nam.

Chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ là đỉnh cao do sự vận động, phát triển của chiến tranh nhân dân Việt Nam tạo nên trong Đông Xuân 1953-1954 và trong cả cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược. Chúng ta luôn trân trọng sự phối hợp tác chiến chặt chẽ của quân và dân Lào, Campuchia anh em, luôn ghi nhớ biết ơn sự giúp đỡ tích cực và có hiệu quả của Chính phủ và nhân dân Trung Quốc, Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa, sự ủng hộ của nhân dân tiến bộ trên toàn thế giới, trong đó có Đảng Cộng sản và nhân dân Pháp, nhưng nhân tố quyết định làm nên chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ và thắng lợi của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược là sức mạnh của chiến tranh nhân dân, sức mạnh của đại đoàn kết toàn dân tộc do Đảng và Bác Hồ lãnh đạo. Đó là bài học sâu sắc nhất mà chúng ta rút ra được từ lịch sử hào hùng của dân tộc.

Ngày nay, dưới sự lãnh đạo của Đảng, sức mạnh của đại đoàn kết toàn dân tộc Việt Nam cần và có thể phát triển lên tầm cao mới. Nếu như trước đây, sức mạnh của đại đoàn kết toàn dân tộc được định hướng và quy tụ dưới ngọn cờ tư tưởng thống nhất giải phóng dân tộc gắn liền với giải phóng xã hội, giải phóng con người, với khát vọng "Không có gì quý hơn độc lập, tự do" thì ngày nay, sức mạnh đó được định hướng và quy tụ dưới ngọn cờ tư tưởng thống nhất độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội, với khát vọng "Dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh". Đó là sự kế tục, bổ sung và phát triển sức mạnh của đại đoàn kết toàn dân tộc Việt Nam do Đảng lãnh đạo lên một chất lượng mới cao hơn, đủ sức làm nên những chiến thắng lịch sử mới trong công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
______________________________________________
1, 2. Xem Đại tướng Võ Nguyên Giáp: Điện Biên Phủ, Sđd.
Logged
chuongxedap
Đại tá
*
Bài viết: 13138



« Trả lời #193 vào lúc: 21 Tháng Tư, 2022, 12:24:53 pm »


VẬN DỤNG BÀI HỌC VỀ CÔNG TÁC THAM MƯU CHIẾN LƯỢC
TRONG CHIẾN CUỘC ĐÔNG XUÂN 1953-1954
VÀ CHIẾN DỊCH ĐIỆN BIÊN PHỦ VÀO THỜI KỲ XÂY DỰNG MỚI
1


Thượng tướng PHÙNG QUANG THANH
Ủy viên Trung ương Đảng,
Thứ trưởng Bộ Quốc phòng,
Tổng Tham mưu trưởng Quân đội nhân dân Việt Nam

Cách đây nửa thế kỷ, cùng toàn Đảng, toàn quân, toàn dân ta, Bộ Tổng tham mưu Quân đội nhân dân Việt Nam, dưới sự lãnh đạo của Ban Chấp hành Trung ương Đảng, đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh, trực tiếp là Tổng Quân uỷ và Bộ Tổng tư lệnh, bằng đường lối chiến tranh nhân dân, toàn dân, toàn diện và tài thao lược, sức sáng tạo của các cấp chỉ huy chiến lược, chiến dịch; bằng sự kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại và sự hy sinh vô bờ bến của quân và dân cả nước, đã tiến hành thắng lợi chiến cuộc Đông Xuân 1953-1954, đỉnh cao là trận quyết chiến chiến lược Điện Biên Phủ, kết thúc vẻ vang cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược, đưa sự nghiệp cách mạng nước ta tiếp tục phát triển lên tầm cao mới.

Để góp phần vào thắng lợi vĩ đại ấy của dân tộc, Bộ Tổng tham mưu - cơ quan tham mưu chiến lược trọng yếu của Đảng, Nhà nước và quân đội ta, trong những ngày tháng lịch sử đó, với tư tưởng chiến lược tiến công, đã quán triệt sâu sắc đường lối quân sự, chủ trương chiến lược trong Đông Xuân 1953-1954 của Bộ Chính trị Trung ương Đảng, của Tổng Quân uỷ (nay là Đảng uỷ Quân sự Trung ương) và Bộ Tổng tư lệnh Quân đội nhân dân Việt Nam, vận dụng đúng đắn, sáng tạo phương châm, phương pháp tiến hành kháng chiến, kịp thời chỉ đạo các lực lượng vũ trang trên các chiến trường giữ vững và đẩy mạnh thế tiến công địch cả về quân sự và chính trị, tạo ra bước ngoặt quyết định, đưa cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược đến thắng lợi.

Vào thời điểm đầu năm 1953, sau những thất bại nặng nề trên chiến trường Đông Dương, Chính phủ Pháp đã cử tướng Nava sang thay tướng Xalăng làm Tổng Chỉ huy quân đội Pháp ở Đông Dương. Sau khi khảo sát thực tế chiến trường Việt Nam và Đông Dương, Nava đề xuất một kế hoạch được Chính phủ Pháp cho là "sắc sảo" và "khả thi". Nội dung cơ bản của kế hoạch này là ra sức xây dựng khối chủ lực cơ động mạnh, quyết chiến với chủ lực ta ở chiến trường Bắc Bộ, đồng thời đẩy mạnh bắt lính, đôn quân và tăng cường quân viễn chinh từ Pháp sang để xây dựng lực lượng dự bị chiến lược mạnh, giành thắng lợi quyết định trên chiến trường Việt Nam và Đông Dương. Thực hiện kế hoạch này, đến cuối năm 1953, với những nỗ lực phi thường, địch đã nâng số quân lên 480.000 tên (trong đó có 146.000 lính Âu - Phi). Với khối chủ lực cơ động gần 100 tiểu đoàn bộ binh, 10 tiểu đoàn dù, địch chuẩn bị mở những cuộc hành quân quy mô lớn để tiêu diệt chủ lực ta và ứng cứu những nơi bị uy hiếp, sẵn sàng đọ sức và đánh bại các cuộc tiến công của chủ lực ta.

Trước âm mưu và thủ đoạn mới hết sức thâm độc, xảo quyệt của địch, Bộ Chính trị Trung ương Đảng và Tổng Quân uỷ đã họp bàn dưới sự chủ trì của Chủ tịch Hồ Chí Minh và quyết định mở nhiều hướng tiến công để phân tán khối chủ lực cơ động của địch, tiêu diệt, tiêu hao nhiều sinh lực của chúng; đẩy mạnh chiến tranh du kích ở vùng sau lưng địch. Bộ Chính trị và Tổng Quân uỷ đề ra nguyên tắc chỉ đạo chiến lược và chỉ đạo tác chiến là giữ vững quyền chủ động, chọn nơi địch sơ hở, nơi địch tương đối yếu mà đánh, kiên quyết buộc địch phải phân tán, đánh chắc thắng, đánh tiêu diệt, vừa đánh địch vừa bồi dưỡng lực lượng ta.

Theo phương hướng chiến lược của Bộ Chính trị và Tổng Quân uỷ, Bộ Tổng tham mưu dưới sự chỉ đạo trực tiếp của Bộ Tổng tư lệnh, trước khi bước vào chiến cuộc Đông Xuân 1953-1954, đã cùng với các cơ quan hữu quan (Tổng cục Chính trị, Tổng cục Cung cấp) tổ chức chỉ đạo các liên khu và các đơn vị mở đợt chỉnh quân chính trị, chỉnh huấn quân sự, chuẩn bị tốt mọi mặt về trang bị vật chất, chú trọng và nâng cao sức mạnh chiến đấu của bộ đội chủ lực. Khi Đông Xuân 1953-1954 diễn ra, trên cơ sở chủ động nắm bắt tình hình địch, ta ở các chiến trường và nghiên cứu xây dựng kế hoạch tác chiến theo tư tưởng chỉ đạo của Tổng Quân uỷ, Bộ Tổng tham mưu đã sử dụng một bộ phận bộ đội chủ lực mở các cuộc tiến công lên hướng Tây Bắc, Thượng Lào, Trung Lào, Hạ Lào, bắc Tây Nguyên và đông - bắc Campuchia, là những nơi lực lượng địch mỏng yếu, sơ hở nhưng lại là những địa bàn chiến lược mà chúng không thể bỏ. Đồng thời, Bộ Tổng tham mưu cũng rất chú trọng chỉ đạo các lực lượng vũ trang và nhân dân các địa phương đẩy mạnh chiến tranh nhân dân ở vùng sau lưng địch từ Nam Bộ, Nam Trung Bộ, Bình-Trị-Thiên đến đồng bằng Bắc Bộ, đánh bại các cuộc hành quân càn quét chiếm đất, giành dân của địch.

Sự chỉ đạo nhạy bén, linh hoạt và hiệu quả trong chiến cuộc Đông Xuân 1953-1954 của Bộ Tổng tham mưu đã góp phần thực hiện thắng lợi tư tưởng chỉ đạo chiến lược của Bộ Chính trị, Tổng Quân uỷ và Bộ Tổng tư lệnh; làm đảo lộn kế hoạch Nava, phá vỡ ý đồ tập trung lực lượng trên địa bàn trọng yếu của địch, buộc địch phải phân tán, bị động đối phó, không thể tập trung lực lượng để quyết chiến với chủ lực ta ở chiến trường do chúng lựa chọn, tạo điều kiện rất thuận lợi cho quân và dân ta tập trung lực lượng mở Chiến dịch Điện Biên Phủ. Hơn nữa, trong quá trình tiến hành chiến cuộc này, khi Bộ Chỉ huy chiến dịch quyết định thay đổi phương châm tác chiến "đánh nhanh, thắng nhanh" sang "đánh chắc, tiến chắc", Bộ Tổng tham mưu đã kịp thời chỉ đạo các đơn vị chuyển sang chuẩn bị và thực hành theo phương châm mới này. Trong 55 ngày đêm thực hành chiến dịch - chiến lược Điện Biên Phủ, Bộ Tổng tham mưu đã chủ động điều hành các đơn vị bộ binh và binh chủng vận dụng sáng tạo nhiều hình thức chiến thuật trong tiến công trận địa tiêu diệt tập đoàn cứ điểm mạnh nhất của địch, giải phóng Tây Bắc, giành thắng lợi hoàn toàn cho chiến cuộc Đông Xuân 1953-1954, góp phần quyết định đánh bại kế hoạch Nava, đập tan ý chí xâm lược của thực dân Pháp.

