Lịch sử Quân sự Việt Nam
Tin tức: Lịch sử quân sự Việt Nam
 
*
Chào Khách. Bạn có thể đăng nhập hoặc đăng ký. 28 Tháng Ba, 2024, 04:06:00 pm


Đăng nhập với Tên truy nhập, Mật khẩu và thời gian tự động thoát


Trang: « 1 2 3   Xuống
  In  
Tác giả Chủ đề: Biển gọi  (Đọc 4094 lần)
0 Thành viên và 1 Khách đang xem chủ đề.
trachvandung
Cựu chiến binh
*
Bài viết: 747



« Trả lời #20 vào lúc: 27 Tháng Mười, 2021, 07:53:04 am »

Nó đè lái trái chạy sát lại, dường như muốn ngăn chặn hoặc đòi khám xét. Nó tăng  tốc. Mũi tàu như cất bổng hẳn lên. Con tàu ta vẫn tiếp tục đi, không đổi hướng. Trên boong tàu, thủy thủ vẫn làm việc bình thường. Anh cởi trần, anh mặc may-ô kẻ rằn, anh mang áo sơ-mi sặc sỡ, anh râu ria lởm chởm, anh đầu tóc chải chuốt bóng láng, anh đeo kính gọng vàng, anh mang kính gọng bự...

Con tàu "nghiên cứu cá biển" bỗng dừng lại. Các thủy thủ cầm vòi nước phun rào rào khắp nơi, từ đầu mũi tới cuối, rồi nhộn nhịp rửa ráy mặt boong.

Con tàu Mỹ lướt sát tới, gần như hai tàu sắp cặp mạn. Thấy cảnh rửa ráy, làm vệ sinh sàn tàu nhộn nhịp, vui vẻ ấy, nó bỏ đi, hướng phía Côn Đảo. Nó không lượn lại, cũng không đánh một tín hiệu hỏi han gì khác.

Trời đổ tối.

Khi con tàu "nghiên cứu cá biển" vừa bật hết đèn hành trình, lại thấy có một con tàu Mỹ nữa xuất hiện ở xa xa. Nhưng con tàu "nghiên cứu" vẫn tiếp tục chạy và vẫn để đèn hành trình sáng rỡ.

Chỉ còn cách bờ năm mươi hải lý. Trời sáng trăng mờ.
Rồi đột nhiên đổ mưa. Mưa nhẹ dăng dăng trên mặt biển có trăng, tạo nên một cảnh tượng hư ảo làm ngạc nhiên tất cả những anh lính mới đi biển lần đầu, kể cả Trúc. Mưa đều đều, chênh chếch rơi, như có một luồng ánh sáng vàng rọi chiếu qua, lung linh, lấp lánh.

-   "Trời" phù hộ chúng ta.

Đĩnh voi thốt lên vui vẻ. Anh ta đã có kinh nghiệm: Mưa thế này, ra đa địch rất khó phát hiện mục tiêu.

Tân vỗ vai Đĩnh "kê" luôn:

-   Đúng! Nhưng phải nói thêm: cũng hại cho ta nữa vì mưa ta cũng khó tìm bến! Qua vùng tuần tiễu thứ nhất của địch.
An toàn. Chiếc tàu Mỹ vừa gặp lúc chập tối đã rẽ đi nơi khác mất dạng. Qua vùng tuần tiễu thứ hai.
Vẫn chỉ có mưa trăng tiếp tục thì thầm, rơi đều đều trên mặt biển, mơ buồn kỳ lạ. Đã tới vùng tuần tiễu thứ ba.
 

Ồ! Đèn ngư dân nhiều quá! Một nỗi mừng dào dạt lên tận khóe mắt. Mừng vì có  nhiều tàu thuyền của dân, ta dễ trà trộn đã đành, còn mừng, một nỗi  mừng  rất thủy thủ ấy là nỗi mừng khi thấy con Người, thấy hơi ấm của Đất liền...

Vẫn mưa. Mưa vẫn dăng chênh chếch và đèn chài lốm đốm xa, gần.

Không một giây lơi lỏng, Vũ đều đặn phát ra những mệnh lệnh tác nghiệp hải đồ,  quan sát, đo sâu... để xác định cửa vào.

Đã nhìn thấy đất liền mờ mờ xa một vệt đen dài. Ôi! Cà Mau! Cà Mau!
Kia rồi! Cà Mau, dải đất xa xôi tận cùng của Tổ quốc! "Ngón chân lấm đất phù sa"  của mẹ Việt Nam kiên cường, gian khổ kia rồi! Rừng chàm, rừng đước đã hiện lên một dải bằng bằng như vô tận ở phía trước.

-   Tiếp tục đo sâu!

-   Tăng cường quan sát!

Con tàu đã giảm xuống tiến một, máy chạy như không có tiếng động, vừa đi vừa dò dẫm, nghe ngóng.

Bỗng thấy bờ lõm xuống.

Cũng vừa lúc ấy một tiếng reo như thét lên trên chòi quan sát của con tàu.

-   Có tín hiệu!

Chính trị viên Trúc hai tay như run bắn lên vì quá xúc động. Anh lẩy bẩy đánh rơi chiếc đèn pin xuống sàn tàu. Bá vội nhặt lên cho anh. Anh lại run rẩy đưa chiếc đèn  đã bịt vải đỏ lên cao và bắt đầu quay tròn ba lần. Phía dải rừng đen sẫm bằng bằng phía trước cũng lập tức lóe lên ba cái vòng sáng xanh đều đặn.

Trúc ném chiếc đèn pin lại, như gào lên:

-   Tới rồi! Các đồng chí ơi! Tới rồi!

Và, anh quay lại phía Vũ, chụp lấy bàn tay anh siết chặt, siết mãi.

***

Hàng đã giao xong.

Mới ở lại được ít lâu với các đồng chí "Bến" trong rừng đước ngập nước mặn, đoàn thủy thủ đã tiếp được điện yêu cầu quay trở ra sớm. Lần trở ra, hải trình phải đổi  khác, bỏ con đường biển xa, lại đi gần bờ bằng địa văn, theo những hải trình  cũ. Vì Bộ vừa được tin khối SEATO Đông Nam Á đang bắt đầu tổ chức một cuộc diễn tập
 

hải quân lớn ở trên khu vực đông Trường Sa, tây Phi-líp-pin, nơi mà con tàu "nghiên cứu cá biển" đã đi qua.

Để cho con tàu khỏi bồng khi quay ra, đồng thời cũng để gọi là có chút quà "cây nhà  lá vườn", các đồng chí địa phương đã cho chuyển xuống tàu hàng hai ba chục tấn dừa tươi và hàng trăm gốc dừa non để đưa ra Bắc trồng.

Con tàu trở ra Bắc vào một đêm đầu tháng tám, trời oi nồng.

Những người trên "Bến" ra tiễn đưa khá đông. Những cô gái Cà Mau khóc ròng nhớ những chàng thủy thủ đất Bắc. Nhiều cô nằng nặc đòi xin ra theo, nhưng không được lệnh.

Tàu nhổ neo, từ trong rạch chạy tiến một, lướt ra êm như ru. Cành lá hai bên lòa xòa, quật lào rào trên mui tàu như có muôn ngàn bàn tay thân yêu níu lại. Lòng người không khỏi bịn rịn - Những giây phút bịn rịn sâu lắng của tình người, tình đồng chí thiêng liêng, cao cả. Nhớ từ bác Ba, chú Bảy, nhớ từ cô Chín, cô Tám, nhớ từ con cua cái mắm, nhớ từng miếng thịt kỳ đà... Lát sau, ra khỏi cửa lạch, lại nhìn thấy biển.  Như một con đại bàng lại gặp khung trời cao rộng, kêu lên một tiếng sung sướng, đập mạnh đôi cánh lớn, con tàu ta cũng lập tức tăng tốc rẽ sóng băng băng.

Đứng ở đầu mũi, tóc bay lộng trong gió đêm, Vũ nhìn lại tất cả Cà Mau mờ dần. Đối với anh, không có những giây phút nào thấy tâm hồn mình nhẹ nhàng, sáng sủa hơn những giây phút như thế này. Thế là lại hoàn thành một chuyến đi - chuyến đi dài  ngày khá lạ. Nhưng sẽ còn bao nhiêu chuyến tiếp nối? Chắc chắn sẽ còn nhiều, nhiều lắm. Đời người lính là cả một chuỗi đi dài. Đi và đánh! Giản dị chỉ có vậy thôi! Đi và chiến đấu! Cũng có nghĩa là hiến dâng...

Con tàu lại trà trộn vào những đám tàu thuyền đánh cá của ngư dân. Rồi lại bất thần, khéo léo bứt hẳn ra khơi xa.

Hết đêm ấy, qua hôm sau, con tàu đã ra tới gần ngang Bà Rịa. Không khí trở nên oi ả khó chịu hơn. Nước biển tối sẫm, nặng nề khác lạ.

Bá đang phiên trực chỉ huy. Chiến sĩ báo vụ đột nhiên bước sang báo cho anh biết: điện đài bị hỏng, đúng lúc tới phiên liên lạc với "nhà". Bá chau mày. Anh  chỉ thị:  phải gắng chữa cho xong càng sớm càng tốt. Đi biển đã nhiều, anh hiểu: một trong những điều đáng lo nhất là mất liên lạc với đất liền.

Suốt cả buổi sáng hôm đó, chiến sĩ báo vụ vẫn chưa có cách gì làm cho điện đài trở  lại hoạt động được bình thường.

Không khí càng mỗi lúc một oi ả thêm. Màu biển càng xám lại một cách  khác  thường. Bá chăm chú quan sát, rồi đột nhiên thốt lên một tiếng đầy lo lắng với anh chiến sĩ hàng hải bên cạnh:

-   Khéo có bão tố gì đó cậu ạ!
 

Anh cho mời Vũ, Trúc lên ca-bin chỉ huy.

Cũng không ngờ Vũ và cả Trúc đều có một dự cảm tương tự như Bá, Trúc đề  nghị  hội ý chi ủy. Tân và Đĩnh lập tức có mặt.

Mọi công việc chuẩn bị chống bão được triển khai cấp tốc. Toàn tàu sôi nổi hẳn lên như sắp bước vào một trận chiến đấu.

Bão! Mất liên lạc với đất liền! Nỗi lo lắng trở nên nặng trĩu trong lòng tất cả những người lãnh đạo và chỉ huy con tàu, tuy không một ai dám hé lên một lời xao xuyến.

Tất cả các thủy thủ đã được lệnh đeo phao cá nhân. Các cửa sổ mạn tàu đã đóng hết. Hệ thống máy móc, mạch ống được kiểm tra lại tỉ mỉ.

Con tàu tiếp tục tiến trong một nỗi bồn chồn. Điện đài vẫn hỏng.
Không còn nghi ngờ gì nữa, chi ủy và tập thể ban chỉ huy con tàu đều khẳng  định: Bão sẽ tới!

Tất cả thủy thủ trên con tàu này đều chưa một ai gặp bão đột ngột, nên càng lo.

-   Ác quá! Điện đài hỏng, nếu không "ở nhà" có lẽ đã thông báo khí tượng cho ta kịp thời để tìm nơi ẩn náu. Bây giờ thì không kịp nữa rồi. Tàu ta đang ở ngoài biển lớn - Bá than thở. Vũ im lặng. Lát sau anh nói với Bá cho tàu mạnh bạo vào gần bờ hơn.
Đoạn anh lao xuống khoang máy để xem xét một lần nữa các hệ thống mạch ống.
Thế rồi cơn bão đã tới thực sự. Nó tới quá nhanh, ngoài dự kiến của chi ủy.

Trời biển thoắt lặng hết gió, rồi tối sầm. Mây vần vụ sôi lên như muôn ngàn mặt quỷ nhe răng múa vuốt quay cuồng trên bầu trời. Gió đang từ cấp ba, đột ngột chồm lên thẳng cấp bảy. Từ cấp bảy, khoảnh khắc sau đã rống lên điên dại thành bão vừa, rồi bão lớn. Mưa bắt đầu quất xuống như ngàn ngọn roi sắt. Sóng cồn bời bời dựng lên như dăng thành; bọt sóng sủi ngầu ngầu. Rồi cả mặt biển biến thành màu trắng xóa dày đặc. Tầm nhìn xa chỉ còn chưa đầy một hải lý.

Vũ choàng chiếc áo mưa, bám các thanh sắt chạy đi khắp mặt boong kiểm tra lại các dây cáp, trụ neo... Gió chỉ chực bốc anh lên tung xuống biển. Mưa quất vào mặt anh tối tăm, đau nhức.

Anh lên ca-bin chỉ huy để trợ lực cho Bá. Mọi khi, ngay cả lúc chuyển hướng vọt qua các tuyến địch phong tỏa vào bờ, Bá vẫn luôn tỏ ra rất bình tĩnh, nhưng lúc này mặt anh đã gần tái xám. Mạch, chiến sĩ lái đã mửa ra mật xanh mật vàng, mắt dại đờ, như đang mê cuồng trong một cơn rượu chết. Mạch tiếp tục mửa. Không còn gì để mửa nữa, anh nôn ra máu. Bá là tay đã nổi tiếng cứng sóng, cũng phải mửa tới hai lần.
 

Biển tiếp tục gầm thét như triệu triệu tên giặc man rợ đang hò hét, gào rú điên cuồng từ bốn phía cuồn cuộn tràn tới. Sóng càng tung trắng xóa. Con tàu không còn tự chủ nổi nữa. Lúc  chồm lên cao vút tận trên đầu những con sóng khổng lồ, chân vịt quay  tít trong không khí rú lên ghê rợn. Rồi sóng hụp xuống thành những vực sâu thăm thẳm, cuốn cả con tàu gần như lao cắm mũi xuống thẳng đứng. Mạch chỉ còn biết nhắm chặt hai mắt ôm ghì lấy vô lăng. Bá cũng chỉ còn biết siết chặt lấy một thanh  sắt, hai mắt tối sập. Vũ cũng thấy chóng mặt, nhiều lúc muốn ngã sấp.

Dưới hầm tàu, các chiến sĩ lăn lộn, nôn mửa. Khỏe như Đĩnh voi cũng đã nằm liệt và nôn cả ra máu. Các thợ máy lúc bị quật sang bên này, lúc bị quật sang bên khác, đã bị thương gần hết. Chính trị viên Trúc đang đứng bám một chiếc cột sắt, thốt nhiên con tàu bị hất tung lên, anh buột tay, toàn thân ngã vật, đầu đập vào một thành máy. Trưởng máy Nhẫn là người còn tỉnh táo hơn cả. Anh gào lên một tiếng, chồm lại, xốc Trúc lên. Chính trị viên đã ngất hẳn. Gió đã lên tới cấp mười hai. Sóng càng ngất trời.

Bá đã kiệt sức. Anh bỗng gào lên:

-   Anh Vũ! Tôi không còn nhìn thấy gì nữa! Vũ bám các thanh sắt tiến lại gần hơn.
-   Mạch ống vỡ hết rồi! - Nhẫn bỗng hiện lên như một bóng ma nhòe nhoẹt ở ngoài  cửa ca-bin đã tan nát hết kính và bay hết cả ván sắt, kêu lên khủng khiếp.

Bá cũng bỗng la tiếp:

-   Trời! Hình như gãy mất chân vịt rồi! Có tiếng gì nổ lớn lắm. Vũ chồm tới. Tóc gáy anh dựng đứng.
Cũng vừa lúc đó, gió bỗng rú lên một hồi dài khủng khiếp và một đợt sóng thần cao ngất, đen ngòm như cả một trái núi cuốn lên, đổ sập xuống.

Vũ chỉ kịp kêu lên một tiếng rụng rời:

-   Nguy rồi!

Thì tất cả con tàu đã như bị bốc tung lên cao vút, rồi quật mạnh xuống.

Trong khoảnh khắc, cả con tàu từ từ chìm nghỉm trên mặt biển vẫn đang tiếp tục điên cuồng sôi sục...

Logged
trachvandung
Cựu chiến binh
*
Bài viết: 747



« Trả lời #21 vào lúc: 27 Tháng Mười, 2021, 07:53:33 am »

Chương 10

Cơn bão đã đổ bộ vào đất liền lúc chập tối ở vùng Phan Thiết, nhưng yếu dần. Tới  nửa đêm gió dịu hẳn, chỉ còn có mưa lớn và gần sáng thì lai rai  mưa nhỏ. Cơn bão  qua đi khá nhanh. Nơi đây chỉ bị ảnh hưởng gió giật một phần và chỉ có mưa lớn. Những cánh đồng trũng phía trong con lộ tráng nhựa đã trắng băng. Phía ngoài mép
 

biển, những bãi sình lầy ngập nước. Trong các thôn ấp, người ta chạy đi chạy lại, co ro, ướt át. Các cửa hiệu còn đóng cửa. Con lộ chạy về thành phố vắng hoe. Quang cảnh thật buồn bã. Tuy nhiên, cũng đã có một số xe đò, xe lam bắt đầu chạy. Hành khách phần lớn là những người buôn bán hàng trái cây, rau tươi và tôm cá. Họ không thể nào ngừng công việc của họ được, trừ phi bão lớn đang gầm thét.

Một chiếc xe đò của hãng Bạch Hổ cửa đóng kín mít chạy như xé nước trên mặt lộ. Trên xe hầu hết là đàn bà, mà cũng phần lớn là dân buôn bán. Tuy vậy, cũng có một vài ông ăn vận khá lịch sự và có cả một nữ tu sĩ với khăn áo đen, khuôn  mặt xanh  xao, buồn bã bí ẩn. Ngồi cạnh bà là tên lính bảo an. Chẳng hiểu tên lính này đi đâu   mà sớm vậy. Quần áo nó nhàu nát, lấm láp gần hết. Đôi giày vải cao cổ đầy bùn. Bộ thằng cha này đêm qua lại lẻn về với vợ, gặp mưa lớn không về quận trình diện được, sớm nay mới cuống cả lên chứ gì! Tên lơ (1)xe chốc chốc lại liếc nhìn và thầm nghĩ như vậy. Tên lính bảo an như hiểu có người đang nhìn lén mình. Nó thoắt quay mặt lại, chiếu hai con mắt đục ngầu và khá dữ dằn vào thẳng mặt tên lơ xe. Tên này vội nhìn lảng đi nơi khác. Thằng cha này có vẻ khá hung! Cái nhìn nó mới khiếp làm sao! Cái mặt nó cũng "anh chị" bự. Rám nắng. Như sắt. Trên góc trán hắn lại có một vết sẹo nhỏ khá dài. Cha này là thủy quân lục chiến, hoặc nhảy dù, hoặc biệt động thì  phải hơn bảo an!



(1)   Phụ lái, lo việc bán vé, xếp chỗ, xếp hàng cho khách. Một vết sẹo nhỏ, dài trên góc trán!
Phải rồi "tên bảo an" ấy chính là Vũ, không phải ai khác.

Trong bộ quân phục bảo an ngụy nhàu nát, ướt át, và chật cứng. Vũ hết sức khó chịu. Nhưng anh vẫn gắng giữ một dáng vẻ thật tự nhiên, thậm chí nghênh ngang, dữ dằn nữa.

Anh khoanh tay lên ngực, vai tựa hẳn vào lưng ghế xe, bụng hơi ưỡn ra, hai chân mở rộng, duỗi thẳng, chiếc mũ kéo sụp xuống trán, hai mắt lim dim như ngủ.

Tất cả những gì xảy ra suốt ngày hôm trước và cả đêm qua vẫn còn như quay lộn ghê rợn trong đầu óc, tâm hồn anh. Cũng lạ thật! Không thể nào hiểu nổi, tại sao  mình  vẫn còn sống. Lại sống! - Vũ luôn tự thầm hỏi như vậy. Ôi! Tưởng đã chết từ trận  bom tọa độ ở chiếc lán tạm trú của mấy cô thanh niên xung phong trên Trường Sơn cuối năm ngoái rồi. Cho đến chiều qua, khi chiếc tàu bị bão đánh chìm, cũng đã   tưởng rằng thế là hết. Không ngờ chiếc phao cá nhân đeo sẵn trên người với một  mảnh ván chụp vội được đã cứu sống anh trong giây phút khủng khiếp ấy. Nhưng  điều đáng ngạc nhiên, khó hiểu hơn lại là những cái gì tiếp sau đó. Anh cũng không nhớ được thật rõ. Chỉ còn thấy tất cả tối tăm: chỉ còn thấy tấm thân anh như bị nghiền nát, bị bẻ gãy hết, bị chôn vùi xuống tận đáy biển. Cho tới khi tỉnh lại, nói cho đúng hơn là sống lại, anh bỗng nhận ra mình đang nằm trên một bãi biển sình lầy. Con   sóng đã đưa anh vào đây? Đây là đâu? Chắc chắn là vùng địch. Vậy không chết ngoài
 

biển, vào đây cũng sẽ chết. Ý nghĩ ấy buồn bã và đau quá. Người chiến sĩ hải quân  dẫu sao chết trên mặt biển vẫn "phải", vẫn "mát mẻ" hơn! Hải quân mà phải chết vì mấy tên ác ôn trên đất liền, sầu biết mấy! Nhưng anh cũng không có đủ thì giờ để  nghĩ ngợi lan man. Hơn thế nữa, một ngọn lửa đã thoắt bùng lên trong lòng anh: Dẫu sao cũng phải cố sống! Bằng mọi cách phải gắng sống đã. Đâu có dễ chết được!

