Lịch sử Quân sự Việt Nam
Tin tức: Lịch sử quân sự Việt Nam
 
*
Chào Khách. Bạn có thể đăng nhập hoặc đăng ký. 20 Tháng Tư, 2024, 03:29:34 am


Đăng nhập với Tên truy nhập, Mật khẩu và thời gian tự động thoát


Trang: « 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 16 17 18 19 20 21 22 23 24 25 26 27 28 29 30 31 32 33 34 »   Xuống
  In  
Tác giả Chủ đề: Điện Biên Phủ - Hợp tuyển công trình khoa học  (Đọc 16673 lần)
0 Thành viên và 2 Khách đang xem chủ đề.
chuongxedap
Đại tá
*
Bài viết: 13138



« Trả lời #140 vào lúc: 24 Tháng Hai, 2022, 02:36:16 pm »


LIÊN MINH CHIẾN ĐẤU VIỆT - LÀO
TRONG CHIẾN CUỘC ĐÔNG XUÂN 1953 - 1954
1

ThS. NGUYỄN THẮNG LỢI
ThS. TRỊNH HỒNG HẠNH
Học viện Chính trị quốc gia Hổ Chí Minh

Liên minh chiến đấu thuỷ chung bền chặt Việt - Lào hình thành và không ngừng được vun đắp trong lịch sử đấu tranh chống kẻ thù chung là một trong những nhân tố tạo nên sức mạnh to lớn của mỗi nước trên chặng đường dài cách mạng và kháng chiến, về phương diện ấy, có thể khẳng định được rằng, cuộc tiến công chiến lược Đông Xuân 1953 - 1954 là đỉnh cao của liên minh chiến đấu Việt - Lào trong sự nghiệp kháng chiến chống thực dân Pháp và can thiệp Mỹ vì nền tự do, độc lập của mỗi nước.

Trước hết, đoàn kết, liên minh với nhân dân Lào, nhân dân Campuchia nói chung, là xuất phát từ nhu cầu khách quan và là chủ trương nhất quán của Đảng, Nhà nước ta. Ba nước nằm trên bán đảo Đông Dương, từ lâu, đã có truyền thống gắn bó mật thiết với nhau. Thực dân Pháp xâm lược, đã thực hiện âm mưu thâm độc là chia rẽ nhân dân ba nước Đông Dương để dễ bề cai trị, nhưng vẫn thực hiện một chính sách bóc lột chung, độc quyền các mặt hàng thiết yếu để đánh thuế nặng, thu cước cao. Khi trở lại xâm lược lần hai, thực dân Pháp coi Đông Dương là một chiến trường thống nhất. Chúng tập trung lực lượng tại Nam Bộ và đồng bằng Bắc Bộ Việt Nam, Trung và Hạ Lào, biến nơi đây thành những vùng hậu phương chiến tranh rộng lớn của chúng. Hơn nữa, với quan điểm Đông Dương là một chiến trường thống nhất, trong thực tế địch đã điều động lực lượng chi viện giữa các địa bàn trên toàn Đông Dương, đặc biệt là những địa bàn hiểm yếu, có tầm quan trọng chiến lược như Tây Bắc Việt Nam và Trung, Thượng Lào...

Trong những điều kiện đó và trên cơ sở ý thức sâu sắc sức mạnh của truyền thống đoàn kết, gắn bó do quan hệ địa lý, chính trị, kinh tế, văn hoá giữa ba nước tạo nên, Đảng, Nhà nước và nhân dân ta, ngày từ đầu và suốt chín năm kháng chiến, luôn làm hết sức mình để xây dựng, củng cố, tăng cường khối đoàn kết liên minh chiến đấu với nhân dân Lào, Campuchia. Ngay từ khi bắt đầu cuộc kháng chiến, Trung ương Đảng ta đã khẳng định: Chúng ta hiện nay bị vây hãm trong vòng vây của đế quốc chủ nghĩa, nhiệm vụ là phải liên minh với các dân tộc bị áp bức và vô sản thế giới, đặc biệt với các nước lân cận, để củng cố công cuộc cách mạng của mình; xem đó là một nhân tố rất quan trọng bảo đảm cho sự nghiệp kháng chiến thành công. Chính vì thế, ngày 30-10-1945, Chính phủ độc lập lâm thời Lào đã ký Hiệp định liên minh quân sự và Hiệp định Liên quân Lào - Việt, khẳng định tình đoàn kết liên minh chiến đấu là một tất yếu. Đấy là một thành công trong nỗ lực tạo cơ sở về pháp lý và tổ chức để thực hiện liên minh chiến đấu với nhân dân Lào của Đảng và Nhà nước ta.

Trên cơ sở pháp lý của những hiệp định được ký kết, các đơn vị bộ đội Liên quân Lào - Việt ra đời. Từ năm 1947 trở đi, một số đơn vị quân tình nguyện Việt Nam được cử sang sát cánh chiến đấu với bộ đội giải phóng Ítxala Lào dưới sự lãnh đạo của Chính phủ độc lập lâm thời Lào. Với nhân dân Campuchia, tình hình cũng diễn ra tương tự. Ta và bạn xây dựng lực lượng vũ trang hỗn hợp "Liên quân Miên - Việt". Những đơn vị này hoạt động mạnh ở đông - nam Campuchia và ngày càng mở rộng địa bàn ra các khu vực khác...

Đồng cam cộng khổ, sát cánh chiến đấu trên tình đoàn kết trong sáng và thuỷ chung, các đơn vị Liên quân Lào - Việt, Liên quân Miên - Việt đã góp phần quan trọng vào thắng lợi của cách mạng mỗi nước làm cho cục diện chiến tranh ở Lào, Campuchia ngày càng phát triển.

Phát huy thành quả đã đạt được trong liên minh đoàn kết chiến đấu chống kẻ thù chung, tại Đại hội lần thứ II (2-1951). Đảng ta một lần nữa nêu rõ mối quan hệ mật thiết giữa cách mạng ba nước. "Đấu tranh trường kỳ, ba dân tộc phải hợp tác trường kỳ. Hợp tác ngày nay để kháng chiến giành độc lập và thống nhất thật sự, hợp tác lâu dài sau kháng chiến để cùng tiến trên con đường dân chủ nhân dân. Việt Nam có nhiệm vụ tích cực giúp đỡ các dân tộc Miên, Lào đẩy mạnh kháng chiến, đặng phối hợp chặt chẽ với cuộc kháng chiến của Việt Nam"2. Như vậy, Đảng ta xác định liên minh đoàn kết Việt - Lào là đường lối chiến lược lâu dài, không chỉ trong kháng chiến mà cả trong xây dựng xã hội mới.

Tại Hội nghị đại biểu liên minh ba nước Đông Dương (9-1952). Chủ tịch Hồ Chí Minh một lần nữa khẳng định sự tất yếu của liên minh chiến đấu: "Kháng chiến của Việt Nam, Miên, Lào là chung của chúng ta, là bổn phận của chúng ta. Việt Nam có kháng chiến thành công thì kháng chiến Miên, Lào mới thắng lợi và Miên, Lào có thắng lợi thì kháng chiến Việt Nam mới hoàn toàn thắng lợi"3. Người yêu cầu cán bộ, chiến sĩ phải giữ nghiêm kỷ luật sinh hoạt và chiến đấu, giữ gìn tình đoàn kết đặc biệt, xác định rõ "giúp bạn là tự giúp mình".

Đoàn kết liên minh chiến đấu với nhân dân hai nước láng giềng Lào - Campuchia, dù trong thời kỳ dưới sự lãnh đạo chung, duy nhất của Đảng Cộng sản Đông Dương hay thời kỳ ba dân tộc dưới sự lãnh đạo của ba đảng cùng phối hợp hành động, là chủ trương nhất quán và xuyên suốt, là một nội dung lớn trong đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước ta; nó đáp ứng nguyện vọng và lợi ích chính đáng của nhân dân ba dân tộc. Tình đoàn kết, liên minh chiến đấu ấy dựa trên nguyên tắc bình đẳng, tương trợ, tôn trọng chủ quyền, độc lập, nguyện vọng của nhau, nhằm mục tiêu đánh đuổi thực dân Pháp, giành độc lập cho mỗi nước.

Về phía Lào, Đại hội toàn quốc Mặt trận kháng chiến Lào ngày 13-8-1950 bầu ra Chính phủ kháng chiến Lào do Hoàng thân Xuvanuvông làm Thủ tướng. Đại hội thông qua Tuyên ngôn, "Đề án về chương trình chính trị. Tình hình hiện tại và nhiệm vụ của chúng ta"4. Trong bản Đề án, Chính phủ Lào nêu rõ mối quan hệ mật thiết giữa sự nghiệp kháng chiến của nhân dân ba nước bởi: "hiện nay, Pháp chia rạch ròi ra ba chính phủ bù nhìn để tỏ cái bánh vẽ độc lập tự trị, để lừa dân và để chia rẽ". Nhưng sự thực, về quân sự, kinh tế và chính trị, chúng vẫn xem Đông Dương là một chiến trường, triệt để thực hiện chính sách lấy chiến tranh nuôi chiến tranh trên phạm vi toàn Đông Dương: "Chúng vận tải, bằng tàu bay từ Hạ Lào và Phnôm Pênh đi Việt Bắc, chở gạo ở miền Nam ra Hải Phòng, Hà Nội để tiếp tế quân lương, chở muối ở vùng bể lên Thượng Lào". Đề án nhận định: thực dân Pháp chia Đông Dương thành các vùng nhỏ, có thể hỗ trợ nhau, trong đó, Thượng Lào và Việt Bắc có quan hệ chặt chẽ; chúng "định xây dựng căn cứ ở Thượng Lào để phòng rút lui ở Việt Bắc khi bị tấn công". Vì vậy, bản Đề án khẳng định rõ: "Muốn kháng chiến giành độc lập, lực lượng kháng chiến ba dân tộc không thể chia cắt hẳn ra được. Nước Lào không thể độc lập được một khi Việt Nam và Miên chưa độc lập. Việt Nam hay Miên không thể có độc lập thực sự một khi nước Lào còn là bàn đạp của Pháp ở Đông Dương"5.

Đảng và Chính phủ kháng chiến Lào cũng như Đảng, Chính phủ Việt Nam luôn chăm lo củng cố, vun đắp cho tình đoàn kết gắn bó keo sơn, bền chặt, thuỷ chung giữa Đảng, Chính phủ và nhân dân hai nước. Trên lĩnh vực quân sự với sự giúp đỡ của quân tình nguyện Việt Nam và qua hoạt động tác chiến phối hợp, ngày 20-1-1949 Đội Látxavông (tiền thân của Quân đội nhân dân Lào) thành lập. Để liên minh chiến đấu đạt hiệu quả cao hơn, tháng 8- 1950, cơ quan chuyên trách giúp Lào được kiện toàn. Các lực lượng vũ trang Việt Nam chiến đấu và công tác trên chiến trường Lào được tổ chức thống nhất thành bộ đội tình nguyện Việt Nam, đặt dưới sự chỉ huy của Chính phủ Lào. Các đơn vị quân tình nguyện Việt Nam bám trụ trên đất Lào để giúp bạn xây dựng căn cứ, mở rộng vùng du kích, vùng giải phóng, phát triển lực lượng. Bên cạnh đó, các mặt trận liên minh chiến đấu hỗn hợp như: Liên khu X (Tây Bắc) - Thượng Lào, Liên khu IV- Trung Lào, Liên khu V - Hạ Lào cũng từng bước hình thành.

Trước yêu cầu lãnh đạo, điều hành cuộc chiến tranh liên minh trong giai đoạn mới, tại Hội nghị nhân dân Đông Dương chống Pháp, tháng 3-1951, Mặt trận đoàn kết liên minh Việt - Miên - Lào chính thức thành lập, dựa trên nguyên tắc cách mạng là tự nguyện, bình đẳng, tương trợ và tôn trọng chủ quyền của nhau; với sự ra đời của Mặt trận đoàn kết, liên minh chiến đấu giữa nhân dân và quân đội ba nước ngày càng chặt chẽ.
_______________________________________________________
1. Tỉnh uỷ, Hội đồng nhân dân, Uỷ ban nhân dân tỉnh Điện Biên - Bộ Tư lệnh Quân khu 2 - Viện Lịch sử Quân sự Việt Nam: Chiến thắng Điện Biên Phủ - Mốc vàng lịch sử, chân lý thời đại, Nxb. Quân đội nhân dân, Hà Nội, 2004.
2. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd, t.12, tr.148.
3. Quan hệ Việt - Lào, Lào - Việt, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1993, tr.26.
4, 5. Xem: Quan hệ Việt - Lào, Lào - Việt, Sđd, tr. 129-131.
Logged
chuongxedap
Đại tá
*
Bài viết: 13138



« Trả lời #141 vào lúc: 24 Tháng Hai, 2022, 02:38:25 pm »


Năm 1953, lực lượng kháng chiến của Việt Nam và Lào ngày càng lớn mạnh. Giữa năm 1953, lần đầu tiên trong sự nghiệp kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược, chúng ta đưa khối chủ lực lớn sang Lào chiến đấu dài ngày. Trong Thư gửi các đơn vị bộ đội ta có nhiệm vụ tác chiến ở Thượng Lào ngày 13-4-1953 Chủ tịch Hồ Chí Minh viết: "Lần này là lần đầu tiên, các chú nhận một nhiệm vụ quan trọng và vẻ vang như nhiệm vụ này, tức là giúp nhân dân nước bạn. Mà giúp nhân dân nước bạn tức là mình tự giúp mình". Người căn dặn cán bộ chiến sĩ: "Nêu cao tinh thần quốc tế, tôn trọng chủ quyền, tôn trọng phong tục, tập quán, kính yêu nhân dân của nước bạn"1. Với tinh thần đoàn kết hữu nghị, Liên quân Việt - Lào được nhân dân các bộ tộc Lào đùm bọc, chở che, hết lòng giúp đỡ về mọi mặt, đã chiến đấu anh dũng, giành thắng lợi lớn trong Chiến dịch Thượng Lào giữa năm 1953 - một thắng lợi góp phần quan trọng làm thay đổi cục diện chiến tranh...