Thắng lợi to lớn, toàn diện của chiến cuộc Đông Xuân 1953- 1954, mà đỉnh cao là Chiến dịch Điện Biên Phủ, đã để lại cho quân và dân ta nói chung, Bộ Tổng tham mưu nói riêng nhiều kinh nghiệm và bài học quý báu. Đó là bài học về việc luôn luôn quán triệt nghiêm túc và vận dụng sáng tạo đường lối quân sự và quyết tâm chiến lược của Đảng, của Đảng uỷ quân sự Trung ương vào thực tiễn hoạt động của cơ quan tham mưu và chỉ đạo cấp chiến lược nhằm giải quyết thành công các vấn đề trọng yếu đặt ra trong toàn bộ cuộc kháng chiến cũng như ở từng giai đoạn cụ thể, nhất là cuối cuộc chiến tranh.

Thực tiễn 30 năm chiến tranh cách mạng (1945-1975) và trong công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc của những thập niên 80, 90 của thế kỷ XX cho chúng ta thấy rõ: Để hoàn thành chức năng, nhiệm vụ chính trị của cơ quan tham mưu chiến lược, vấn đề đặt ra hàng đầu có ý nghĩa quyết định đối với Bộ Tổng tham mưu là phải luôn luôn quán triệt nghiêm túc đường lối chính trị, đường lối quân sự, đường lối kinh tế, ngoại giao, văn hoá, xã hội của Đảng và Nhà nước. Và trên cơ sở quán triệt sâu sắc các chủ trương đường lối đó, Bộ Tổng tham mưu, dưới sự chỉ đạo trực tiếp của Đảng uỷ quân sự Trung ương, đã chủ động đề xuất và chỉ đạo thực hiện thắng lợi các hoạt động tác chiến của lực lượng vũ trang ba thứ quân, góp phần hoàn thành các nhiệm vụ chính trị, nhiệm vụ quân sự mà Đảng ta đề ra, đưa kháng chiến đến ngày toàn thắng.
____________________________________________________
1. Tỉnh uỷ, Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân tỉnh Điện Biên - Bộ Tư lệnh Quân khu 2 - Viện Lịch sử Quân sự Việt Nam: Chiến thắng Điện Biên Phủ - Mốc vàng lịch sử, chân lý thời đại, Nxb. Quân đội nhân dân, Hà Nội, 2004.
Logged
chuongxedap
Đại tá
*
Bài viết: 13138



« Trả lời #194 vào lúc: 21 Tháng Tư, 2022, 12:25:35 pm »


Ngày nay, tình hình thế giới và khu vực đang diễn biến hết sức phức tạp. Các thế lực thù địch bằng chiến lược "diễn biến hoà bình", bạo loạn lật đổ, vẫn tìm mọi cách chống phá sự nghiệp cách mạng của Đảng và của nhân dân ta, nhằm thủ tiêu chế độ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam, xoá bỏ thành quả xây dựng đất nước và bảo vệ hoà bình của nhân dân ta. Đất nước ta đang trong thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá rất cần môi trường hoà bình, ổn định, tạo điều kiện thuận lợi để đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Vì thế, trong khi ra sức thực hiện hai nhiệm vụ chiến lược là xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, Đảng ta xác định rõ nhiệm vụ chung về quốc phòng và an ninh là: Phát huy sức mạnh tổng hợp của toàn dân, của cả hệ thống chính trị, từng bước tăng cường tiềm lực quốc phòng và an ninh đất nước. Xây dựng vững chắc nền quốc phòng toàn dân, thế trận quốc phòng toàn dân gắn với thế trận an ninh nhân dân, nâng cao chất lượng các lực lượng vũ trang, bảo vệ vững chắc độc lập, an ninh, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của đất nước, bảo vệ nhân dân, bảo vệ Đảng, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa; ngăn ngừa và làm thất bại mọi âm mưu và hoạt động gây mất ổn định chính trị, xã hội; xâm phạm độc lập, chủ quyền toàn vẹn lãnh thổ, gây tổn hại cho công cuộc xây dựng và bảo vệ đất nước.

Quán triệt nhiệm vụ chung về quốc phòng, an ninh trong thời kỳ mới của Đảng, vận dụng những kinh nghiệm quý báu đã tổng kết từ thực tiễn hoạt động quân sự, quốc phòng trong hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ, bao gồm những bài học về chỉ đạo chiến lược trong chiến cuộc Đông Xuân 1953- 1954 và Chiến dịch Điện Biên Phủ lịch sử, Bộ Tổng tham mưu đã chủ động nghiên cứu soạn thảo nhiều nội dung về chiến lược và sách lược, như xây dựng kế hoạch chiến lược kết hợp kinh tế với củng cố quốc phòng, xây dựng nền quốc phòng toàn dân và thế trận chiến tranh nhân dân trên cả nước và từng địa phương; tổ chức phân chia chiến trường; xây dựng các tuyến phòng thủ và khu vực phòng thủ, các căn cứ và hậu phương trên từng khu vực và trên toàn quốc; kế hoạch xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân, xây dựng quân đội nhân dân cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại (bao gồm cả quân thường trực và quân dự bị); kế hoạch phòng thủ dân sự và chuẩn bị đất nước cho chiến tranh, chuyển đất nước từ thời bình sang thời chiến... Bộ Tổng tham mưu cũng đề xuất những nội dung cơ bản về tăng cường xây dựng bộ máy quản lý nhà nước về quốc phòng, an ninh nhằm nâng cao không ngừng chất lượng, hiệu quả của công cuộc củng cố quốc phòng toàn dân, gắn với an ninh nhân dân, đáp ứng cả yêu cầu đấu tranh thời bình và thời chiến, cả đối nội và đối ngoại, cả đấu tranh quân sự và đấu tranh phi quân sự. Thực tế đã chỉ rõ, có điều hành và quản lý tốt nhiệm vụ quốc phòng, an ninh, cụ thể hoá đường lối, chính sách quốc phòng của Đảng, Nhà nước vào cuộc sống của mọi ngành mọi cấp, mọi lĩnh vực hoạt động xã hội, thì chúng ta mới tập trung được tiềm lực chính trị, tinh thần, kinh tế, khoa học kỹ thuật của đất nước, của từng địa phương để xây dựng, củng cố nền quốc phòng toàn dân có đầy đủ sức mạnh, sẵn sàng đập tan mọi âm mưu, thủ đoạn của địch.

Nhiệm vụ quốc phòng, bảo vệ Tổ quốc là nhiệm vụ trọng yếu thường xuyên của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta. Củng cố quốc phòng, xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân, quân đội nhân dân ngày càng vững mạnh là để bảo vệ và củng cố hoà bình, ngăn ngừa và đẩy lùi nguy cơ chiến tranh, củng cố hoà bình, đánh bại mọi âm mưu và hành động phá hoại của địch, giữ vững công cuộc xây dựng đất nước. Nhưng nếu chiến tranh bảo vệ Tổ quốc xảy ra, thì con đường đi đến thắng lợi của chúng ta vẫn phải là tiến hành chiến tranh nhân dân, toàn dân, toàn diện; phát huy tinh thần độc lập tự chủ, tự lực, tự cường, dựa vào sức mình là chính, đồng thời tích cực tranh thủ sự đồng tình ủng hộ của nhân dân yêu chuộng hoà bình và công lý trên thế giới; kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại để phục vụ cho sự nghiệp đấu tranh tự vệ chính nghĩa bảo vệ Đảng, bảo vệ độc lập dân tộc. Kế thừa và phát huy bài học kinh nghiệm chỉ đạo tác chiến chiến lược trong chiến cuộc Đông Xuân 1953-1954 và Chiến dịch Điện Biên Phủ, Bộ Tổng tham mưu dưới sự chỉ đạo trực tiếp của Đảng uỷ quân sự Trung ương, quyết tâm vận dụng sáng tạo các hình thức tác chiến (chiến dịch, chiến thuật) trong điều kiện chiến tranh hiện đại, góp phần bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.

Công cuộc bảo vệ Tổ quốc của nhân dân ta diễn ra trong thế mới, lực mới của một đất nước đang trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá vì thế không những sẽ tạo ra những tiền đề mới cả về vật chất - kỹ thuật và chính trị - tinh thần cho công cuộc củng cố quốc phòng, xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân, quân đội nhân dân; cho sự phát triển khoa học và nghệ thuật quân sự Việt Nam trong thời kỳ mới, mà còn tạo ra điều kiện thuận lợi cho phát triển công nghiệp quốc phòng, nâng cao chất lượng các loại vũ khí, trang bị kỹ thuật, hiện đại hoá cho các ngành, các lực lượng nòng cốt để bảo đảm đánh thắng các loại hình chiến tranh sử dụng vũ khí công nghệ cao của địch.