Cởi chiếc phao bơi, vùi nhanh xuống cát lầy, anh cố trườn lên chỗ đất cao, rúc vào  một bụi cây. Một trăm câu hỏi lại quay cuồng trong đầu óc anh. Đây là đâu? Địch ở gần hay ở xa? Làm thế nào để thoát trong khi trên toàn thân anh chỉ còn độc một   chiếc may-ô rách nát, và không một chút giấy tờ? Tìm dân ư? Nhưng dân ở đâu? Những người dân mà mình tiếp xúc đầu tiên sẽ là những ai? Người tốt hay  người  xấu? Khó quá! Đầu óc anh dần trở thành như nung. Trời mỗi lúc một sáng rõ hơn. Đã nhìn rõ từng ngọn cây, lá cỏ. Mưa vẫn lay bay. Anh cố thu mình lại nhỏ hơn, phóng tầm mắt ra xa. Anh bỗng nhìn rõ một con đường trải đá hai bên trồng phi lao ở gần ngay phía trái lùm cây anh đang ẩn náu. Nơi đây khá hoang vắng. Xa xa là một thôn ấp với những ngọn dừa cao. Cũng đột nhiên, trên con đường ấy hiện lên một bóng người choàng một tấm áo mưa cao-su đen cắm đầu đi vội vã. Vũ nhận ra một tên lính ngụy. Không rõ nó từ đâu đi tới. Hẳn gần đây phải có một đồn địch. Nhưng sao nó lại đi sớm thế này? Con lộ vẫn vắng ngắt. Nhìn hút về cả hai phía không thấy một bóng người, chỉ có mưa vẫn rơi mờ mờ như khói.

Một ý đồ táo bạo vụt lóe lên trong óc Vũ như một ánh chớp rạch ngang bầu trời đang tối tăm, đầy mây dữ. Phải rồi! Muốn tránh mọi sự xét hỏi giấy tờ, có lẽ trong cái vùng địch này không gì tốt hơn là có một bộ đồ lính. Phải rồi! Hãy kiếm cho được một bộ đồ lính! Rồi mọi chuyện sẽ tính sau. Không thể nào nghĩ hết một lúc được, nghĩ lắm chỉ thêm điên.

Thế là, hệt như con báo, Vũ nghiến răng lại, dốc hết tàn lực nhào tới. Phải gắng! Phải gắng.

Tên ngụy không kịp kêu lên một tiếng: một cánh tay Vũ từ phía sau đã kẹp  chặt lấy  cổ họng nó siết lại.

Cuộc vật lộn diễn ra rất quyết liệt, nhưng khá nhanh. Vũ lột bộ đồ lính của tên ngụy mặc luôn vào mình, đoạn kéo xác nó đến một khe cát lầy, bẻ những cành lá phủ kín lại.

trận bom tọa độ ở chiếc lán tạm trú của mấy cô thanh niên xung phong trên Trường Sơn cuối năm ngoái rồi. Cho đến chiều qua, khi chiếc tàu bị bão đánh chìm, cũng đã tưởng rằng thế là hết. Không ngờ chiếc phao cá nhân đeo sẵn trên người với một  mảnh ván chụp vội được đã cứu sống anh trong giây phút khủng khiếp ấy. Nhưng  điều đáng ngạc nhiên, khó hiểu hơn lại là những cái gì tiếp sau đó. Anh cũng không nhớ được thật rõ. Chỉ còn thấy tất cả tối tăm: chỉ còn thấy tấm thân anh như bị nghiền nát, bị bẻ gãy hết, bị chôn vùi xuống tận đáy biển. Cho tới khi tỉnh lại, nói cho đúng hơn là sống lại, anh bỗng nhận ra mình đang nằm trên một bãi biển sình lầy. Con   sóng đã đưa anh vào đây? Đây là đâu? Chắc chắn là vùng địch. Vậy không chết ngoài biển, vào đây cũng sẽ chết. Ý nghĩ ấy buồn bã và đau quá. Người chiến sĩ hải quân
 

dẫu sao chết trên mặt biển vẫn "phải", vẫn "mát mẻ" hơn! Hải quân mà phải chết vì mấy tên ác ôn trên đất liền, sầu biết mấy! Nhưng anh cũng không có đủ thì giờ để  nghĩ ngợi lan man. Hơn thế nữa, một ngọn lửa đã thoắt bùng lên trong lòng anh: Dẫu sao cũng phải cố sống! Bằng mọi cách phải gắng sống đã. Đâu có dễ chết được!

Cởi chiếc phao bơi, vùi nhanh xuống cát lầy, anh cố trườn lên chỗ đất cao, rúc vào  một bụi cây. Một trăm câu hỏi lại quay cuồng trong đầu óc anh. Đây là đâu? Địch ở gần hay ở xa? Làm thế nào để thoát trong khi trên toàn thân anh chỉ còn độc một   chiếc may-ô rách nát, và không một chút giấy tờ? Tìm dân ư? Nhưng dân ở đâu? Những người dân mà mình tiếp xúc đầu tiên sẽ là những ai? Người tốt hay  người  xấu? Khó quá! Đầu óc anh dần trở thành như nung. Trời mỗi lúc một sáng rõ hơn. Đã nhìn rõ từng ngọn cây, lá cỏ. Mưa vẫn lay bay. Anh cố thu mình lại nhỏ hơn, phóng tầm mắt ra xa. Anh bỗng nhìn rõ một con đường trải đá hai bên trồng phi lao ở gần ngay phía trái lùm cây anh đang ẩn náu. Nơi đây khá hoang vắng. Xa xa là một thôn ấp với những ngọn dừa cao. Cũng đột nhiên, trên con đường ấy hiện lên một bóng người choàng một tấm áo mưa cao-su đen cắm đầu đi vội vã. Vũ nhận ra một tên lính ngụy. Không rõ nó từ đâu đi tới. Hẳn gần đây phải có một đồn địch. Nhưng sao nó lại đi sớm thế này? Con lộ vẫn vắng ngắt. Nhìn hút về cả hai phía không thấy một bóng người, chỉ có mưa vẫn rơi mờ mờ như khói.

Một ý đồ táo bạo vụt lóe lên trong óc Vũ như một ánh chớp rạch ngang bầu trời đang tối tăm, đầy mây dữ. Phải rồi! Muốn tránh mọi sự xét hỏi giấy tờ, có lẽ trong cái vùng địch này không gì tốt hơn là có một bộ đồ lính. Phải rồi! Hãy kiếm cho được một bộ đồ lính! Rồi mọi chuyện sẽ tính sau. Không thể nào nghĩ hết một lúc được, nghĩ lắm chỉ thêm điên.

Thế là, hệt như con báo, Vũ nghiến răng lại, dốc hết tàn lực nhào tới. Phải gắng! Phải gắng.

Tên ngụy không kịp kêu lên một tiếng: một cánh tay Vũ từ phía sau đã kẹp  chặt lấy  cổ họng nó siết lại.

Cuộc vật lộn diễn ra rất quyết liệt, nhưng khá nhanh. Vũ lột bộ đồ lính của tên ngụy mặc luôn vào mình, đoạn kéo xác nó đến một khe cát lầy, bẻ những cành lá phủ kín lại.

Vũ cười, nhún vai, thản nhiên:

-   Rồi! Cám ơn!

Anh làm như đã quá biết, chỉ lỡ nói lầm một chút. Lầm chút xíu vậy mà cũng ngạc nhiên sao chú em?

Chiếc Hon-đa lại nổ máy, lao đi.

Bến xe cũng vẫn còn hết sức vắng vẻ. Nhưng đã có một chiếc sắp sửa chạy.
 

Vũ vỗ vai anh thanh niên, rồi chìa bàn tay ra siết chặt lấy bàn tay mềm mại như bàn tay con gái của anh ta. Vũ vẫn cố hạn chế tới mức tối đa việc phải thốt lên thành lời.

Vũ lên xe. Tên lơ hỏi:

-   Chú về đâu?

Vũ nhíu đôi lông mày, hất hàm về phía trước, rồi móc túi, chìa ra một tờ giấy năm trăm. Điệu bộ anh khá giống một tên lính vừa hách dịch vừa chơi ngông. Thật ra anh cũng chẳng biết giá tiền xe bao nhiêu. Nhưng anh đã cố ý tìm một tờ giấy bạc to nhất trong túi áo tên ngụy để đưa ra. Thừa nó sẽ trả lại.

Quả nhiên tên lơ xe tỏ vẻ lễ phép hơn, thối lại tiền thừa rồi đưa cho anh tấm vé xe.

Một lần nữa, Vũ lại thở trút. Lại sống thêm được vài phút nữa! Anh nghĩ tới tên lính ngụy. Có thể nó chưa chết hẳn. Bây giờ có thể nó đã tỉnh lại, chạy về một đồn nào đó báo cáo. Và bọn có thẩm quyền hẳn đang bàn bạc: có thể đây là một vụ hoạt động của du kích hoặc biệt động Việt cộng. Nhưng cũng chưa chắc, mà chỉ là một vụ cướp   bình thường. Bởi lẽ hung thủ đã lột hết áo quần và lấy hết tiền bạc, kể cả đồng hồ và nhẫn vàng của tên lính nhưng đã vứt bỏ lại toàn bộ giấy tờ, kể cả hai trái lựu đạn.

Vũ thầm mỉm cười: giấy tờ ấy đâu có dễ dùng! Mặt mình và tấm hình trên căn cước của nó hoàn toàn khác nhau. Hơn nữa nếu có dùng được cũng cần phải ném lại để đánh lạc hướng bọn địch, hơn là để chúng cứ theo vết mình mà truy nã. Cũng vẫn những anh đặc công, biệt động ra Bắc nghỉ ngơi, tới thăm hải quân nói chuyện, đã   dạy cho Vũ những bài học ấy. Không ngờ cho tới hôm nay những điều đó đã trở nên xiết bao cần thiết, và bổ ích cho Vũ.

Chiếc xe của hãng Bạch Hổ đã tới Bà Rịa.

Vũ bước xuống, đưa mắt ngắm nhìn cái thị xã hoàn toàn xa lạ này. Có cái gì rất khác với những thị xã ngoài Bắc. Cái ấy là cái gì khó gọi thành tên mà chỉ có thể cảm thấy. Không phải là sự sầm uất. Cũng không phải là những kiến trúc khá nhiều, khá lớn  hơn. Cái khác nhau có lẽ là một sự pha tạp nào đó, một sự bồng bột, tạm bợ nào đó của những vùng đất mới mở, có bóng của lính viễn chinh nước ngoài.

Không cần phải hỏi ai, đi vòng một lượt. Vũ đã có thể tìm thấy một chiếc xe đò khá lớn chạy đường Bà Rịa - Sài Gòn.

Khoảng hai giờ sau, anh đã có mặt ở cái thành phố mà đã từ bao lâu nay nghe nói tới và mường tượng về nó với tất cả mọi ý nghĩ, tình cảm hết sức phức tạp, vui buồn, yêu thích và cả chán ghét lẫn lộn, chen nhau.

Sài Gòn.

Đây rồi, cái thành phố lớn với những con đường thênh thang, những công sở, dinh   thự khá tráng lệ, những khu chợ ồn ào, những khu phố buôn bán, ăn chơi lộng lẫy, xa hoa. Nhưng cũng chỉ cần nhìn lướt qua cũng có thể thấy bất cứ ở đâu dấu vết của sự
 

ngoại lai, từ những kiến trúc tới cách ăn mặc, thậm chí cả cách nói năng, cư xử của những người thị dân khá giả. Vừa Tây lại vừa Mỹ - nhất là Mỹ. Thành phố rõ ràng đang Mỹ hóa một cách ồ ạt. Mỹ hóa từ cái váy của những cô gái ăn chơi đến bộ râu của những viên tướng ngụy. Những tên Gi-ai (lính Mỹ) cao lênh khênh, vẻ mặt kiêu ngạo, lạnh lùng nhan nhản trên các con đường buôn bán, ăn chơi lớn. Chúng nhìn thành phố này như đang nhìn một nhà chứa gái điếm khổng  lồ  rẻ tiền. Trên những tấm biển hàng mới sơn lại, những dòng chữ Pháp đã được thay vào rất nhanh bằng những dòng tiếng Mỹ.

Nhưng, dẫu sao hồn Việt Nam dường như vẫn còn bay lượn, ẩn náu đâu đây. Nó ẩn náu trong ánh mắt của những em học sinh, những chú bé bán báo kia chăng? Nó ẩn náu sau bộ mặt trầm lặng của những con người cắm đầu đi rảo kia phải không? Hay  nó đang che giấu dưới những tiếng cười nhọc nhằn của những anh xích-lô nghèo khổ nọ...? Vũ cảm thấy đúng là vẫn còn có nó, như cảm thấy rõ tiếng đập của tim mình, tuy chưa có điều kiện để thấy thật cụ thể nó ở đâu và như thế nào. Cảm giác ấy đã   làm cho Vũ không đến nỗi quá bàng hoàng, thất vọng trong những giây phút đầu tiên "nhảy dù" vào cái thành phố tứ chiếng hỗn loạn, điên đảo, xa lạ này.

Tuy vậy, công việc của anh không phải là đi xem thành phố mà cần phải làm sao mau mau trút bỏ bộ đồ lính bẩn thỉu này. Tới đây, anh thầm nghĩ, có thể trà trộn vào dân thường được rồi. Anh cho tay vào túi. Chiếc đồng hồ và chiếc nhẫn của tên ngụy vẫn còn đó. Hẳn đây là những thứ cướp của dân. Mà giả dụ của chính tên ngụy thì đã sao! Vũ đang cần tiền. Vũ đang cần phải hoạt động. Không nên có sự suy tính máy móc ở đây.

Anh đi ngang qua một khu chợ trời. Chẳng rõ nó thuộc đường phố nào. Anh biến   luôn vào đám đông. Một lúc sau, anh trở ra, tay cầm một bọc quần áo và một đôi giày cũ. Chỉ còn lo kiếm chỗ thay. Vào đâu bây giờ? Thật khó! Sao cho  khỏi lọt mắt tụi  chỉ điểm, an ninh mà anh đoán biết đang nhan nhản khắp nơi. Phải đợi trời tối. Một  xó vườn hoa nào đó. Một nhà xí công cộng. Một khuôn viên nhà thờ, hoặc một ngõ hẻm tối tăm.

Vũ ngửa mặt nhìn lên. Mặt trời vẫn còn chói  chang. Còn những nửa ngày nữa mới  tối. Làm gì để giết cái nửa ngày đáng sợ này. Cứ đi lang thang mãi thế nào cũng gặp quân cảnh, bị xét giấy. Nhưng không đi lang thang thì biết vào đâu bây giờ?

Thành phố đông đúc thế này. Ôi! Ước gì lúc này bỗng nhiên gặp được một cơ sở của Đảng. Anh tin là ở đây cũng như ở tất cả mọi nơi, đều có Đảng. Nhưng Đảng ở đâu? Nơi nào? Là những ai? Làm sao mà có thể kiếm tìm được! Phải bằng mọi giá tìm cho được cơ sở của Đảng, không phải chỉ để sống, mà còn để trở về và chiến đấu!...

Vũ lại tiếp tục đi. Lang thang. Biết lang thang là nguy hiểm, nhưng cũng chưa có thể làm gì khác là... lang thang. Đúng vậy! Những ai nói rằng trong suốt cuộc đời họ, bất cứ hành động nào cũng đều có sự cân nhắc, tính toán kỹ lưỡng, khôn ngoan và hợp   lý, mà không bao giờ có sự rủi may, có lẽ đó chỉ là những con người nói dóc.
 

Sáng hôm sau, trong một tiệm hủ tiếu không đông khách lắm, mà phần lớn là khách loàng xoàng: viên chức nhỏ, thợ thuyền, buôn bán vặt. Vũ ngồi gọn một góc hơi tối. Anh đã trải qua một đêm trà trộn trong đám thương phế binh ngụy và những người ăn xin, những người hủi què cụt ở sau chợ Tân Định. Một đêm thật hãi hùng, kỳ lạ...

Anh vẫy một chú bé bán báo lại, mua một số báo hàng ngày, đọc lướt những tin  chính. Không có gì đặc biệt. Chẳng có tin gì về con tàu đắm của anh, cũng chưa thấy địch đả động gì tới vụ tên lính bảo an ở Bà Rịa bị mất tích. Anh gấp tờ báo lại, uể oải, ngáp dài đúng như một anh thư ký khổ thất nghiệp đang quá rỗi  rãi và  ngao ngán. Anh liếc nhìn mình trong tấm gương lớn treo trên tường có vẽ hình mai hạc sặc sỡ   với những bài thơ chữ Hán. Anh thầm mỉm cười, nhận thấy mình cũng có vẻ một anh thư ký nghèo thất nghiệp thật: chiếc sơ-mi xanh tuy còn lạnh lặn, nhưng cổ đã sờn, chiếc quần tơ-rô-pi-can tuy màu cũng nhã, nhưng xem ra cũng đã nhẽo rồi. Đôi giày da càng cũ mòn hơn nữa. Nhưng thôi được, dẫu sao thế là cũng đã có một cái vỏ mới.

Bát hủ tiếu nóng hổi, bốc hơi ngào ngạt được đưa tới. Bụng đang đói mềm, nhưng Vũ ăn vẫn không sao thấy ngon. Trong đầu anh vẫn rối tung trăm ngàn mối lo nghĩ. Bây giờ phải làm gì? Tất cả mọi nỗi hiểm nguy vẫn còn hoàn toàn vây bủa bốn chung quanh anh. Chỉ một buổi chiều qua và một đêm chui lủi giữa cái thành phố mênh mông này, anh cũng đã có thể thấy được công tác an ninh của bọn địch cũng không đến nỗi quá tồi. Mật vụ, cảnh sát, quân cảnh như rươi. Thoắt khám, thoắt xét, chợt  bắt, chợt hỏi... gần như rất khó nắm quy luật của chúng. Cho tới lúc này, ngồi trong tiệm hủ tiếu, anh cũng chỉ mới biết: an toàn và sống được qua một ngày, một đêm. Không chừng, lát nữa bước ra khỏi cửa tiệm này là bị bắt liền cũng nên.

Phải làm gì đây? Câu hỏi ấy vẫn day dứt.

Nói theo cách của các đồng chí cán bộ địch hậu: anh đang sống "bất hợp pháp". Cũng các đồng chí cán bộ địch hậu ấy đã cho biết: muốn sống bất hợp pháp trong các vùng tạm chiếm thì điều kiện tiên quyết là phải có cơ sở trong dân chúng để được che giấu, để được nuôi dưỡng. Nhưng Vũ làm gì có cơ sở! Anh đang hoàn toàn bơ vơ như đi trên một sa mạc. Càng mong sao kiếm tìm được cơ sở Đảng.

Đầu óc anh tiếp tục nhức nhối. Anh thầm tiếc cho mình không có khả năng như  những đồng chí cán bộ địch hậu. Đúng thế, cho tới lúc này, mới hiểu hết bản lĩnh  tuyệt vời của những người cán bộ đã bao năm âm thầm hoạt động trong lòng địch. Ôi, ước gì mình chỉ có được một phần trăm tài năng và kinh nghiệm của các đồng chí ấy! Vũ thở dài, mỉm cười buồn với cái ước mơ tội nghiệp của mình.

Anh gọi thêm một ly cà phê đá.

Anh vẫn nghĩ tới những anh cán bộ địch hậu. Anh chợt nhớ tới một trong rất nhiều chuyện mà các đồng chí ấy đã kể: Đó là việc xây dựng cơ sở ở những ấp chiến lược "trắng". Ừ nhỉ! Phải chăng tình cảnh của các anh lúc đó cũng tương tự  như của  Vũ lúc này? Địch dày đặc bốn chung quanh. Dân đông, nhưng chưa biết ai tốt, ai xấu.  Các đồng chí đã phải nằm bờ, nằm bụi nhiều đêm ròng ngoài đồng để theo dõi quan sát, tính toán, sau đó táo bạo, quyết tâm tiến hẳn ra bắt liên lạc làm quen với dân. Từ
 

đó dần dần tìm hiểu, giác ngộ họ. Rồi, cứ thế, như một vết dầu loang, các anh đã mở rộng thêm mãi mạng lưới cơ sở của mình ngày càng vững chắc...

Ừ nhỉ! Vậy tại sao mình không cố làm như vậy. Tại sao mình không có thể làm như các đồng chí ấy: kiên trì và táo bạo...

Ý nghĩ ấy làm cho lòng anh dịu lại và đầu óc anh như sáng lên được một chút. Anh  gọi thêm mấy chiếc bánh rán như để tự thưởng cho mình đã bắt đầu lần ra được một đầu của cả một cuộn dây vô hình đang trói chặt chân tay anh.