Qua tám năm kháng chiến toàn diện, gian khổ, liên minh đoàn kết, chiến đấu chống kẻ thù chung giữa ba dân tộc trên bán đảo Đông Dương ngày càng trở nên bền chặt. Đó thực sự là một trong những nhân tố có ý nghĩa quyết định tạo nên sức mạnh to lớn của quân dân ba nước, làm chuyển biến mạnh mẽ cục diện chiến tranh có lợi cho ta, bất lợi cho đối phương. Lúc này, thực dân Pháp đang đứng trước những khó khăn gay gắt, ngày càng lệ thuộc vào Mỹ và buộc phải tìm đường thoát bằng một giải pháp chính trị trên cơ sở những nỗ lực quân sự của kế hoạch Nava. Theo đó, Pháp sẽ "mạnh bạo" trao quyền "độc lập" cho chính quyền bù nhìn để chính quyền này đôn quân, bắt lính; đồng thời rút lực lượng chiếm đóng về để xây dựng khối cơ động chiến lược mạnh gấp ba lần số binh đoàn hiện có vào cuối năm 1954, trên cơ sở đó, sẽ chuyển sang tiến công chiến lược trên chiến trường Bắc Bộ, giành thắng lợi quân sự to lớn, buộc ta phải đàm phán theo điều kiện của Pháp. Cùng với những nỗ lực cao nhất về quân sự, thực dân Pháp đồng thời tiến thêm một bước mới trong việc chia rẽ liên minh chiến đấu Việt - Lào. Sử dụng chiêu bài "trao trả độc lập" cho Lào, ngày 22-10-1953, ký với chính phủ tay sai một hiệp ước công nhận Lào là một nước độc lập nằm trong khối Liên hiệp Pháp (!).

Về phía ta, tại Hội nghị Bộ Chính trị Trung ương Đảng cuối tháng 9, đầu tháng 10-1953, Chủ tịch Hồ Chí Minh dùng hình ảnh để thể hiện tư tưởng chỉ đạo chiến lược của ta trong chiến cuộc Đông Xuân 1953 - 1954. Người nắm bàn tay rồi xoè ra và nói: Bàn tay nắm lại thì thành quả đấm mạnh, nếu duỗi ra thì dễ bị bẻ gãy từng ngón; ta phải tìm cách buộc khối quân cơ động của địch phải chia ra năm, bảy mảng mà tiêu diệt, buộc chúng phải thất bại hoàn toàn. Kế hoạch tác chiến chiến lược Đông Xuân 1953 - 1954 được vạch ra chính là nhằm thực hiện tư tưởng chỉ đạo chiến lược đó: giữ vững quyền chủ động đánh địch trên cả hai mặt trận chính diện và sau lưng địch, phối hợp trên phạm vi cả nước và phối hợp trên toàn Đông Dương. Nói cách khác, Đông Dương - một chiến trường là nhân tố thường trực trong tính toán chiến lược của Đảng ta. Chính vì thế, trong kế hoạch tác chiến chiến lược Đông Xuân 1953 - 1954, trên mặt trận chính diện, ta xác định Tây Bắc và Lào là hai chiến trường trọng yếu. Thực hiện kế hoạch, ngày 10-12-1953 các đơn vị chủ lực ta tiến công địch ở Lai Châu, mở đầu cuộc tiến công chiến lược Đông Xuân 1953 - 1954. Sau hơn 10 ngày chiến đấu, ta giải phóng hoàn toàn Lai Châu. Tiếp đó, ngày 21-12-1953, các đơn vị bộ đội tình nguyện Việt Nam phối hợp với Quân giải phóng Pathét Lào tiến công địch ở Trung Lào. Với sự giúp đỡ tận tình của đồng bào các bộ tộc Lào, Liên quân cách mạng Lào - Việt chiến đấu anh dũng nhanh chóng giải phóng hầu hết vùng Trung Lào rộng lớn. Phía Pháp mô tả là "Đông Dương đang bị Việt Minh chia cắt làm đôi". Địch phải bị động điều quân từ đồng bằng Bắc Bộ và từ chiến trường khác đến cứu nguy, xây dựng Xênô (Savannakhét) thành tập đoàn cứ điểm mới. Sau đó, địch quyết định tập trung xây dựng Điện Biên Phủ thành tập đoàn cứ điểm lớn nhất, mạnh nhất trong cuộc chiến tranh Đông Dương nhằm bảo vệ Tây Bắc, Thượng Lào và tiêu diệt chủ lực ta.

Đầu năm 1954, quân chủ lực ta và Lào mở cuộc tiến công giải phóng Hạ Lào, nối liền vùng giải phóng Trung Lào với Hạ Lào, mở thông hành lang chiến lược bắc - nam Đông Dương.

Cuối tháng 1-1954, khi địch mở Chiến dịch Átlăng, âm mưu chiếm toàn bộ vùng tự do nam Trung Bộ, ta mở Chiến dịch Tây Nguyên giành thắng lợi. Vùng tự do nam Trung Bộ đã được nối liền với vùng giải phóng Bôlôven của Lào.

Sau các cuộc tiến công sấm sét liên tiếp của quân và dân Lào - Việt, vùng giải phóng không ngừng được mở rộng và liên hoàn, chiếm phần lớn lãnh thổ Lào, Việt; vùng địch chiếm đóng ngày càng bị thu hẹp và là những vùng đột xuất, cô lập. Để nối liền Điện Biên Phủ với Thượng Lào, địch tăng thêm quân chiếm đóng dọc lưu vực sông Nậm Hu đến Mường Khoa, chuẩn bị mở đường tới Điện Biên Phủ. Nhằm cô lập hơn nữa tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ, được sự giúp đỡ tận tình và phối hợp hiệu quả của quân và dân Lào, chủ lực ta mở cuộc tiến công đập vỡ phòng tuyến địch ở lưu vực sông Nậm Hu (Thượng Lào). Thừa thắng, một bộ phận Liên quân Lào - Việt, phát triển lên phía bắc, giải phóng hoàn toàn tỉnh Phông Xa Lỳ. Vùng giải phóng của cách mạng Lào được mở rộng thêm gần 10.000 km2, khu giải phóng Sầm Nưa của bạn đã được nối liền với khu Tây Bắc của ta.

Lo sợ ta đánh vào Kinh đô Lào, địch phải điều quân từ đồng bằng Bắc Bộ đổ xuống Mường Sài.

Như vậy, với lực lượng không lớn nhưng được sự giúp đỡ tận tình của nhân dân và lực lượng vũ trang tại chỗ của các địa phương, bao gồm nhân dân các bộ tộc Lào; sát cánh chiến đấu với các đơn vị quân giải phóng Pathét Lào, cuộc tiến công lên hướng tây của chủ lực ta đã giành thắng lợi lớn, tiêu diệt nhiều sinh lực địch, giải phóng nhiều vùng rộng lớn, uy hiếp địch trên toàn bộ chiến trường Đông Dương, buộc khối cơ động chiến lược của Nava phải dàn ra phòng ngự ở những vị trí biệt lập. Địch ở Điện Biên Phủ bị cô lập. Khối chủ lực địch bị phân tán, dàn mỏng đã tạo thêm điều kiện thuận lợi cho ta tập trung lực lượng chủ lực lên hướng chủ yếu và đẩy mạnh hoạt động vùng sau lưng địch.

Ngày 13-3-1954, ta nổ súng mở màn cuộc quyết chiến chiến lược ở Điện Biên Phủ, cũng là mở đầu đợt ba của cuộc tiến công chiến lược Đông Xuân 1953 - 1954 trên chiến trường Đông Dương. Cuộc chiến đấu phối hợp của quân dân Việt Nam và quân dân Lào trên khắp các chiến trường được đẩy mạnh, cùng "chia lửa" với Điện Biên Phủ, ngăn chặn các con đường chi viện cho Điện Biên Phủ của địch, tạo điều kiện để quân ta giành thắng lợi ở Điện Biên Phủ. Nói cách khác, chiến thắng Điện Biên Phủ không tách rời cuộc tiến công của quân dân ta và bạn trên các chiến trường phối hợp.

Thực tế lịch sử những tháng năm hào hùng thuở ấy đã chứng tỏ rằng, chiến cuộc Đông Xuân 1953 - 1954 mà đỉnh cao là chiến thắng Điện Biên Phủ không chỉ là chiến thắng của nhân dân Việt Nam mà còn là chiến thắng của liên minh đoàn kết chiến đấu toàn diện Việt - Lào nói riêng, Việt - Miên - Lào nói chung. Đó là biểu hiện rực rỡ và là đỉnh cao của truyền thống gắn bó thuỷ chung, son sắt, bền chặt giữa hai dân tộc và nhân dân hai nước Việt - Lào. Liên minh chiến lược đó dựa trên nguyên tắc tôn trọng độc lập, chủ quyền của mỗi nước, dựa trên nền tảng của chủ nghĩa yêu nước chân chính và tinh thần đoàn kết quốc tế trong sáng, hoàn toàn tự nguyện, bình đẳng vì mục tiêu chung là giành độc lập tự do. Trải qua bao thử thách trên những chặng đường cách mạng và kháng chiến, Liên minh Lào - Việt ngày càng được tôi luyện, đắp bồi để trở thành tài sản vô giá của cách mạng hai nước, thành một nhân tố nền tảng bảo đảm sức mạnh của hai dân tộc trong công cuộc xây dựng và bảo vệ đất nước ngày càng giàu mạnh.
___________________________________________________
1. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.7, tr.64.
Logged
chuongxedap
Đại tá
*
Bài viết: 13138



« Trả lời #142 vào lúc: 27 Tháng Hai, 2022, 07:23:39 pm »


HOẠT ĐỘNG PHỐI HỢP CỦA QUÂN TÌNH NGUYỆN VIỆT NAM
Ở LÀO, CAMPUCHIA TRONG CHIẾN DỊCH ĐIỆN BIÊN PHỦ
1


ThS. TRẦN NAM TIẾN, LÊ THỊ DUNG
Trường đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn thành phố Hồ Chí Minh
Trung tâm Khoa học Xã hội và Nhân văn thành phố Hồ Chí Minh

1. Sau tám năm tiến hành chiến tranh xâm lược Đông Dương (1945 - 1953), thực dân Pháp ngày càng sa lầy và liên tiếp thất bại trên chiến trường Việt Nam. Để cứu vãn tình thế, tháng 5-1953, được sự đồng ý của Mỹ, Chính phủ Pháp cử tướng H. Nava sang làm Tổng Chỉ huy quân đội Pháp ở Đông Dương. Sau một thời gian ngắn điều tra và nghiên cứu chiến trường Đông Dương, Nava đã đề ra một kế hoạch chiến lược tương đối hoàn chỉnh hòng xoay chuyển tình hình, chuyển bại thành thắng. Tháng 9-1953, Bộ Chính trị Trung ương Đảng quyết định mở cuộc tiến công chiến lược Đông Xuân 1953 - 1954. Phương châm chiến lược là tập trung lực lượng mở những đòn tiến công lớn vào những hướng chiến lược quan trọng ở Tây Bắc, Tây Nguyên, phối hợp với các chiến trường bạn ở Trung, Hạ Lào và đông bắc Campuchia, tiêu diệt từng bộ phận sinh lực địch, giải phóng thêm đất đai, đẩy mạnh hoạt động ở các chiến trường sau lưng địch. Thực hiện chủ trương của Bộ Chính trị Trung ương Đảng trong chiến cuộc Đông Xuân năm 1953 - 1954, ta đã phối hợp với Quân giải phóng Lào và Campuchia tiến công quân Pháp trên khắp chiến trường Đông Dương và giành được nhiều thắng lợi quan trọng, khiến cho chúng rơi vào thế bị động đối phó trên các chiến trường.

Sau khi phát hiện chủ lực ta tiến lên Tây Bắc, trong ba ngày 20 - 22-11-1953, Pháp vội vã cho sáu tiểu đoàn nhảy dù xuống Điện Biên Phủ, tăng cường lực lượng xây dựng Điện Biên Phủ thành một tập đoàn cứ điểm mạnh nhất chưa từng có ở Đông Dương - một "pháo đài khổng lồ không thể công phá".

Ngay khi quân Pháp tiến hành xây dựng tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ, ngày 6-12-1953, Bộ Chính trị Trung ương Đảng ta đã thông qua kế hoạch tác chiến của Tổng Quân uỷ và quyết định mở Chiến dịch Điện Biên Phủ. Như vậy, địch và ta đều đã chấp nhận giao chiến ở Điện Biên Phủ - một trận quyết chiến lịch sử. Ngày 22-2-1954, Ban Chấp hành Trung ương Đảng đã Chỉ thị: "Công tác trung tâm trước mắt của toàn thể quân và dân ta là tập trung lực lượng đánh thắng địch trong những trận sắp tới, tiêu diệt nhiều sinh lực địch hơn nữa, làm cho kế hoạch Nava của Pháp - Mỹ phải hoàn toàn thất bại"2. Thực hiện Chỉ thị của Trung ương, vào những ngày cuối tháng 2 đầu tháng 3-1954, quân và dân cả nước vừa tiến công địch trên khắp các chiến trường, vừa chuẩn bị hết sức khẩn trương cho trận quyết chiến chiến lược Điện Biên Phủ. Sau một thời gian chuẩn bị chu đáo, ngày 13-3-1954, quân ta nổ súng mở màn tấn công tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ. Cùng ngày, Bộ Tổng tư lệnh Quân đội nhân dân Việt Nam chính thức chỉ thị cho các chiến trường toàn quốc tích cực hoạt động đánh địch để phối hợp với chiến trường Điện Biên Phủ. Một cao trào tiến công và nổi dậy trên các chiến trường cả nước và toàn Đông Dương phối hợp với chiến trường Điện Biên Phủ diễn ra sôi nổi và đều khắp.

2. Trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp lần thứ hai (1945 - 1954), Đông Dương là một chiến trường. Nhân dân và quân đội cách mạng cả ba nước Việt Nam, Lào, Campuchia cùng phối hợp và liên minh chống kẻ thù chung là thực dân xâm lược Pháp. Quá trình phát triển của cuộc kháng chiến là quá trình phối hợp liên minh chiến dấu của quân và dân ba nước, của sự giúp đỡ ngày càng to lớn của quân và dân Việt Nam đối với hai nước bạn Lào và Campuchia. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nói: "Việt Nam - Lào - Campuchia như anh em một nhà. Cả ba dân tộc đoàn kết chặt chẽ thì nhất định sẽ đánh bại thực dân Pháp. Nhân dân Việt Nam hết lòng thành thật giúp đỡ nhân dân Lào, nhân dân Campuchia một cách vô điều kiện..."3.

Người cũng nhấn mạnh: "Giúp nhân dân nước bạn tức là tự giúp mình". Theo tinh thần đó, nhiều đơn vị bộ đội Việt Nam được lần lượt cử sang giúp đỡ nhân dân Lào và Campuchia tổ chức kháng chiến. Vốn sẵn tinh thần yêu nước nồng nàn, chẳng bao lâu sau, cùng một nhịp với Việt Nam, nhân dân Lào và Campuchia đã giành được những thắng lợi hết sức quan trọng, góp phần đánh bại âm mưu chia rẽ của thực dân Pháp đối với ba nước Đông Dương.

Trong chiến cuộc Đông Xuân 1953 - 1954, Bộ Chính trị Trung ương Đảng chủ trương thực hiện đòn tiến công lớn "phối hợp với Quân giải phóng Lào và Quân giải phóng Campuchia tiêu diệt một bộ phận quân địch ở Trung Lào, Hạ Lào và đông - bắc Campuchia; mở rộng vùng giải phóng tới sau lưng Sài Gòn, đánh thông đường chiến lược bắc - nam Đông Dương". Chấp hành Chỉ thị của Bộ Chính trị, Tổng Quân uỷ đã trực tiếp chỉ thị cho các đơn vị bộ đội Việt Nam sang phối hợp chiến đấu với các đơn vị bạn ở Lào và Campuchia.

Ở Lào, sau Chiến dịch Thượng Lào, tháng 12-1953, ta mở Chiến dịch Trung Lào. Sau ba ngày chiến đấu, các chiến sĩ Đại đoàn 325 phối hợp với quân dân Lào đã tiêu diệt ba tiểu đoàn Âu - Phi cơ động và một tiểu đoàn pháo binh của địch, giải phóng Thàkhẹt, cắt đường số 9, giải phóng phía đông tỉnh Savannakhẹt. Cùng thời gian này, Tiểu đoàn 436 thuộc Trung đoàn 101 của Sư đoàn 325 tiến xuống phối hợp chiến đấu với các đơn vị bạn ở Hạ Lào. Tại đây, trước khi mở Chiến dịch Hạ Lào, để đánh lạc hướng chú ý của địch, ta cho đặc công đánh địch trên đường 13, tiêu diệt nhiều vị trí địch và phá huỷ cầu Huội Mèxẳng và một số đồn bốt khác, qua đó làm tê liệt hệ thống đường giao thông tiếp tế của địch từ phía nam lên.
____________________________________________________
1. Kỷ yếu Hội thảo khoa học: Chiến thắng Điện Biên Phủ và chiến trường đông Nam Bộ, cực nam Trung Bộ.
2. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, t.15, tr. 32.
3. Ban Chỉ đạo tổng kết chiến tranh trực thuộc Bộ Chính trị: Tổng kết cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp - Thắng lợi và bài học, Sđd, tr. 371.
Logged
chuongxedap
Đại tá
*
Bài viết: 13138



« Trả lời #143 vào lúc: 27 Tháng Hai, 2022, 07:48:09 pm »


Ngày 2-2-1954, Tiểu đoàn 436 cùng với Quân giải phóng Lào và các đơn vị quân tình nguyện Việt Nam ở Hạ Lào tấn công tiêu diệt đồn Pui, thị xã Atôpơ. Địch rút bỏ các vị trí phòng thủ rút về cố thủ tại thị xã Saravan. Đến ngày 4-2-1954, ta đã tiêu diệt và làm tan rã các lực lượng ở các tiểu khu Atôpơ, Pakxông và các vị trí phòng thủ bên ngoài tiểu khu Saravan. Lúc này, Trung đoàn 101, sau khi hoàn thành nhiệm vụ ở Trung Lào đã tiến xuống phối hợp chiến đấu ở mặt trận Hạ Lào. Bước vào tháng 3-1954, ta chuyển hướng tiến công sang vùng Chămpaxắc. Ở phía tả ngạn sông Mê Kông ta quét sạch hệ thống phòng ngự của địch trên dọc đường 13, từ Phiaphay cho đến Kỳ Nặc (khu vực tiếp giáp với Campuchia) tiêu hao nặng một phần Binh đoàn cơ động số 7 và Binh đoàn cơ động số 1 của địch trên đường 13, buộc chúng phải rút về cố thủ trong thị xã Pắcxế. Ở hữu ngạn sông Mê Kông, ta tấn công tiêu diệt các vị trí Đôntalạt, Bátxắc, Mương Mun, Xukhuma, uy hiếp các vị trí khác buộc chúng phải bỏ chạy về Pắcxế. Trước sức tiến công của ta ở Hạ Lào, chính Nava, Tổng Chỉ huy các lực lượng quân viễn chinh Pháp ở Đông Dương - đã thốt lên: "Vết dầu xâm lược của Việt Minh càng lúc càng lan rộng trong vùng này (Hạ Lào, Tây Nguyên) và tôi nghĩ rằng các căn cứ mà Việt Minh thiết lập trong vùng có thể tạo nên một mối hăm doạ, nguy hiểm cho Nam Việt và Cao Miên trong vài tháng tới đây"1.

Tính đến hết tháng 3-1954, ở mặt trận Hạ Lào, các chiến sĩ Trung đoàn 101 thuộc Đại đoàn 325 cùng với quân và dân Hạ Lào và các lực lượng quân tình nguyện Việt Nam tại chỗ đã chiến đấu trên 12 trận, tiêu diệt hơn 3.000 tên địch, giải phóng toàn bộ tỉnh Atôpơ, gần hết cao nguyên Bôlôven và hơn nửa phần đất đai hai tỉnh Savavan và Chămpaxắc2. Những thắng lợi trên đây đã góp phần quan trọng đến việc ổn định nhanh chóng vùng mới giải phóng, tạo điều kiện thuận lợi cho công tác chuẩn bị những đợt tiến công mới, phối hợp với chiến trường chính Điện Biên Phủ, hòa cùng với khí thế tiến công của quân và dân ba nước Đông Dương.

3. Tại chiến trường Campuchia, khi nhận được chỉ thị phối hợp chiến đấu với chiến trường chính Điện Biên Phủ, quân và dân Campuchia cùng với các đơn vị quân tình nguyện Việt Nam ở đây đã đẩy mạnh hoạt động xuống các vùng đồng bằng đông dân, dọc đường giao thông, tạo cơ sở chuẩn bị cho quân chủ lực tác chiến. Do các công tác tổ chức quân dân du kích, dẫn đường, tiếp tế lương thực, thực phẩm cho đến việc điều tra nắm tình hình địch từng nơi được triển khai tốt, nên khi quân chủ lực Việt Nam vừa đến nơi thì có thể phát huy được hiệu quả tác chiến ngay.

Ở chiến trường tây - bắc Campuchia, phối hợp với chiến trường Điện Biên Phủ và chiến trường Nam Bộ, đầu tháng 4-1954, Đại đội quân tình nguyện Việt Nam 1603 đã lên Kompong Chơnăng cùng với Đại đội 305 và dân quân du kích Campuchia hình thành một Ban Chỉ huy chung tổ chức đánh địch trên đường Prây Khme diệt 2 xe bọc thép. Sau đó, liên quân tổ chức đánh đoàn xe lửa ở đoạn Kompong Len, làm hư hỏng chiếc đầu máy và 22 toa xe trong đó có một toa bọc thép, thu được một đại bác, một đại liên và nhiều súng các loại, bắt được một số tù binh.

Cùng trong tháng 4-1954, Đại đội quân tình nguyện Việt Nam 1804 nổ súng tấn công cứ điểm Krăng Đêvai, tiêu diệt gần hai trung đội địch. Tháng 4-1954, Đại đội 180 tiếp tục tiến đánh bọn hải quân ở cảng Riêm, đốt một xe Jeep, diệt được hai tên Pháp. Phối hợp với các đơn vị trên, cũng trong tháng 4-1954, Đại đội quân tình nguyện Việt Nam 1405 đã phối hợp với bộ đội Achar Chum và bộ đội địa phương tấn công thị trấn Pailin và chặn đánh viện binh từ thị xã Báttambăng đến tiếp viện, diệt 1 trung đội địch, thu 1 trung liên và 15 súng trường. Tháng 5-1954, Đại đội 140 tổ chức chặn đánh đoàn xe địch trên đường Lanal Préas - Xiêm Riệp, đốt 3 xe, diệt 1 trung đội, thu 3 trung liên và 18 súng trường.

Ngoài ra, các đơn vị này còn làm tốt công tác vũ trang tuyên truyền trên khắp địa bàn hoạt động, tổ chức nhiều đợt chống càn, bảo vệ tốt vùng giải phóng ở tây - bắc Campuchia.

Ở chiến trường đông - bắc Campuchia, cuối tháng 3-1954, Tiểu đoàn 436 thuộc Trung đoàn 101, Sư đoàn 325 mang phiên hiệu Chí Long do Trung đoàn phó Lê Kích làm Tiểu đoàn trưởng di chuyển xuống, phối hợp với các đơn vị bộ đội Campuchia tổ chức đánh địch. Ngày 31-3-1954, Tiểu đoàn 436 đã tổ chức chặn đánh tiêu diệt một đại đội xe thiết giáp của địch trên tỉnh lộ 15, do địch điều từ Stung Treng lên bảo vệ huyện lỵ Vơnsai nhằm ngăn chặn quân ta từ Hạ Lào xuống. Tiếp đó, ngày 1-4-1954, Tiểu đoàn 436 tiếp tục tấn công tiêu diệt các dồn bảo an, chiếm thị trấn Vơnsai và phục kích diệt gần hết tiểu đoàn cơ động của Chiến đoàn GM51 của địch.

Đầu tháng 4-1954, từ Hạ Lào, Tiểu đoàn Chí Hòa cũng thuộc Trung đoàn 101 đang chiến đấu ở Chămpaxắc xuôi theo hữu ngạn sông Mê Kông, tiêu diệt các vị trí phòng thủ của địch ở khu vực phía đông tỉnh Kôngpông Thom rồi tiến xuống bao vây thị xã Stung Treng. Cùng thời điểm này, ở Siêmpang, Tiểu đoàn Chí Hưng cũng thuộc Trung đoàn 101 tiến công bao vây huyện lỵ Siêmpang. Hoảng sợ trước sức tấn công của quân ta, toàn bộ địch ở đây rút chạy về Stung Treng nhưng bị quân ta chặn đánh tiêu diệt 14 xe trên trục đường 15, đoạn từ Siêmpang đi Xônhong. Sau khi giải phóng Vơnsai, Tiểu đoàn Chí Long tiếp tục tiến xuống phía đông đánh các vị trí Lomphát, Bôkeo và Bôkhăn. Hai tiểu đoàn Chí Hòa và Chí Hưng sau khi để một bộ phận tiếp tục bao vây Stung Treng, phần còn lại tiến xuống Kratiê tiêu diệt Xlavadư và đại bộ phận Binh đoàn 23 và một đoàn xe bọc thép lên tăng cường cho Chiến đoàn GM51, bắt 35 tù binh. Tính đến tháng 6-1954, quân tình nguyện Việt Nam đã giải phóng 3/5 đất đai miền đông - bắc Campuchia bao gồm các huyện Vơnsai, Siêmpang, Bôkeo, Lomphát.

Thực hiện chỉ thị của trên về việc phối hợp đánh địch với chiến trường cả nước và trên toàn Đông Dương, đầu tháng 4-1954, toàn bộ Tiểu đoàn 302 - chủ lực Phân Liên khu miền Đông được điều động sang chiến trường Campuchia làm nghĩa vụ quốc tế - giúp đỡ và phối hợp với bạn tác chiến, phát triển chiến tranh du kích, gây dựng cơ sở địa phương. Tiểu đoàn 302 hoạt động ở ba tỉnh Prâyveng, Soài Riêng và Côngpông Chàm. Được sự giúp đỡ của nhân dân địa phương, tiểu đoàn đã chủ động đánh địch thu được nhiều thắng lợi. Ngày 25-4-1954, Đại đội 40 của Tiểu đoàn 302 đã tiêu diệt đồn An Sông (Prâyveng) do một trung đội Commăngđô đóng giữ, diệt 25 tên, bắt sống 10 tên, thu 80 súng trong đó có 1 đại liên. Ngày 26-4-1954, tiểu đoàn tiến công các đồn Păngcànnhây, Kốt Cho, Tà Nốt. Đặc biệt là trận đánh đồn Ta Pang Pring sau đó một tuần lễ, tiêu diệt 8 tên địch, làm bị thương 32 tên, thu 1 đại liên, 2 súng cối và 32 súng khác. Tiểu đoàn 302 đã phối hợp với các đơn vị bạn đánh địch, thu nhiều thắng lợi. Trong quý II năm 1954, Tiểu đoàn 302 đã sát cánh cùng bộ đội và nhân dân bạn giải phóng nhiều vùng đất đai rộng lớn ở đông Campuchia, sau đó đánh thẳng xuống Tây Ninh và Đồng Tháp Mười.