Tuy nhiên, trong điều kiện của đất nước ta hiện nay, so sánh về lực lượng tác chiến ta vẫn còn những hạn chế về số lượng, trình độ khoa học công nghệ của vũ khí trang bị kỹ thuật và phương tiện chiến tranh hiện đại. Vì vậy, tư tưởng "lấy nhỏ đánh lớn", "lấy ít địch nhiều" phải được quán triệt trong mọi hoạt động xây dựng lực lượng, rèn luyện, huấn luyện bộ đội. Tư tưởng "lấy nhỏ đánh lớn", "lấy ít địch nhiều" đòi hỏi phải gắn liền với yêu cầu tập trung lực lượng hợp lý để tiêu diệt địch; vận dụng và kết hợp linh hoạt các hình thức tác chiến, không ngừng nâng cao trình độ và quy mô tác chiến tập trung hiệp đồng binh chủng, thực hiện đánh tiêu diệt địch trong các chiến dịch và chiến dịch - chiến lược. Quá trình chỉ đạo chiến tranh nhân dân bảo vệ Tổ quốc phải vận dụng và kết hợp sáng tạo sức mạnh tổng hợp của các đòn tiến công quân sự, chính trị, ngoại giao; kết hợp sức mạnh của chiến tranh nhân dân địa phương với sức mạnh chiến tranh bằng các binh đoàn chủ lực; kết hợp lực lượng tại chỗ với lực lượng cơ động nhanh; kết hợp khu vực phòng thủ vững chắc với các binh đoàn chủ lực cơ động mạnh, bảo đảm đánh địch trên mọi địa bàn, ở mọi lúc.

Trong tác chiến chiến lược, phải chủ động chọn hướng tiến công chiến lược chính xác, sáng tạo, bao gồm việc chọn lựa chiến trường chính, mục tiêu chủ yếu, nhất là mục tiêu tiến công đầu tiên và mục tiêu then chốt quyết định. Trong điều hành tác chiến, phải bảo đảm tập trung được ưu thế mạnh trên hướng chiến lược chính, cho đòn mở đầu và các đòn chủ yếu quyết định, luôn luôn duy trì được quyền chủ động hành động, giữ được bí mật bất ngờ, nắm chắc lực lượng dự bị chiến lược mạnh để phát triển tiến công và để ứng phó kịp thời các tình huống. Đồng thời, phải bảo đảm hiệp đồng chặt chẽ giữa các hướng chiến lược cũng như trên mỗi hướng chiến lược, chiến dịch, nhất là sự bảo đảm phối hợp hiệp đồng giữa các đòn đánh, các chiến dịch trong quá trình tiến công nhằm tiêu diệt lớn quân địch, bảo vệ vững chắc các mục tiêu chiến lược, giữ gìn và phát triển lực lượng ta, càng đánh càng mạnh.

Kế thừa và phát huy truyền thống vẻ vang của chiến thắng vĩ đại Điện Biên Phủ, truyền thống yêu nước và chí khí cách mạng kiên cường, bất khuất của dân tộc, nắm chắc quy luật "dựng nước đi đôi với giữ nước", với chức năng và nhiệm vụ của mình, Bộ Tổng tham mưu nguyện ra sức nghiên cứu, vận dụng đúng đắn, sáng tạo chiến lược quốc phòng, an ninh của Đảng, góp phần giữ vững ổn định chính trị và môi trường hoà bình cho công cuộc công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, kiên quyết làm thất bại mọi âm mưu phá hoại của các thế lực thù địch. Phát huy truyền thống trung thành, mưu lược, sáng tạo trong chiến tranh giải phóng dân tộc và bảo vệ Tổ quốc, Bộ Tổng tham mưu quyết tâm cùng toàn Đảng, toàn dân, toàn quân tiến hành thắng lợi sự nghiệp vĩ đại là xây dựng đất nước Việt Nam giàu mạnh, xã hội công bằng, dân chủ và văn minh theo định hướng xã hội chủ nghĩa như Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ IX đã đề ra.
Logged
chuongxedap
Đại tá
*
Bài viết: 13138



« Trả lời #195 vào lúc: 21 Tháng Tư, 2022, 12:30:57 pm »


ĐIỆN BIÊN PHỦ - ĐỈNH CAO CỦA CHIẾN CUỘC ĐÔNG XUÂN 1953-19541


Trung tướng NGUYỄN VĂN ĐƯỢC
Uỷ viên Trung uơng Đảng,
Thứ truởng Bộ Quốc phòng

Mùa Hè năm 1953, trước những thất bại nặng nề trên chiến trường Đông Dương, trực tiếp nhất là cuộc rút chạy khỏi Thượng Lào của quân viễn chinh Pháp, Chính phủ Pháp buộc phải thay thế viên chỉ huy quân sự cao nhất của Pháp ở Đông Dương. Tướng bốn sao Nava sang nhậm chức Tổng Chỉ huy đội quân viễn chinh, thay cho tướng Xalăng bị triệu hồi về nước. Chỉ trong thời gian ngắn, Nava đưa ra kế hoạch chiến lược với mục tiêu "tạo ra những điều kiện quân sự tốt nhất để làm chỗ dựa cho một giải pháp chính trị" có lợi cho Pháp, giúp Pháp có thể thoát khỏi chiến tranh trong danh dự. Kế hoạch này được Hội đồng Quốc phòng Pháp thông qua. Theo đó, Pháp sẽ tiến hành bình định miền Nam, tránh giao chiến với chủ lực ta trên chiến trường Bắc Bộ; sử dụng lực lượng đánh phá vùng tự do, đánh sâu vào hậu phương ta nhằm tiêu hao và cầm chân bộ đội chủ lực, phá kế hoạch tiến công của ta trên chiến trường chính. Đồng thời, theo kế hoạch này, Pháp tập trung xây dựng lực lượng cơ động chiến lược đông, mạnh, đủ sức đè bẹp các đại đoàn chủ lực của ta trong một trận đánh quyết định vào mùa khô năm 1955. Kế hoạch Nava dự kiến thực hiện trong vòng 18 tháng, tính từ tháng 8-1953.

Cuộc họp của Bộ Chính trị bàn chủ trương chiến lược trong Đông Xuân 1953-1954, với sự tham dự của các đồng chí Trường Chinh, Phạm Văn Đồng, Võ Nguyên Giáp, Hoàng Văn Thái (lúc đó là Tổng Tham mưu trưởng, được triệu tập tham dự), do Chủ tịch Hồ Chí Minh chủ trì, đã diễn ra vào cuối tháng 9-1953, tại Tỉn Keo, dưới chân núi Hồng, thuộc thôn Lục Giã, xã Phú Đình, huyện Định Hoá, tỉnh Thái Nguyên. Sau khi đánh giá cụ thể tình hình các chiến trường, âm mưu mới của Nava, khả năng của ta, Hội nghị đã thông qua bản đề án của Tổng Quân uỷ mà nội dung cơ bản của đề án này là nhằm giữ vững, phát huy quyền chủ động chiến lược của ta. Để giữ vững và phát huy quyền chủ động chiến lược, ta sẽ sử dụng một bộ phận chủ lực, kết hợp với lực lượng địa phương, mở các cuộc tiến công vào những hướng chiến lược hiểm yếu, tiêu diệt sinh lực địch, giải phóng đất đai, buộc địch phải phân tán quân cơ động để đối phó, khoét sâu mâu thuẫn cơ bản giữa tập trung và phân tán binh lực của chúng, tạo nên thế trận mới, thời cơ mới. Khi thời cơ xuất hiện, ta sẽ nhanh chóng tập trung lực lượng, tiêu diệt bộ phận sinh lực quan trọng của địch, làm chuyển biến cục diện chiến tranh. Trên chiến trường Bắc Bộ, ta sẽ mở cuộc tiến công lên hướng Tây Bắc, giải phóng Lai Châu, uy hiếp địch ở Thượng Lào. Hướng thứ hai là Trung Lào. Hướng thứ ba là Hạ Lào. Hướng thứ tư là bắc Tây Nguyên. Đồng thời, đẩy mạnh chiến tranh du kích ở Bắc Bộ, cực nam Trung Bộ, Nam Bộ để vừa tiêu diệt sinh lực địch, vừa kìm chân và buộc chúng phải phân tán lực lượng cơ động đối phó. Như vậy, thế tập trung binh lực cơ động của địch sẽ bị phá võ, và cơ bản, kế hoạch Nava bị thất bại. Hội nghị đề ra phương châm tác chiến trong Đông Xuân 1953- 1954 là: "Tích cực, chủ động, cơ động, linh hoạt".

Tại hội nghị này, liên quan đến chiến trường Tây Bắc, Chủ tịch Hồ Chí Minh nêu ra một số vấn đề: ta đưa quân lên Tây Bắc thì địch sẽ phản ứng ra sao. Các hướng khác có khả năng thu hút quân cơ động của địch không?... Và Người kết luận: "Về hướng hoạt động, lấy Tây Bắc làm hướng chính, các hướng khác là hướng phối hợp. Hướng chính hiện nay không thay đổi, nhưng trong hoạt động có thể thay đổi. Phép dùng binh là phải thiên biến vạn hoá"2.

Cần lưu ý, cho tới đầu tháng 11-1953, trong kế hoạch của Nava cũng như trong đề án hoạt động Đông Xuân 1953-1954 của ta, ba chữ "Điện Biên Phủ" chưa hề được nhắc đến. Địa danh đó chỉ xuất hiện từ ngày 20-11-1953, nghĩa là khi vùng lòng chảo này bắt đầu trở thành tâm điểm trong kế hoạch chiến lược của đôi bên và cuộc giao tranh diễn ra tại đó sẽ là trận quyết chiến chiến lược phân định thắng thua giữa một bên là quân và dân ta, dưới sự lãnh đạo tài giỏi, sáng suốt của Trung ương Đảng, đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh, với một bên là thực dân Pháp xâm lược có binh hùng tướng mạnh.