Vừa nhấm nháp ăn, Vũ vừa làm những con tính. Bây giờ nhằm vào đâu? Dân lao động. Đúng rồi. Nhưng bọn địch cũng quỷ quái lắm, chúng thừa hiểu cán bộ  ta thường nằm, thường dựa vào nhân dân lao động nghèo khổ, nên rất chú ý theo dõi, thậm trí bố trí cả điệp viên, chỉ điểm. Nhưng đối với anh, khó có thể tìm một đối  tượng nào khác. Phải thận trọng và táo bạo thôi! Biết làm sao hơn? Đúng vậy, vẫn cái phương châm cổ xưa nhưng luôn luôn mới mẻ ấy! Được rồi, trong túi vẫn còn ít tiền đây sau khi đã bán chiếc nhẫn và  chiếc đồng hồ, mua bộ quần áo mặc. Với số tiền  này có thể sống tạm dăm ngày nữa. Dăm ngày ấy, anh phải tìm mọi phương kế  để chui lủi, trà trộn, liều sống trong sự đe dọa của mọi nỗi hiểm nguy treo trên sợi tóc để rồi tìm ra được một người nào đó...

Vũ trả tiền nhà hàng, nhìn bao quát phía ngoài cửa rồi thận trọng tiến ra. Anh vẫn  gắng giữ một dáng vẻ thật uể oải, lơ đãng. Cũng cám ơn cái thời thiếu sinh quân của trung đoàn Thủ đô xưa. Không ngờ, những vở kịch lửa trại hồi đó đã giúp cho anh  biết được chút ít cách "thể hiện tình cảm" trong những vai mình đã sắm. Hôm nay tất cả những cái đó đã có một tác dụng và lợi ích bất ngờ.

***

Và thế là, cũng như trong tất cả mọi khúc ngoặt quan trọng của đời anh, một lần nữa Vũ lại gắng vượt được qua mọi nỗi nguy nan, cực khổ. Anh đã tìm gặp và làm quen rồi kết bạn với vợ chồng một anh bán trái cây ở chợ xép đầu hẻm Chuồng  Bò, gần Ngã Bảy, một nơi buôn bán ồn ào. Dường như đây là một trong những nơi tập trung lớn nhất mà phần đông là dân tứ chiếng. Đủ cả: Bắc, Trung, Nam. Cũng chẳng ít Hoa kiều. Đó là chưa kể mấy chú Chà Và trước đây chuyên chăn bò thuê cho chủ Pháp hoặc chủ Tàu. Nhà cửa dân nghèo chen chúc như cả một thế giới lầm than đang quần tụ lại dưới chân những dãy nhà cao tầng diêm dúa, lai căng, kệch cỡm ngày ngày thi nhau mọc lên. Đó là những khách sạn, những ngân hàng, những tiệm nhảy... của những tay tư sản kếch sù đã và đang phất lớn từ khi các đạo quân viễn chinh Mỹ ồ ạt kéo sang. Khách sạn - Nhà hàng - Tiệm nhảy... Đèn xanh đèn đỏ đêm đêm nhấp nháy liên hồi để thu hút, mời chào những tên lính Mỹ, những tên lính Đại Hàn... mỗi ngày một thêm nhung nhúc trong cái thành phố như đã dần dần mất hết bản sắc này.

Anh bán trái cây có một chiếc xe đẩy. Chiếc xe sơn xanh long lở có một chiếc dù vải to xòe che bên trên giống như tất cả mọi thứ xe trái cây, nước ngọt... tràn ngập trên  các hè phố của Sài Gòn khi đó. Anh tên là Bổn, nhưng quen gọi anh Ba. Anh bị tật nguyền ở chân trái, đi cứ phải vẹo và gập gần nửa người. Đó là hậu quả một trận bom
 

Mỹ thảm khốc ở vùng Củ Chi quê anh, hồi đầu năm 1964. Từ khi bị tàn tật, anh Ba cay đắng bỏ quê đưa vợ ra thành phố kiếm sống. Chị Ba là một người đàn bà "hết sức Nam Bộ" như Vũ thầm nhận xét. Một người vợ đảm đang, tháo vát, bạo dạn, phóng khoáng đồng thời cũng rất giàu tình thương. Khác với nhiều gia đình khác, anh Ba chuyên trông hai đứa trẻ và đứng xe bán trái cây, còn chị Ba thì giữ vai trò của người đàn ông, bới tóc ngược, nay Lái Thiêu, mai Lục tỉnh để cất hàng. Chị thành thạo, thông thuộc hầu hết những con đường miền đông và cả vùng đồng bằng sông Cửu Long như thuộc bàn tay mình. Chị cũng quen gần khắp mặt các tài xế lái xe trên những con đường buôn bán, từ những tên anh chị bự, dữ dằn khét tiếng cho tới những tên nhóc choai choai đang học ném dao, nội công, nhu thuật... để nhập giới giang hồ. Đặc biệt, tất cả bọn chúng đều quý nể chị như người trong gia đình. Đáng gọi em chúng gọi em. Đáng gọi chị, chúng gọi chị.
Logged
trachvandung
Cựu chiến binh
*
Bài viết: 747



« Trả lời #22 vào lúc: 27 Tháng Mười, 2021, 07:55:16 am »

Vũ đã gặp anh Ba vào một trưa nóng ngột ngạt, mua mấy trái xoài. Một lần rồi hai ba lần... người Nam Bộ vốn cởi mở, tốt xấu dễ phơi bày. Không cần phải lâu gì lắm, Vũ và anh Ba đã trở nên tương đắc. Anh Ba đã mời Vũ về nhà "nhậu" và ngủ một đêm để tâm sự. Gặp chị Ba, Vũ cảm thấy càng yên tâm và tràn ngập hy vọng hơn. Chị Ba đã tỏ ra rất thương "chú Sáu". Theo chú Sáu nói, chú là dân Bắc di cư năm 1954. Lúc  mới vào đây chú mới có mười lăm. Người ta đã ném gia đình chú cũng như nhiều gia đình di cư khác lên tận Bảo Lộc. Đã mười năm có lẻ, gia đình chú vỡ đất trồng tỉa sống lần hồi. Nhưng số phận thật tai ác, bà già chú đau bịnh, vì nghèo quá không đủ thuốc, đã qua đời. Ông già chú cũng lại mắc chứng đau mắt rồi sinh ra mù lòa. Nhà  chỉ còn mình chú là trai. Hai người chị lớn đã lấy chồng, ở lại ngoài Bắc. Còn hai cô em, chưa chồng, cũng đau yếu luôn. Chú mới lấy vợ. Vợ chú cũng người di cư. Còn  về phần chú, từ mấy năm qua chú đã tốn mất bao nhiêu tiền của lo lót để thoát quân dịch. Nhưng tới nay, tiền chẳng còn, vợ chú đang có bầu, người ta lại bắt chú phải đi lính. Kẹt quá, chú đi sao nổi với cái gánh nặng gia đình như vậy! Chú đành phải liều, lánh tạm về đây ít lâu. Hy vọng cho cái "chiến dịch" bắt lính đang được triển khai gay gắt trên đó qua đi, chú sẽ trở về. Rồi cũng đến phó mặc cho số phận sẽ đưa dắt cha con, anh em, vợ chồng chú đi tới đâu thì tới..

"Ôi chiến tranh, chị Ba, anh Ba ơi, cực vậy đó! Phải chi cái nước Nam khốn khổ này được yên bình, thì em và cả anh chị đâu có đến nỗi vất vả như thế này!".

Chị Ba thương cho cảnh ngộ, lại còn tỏ ra rất mến tính nết của chú Sáu. Tình cảm  thân thiết đến với chị khá nhanh. Chị cũng tâm sự, kể lể  không giấu mọi điều gì về  gia cảnh của anh chị kể từ khi có cuộc chiến này xảy ra, nhất là từ khi có "quân ngoại bang" kéo vào. Chúng vào như một thảm họa. Thế rồi chẳng đợi Chú Sáu phải nói, anh Ba đã bàn với vợ: "Chú ấy đang bơ vơ, thôi thì bảo chú ấy cứ tạm ở đây ít bữa rồi kiếm việc mà làm! Chứ bây giờ để chú ấy đi đâu?...

Tất cả mọi chuyện đã diễn ra y như trong một cuốn tiểu thuyết vậy. Tuy nhiên, chiều hôm đó, anh Ba chợt hỏi:

-   Chú có giấy tờ đủ chớ? Cho anh cái giấy để vô tờ khai gia đình, trình với cảnh sát phường.
 

Vũ sững sờ. Nhưng cũng nhanh trí, anh đưa tay ra túi sau như định rút ví (kỳ thực chỉ là mấy tờ giấy lộn) rồi ngừng ngay lại.

-   Nhưng anh Ba ơi! Em là dân đang trốn lính mà! Khai báo thế này, khác chi đưa thân vào miệng cọp?

Vẻ mặt hết sức buồn khổ, anh tiếp:

-   Anh chị ơi, đã thương em, thương cho trót. Nếu... không tiện và, xin lỗi anh chị, nếu không tin em thì xin cho em đi khỏi! Rồi thỉnh thoảng em sẽ ghé về đây thăm anh chị và các cháu vậy.

Vũ làm ra bộ muốn đi thật. Thằng Biên, con Linh đứa lên mười, đứa lên sáu vội níu chặt lấy chú Sáu của chúng. Mới chỉ qua có một bữa cơm chiều và một đêm trò chuyện, Vũ đã được hai đứa trẻ rất mến.

-   Không! Chú Sáu! Chú Sáu đừng đi. Ba ơi! Má ơi! Đừng cho chú Sáu đi! Con Linh nước mắt vòng quanh.
Anh Ba ngồi ngẩn. Chị Ba chép miệng:

-   Vậy thôi, cũng được! Tụi tôi, ai hỏi sẽ nói chú là bạn buôn ở Lái Thiêu về chơi. Ai hỏi chú, chú cũng nói vậy, nghen!

Anh Ba vẫn còn phân vân:

-   Nhưng nhỡ, họ vô nhà, gặp chú đòi xét giấy thì sao? Chị Ba gạt đi:
-   Cũng thỉnh thoảng họ mới xét thôi! Được rồi, khi ấy sẽ hay! Chịu nghe ngóng chút! Họ tới, mình biểu chú lánh đi. Vả lại, tụi cảnh sát, mật vụ khóm này, phường này tôi đều nhẵn mặt. Đứa nào mà chẳng vay tiền tôi cho "bồ" hoặc ăn nhậu! Đã mấy đứa chịu trả đâu!

Chị Ba rất thương chồng. Anh Ba cũng rất yêu vợ. Và, cũng như trong mọi gia đình, khi người đàn bà nắm khâu kinh tế lại được chồng yêu, thì người đàn bà đó là thống soái. Anh Ba thấy vợ tỏ ra bạo dạn và quả quyết như vậy, cũng không biết nói sao  nữa, đành cười gật đầu:

-   Vậy, rồi, chú cứ yên tâm! Chỉ chịu khó nghe ngóng chút, nghen! Vũ chưa kịp nói gì, chị Ba đã vạch tiếp một kế hoạch:
-   Chú Sáu sẽ ngày ngày đi bán trái cây trên phố với ba lũ nhỏ. Thỉnh thoảng cùng tôi về các miệt lấy hàng. Nằm dài suốt ngày ở nhà đâu mà lo có kẻ nhòm ngó. Tôi lại còn
 

có nhiều bạn thân. Thỉnh thoảng "gửi" chú tới bọn nó ở "quá giang" một vài bữa. Như vậy đâu có đáng lo cho lắm!

Anh Ba khôi hài, vừa vui thực sự, vừa có ý nịnh vợ:

-   Chú coi! "Bà đệ nhứt phu nhơn" nhà tôi đó! "Thím Nhu" xưa tài ba chưa chắc đã ăn nổi!

Và, thế là từ bữa đó, ngày ngày Vũ đèo xe đạp anh Ba ra phố. Tối cùng về nhà. Vũ và vợ chồng anh Ba càng trở nên thân thiết, gắn bó hơn. Anh chị đã tìm thấy ở Vũ một người bạn trẻ trong sạch, đứng đắn, và rất mực thủy chung. Đối lại, Vũ cũng tìm thấy ở vợ chồng anh một tấm lòng thực sự quảng đại, bao dung của những người lao động chất phác. Hơn thế nữa, Vũ còn tìm thấy ở anh chị một nỗi chán ngán đối với cái xã hội đảo điên, bất công và ngày càng lộ rõ là nô lệ ngoại bang này. Hai vợ chồng đã không giấu giếm Vũ cả những mối thiện cảm của họ đối với những người du kích trong vùng. "Chú ơi, biết thế tôi theo du kích cho xong. Bị tật nguyền thế này nó cũng là đi một lẽ. Đằng này mình chỉ là dân thường, vậy mà cũng bị! Chúng ném bom tràn, chú ơi! Chúng biết thừa là dân thường cũng cứ ném. Chúng biểu: ở Củ Chi phải làm như tát nước vét cá vậy. Chúng nói: dân Củ Chi mười thằng thì chín thằng rưỡi ủng  hộ Việt cộng! Vậy đó!"...

Vũ cố giấu một nỗi mừng. Phải chăng, anh đã có thể đặt hy vọng xây dựng cặp vợ chồng này làm người của ta? Vũ đã thoát chết trên biển là nhờ có chiếc phao cấp cứu cá nhân và mảnh ván gỗ, giờ đây, ở trong cái biển người hỗn mang, địch ta lẫn lộn này, anh cũng đã bắt đầu bám được vào một chiếc phao cấp cứu khác, ấy là gia đình người bán trái cây trung hậu này chăng?

Mừng lắm. Nhưng dẫu sao cũng không thể vội. "Mình chưa có kinh nghiệm". Vũ vẫn luôn tự nhủ thầm như vậy: Phải thận trọng! Phải luôn luôn tỉnh táo!

Tuy nhiên, mối lo canh cánh bên lòng đã luôn giục giã anh phải nhanh tay, phải táo bạo hơn lên. Đó là chưa nói tới nỗi sốt ruột, nhiều lúc như điên như cuồng, chỉ ước gì mọc được cánh bay trở về miền Bắc, với đồng đội, với Ngọc Lý. Ôi Ngọc Lý! Hẳn  em vẫn đang kiên nhẫn chờ anh từng giờ, từng phút mà vẫn  không sao hiểu anh đã làm gì, và chắc chắn càng không thể nào hiểu giờ đây anh đang ở đâu, sống chết ra sao. Tất nhiên phải thú nhận: trong những ngày quá căng thẳng này đã nhiều lúc  chẳng còn có nhiều thì giờ để nghĩ tới em. Đầu óc anh dường như luôn luôn chỉ còn  có độc một câu hỏi: làm sao để có thể sống? Và làm gì để có thể mau chóng bắt được liên lạc với Đảng! Vậy thôi.

Em yêu, như vậy đấy! Nhưng hãy tin rằng trong những lúc tưởng như lãng quên này, chính là lúc anh yêu em và mong mỏi được trở về bên em kinh khủng nhất.

***

Một buổi sáng, Vũ nói với vợ chồng anh Ba là có chút việc phải lên chợ Bến Thành. Khoảng một giờ sau, anh trở lại, mặt mũi xớn xác, đầy vẻ lo sợ. Anh Ba hỏi có
 

chuyện gì. Vũ đáp: gặp một cuộc chặn bắt giữa đường. Anh may thoát, nhưng thấy có lẽ là một đứa phản bội, ăn mặc khá sang trọng, chỉ  điểm cho tụi cảnh sát bắt người. Có một người bị bắt vì là chiến sĩ biệt động. Chúng hè nhau đấm đá, đánh anh nát hết mặt, lăn lộn trên đường, máu me đỏ hết cả bộ quần áo trắng. Đánh cho mê man, rồi chúng mới cho xe buộc dây vào chân anh kéo lên trên suốt dọc đường...

Anh Ba rầu rầu nét mặt. Anh lẩm nhẩm những điều gì đó như những lời chửi rủa. Vũ ghé tai anh thì thào:

-   Anh Ba, nhưng còn chuyện này quan trọng hơn nữa...

-   Chi vậy?

-   Trước lúc bị bắt, người đó dúi rất nhanh vào túi quần em một nắm truyền đơn. May không có ai nom thấy.

-   Chết! Vậy chú để đâu? Vẫn còn giữ trong túi sao! Vũ lắc đầu:
-   Không! Em cũng đã nhanh trí bỏ nó vào hộp rác ở trước một căn nhà gần đó, lúc  bọn cảnh sát mật vụ đang vây bắt người biệt động nọ.

Anh Ba thở trút:

-   Vậy may! Tôi lo chú còn giữ lại. Vũ phân vân:
-   Anh Ba à, em định... báo cho cảnh sát về chuyện bó truyền đơn đó, được không? Anh Ba tròn mắt:
-   Chú điên hả? Sao lại làm vậy?

-   Không! Anh đừng lo, em đâu có khờ tới bót báo, để liên lụy tới mình. Em ra chỗ phôn (2)công cộng báo cho họ một tiếng thôi.



(2)   Máy nói.

-   Để làm gì? - Anh Ba vẫn tỏ ra rất ngạc nhiên. Vũ ấp úng:
-   Vì em e không thu lại bó truyền đơn rồi có người nào đó vô tình lấy, ném lung tung đi...
 

-   Thì đã sao?

-   Thì... lại có nhiều người liên lụy. Mặt khác, cũng rất bất lợi cho chánh quyền, làm tổn hại tới an ninh chung.

-   Trời đất thiên địa! - Anh Ba kêu lên sửng sốt và tức giận. Lặng đi, mấy giây sau anh mới lắc đầu, nhìn Vũ:
-   Quả thực tôi không ngờ chú lại... nực cười đến như vậy! Lo có người liên lụy thì phải rồi. Nhưng chú lại còn... thừa hơi thừa sức để lo cho an ninh, cho chánh quyền  thì thật quả là... hảo ý đó!

Hôm sau nữa, Vũ lại nói cần đi hớt tóc. Lát sau anh quay lại, hớn hở:

-   Chà, anh Ba! Tình cờ ngồi cắt tóc trong tiệm, em đã bắt quen một người làm cho  một sở Mỹ.

Anh Ba lạnh nhạt:

-   Sao chú?

-   Anh này biểu làm cho Mỹ sướng quá trời! Gấp trăm lần làm cho Pháp. Anh Ba cười nhạt:
-   Vậy hả! Rồi! Sao nữa?

-   Người ấy hỏi em buôn bán chi. Em nói trái cây. Người đó biểu có muốn thầu trái  cây cho sở Mỹ không, anh ta mách giùm. Chỉ cần đưa anh ta dăm chục ngàn xài đỡ...

Anh Ba cười càng nhạt. Rồi lắc đầu:

-   Vậy hả! Nhưng tôi đã có lần nói với chú rồi đó: Không hiểu sao cứ nom thấy mặt ba cái thằng Mẽo là tôi đã quá ớn rồi!

Vũ im bặt. Tối đó, anh Ba kể lại với vợ chuyện đó. Khác với chồng, chị Ba không cười nhạt, mà gần như tru tréo lên:

-   Chú Sáu! Chú xem cả cái thành phố này, trừ đĩ điếm, du đãng, còn có ai thích buôn bán, giao thiệp với Mỹ đâu? Thôi, thôi, chú xếp ba cái chuyện thầu trái cây đó lại cho vợ chồng tôi nhờ, nghen!

Vũ cố giấu một nụ cười.

Một buổi trưa khác, Vũ lại hớt hải trở về nhà tìm gặp cả hai vợ chồng anh Ba. Vũ  khép cửa, cố thu tiếng lại cho thật nhỏ:

-   Anh chị ơi, có lẽ em phải lạy anh chị, em về Bảo Lộc đây!
 

Cả hai vợ chồng anh Ba đều sửng sốt.

-   Tình cờ đi phố em gặp một thằng bạn, cũng dân Bắc di cư và cũng ở Bảo Lộc, gần nhà em. Hắn cho biết một tin dữ: nhà em vừa bị lục soát, và vợ em hắn bỏ trốn rồi.

-   Ủa sao vậy?

-   Thằng bạn em nói: khi cảnh sát, an ninh tới lục soát mới biết: thì ra vợ em vẫn nhận được thư mật của người anh ruột là cán bộ ngoài Bắc gửi vô kêu gọi hắn hoạt động cho... bên kia!

Anh Ba trợn tròn mắt. Chị Ba thì vươn dài cả cổ ra:

-   Ủa, thiệt vậy sao? Chuyện động trời vậy mà chú không hay biết chi hết hả?

-   Không! Thì ra vợ em hắn giấu! Trời đất ơi! Thế là... khổ em rồi! Em phải về thôi!

-   Chú về làm chi? Chú mê rồi sao? Bản thân chú bỏ trốn, hai tháng nay rồi, chú về để nạp mạng sao?

-   Không! Em không về nhà đâu. Em có thể biết vợ em hắn trốn ở chỗ nào rồi. Nhà  một cô bạn rất nghèo ở gần đó thôi. Em về kiếm hắn cùng chạy trốn. Vì ở quanh đó thế nào rồi cũng chết với họ.

Anh Ba ngồi ngẩn. Chị Ba thốt lên:

-   Ừa! Mà có lẽ phải! Về kiếm hắn đi! Thiên địa ạ, đang mang bầu mà trốn tránh vậy cực chịu sao nổi?

Rồi chị quay sang chồng:

-   Ba nó thấy phải chứ? Để cho chú về kiếm cổ. Vũ bỗng ngập ngừng:
-   Thưa anh chị, nhưng thú thực em muốn nói trước anh chị một điều...

-   Sao?

-   Giả dụ em kiếm được hắn, em... đem lên đây, liệu anh chị có thương…

Anh Ba vẫn ngồi ngẩn chưa biết nói sao, nhưng chị Ba đã sốt sắng gật đầu liền.