Ngày 7-5-1954, tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ - "pháo đài khổng lồ không thể công phá" của quân đội thực dân Pháp đã bị tiêu diệt. Trận quyết chiến chiến lược của ta ở Điện Biên Phủ đã toàn thắng. Tin địch thất thủ ở Điện Biên Phủ nhanh chóng truyền đến các chiến trường Lào và Campuchia. Được sự cổ vũ của chiến thắng Điện Biên Phủ, các đơn vị quân tình nguyện Việt Nam ở Lào và Campuchia phối hợp với quân đội bạn tiếp tục tiến công địch ở khắp nơi, giành được nhiều thắng lợi quan trọng. Trong lúc cuộc chiến đấu đã diễn ra ác liệt với nhiều thuận lợi thì ngày 21-7-1954, Hiệp định Giơnevơ được ký kết, hòa bình được lập lại ở Đông Dương. Các đơn vị quân tình nguyện Việt Nam ở Lào và Campuchia được lệnh rút về nước, hoàn thành xuất sắc nghĩa vụ quốc tế của mình.

4. Cuộc chiến đấu của nhân dân Lào và Campuchia được sự hỗ trợ của quân tình nguyện Việt Nam chống thực dân Pháp xâm lược là một cuộc chiến đấu chính nghĩa đầy gian khổ, hy sinh. Có thể nói, các trận đánh vang dội trong nghĩa vụ quốc tế của các đơn vị quân tình nguyện Việt Nam đã thắt chặt thêm mối tình đoàn kết chiến đấu gắn bó giữa quân đội và nhân dân ba nước Việt Nam - Lào - Campuchia, góp phần tạo cục diện mới trên toàn bộ chiến trường Đông Dương trong giai đoạn cuối của kháng chiến chống kẻ thù chung. Qua đó góp phần xứng đáng thắng lợi có ý nghĩa lịch sử ở Điện Biên Phủ ngày 7-5-1954. Nó cũng nói lên sự gắn bó chặt chẽ, sống còn của nhân dân ba nước Việt Nam, Lào và Campuchia trong cuộc chiến đấu chống kẻ thù chung, sự hy sinh cao cả và sự giúp đỡ phối hợp chiến đấu thuỷ chung cho sự nghiệp giải phóng dân tộc của cả ba nước Đông Dương.

Cuộc chiến đấu đó còn khắc họa chân dung người chiến sĩ tình nguyện Việt Nam chiến đấu vì sự nghiệp thiêng liêng của ba dân tộc Việt Nam, Lào, Campuchia, sẵn sàng hy sinh, kiên cường, phấn đấu cùng nhân dân ba nước Đông Dương vượt qua mọi khó khăn, đưa cách mạng của ba nước tiến lên. Phẩm chất cao đẹp của người chiến sĩ cách mạng Việt Nam, sự hy sinh xương máu của cán bộ, chiến sĩ Việt Nam trong những năm tháng chiến đấu chống thực dân Pháp trên đất bạn Lào và Campuchia càng cho thấy rõ hơn nguyện vọng chân chính của nhân dân Việt Nam, muốn thắt chặt tình đoàn kết hữu nghị, củng cố khối liên minh chiến đấu giữa nhân dân ba nước Việt Nam, Lào và Campuchia vì hòa bình, độc lập dân tộc và sự toàn vẹn lãnh thổ của mỗi nước.
______________________________________________
1. Báo Tiếng chuông, ngày 10-6-1954.
2. Xem Hoài Nguyên - Lê Đình Liễn: Ngã ba chiến lược bán đảo Đông Dương với Chiến dịch Điện Biên Phủ (trong Chiến thắng Điện Biên Phủ 7-5- 1954), Kỷ yếu Hội thảo, 1994, tr.122, nhiều tác giả, Quân tình nguyện Việt Nam ở Campuchia (1945 - 1954), Nxb. Mũi Cà Mau, 1998, tr.232.
3. Thành lập năm 1949, tiền thân là bộ đội viện trợ khu đông - nam Campuchia do Bộ Tư lệnh Quân khu 8 quyết định thành lập tại Đồng Tháp Mười.
4. Thành lập năm 1950, tập hợp các đơn vị 123, bộ đội Prây Nốp và một số đơn vị khác.
5. Thành lập năm 1950, trong đó hơn 80% là người Việt Nam và gần 20% là người Campuchia.
Logged
chuongxedap
Đại tá
*
Bài viết: 13138



« Trả lời #144 vào lúc: 11 Tháng Ba, 2022, 10:06:12 am »


ĐẢNG CỘNG SẢN VÀ NHÂN DÂN PHÁP
VỚI CUỘC KHÁNG CHIẾN CHỐNG THỰC DÂN PHÁP
CỦA NHÂN DÂN VIỆT NAM TIẾN TỚI CHIẾN THẮNG
ĐIỆN BIÊN PHỦ 1954
1

GS. ĐINH XUÂN LÂM
Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn
Đại học Quốc gia Hà Nội

Có thể khẳng định rằng từ sau khi Chiến tranh thế giới lần thứ hai bùng nổ (1939), trong hoàn cảnh mọi liên lạc giữa nước Pháp với Việt Nam hầu như bị gián đoạn, cho đến mùa Xuân 1944 khi cuộc kháng chiến chống phátxít Hítle ở Pháp sắp kết thúc thắng lợi, Đảng Cộng sản Pháp đã không có một sự hiểu biết cụ thể nào về tình hình cách mạng Việt Nam. Đảng Cộng sản Đông Dương, từ mùa Hè năm 1940 đến Cách mạng Tháng Tám thành công năm 1945 cũng hầu như bị tách khỏi với bên ngoài, mọi liên hệ với Đảng Cộng sản Pháp đều bị cắt đứt. Êchiên Phagiông (Etiênn Fajon), Ủy viên Bộ Chính trị Đảng Cộng sản Pháp, đã khẳng định: Tôi không nghĩ rằng Ban lãnh đạo Đảng (chỉ Đảng Cộng sản Pháp) lúc đó lại biết được điều gì đáng kể về vấn đề Đông Dương2. Êli Minhô (Elie Mignot), Thường trực Tiểu ban Thuộc địa của Đảng Cộng sản Pháp từ tháng 6-1945 cũng thú nhận: "Vào năm 1945, và cả đầu năm 1946, chúng tôi được thông tin rất ít. Chúng tôi đã biết được Cách mạng Tháng Tám qua một vài thông tin vụn vặt trên báo chí. Các thông tin này rất không đủ về tình hình xảy ra ở Đông Dương". Raymông Bácbê (Raymond Barbes), Thường trực Tiểu ban Thuộc địa từ mùa Hè năm 1945 còn cho biết sự theo dõi, nắm bắt diễn biến tình hình cách mạng Việt Nam của Đảng Cộng sản Pháp chậm trễ và bị động đến mức nào: "Theo sự hiểu biết của tôi thì cho đến tận cuộc khởi nghĩa đưa Việt Minh lên nắm chính quyền vào các tháng 8-9 năm 1945, Đảng Cộng sản Pháp hoàn toàn không có cơ sở để đánh giá các điều kiện của cuộc đấu tranh bên xứ Đông Dương. Chỉ ít lâu sau (theo như tôi nhớ thì chỉ vài ngày thôi), khi báo chí đưa tin về việc Việt Minh nắm chính quyền, tôi mới được các đồng chí Việt Nam cư trú tại Pháp cho biết rằng Hồ Chí Minh chẳng phải ai khác là Nguyễn Ái Quốc từng được các lãnh tụ cộng sản Pháp quen biết. Nguồn thông tin mà sau đó đã được nhanh chóng xác nhận là đúng, lập tức được chuyển cho Ban lãnh đạo Đảng"3.

Trong khi đó dã tâm của đế quốc Pháp tái chiếm các nước thuộc địa (trong đó có Đông Dương) đã bộc lộ rất sớm và rất rõ. Chính phủ Cộng hoà lâm thời Pháp (tức chính phủ kháng chiến) đóng tại Angiê (Alger) do tướng Đờ Gôn (De Gaulle) cầm đầu, ngay khi Chiến tranh thế giới thứ hai còn chưa kết thúc và nước Pháp đang bị nước Đức chiếm đóng, đã triệu tập Hội nghị Bradavin (Brazzaville) để bàn về vấn đề thuộc địa (từ ngày 30-1 đến ngày 8-2-1944). Tại Hội nghị đó, mọi tư tưởng giải phóng các dân tộc thuộc địa sau chiến tranh đều bị gạt bỏ. Rơnê Plêven (René Pléven), đại diện Chính phủ lâm thời Pháp, tuyên bố không úp mở: "Trong khuôn khổ đế quốc Pháp, không hề có vấn đề dân tộc để giải phóng, cũng như không hề có vấn đề phân biệt chủng tộc để thủ tiêu (...). Các dân tộc hải ngoại không hề biết tới nền độc lập nào khác ngoài độc lập của nước Pháp"4. Thậm chí trong phần bổ sung của tuyên bố, hội nghị còn nhấn mạnh: "Các mục đích của sự nghiệp thực dân mà nước Pháp thực hiện tại các thuộc địa đã loại bỏ mọi ý định tự trị, mọi khả năng tiến hoá ngoài khuôn khổ đế quốc Pháp; cơ cấu một chính phủ tự trị có thể có tại các thuộc địa, dù còn lâu mới được thực hiện, phải bị loại trừ"5.

Đến tháng 8-1944, khi thủ đô Pari được giải phóng, Chính phủ của những người kháng chiến mới giành được thắng lợi cho dân tộc thì lại ra lệnh tổ chức ngay một đội quân do tướng Lơcléc (Leclerc) cầm đầu, và giao cho đạo quân này nhiệm vụ tiến sang Viễn Đông đánh đồng minh cuối cùng của Hítle là phátxít Nhật. Sau khi nước Pháp đã được giải phóng, Chính phủ Đờ Gôn đã ra quy chế về tương lai của Đông Dương (24-3-1945). Văn kiện này thực chất là một sự vận dụng mở rộng các nguyên tắc của Hội nghị Bradavin cho thuộc địa lớn của Pháp ở châu Á, là sự khôi phục chế độ thuộc địa ở Đông Dương. Bản thân Đờ Gôn cũng tuyên bố: "Vị trí nước Pháp... rất đơn giản, nước Pháp có ý định thu hồi chủ quyền của mình trên toàn xứ. Dĩ nhiên là sự khôi phục đó sẽ kéo theo một thể chế mới, nhưng đối với chúng ta thì chủ quyền của nước Pháp là vấn đề hàng đầu"6.

Căn cứ vào các lời tuyên bố, cũng như các hành động trên, có thể khẳng định tư tưởng của giới cầm quyền nước Pháp lúc đó về vấn đề thuộc địa hầu như chưa có gì thay đổi, mà dù có một số thay đổi, cải biến nào đó thì cũng do tình hình quốc tế và nước Pháp, nhất là do tình hình các thuộc địa sau chiến tranh quyết định. Thực chất đó chỉ là một thứ chủ nghĩa cải lương nặng về hình thức, có tính chất mị dân, còn trong thực tế vẫn là cố tình duy trì sự có mặt của nước Pháp ở các thuộc địa, ngoan cố khước từ mọi nguyện vọng chính đáng về độc lập dân tộc của các thuộc địa.

Trong bối cảnh lịch sử đó, nhiều người cộng sản Pháp về mặt tư tưởng không tránh khỏi chịu ảnh hưởng. Điều cần phải khẳng định là mối quan hệ giữa những người cộng sản Pháp và cách mạng Việt Nam vốn rất gắn bó, và đã được thử thách qua nhiều thời kỳ lịch sử. Cứu tế đỏ, Uỷ ban đấu tranh đòi thả tù chính trị đã từng tiến hành những cuộc đấu tranh quyết liệt chống lại khủng bố trắng của đế quốc Pháp trong những năm đầu của thập kỷ 30. Rồi đến thời kỳ 1936-1937, Mặt trận nhân dân Pháp với những cộng sản làm nòng cốt đã sát cánh cùng các chiến sĩ cách mạng và nhân dân Việt Nam đấu tranh cho những quyền lợi dân chủ cơ bản.

Nhưng do mối quan hệ giữa Đảng Cộng sản Đông Dương với Đảng Cộng sản Pháp bị gián đoạn trong một thời gian dài và một phần cũng do tình hình chính trị nước Pháp và thế giới sau ngày giải phóng quyết định (một nước Pháp vừa thắng trận, ở đó sự liên minh các lực lượng chính trị thời chống phátxít của bốn cường quốc chiến thắng tuy bên trong đã có sự rạn nứt nhưng vẫn được duy trì ngoài mặt), chính sách của Đảng Cộng sản Pháp đối với các thuộc địa nói chung, Đông Dương nói riêng vẫn là tư tưởng phối hợp giữa các lực lượng tiến bộ của chính quốc với các thuộc địa để đấu tranh cho những quyền dân chủ mới. Nghĩa là vẫn chỉ dừng lại ở các mục tiêu của thời kỳ Mặt trận dân chủ, mà không thấy được rằng đến năm 1945 đã có bao nhiêu thay đổi to lớn trong đời sống chính trị của nhân dân các nước thuộc địa và phụ thuộc. Xin trích dẫn sau đây một lời phát biểu của Êchiên Phagiông tại Đại hội Đảng Cộng sản Pháp tháng 6-1947 để minh hoạ xu hướng tư tưởng chung hồi đó: "Trong tình hình thế giới hiện nay, khối Liên hiệp Pháp vẫn là tổ chức tốt nhất cho sự thực hiện nguyện vọng của các bạn (dân tộc thuộc địa) với sự giúp đỡ của giai cấp công nhân và nhân dân Pháp (...). Cùng các bạn, các lực lượng dân chủ sẽ đấu tranh kết quả cho một chế độ dân chủ mới, một chế độ dân chủ sẽ thủ tiêu tận gốc mọi áp bức dân tộc, bất bình đẳng quyền lợi, chậm tiến của một số dân tộc so với các dân tộc khác. Sự sụp đổ của Liên hiệp Pháp ngược lại chỉ mang lại cho các bạn một nền độc lập bề ngoài, báo trước sự thống trị nặng nề của các cường quốc. Ở đó, các tờrớt lũng đoạn, các quan điểm chủng tộc có hiệu lực, nạn hành hình người da đen hoành hành. Các bạn hãy ở lại với chúng tôi trong khối Liên hiệp Pháp. Khối đó sẽ khá mạnh để ngăn cản sự liên minh giữa những người lao động và Cộng hoà Pháp với các lực lượng dân chủ và dân tộc của các bạn để xây dựng một khối liên hiệp chân chính, hữu nghị và tiến bộ"7.
___________________________________________________
1. Tham luận tại Hội thảo khoa học quốc gia: Kỷ niệm 50 năm chiến thắng Điện Biên Phủ và công cuộc đổi mới, phát triển đất nước, Điện Biên, ngày 7, 8-3-2004.
2. Alanh Ruýtxiô dẫn trong Những người cộng sản Pháp và cuộc chiến tranh Đông Dương 1944-1954, Nxb. L'Harma, Pari, 1985.
3. Alanh Ruýtxiô: Những người cộng sản Pháp và cuộc chiến tranh Đông Dương 1944-1954, Sđd, tr. 70.
4, 5. Alanh Ruýtxiô: Những người cộng sản Pháp và cuộc chiến tranh
Đông Dương 1944-1954
, Sđd, tr. 73-74.