Đại tướng Võ Nguyên Giáp cho biết: Kế hoạch đầu tiên của Nava không nói đến Điện Biên Phủ, vậy mà Điện Biên Phủ trở thành điểm quyết chiến lớn nhất. Trong chiến tranh có những sự kiện như vậy. Rõ ràng, khác với dự định lúc đầu, tướng Nava đã bị động đưa quân lên Điện Biên Phủ. Về sau, tưởng rằng càng tăng quân lên Điện Biên Phủ càng biến tập đoàn cứ điểm này thành một pháo đài bất khả xâm phạm, lại có ý định thu hút quân ta vào một cuộc tiến công mạo hiểm. Như vậy, sẽ là một cơ hội hiếm có để tiêu diệt chủ lực ta. Ta đã tập trung chủ lực, hạ quyết tâm tiến hành trận quyết chiến chiến lược ở thung lũng hẻo lánh này của miền Tây Bắc. Bất ngờ lớn cho tướng Nava và cho Bộ Tham mưu Pháp - Mỹ là chính lực lượng tinh nhuệ của địch đã bị tiêu diệt và quân dân ta đã giành được thắng lợi to lớn.

Tạo nên bất ngờ lớn, buộc đối phương từ chủ động chuyển sang bị động và cuối cùng phải chấp nhận thất bại nặng nề, phải ký Hiệp định Giơnevơ, trước hết là do sự chỉ đạo chiến lược tài tình, sắc bén, sáng tạo của Đảng ta, đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh, trong giai đoạn cuối của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và can thiệp Mỹ.

Sự chỉ đạo chiến lược đó thể hiện trước hết ở việc đánh giá tình hình địch - ta một cách khách quan, khoa học; sớm nhận rõ âm mưu mới của thực dân Pháp, để trên cơ sở đó, định ra phương châm chỉ đạo tác chiến và dự kiến các tình hình chiến lược một cách chủ động, kịp thời, chính xác. Bộ Chính trị Trung ương Đảng, Tổng Quân uỷ và Bộ Tổng tư lệnh đã chủ trương mở những cuộc tiến công của bộ đội chủ lực trên nhiều hướng chiến lược Tây Bắc, Thượng Lào, Trung Lào, Hạ Lào, bắc Tây Nguyên. Chủ trương chiến lược đó cũng như việc thực hiện thắng lợi chủ trương này của quân và dân ta trên khắp các chiến trường, đã khiến kế hoạch tập trung lực lượng cơ động lớn ở đồng bằng Bắc Bộ của Nava bị đập tan. Khối cơ động chiến lược của Pháp bị xé lẻ trên năm hướng chiến lược và cả các chiến trường phối hợp khác. Bởi vậy, lực lượng cơ động chiến lược của địch buộc phải làm nhiệm vụ trái với tên gọi và tính chất cơ động của nó là chốt giữ các địa bàn chiến lược. Như vậy, kế hoạch Nava vừa mới triển khai thực hiện, bước đầu đã bị phá sản ở khâu được coi là quan trọng nhất, tập trung nhất ở việc họ buộc phải điều một bộ phận lực lượng quân cơ động ngày càng tăng lên Điện Biên Phủ nhằm giữ địa bàn Tây Bắc và bảo vệ Thượng Lào. Toan tính ấy của thực dân Pháp khiến cho Điện Biên Phủ trở thành tâm điểm của kế hoạch Nava. Về phía ta, từ việc đề ra phương châm, kế hoạch tác chiến trong Đông Xuân 1953-1954 như đã nêu ở trên, vào đầu tháng 12-1953, ta đã hạ quyết tâm tập trung lực lượng mở chiến dịch tiến công tiêu diệt tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ. Sự lựa chọn này là kết quả của cả một quá trình bàn bạc, xem xét, tính toán cân nhắc, với tầm nhìn chiến lược rộng lớn và sắc sảo của Bộ Chính trị, đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh.

Trên thực tế tình hình đã diễn ra đúng như dự kiến của ta, mở ra thời cơ lớn cho phép ta tập trung lực lượng thực hiện trận quyết chiến chiến lược tại Điện Biên Phủ. Nói cách khác, trước khi triển khai trận quyết chiến Điện Biên Phủ, các cấp lãnh đạo, chỉ huy đã thực hiện xuất sắc chủ trương chiến lược của Bộ Chính trị Trung ương Đảng, mở các cuộc tiến công trên nhiều hướng, khiến kẻ địch bị bất ngờ, buộc phải bị động phân tán lực lượng theo ý đồ của ta.

Trong chiến cuộc Đông Xuân 1953-1954, tướng Nava và Bộ Chỉ huy quân viễn chinh Pháp đã không thể ngờ ta lại có thể huy động, tập trung một lực lượng lớn nhất chủ lực để đánh bại tập đoàn cứ điểm phòng ngự kiên cố bậc nhất (mà trước đó ta chưa lần nào đánh thành công), có lực lượng quân Pháp tinh nhuệ và đông đảo như ở Điện Biên Phủ. Bộ Chỉ huy Pháp đã sai lầm khi tính toán rằng, do Điện Biên Phủ ở cách xa hậu phương của ta hàng trăm kilômét đường rừng núi, các đơn vị chủ lực ta khó có thể tập trung với số lượng lớn trong thời gian dài, trong khi vấn đề tiếp tế hậu cần sẽ không thể giải quyết nổi, do phương tiện thô sơ, đường sá xa xôi, cách trở. Địch lại càng không thể ngờ rằng ta đã đưa được hàng chục khẩu trọng pháo đến Điện Biên Phủ để giáng đòn sấm sét xuống đầu đội quân đồn trú ở đây.
______________________________________________________
1. Tỉnh uỷ, Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân tỉnh Điện Biên - Bộ Tư lệnh Quân khu 2 - Viện Lịch sử Quân sự Việt Nam: Chiến thắng Điện Biên Phủ - Mốc vàng lịch sử, chân lý thời đại, Nxb. Quân đội nhân dân, Hà Nội, 2004.
2. Dẫn theo Võ Nguyên Giáp: Mùa xuân Điện Biên Phủ, Tạp chí Lịch sử Quân sự, số 1-1994, tr.4.
Logged
chuongxedap
Đại tá
*
Bài viết: 13138



« Trả lời #196 vào lúc: 21 Tháng Tư, 2022, 12:31:51 pm »


Bằng thắng lợi Điện Biên Phủ, lần đầu tiên, bộ đội ta đánh bại một tập đoàn cứ điểm mạnh nhất, đánh bại hình thức phòng ngự cao nhất của địch, đập tan ý chí xâm lược của chúng, kết thúc vẻ vang sự nghiệp kháng chiến chín năm chống thực dân Pháp và can thiệp Mỹ. Về mặt quân sự, hình thức phòng ngự tập đoàn cứ điểm của địch trong cuộc chiến tranh này xuất hiện lần đầu ở Hoà Bình (Đông Xuân 1951-1952), sau đó là ở Nà Sản (10-1952). Ở một tầm mức cao hơn hẳn các chiến dịch trước đó, trong Chiến dịch Điện Biên Phủ, hầu hết các đại đoàn chủ lực của ta đã trực tiếp tham chiến, khiến so sánh lực lượng giữa ta và địch tại Điện Biên Phủ nghiêng hẳn về ta với tỷ lệ 4/1. Ở năm hướng (Tây Bắc, Thượng Lào, Trung Lào, Hạ Lào, Tây Nguyên) thì ta có 59 tiểu đoàn, địch chỉ có 19,5 tiểu đoàn (tỷ lệ 3/1)1. Đây là một điều kiện bảo đảm thắng lợi của ta. Còn ở trên các hướng chiến trường khác, chẳng hạn tại đồng bằng và trung du Bắc Bộ, lực lượng địch có 112 tiểu đoàn, ta có 52 tiểu đoàn (tỷ lệ 2,1/1); ở Nam Trung Bộ địch có 29 tiểu đoàn, ta có 13 tiểu đoàn (tỷ lệ 2,2/1).

Chính việc khối cơ động chiến lược của địch bị xé lẻ ra nhiều hướng chiến trường như trên và bị ghìm chặt trên các chiến trường đã cho phép ta tập trung một bộ phận binh lực mạnh vào chiến trường Điện Biên Phủ. Nhưng không chỉ có các đơn vị bộ đội chủ lực được tập trung đông nhất, Chiến dịch Điện Biên Phủ còn là chiến dịch huy động ở mức cao nhất các lực lượng phối hợp, bảo đảm công binh, pháo binh, cao xạ phòng không, vận tải, thanh niên xung phong, dân công, với tinh thần "Tất cả cho tiền tuyến, tất cả để chiến thắng".

Điện Biên Phủ là chiến dịch có thời gian dài nhất (kể cả thời gian chuẩn bị, nếu tính từ đầu tháng 12-1953 đến đầu tháng 5-1954 là năm tháng), được chuẩn bị kỹ càng nhất, bao gồm việc điều động lực lượng từ các mặt trận lên Điện Biên, làm đường, vận tải lương thực, đạn dược, thay đổi phương châm tác chiến... kéo pháo vào, kéo pháp ra, để bảo đảm đánh chắc thắng. Một cách tổng quát, có thể thấy rằng trong suốt chín năm kháng chiến, đây là chiến dịch ta hoàn toàn chủ động trên tất cả các phương diện, kể cả thời gian nổ súng, hướng và mục tiêu tiến công mở màn chiến dịch. Có được điều này là do kết quả của quá trình chiến đấu, trưởng thành của bộ đội ta, dưới sự lãnh đạo, chỉ đạo chiến tranh trực tiếp của Trung ương Đảng, Tổng Quân uỷ, Bộ Tổng tư lệnh; sự tham gia tích cực và chủ động, sự đóng góp công sức lớn lao của nhân dân cả nước nói chung, của nhân dân Tây Bắc, trong đó có tính Lai Châu nói riêng.

Cục diện cuộc chiến tranh ở thời điểm cuối năm 1953, đầu năm 1954 ngày càng khẳng định thế và quyền chủ động chiến lược của quân và dân ta, thế bị động và không lối thoát của đội quân viễn chinh Pháp. Điều này chứng tỏ sự lường định phương hướng chuyển biến của tình hình cuộc chiến, mà Bộ Chính trị, Trung ương Đảng ta đã nhìn thấy trước là hoàn toàn chính xác; thể hiện sự sắc sảo, sáng tạo trong chỉ đạo chiến tranh của Đảng ta.