-   Được chớ! Việc nước sôi lửa bỏng! Chú cứ đưa đại cổ về đây đã, rồi sẽ tính sau, nghen!

Vũ có vẻ ngần ngại:

-   Nhưng e có phiền lụy chi...
 

Chị Ba chép miệng:

-   Ngại thì ai chẳng ngại! Nhưng chẳng lẽ bỏ chết cổ trên đó sao! Thôi, chú gắng về kiếm đi!

Tới lúc đó, anh Ba cũng gật đầu nói theo vợ:

-   Rồi! Cứ đưa đại cổ về đây đã! Rồi, tính toán sau. Biết làm sao hơn? Vũ chỉ còn thiếu reo lên.
Đêm xuống dần. Cả thành phố đã lên đèn. Vũ tha thiết nói:
-   Anh Ba! Mai em lên Bảo Lộc. Vậy tối nay em muốn đi chơi, tâm sự với anh chút, anh Ba! Anh đi chứ? Em lái xe gắn máy!

Ba có phần ngạc nhiên, nhưng vui vẻ:

-   À được chớ! Phải, ta đi chơi, kiếm cái gì uống bậy chút, tâm sự với chú cho vui!

Vũ đã hạ quyết tâm: Đêm nay anh sẽ "chuyển hướng". (Anh vẫn muốn dùng cái từ ngữ quen thuộc nhưng vô cùng quan trọng, mà  người của những con tàu không số  vẫn quen dùng mỗi khi quyết định cho tàu quay mũi, nhằm bờ tiến vào).

"Chuyển hướng"! Mọi khi đều có chi ủy họp bàn để cùng phát huy trí tuệ tập thể, xác định quyết tâm cho thật chính xác.

"Chuyển hướng"! Mọi khi có cả một đoàn thủy thủ dốc sức để cùng hành động và chiến đấu.

"Chuyển hướng"! Mọi khi có "ở nhà" theo dõi từng phút, từng giây để chỉ đạo cho chi bộ và thuyền trưởng đưa dắt con tàu vào bờ an toàn, trúng đích tuyệt đối...

Nhưng ở đây, chỉ có độc mình Vũ. Anh phải tự mình đảm đương mọi suy nghĩ và tự quyết định lấy tất cả mọi việc. Khó khăn biết bao nhiêu! Rất ít khi Vũ thấy mình hồi hộp như đêm nay. Trước đây, trong những lúc con tàu bị lộ, bị tiến công, có lẽ anh cũng chỉ thấy trái tim mình đập mạnh đến mức này là cùng.

"Chuyển hướng"! Đêm nay, anh sẽ trực tiếp nói thẳng với anh Ba những gì cần phải nói...

***

"Có tiền mua tiên cũng được", câu nói ấy có đầy đủ ý nghĩa thực tiễn trong cái xã hội Sài Gòn này.
 

Anh chị Ba đã mau lẹ "mua" được ngay tức khắc một tấm căn cước cho "chú Sáu" mà nay anh chị đều đã hiểu rõ chú là ai. Hiểu rõ chú là ai, đồng thời anh chị cũng nhận thức được đầy đủ một điều thật trọng

đại của đời mình: chấp nhận dấn thân hoạt động cho cách mạng.

Có được tấm căn cước rồi, Vũ rất mừng. Nhưng lại nhớ tới kinh nghiệm của các cán bộ địch hậu đã được nghe, anh đi tới một quyết định mới: dời nhà anh chị Ba, đến ăn  ở một nơi khác. Nhà anh chị Ba từ nay sẽ chỉ làm nơi họp bàn và liên lạc những khi thật cần thiết. Kinh nghiệm ấy đã trở thành một nguyên tắc: cán bộ trong lòng địch phải có chỗ ăn ở riêng, nơi làm việc riêng, để giữ được bí mật mọi hành vi của mình.

Nơi ăn ở mới của Vũ là gia đình một người bạn của anh chị Ba ở Đa Kao. Gia đình này khá giả hơn anh chị một chút: có một chiếc xe Lam nhỏ chuyên dùng để chở rau, quả từ Bình Dương, Long Khánh về Sài Gòn. Ông chồng trực tiếp lái xe, vợ chuyên  lo mua, bán. Chị Ba đã gửi vợ chồng ông bạn ấy "chú em kết nghĩa" của chị bị thất nghiệp đang chờ xin việc ở một sở Mỹ. Chú em của chị đảm đương những công việc đúng như một anhlơ xe.

Anh lơ xe ngay từ buổi đầu đã tỏ ra một thanh niên rất mẫn cán và có một sức mạnh khác thường. Có những lúc xe bị pan dọc đường, một mình anh đã ghé vai nâng hẳn đuôi xe lên, cho ông chủ chui xuống sửa chữa. Lại không chơi bời, không cà-phê, không thuốc lá. Có được người giúp việc như vậy, ông bà chủ xe Lam mừng như bắt được của. Tuy nhiên, ông bà nhận thấy anh lơ xe luôn luôn như phảng phất nỗi buồn. Ông bà nghĩ: đó là do sốt ruột, muốn sớm có việc làm ở sở Mỹ. Vì vậy, ngoài miệng ông bà luôn luôn than thở và an ủi anh lơ xe cứ kiên tâm chờ đợi. Nhưng trong thâm tâm ông bà chỉ cầu giời khấn phật cho cái sở Mỹ nào đó vứt đơn xin việc của anh ta vào sọt rác, để anh ta cứ ở đây giúp việc cho ông bà mãi mãi.

Chiếc xe tiếp tục chạy đường Bình Dương, Long Khánh. Suốt dọc con đường ấy, đã bao lần Vũ để ý quan sát, tìm tòi, nhưng đều thất vọng. Anh đã dần dần nhận được ra sự ngây thơ của mình: làm sao mà tìm được Đảng ở giữa đường, giữa chợ này? Bỡ ngỡ đến như anh mà còn biết tìm cách lẩn tránh, giấu mình, nữa là các đồng chí ta đã lăn lộn lâu năm trong lòng địch! Ý nghĩ ấy làm anh thêm buồn bã. Đã  có  lúc anh nghĩ, có lẽ anh chỉ làm được việc giác ngộ anh chị Ba để che giấu cho mình thế là đã đến mức cao nhất, không còn có thể làm gì hơn nữa.

Anh trở về nhà anh chị Ba một buổi tối. Những đứa trẻ bám chặt lấy anh, mừng vô hạn.

Người đàn bà Nam Bộ ấy ngồi lặng đi hồi lâu, rồi bỗng thì thào:

-   Vậy sao chú không lên miệt Củ Chi. Trong nội đô này quả là khó tìm được liên lạc thiệt!

Anh Ba cũng gần như reo lên khe khẽ:
 

-   Ờ phải rồi! Củ Chi! Phải đó! Trên đó du kích hoạt động dữ lắm. Nếu tìm được họ... Mà phải rồi! Tôi sẽ lấy cớ về thăm xóm ấp cũ. Chú cùng về, rồi ta tùy liệu tình hình...

Vũ sững sờ. Trời ơi, sao có một điều gần như quá giản dị vậy mà mình không nghĩ ra nhỉ! Thật không ngờ ánh sáng đã chiếu rọi ra từ trái tim hai con người yêu nước bình thường này. Về Củ Chi. Đúng rồi! Về được mảnh đất nghe nói là nơi tranh chấp liên miên dữ dội này, chắc chắn anh sẽ tìm được du kích. Tìm

được du kích thì con đường về với Đảng đã hoàn toàn ở trước mắt...

Vũ muốn siết chặt lấy bàn tay anh Ba, và cả bàn tay chị Ba mà thốt lên những lời cám ơn nồng nhiệt.

Ngay hôm sau, Vũ xin phép ông chủ xe lam nghỉ để dùng xe gắn máy chở anh Ba về thăm quê cũ của anh. Giấy tờ đã có đủ trong người, Vũ ngồi lên xe, bắt đầu đạp nổ máy. Lòng anh tràn ngập nỗi xúc động, không khác gì trước đây mỗi khi đứng trên ca-bin bắt đầu phát lệnh cho tàu nhổ neo rời bến.

Chiếc xe như bay. Gió xé mắt, rít ào ào bên tai anh. Anh Ba phải luôn luôn la lên: "Cẩn thận!". Chiếc xe vẫn lao đi, cơ hồ bánh không bén mặt lộ.

Đi! Đi! Bằng mọi giá sẽ phải tìm về với Đảng! Đi! Đi! Chỉ cần nghe thấy tiếng súng thôi! Tiếng súng nổ ở nơi đâu, Vũ sẽ lao thẳng tới đó. Vũ sẽ nhắn lại với anh Ba, chị Ba: "Xin hẹn một ngày tái ngộ! Trước mắt, chắc chắn sẽ có cán bộ địa phương vào  tìm gặp anh chị! Một trăm lần, một ngàn lần em cảm ơn anh chị đã cứu mạng, giúp đỡ...".

Cũng vừa lúc đó, một trạm gác vụt hiện ra ở phía trước. Có khá đông quân cảnh, cảnh sát và mật vụ. Hàng chục xe gắn máy để ngổn ngang quanh đó. Không khí nghiêm trọng khác thường.

Một tiếng còi rít lên lanh lảnh. Vũ dừng xe lại.
Những bộ mặt dữ dằn và nhâng nháo. Những điệu bộ y như Mỹ.

-   Ê! Coi giấy! Lẹ lên!

Vũ và anh Ba chìa căn cước ra.

Nhưng chúng chỉ lật đi lật lại xem qua, rồi một tên mặt choắt, gầy nhẳng, súng sáu trễ bên hông, đeo lon trung úy cảnh sát, cau có hất hàm:

-   Giữ lại!

Anh Ba tái ngắt, hai mắt như lồi hẳn ra. Miệng anh há hốc, lưỡi anh cứng  lại, Vũ  cũng không khỏi bàng hoàng. Hoàn toàn không hiểu ra sao hết. Giấy tờ có đủ mà.
 

Giấy không hợp lệ sao? Giấy giả sao? Hoặc chúng đã có chỉ điểm. dõi theo mọi tung tích của Vũ từ bấy đến nay, bây giờ mới giăng một cái bẫy bắt một cách thật "ngoạn mục" ở giữa đường, xa thành phố, nhằm tránh mọi sự ồn ào không cần thiết?

Một tên cảnh sát, chừng nhân viên thường, hỏi lại một điều gì đó, tên mặt choắt cau mặt, gắt lên:

-   Đã bảo bắt! Đ... mẹ! Bắt cả hai mà!

Anh Ba níu chặt lấy Vũ. Bàn tay anh run bắn. Đột nhiên một nỗi thương xót trào lên trong lòng Vũ. Thương cho anh Ba đến nỗi Vũ như quên hẳn chính anh cũng đang bị bắt mà chưa hiểu vì một lẽ gì...

***

Hơn một tháng sau.

Tối đó Sài Gòn lên đèn, các đường phố như thường lệ đông đúc tấp nập khác hẳn ban ngày. Xe hơi, xe gắn máy chạy phun khói xăng mù mịt, tiếng nổ inh tai nhức óc. Các tiệm ăn uống đông nghịt. Thành phố quay cuồng, mê mải trong việc bán buôn và ăn chơi thả dàn. Chỉ những khi nào nổi lên tiếng còi cảnh sát hoặc xuất hiện những chiếc xe quân cảnh, an ninh gầm rú phóng như điên, hoặc nom thấy những tên lính Mỹ cao lêu đêu đi tà tà trên các hè đường, tay ôm ghì những con điếm Việt Nam chỉ cao tới nách chúng, thì người ta mới chợt nhớ mình đang sống trong chiến tranh, và quân đội ngoại bang đang có mặt ở đất nước này...

Trên đường Lê Văn Duyệt. Một ngôi nhà lớn mang biển "Công ty Phước Vân" cũng đã sáng trưng ánh điện. Dân phố ai ai cũng đều biết đó là một công ty chuyên buôn bán cá biển. Công ty không lớn lắm, nhưng cũng có tới sáu bảy thuyền lớn gắn máy đóng theo kiểu thuyền Thái Lan, chuyên chạy ven biển cất hàng từ Rạch Giá ra  tới  tận mấy tỉnh bắc trung bộ để bán buôn cho mấy công ty ngoài đó. Dân phố biết đại khái: giám đốc công ty Phước Vân là một người đã đứng tuổi, mập mạp đỏ au, tướng rất đường bệ, quen gọi là ông Bảy phá trời vì nghe người làm trong nhà nói ông đã  nổi tiếng một thời về tính ăn chơi, phá của. Nhưng ông Bảy phá trời không mấy khi ở nhà. Với một chiếc xe con, ông luôn luôn đi các tỉnh để khui nguồn hàng và ký hợp đồng với các công ty khác. Thỉnh thoảng ông mới về Lê Văn Duyệt. Thường xuyên ở nhà chỉ có bà vợ, nghe nói là bà bé của ông. Bà này quả thật là một người đảm đang hết mức. Một tay bà cai quản gia nhân, và điều hành tất cả mọi công việc giao dịch  của Công ty ở Sài Gòn. Khách khứa, bạn bè của bà phần lớn là những sĩ quan cao cấp và những ông tai to mặt lớn ở quận, ở đô thành. Các ông hâm mộ tài gia chánh của bà Phước Vân đã đành, nhưng ai cũng hiểu các ông còn quý mến cả cái nhan sắc của người đàn bà  giàu có đang ở tuổi hồi xuân mà đức ông chồng lại luôn luôn đi vắng  ấy.

Tối nay, cũng như nhiều tối khác, bà Phước Vân lại có một cuộc tiếp thân mật. Khách được mời là ông phó quận trưởng, ông thẩm phán ở Tối cao pháp viện và một ông đại tá an ninh quân đội.
 

Bà Phước Vân đã trang điểm xong. Cô hầu phòng - một cô gái trạc hai mươi xinh   như mộng, cầm chiếc gương chiếu vào hai bên tai và gáy để cho bà xem lại lần chót mái tóc kiểu cách hoàn toàn phù hợp với tấm áo dài gấm đen thêu kim tuyến rất kiêu sa, mà cô gái đã phải bỏ ra nửa giờ để chải chuốt cho bà.

Bà Phước Vân hài lòng gật đầu:

-   Được rồi, cám ơn em, em Chín!

Cô hầu có tên là cô Chín mỉm cười, lễ phép lui ra. Nhưng, cô vừa ra khỏi chừng năm phút, chợt lại đẩy cửa bước vào. Cô như quên cả gõ trước. Một vẻ gì như hốt hoảng, rối bời trong cặp mắt cô.

-   Thưa bà, chú Long về có công chuyện cần gặp bà gấp! Bà Phước Vân đang ngắm lại mình trong gương, quay lại:
-   Ai?

-   Dạ, chú Long! Đôi mắt bà mở to:
-   Chú Long hả?

-   Dạ! Chú Long! Chú biểu cần được gặp bà gấp lắm! Hết sức gấp! Tới lúc đó bà Phước Vân không giấu được vẻ ngạc nhiên nữa:
-   Vậy hả? Biểu chú vô đây! Còn em, em ra ngoài nhà, có khách tiếp giùm nghe!

-   Dạ!

Cửa mở. Một viên trung úy cảnh sát ngụy bước vội vào. Anh ta trạc ba  mươi, râu  quai nón cạo xanh, vóc người vạm vỡ.

-   Anh Long!

-   Chị Ba! Chị phải đi ngay! Dời khỏi nhà này ngay! Có xe chờ sẵn ngoài cổng rồi!

-   Sao? Việc chi vậy? - Bà Phước Vân sững sờ.

-   Sẽ nói sau! Chị phải đi liền! Nguy cấp rồi. Động rồi!
Logged
trachvandung
Cựu chiến binh
*
Bài viết: 747



« Trả lời #23 vào lúc: 27 Tháng Mười, 2021, 07:57:38 am »

Nói đoạn, viên trung úy cảnh sát quay ngoắt ra liền.
Bà Phước Vân vội vã bước theo. Qua phòng khách ngoài, bà ngoắc tay vẫy cô hầu phòng đi cùng. Đúng như lời người có tên là Long nói: Một chiếc xe du lịch loại tối tân đắt tiền nhất Sài Gòn đã chờ sẵn họ ở ngoài cổng.
 

Khi cả ba người vừa dập cửa lại, chiếc xe lao vút đi như một mũi tên bắn.

Chiếc xe chạy vòng vèo trên nhiều đường phố tấp nập, rồi vọt sang Gia Định, lao về phía Bình Hòa...

Trên xe, ba người bắt đầu nói chuyện:

-   Sao, anh Long?

-   Lúc này, bọn chúng có lẽ đang xét nhà cũng nên.

-   Nhưng sao vậy?

-   Chị Ba! Tên Nam phản bội rồi! Hắn vừa ra trình diện ở đồn cảnh sát I Vũng Tàu,  hồi một giờ chiều nay...

-   Trời! Bà Phước Vân lúc này được gọi là chị Ba, thốt lên một tiếng gần như rụng rời. Long tiếp:
-   Cũng may hắn chỉ là một nhân viên nhỏ, và chúng ta cũng đã ngờ hắn từ lâu, không cho hắn biết cơ sở này của ta ở Sài Gòn. Hắn chỉ biết có nhóm của hắn đang công tác, tức là nhóm anh em ta chuyên đứng ra tổ chức đóng thuyền ở Vũng Tàu. Tuy vậy hắn cũng biết một vài người của ta làm trên một, hai thuyền. Điều này nói cho nghiêm khắc: cũng là khuyết điểm của ta. Đúng ra: nguyên tắc người ở nhóm nào chỉ được biết nhóm đó...

-   Trời! Tên phản bội! Tên phản bội! Thiệt không ngờ hắn lại khốn nạn đến như vậy! Tôi cũng tưởng tồi tệ lắm là hắn chỉ xin rút lui công tác về sống yên phận để ăn nhậu cho sướng... Hắn là con một đồng chí huyện ủy của ta. Thiệt không ngờ mấy năm ra thành phố ăn học hắn đã biến chất đến thế. Khi các đồng chí huyện ủy giới thiệu hắn về đoàn, nom tướng nó cô hồn tôi cũng đã nghĩ ngay: dân này để cho chạy theo mấy cô gái Sài Gòn hơn là cho làm cách mạng. Vậy mà bây giờ đúng!

-   Để tôi nói nốt. Tên Nam không được biết cơ sở của ta ở Sài Gòn. Nhưng tôi đã nói: hắn có biết một vài anh em làm ở thuyền. Cũng vì vậy khi ra hàng địch hắn đã nhằm đúng lúc một chiếc thuyền của ta, chiếc thứ hai, vì sóng gió lớn bị hư hại phải ghé vô Bến Đá ở Vũng Tàu để sửa lại...

-   Chiếc thứ mấy? - Chị Ba lo lắng hỏi lại.

Cô Chín cũng gần như cùng một lúc la lên giật giọng:

-   Chiếc thứ mấy? Anh Long?

-   Chiếc thứ hai?

-   Vậy còn chiếc thứ nhất? Và vì sao chiếc thứ hai lại vô Cấp. (3)
 


 

(3)   Vũng Tàu.

-   Chiếc thứ nhất có lẽ vẫn đi lọt vì không thấy địch thông báo gì cho nhau hết. Chiếc thứ hai tấp vô Cấp vì sóng gió lớn quá, bị hư sườn thuyền khá nặng, phải vô để nhờ   tổ đóng thuyền của ta sửa. Và ác hại quá, tên phản bội đã nhằm đúng lúc đó đi đầu  thú, nó đã chỉ điểm cho địch bắt không những cả tổ đóng thuyền mà còn bắt hết số  anh em ở chiếc thuyền thứ hai của ta vừa mới ghé vô...

-   Tên chó đẻ!

-   Mà, chị Ba biết rồi đó, anh em dưới thuyền lại có người biết cơ sở ta ở Sài Gòn này, thậm chí biết ít nhiều cả về tung tích của Đoàn ta nữa. Đề phòng bị tra tấn dữ có  người không chịu nổi sẽ khai ra...

-   Đúng như thế!

-   Vì vậy, tôi phải cấp tốc chạy về báo chị hay!

Chị Ba lặng đi trong giây lâu. Long liếc nhìn chị như nhìn một xác chết. Nhưng chỉ mấy phút sau, chị Ba đã ngồi thẳng dậy, đôi mắt bừng bừng:

-   Rồi! Vậy bây giờ tôi quyết định như sau, nghe: ta phải quay xe lại. Anh Long gắng trở về Vũng Tàu ngay trong đêm nay. Nếu cảm thấy lộ, cho anh rút về cơ sở 10B - 2990. Còn tôi, trước mắt đúng là phải chạy khỏi nhà đã, tôi sẽ tới cơ sở 188 - NTN ở Bình Hòa để nghe ngóng xem động tĩnh sao. Riêng cô Chín, cô sẽ dùng chiếc xe này đi gấp, làm sao càng nhanh càng tốt tới Hàm Tân ngay sớm mai...

Lòng tràn ngập hồi hộp, Chín khẽ hỏi lại:

-   Để làm chi, chị Ba?

-   Tới bến thuyền Hàm Tân, tìm xem chiếc thứ nhứt của ta có thoát và ghé được đó không? Chiếc thứ hai thì coi như tiêu rồi.