6. Họp báo tại Oasinhtơn, ngày 25-8-1954, xem Alanh Ruýtxiô, Sđd, tr. 74.
7. Tương lai của Liên hiệp Pháp (Những vấn đề của thời đại), Đảng Cộng sản Pháp xuất bản, Pari, 1947.
Logged
chuongxedap
Đại tá
*
Bài viết: 13138



« Trả lời #145 vào lúc: 11 Tháng Ba, 2022, 10:21:12 am »


Trong bối cảnh lịch sử cụ thể đó, Đảng Cộng sản Pháp chưa thể có được một chính sách thật sự đúng đắn đối với các nước thuộc địa.

Có khuynh hướng cho rằng Hội nghị Bradavin (2-1944) phản ánh một "xu thế tích cực", và như vậy là chỉ nhìn thấy mặt cải cách thuộc địa mà không thấy mặt thứ hai bảo thủ phản động là duy trì hệ thống đó; hay là đã tán thành việc thành lập đạo quân viễn chinh của Lơcléc, quan điểm của nhiều người cộng sản Pháp hồi đó cho rằng "Nước Pháp phải tham gia vào nỗ lực chiến tranh ở Thái Bình Dương, bảo đảm cho nhân dân Đông Dương một cơ hội làm đà để tiến tới độc lập"1. Việc làm này về sau đã bị một số nhà sử học Pháp phê phán nghiêm khắc.

Thế nhưng tình hình đã nhanh chóng thay đổi sau ngày 2-9-1945. Qua làn sóng điện, lời Tuyên ngôn độc lập đã truyền xa tới năm châu bốn biển. Chủ tịch Hồ Chí Minh thay mặt Chính phủ lâm thời của Việt Nam Dân chủ Cộng hoà và đại diện cho toàn dân tộc Việt Nam đã trịnh trọng "tuyên bố thoát ly hẳn quan hệ thực dân với Pháp, xoá bỏ hết những hiệp ước mà Pháp đã ký về nước Việt Nam, xoá bỏ tất cả mọi đặc quyền của Pháp trên đất nước Việt Nam"2. Đồng thời cũng đanh thép khẳng định trước toàn thế giới: "Nước Việt Nam có quyền hưởng tự do và độc lập, và sự thật đã thành một nước tự do độc lập. Toàn thể dân tộc Việt Nam quyết đem tất cả tinh thần và lực lượng, tính mạng và của cải giữ vững quyền tự do, độc lập ấy"3.

Ngay sau đó, lời lẽ trên báo chí cộng sản Pháp bắt đầu thay đổi, Bộ Chính trị Đảng Cộng sản Pháp ra thông báo ngày 20-9, rồi cuộc mít tinh ngày 12-1, rõ ràng là đến ba tháng cuối năm 1945 Đảng Cộng sản Pháp đã có ý thức khắc phục nhanh chóng tình trạng chậm trễ, lạc hậu trước đó về mặt thông tin. Nhưng cũng phải đợi tới mùa Xuân năm 1946 thì những sợi dây nối liền hai Đảng anh em mới được thắt chặt lại. Ngày 15-11-1945, Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Đông Dương đã ra Chỉ thị Kháng chiến, kiến quốc nhận định rằng, sau cuộc tuyển cử tháng 10-1945, Đảng Cộng sản Pháp là đảng mạnh nhất trong Quốc hội Pháp4. Ngày 9-3-1946 - nghĩa là ngay sau khi Hiệp định Sơ bộ được ký kết giữa Việt Nam và Pháp, Trung ương Đảng Cộng sản Đông Dương quyết định gấp rút bắt liên lạc với Đảng Cộng sản Pháp nhằm phối hợp hành động chung. Tiếp đó, ngày 16-4-1946, Phái đoàn Quốc hội nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà do đồng chí Phạm Văn Đồng dẫn đầu tới Pháp, và ngày 7-5 tại trụ sở Đảng Cộng sản Pháp đã có cuộc gặp gỡ giữa phái đoàn ta với các đồng chí M.Tôrê (Maurice Thorez), J. Đuyclô (Jacques Duclos) và A. Mácti (André Marty). Chỉ đến lúc này Ban lãnh đạo Đảng Cộng sản Pháp mới được thông báo một cách chính thức và đầy đủ về tình hình Việt Nam. Một số việc trước đó do thiếu thông tin liên lạc mà có sự hiểu lầm lẫn nhau, như việc Đảng Cộng sản Đông Dương tuyên bố "tự giải tán" vào tháng 11-1945, được thanh toán. "Sự tin cậy" và "Sự thống nhất quan điểm” giữa hai Đảng được thiết lập lại. Sau này, khi trả lời phỏng vấn về việc nối lại mối quan hệ giữa hai Đảng nhân chuyến dẫn đầu phái đoàn Quốc hội sang Pháp hồi tháng 4-1946, đồng chí Phạm Văn Đồng (hồi đó là trưởng phái đoàn) đã khẳng định: "Phải, đúng vậy? Không thể có khả năng nào khác. Chúng tôi đã tiếp xúc chặt chẽ với nhau... Chúng tôi đã có nhiều cố gắng để thông báo cho Đảng Cộng sản Pháp hiểu rõ tình hình. Đảng Cộng sản Pháp đã trở thành một đảng lớn, nhưng đảng đó không thể hiểu hết tất cả"5.

Ngay sau đó, trên tờ báo Nhân đạo (L' Humanité) của Đảng Cộng sản Pháp đã đánh giá Hiệp định Sơ bộ (6-3-1946) là biểu hiện của “một chính sách hiện thực" của Chính phủ Pháp. Tiếp theo là một loạt bài đòi phía Pháp phải thanh lọc ra khỏi đội viễn chinh những phần tử phản động và thực dân, đưa đến Việt Nam những người có đầu óc dân chủ chống lại chính sách của bọn tư bản độc quyền ở thuộc địa. Đảng Cộng sản Pháp còn tích cực chống lại âm mưu tách Nam Kỳ ra khỏi Việt Nam, và trong suốt quá trình họp Hội nghị Phôngtennơblô (Fontainebleau) đã lên tiếng vạch mặt T. Đácgiăngliơ (Thierry d' Argenlieu) Cao uỷ Pháp ở Thái Bình Dương và Mắc Ăngđrê (Max André) cầm đầu phái đoàn Pháp tại hội nghị là đại diện của các tờrớt và ngân hàng Đông Dương.

Đứng về phía ta mà nói, hoàn toàn không có ảo tưởng với thực dân Pháp. Tuy Chính phủ ta đã ký với đại diện Chính phủ Pháp Hiệp định sơ bộ (6-3-1946) đặt cơ sở cho việc đàm phán đi đến một hiệp ước chính thức, trước đó Ban Thường vụ Trung ương Đảng đã ra Chỉ thị Tình hình và chủ trương (3-3-1946), sau khi phân tích chính xác âm mưu xảo quyệt của bọn đế quốc và tay sai, cuối cùng đã khẳng định: nếu Pháp giữ chủ trương cho Đông Dương tự trị theo bản Tuyên ngôn ngày 24-3-1945 thì nhất định đánh, và rất có thể đánh lâu dài theo lối du kích. Nhưng nếu Pháp công nhận Đông Dương tự chủ thì có thể hoà6. Đồng thời với việc vạch rõ những nguyên tắc cơ bản cho việc đàm phán giữa ta và Pháp là độc lập và hợp tác trên cơ sở bình đẳng, Pháp phải công nhận quyền dân tộc tự quyết của nhân dân ta. Ta công nhận quyền quân Pháp đóng tạm thời và có hạn trên đất nước ta. Chỉ thị nhấn mạnh: "Điều cốt tử là trong khi mở cuộc đàm phán với Pháp, không những không ngừng một phút công việc sửa soạn, sẵn sàng kháng chiến bất cứ lúc nào và ở đâu, mà còn hết sức xúc tiến việc sửa soạn ấy và nhất định không để cho việc đàm phán với Pháp làm nhụt tinh thần quyết chiến của dân tộc ta"7.

Sau khi Hiệp định được ký kết ba ngày, Ban Thường vụ Trung ương Đảng lại ra Chỉ thị Hoà để tiến (9-3-1946) vạch rõ lý do cần phải hoà với Pháp, phê phán những khuynh hướng sai lầm có thể nảy sinh trong cán bộ, đảng viên và nhân dân, nhấn mạnh nhiệm vụ đề phòng thực dân Pháp bội ước, tận dụng khả năng hoà hoãn, tích cực chuẩn bị kháng chiến toàn quốc.

Nhưng Hiệp định Sơ bộ ký kết chưa ráo mực thì bọn phản động ở Pháp và Đông Dương đã bội ước, ngoan cố tìm mọi cách phá cuộc đàm phán, cố tình cắt hết mọi con đường hoà hoãn, buộc nhân dân ta trong cả nước phải đứng dậy cầm vũ khí giết giặc. Ngày 19-12-1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh ra Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến: "Chúng ta muốn hoà bình, chúng ta phải nhân nhượng. Nhưng chúng ta càng nhân nhượng, thực dân Pháp càng lấn tới, vì chúng quyết tâm cướp nước ta lần nữa.

Không! Chúng ta thà hy sinh tất cả, chứ nhất định không chịu mất nước, nhất định không chịu làm nô lệ... Bất kỳ đàn ông, đàn bà, bất kỳ ngươi già, người trẻ, không chia rẽ tôn giáo, đảng phái, dân tộc. Hễ là người Việt Nam thì phải đứng lên đánh thực dân Pháp để cứu Tổ quốc"8.

Thời gian này, tình hình nước Pháp có nhiều sự kiện đáng chú ý. Tháng 1-1947, V. Ôriôn (Vincent Auriol), người của Đảng Xã hội trúng cử Tổng thống nước Pháp, nội các P. Ramađiê (Paul Ramadier) thành lập và trong chính phủ mới của nước Pháp lần này vẫn có năm bộ trưởng là đảng viên Đảng Cộng sản Pháp. Đảng Cộng sản Pháp vẫn kiên trì đấu tranh cho một giải pháp hoà bình trong vấn đề Việt Nam và đòi Chính phủ P. Ramađiê phải điều đình với Chính phủ Hồ Chi Minh. Mặc dù là một chính đảng lớn ở Pháp bấy giờ, Đảng Cộng sản Pháp vẫn chưa đủ mạnh để định hướng cho đường lối chính trị của nước Pháp.

Tuy nhiên, trước áp lực của các cuộc đấu tranh của nhân dân Pháp, của những người cộng sản Pháp, lại bị những đòn giáng trả mãnh liệt của quân và dân Việt Nam, đế quốc Pháp buộc phải thay đổi thủ đoạn. Tháng 3-1947, E. Bôlae (Emile Bolaert) được cử sang làm Cao uỷ Đông Dương với "sứ mạng" tuyên bố bên ngoài là hoà bình, nhưng kết thúc chiến tranh bằng một cuộc tiến công quân sự đè bẹp chế độ ta, rồi sử dụng "con bài Bảo Đại" lập ra một chính phủ bù nhìn làm tay sai cho chúng. Để kịp thời đối phó lại âm mưu mới của kẻ thù, ngày 15-9-1947, Ban Thường vụ Trung ương Đảng đã ra Chỉ thị: Bôla nói gì, ta phải làm gì? nêu rõ: "Mọi lực lượng của dân tộc ta phải được động viên vào việc chống mưu mô "dùng người Việt trị người Việt" của thực dân Pháp và sửa soạn phá những cuộc tấn công lớn của địch trong những tháng tới đây. Quân sự thắng lợi giúp cho chính trị thành công"9. Chỉ thị đầy tin tưởng kết luận: "Chúng ta không cô độc, lẻ loi. Chỉ cần dân tộc ta luôn luôn đoàn kết chặt chẽ toàn dân, kháng chiến lâu dài, chủ trương cho đúng, nhất định chúng ta sẽ thắng. Rồi đây, không phải những kẻ như Bôla có thể ra điều kiện cho ta, mà chính sức đoàn kết và tranh đấu mạnh mẽ của dân tộc ta và dân tộc Pháp sẽ bắt buộc bọn thực dân phản động Pháp hàng phục"10.
____________________________________________________
1. Báo Nhân đạo, các số ra ngày 17,18-9 và ngày 15-10-1944.
2, 3. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 4, tr. 3, 4.
4. Tại Quốc hội, Đảng Cộng sản Pháp và các nhóm tiến bộ ứng cử dưới ngọn cờ của tổ chức Liên minh ái quốc cộng hoà chống phátxít chiếm 60 ghế trên tổng số 586 ghế ngày 21-11-1945, đã có 5 bộ trưởng là đảng viên Đảng Cộng sản Pháp và Chính phủ mới của Đờ Gôn.
5. Alanh Ruýtxiô: Những người cộng sản Pháp và cuộc chiến tranh Đông Dương 1944-1954, Sđd, tr. 71.
6, 7. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd, t. 8, tr. 43, 46.
8. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 4, tr. 480.
9. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd, t.8, tr. 302.
10. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd, t.8, tr. 303.
Logged
chuongxedap
Đại tá
*
Bài viết: 13138



« Trả lời #146 vào lúc: 11 Tháng Ba, 2022, 10:22:09 am »


Thực hiện Chỉ thị ngày 15-10-1947 của Trung ương Đảng, quân và dân ta trên khắp các chiến trường toàn quốc đã phối hợp chặt chẽ với quân và dân Việt Bắc chiến đấu anh dũng và chiến thắng vẻ vang, càng làm cho quân và dân cả nước thêm tin tưởng vào thắng lợi cuối cùng của cuộc kháng chiến lâu dài.