Từ chiến cuộc Đông Xuân 1953-1954, mà đỉnh cao là chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ 50 năm trước đây, chúng ta hôm nay có thêm điều kiện nhìn lại để thấy rõ hơn, đầy dủ hơn, sâu sắc hơn tầm vóc và ý nghĩa của sự kiện lịch sử trọng đại này, qua đó, rút ra những bài học thiết thực nhằm vận dụng vào thực tiễn công cuộc bảo vệ đất nước Việt Nam ngày nay.

Trước hết, đó là sự sáng suổt, nhạy bén, quyết đoán trong chỉ đạo chiến tranh của Trung ương Đảng, Tổng Quân uỷ, Bộ Tổng tư lệnh trong giai đoạn cuối của cuộc kháng chiến. Nói cách khác đó là tầm nhìn rộng lớn, sâu sắc và sáng tạo của Đảng ta, đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh khi hạ quyết tâm mở cuộc tiến công chiến lược Đông Xuân 1953-1954 và Chiến dịch Điện Biên Phủ. Đây là lần đầu tiên trong chín năm kháng chiến, quân và dân ta, dưới sự lãnh đạo của Đảng, đã tổ chức và thực hành một chiến dịch tiến công tiêu diệt xuất sắc, một trận đánh quân địch trong công sự vững chắc, quy mô lớn, hiệp đồng binh chủng có tính chất trận địa, tiêu diệt gọn một tập đoàn cứ điểm kiên cố và mạnh nhất của địch. Điện Biên Phủ được coi là trận đánh tiêu diệt lớn nhất trong lịch sử chiến tranh và đấu tranh vũ trang của các dân tộc thuộc địa chống lại đội quân xâm lược nhà nghề của thực dân, đế quốc.

Có được thắng lợi đó chính là nhờ Bộ Thống soái tối cao đã kịp thời nhận biết và sáng suốt đánh giá tình hình mới nảy sinh khi hàng tiểu đoàn lính dù thiện chiến của Pháp nhảy dù xuống Điện Biên Phủ. Tình thế chiến lược mới xuất hiện khi quân Pháp tiếp tục dồn lực lượng đến vùng thung lũng rộng lớn nhất vùng Tây Bắc này, nhằm biến nơi đây thành tập đoàn cứ điểm thu hút chủ lực của ta tới giao chiến.

Như vậy, chỉ sau 16 ngày, tính từ ngày 20-11-1953, trong điều kiện thông tin, trinh sát còn hạn chế, nhưng Bộ Chính trị Trung ương Đảng, Tổng Quân uỷ, Bộ Tổng tư lệnh đã quyết định chọn Điện Biên Phủ làm điểm quyết chiến chiến lược, nhanh chóng điều các đại đoàn chủ lực đang đứng chân ở khu vực Phú Thọ, Yên Bái tiến lên Tây Bắc, thành lập Bộ Chỉ huy chiến dịch và Hội đồng Cung cấp mặt trận. Đây là một quyết định nhanh chóng, đúng đắn và rất táo bạo của Bộ Thống soái khi nhận thấy tình thế và thời cơ mới xuất hiện, cần phải kịp thời đánh giá và nắm lấy nhằm đưa cuộc kháng chiến nhảy vọt đến thắng lợi cuối cùng.

Thực tế đã chứng minh sự chỉ đạo chiến tranh của Đảng vào giai đoạn cuối của cuộc kháng chiến, khi quyết định mở Chiến dịch Điện Biên Phủ, là hoàn toàn đúng đắn, nhạy bén và sáng tạo. Sự chỉ đạo này nhằm tạo ra và đã đạt được trong thực tế, bước phát triển nhảy vọt về so sánh lực lượng, về cục diện chiến trường để tiến tới giành thắng lợi cuối cùng khi mà lực lượng quân Pháp ở Việt Nam đã tăng lên mức cao nhất, viện trợ quân sự của Mỹ cho Pháp chiếm tỷ lệ lớn nhất trong tổng chi phí chiến tranh.

Thứ hai, đó là năng lực chỉ đạo và tổ chức thực hiện của các cấp, các ngành, các đơn vị, địa phương trong cả nước nhằm hiện thực quyết tâm chiến lược của Trung ương Đảng.

Căn cứ vào quyết tâm chiến lược đã được xác định, Trung ương Đảng, Tổng Quân uỷ và Bộ Tổng tư lệnh đã khẩn trương chỉ đạo toàn quân, toàn dân, các ban ngành, đoàn thể, các địa phương trong cả nước huy động toàn lực sức mạnh vật chất và sức mạnh tinh thần với khẩu hiệu "Tất cả cho Điện Biên Phủ", "Tất cả để chiến thắng". Điều này khẳng định năng lực tổ chức thực tiễn xuất sắc, sáng tạo của Đảng, của Tổng Quân uỷ và Bộ Tổng tư lệnh trong toàn bộ cuộc kháng chiến nói chung, trong Chiến dịch Điện Biên Phủ nói riêng. Đây là nhân tố có tính chất quyết định thắng lợi của cuộc kháng chiến.

Trong suốt thời gian diễn ra Chiến dịch Điện Biên Phủ, tinh thần quyết tâm chiến đấu, lòng dũng cảm hy sinh quên mình, trí thông minh sáng tạo vượt qua mọi khó khăn gian khổ của toàn thể cán bộ, chiến sĩ, dân công, thanh niên xung phong tại mặt trận và các chiến trường phối hợp trong cả nước đóng vai trò cực kỳ quan trọng vào thắng lợi của chiến dịch.

Chiến dịch Điện Biên Phủ thắng lợi đánh dấu sự phát triển vượt bậc về chỉ đạo nghệ thuật quân sự trong giai đoạn kết thúc chiến tranh của Đảng ta. Trong Đông Xuân 1953-1954 và Chiến dịch Điện Biên Phủ, nghệ thuật quân sự của ta đã giải quyết thành công nhiều vấn đề về chiến lược, nghệ thuật chiến dịch và chiến thuật.

Về chiến lược, đó là nghệ thuật nắm vững tư tưởng chiến lược tiến công, phát huy quyền chủ động tiến công chiến lược của ta, phá tan âm mưu giành lại quyền chủ động của kẻ thù; đó là nghệ thuật kết hợp chặt chẽ việc đẩy mạnh chiến tranh du kích vùng sau lưng địch với phát triển chiến tranh chính quy, hình thành những quả đấm mạnh, đánh những đòn quyết định. Đó là nghệ thuật về hạ quyết tâm và chọn hướng tiến công chiến lược, mục tiêu tiến công và thời gian tiến công, chọn địa điểm quyết chiến chiến lược một cách chính xác. Đó là nghệ thuật về tổ chức và phát huy sức mạnh tổng hợp của chiến tranh nhân dân để giành toàn thắng cho cuộc tiến công chiến lược và trận quyết chiến chiến lược cuối cùng.

Về nghệ thuật chiến dịch, đó là xác định phương châm và cách đánh chiến dịch đúng đắn, tạo ưu thế tuyệt đối về binh lực, hoả lực cho từng trận đánh chắc thắng, trong điều kiện lực lượng chiến dịch của ta không hơn địch nhiều về binh lực, kém địch về hoả lực; đó là việc tác chiến hiệp đồng binh chủng, xây dựng trận địa tiến công và bao vây, tạo và nắm thời cơ chuyển đợt chiến dịch, phát triển chiến thuật đánh công sự vững chắc; về tổ chức hậu cần chiến dịch...

Về chiến thuật, đó là sự vận dụng thành công hình thức chiến đấu trận địa có bộ binh, pháo binh hiệp đồng, vừa vây lấn bằng hầm hào vừa tiến công, đánh chiếm các cứ điểm, các cụm cứ điểm có công sự vững chắc rồi nhanh chóng chuyển sang phòng ngự, trụ bám đánh quân địch phản kích và tạo bàn đạp đánh chiếm mục tiêu tiếp theo. Hình thức tác chiến kết hợp chặt chẽ giữa tiến công và phòng ngự ở Điện Biên Phủ là một hình thức tác chiến mới, cho thấy sự phát triển linh hoạt, sáng tạo, đưa đến hiệu quả cao của chiến thuật của quân đội ta.

Như vậy, nghệ thuật quân sự của chiến tranh nhân dân Việt Nam đã được phát triển sáng tạo đến đỉnh cao trong Chiến dịch Điện Biên Phủ, trở thành nhân tố trực tiếp nhất đánh bại biện pháp chiến lược, nỗ lực chiến tranh cao nhất và cuối cùng của thực dân Pháp, can thiệp Mỹ, buộc chúng phải chấp nhận thất bại, chấm dứt cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam.