-   Chiếc thứ nhứt? - Cô Chín lại hỏi giật giọng, một nỗi ngạc nhiên lẫn mừng rỡ chói lòa trong ánh mắt. Cô tiếp:

-   Rồi! Chiếc thứ nhứt, chị Ba! Nhưng em tưởng nó đi thẳng chớ?

-   Không! Theo kế hoạch mà em không được biết, chiếc thứ nhứt bắt buộc phải ghé Hàm Tân vì nó có nhiệm vụ đón thêm một người "khách" để đưa ra Bắc.

-   Vậy em hiểu rồi!

-   Gắng tìm cho được chiếc thuyền đó, nghe em, báo động cho nó, biểu phải thay hết biển số và toàn bộ giấy tờ. Mà giấy tờ thì Đoàn đã chuẩn bị sẵn cho nó tới hai, ba thứ,
 

đầy đủ. Tóm lại, biểu nó: tất cả biển số và giấy  tờ của hãng Phước Vân phải hủy  ngay, thế vào đó là biển số và giấy tờ của hãng Phi Sơn, hoặc công ty Đại Hải, tuỳ! Em rõ chưa?

-   Rồi, chị Ba!

-   Gấp lắm nghe em! Không kiếm được chiếc thuyền đó, coi như chín mươi phần trăm hắn bị địch bắt giữ. Vì, chị tin là ngay đêm nay, tụi địch đã điện cho suốt dọc duyên hải này, cứ thấy tàu thuyền nào của hãng Phước Vân là bắt liền. Bởi thằng Nam tuy không rõ cụ thể tỉ mỉ gì hơn, cũng có thể biết đại khái là có thuyền của hãng Phước Vân đang đi trên biển, thế là đủ nguy rồi!

-   Em rõ rồi, chị Ba!

Chiếc xe trở về tới Gia Định thì dừng lại. Chị Ba nhảy xuống. Chiếc xe tiếp tục lao đi trong đêm tối. Nó ra xa lộ. Rồi nó quặt xuống Vũng Tàu. Tới đầu thành phố, nó nhả viên "Trung úy cảnh sát" xuống, đoạn tiếp tục vút bay trên đường, nhằm hướng Hàm Tân.

Chỉ còn một mình cô Chín trên xe. Cô chỉ ước gì chiếc xe mọc cánh bay ngay được  tới Hàm Tân trong khoảnh khắc. Liệu có kịp nữa không? Rất có thể sớm mai, khi tới được bến thuyền nơi đó, cô chỉ còn biết cắn răng lại để giữ cho nước mắt khỏi rơi xuống, bởi tất cả những người trên thuyền cũng có thể đã bị còng tay giải lên  bờ  trong đó có cả Việt, người cán bộ miền Bắc mà cô mới được quen biết trên một tháng nay. Việt là cán bộ loại gì, có nhiệm vụ gì, cô không có phận sự được biết. Các chú trên Đoàn chỉ nói qua loa: đó là một cán bộ quân đội ngoài Bắc mới vô, nay có nhiệm vụ trở ra gấp. Đoàn thuyền gồm hai chiếc mà Đoàn phóng ra Bắc lần này có nhiệm   vụ lĩnh vũ khí vô như thường lệ, nhưng hiển nhiên còn có nhiệm vụ đưa  cả Việt trở  ra. Việt! Ôi chàng trai đất Bắc dễ thương ấy, lỡ có sao thì... Chín cũng chẳng hiểu nổi chính lòng mình. Nhân dịp được chị Ba phái về Bạc Liêu, về Đoàn, báo cáo  công  việc "kinh doanh" trên này, Chín đã được gặp Việt đang nằm chờ ngày ra Bắc ở đó. Hai tuần cùng sống bên nhau ở trạm khách của Đoàn trong mật khu, Chín không ngờ khi chia tay, cô đã vô cùng bịn rịn. Chàng trai khỏe đẹp đã đành, còn có những cách nghĩ, cách nhìn thật mới lạ, rất mới lạ với cô về nhiều chuyện, từ những  chuyện lặt  vặt cho đến những điều thật to lớn ở chung quanh, thậm chí tới cả những vấn đề rất quan trọng như: lẽ sống và hạnh phúc của những lứa tuổi trẻ hôm nay... Anh có một  lối nói thật giản dị nhưng cũng trẻ trung, sinh động và cụ thể hết sức. Và, tuy anh chẳng chịu nói chi hết, Chín vẫn tưởng tượng ra được biết bao nỗi gian nan, biết bao chuyện ác hiểm của cuộc đời hoạt động, chiến đấu của anh, của những người trai đất Bắc trên gương mặt cháy nắng, trong cặp mắt xám gan góc và phóng  khoáng của anh.

Chín biết: đối với cô, anh cũng tỏ ra rất mến, như mến một cô em gái. Anh đã không giấu giếm, kể cho Chín nghe cả về người vợ chưa cưới của anh ở tận Hà Nội. Chị làm những công việc khoa học nào đó. Chị có một cái tên thật đẹp: Ngọc Lý. Mỗi lần nói tới chị, đôi mắt anh, cả gương mặt anh như được thắp lên một ngọn lửa. Hai tuần đã qua đi như một giấc mộng đẹp. Buổi chiều, trước ngày Chín phải trở về với chị Ba, không thể nào cưỡng được mình nữa, Chín đã đòi anh phải chở một chiếc xuồng ba lá
 

cho cô đi chơi trong vùng rừng đước của mật khu. Chiều xuống. Một buổi chiều thật buồn trong rừng. Chẳng nhớ cô đã nói những điều gì. Chỉ biết lúc cùng lên bờ để trở về trạm, cô đã cởi chiếc khăn rằn trên cổ đưa anh. Anh ngắm nhìn Chín rất lâu rồi dịu dàng từ chối, nói rằng để Chín dùng. Một tấm lòng thế đủ rồi, không cần phải có vật kỷ niệm. Nhưng Chín đã rút luôn một con dao nhỏ trong túi ra cắt một lọn tóc, đưa anh, và rớm lệ: "Vậy anh đem cái này ra Bắc, để nhớ rằng ở miền Nam có một đứa  em gái rất... thương anh". Không thể từ chối được nữa anh cầm lấy món tóc: "Tôi không biết nói sao! Tôi chỉ biết cảm ơn Chín, vô cùng cảm ơn Chín!".

Chín về với chị Ba mới được đúng một tuần thì xảy chuyện đêm nay. Gan ruột cô  càng như cháy bỏng. Cô nghĩ tới cả con thuyền, nhưng không giấu lòng mình, cô đã nghĩ đến anh nhiều hơn cả...

Trời sáng dần.

Chiếc xe đã tới bến cảng Hàm Tân. Chín khoác chiếc túi nhỏ lên vai, đi thẳng tới khu vực những xuồng ghe đậu san sát. Trong các hàng quán trên bờ, thủy thủ, hành khách đang ăn uống điểm tâm khá tấp nập. Mùi cà-phê, mùi hủ tiếu, mùi lạp xường, trứng chiên ngào ngạt... Chiếc thuyền gắn máy đó đâu rồi? Chín đi ngược rồi đi xuôi. Vẫn không sao tìm ra tăm tích của nó. Mỗi lúc trái tim cô càng thêm lạnh giá.

Cô đi qua một tiệm cà-phê và điểm tâm khá lịch sự. Bụng đã đói mèm. Cô muốn ghé vào tranh thủ kiếm một ly cà-phê sữa rồi tiếp tục công cuộc kiếm tìm mà cô tin là khó có thể còn hy vọng.

Vừa bước vào trong tiệm, cô bỗng gần như đứng sững. Đất dưới chân cô muốn rung lên. Nhưng kịp giữ một thái độ thản nhiên, cô bước những bước thật uể oải, kiêu kỳ  về phía một chiếc bàn ở góc phải căn phòng. Nơi đó có hai ghế bỏ trống. Một viên cảnh sát có hàng ria mép tỉa xén khá công phu đang ngồi nhấm nháp một ly cà-phê  sữa với bánh bao.

-   Xin lỗi ông! Ở đây còn trống chỗ chứ ạ?

-   Ồ! Rất hân hạnh! Mời cô ngồi.

Viên cảnh sát niềm nở, hai mắt long lanh hẳn lên như mắt chó săn thấy con mồi.

Chín vén tà áo lụa Pháp đắt tiền, ngồi xuống, và cũng gọi một ly cà-phê sữa, một đĩa ba-tê nóng. Thái độ của cô vẫn uể oải kiêu sa. Nhưng trong lòng cô lúc đó như đang  có đám cháy. Cô chỉ ước gì có thêm một đôi mắt để nhìn ngược ra sau về phía một chiếc bàn tròn lớn ở góc trái nhà hàng. Nơi đó, một viên sĩ quan hải quân ngụy trẻ, vẻ phóng túng, ăn chơi đang ngồi cùng uống cà-phê và ăn sáng với ba bốn người nữa, ăn vận hơi luộm thuộm đúng là dân ở dưới tàu, thuyền mới lên bờ.

Những người đó không phải ai xa lạ: Họ là những người của ta trên chiếc thuyền thứ nhất, mà cô đang tìm kiếm. Trong số đó hiển nhiên có cả Việt, anh bộ đội miền Bắc của cô! Họ cũng đã nhìn thấy Chín, lúc cô mới chợt vào. Trong tất cả bằng ấy cặp
 

mắt đều nháng lên một tia sáng! Nhưng cũng rất nhanh, tất cả đều trở lại bình thường và tiếp tục ăn uống, trò chuyện vui vẻ với viên sĩ quan hải quân ngụy.

Họ đang nói những chuyện gì? Họ đã cặp bờ lúc mấy giờ sáng? Vậy là họ đã thoát trong đêm qua. Nhưng họ đã biết chuyện tên phản bội chưa? Họ có hiểu rằng mối nguy hiểm đang treo trên đầu họ bằng một

sợi tóc?...

Chín nhấp ly cà-phê mà chẳng còn hiểu đắng ngọt ra sao. Cô cũng chẳng còn hiểu tên cảnh sát ngồi đối diện đang làm duyên nói những lời gì. Cô chỉ còn có đủ chút tỉnh  táo để cố giữ một nụ cười im lặng với nó,

như thể một sự tỏ tình, hoặc ít ra một phút thiện cảm kín đáo.

Ở góc phòng phía trái nhà hàng, viên thiếu úy hải quân ngụy, áo ngực mở phanh, cất tiếng gọi thêm mấy đĩa thịt bò lúc lắc. Một người đã đứng tuổi trong đám khách tiếp hắn hàm vuông, râu quai nón, dáng vẻ ngang tàng, "phong lưu mã thượng" cũng sang sảng gọi thêm một cây Uýt-ki.

-   Nhậu chút cho vui, thiếu uý! Thú thiệt dân tàu, ghe tụi tôi dù điểm tâm hay chi chi nữa, thiếu cái chất cay này, coi như chưa ăn uống chi hết, người mệt như đau!

Tên thiếu úy hải quân ngụy ngửa mặt cười giòn, để tỏ ra cũng là  dân biết ăn  chơi. Hắn nhún vai, kêu:

-   Quả là mệt thiệt! Đ. mẹ! Suốt đêm qua, tụi tôi cho tàu lùng như điên ấy chớ! Đ. mẹ! Chẳng qua vì muốn kiếm đồng tiền thưởng! Chỉ muốn cho thượng cấp họ hiểu rằng: tụi trẻ đã không làm thì thôi, đã làm là làm hết mình. Không uýnh thì thôi, uýnh là uýnh chết bỏ! Đâu có như lũ hèn, hoặc tụi chỉ ngồi ở Sài Gòn hò hét chiến tranh!

Người hàm vuông, râu quai nón gật gù:

-   Đúng vậy! Tụi tôi dám thú thiệt: rất tin tưởng ở những ông sĩ quan trẻ trong cuộc chiến này. Nhứt là những ông đã được đào luyện ở ngoại quốc về...

Tên thiếu úy hải quân ngụy càng bốc:

-   Đ. mẹ! Nói vầy chớ có bảo là phách lối: Không có tụi trẻ, đất nước này mất với Việt cộng lâu rồi!

-   Dạ! Đúng như thế! Tên thiếu úy thở dài:
-   Nhưng không phải thằng trẻ nào cũng có chí, có gan cả đâu, mấy cha nội! Phải thú nhận rằng: giả sử tất cả những sĩ quan cộng hòa đều có tinh thần và đởm lược như... tụi cán binh Việt cộng cả thì... Đó! Một thằng cha Mẽo nào đã nói rồi đó, rất trúng;

"Giá mà tôi có trong tay vài trăm chiến binh Việt cộng, tôi dám có thể đánh bại cả chánh quyền Sài Gòn này!".

Đám khách cùng cất tiếng cười, và nhìn nhau như cùng chia sẻ sự hài hước và cách nói sâu sắc, táo bạo của tên thiếu úy hải quân ngụy.

-   Mấy cha nội thấy đó! Được lịnh tám giờ tối qua, tôi cho tàu nhổ neo liền. Lùng   suốt, nhưng rút cục tụi Việt cộng trên chiếc ghe của hãng Phước Vân vẫn cứ lọt được, và có lẽ chúng đã ra tới tuyến tuần tiễu của duyên đoàn 28 (4)rồi! Tụi tôi đã điện ra, không rõ mấy cha ngoải có mần ăn được chi không, hay lại bị tụi nó qua mũi, lọt đi mất tiêu?



(4)   Thuộc Phan Thiết.

Rượu vào lời ra. Câu chuyện quanh bàn càng thêm ồn ã. Viên thiếu úy càng tỏ ra cóc cần đời, nói đủ các thứ chuyện, và càng công khai khen đối thủ Việt cộng trên biển  của hắn là "cứng cựa"...

Từ đầu tới cuối, Vũ, dưới cái tên mới là Việt, vẫn chỉ ngồi lầm lũi ăn uống. Anh được trao sắm vai một thợ máy hơi bị điếc, rất ít nói. Vai ít nói, lì lợm ấy thật thích hợp với anh lúc này. Một là anh không nói thạo giọng Nam Bộ. Hai là anh đang đầy một bầu tâm sự rối bời, chỉ nóng lòng được mau trở ra Bắc. Anh gần như không chú ý tới bất cứ những gì xảy ra chung quanh nữa. Nhưng, khi Chín xuất hiện, chỉ một  chút nữa anh đã quên vai trò của mình, chồm dậy, mà reo lên.

Anh cố nén. Anh nhìn đi nơi khác. Anh liên tưởng tới cả hình ảnh thân yêu, ân nghĩa của vợ chồng anh Ba tật nguyền. Ôi, anh đã gặp không ít người đáng quý đáng mến ở đây, nhưng rồi anh đều phải lần lượt xa họ...

Cách đây mấy tháng, buổi đi Củ Chi, Vũ và anh Ba bị bắt giữ lại, đã tưởng cuộc đời thế là kết thúc. Nhưng đó chỉ là một cuộc bắt bớ bất chợt. Vũ và anh Ba đã vô tình đi Củ Chi nhằm đúng buổi địch tổ chức xét giấy gay gắt ở tất cả các nẻo đường vào Sài Gòn. Bởi chúng đã phát hiện có nhiều giấy tờ giả mạo. Một số chuyên viên cảnh sát  đi học ở Mỹ mới về. Bọn này chuyên phát hiện các giấy tờ giả. Bữa đó, chúng thấy tờ căn cước và tấm thẻ nhân dân tự vệ của Vũ quá mới, nghi ngờ bèn giữ lại. Giữ Vũ, chúng giữ luôn cả anh Ba. Nhưng chỉ sau có mấy tiếng đồng hồ, chúng đã xác nhận giấy tờ của Vũ là loại giấy thật!

Hú vía! Anh Ba từ bữa đó không dám về Củ Chi nữa. Nhưng Vũ cứ một mực đòi đi. Anh vẫn  tràn ngập một niềm hy vọng: về tới mảnh đất máu lửa, tranh chấp đó, thế  nào anh cũng tìm được Đảng. Chị Ba đã xung phong đưa anh đi. Nhưng  sau mấy  ngày nghe ngóng, tìm kiếm, không có kết quả gì hết.

Một kế hoạch khác đã được vạch ra. Vũ nhớ tới ông cụ đẻ ra Thuận - Theo Thuận nói khi trước: ông cụ đã ra Nha Trang. Nhưng ra Nha Trang thì biết tìm ở đâu? Chim trời
 

cá nước! Tốt nhất là cứ về quê ông cụ xem sao. Vũ vẫn còn  nhớ được tên làng, tên  ấp, tên quận nơi quê quán của Thuận ở Bến Tre. Vũ liều đi một mình. Chuyến đi này của anh cũng lại hoàn toàn thất bại. Anh về một xóm ấp đã bị bom đạn tàn phá, gần như cạo trắng. Tìm hỏi mãi mới có người cho biết ông cụ không phải đi Nha Trang  mà vào Cần Thơ. Gia đình này chỉ còn một cô em gái của Thuận. (Người em trai của Thuận là du kích ấp, đã hy sinh năm 1963). Nhưng cô em gái cũng không còn ở ấp.  Cô đã lên Sài Gòn. Nghe nói nghèo khổ quá, cô đã phải đi bán hàng thuê ở một tiệm giải khát kiêm phòng nhảy. Không ai rõ ở đâu cụ thể...

Vũ đã vào một số phòng nhảy. Với một niềm hy vọng như một ước mơ viển vông: may ra thì gặp một cô gái hầu bàn nào đó cũng có một nét  hao hao như Thuận.  Nhưng anh cũng đã tốn công vô ích.

Nỗi buồn vò xé. Niềm thất vọng như điên. Nhưng, một lần nữa Vũ lại vùng dậy. Anh lại đi Củ Chi lần thứ ba. Lần này anh đi một mình. Anh lại về đúng cái ấp cũ tan  hoang của anh Ba. Và ngay đêm đó anh cứ nhằm hướng tây bắc đi miết, băng hết  đồng này, qua trảng khác, vượt hết ấp này tới ấp khác... Cuối cùng, gần sáng, ở gần một bầu nước, anh đã bị một số người phục sẵn ở đó nhảy ra bắt sống. Đó là những người du kích. Anh bị kết án: gián điệp mặt đất của địch. Anh xin một đặc ân: gặp người chỉ huy cao nhất của khu vực trước khi lãnh đủ một băng đạn vào ngực để chịu tội "gián điệp". Gặp được người chỉ huy du kích xã, anh đã được giải tiếp lên huyện, rồi lên mật khu của tỉnh. Ở đó, các đồng chí ta đã điện ra Bắc với đầy đủ tên thật của Vũ và một ký hiệu đã được quy định từ trước với Bộ Tổng tham mưu. Hai tuần sau, Vũ được đưa xuống quân khu Chín. Ở đó, anh đã được đưa về một đoàn tàu thuyền chuyên ra Bắc để nhận vũ khí, thuốc men. Đó cũng là một thứ đoàn tàu không số,   một đoàn tàu thuyền mới được thành lập từ sau vụ Vũng Rô, khi mà việc vận chuyển của đoàn tàu đặc nhiệm ngoài Bắc đã ngày càng gặp nhiều khó khăn. Lẽ cố nhiên đây chỉ là một đoàn thuyền nhỏ. Nó còn có một đặc điểm khác với đoàn ngoài Bắc là không đi ngoài xa, mà chuyên đi ven biển, với những thuyền buồm gắn máy và đi hoàn toàn công khai, có đầy đủ giấy tờ hợp lệ. Anh em chiến sĩ ta đã đóng đủ mọi vai trò: người của công ty này, công ty nọ, hoặc nhà tư sản này chủ hãng buôn khác... Chị Ba Phước Vân chính là một nữ cán bộ của ta. Chị đã đóng giả vai "bà bé" của ông  Bảy phá trời ngót một năm nay, hoàn toàn thắng lợi, làm tròn nhiệm vụ: phụ trách  một trạm liên lạc của Đoàn ở ngay giữa Sài Gòn. Đã có một số thuyền gắn máy nhổ neo ra Bắc nhận hàng rồi trở về an toàn.

Gần một năm nay đã có một sự phối hợp âm thầm mà đẹp đẽ giữa hai  đoàn tàu, bí  mật và công khai như vậy, mà Vũ không hề được biết.

Vũ đã được Ban chỉ huy đoàn tàu công khai ở đây tiếp đón như tiếp một người con ruột thịt. Các đồng chí đã nhiều lần hỏi anh: nếu bằng lòng, Đoàn sẽ điện ra Bắc xin hẳn Vũ ở lại và sẽ trao cho anh chỉ huy một phân đội. Nhưng Vũ chỉ một mực xin được trở về Bắc.

Đoàn biết giữ không được nữa, đã gửi anh ra Bắc theo một toán thuyền chở một số tài liệu quý.
 