Lúc này tại nước Pháp, sự liên minh của những lực lượng chống lại đường lối chính trị của Đảng Cộng sản Pháp ngày càng quyết liệt, Thủ tướng P. Ramađiê quyết định năm bộ trưởng đảng viên cộng sản phải rút khỏi Chính phủ. Trong tình hình đó, mặc dù Đảng Cộng sản Pháp vẫn nỗ lực đấu tranh cho một giải pháp hoà bình, rõ ràng tương quan lực lượng lúc đó chưa cho phép đảng bạn tạo ra được những chuyển biến căn bản. Tuy nhiên, Đảng Cộng sản Pháp đã kịp thời có một quyết định chính xác mang tính năng động và linh hoạt: không có giới hạn vấn đề Việt Nam trong khuôn khổ quan hệ Pháp - Việt mà mở rộng ra và đặt nó trong khuôn khổ hai phe trên thế giới.

Từ năm 1947 đến năm 1954, nỗ lực của Đảng Cộng sản Pháp đã vạch rõ cho nhân dân Pháp thấy rằng cuộc chiến tranh ở Đông Dương làm tăng thêm sự lệ thuộc của Pháp vào Mỹ, đe doạ nền độc lập của Pháp, đồng thời cũng làm cho nhân dân Pháp hiểu cuộc đấu tranh vì hoà bình ở Việt Nam có quan hệ chặt chẽ với việc bảo vệ nền độc lập của nước Pháp đối với đế quốc Mỹ. Báo chí của Đảng, như các tờ Nhân đạo (L'Humanité), Nước Pháp mới (France nouvelle) đăng nhiều bài đòi chấm dứt chiến tranh ở Việt Nam, phải điều đình lập tức với Chính phủ Hồ Chí Minh và vạch rõ đó là lợi ích của cả hai nước Việt Nam và Pháp. Trong các phiên họp Quốc hội, các nghị sĩ đảng viên Đảng Cộng sản Pháp đã lớn tiếng lên án phái chủ chiến. Tại phiên họp ngày 21-1-1950, nữ đồng chí J. Vécmét (Jeannette Vermersch) phẫn nộ lên án các đảng phái chủ chiến: "Các ngài quên rằng nhân dân Việt Nam đang ở trên đất nước của họ. Không phải họ là kẻ xâm lược, mà chính là các ngài... Không phải là nhân dân Việt Nam đã ném bom Mácxây, mà chính là các ngài đã ném bom Hải Phòng... Căm thù ư? Đúng là tôi căm thù. Tôi căm thù khi tôi đang nghĩ tới hàng triệu trẻ em đang lâm vào cảnh đói rét, khi tôi nghĩ tới hàng triệu người vô sản bị các ngài bóc lột; phải, tôi căm thù vì đa số nghị sĩ trong Quốc hội này là bọn đế quốc..."1.

Các tổ chức của nước Pháp (như Tổng Công đoàn, Liên đoàn Phụ nữ, Liên đoàn Thanh niên) đã có nhiều hình thức đấu tranh khác nhau rất sáng tạo, như lấy chữ ký đòi hoà bình ở Việt Nam để trao cho các uỷ viên hội đồng thành phố, cho các nghị sĩ, bộ trưởng, tổng thống...; mít tinh biểu tình trong khắp nước; tổ chức những buổi họp mặt mang tên "Vì Việt Nam", các bà mẹ Pháp đòi trả con khi còn sống chứ không phải khi đã nằm trong quan tài; các bà mẹ để tang con; tổ chức hòm phiếu đòi hoà bình ở Việt Nam, v.v..

Cũng trong thời gian đó, từ năm 1949 đến năm 1953, trên thế giới và ở Việt Nam đã có những chuyển biến lớn bất lợi cho bọn đế quốc. Quân giải phóng Trung Quốc đã tiến xuống miền nam áp sát biên giới phía bắc Việt Nam. Năm 1950, chiến tranh Triều Tiên bùng nổ, ba năm sau đế quốc Mỹ và bè lũ chư hầu thua phải rút về phía nam. Ở Việt Nam, cuộc kháng chiến đã chuyển sang giai đoạn mới, các tỉnh biên giới phía bắc từ Cao Bằng đến Lạng Sơn đều được giải phóng. Đế quốc Mỹ lợi dụng tình hình khốn đốn của Pháp ở Việt Nam đã trắng trợn can thiệp vào Đông Dương. Cái bóng đen đế quốc Mỹ đang trùm lên nền độc lập của chính bản thân nước Pháp. Nava đã thú nhận: "Điều nguy hiểm nhất của viện trợ Mỹ là về phương diện chính trị... Viện trợ Mỹ ngày càng xen sâu vào các công việc của chúng ta,... chúng ta sẽ rơi vào hoàn cảnh trái ngược là do việc nhận viện trợ Mỹ, đã gần như chắc chắn là chúng ta sẽ mất Đông Dương, dù rằng viện trợ đó có làm cho chúng ta chiến thắng trong cuộc chiến tranh"2.

Trong hoàn cảnh đó, Đảng Cộng sản Pháp vì chủ nghĩa quốc tế, vì lợi ích dân tộc của nước Pháp, càng đẩy mạnh việc lãnh đạo đấu tranh đòi chấm dứt chiến tranh xâm lược Việt Nam. Yêu cầu lúc này được đặt cao hơn, không thể chỉ dừng lại ở giai đoạn tuyên truyền, cổ động, mà phải có những cuộc đấu tranh có tính chất hành động tích cực. Hưởng ứng lời kêu gọi của Đảng Cộng sản Pháp, Tổng Công đoàn Pháp phát động những cuộc bãi công ở các cảng có tàu chuyên chở vũ khí và trang thiết bị đi Đông Dương. Từ Mácxây (Marseille), Tulông (Toulon), Lơ Havrơ (Le Havre), Đoongkéc (Dunkerque), Angiê (Alger)... nơi nơi đều có những cuộc đấu tranh rầm rộ của công nhân bốc dỡ không chịu chuyển hàng lên tàu, bất chấp sự đàn áp, cúp phạt, thậm chí bắt bớ, giam cầm, tù đày của chính quyền phản động.

Các cuộc đấu tranh của công nhân cảng cũng như các cuộc đấu tranh trên toàn nước Pháp luôn luôn gắn liền với việc đòi đưa quân đội viễn chinh về nước, đòi hoà bình ở Việt Nam, đòi điều đình với Chính phủ Hồ Chí Minh. Điển hình cho phong trào đấu tranh sôi động và quyết liệt của nhân dân và công nhân Pháp là các vụ Raymông Điêng (Raymond Dien) nằm trên đường sắt ngăn đoàn xe lửa chở vũ khí (24-2-1949) và chiến dịch đòi trả lại tự do cho Hăngri Máctanh (Henri Martin), một đảng viên cộng sản Pháp từng có mặt trên chiến trường Đông Dương, và khi trở về Pháp đã trở thành người tố cáo tội ác của bọn hiếu chiến Pháp xâm lược Việt Nam.

Trong suốt ba năm (1950-1953), những người cộng sản, giai cấp công nhân, các liên đoàn thanh niên và phụ nữ ở Pháp với nhiều hoạt động phong phú đã biến vụ Hăngri Máctanh thành một ngòi nổ làm vang động vấn đề Việt Nam trong tâm trí nhân dân Pháp và tạo thành một sức mạnh chưa từng có ở khắp thành thị và nông thôn nước Pháp đấu tranh đòi hoà bình ở Đông Dương. Lương tri và lương tâm của đông đảo nhân dân Pháp - trong đó có nhiều nhân vật trí thức chống cộng sản nổi tiếng, đã được thức tỉnh về việc phản đối cuộc chiến tranh bẩn thỉu do bọn thực dân Pháp đang tiến hành ở Đông Dương. Cuối cùng trước khí thế mãnh liệt của phong trào đấu tranh, ngày 2-8-1953, Tổng thống Pháp phải ra lệnh trả lại tự do cho Hăngri Máctanh. Báo Nhân đạo (L'Humanité) hân hoan xác nhận đây là thắng lợi cao đẹp của sự thống nhất và của hành động vì bảo vệ tự do và vì hoà bình ở Việt Nam.

Chính trong thời gian này trên chiến trường Đông Dương, đội quân viễn chinh Pháp ngày càng lâm vào tình trạng khốn đốn. Quân đội và nhân dân Việt Nam phối hợp chặt chẽ với quân đội và nhân dân Lào và Campuchia cùng lúc đẩy mạnh phản công trên khắp các chiến trường, giải phóng thêm nhiều vùng rộng lớn, gây thêm nhiều tổn thất nặng nề cho quân đội Pháp và làm tan rã đội quân bù nhìn. Nước Pháp lâm vào thế đứng trên bờ vực thẳm. Nước Pháp không thể một mình tiến hành chiến tranh được nữa. Đó là những sự thật rành rành mà bất cứ người đứng đầu nào của nước Pháp lúc bấy giờ cũng phải thú nhận, dù người đó là ai3. Ngày 17-4-1953, P. Râynô (Paul Reynaud) mới từ Đông Dương về cay đắng nói thẳng với Tổng thống V. Ôriôn (Vincent Auriol) như sau: "Tôi cho rằng tiếp tục duy trì sự chảy máu này là cuộc chiến tranh Đông Dương, đó là một tội ác chống lại nước Pháp"4.

Ngày 7-5-1954, toàn bộ chiến cuộc Đông Xuân 1953-1954 mà đỉnh cao là Chiến dịch Điện Biên Phủ kết thúc thắng lợi. Chỉ một ngày sau, sự kiện Điện Biên Phủ, vấn đề Đông Dương đã được đề cập tới trên bàn Hội nghị Giơnevơ. Đúng vào lúc này, Chính phủ J. Lanien (Joseph Laniel) hiếu chiến bị Quốc hội Pháp lật đổ, Chính phủ mới do M. Phrăngxơ (Mendès - France) cầm đầu lên thay, với sự tán thành của các nghị sĩ cộng sản. Ngay sau đó, những người cộng sản Pháp càng ra sức đẩy mạnh việc mở rộng mặt trận chống chiến tranh ở Đông Dương. Hoạt động của họ không những được đông đảo nhân dân Pháp, các tổ chức tôn giáo hưởng ứng mà còn tạo ra sức mạnh làm chuyển biến cả thái độ những nhân vật chống cộng ở Pháp vốn có ảnh hưởng trong phái chủ chiến như A. Xarô (Albert Sarraut), E. Đalađê (Edouard Đalader), E. Eriô (Edouard Herriot), kể cả Thủ tướng M. Phrăngxơ. Nhiều cuộc mít tinh đông tới hàng vạn người đòi hoà bình ở Việt Nam đã diễn ra suốt trong hai tháng 6 và 7-1954 trong thời gian hội nghị. Đảng Cộng sản Pháp đã kịp thời cảnh cáo âm mưu của phái đoàn Pháp đòi thêm đất đai trong vùng tập kết ở miền Nam: "Ngừng bắn phải là tiền đề cho sự lập lại hoà bình lâu dài, và không thể có hoà bình lâu dài nếu không có giải pháp chính trị. Nếu Chính phủ Pháp tưởng rằng có thể đàm phán và ngừng bắn song song với việc khuyến khích chính sách thành lập một căn cứ xâm lược của Mỹ xung quanh nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà thì đó là một lầm lẫn lớn"5. Đảng Cộng sản Pháp cũng kiên quyết phản đối mưu toan lập ra ở miền Nam Việt Nam một nhà nước phân biệt và coi vĩ tuyến 17 của ranh giới tạm thời trở thành ranh giới chiến lược.

Kết quả là Hiệp định Giơnvevơ về Đông Dương được ký kết, và rõ ràng, những người cộng sản Pháp đã có phần đóng góp vào sự thành công đó. Đối với những người cộng sản Pháp, thắng lợi ở Điện Biên Phủ và ở Hội nghị Giơnevơ được xem là thắng lợi chung của cả nhân dân Pháp lẫn nhân dân Việt Nam. Trong cuộc mít tinh lớn ở Pari ngày 22-7-1954, J. Duyclô (Jacques Duclos) đã giải thích: "Thắng lợi này không phải là kết quả của ý muốn tốt của một số người, nó là kết quả của hành động quần chúng đã cô lập được chính phủ tay sai của Mỹ ở trong nước, và nó đã buộc một số giới tư bản phải biểu lộ rõ ràng hơn những sự khác biệt đối lập về quyền lợi của họ với quyền lợi của bọn tư bản trực tiếp gắn bó với Mỹ"6.