Tác động, ảnh hưởng của thất bại ở Điện Biên Phủ là vô cùng lớn và mang tính quyết định đối với Pháp nếu biết rằng trên 16.000 quân Pháp bị tiêu diệt, bị thương, bị bắt sống tại Điện Biên Phủ chỉ chiếm khoảng 9% tổng số binh lực Pháp trên toàn chiến trường Đông Dương lúc đó. Điều này đúng với sự thú nhận của một viên sĩ quan cao cấp Pháp, Đại tá Snaiđơ (Schneider) về thất bại của Pháp ở Điện Biên Phủ: "Kết quả sự thất bại này và của việc đàm phán tiếp đó cần được coi là sự bại trận của toàn bộ thế giới phương Tây. Bởi vì đây là chiến thắng của cộng sản đối với tư bản, của người dân thuộc địa này đối với thực dân".
__________________________________________________
1. Võ Liên Bằng: Phương pháp vận trù học nghiên cứu kế hoạch phân bố quân lực trong cuộc tiến công chiến lược Đông Xuân 1953-1954, Tạp chí Lịch sử Quân sự, số7-1984, tr.18.
Logged
chuongxedap
Đại tá
*
Bài viết: 13138



« Trả lời #197 vào lúc: 21 Tháng Tư, 2022, 12:38:36 pm »


NHỮNG BÀI HỌC THÀNH CÔNG CỦA CÔNG TÁC ĐẢNG, CÔNG TÁC CHÍNH TRỊ TRONG CHIẾN DỊCH ĐIỆN BIÊN PHỦ VÀ SỰ VẬN DỤNG, PHÁT TRIỂN TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY1


Trung tướng PHÙNG KHẮC ĐĂNG
Phó Chủ nhiệm Tổng cục Chính trị Quân đội nhân dân Việt Nam

Cách đây nửa thế kỷ, dưới sự lãnh đạo của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh, quân và dân ta đã làm nên chiến thắng Điện Biên Phủ "lừng lẫy năm châu, chấn động địa cầu". Chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ (5-1954) đã đưa đến việc ký kết Hiệp định Giơnevơ (7-1954), kết thúc thắng lợi cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược của dân tộc ta, mở đầu sự sụp đổ của chủ nghĩa thực dân cũ, tạo ra vị thế mới của Việt Nam trên thế giới. Chiến thắng Điện Biên Phủ mang tầm vóc lịch sử và ý nghĩa thời đại sâu sắc.

Tiến hành công tác đảng, công tác chính trị là một nguyên tắc trọng yếu trong xây dựng quân đội ta về chính trị, cơ sở nâng cao sức mạnh chiến đấu và chiến thắng của quân đội2. Nói về vai trò của công tác chính trị, V.I.Lênin chỉ rõ: "... Ở đâu mà công tác chính trị trong quân đội, công tác của các chính uỷ làm được chu đáo nhất, thì ở đấy không hề có tình trạng lỏng lẻo trong quân đội, quân đội giữ gìn được trật tự tốt hơn, và tinh thần của họ cũng cao hơn; ở đấy thu được nhiều thắng lợi hơn"3. Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng khẳng định: "Phải tăng cường công tác chính trị... tăng cường sự lãnh đạo của Đảng trong quân đội"4.

Thực tiễn cuộc chiến đấu trong Chiến dịch lịch sử Điện Biên Phủ đã chứng tỏ sự thành công của công tác đảng, công tác chính trị - một nhân tố hết sức quan trọng làm nên chiến thắng Điện Biên Phủ vĩ đại. Công tác đảng, công tác chính trị đã thấu triệt chủ trương, phương châm chỉ đạo, kế hoạch tác chiến chiến lược, chiến dịch của Trung ương Đảng và Hồ Chủ tịch, của Tổng Quân uý - Bộ Tổng Tư lệnh, xác định mục tiêu, nhiệm vụ, yêu cầu, nội dung, hình thức, phương pháp, biện pháp để tiến hành tốt công tác đảng, công tác chính trị trong từng đợt chiến đấu, từng trận đánh, từng tình huống của chiến dịch. Sự phát triển toàn diện và những thành công nổi bật của công tác đảng, công tác chính trị tập trung ở những vấn đề cơ bản sau:

Một là, công tác đảng, công tác chính trị đã được đặt lên hàng đầu và đặc biệt coi trọng giáo dục chính trị, lãnh đạo tư tưởng đối với các lực lượng tham gia chiến dịch, trọng tâm là đội ngũ cán bộ mà hạt nhân là cấp ủy các cấp, nhằm xây dựng và giữ vững quyết tâm chiến đấu, ý chí quyết chiến, quyết thắng.

Điều đó thể hiện sự phát triển có chiều sâu, là thành công nổi bật nhất của công tác đảng, công tác chính trị trong Chiến dịch Điện Biên Phủ.

Trước hết, công tác đảng, công tác chính trị đã tập trung giải quyết tư tưởng ngại gian khổ, sợ ác liệt hy sinh xuất hiện ở bộ đội. Đây là cuộc đấu tranh tư tưởng gay go, quyết liệt ngay từ đầu khi bước vào chiến dịch. Để tiêu diệt địch trong Chiến dịch Điện Biên Phủ, các đại đoàn chủ lực của ta phải rời đồng bằng và trung du, nơi có nhiều thuận lợi, để hành quân lên Tây Bắc xa xôi, hiểm trở, đầy gian nan, nguy hiểm. Mỗi cán bộ, chiến sĩ phải đấu tranh và chiến thắng chính mình trước tư tưởng ngại khó, ngại khổ. Phát hiện đúng vấn đề tư tưởng, công tác tư tưởng được tiến hành tích cực, chủ động, liên tục, bền bỉ từ trên xuống dưới, từ trong Đảng ra đến quần chúng chiến sĩ. Nhờ đó tư tưởng ngại khó, ngại khổ đã từng bước được giải quyết. Bộ đội chấp hành mệnh lệnh hành quân nghiêm túc, khẩn trương, bí mật lên Tây Bắc, hoàn thành tốt nhiệm vụ giải phóng Lai Châu, bao vây Mường Thanh, tạo thế cho chiến cuộc Đông Xuân 1953-1954 và trong Chiến dịch Điện Biên Phủ.

Đặc biệt, công tác đảng, công tác chính trị đã tập trung tiến hành giáo dục chính trị, lãnh đạo tư tưởng một cách hết sức sâu rộng nhằm quán triệt sâu sắc ý nghĩa to lớn của Chiến dịch Điện Biên Phủ, nhất là quán triệt tốt và thông suốt việc chuyển phương châm tác chiến từ "đánh nhanh, thắng nhanh" sang "đánh chắc, tiến chắc".

Sự thay đổi phương châm tác chiến chiến dịch từ "đánh nhanh, thắng nhanh" sang "đánh chắc, tiến chắc" là sự thay đổi tư tưởng, tư duy quân sự và tổ chức chiến dịch, chiến thuật. Để giải quyết vấn đề khó khăn phức tạp trên đây, công tác tư tưởng được các cấp uỷ và cơ quan chính trị từ Bộ Chỉ huy chiến dịch đến các đơn vị cơ sở tập trung tiến hành, kiên trì làm chuyển biến nhận thức tư tưởng ở từng cấp. Nhờ sự nỗ lực giáo dục, thuyết phục, đi sâu vào đội ngũ cán bộ, nhất là cán bộ chủ chốt, nên tư tưởng phân vân, hoài nghi vướng mắc giữa hai phương châm tác chiến chiến dịch đã được giải quyết. Phương châm "đánh chắc, tiến chắc" đã được nhận thức đúng đắn, sâu sắc, triển khai thực hiện khẩn trương không chỉ ở đơn vị bộ binh mà ở tất cả các đơn vị binh chủng kỹ thuật trang bị nặng, cơ động chiếm lĩnh trận địa khó khăn như pháo binh mặt đất, cao xạ...

Việc Đại đoàn 308, sau khi hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ chiến đấu ở chiến trường Lào, kịp thời cơ động về tham gia chiến dịch trong điều kiện rất khẩn trương, quyết liệt, việc bộ đội ta kéo hàng chục khẩu trọng pháo 105 ly, nặng hàng chục tấn vượt suối sâu, đèo cao, bí mật vào chiếm lĩnh trận địa ở lưng đồi để áp sát các mục tiêu đạt hiệu quả cao nhất trong chiến đấu... là sự minh chứng hùng hồn cho thành công của công tác đảng, công tác chính trị trong giải quyết tư tưởng khi chuyển phương châm tác chiến sang "đánh chắc, tiến chắc", giành thắng lợi trong chiến dịch lịch sử.

Công tác đảng, công tác chính trị cũng tiến hành đợt sinh hoạt chính trị sâu rộng từ trong Đảng đến quần chúng, một bầu không khí kiểm thảo phê bình nghiêm khắc nhưng chân thành, trung thực và thẳng thắn, cấp trên làm gương cho cấp dưới, lắng nghe tiếp thu ý kiến của nhau, nhất là của cấp dưới. Cùng với tiến hành sinh hoạt chính trị tư tưởng là hoạt động thông tin tuyên truyền, cổ động chiến trường, sinh hoạt văn hoá, văn nghệ được tổ chức ngay tại trận địa. Phong trào thi đua giết giặc lập công cổ vũ mạnh mẽ khí thế quyết chiến, quyết thắng của bộ đội.

Công tác đảng, công tác chính trị được tiến hành liên tục, bền bỉ. sâu rộng, công phu, trong điều kiện hết sức khó khăn, phức tạp, có hiệu quả cao. Chính sự phát triển toàn diện và thành công của nó là một nhân tố quan trọng tạo nên sức mạnh tổng hợp to lớn, đưa tới thắng lợi vang dội của chiến cuộc Đông Xuân 1953-1954, mà đỉnh cao là Chiến dịch Điện Biên Phủ.
_____________________________________________________
1. Tỉnh uỷ, Hội đồng nhân dân, Uỷ ban nhân dân tỉnh Điện Biên - Bộ Tư lệnh Quân khu 2 - Viện Lịch sử Quân sự Việt Nam: Chiến thắng Điện Biên Phủ - Mốc vàng lịch sử, chân lý thời đại, Nxb. Quân đội nhân dân, Hà Nội, 2004.
2. Xem Tổng cục Chính trị - Những vấn đề lý luận và thực tiễn xây dựng quân đội về chính trị trong giai đoạn cách mạng mới, Nxb. Quân đội nhân dân, Hà Nội, 1999, tr.14.
3. V.I.Lênin: Toàn tập, Nxb. Tiến bộ, Mátxcơva, 1977, t.39, tr.66.
4. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.7, tr.14.
Logged
chuongxedap
Đại tá
*
Bài viết: 13138



« Trả lời #198 vào lúc: 21 Tháng Tư, 2022, 12:40:57 pm »


Hai là, công tác đảng, công tác chính trị thường xuyên coi trọng việc xây dựng, củng cố, kiện toàn tổ chức, bảo đảm giữ vững và tăng cường hiệu lực lãnh đạo, chỉ huy trong điều kiện chiến đấu gay go ác liệt, kéo dài.