Con thuyền chở Vũ nhổ neo vào một buổi hoàng hôn Cà Mau rực cháy. Nó đã đi suốt đêm, mở hết máy. Nó không hề biết chuyện gì đã xảy ra ở Vũng Tàu và Sài Gòn. Nó vẫn theo đúng kế hoạch cũ: ghé vào Hàm Tân để đón thêm một "khách" nữa ra Bắc. Nhưng lúc tờ mờ sáng, khi phát hiện có những con tàu tuần tiễu lồng lộn lùng sục từ xa, một linh cảm nào đó đã báo cho anh Ba thuyền trưởng và cả đoàn thủy thủ linh cảm thấy dường như có chuyện chẳng lành. Vốn người rất thông minh và quyết đoán nhanh, anh Ba thuyền trưởng bèn cho tháo ngay biển số cũ, thay biển số mới cho con thuyền rồi mới vào bến. Một lúc sau, chiếc tàu tuần tiễu nhỏ của tên thiếu úy hải quân tiến vào. Anh Ba đã khéo léo làm quen được với hắn. Nắm ngay được cá tính, anh  bốc hắn lên tới mây xanh, rồi mời hắn lên bờ cùng ăn sáng...

Lát sau, tên thiếu úy và đám "khách giang hồ" buôn bán cùng đứng dậy, mặt mũi đều đỏ văng, chuệnh choạng kéo nhau ra. Chín cũng chào tên cảnh sát, hỏi địa chỉ hắn và hẹn chiều sẽ tới chơi.

Ăn ý với nhau như những cầu thủ tài nghệ trong cùng một đội bóng, một anh trong đám "khách giang hồ" buôn bán mặc áo chim cò đi chậm lại, cúi xuống một sạp thuốc lá trước cửa tiệm vờ hỏi mua mấy bao thuốc thơm.

Chín lướt qua. Anh nọ cũng vừa vặn mua xong hai bao Sa-lem và một hộp quẹt. Anh đi sát bên Chín. Cô nói rất nhanh, rất nhỏ:

-   Lộ rồi! Có đứa phản bội.

-   Ủa!

-   Lệnh trên thay biển số, thay hết giấy tờ khác! Rồi tiếp tục đi! Phải hết sức thận  trọng. Đi liền, nghe!

-   Rồi! Nhưng mà, "khách" đâu đã có tới! Chết mẹ rồi!

Anh mặc áo chim cò đi rảo đuổi theo nhóm khách đã nhập vào đám đông ồn ào trên bến. Tên thiếu úy hải quân ngụy giơ tay chào những người bạn mới của hắn  rồi  xuống tàu. Cái dáng say khật khưỡng, cóc cần đời của hắn sớm mất hút.

Chín dừng lại. Tâm hồn cô như tan vỡ. Thế là hết! Cô nhìn nuối theo mãi đám khách thuyền. Cô không được phép đi theo họ. Cô nhìn theo mãi người "thợ máy" có đôi vai nở nang và bước đi rất mềm mại nhưng khỏe chắc, như những bước chân một con  báo. Cô nhìn theo mãi mái tóc rậm đen, bồng bềnh. Trong đáy mắt cô đọng lại mãi   cái nhìn sâu hút từ xa của một đôi mắt xám, phóng khoáng và gan góc. Thế là hết rồi sao? Thôi, chào anh! Gởi lời chào anh với tất cả tấm lòng em! Cầu mong sao cho anh thuận buồm xuôi gió! Cầu mong sao cho Đất nước đau khổ này sớm thấy được ngày bình yên, hạnh phúc! - Hãy nhớ tới đồng bào miền Nam! Hãy nhớ tới  người em gái  bé nhỏ không may mắn này đã... trót thương anh!

Chương 11
 

Còi báo yên vừa cất lên, Duyên từ dưới hầm trú ẩn của khu nhà tập thể vội nhao ra ngay. Cô nhìn đồng hồ tay: một giờ ba mươi bảy phút. Bầu trời mùa  thu cao vút,  trong suốt, không một gợn mây. Nắng vàng óng tràn ngập. Máy bay Mỹ có thể còn quay trở lại lần nữa, mà lần này rất có thể chúng dám đánh thẳng vào thành phố. Nhưng mặc, Duyên chạy vụt vào gầm cầu thang tòa nhà lớn, lấy chiếc xe đạp, nhảy phóc lên, phóng luôn ra phố - Vẫn chiếc Di-a-măng sơn xanh biếc mà "Chàng Ngốc" đã cho mượn từ năm ngoái (mặc dầu hiện nay hai người đã hoàn toàn không có liên lạc với nhau, Duyên vẫn chưa muốn đem trả).

Một giờ ba mươi bảy phút trưa. Có thể anh ấy đã lên Bộ làm việc rồi! (Phó tiến sĩ cơ mà! Gương mẫu khiếp đi được! - Duyên thường "kêu" anh ta như thế). Tuy  vậy Duyên vẫn cứ đi. Cô không có đủ kiên nhẫn ngồi nhà để đợi tới chiều gặp anh. Sang khu sơ tán đã hơn hai tuần lễ, sáng nay Duyên mới kiếm được cớ trở về Hà Nội. Cô vừa nhận được thư anh báo tin: có thể anh sẽ đi cùng một phái đoàn kinh tế ra nước ngoài ít lâu. Vậy bằng mọi giá Duyên phải về gặp anh, người tình, nói cho đúng hơn, người chồng chưa cưới mà cô đã chính thức giới thiệu với anh chị em trong Ủy ban kinh tế nọ (cơ quan mới mà Duyên đã xin chuyển sang mấy tháng nay, kể từ khi có những chuyện phức tạp về đời sống tình cảm của cô xảy ra ở bên Viện cũ). Dư luận? Dư luận nào mà chẳng độc ác, bất công! Duyên yêu anh có tội lỗi gì nào? Trai chưa vợ. Gái chưa chồng. Chỉ vướng có chuyện anh Vũ. Nhưng anh ấy đã hy sinh rồi! Vả lại nếu anh còn sống, thì mình cũng không thể nào còn đủ kiên nhẫn để chờ đợi mãi...

Duyên vẫn hồng hào, da thịt căng bóng, tràn trề sức sống. Cô phóng như một nữ diễn viên xiếc hoặc vận động viên đua xe đạp. Chiếc xe lao đi, luồn lách khá tài tình, giữa dòng xe cộ tấp nập trên các mặt đường sau giờ báo động.
Logged
trachvandung
Cựu chiến binh
*
Bài viết: 747



« Trả lời #24 vào lúc: 27 Tháng Mười, 2021, 07:58:17 am »

Lát sau, Duyên rẽ vào một đường phố đầy bóng cây, hết sức yên tĩnh, hai bên toàn là những biệt trang đẹp mắt. Có tiếng dương cầm phảng phất đâu đây. Không khí như ở vào một thời thái bình nào đó.

Cô dừng xe trước một cổng nhỏ có hai trụ bằng đá tảng xây ghép rất đẹp gần như ẩn kín ở giữa một bức tường toàn bằng cây xanh được cắt xén phẳng lì. Thấp thoáng sau một vườn hồng phía trong là một tòa nhà nhỏ hai tầng màu vôi xanh nhạt khá xinh   với những ô cửa kính khép kín, trong có treo rèm đăng-ten.

Duyên hồi hộp vuốt sửa lại mái tóc uốn điện bồng bềnh của mình, trước khi tiến lại bấm chuông gọi cổng.

Đây là nhà của cha mẹ anh ấy. Ông cụ làm luật sư. Anh nói là người ta đang thu xếp cho anh một chỗ ở khác cũng trong khu vực này, hoặc - nếu anh bằng lòng - một chỗ  ở thật thoải mái trong khu nhà lắp ghép ở Trung Tự hoặc Giảng Võ. Anh còn đang  cân nhắc. Vả lại, theo anh nói, anh cũng đang rất bận với những công trình mới của anh nhằm đóng góp cho nền kinh tế nước nhà một cống hiến đặc biệt. Duyên nghe  nói: tương lai của anh rất rực rỡ, không biết đâu mà lường trước được hết. Anh là con trai độc nhất của gia đình. Anh được cả nhà, nhất là bà mẹ cưng chiều, cưng  chiều  đến mức nhiều chuyện đã trở thành những huyền thoại hoặc tiếu lâm. Nhưng không sao! Miệng thế gian vẫn thường độc ác. Kẻ đố kỵ bao giờ cũng nhiều hơn những
 

người thiện chí và hiểu biết. Duyên yêu anh và hoàn toàn tin ở anh, với một niềm  sùng tín mà chính Duyên cũng chưa bao giờ tự thấy có, Duyên đã tình cờ gặp anh trong đám cưới một cô bạn.

Trong đám cưới ấy, không ngờ chỉ cần một cái quay ngoắt mặt lại và một cái nhìn hết sức táo bạo của anh, như cắm chặt vào bộ ngực nở nang của cô, Duyên đã cảm thấy toàn thân mình bủn rủn, cả tâm hồn cô như bị tóm gọn.

Trong tất cả đám tân khách, trong giới thanh niên hào hoa, lịch sự hôm đó, anh đã nổi bật như một con phượng hoàng. Anh có một gương mặt, mà chỉ mới chợt nom thấy, Duyên đã nghĩ ngay tới một "Người thứ 41" (1)hoặc một "Héc-men" (2). Một gương mặt hơi Âu, quý phái và kiêu sa với nước da hơi xanh, với cặp mắt dài đắm đuối, với đôi môi mọng đỏ như môi con gái và luôn phảng phất một nụ cười vừa dịu hiền vừa ngạo nghễ, một vẻ ngạo nghễ làm cho người ta vừa khó chịu vừa bị cuốn hút một  cách lạ kỳ...



(1)   Nhân vật sĩ quan bạch vệ đẹp trai trong một phim của Liên Xô.

(2)   Cũng một nhân vật sĩ quan đẹp trai, ăn chơi trong phim "Con bài đầm pic" theo truyện của Pút-skin - Nga.

Duyên và anh đã khéo léo và tự nhiên kiếm được hai chiếc ghế liền kề bên nhau. Một phát hiện nữa: anh nói chuyện thật là tuyệt vời. Đối với anh, con người tràn đầy hạnh phúc và lòng tự tin này, bất cứ điều gì dường như cũng có thể trở thành trò đùa được cả. Có nghĩa là bất cứ một nhân vật nào, một vấn đề gì, dù nghiêm trang tới đâu, anh cũng có thể nói bằng một giọng giễu cợt hoặc hài hước. Tất cả bạn bè ngồi vây quanh đều luôn luôn cất tiếng cười nhộn nhạo để tán thưởng những câu đùa bỡn, những lời châm biếm tế nhị hoặc cay chua, độc ác của anh. (Thật ra nhiều ý nghĩ, nhiều câu nói như vậy, bọn anh em bạn bè cũng đã có người nghĩ, hoặc đã từng nói  như thế ở  những chỗ riêng hai ba người với nhau. Nhưng với anh, ở đây, anh đã nói toạc ra hết và nói rất to ở ngay giữa cái tiệc cưới linh đình này. Chính vì thế lũ bạn trẻ càng phục anh là có bản lĩnh và có đầy đủ thế lực vững chắc).

Anh đang làm việc với cương vị đúng là một chuyên viên. Các bạn trẻ đều gọi anh là "Chuyên gia Tây" - vừa có ý đùa anh có một vẻ mặt hơi Âu, vừa ngụ ý anh luôn luôn được đi giao dịch ở nhiều nước châu Âu (từ Đông Âu tới Tây Âu, rồi cả Bắc Âu). Đã ba mươi hai tuổi, nhưng anh chưa chịu lấy vợ. Lũ bạn anh nói là anh thích sống tự do để ăn chơi. Nhưng anh thì nói khác: anh còn đang ham làm việc, vả lại anh chưa gặp được người thật ưng ý.

Trong bữa tiệc cưới ấy, gần như chụm sát đầu với Duyên, anh đã cảm động nói: "Duyên ạ, thế là  anh đã gặp được em! Trời ơi! Tâm hồn anh náo động cả lên. Anh  biết nói thế nào đây? Tất cả mọi quan niệm, mọi suy nghĩ cũ của anh về những người thiếu nữ đều đã đổ sụp. Anh không hiểu vì sao. Anh chỉ biết có một điều: anh  yêu  em! Vâng! Vâng, anh yêu em! Anh đã yêu em mất rồi. Như một định mệnh...". Và,
 

khác hẳn với tất cả những người đàn ông, những chàng trai khác mà cô đã quen biết, ngay tức khắc sau phút thổ lộ tình yêu, anh đã kéo cô ra ngoài và ôm hôn cô như điên trong bóng tối, nơi cuối một hành lang vắng, trong khi đó mọi người lớn tuổi trong phòng chính vẫn đang hết sức trân trọng, chăm chú lắng nghe ông bố chú rể phát một bài rất dài, rất cảm động về "mối thân giao và ruột thịt giữa hai gia đình từ nay". Và cánh trẻ thì vẫn tiếp tục trò chuyện, đấu hót, tán tỉnh, kể cả tỏ tình với nhau một cách thật ồn ào thoải mái và hào hứng.

Đôi môi anh như bốc lửa, một đôi môi tham lam, dữ dội mà cô chưa bao  giờ được biết. Toàn thân Duyên như tan ra trong một niềm mê đắm cuồng nhiệt.  Ngay đêm  sau, Duyên đã đi với anh tới sáng. Duyên đã nhận ra: chưa một ai táo bạo, dữ dội như anh và cũng mới mẻ như anh. Những người khác chỉ một nụ hôn phớt nhẹ, hoặc chỉ một cái cầm tay... cũng đã rụt rè, thậm chí sợ hãi gần như những kẻ đang phạm điều tội lỗi.

Cũng từ sau bữa tiệc cưới đó, Duyên đã nhận ra: bây giờ cô mới hiểu được thế nào là yêu. Phải rồi, đây mới là tình yêu, tình yêu thực sự, "sét đánh", tình yêu mê cuồng đốt cháy hết cả thân thể và tâm hồn cô, một tình yêu đầy triển vọng ở một tương lai sung sướng.

Có lẽ Oanh đã nói đúng chăng, với Vũ, thật ra mới chỉ là những giấc mơ đẹp. Đúng là những giấc mơ! Mà Duyên lại luôn luôn cần phải có cả những đáp ứng cụ thể và tràn ngập, về tất cả mọi mặt... Nói cho đúng ra, hôm nay kiểm lại lòng mình, Duyên phải thừa nhận: đúng là chưa bao giờ cô đã nghĩ một  cách thật chắc chắn mình sẽ là vợ  của Vũ.

Duyên bấm chuông. Một cô gái trạc mười sáu, tươi cười ra mở cổng:

-   Anh Quảng có nhà không em?

-   Anh em đi rồi ạ!

-   Đi làm ư?

-   Không, đi Bắc Âu rồi ạ !

Duyên ngạc nhiên, đứng sững. Cô gái cho biết rõ thêm: Quảng mới đi sáng hôm qua. Duyên buồn bã, thất vọng, toan quay ra. Cô gái niềm nở mời chào:
-   Mẹ em có nhà! Mời chị vào chơi đã!

Duyên lưỡng lự. Cô không thích mẹ Quảng. Nhưng đã tới đây, cô em Quảng mời   vào, từ chối có lẽ không tiện. Duyên đành miễn cưỡng đi theo. Lướt qua một dãy hầm trú ẩn mới xây, hai người đi vòng ra sau nhà, vào một phòng khách nhỏ mà gia đình thường dùng để tiếp những người thân hoặc bà con họ hàng, (phòng khách phía ngoài chỉ dùng để tiếp những khách tới làm việc).
 

Cô em chỉ cho Duyên một chiếc ghế mây đặt bên cạnh chiếc bàn uống nước xinh xắn, rồi chạy vào phòng trong. Lát sau có tiếng dép ẹp ẹp, rồi một người đàn bà trạc sáu mươi tuổi, đẫy đà, vẻ mặt còn rất linh lợi, tay bưng cái âu trầu bằng đồng bé tí bước  ra.

Duyên vội đứng lên, chào hỏi hết sức lễ phép. Bà mẹ gật đầu:

-   À! Con đấy ư? Con có khỏe không? Đã hơn hai tuần rồi đấy nhỉ? Anh Quảng cứ nhắc tới con luôn. Con ngồi xuống đây! Con uống nước đi!...

Bà nói thật nhẹ nhàng, âu yếm. Nhưng thật lạ, cách nói và giọng nói quý như vậy, nhưng cặp mắt bà cứ lạnh như băng. Không phải hôm nay, mà ngay từ những lần đầu gặp bà, Duyên đã có nhận xét ấy.

"Con con, mẹ mẹ" lúc nào bà cũng ngọt như đường, lúc nào cũng dịu dàng và thân thiết. Và lúc nào bà cũng như cởi mở hết cả gan ruột mình. Nhưng tuyệt nhiên, tự biết là khá thông minh, Duyên vẫn không thể hiểu rõ người đàn bà này thực sự yêu mình hay ghét mình, và nghĩ gì về mình. Chính điều đó đã làm cho Duyên luôn phải kinh  sợ mỗi khi ngồi tiếp chuyện và nghe những lời mật ngọt, mượt mà của bà...

Duyên đã một lần phải hỏi Quảng. Anh giải thích: "À! Như tất cả các bà mẹ cổ hủ khác mà thôi!". Chỉ vắn tắt có vậy. Rồi anh an ủi: "Không có ngại gì bà ấy hết! Nhà này anh là chủ!". Cũng vì tin anh đúng là làm chủ cái gia đình này nên Duyên mới có đủ can đảm để tiếp tục lui tới và giáp mặt với bà mẹ.

-   Thế lần này con có được về lâu không? Con ạ, mẹ cũng sắp sơ tán đây! Vừa xây được cái hầm tốt lắm, đấy ở sân trước đấy, nhưng mẹ vẫn sợ, con ạ! Dạo này báo  động nhiều quá! Ông nhà này lại vừa mới nhận nhiệm vụ của các bác ở trên trao phải vào tận khu Bốn. Mà ông ấy có  nhà, thì cũng thế thôi. Ông ấy có bao giờ ngó được  tới việc nhà một chút đâu! Anh Quảng thì cũng vậy, suốt đêm suốt ngày ở ngoài cơ quan. Thật khổ! Chỉ có mình mẹ ở nhà phải lo liệu đủ đường...

Duyên ngồi chăm chú, nét mặt luôn luôn thay đổi theo câu chuyện gia đình của bà  mẹ, để tỏ ra hết sức cảm thông và sẵn sàng chia sẻ mọi nỗi lo lắng với bà. Trong lúc đó, miệng vẫn nói chuyện tình cảm, nhưng bụng bà mẹ thì lại đang nghĩ sang những chuyện khác: "Con bé này thoạt nom, ai cũng tưởng là tươi, là sáng sủa. Nhưng nhìn kỹ thì quả là không tốt! Cái tướng này là tướng Đát Kỷ (3)đây. Con này ác chứ không lành đâu! Tinh ma quỷ quái chứ không phải người thật thà, nhân đức! Thằng Quảng thế mà nó cũng tinh. Nó bảo nó chỉ giao du chơi bời vậy thôi chứ đâu có lấy ngữ này! Phải quá! Này cô bé ơi! Cô nhầm rồi. Cô chớ có vội hy vọng sẽ được hưởng tất cả cái gia tài nhà này khi hai đứa già này nằm xuống nhé! Cô cũng chớ có ý nghĩ rằng cô sẽ một chốc được làm bà nọ bà kia nhé! Cô vội quá, cô bé ạ! Gái già này không có mù đâu nhé! Ta vốn là người phúc đức, thật thà, ta đâu có ngu dại đi chọn một đứa con dâu như thế này! Người mà ta sẽ chọn, ít nhất cũng phải thật thà, phúc đức như ta chứ!".


 

(3)   Một nhân vật vợ vua, rất tàn ác trong tiểu thuyết cổ điển Trung Quốc.

Vừa nhai trầu vừa kể lể, tâm sự chuyện cửa chuyện nhà một thôi một hồi xong, bà mẹ đột nhiên chuyển giọng, trở nên nghiêm trang khác hẳn, tuy vẫn  không kém phần  thân mật:

-   À này con ạ! Cũng coi con như con đẻ trong gia đình, mẹ biết anh Quảng anh ấy  quý con lắm, cho nên mẹ chẳng giấu con chuyện này...

Duyên chăm chú thực sự. Bà mẹ tiếp:

-   Mà mẹ nói, chắc con cũng hoàn toàn tán thành thôi! Mẹ biết con lắm, con rất hợp tính mẹ!...

Chuyện gì mà bà phải rào đón vậy? Một nỗi hồi hộp trào lên trong lòng Duyên.

-   Con ạ! Mẹ định... chuyến này anh Quảng về thì... mẹ sẽ cưới vợ cho anh ấy đấy!  Con nghĩ sao?

Mặt Duyên vụt nóng bừng. Cô vội cúi xuống. Ôi chao! Bà mẹ quý hóa sao mà dễ thương, sao mà tế nhị làm sao! Mẹ vào chuyện thú vị y như trong tiểu thuyết ấy thôi! Sao mẹ chẳng nói thẳng ngay ra: Này, con  dâu yêu quý ơi! Thằng Quảng nó về, mẹ  sẽ làm lễ cưới cho hai chúng mày đấy! Thế có phải giản dị hơn không, ? Ôi, mẹ kính yêu của chúng con!...

Cô ngẩng lên, đôi mắt nhòa lệ vì quá mừng và sung sướng. Cô chưa kịp thốt lên được lời nào  để bày tỏ tất cả tấm lòng biết ơn sâu sắc của mình đối với bà mẹ tuyệt vời  này, thì bà đã thong thả vuốt nước trầu ở mép, tiếp:

-   Con ạ! Chả là anh Quảng trước khi đi đã trả lời mẹ là đồng ý rồi. Tối qua, mẹ đã sang bên hai bác ấy có cành cau, gói trà thưa chuyện. Hai bác ấy đều sốt sắng thuận cho ngay. Còn con Kiều Hạnh thì thôi còn phải nói, nó xấu hổ cứ trốn biệt trong nhà, gọi sao cũng không chịu ra, con ạ!...