Đối với những người cộng sản Pháp, hoà bình được lập lại ở việt Nam và Đông Dương năm 1954 cũng là thắng lợi của hoà bình thế giới.

Trên đây là những nét lớn về các hoạt động phối hợp của Đảng Cộng sản Pháp, của những người cộng sản Pháp với nhân dân Việt Nam trong quá trình diễn ra cuộc kháng chiến thần thánh thứ nhất của nhân dân Việt Nam chống thực dân Pháp xâm lược. Để thấy rõ tầm vóc ý nghĩa cuộc đấu tranh này của nhân dân Pháp dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Pháp, có thể dẫn nhận định tổng quát sau đây của một nhà sử học Pháp:

"Ở nước Việt Nam, việc chống lại chủ nghĩa thực dân không phải là không có được... Nhưng chưa từng có cuộc đấu tranh nào lại đặc biệt kéo dài đến như vậy, từ 1944 đến 1954... Người ta có thể khẳng định rằng cuộc đấu tranh chống lại cuộc chiến tranh ở Đông Dương trước hết là do những người cộng sản tiến hành: đó là cuộc chiến tranh lâu dài đầu tiên của quần chúng trong lịch sử chống chủ nghĩa thực dân Pháp"7.

Bằng hoạt động tích cực và to lớn của mình, Đảng Cộng sản Pháp đã triệt để thực hiện luận cương về sự liên minh giữa phong trào giải phóng dân tộc ở thuộc địa với chính đảng cách mạng ở chính quốc. Chính vì ý nghĩa to lớn đó mà việc tìm hiểu thấu đáo những hoạt động của Đảng Cộng sản Pháp và những người cộng sản Pháp phối hợp với nhân dân ta trong cuộc kháng chiến chín năm (1946-1954) sẽ góp phần vào việc củng cố, tăng cường sự hiểu biết lẫn nhau về mọi mặt, tăng cường quan hệ hữu nghị giữa hai đảng và nhân dân hai nước.
____________________________________________________
1. Alanh Ruýtxiô: Những người cộng sản Pháp và cuộc chiến tranh Đông Dương 1944-1954, Sđd, tr. 220-221.
2. H. Nava: Đông Dương hấp hối, Sđd, tr. 28.
3. Alanh Ruýtxiô: Những người cộng sản Pháp và cuộc chiến tranh Đông Dương 1944-1954, Sđd, tr. 291-292.
4. Alanh Ruýtxiô dẫn trong L'Historiographie française et Dien Bien Phu: un demie de siècle recherches et de controverses (Sử liệu học Pháp và Điện Biên Phủ: Nửa thế kỷ nghiên cứu và tranh luận).
5. Alanh Ruýtxiô: Những người cộng sản Pháp và cuộc chiến tranh Đông Dương 1944-1954, Sđd, tr. 303.
6, 7. Alanh Ruýtxiô: Những người cộng sản Pháp và cuộc chiến tranh Đông Dương 1944-1954, Sđd, tr. 310, 394.
Logged
chuongxedap
Đại tá
*
Bài viết: 13138



« Trả lời #147 vào lúc: 11 Tháng Ba, 2022, 11:03:17 am »


HỘI NGHỊ QUỐC TẾ VỀ ĐỒNG DƯƠNG
VÀ KÝ KẾT HIỆP ĐỊNH GIƠNEVƠ NĂM 1954
1

BỐI CẢNH DẪN ĐẾN HỘI NGHỊ QUỐC TẾ VỀ ĐÔNG DƯƠNG

Từ giữa năm 1953, tình hình thế giới xuất hiện một số nhân tố mới tác động đến chiều hướng phát triển của chiến tranh ở Đông Dương.

Cuộc chiến tranh lạnh ở vào thời kỳ quyết liệt, hai khối và hai hệ thống chính trị đối lập đấu tranh với nhau gay gắt.

Cuộc đàm phán về chiến tranh Triều Tiên bắt đầu từ tháng 8-1951 đến tháng 7-1953, đã dẫn đến việc ký kết Hiệp định đình chiến ở Triều Tiên ngày 27-7-1953 trên cơ sở giữ nguyên trạng hai miền Triều Tiên. Kết cục của chiến tranh Triều Tiên thúc đẩy xu hướng giải quyết các cuộc xung đột vũ trang ở Viễn Đông bằng thương lượng hoà bình và khởi động quá trình các nước lớn tìm cách giải quyết vấn đề Đông Dương thông qua một giải pháp quốc tế.

Liên Xô, Trung Quốc cho rằng đình chiến ở Triều Tiên cho thấy các cuộc tranh chấp quốc tế đều có khả năng giải quyết bằng thương lượng; đình chiến ở Triều Tiên có thể thúc đẩy chấm dứt chiến tranh ở Đông Dương. Trong công hàm gửi các nước lớn ngày 4-8-1953, Liên Xô lần đầu tiên gợi ý triệu tập hội nghị năm nước lớn gồm Anh, Hoa Kỳ, Pháp, Liên Xô và Trung Quốc để nghiên cứu các biện pháp nhằm làm giảm tình hình căng thẳng ở Viễn Đông. Do bị sa lầy trong cuộc chiến tranh xâm lược và ngày càng bị phản đối mạnh mẽ ở trong nước, Chính phủ Pháp bày tỏ quan tâm đến một giải pháp thương lượng về Đông Dương trong khuôn khổ một cuộc hội nghị nhiều bên.

Sau khi Tổng Bí thư Đảng Cộng sản Liên Xô Xtalin mất tháng 3-1953, Ban lãnh đạo mới của Liên Xô điều chỉnh chiến lược đối ngoại, đẩy mạnh hoà hoãn quốc tế, nhằm củng cố thực lực trong nước, thực hiện cuộc thi đua với Mỹ để giành ưu thế trên các lĩnh vực.
Cộng hoà nhân dân Trung Hoa thực hiện năm đầu của kế hoạch phát triển kinh tế 5 năm lần thứ nhất nhằm đặt nền móng xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Trung Quốc; đẩy mạnh chính sách cùng tồn tại hoà bình, trước hết với các nước châu Á, nhằm phá thế bao vây cấm vận mà Mỹ áp đặt để chống Trung Quốc từ năm 1951 sau khi Trung Quốc gửi chí nguyện quân sang Triều Tiên để viện Triều chống Mỹ.

Từ năm 1950 đến năm 1954, trong hoàn cảnh kinh tế quốc dân mới phục hồi, nhất là Trung Quốc vừa trải qua cuộc viện Triều chống Mỹ, hai nước Liên Xô và Trung Quốc vẫn dành cho Việt Nam Dân chủ Cộng hoà các khoản viện trợ vật chất rất quan trọng, gồm vũ khí, đạn dược, quân trang, quân y, thông tin, công binh.

Viện trợ quốc tế cho Việt Nam Dân chủ Cộng hoà
Năm   Trọng lượngTrị giá
1950     3.983 tấn
1951     6.086 tấn
1952     2.156 tấn
1953     4.400 tấn
1954     4.892 tấn
Cộng   21.517 tấn   136 triệu đồng nhân dân tệ (34 triệu rúp)
Nguồn: Ban Chỉ đạo tổng kết chiến tranh - trực thuộc Bộ Chính trị: Tổng kết cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp - Thắng lợi và bài học, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1996, tr. 459.

Tại Đông Dương, quân đội Pháp sa sút tinh thần; chính sách "dùng người Việt đánh người Việt, lấy chiến tranh nuôi chiến tranh" không đem lại kết quả mong muốn; viện trợ ồ ạt của Mỹ cũng không giúp được quân đội viễn chinh Pháp ở Đông Dương xoay chuyển được cục diện chiến tranh. Mỹ tăng cường can thiệp và dính líu sâu vào Đông Dương, giúp đỡ tiền bạc, vũ khí cho Pháp và ngụy quân, ngụy quyền. Từ năm 1950 đến năm 1953, phương tiện chiến tranh của Mỹ chuyển giao cho Pháp tăng gấp 10 lần. Hoa Kỳ đặt Đông Dương trong phòng tuyến chống cộng của Mỹ ở châu Á - Thái Bình Dương, như Ngoại trưởng Đalét tuyên bố ngày 13-1-1954: "Đứng về chiến lược, quyền lợi của Mỹ ở vùng Viễn Đông gắn chặt với các đảo ở bờ biển vùng đó. Các đảo đó có hai cứ điểm ở trên lục địa: phía bắc là Triều Tiên và phía nam là Đông Dương. Giữa hai cứ điểm đó là các đảo Nhật Bản, Lưu Cầu, Ôkinaoa, Đài Loan, Phi Luật Tân, Úc, Tân Tây Lan..."2. Mặt khác, Mỹ vừa gây sức ép, vừa tranh thủ chính quyền Pháp phê chuẩn bản điều ước phòng thủ ở châu Âu, khôi phục lại Tây Đức.

Viện trợ tài chính của Mỹ cho Pháp cũng không ngừng tăng lên, chiếm tỷ lệ ngày càng cao trong chi phí chiến tranh của Pháp tại Đông Dương: Năm 1950 là 19%, năm 1952 lên 35%, năm 1953 lên 43% và năm 1954 lên tới 73%.

Dụng cụ quân sự chuyển giao
không phải trả tiền của Mỹ cho Pháp ở Đông Dương
Năm   Trọng lượng   Trị giá
1950        11.009 tấn
1951        72.021 tấn
1952        94.041 tấn
Nguồn: Hồ sơ lưu trữ của Bộ Ngoại giao Pháp (châu Á - châu Đại Dương). Bản ghi nhớ về viện trợ của Mỹ cho Đông Dương, 30-11-1953
Năm   Trọng lượng   Trị giá
Tháng 2-1953   137.000 tấn   2.600 triệu đôla Mỹ
Tháng 7-1954   150.000 tấn
Nguồn: Các tài liệu Lầu Năm Góc, Boacon Press, Boston, 1971, t.1, tr.200.

Tháng 7-1953, Chính phủ Plêven cử Nava sang làm Tổng Chỉ huy quân Pháp ở Đông Dương với một chiến lược quân sự hoàn chỉnh nhằm giành thắng lợi quân sự lớn để kết thúc chiến tranh trong vòng hai năm, tạo thế mạnh cho đàm phán. Kế hoạch này được chính quyền Mỹ ủng hộ.

Các tính toán quân sự và ngoại giao của Chính phủ Pháp được để ra trước những áp lực nội bộ mạnh mẽ. Chiến tranh kéo dài, tình hình kinh tế - xã hội Pháp ngày càng khó khăn. Phong trào nhân dân Pháp chống chiến tranh phát triển mạnh mẽ, lan rộng, với nhiều cuộc bãi công, biểu tình khổng lồ. Đảng Cộng sản Pháp thắng lợi lớn trong cuộc bầu cử Quốc hội. Giải pháp Bảo Đại thất bại. Cuối tháng 10-1953, Quốc hội Pháp thảo luận sôi nổi về cuộc chiến tranh Đông Dương. Nhiều nghị sĩ Pháp đòi Chính phủ đàm phán ngay với Chính phủ của Hồ Chí Minh.
____________________________________________________
1. Nguyễn Đình Bin (Chủ biên): Ngoại giao Việt Nam 1945 – 2000, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000.
2. Dẫn theo Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.7, tr. 404.
Logged
chuongxedap
Đại tá
*
Bài viết: 13138



« Trả lời #148 vào lúc: 11 Tháng Ba, 2022, 11:06:39 am »


Để tác động mạnh vào nội bộ Pháp và tranh thủ dư luận thế giới, khi trả lời báo Expressen Thụy Điển, ngày 26-11-1953, Chủ tịch Hồ Chí Minh tuyên bố: "Hiện nay nếu thực dân Pháp tiếp tục cuộc chiến tranh xâm lược thì nhân dân Việt Nam quyết tâm tiếp tục cuộc chiến tranh ái quốc đến thắng lợi cuối cùng. Nhưng nếu Chính phủ Pháp đã rút được bài học trong cuộc chiến tranh mấy năm nay, muốn đi đến đình chiến ở Việt Nam bằng cách thương lượng và giải quyết vấn đề Việt Nam theo lối hoà bình thì nhân dân và Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hoà sẵn sàng tiếp ý muốn đó... Cơ sở của việc đình chiến ở Việt Nam là Chính phủ Pháp thật thà tôn trọng nền độc lập thật sự của nước Việt Nam"1... Chủ tịch Hồ Chí Minh còn nói thêm: "Việc thương lượng đình chiến chủ yếu là một việc giữa Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hoà với Chính phủ Pháp"2. Trong lời kêu gọi nhân dịp kỷ niệm bảy năm toàn quốc kháng chiến, ngày 19-12-1953, Chủ tịch Hồ Chí Minh một lần nữa tuyến bố với nhân dân Việt Nam và nhân dân Pháp: "Bởi vì thực dân Pháp cứ tiếp tục cuộc chiến tranh xâm lược, cho nên nhân dân Việt Nam quyết đánh mạnh hơn nữa, tiêu diệt sinh lực địch nhiều hơn nữa, quyết kháng chiến đến thắng lợi cuối cùng. Nhưng nếu Chính phủ Pháp muốn đi đến đình chiến ở Việt Nam bằng cách thương lượng và muốn giải quyết vấn đề Việt Nam theo lối hoà bình, thì nhân dân và Chính phủ nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà cũng sẵn sàng nói chuyện"3.

Tuyên bố của Chủ tịch Hồ Chí Minh gây tiếng vang lớn trên thế giới, nhất là ở Pháp. Các đoàn thể và nhiều nhà chính trị Pháp sôi nổi đòi Chính phủ Lanien đàm phán với Chính phủ Hồ Chí Minh. Trước sức ép của dư luận, ngày 12-12-1953, Thủ tướng Lanien phải tuyên bố: "Nếu một giải pháp danh dự xuất hiện trong khung cảnh địa phương hoặc trong khung cảnh quốc tế, nước Pháp sẽ vui lòng chấp nhận một giải pháp ngoại giao cho cuộc xung đột". Ngày 3-12, Chính phủ Pháp tuyên bố muốn biết lập trường của "phía bên kia" (Việt Nam Dân chủ Cộng hoà) bằng con đường chính thức và tỏ ý xem xét việc lập lại hoà bình, bảo đảm độc lập cho "các quốc gia liên kết" ở Việt Nam, Lào, Campuchia.