Công tác đảng, công tác chính trị tập trung thường xuyên, trước hết vào việc xây dựng, củng cố, kiện toàn và nâng cao năng lực lãnh đạo của các tổ chức đảng để thực hiện xuất sắc nhiệm vụ chính trị của chiến dịch. Do đó, năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của hệ thống tổ chức đảng ở các đơn vị thực sự vững vàng, quyết đoán, dám chịu trách nhiệm trước nhân dân và quân đội. Đó là một trong những nhân tố có ý nghĩa quyết định, bảo đảm cho thắng lợi ở Điện Biên Phủ.

Đi đôi với việc chăm lo củng cố, kiện toàn tổ chức, công tác đảng hết sức chú trọng rèn luyện, bồi dưỡng, phát triển đội ngũ đảng viên trong thực tế chiến đấu; tiến hành kết nạp đảng viên mới ngay trên chiến trường và sau mỗi trận đánh, mỗi đợt chiến đấu. Tính đến hết chiến dịch, các đơn vị đã kết nạp được 1.281 đảng viên mới. Nhờ có nguồn bổ sung ngay trong quá trình chiến đấu nên tỷ lệ đảng viên ở các đơn vị được giữ vững, đội ngũ cán bộ, đảng viên luôn phát huy tốt vai trò nòng cốt, tiền phong, gương mẫu, thu hút quần chúng dũng cảm chiến đấu, tích cực khắc phục khó khăn, chịu đựng gian khổ trong chiến đấu dài ngày.

Công tác đảng, công tác chính trị gắn chặt việc củng cố, kiện toàn cấp uỷ với củng cố kiện toàn tổ chức chỉ huy, bảo đảm duy trì liên tục việc tổ chức chiến đấu và bảo đảm chiến đấu trong quá trình chiến dịch.

Do nắm vững nhiệm vụ tác chiến Đông Xuân 1953-1954, mục đích, ý nghĩa đặc biệt của Chiến dịch Điện Biên Phủ - chiến dịch quyết chiến chiến lược, nên ngay trong quá trình chuẩn bị, các cấp, các đơn vị đã đặc biệt coi trọng vấn đề cán bộ, có kế hoạch dự phòng thay thế, trên cơ sở đó, phân công cấp uỷ và cán bộ có trách nhiệm bồi dưỡng nguồn kế cận trong đội ngũ đảng viên và những đồng chí nhân cốt có triển vọng. Do chủ động dự kiến và đưa vào kế hoạch từ trước chiến dịch, được chú ý rèn luyện thử thách qua thực tế chiến đấu nên đội ngũ cán bộ luôn đáp ứng được yêu cầu, nhiệm vụ trong mọi tình huống.

Nét nổi bật của công tác đảng, công tác chính trị là sự kết hợp chặt chẽ giữa công tác tư tưởng với công tác tổ chức. Điều đó đã góp phần tạo nên sức mạnh tổng hợp, bảo đảm cho các lực lượng tham gia chiến dịch vượt qua thử thách quyết liệt để chiến đấu và chiến thắng.

Ba là, lãnh đạo, chỉ đạo chặt chẽ công tác địch vận, làm rệu rã tinh thần, góp phần quan trọng đánh sập ý chí chiến đấu của binh lính địch ở tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ.

Ngay sau khi đánh chiếm cứ điểm Him Lam và đồi Độc Lập, Bộ Chỉ huy chiến dịch đã chủ trương địch vận bằng việc chủ động đề nghị cả hai bên đều tạm ngừng giao tranh để phía quân Pháp được phép đến nhận thương binh và xác binh lính Pháp bị tử trận về cứu chữa và chôn cất. Chủ trương đó của ta đặt đối phương vào thế bị động, lúng túng, nội bộ chia rẽ, phân hoá sâu sắc. Kết hợp chặt chẽ, nhịp nhàng giữa mũi tiến công quân sự và mũi tiến công binh vận, quân ta đã dội hoả lực lên căn cứ Bản Kéo, tạo ra sức ép tâm lý, buộc địch ở đây phải kéo cờ trắng ra hàng. Khi ta bao vây phân khu Mường Thanh, khống chế không phận, buộc địch phải thả dù tiếp tế, có lần ta cũng cho phép tướng Đờ Cát được nhận hòm hàng cá nhân, trong đó có món quà mà người vợ gửi cho. Trong quá trình chiến dịch, ta còn sử dụng các tổ địch vận nhỏ lẻ tiềm nhập cứ điểm, phát truyền đơn, dùng loa gọi hàng; đồng thời đẩy mạnh tiến công tiêu diệt từng cụm cứ điểm của địch, đập tan các cuộc phản kích điên cuồng của chúng, khép chặt vòng vây, gây nỗi kinh hoàng, làm rối loạn hàng ngũ địch. Công tác địch vận đã thực sự là một mũi tiến công được triển khai đúng lúc, có hiệu quả, đóng góp vào sự toàn thắng của Chiến dịch Điện Biên Phủ.

Bốn là, tổ chức, chỉ đạo chặt chẽ việc chấp hành chính sách thương binh, liệt sĩ, tù, hàng binh trong chiến đấu, góp phần cổ vũ, động viên bộ đội, giáo dục cảm hoá binh sĩ địch.

Được sự lãnh đạo, chỉ đạo chặt chẽ của cấp uỷ, thủ trưởng các cấp, công tác thương binh, tử sĩ đã được bộ đội ta quán triệt và thực hiện tận tình, chu đáo. Mặc dù chiến dịch diễn ra dài ngày, rất ác liệt, nhưng thương, bệnh binh được cứu chữa kịp thời. Việc chăm sóc, nuôi dưỡng, chữa trị cho thương binh ở hoả tuyến và ở trung tuyến được ngành quân y thực hiện tốt theo phương châm: sớm hồi phục sức khoẻ, mau lành lặn vết thương để tiếp tục chiến đấu. Công tác thương binh, tử sĩ trong Chiến dịch Điện Biên Phủ đã được tiến hành chu đáo bằng tình thương, trách nhiệm của mỗi cán bộ, chiến sĩ. Điều đó đã động viên bộ đội dũng cảm chiến đấu trên chiến trường.

Đối với tù, hàng binh cũng được quan tâm đối xử rất nhân đạo, thể hiện lòng nhân nghĩa vị tha đã thành truyền thống đạo lý của dân tộc. Với số quân địch bị bắt và đầu hàng tại trận địa mà số lượng lên tới trên 12.000 người, đủ cả tướng, tá và binh sĩ, trong đó có nhiều người bị thương, đau ốm, đã được ta chạy chữa, nuôi dưỡng, bảo đảm tính mạng và sức khoẻ cho họ. Hành động cao thượng này của bộ đội ta đối với tù, hàng binh trong và sau Chiến dịch Điện Biên Phủ đã thức tỉnh lương tâm của nhiều binh sĩ trong quân đội viễn chinh Pháp. Sau này, khi họ trở về gia đình và Tổ quốc, vẫn còn in đậm trong tâm trí về Bác Hồ, về Chính phủ kháng chiến và Quân đội nhân dân Việt Nam.

Năm là, công tác bảo ưệ chính trị nội bộ, giữ gìn bí mật an toàn, bảo đảm phòng, chống có hiệu quả mọi hành động xâm nhập phá hoại của địch được tiến hành liên tục, hiệu quả, góp phần vào thắng lợi to lớn của chiến dịch.

Nhận rõ tính chất đặc biệt hệ trọng của Chiến dịch Điện Biên Phủ, công tác bảo vệ nội bộ, giữ gìn bí mật an toàn tuyệt đối về chủ trương, nhiệm vụ của chiến dịch và mọi hành động của cán bộ, chiến sĩ trong quá trình chuẩn bị chiến dịch đến khi nổ súng tiến công, phát triển chiến dịch và kết thúc toàn thắng, đều giữ được bí mật, bất ngờ về chiến lược, chiến dịch, thậm chí cả trong chiến đấu. Ngay những hoạt động lớn của ta như thay đổi phương châm tác chiến; đưa Đại đoàn 308 hành quân sang tiêu diệt địch ở Thượng Lào rồi lại quay về tham gia chiến dịch; kéo pháo vào rồi lại kéo pháo ra, xây dựng trận địa mới... mà cho đến giờ phút cuối trước khi chiến dịch mở màn, địch vẫn đinh ninh là ta không đánh Điện Biên Phủ. Một chiến dịch quy mô lớn nhất trong cuộc chiến tranh chống thực thực dân Pháp xâm lược mà cơ quan mật vụ (Phòng Nhì) của quân viễn chinh hầu như bị bưng tai, bịt mắt để đối phương giáng đòn quyết định dẫn tới kết cục thảm bại, là thành công lớn của ta trong Đông Xuân 1953-1954, hội tụ ở Chiến dịch Điện Biên Phủ.

Những bài học thành công của công tác đảng, công tác chính trị trong Chiến dịch Điện Biên Phủ đã được kế thừa và phát huy lên một tầm cao mới trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, như trong Chiến dịch "Điện Biên Phủ trên không" đánh thắng cuộc tập kích chiến lược bằng pháo đài bay B52 của không lực Hoa Kỳ cuối tháng 12-1972; trong cuộc Tổng tiến công và nổi dậy giành toàn thắng mùa Xuân 1975... Đó là sự phát triển rực rỡ những bài học, kinh nghiệm quý báu của công tác đảng, công tác chính trị chiến dịch thời kỳ kháng chiến chống Pháp mà đỉnh cao là Chiến dịch lịch sử Điện Biên Phủ.