Đất như bỗng nứt toác ra, hụt xuống thành một cái vực thẳm dưới ghế Duyên. Cô chỉ còn biết "ớ" một tiếng, rồi toàn thân như đông cứng cả lại. Đã đi tới mút chót cùng  của ngạc nhiên và đau đớn, cô gần như không tin ở lỗ tai mình nữa.

Bà mẹ vẫn thản nhiên và thân mật, giải thích:

-   Chả là thế này con ạ! Nhà ta với nhà hai bác ấy vốn thân với nhau như ruột thịt từ  lâu lắm rồi. Khi bên đó bác gái sinh con Kiều Hạnh, mẹ đã có nói với bên đó rằng: Trời cho hai trẻ được sống, sau này xin hai bác cho hai gia đình được trở thành thông gia... Thế đấy con ạ! Kiều Hạnh nó được sang nước ngoài học sáu năm, nó mới về nước tuần trước! Rồi mẹ sẽ bảo nó sang đây chào con - chào chị nuôi nó. Con  bé  được cái cũng khỏe mạnh và lễ phép lắm! À mà đây, mẹ có ảnh của  nó, mẹ sẽ đưa  con xem. Sở dĩ anh Quảng chưa cho con biết vì tính anh kín đáo lắm, việc gì đến nơi, cần nói anh ấy mới nói, con ạ...
 

Bà còn nói tiếp những gì, Duyên cũng không biết nữa. Và cô đã chào bà, rút lui ra khỏi ngôi nhà này như thế nào, cô cũng không còn nhớ rõ...

Cô đi lang thang trên các hè phố vắng, như một người mất trí. Mãi sau, cô mới hồi  tỉnh lại. Nhưng một nỗi căm hờn, một nỗi nhục nhã dâng lên tràn ngập trong lồng ngực, làm cho cô lại tối tăm mặt mũi một lần nữa.

Cô vẫn đi lang thang. Không định, đôi chân cô bỗng vô tình đưa cô đi qua phố của "Chàng Ngốc". Cô ngước cặp mắt buồn bã, tối tăm ấy nhìn lên một ô cửa sổ ở tầng hai. Ô cửa đã khép kín. Nhìn vậy thôi, nhưng thật ra cô cũng đã biết "Chàng Ngốc" bây giờ không còn ở Hà Nội nữa. Từ sau cái vụ bị Lê Thuyết tới tận nhà phá đám khéo, anh ta đã giận Duyên và xin chuyển vào nhà máy cơ khí Hàm Rồng. Cũng không ngờ sau đó ít lâu, Duyên đã thấy tên anh ta xuất hiện trên các mặt báo với những cố gắng, những tìm tòi mới của anh ta trong cái nhà máy ở giữa vùng bom đạn ác liệt ấy. Gần đây, một lần nữa các báo lại nhắc tới anh ta, lần này có đăng cả ảnh. Vẫn khuôn mặt đầy trứng cá, vẫn cặp kính cận tròn xoe, long lanh, ngơ ngác.

Duyên tiếp tục đi. Cô không còn biết đi đâu, tới đâu nữa. Đầu óc cô vẫn rối mù, tăm tối. Tuy nhiên, dẫu sao cô vẫn còn cố bám lấy một chút hy vọng: chờ Quảng về để xem thực hư ra sao. Rất có thể đây chỉ là một chuyện hoàn toàn bịa đặt của bà mẹ, nhằm phá đám anh chăng?...

***

Đề án về tái sản xuất và mở rộng tài nguyên rừng trong điều kiện chiến tranh của Lý được bên Tổng Cục Lâm nghiệp xem xét và khuyến khích nhá nhiều; Lý hăm hở chuẩn bị một chuyến vào khu Bốn nữa để hoàn chỉnh thêm bản đề án ấy. Cô đã chuẩn bị xong xuôi ba-lô, túi xách. Chỉ còn đợi để đi nhờ xe bên bộ đội vào trong đó. Lần này vào khu Bốn, không phải chỉ có niềm vui vì công trình được khuyến khích mà  còn có cả niềm vui mầu nhiệm của tình yêu thúc đẩy. Lý đã hứa luôn xứng đáng với anh; không phải chỉ là tư cách, là tình yêu chung thủy, mà cô còn muốn xứng đáng  với anh cả về mặt phụng sự, cống hiến. Tất nhiên, tình yêu này còn giấu kín. Lý chưa thổ lộ với bất cứ ai, kể cả những người có trách nhiệm lãnh đạo trong cơ quan. Lý muốn đợi Vũ trở về một lần nữa. Bấy giờ, cô sẽ nói, để dành cho những người thân một nỗi bất ngờ. Chắc chắn họ sẽ mừng và ủng hộ cô với tất cả tấm lòng và tình cảm của những con người chân chính. Suốt mấy tháng qua, Lý đã sống trong một niềm sung sướng mênh mông vô hạn. Tuy không nhận được thêm một lá thư nào, kể từ lá thư đầu tiên của Vũ gửi về sau buổi tối gặp gỡ, buổi tối mà cô đã quả quyết và say đắm hiến dâng anh tất cả mối tình nồng nàn của mình, Lý vẫn không một chút băn khoăn. Cô hiểu: anh đã phải trở lại với biển, với công việc, với những nhiệm vụ chắc chắn chẳng ít khó khăn, gian khổ, nhưng cũng nặng đầy ý nghĩa của anh.

Không nhận được thêm thư anh, nhưng Lý vẫn viết cho anh đều đặn. Cô coi việc viết những lá thư ấy là một hạnh phúc đặc biệt, một niềm vui đặc biệt mà không phải bất cứ ai ai cũng có thể có.
 

Chỉ còn một hôm nữa thôi, Lý sẽ lên đường. Bên bộ đội đã báo cho biết: đã có xe và có thể cho cô đi nhờ vào tới tận Vĩnh Linh.

Buổi sáng nay Lý đến cơ quan để thu xếp nốt một vài giấy tờ nữa. Cô đến hơi trễ. Một chị nhân viên báo cho biết: trưởng phòng Lê Thuyết đang đợi cô.
Lý vui vẻ bước vào phòng làm việc của anh. Thuyết mời cô ngồi. Vẫn vẻ lịch sự và chững chạc, Thuyết mời cô uống trà rồi hỏi:

-   Chị Lý chuẩn bị xong xuôi cả rồi chứ?

-   Báo cáo xong cả! Thủ trưởng cho gọi tôi ạ?

-   Vâng! Để hỏi xem chị có cần gì nữa không để cơ quan lo liệu giúp thêm một tay.   Cơ quan rất vui, và cũng phải nói là rất mừng, rất tự hào nữa, vì đã có những... người như chị.

Lý mỉm cười, lúng túng, xấu hổ:

-   Thủ trưởng động viên quá đấy thôi. Thuyết nghiêm chỉnh:
-   Không! Tôi nói thực! Tôi rất coi trọng những người thực sự lao động, và nhất là lao động có năng suất, có sáng tạo...

Lý lại mỉm cười. Nhưng cô không nói nữa. Cô tin những lời của Thuyết. Cho đến gần đây Lý đã hiểu thêm được con người này phần nào. Đó là một con người thực sự muốn làm tốt, sống tốt, tuy rằng cũng nhiều khi khá chủ quan, và có những tính nết khá kỳ cục nhiều khi như thô bạo. Nhưng, Lý thầm nghĩ, những con người này dẫu  sao cũng có ích và dễ sống hơn những con người đeo mặt nạ và đầu óc đen kịt những tính toán cá nhân.

Nói chuyện về công việc một lúc xong, Thuyết bỗng thong thả và nghiêm trang:

-   Chị Lý ạ, còn một việc nữa, tôi cũng muốn được hỏi thật chị...

Nhìn vào cặp mắt nghiêm trang có cái gì khác lạ của Thuyết, Lý không khỏi hồi hộp:

-   Thưa thủ trưởng, việc gì thế ạ?

-   Chị Duyên... Chị Duyên ấy mà... Lại có chuyện dính líu tới Duyên rồi!
-   Vâng ạ, xin thủ trưởng cứ nói! Tôi xin sẵn sàng nghe!
 

-   Chị Duyên gần đây có trở về cơ quan bên này gặp tôi, và... có phàn nàn về một việc...

-   Thưa, gì thế ạ? - Lý càng hồi hộp.

-   Chị ấy nói là: xin lỗi nhé, đây là lời chị ấy, tôi cứ xin nguyên văn nói lại, chị ấy nói là... là chị Lý đã... đã... "nhảy" vào chuyện tình cảm của chị ấy với anh hải quân!

-   Trời! - Lý thoắt gần kêu lên thành tiếng, rồi lặng đi trong một nỗi đau, giận đến tê dại. Thế là hiểu rồi! Nhưng rồi cố nén mình lại, cô gặng chút nữa cho rõ thêm câu chuyện:

-   Thưa, sao nữa ạ? Thủ trưởng có thể cho biết thêm chi tiết không ạ?

-   Chị ấy nói là hình như chị đã... có ý định tranh chiếm... hạnh phúc của chị ấy. Lý vẫn gắng hỏi tiếp:
-   Vậy, theo ý kiến thủ trưởng thì thế nào ạ? Thuyết không khỏi bối rối:
-   Tôi... chưa được rõ việc này lắm. Vì vậy mới cần hỏi chị. Chị biết tính tôi, tôi là người thẳng thắn.

Một cái gì đó vụt như cháy bùng lên trong lòng Lý. Cô không còn cảm thấy bối rối, cũng không đau đớn nữa. Cô cảm thấy mình tỉnh táo hơn, và, như một chiến sĩ đã quả quyết tiến lên dưới làn đạn địch để bảo vệ trận địa quê hương mình, cô thầm tự nhủ: "Thôi được, đã thế, phải nói!".

-   Thưa thủ trưởng, đã vậy tôi xin phép được hỏi như thế này: có một người con gái yêu một người chiến sĩ. Người đó đã tỏ ra không xứng đáng với người chiến sĩ ấy  nữa, thậm chí đã phản bội. Một người con gái khác tự nhận thấy mình  cũng yêu  người chiến sĩ đó, và đã thẳng thắn thổ lộ với anh. Như vậy có lỗi gì? Thủ trưởng cho tôi được rõ ý kiến. Như vậy có phải là một hành động tranh chiếm?...

Thuyết vội lắc đầu:

-   Không, chị Lý, tôi đã có kết luận thế đâu?

Lý như đã say trong niềm kiêu hãnh chiến đấu không khoan nhượng cho mối tình của mình mà cô hoàn toàn tin tưởng. Cô hỏi tiếp:

-   Nếu vậy, chắc thủ trưởng phải ủng hộ tôi, vì đã không có kết luận như thế?

-   Chị Lý! Chị Lý!...
 

-   Nếu không, có lẽ ít ra thủ trưởng cũng cho đây là một vụ rắc rối đàn bà phức tạp  phải không?

-   Tôi cũng không nghĩ như vậy. Nhưng quả đây là một việc đã xảy ra không... có lợi cho cả hai chị...

-   Vậy thủ trưởng muốn khuyên tôi thế nào ạ?

-   Nên dàn xếp, chị Lý ạ!

-   Nhưng dàn xếp ra sao, thủ trưởng?

-   Theo tôi... Có lẽ hai chị cần gặp nhau và thẳng thắn... Lý lắc đầu:
-   E sẽ không có kết quả gì hết. Và tôi nghĩ, thú  thật,  cũng không cần phải làm như vậy thủ trưởng ạ!

-   Vì sao thế, chị Lý?

-   Bởi tôi tin câu chuyện của tôi hoàn toàn minh bạch và sáng sủa. Thuyết nhăn nhó:
-   Chị nghĩ vậy cũng có thể là... đúng. Nhưng còn chị Duyên... Tôi  cho là dẫu sao  cũng nên nhanh chóng dàn xếp. Chị Lý ạ! Đừng để cho nó ồn ào, lan rộng ra, không có lợi gì hết, cho cả hai chị. Đó là ý kiến thành thực của tôi.

-   Cám ơn thủ trưởng, tôi hoàn toàn tin ở thiện chí của thủ trưởng. Vả lại tôi  cũng hiểu: với trách nhiệm người lãnh đạo một cơ quan, thủ trưởng không  thể  nào cho phép trong cơ quan mình lại có chuyện rắc rối như thế.

-   Chị Lý! Chị nên hiểu tôi hơn...

Lý đứng dậy. Rõ ràng cô không muốn nói nhiều nữa:

-   Vâng, tôi hiểu chứ ạ! Nhưng mọi điều tôi đã nói rõ. Bây giờ tôi xin phép về. Và tôi cũng sẽ gắng nghe theo lời thủ trưởng giải quyết việc này cho tốt. Nhưng theo ý  tôi thì không nên vội vã...

-   Vậy cần đợi đến bao giờ, chị Lý? - Thuyết mừng rỡ.

-   Theo ý tôi, nên đợi anh Vũ trở về đã! Vâng, khi ấy tôi sẽ mời anh ấy tới tận đây. Tôi nghĩ rằng có mặt anh ấy  mọi  việc  sẽ  dễ  dàng  sáng  tỏ,  hơn  là  chỉ  có  mình  tôi với Duyên. Vâng! Có mặt anh, chắc chắn mọi việc sẽ giải quyết được một cách dễ dàng và chính xác. Tôi tin như thế!

Thuyết ngẫm nghĩ rồi hỏi lại:
 

-   Vâng! Cũng được! Nhưng chị cho biết chừng nào thì anh ấy trở về? Lý lắc đầu, cười buồn:
-   Làm sao mà tôi biết được khi nào anh Vũ sẽ về. Chiến tranh - Quân đội mà, thủ trưởng!

Trước khi bước ra khỏi phòng, Lý dừng lại. Cô nói thêm, như để an ủi Thuyết và   cũng như để khẳng định thêm niềm tin của chính mình:

-   Chắc chắn là anh Vũ sẽ trở về một ngày gần đây thôi! Vâng, chắc chắn là như vậy, thủ trưởng ạ!

Đoạn, bước nhanh ra khỏi phòng, cô thở trút. Bây giờ mới lại thấy mệt và buồn. Một câu hỏi cứ vang đi vọng lại mãi trong lòng cô: "Duyên còn muốn gì nữa thế? Duyên đang có ý định muốn dùng ông Thuyết để làm gì đây?". Rất nhiều lần, trước đây, không phải chỉ hôm nay, Lý đã tự kiểm tra mình cẩn thận: Đây có phải là một  sự tranh chấp không? Nhưng Duyên đâu có còn hạnh phúc để mà tranh chấp? Duyên đã vứt bỏ nó, hoặc nói cách khác, Duyên đã để cho nó bay đi, bay đi không bao giờ trở  lại nữa. Duyên đã không dám và cũng không muốn giữ lấy hạnh phúc ấy, một hạnh phúc mà mình phải gắng luôn luôn tự nâng cao để cho xứng đáng với nó và hiểu nó là một hạnh phúc chẳng tầm thường...
Logged
trachvandung
Cựu chiến binh
*
Bài viết: 747



« Trả lời #25 vào lúc: 27 Tháng Mười, 2021, 08:00:06 am »

Chương 12

Con thuyền gắn máy mang giấy tờ mới thuộc hãng Đại Hải, vẫn kiên nhẫn nằm chờ người "khách" thứ hai mà nó có nhiệm vụ đưa ra Bắc, mặc dầu Chín đã báo cho biết tin về tên phản bội.

Một ngày trôi qua.

Ngày thứ hai, không phải Chín, mà là một liên lạc viên khác sắm vai một "ông chủ  cá" tới báo có một số thay đổi trong kế hoạch: "Khách" không đi đường biển nữa, mà lên Trường Sơn, theo tuyến giao liên. Nhưng có thêm một số hòm tài liệu  mật sẽ  được đưa xuống thuyền để mang gấp ra Bắc. Anh Ba được lệnh quay trở về Đoàn để tổ chức một chuyến thuyền khác đi tiếp. Quyền chỉ huy con thuyền này được tạm thời trao cho Vũ; bởi Đoàn đã biết rõ: Vũ là thuyền trưởng, đã ra vào nhiều lần nên thông thuộc luồng lạch, trong khi đó anh Tám Trà Vinh  (phó của Ba) mới ra Bắc có một  lần, chưa nhiều kinh nghiệm. Lẽ cố nhiên, khi con thuyền hoàn thành  nhiệm vụ ra  Bắc lãnh vũ khí quay trở vào, anh Tám Trà Vinh sẽ toàn quyền chỉ huy cuộc hành trình.

Ngay đêm ấy, một toán "phu khuân vác" hì hục khiêng xuống thuyền một số hòm "cá khô" khá nặng. Và đến tờ mờ sáng, con thuyền nhổ neo đi luôn, sau khi đã ấn một số tiền khá lớn vào tay bọn cảnh sát, và các viên chức hữu trách trên bến cảng.

Chẳng mấy chốc con thuyền đã ra khơi, nhìn vào bờ chỉ còn mờ mờ một vệt đen dài.

Ngồi trên buồng lái, Vũ phóng tầm mắt nhìn ra gió nước mênh mông. Tâm hồn anh  lại mở rộng. Anh như nhận ra: mình đã hoàn toàn trở lại người của biển cả. Những ngày sống trong Sài Gòn, và ngay cả những ngày sống ở căn cứ của tỉnh ủy Bà  Rịa  rồi sau đó là mật khu của đoàn thuyền hoạt động hợp pháp này, đã là những ngày rất gò bó, bứt rứt. Bây giờ được trở về với biển, với các chiến sĩ, anh cảm thấy sao sung sướng và tự do vô hạn.

Con thuyền vừa dong buồm vừa mở máy, đè sóng chạy vát nghiêng, khá nhanh. Sáng nay đẹp trời, các thủy thủ đều lên mui thuyền ngồi chơi, uống trà hút thuốc. Toàn bộ thủy thủ chỉ có bảy người. Trừ Vũ, sáu người kia toàn là anh em Nam Bộ, Trung Bộ mà Vũ mới quen biết từ lúc đặt chân xuống thuyền. Tuy nhiên, nhìn những người  đồng chí mới quen ấy, Vũ vẫn nhận ra những vẻ gì thật gần gũi mà Vũ đã từng thấy trên những gương mặt của Tân, của Đĩnh voi, của bồ Kính, của Minh quắt... Dường như đó là sự dãi dầu, là đường nét quả cảm, là thái độ sẵn sàng chấp nhận mọi thử thách, hy sinh. Và cũng còn là vẻ hồn hậu, chân chất tỏa ra từ câu nói, tiếng cười, từ lối sống tới cách làm việc của mỗi người đồng chí.

Nhìn những người anh em mới, Vũ cũng không khỏi đau khổ nhớ tới những người đã nằm xuống; người trên một nẻo rừng hoang, anh dưới đáy sâu biển cả. Thiêm, Vận, Thuận, Trúc, Bá, Tân, Kính, Đĩnh, Minh... Trên mặt biển, như một tấm gương khổng lồ, luôn luôn hiện lên những khuôn mặt thân yêu của những người đồng chí đã hiến dâng trọn cuộc đời mình cho mục đích cao cả, cho những đòi hỏi cấp bách của dân  tộc. Ai biết rõ tên các anh? Ai nhớ tuổi các anh? Ai hiểu rằng đã có những con người như thế và còn cần phải có, dám có những con người như thế. Mong rằng mọi người   ở hậu phương sẽ hiểu chúng ta hơn, những người Chiến sĩ Hải quân trong những  tháng năm dằng dặc này...

Con thuyền vẫn vát sóng, như đi trong một giấc mộng lớn. Và trong những hình ảnh thân yêu ấy lại hiện lên rực rỡ khuôn mặt của Ngọc Lý. Ngọc Lý! Cám ơn em! Em đã tới với anh đúng như một điều kỳ diệu. Anh vẫn tiếc chưa có thể nói cho em nghe về tất cả mọi chuyện cuộc đời anh, với nỗi lòng của chiến sĩ. Ngọc Lý, tự hào và sung sướng bởi em đã hoàn toàn giống anh, em biết chủ động và dám chủ động gánh nhận lấy tất cả trách nhiệm trước cuộc đời này, cũng như dám tiến lên đón nhận lấy hạnh phúc, mà không hề do dự, không chịu đợi những cơ may, càng không trông chờ ở những mưu mô mờ ám...

Ngọc Lý, giờ đây em đang làm gì? Hãy đợi chờ anh! Hãy tin rằng anh sẽ trở về. Anh sẽ trở về với em, với đồng đội, với cuộc sống đẹp đẽ này, với biết bao niềm tin và hy vọng.

Con thuyền đã qua cù lao Thu.

Hoàng hôn đã bát ngát trên biển vắng. Không gian như im bặt, kính cẩn tiễn đưa vầng mặt trời rực đỏ chìm xuống dần nơi đường chân trời đang mờ đục sương sa.

Thốt nhiên, một chiến sĩ ở mũi thuyền cất tiếng báo cáo:
 

-   Máy bay!

Vũ ngẩng lên. Các thủy thủ đều quay lại.