Triển khai thực hiện kế hoạch Nava, ngày 20-11-1953, Pháp cho quân nhảy dù xuống Điện Biên Phủ. Cùng thời gian này, bộ đội Việt Nam đã tiến hành thắng lợi các Chiến dịch ở Tây Bắc, Khu V, đồng thời phối hợp với bộ đội Pathét Lào thực hiện Chiến dịch Thu Đông, giành thắng lợi ở Trung Lào, Thượng Lào và nhiều nơi khác. Từ đầu năm 1954, bộ đội ta hình thành thế bao vây chuẩn bị công hãm Điện Biên Phủ với quyết tâm tiêu diệt một tập đoàn cứ điểm lớn nơi tập trung phần lớn các lực lượng cơ động của Pháp, tạo chuyển biến mới cho cục diện kháng chiến cứu nước.

Ngày 25-1-1954, tại Béclin, Hội nghị bốn nước lớn Liên Xô, Mỹ, Anh, Pháp khai mạc. Ngày 18-2-1954, Hội nghị kết thúc, ra tuyên bố cuối cùng, đề nghị triệu tập vào ngày 26-4 ở Giơnevơ một hội nghị quốc tế về Triều Tiên, gồm các đại biểu của Mỹ, Pháp, Anh, Liên Xô, Cộng hoà nhân dân Trung Hoa, hai bên Triều Tiên và các nước khác có quân đội tham chiến ở Triều Tiên nhằm tìm kiếm giải pháp chính trị cho vấn đề Triều Tiên. Hội nghị này có sự tham dự của các đại biểu Mỹ, Pháp, Anh, Liên Xô, Cộng hoà nhân dân Trung Hoa và những nước hữu quan khác cũng sẽ xem xét vấn đề lập lại hoà bình ở Đông Dương.

Dư luận thế giới hoan nghênh tuyên bố ngày 18-2 của bốn nước lớn. Ngày 20-2, Thủ tướng Ấn Độ Nêru kêu gọi ngừng bắn ở Đông Dương để tạo thuận lợi cho việc thảo luận vấn đề Đông Dương tại Hội nghị Giơnevơ. Ngày 25-2, Ngoại trưởng Inđônêxia tuyên bố ủng hộ lời kêu gọi của Thủ tướng Nêru. Trung Quốc tán thành việc họp Hội nghị quốc tế ở Giơnevơ.

Pháp được hai nước Anh và Mỹ uỷ quyền thương lượng với Liên Xô về thành phần "những nước hữu quan khác" tham dự Hội nghị Giơnevơ về Đông Dương. Ngày 27-4 tại Giơnevơ, hai Bộ trưởng Ngoại giao Pháp và Liên Xô thảo luận vấn đề này. Ngoại trưởng Pháp Bidôn đề nghị mời năm nước như trong thông cáo Béclin, "ba quốc gia liên kết" ở Đông Dương và có thể thêm Thái Lan và Mianma. Ngoại trưởng Liên Xô Môlôtốp đề nghị mời năm nước nêu trong thông cáo Béclin và bốn quốc gia hữu quan ở Đông Dương (gồm Vương quốc Lào, Vương quốc Campuchia, quốc gia Việt Nam của Bảo Đại và Việt Nam Dân chủ Cộng hoà). Ngày 2-5, ba nước phương Tây tán thành phương án chín bên của Liên Xô.

Các nước lớn tham dự Hội nghị Giơnevơ về Đông Dương với những mục tiêu khác nhau.

Pháp muốn thoát ra khỏi chiến tranh Đông Dương trong danh dự. Sau khi Hiệp định đình chiến ở Triều Tiên được ký kết, Chính phủ Pháp cho rằng bằng mọi giá phải tránh không để bị lâm vào tình thế là hoà bình được lập lại ở Triều Tiên mà chiến tranh vẫn tiếp tục ở Đông Dương. Chính phủ Pháp hy vọng rằng trong khuôn khổ một cuộc hội nghị quốc tế nhiều bên, Mỹ và Anh sẽ đứng về phía Pháp, tránh được phải đàm phán trực tiếp song phương với Chính phủ Hồ Chí Minh.

Liên Xô là nước đưa ra sáng kiến triệu tập hội nghị nhằm thúc đẩy hoà dịu quốc tế, buộc Mỹ phải chấp nhận ngồi vào bàn thương lượng để giải quyết các cuộc xung đột bằng biện pháp hoà bình.

Trung Quốc mong muốn tạo môi trường hoà bình, ổn định trong khu vực châu Á, ở Đông Dương sau đình chiến ở Triều Tiên để triển khai kế hoạch phát triển kinh tế xây dựng đất nước. Tham dự một trong các hội nghị quốc tế quan trọng đầu tiên từ khi Cộng hoà nhân dân Trung Hoa được thành lập, với sự có mặt của các cường quốc thế giới, là dịp để Trung Quốc xác lập vai trò trong việc giải quyết các công việc quốc tế, trước hết là ở châu Á, mở rộng tiếp xúc chính trị và thương mại quốc tế, phá âm mưu của Mỹ bao vây, cô lập Trung Quốc.

Tuy miễn cưỡng nhưng Hoa Kỳ chấp nhận tham gia hội nghị do yêu cầu khẩn thiết của Pháp được Anh hậu thuẫn. Hoa Kỳ cần tranh thủ Pháp tham gia Hiệp ước thành lập Cộng đồng phòng thủ châu Âu - một bộ phận chủ chốt để củng cố liên minh Tây Âu, cũng như ủng hộ Mỹ trong các kế hoạch xây dựng cơ cấu "phòng thủ chung" ở châu Á. Ngoài ra, Hoa Kỳ đến Giơnevơ để ngăn cản một giải pháp bất lợi cho Phương Tây, có hại cho mưu đồ của Mỹ thay thế Pháp ở Đông Dương.

Chính sách của Anh lúc này là ủng hộ Pháp theo khả năng mình, đồng thời tránh bị lôi cuốn vào một cuộc can thiệp quân sự tập thể. Giải quyết vấn đề Đông Dương, làm dịu tình hình Viễn Đông có lợi cho việc củng cố "Khối thịnh vượng chung" ở châu Á, vào thời điểm Anh đang đối phó với phong trào du kích cộng sản ở Malaixia.
_____________________________________________________
1, 2. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.7, tr.168, 169.
3. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.7, tr. 192.
Logged
chuongxedap
Đại tá
*
Bài viết: 13138



« Trả lời #149 vào lúc: 11 Tháng Ba, 2022, 11:08:55 am »


Về phía Việt Nam, lập trường đàm phán liên quan đến Đông Dương được Chủ tịch Hồ Chí Minh nêu trong trả lời phỏng vấn của báo Thụy Điển Expressen, tiếp đó được làm rõ tại Thông tri của Ban Bí thư Trung ương Đảng Lao động Việt Nam, ngày 27-12-1953: "Căn cứ vào lực lượng so sánh giữa ta và địch lúc này, điều kiện thương lượng hoà bình chưa chín muồi"1. Tuy nhiên, cũng vào thời điểm cuối năm 1953, Đảng Lao động Việt Nam và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nhận thấy: "Mục đích chính của phe ta hiện nay là: làm cho tình hình thế giới bớt căng thẳng; chủ trương giải quyết các cuộc tranh chấp trên thế giới bằng cách thương lượng"2. Một tuần trước khi Hội nghị Giơnevơ bắt đầu bàn về vấn đề Đông Dương, ngày 1-5-1954, Ban Bí thư Trung ương Đảng hướng dẫn trong Đảng: Ta không đánh giá quá cao Hội nghị Giơnevơ nhưng không nên bỏ lỡ cơ hội, phải tranh thủ làm cho Hội nghị Giơnevơ có thể bắt đầu để đi đến các cuộc gặp gỡ khác. Đồng thời, trong cuộc quyết chiến chiến lược tại Điện Biên Phủ, toàn quân và toàn dân Việt Nam quyết tâm giành thắng lợi trong chiến dịch lịch sử, điều sẽ có ý nghĩa rất quan trọng về quân sự, chính trị, ngoại giao, tác động đến cuộc thương lượng ở Giơnevơ và toàn bộ cuộc chiến tranh. Ngày 7-5-1954, tập đoàn cứ điểm của Pháp ở Điện Biên Phủ bị tiêu diệt. Ngày 8-5-1954, Đoàn đại biểu Việt Nam Dân chủ Cộng hoà bước vào Hội nghị Giơnevơ trong tư thế người chiến thắng.

Đoàn đại biểu Việt Nam Dân chủ Cộng hoà tham dự Hội nghị Giơnevơ do Phó Thủ tướng kiêm Bộ trưởng Bộ Ngoại giao Phạm Văn Đồng dẫn đầu. Ngày 10-4-1954, báo cáo trước Quốc hội về chủ trương đấu tranh tại hội nghị, Phó Thủ tướng Phạm Văn Đồng nêu rõ: Lập trường của nhân dân và Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hoà về vấn đề lập lại hoà bình ở Đông Dương là hoà bình, độc lập, thống nhất và dân chủ.

Cuộc kháng chiến cứu nước của Việt Nam là một cuộc chiến tranh toàn dân, toàn diện, lực lượng hai bên đan xen nhau, chiến trường phức tạp, không có chiến tuyến, rất khác với chiến tranh Triều Tiên. Vì vậy muốn lập lại hoà bình, cần có một giải pháp toàn bộ, cả quân sự và chính trị. Các mặt quân sự phải bao gồm các vấn đề ngừng bắn, rút quân đội nước ngoài, quy định và điều chỉnh vùng đóng quân, tập kết chuyển quân, trao trả tù binh...

Giải pháp chính trị là giải quyết vấn đề độc lập, thống nhất, dân chủ. Con đường giải quyết vấn đề chính trị là tổ chức tổng tuyển cử, quy định người đứng ra tổ chức và thời hạn tiến hành tổng tuyển cử.

Chiến tranh Việt Nam đã mở rộng sang Lào, Campuchia. Ở hai nước này, có quân Pháp, có chính quyền vương quốc liên kết với Pháp, lại có lực lượng yêu nước kháng chiến và có quân tình nguyện Việt Nam cùng sát cánh chiến đấu. Không thể chỉ giải quyết chiến tranh Việt Nam riêng rẽ mà phải giải quyết đồng thời vấn đề Lào và Campuchia, lập lại hoà bình trên toàn Đông Dương. Bởi vậy phương án tổng quát ban đầu của Việt Nam Dân chủ Cộng hoà là đòi Pháp công nhận các quyền dân tộc cơ bản của nhân dân ta, rút hết quân khỏi ba nước Đông Dương, thực hiện ngừng bắn đồng thời trên toàn Đông Dương. Việt Nam dự kiến sẽ quy định khu vực tập kết tạm thời cho các lực lượng vũ trang các bên. Ở Việt Nam, ban đầu phía Chính phủ Việt Nam dự kiến lấy vĩ tuyến 13 ngang với Quy Nhơn làm ranh giới khu vực tập kết của hai bên.

Về chính trị, Đoàn đại biểu Việt Nam Dân chủ Cộng hoà đưa ra đề nghị tổ chức tổng tuyển cử tự do bằng phổ thông đầu phiếu để lập chính phủ thống nhất cho mỗi nước Đông Dương. Thời hạn tổng tuyển cử càng sớm càng tốt. Những nét lớn của phương án này được thể hiện trong đề nghị tám điểm do Trưởng đoàn Phạm Văn Đồng trình bày tại Hội nghị Giơnevơ trong phiên họp ngày 10-5-1954.

Mặc dù đã có thoả thuận của các nước lớn triệu tập Hội nghị Giơnevơ về Đông Dương, khi Điện Biên Phủ sắp thất thủ, trước sự cầu cứu khẩn thiết của Pháp, giới chính trị và quân sự Mỹ bàn bạc một số kế hoạch phiêu lưu quân sự để cứu vãn tập đoàn cứ điểm. Những kẻ "diều hâu" ở Mỹ nêu ý kiến mở các đợt ném bom quy mô lớn tại khu vực xung quanh Điện Biên Phủ, có lúc gợi ý ném bom nguyên tử; ném bom nguyên tử xuống lãnh thổ Trung Quốc giáp biên giới Việt Nam; đưa lục quân Mỹ vào tham chiến, v.v… Nhưng, Tổng thống Aixenhao do dự, các nhà lãnh đạo trong Quốc hội Mỹ cũng do dự, nêu đòi hỏi phải có hành động thống nhất cùng với Pháp và Anh. Trong khi đó, Pháp chỉ muốn Mỹ ném bom thông thường và dùng sự đe doạ của Mỹ để chặn khả năng can thiệp trực tiếp của Trung Quốc, nhưng không muốn chiến tranh mở rộng, ảnh hưởng đến triển vọng đàm phán hoà bình ở Giơnevơ. Chính phủ Anh không muốn bị lôi kéo vào cuộc leo thang quân sự tại Đông Dương, đưa ra lập luận rằng nếu đàm phán ở Giơnevơ không đạt kết quả, lúc đó các nước đồng minh mới tính đến biện pháp quân sự tập thể.
_________________________________________________
1. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd, t. 14, tr. 556.
2. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.7, tr.175.
Logged
Trang: « 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 16 17 18 19 20 21 22 23 24 25 26 27 28 29 30 31 32 33 34 »   Lên
  In  
 
Chuyển tới:  

Powered by MySQL Powered by PHP Powered by SMF 1.1.21 | SMF © 2006-2008, Simple Machines

Valid XHTML 1.0! Valid CSS! Dilber MC Theme by HarzeM