Những bài học thành công của công tác đảng, công tác chính trị trong tác chiến chiến dịch, nhất là chiến dịch quyết chiến chiến lược Điện Biên Phủ đã khẳng định chân lý: sự lãnh đạo của Đảng là nhân tố quyết định sự trưởng thành, chiến thắng của quân đội ta; tính đúng đắn và hiệu lực của nguyên tắc, cơ chế lãnh đạo của Đàng đối với Quân đội nhân dân Việt Nam; vai trò to lớn của công tác đảng, công tác chính trị - linh hồn, mạch sống của quân đội.

Hiện nay, nhiệm vụ quốc phòng, an ninh bảo vệ Tổ quốc trong giai đoạn cách mạng mới đã được Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX chỉ rõ: "Bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa là bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ, bảo vệ an ninh quốc gia, trật tự an toàn xã hội và nền văn hoá; bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân và chế độ xã hội chủ nghĩa; bảo vệ sự nghiệp đổi mới và lợi ích quốc gia dân tộc"1. "Tăng cường quốc phòng, giữ vững an ninh quốc gia và toàn vẹn lãnh thổ là nhiệm vụ trọng yếu thường xuyên của Đảng, Nhà nước và của toàn dân, trong đó Quân đội nhân dân và Công an nhân dân là lực lượng nòng cốt"2.
_________________________________________________
1, 2. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2001, tr.117.
Logged
chuongxedap
Đại tá
*
Bài viết: 13138



« Trả lời #199 vào lúc: 21 Tháng Tư, 2022, 12:41:39 pm »


Quán triệt phương hướng, nhiệm vụ quốc phòng an ninh trong giai đoạn cách mạng mới, lực lượng vũ trang nhân dân mà nòng cốt là Quân đội nhân dân phải ra sức xây dựng nền quốc phòng toàn dân, thế trận chiến tranh nhân dân; không ngừng nâng cao trình độ, khả năng sẵn sàng chiến đấu nhằm đánh thắng mọi loại hình xâm lược của các thế lực thù địch, giữ vững hoà bình, ổn định đất nước. Vận dụng và phát triển những bài học thành công của công tác đảng, công tác chính trị trong Chiến dịch Điện Biên Phủ và trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp, chống Mỹ trong giai đoạn cách mạng mới, công tác đảng, công tác chính trị cần tập trung vào các nội dung chủ yếu sau đây:

1. Thường xuyên quán triệt sâu sắc đường lối chính trị, đường lối quốc phòng, quân sự của Đảng, đặt lên hàng đầu việc xây dựng quân đội vững mạnh về chính trị, làm cơ sở nâng cao sức mạnh tổng hợp, hoàn thành thắng lợi mọi nhiệm vụ trong mọi tinh huống, không bị bất ngờ.

Đây là yêu cầu cơ bản nhất của công tác đảng, công tác chính trị trong giai đoạn hiện nay. Phải chăm lo giáo dục chính trị tư tưởng cho cán bộ, chiến sĩ, làm cho toàn quân nhất trí cao với đương lối, quan điểm và tin tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng, kiên định mục tiêu con đường xã hội chủ nghĩa, hiểu rõ bản chất, âm mưu thủ đoạn chống phá cách mạng Việt Nam của các thế lực thù địch, nhận rõ đối tượng tác chiến của quân đội. Công tác đảng, công tác chính trị phải có tính chủ động rất cao, thường xuyên bám sát đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước, đồng thời phải nhanh nhạy với mọi diễn biến của tình hình, nắm bắt những vấn đề mới, chăm lo xây dựng đội ngũ cán bộ, chiến sĩ có bản lĩnh chính trị vững vàng, ý chí quyết tâm chiến đấu cao. Chuẩn bị chính trị - tinh thần cho bộ đội càng sát tình huống chiến đấu bao nhiêu thì càng làm cho cán bộ, chiến sĩ chủ động, vững vàng đối phó thắng lợi trong mọi tình huống. Mặt khác, phải quan tâm giáo dục cho bộ đội tinh thần tự lực, tự cường, làm chủ vũ khí kỹ thuật, phát huy nhân tố con người, giải quyết đúng mối quan hệ giữa con người và vũ khí, kiên quyết đấu tranh khắc phục quan điểm đề cao quá đáng vai trò vũ khí, hạ thấp nhân tố con người.

2. Thường xuyên xây dựng, nâng cao sức chiến đấu, năng lực lãnh đạo của các tổ chức đảng - nhân tố có ý nghĩa trực tiếp quyết định thắng lợi trong chiến đấu.

Thước đo năng lực lãnh đạo của các tổ chức đảng là ở hiệu suất, kết quả hoàn thành nhiệm vụ của đơn vị. Điều đó được thể hiện trước hết ở năng lực quán triệt đường lối của Đảng, nhiệm vụ trên giao, từ đó quyết định chủ trương, biện pháp lãnh đạo thực hiện thắng lợi mọi nhiệm vụ trong mọi tình huống.

Để nâng cao hiệu quả lãnh đạo của các tổ chức đảng, phải chăm lo bồi dưỡng nâng cao trình độ năng lực lãnh đạo của cấp uỷ và các cấp ủy viên. Cùng với nâng cao chất lượng lãnh đạo, cần xây dựng tổ chức chỉ huy vững mạnh, ngang tầm nhiệm vụ. Đây là nhiệm vụ quan trọng, thường xuyên của công tác đảng, công tác chính trị.

3. Đẩy mạnh các mặt hoạt động công tác đảng, công tác chính trị; chấp hành nghiêm kỷ luật và các chính sách.

Công tác đảng, công tác chính trị cần tập trung giáo dục cho bộ đội nhận thức sâu sắc ý nghĩa, tầm quan trọng của kỷ luật quân đội, pháp luật nhà nước, các chính sách, từ đó xây dựng ý thức tự giác chấp hành. Biểu hiện tập trung nhất trong chấp hành kỷ luật là chấp hành nghiêm mệnh lệnh của người chỉ huy, dù trong tình huống khó khăn, ác liệt thế nào cũng phải tìm mọi cách khắc phục và thực hiện cho bằng được.

Trong quá trình thực hiện, các tổ chức đảng, đội ngũ cán bộ, đảng viên các cấp thường xuyên theo dõi, động viên bộ đội chấp hành nghiêm, kịp thời phát hiện uốn nắn những biểu hiện vi phạm, xử lý nghiêm minh, đồng thời động viên khen thưởng kịp thời. Phát huy vai trò gương mẫu của đội ngũ cán bộ, đảng viên ở các cấp trong việc chấp hành kỷ luật và chính sách, là tấm gương cho bộ đội noi theo.

4. Tăng cường công tác bảo vệ chính trị nội bộ, bảo đảm an toàn tuyệt đối về chính trị, tạo sự thống nhất cao trong toàn quân. Đây là cơ sở để phát huy nhân tố chính trị tinh thần, đấu tranh chống phi chính trị hoá quân đội, chống "diễn biến hòa bình '' và chống chiến tranh xâm lược.

Bảo vệ chính trị nội bộ, ngăn chặn và đập tan chiến tranh tâm lý, gián điệp và các hoạt động tình báo của địch là nhiệm vụ, là nội dung quan trọng của công tác đảng, công tác chính trị.

Công tác bảo vệ chính trị nội bộ tập trung quản lý chặt chẽ các tổ chức và từng cá nhân, bảo đảm đơn vị vững vàng, kiên định về chính trị tư tưởng, trong sạch về tổ chức.

Trong tình hình phức tạp hiện nay, công tác bảo vệ chính trị nội bộ có yêu cầu ngày càng cao và phải tập trung chống địch phá hoại về chính trị - tư tưởng, về quan điểm, chống phi chính trị hoá quân đội và chống tự diễn biến. Đây là vấn đề sinh mệnh chính trị của tổ chức đảng, của đơn vị và cán bộ, đảng viên. Mặt khác, cần phát huy mạnh mẽ vai trò của quần chúng trong đơn vị, hiệp đồng chặt chẽ với các cơ quan chức năng, phối hợp với cấp uỷ, chính quyền địa phương để xây dựng địa bàn an toàn, đơn vị an toàn tuyệt đối, lãnh đạo chỉ đạo thực hiện nghiêm ngặt các quy định về an ninh chính trị, bí mật phòng gian, quản lý tổ chức và con người,...

5. Công tác đảng, công tác chính trị phát huy sức mạnh tổng hợp, xây dựng nền quốc phòng toàn dân, quân đội nhân dân trong điều kiện lịch sử mới.

Trong sự nghiệp xây dựng nền quốc phòng toàn dân, Quân đội nhân dân cần đặc biệt coi trọng củng cố và tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân, tăng cường hơn nữa sự gắn bó máu thịt giữa dân với Đảng, giữa quân đội với nhân dân; động viên sức mạnh toàn dân vào công cuộc củng cố quốc phòng, bảo vệ Tổ quốc.

Chiến thắng Điện Biên Phủ đã đi vào lịch sử hào hùng của dân tộc. Chiến công vang dội cũng như thành công và bài học công tác đảng, công tác chính trị của trận quyết chiến chiến lược lịch sử này vẫn còn sống mãi với thời gian. Kỷ niệm 50 năm chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ, chúng ta trân trọng nghiên cứu, kế thừa và phát triển lên tầm cao mới những bài học kinh nghiệm quý báu ấy nhằm nâng cao hiệu lực của công tác đảng, công tác chính trị, xây dựng quân đội vững mạnh về chính trị, làm cơ sở xây dựng quân đội vững mạnh toàn diện theo hướng cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại, đáp ứng yêu cầu xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa trong thời kỳ mới.
Logged
Trang: « 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 16 17 18 19 20 21 22 23 24 25 26 27 28 29 30 31 32 33 34 »   Lên
  In  
 
Chuyển tới:  

Powered by MySQL Powered by PHP Powered by SMF 1.1.21 | SMF © 2006-2008, Simple Machines

Valid XHTML 1.0! Valid CSS! Dilber MC Theme by HarzeM