Từ xa, một chiếc trinh sát của hải quân Mỹ đang vun vút, nhằm thẳng con thuyền bay tới.

Gặp máy bay trinh sát ngoài biển là một chuyện gần như cơm bữa đối với Vũ  và tất  cả các chiến sĩ hải quân. Nhưng, hôm nay, với một linh cảm riêng, Vũ bỗng thấy đây có lẽ không phải một chuyện bình thường như mọi khi. Anh ra khỏi buồng lái, nói to:

-   Các đồng chí, cho rải thêm nhiều cá khô trên mui! Mau lên!

Mấy anh thủy thủ hiểu được ngay mình cần phải làm thế để làm gì.

Chiếc NAVY đã tới. Nó rà sát xuống gần chạm

cột buồm. Gió đánh con thuyền gần như lật nghiêng về một bên.

-   Đ. mẹ! Thằng Mẽo này chơi dữ quá ta! - Một chiến sĩ gầm lên. Những anh khác gần như ngã xoài trên mui thuyền.

Chiếc NAVY quay trở lại. Tiếng động cơ rít lên, hung dữ lạ thường. Nó lại rà sát, gần chạm cột buồm, sau đó quay ngoắt, nhằm hướng đất liền bay thẳng.

Vũ mời anh Tám Trà Vinh và các thủy thủ vào buồng lái. Anh nghiêm trang nói:

-   Theo tôi, có thể thuyền ta đã bị địch nghi ngờ, các đồng chí ạ! Anh Tám Trà Vinh gật đầu:
-   Tôi cũng nghĩ thế! Vậy ta phải làm gì đây, anh Mười?

Vũ đưa mắt nhìn anh em suốt lượt và bỗng nhiên nhớ lại những phút giây tương tự như thế này, trong một đoạn hào giao thông dưới chân đồi A1 Điện Biên Phủ cách  đây đã mười ba năm. Cũng vào lúc hoàng hôn đỏ khé âm thầm, anh đã gặp những chiến sĩ xung kích thê đội hai đang đợi trung đoàn trưởng Hùng Sinh để cùng anh qua "cửa mở", lên đồi, bước vào cuộc tử chiến. Những gương mặt như trắng xanh ra, và cứng cả lại như đá. Vũ đã nhìn thấy hình ảnh của chính mình trên những gương mặt ấy, thấy rõ nỗi hồi hộp, thấy được cả cái bóng dáng lởn vởn của một nỗi lo âu sợ hãi. Lúc ấy, dù chỉ là một chú liên lạc mới mười sáu tuổi nhưng Vũ cũng đã biết nói lên được với những người chiến sĩ lớn tuổi hơn mình một vài lời: "Các anh chớ có sợ!   Nó bắn mặc nó!". Trung đoàn trưởng cũng đã nói: "Chúng ta nhất định sẽ phải qua "cửa mở", lên tiếp sức cho anh em ta trên đó". Bây giờ, Vũ sẽ phải nói gì đây với những người chiến sĩ của mình trên con thuyền này?

-   Các đồng chí, chuẩn bị nhé! Chúng ta sẽ đương đầu với chúng nó! Hãy giữ vững quyết tâm, giữ vững chí khí, các đồng chí ạ! Sống, chúng ta cùng về tới đất Bắc, chết,
 

chúng ta sẽ cùng vùi thân bờ biển Nam. Chúng ta luôn luôn phải xứng đáng là những người Chiến sĩ Hải quân, những người Cộng sản!

Vũ cảm thấy mình vẫn chưa nói hết được những gì mà mình muốn nói. Anh vạch tiếp một loạt những công việc chuẩn bị để đối phó với quân địch trong những giây phút khẩn trương, hiểm nghèo nhất.

Cũng vừa lúc đó, anh chiến sĩ quan sát ở mũi thuyền lại bật hô to như thét lên:

-   Có tàu địch!

Vũ và mọi người cùng ngẩng nhìn ra. Quả nhiên, một con tàu tuần tiễu của địch khá lớn hiện lên rất đột ngột ở ngay phía trước, thẳng hướng con thuyền ta đang đè sóng tiến tới. Nó hiện lên như một con quỷ khổng lồ đang nhe nanh múa vuốt đứng chặn ngang đường con thuyền ta đi, để rồi sẽ vồ lấy, nhai ngấu nghiến. Không còn nghi  ngờ gì nữa, địch đã phục sẵn, chờ con thuyền ta. Và cũng không còn nghi ngờ gì nữa: con thuyền ta không còn một con đường nào để thoát nữa. Mà giả dụ vẫn còn có cách để lẩn tránh, thì cũng không còn đủ thì giờ để lẩn tránh nữa.

Vũ mím chặt đôi môi. Trong óc anh, một loạt những con toán loang loáng chạy như những ánh chớp.

Một tràng đạn đại liên từ phía con tàu bỗng rộ lên, phá tan sự im lặng nặng trĩu trên mặt biển hoàng hôn.

Đạn chíu chíu trên đỉnh đầu  các thủy thủ. Những cánh buồm bị bắn thủng kêu lục  bục.

Liền ngay đó, một giọng nói hách dịch được oang oang phóng đại bởi một chiếc loa phóng thanh cực mạnh:

-   Hỡi những cán binh cộng sản trên chiếc thuyền kia! Dừng máy ngay! Chúng tôi đã biết rõ các anh là ai và đi đâu! Các anh chỉ có thể lừa được bọn tôi ở Hàm Tân thôi! Hãy đầu hàng! Kháng cự, sẽ bị bắn nát ngay giữa biển! Hãy đầu hàng! Các anh sẽ được đối đãi tử tế!

Vũ lệnh cho đồng chí chiến sĩ báo vụ cấp tốc đánh điện ngay về "nhà" báo cáo rõ tình hình hết sức hiểm nghèo của con thuyền, đoạn vẫy gọi tất cả các thủy thủ tập trung lại quanh mình:

-   Các đồng chí! Đã nghe bọn địch nói rõ cả chứ? Vậy đó, giờ phút hiểm nghèo nhất mà chúng ta dự kiến đã tới! Bây giờ cho phép tôi hỏi ý kiến tất cả tổ Đảng: Hàng hay không hàng? Chúng ta lúc này đúng là chỉ còn có hai cách ấy để lựa chọn.

Tất cả sáu người cùng thét lên:

-   Không! Không hàng! Sao lại hàng?
 

Anh Tám Trà Vinh mắt sáng lòa, rít lên, nói rõ thêm:

-   Phải! Không hàng! Dẫu chỉ là trá hàng!

Người Chiến sĩ Cộng sản đã há miệng nói tiếng "hàng", là coi như hết rồi! Không còn gì nhục hơn nữa! Phải!

Coi như thế là đã hoàn toàn chết rồi! Sống cũng như chết vậy thôi! Hơn nữa, chúng ta còn tài liệu và nhiều điều bí mật cần phải giữ, tuyệt đối không thể để lọt vào tay địch.

Vũ gật đầu. Thế là rõ rồi. Tuy vậy anh vẫn cẩn thận gặng thêm một lần nữa:

-   Ai còn ý kiến tiếp? Hoặc có ý kiến gì khác xin cứ cho biết.

-   Không! Chết bỏ! Không khi nào hàng! - Mọi người lại cùng một loạt nói như gầm lên.

Một cái gì đó trào lên mãi, dậy lên mãi trong lòng Vũ. Anh từ từ đứng dậy, mặt đỏ rực:

-   Rõ rồi, các đồng chí! Chúng ta đã  quyết  định:  chấp  nhận  chiến  đấu,  quyết  không đầu hàng, quyết không để bị bắt sống!

-   Đúng thế! Đúng như thế!

-   Chúng ta quyết sẽ chiến đấu. Và chúng nó cũng sẽ phải chết!

-   Đúng như thế! Phải như thế! Anh Mười cứ hành động đi!

Xa xa, chiếc tàu lớn của địch đã giảm tốc độ đang giữ chặt thế kẹp song song với con thuyền ta để kèm riết. Tiếng loa lại vọng tới, giục giã:

-   Hỡi các anh em cán binh cộng sản! Đã nói rồi: Các anh không còn đường chạy  thoát. Các anh cũng đừng hòng đánh lừa chúng tôi nữa. Hãy hàng mau! Hàng thì  sống. Kháng cự sẽ bị tiêu diệt. Hãy trả lời mau! Chúng tôi cho các anh năm phút nữa!

Tiếng loa lần này gay gắt hơn tỏ rõ chúng sốt ruột lắm rồi. Vũ nói nhanh với anh chiến sĩ thông tin:
-   Đồng chí Tư! Dùng đèn trả lời cho chúng nó đi! Tôi đọc. Đánh cho thật đúng từng chữ nhé. Nào!...

Anh chiến sĩ có tên là Tư đặt ngón tay vào công tắc của một ngọn đèn tín hiệu thông tin màu đỏ. Trời đã nhá nhem. Vũ cất tiếng đĩnh đạc, thong thả:

- Nào bắt đầu nhé. Trả lời: "Những - người - chiến - sĩ - cách - mạng - không - biết - sự - đầu - hàng. Nhưng - cũng - có - thể - thương - lượng. Vậy - đề - nghị - cho - thuyền - cặp - mạn. Chúng - tôi - sẽ - sang - tàu - để - thương - lượng".
 

Ngọn đèn đỏ nhấp nháy ngắn, dài liên tiếp, như một con mắt đỏ nọc căm hờn chớp lia lịa.

Một lát sau, tiếng loa từ con tàu địch lại ré lên:

-   Các anh phải đầu hàng! Không có thương lượng con mẹ gì hết! Trả lời mau! Chúng tôi sẽ nổ súng!

Vũ nhếch miệng cười nhạt. Tất cả thủy thủ vây quanh anh cùng im lặng, hết sức hồi hộp theo dõi từng cử chỉ, từng lời nói của anh:

- Trả lời tiếp: "Những - chiến - sĩ - cách - mạng - sẵn - sàng - chết. Quyết - không - bao - giờ - đầu - hàng! Các - anh - hãy - bắn - đi!".

Đoạn, anh quay lại nói nhanh, giải thích với anh em:

-   Không! Không bao giờ chúng dám bắn lúc này. Chúng cần bắt sống "con mồi" để được thưởng to chứ!

Im lặng. Tất cả các thủy thủ đều ngồi sát lại bên nhau, tay cùng nắm lấy tay nhau. Họ hoàn toàn tin tưởng ở mọi hành động của Vũ.

Một phút qua đi. Rồi hai phút. Rồi ba phút... Quả nhiên tiếng loa bỗng lại gằn lên:
-   Thôi được, tạm cho phép không dùng tiếng đầu hàng! Nhưng chúng tôi tuyên bố: Các anh đã bị bắt! Vậy phải dừng thuyền lại! Chúng tôi sẽ cho xuồng tới. Tất cả phải xuống xuồng để lên tàu trình diện!

Vũ lại nhếch mép cười. Anh quay sang phía anh chiến sĩ thông tin:

- Đánh tiếp đi: "Các - anh - không - tin - chúng tôi. Như - vậy - chúng -tôi - cũng - không - thể - tin - ở - lời - hứa - của - các - anh. Chúng - tôi - thà - chịu - lãnh - đủ - đạn - pháo - của - các - anh - còn - hơn - để - các - anh - lừa - bắt - sống".

Tiếng loa gay gắt quát luôn:

-   Sao lại dám nói chúng tôi lừa? Chúng tôi tuyên bố: các anh bị bắt! Các anh phải xuống xuồng để lên tàu, trình diện!

Vũ vẫn thong thả và cứng như sắt:

- Đánh tiếp: "Chúng - tôi - quyết - không - xuống - xuồng! Chúng - tôi - muốn - được
- cặp - mạn - để - sang - tàu - thương - lượng - đàng - hoàng - với - tư - thế - những - người - chiến - sĩ - cách - mạng!".
 

Lại một phút im lặng. Con thuyền vẫn mở máy chạy đều đều và con tàu địch vẫn giữ thế song song kèm chặt. Mặt biển đã tối sẫm.

-   Thôi được! - Tiếng loa bớt gay gắt dọa nạt hơn, nhưng đầy vẻ khó chịu, bực dọc - Cho phép cặp mạn! Nhưng tất cả sĩ quan và binh lính trên thuyền phải bỏ hết vũ khí. Bất cứ một hành động khả nghi nào sẽ bị trừng trị tức khắc.

Vũ chồm dậy, cặp mắt anh rực sáng:

-   Xong rồi! Các đồng chí ơi! Xong rồi!

Đoạn, anh dang rộng hai tay ôm chặt lấy tất cả các đồng chí của mình, kéo chụm lại, siết chặt, siết mãi. Lòng anh thoắt lặng đi trong một niềm xúc động mãnh liệt.

Rồi anh nói nhanh:

-   Các đồng chí! Về vị trí! Riêng anh Tám Trà Vinh ở lại đây với tôi! Chúng ta cùng chịu trách nhiệm điểm hỏa phút cuối cùng. Đồng chí báo vụ: điện về nhà đi. "Chúng tôi sắp bắt đầu. Xin vĩnh biệt".

Tất cả lại cùng ôm lấy nhau một lần nữa.

Con thuyền đã được lệnh mở hết tốc lực. Rồi đột ngột quay ngoắt mình, nhằm thẳng sườn con tàu địch lao tới.

Con tàu địch như đã nhận ra hành động khác lạ của con thuyền. Nó vội vã tăng tốc để cố vượt ra xa, né tránh con thuyền như cả một trái bom vùn vụt lao tới. Nhưng không kịp rồi! Không kịp nữa rồi!

Những loạt súng AK và trung liên đã rít lên dữ dội. Đạn quét choang choang trên boong tàu địch. Lửa tóe lòe lòe. Những tiếng kêu rú. Những xác người ngã vật!

Và, với một đường lượn gấp tuyệt vời nhưng cũng vô cùng liều lĩnh, gần như có thể  bị lật úp, con thuyền gắn máy đã không đâm thẳng mũi vào sườn con tàu địch mà  rướn lên, áp hẳn mạn vào sườn con tàu địch.

Đúng trong cái tích tắc lịch sử ấy, ngón tay trỏ của Vũ ấn mạnh vào một cái nút màu đỏ trong khoang lái. Đó là nút điểm hỏa cho một ngòi nổ tức thì của cả một khối  thuốc cực mạnh đã luôn luôn được gài sẵn ở khắp các điểm trọng yếu trong con thuyền.

"Ngọc Lý!" Vũ thét lên một tiếng. Đó là tiếng thét đau thương, cũng là tiếng  thét  sung sướng cuối cùng của đời anh, trước khi con thuyền nổ tung như cả một trái thủy lôi khổng lồ...

***

Chiều mùa đông mù tối.
 

Oanh đạp xe như bay. Đầu óc cô rối bời. Chưa bao giờ cô thấy mình mất bình tĩnh  như hôm nay. Cô đi báo tin dữ cho Lý. Mà sao "số phận" lại oái oăm luôn dành cho  cô cái việc nặng nề này: cả hai lần đến báo tin đều là tin chẳng lành về Vũ. Có phải vì mồm miệng mình quá ác nghiệt nên luôn phải gánh lấy công việc đáng sợ này không?
-   Oanh thầm kêu lên - Tất nhiên lần trước chỉ là một tin thất thiệt nhầm, nhưng lần  này thì không còn lầm lẫn được nữa. Tin ghê gớm về chiếc thuyền gắn máy đã tự cho nổ tung, đánh chìm luôn cả chiếc tàu tuần tiễu của Mỹ - ngụy đã được chính thức báo cáo lên tận các đồng chí trên Trung ương có trách nhiệm theo dõi con đường vận chuyển trên biển. Cũng vì vậy, cha của Oanh đã được nghe nói, và ông đã báo lại cho Oanh nghe với tất cả nỗi xúc động của ông.

Oanh nhảy ba bậc thang một. Lý có nhà.
Cửa bật mở. Lý tái xanh. Phải chăng linh tính nào đó đã cho cô  biết trước  sự việc này. Vừa nom thấy Oanh, Lý đã nhảy ra cầm chặt lấy tay cô:

-   Gì thế Oanh? Có chuyện gì vậy?

Oanh gieo mình xuống chiếc ghế, thở dốc. Hai má cô tái nhợt. Nhìn vào gương mặt Oanh, Lý càng cảm thấy muốn run lên.
Oanh cố kéo dài thời gian bằng cách uống một cốc nước đầy, thật chậm chạp. Lý kéo ghế ngồi đối diện với Oanh:
-Gì thế? Có chuyện gì phải không, cô Oanh?

-   Vâng!

-   Gì vậy?

-   Chị phải thật bình tĩnh nhé, chị Lý! Chị phải thật sáng suốt...

-   Vâng, cô cứ nói đi!

Lý vuốt lại mái tóc xõa che nửa khuôn mặt, cố nén mọi nỗi hồi hộ:

-   Chị cần sáng suốt và bình tĩnh nhé - Oanh vẫn nhắc lại.

-   Vâng! Cô cứ nói đi, cô Oanh! Ruột Lý đã cháy cả lên rồi.
-   Chị Lý ạ... anh Vũ...

-   Sao? Sao, cô?
 

-   Anh Vũ đã... hy sinh!

Trời đất bỗng như nổ bùng. Lý không nghe, không biết gì nữa. Cô chỉ còn kịp nắm chặt lấy mép bàn.

Oanh chạy lại. Cô ôm lấy đầu Lý như bà mẹ ôm, bọc lấy đầu đứa con bé dại của mình đang điên cuồng, mê sảng.

-   Chị Lý! Chị Lý! Bình tĩnh! Bình tĩnh lại! Chị phải can đảm lên! Dẫu sao thì việc cũng đã rồi, chị ạ!

Lý từ từ gỡ tay Oanh ra, vuốt lại mái tóc, lau những làn nước mắt đã ướt đẫm hai bên má. Oanh vẫn cuống lên:

-   Chị ơi! Chị đi nằm nghỉ một lát đi! Để em đóng tất cả các cửa sổ lại. Trời ơi, gió quá! Lạnh quá thế này, chịu sao nổi?

Nhưng Lý giữ tay Oanh lại. Cả khuôn mặt cô đẫm lệ, khác lạ hẳn?

-   Thôi, không cần, cô Oanh ạ! Tất nhiên tôi không thể tránh khỏi sự choáng váng...

-   Chị có vẻ mệt quá rồi đấy, chị Lý! Thôi! Chị đừng nói nữa! Chị đi nằm nghỉ đi chị Lý! Em van chị!

Lý vẫn lắc đầu

-   Đã bảo không sao mà, cô Oanh! Cám ơn cô! Cứ để cho tôi... được nói với cô một chút lúc này, có lẽ tôi đỡ mệt, đỡ... đau hơn. Đúng  là  lần  này,  không  phải  là  tin lầm như lần trước nữa. Lần này thì khác rồi! Tôi biết. Tôi đã linh cảm thấy nó phần nào từ cuối thu là mùa bão tố... Vả lại, mùa khô chiến đấu của miền Nam cũng sắp tới...

Đến lượt Oanh ứa nước mắt. Cô chạy vội lại chiếc giường lấy chiếc mền mỏng,   khoác trùm lên vai Lý. Cô đã khóc thực sự:

-   Chị Lý! Biết nói với chị những gì bây giờ nữa đây! Em chỉ còn biết... tin ở chị. Chị hãy vững vàng, vâng, vững vàng để cho xứng đáng với anh. Chị ơi, anh Vũ vẫn sống mãi với chị, với tình yêu của chị...

Lý cầm lấy bàn tay Oanh. Oanh ấp cả hai bàn tay mình lên vai Lý, và càng nức lên khóc to hơn, khóc vì đã nhận được thêm trong cuộc sống này vẫn còn có những con người như Vũ, như Lý, những con người đã làm cho Oanh tin rằng cuộc sống này  thực sự đẹp, tin rằng chung quanh ta rõ ràng vẫn còn có nhiều điều thực sự có ý nghĩa...

-   Cô Oanh! Vâng! Chị đồng ý với cô và cũng tin như cô: Anh Vũ sẽ sống mãi với sự nghiệp của anh đã đành, anh cũng sẽ sống mãi với chị. Vâng anh vẫn sống lâu dài và bền vững, sống lâu dài hơn cả khá nhiều người hiện đang sống ở chung quanh ta...
 

***

Cũng buổi chiều hôm ấy trên bến cảng bí mật của đoàn tàu không số, đoàn trưởng Thước cùng với chính ủy và một số cán bộ cơ quan, với cả phái viên trung tá Lệnh, đợi ca-nô để lại ra khu neo trao nhiệm vụ mới cho các con tàu. Lần này, do tình hình chiến trường đòi hỏi gấp, Đoàn sẽ lại tung đi một đợt cả bốn con tàu. Đi cấp tốc. Và cũng phải bằng mọi giá đưa được hàng vào các bến để kịp thời phục vụ một kế hoạch đã được vạch ra: cuộc tập kích chiến lược vĩ đại Mùa Xuân năm

Mậu Thân.

Chung quanh bến cảng là những đám dừa nước xanh ngắt. Đó là những gốc dừa mà những con tàu vào Cà Mau, Bến Tre, Trà Vinh... trước đây đã đem ra vứt xuống  không ngờ chỉ ít lâu sau đã mọc nhanh như thổi. Trong những đám dừa ấy, Thước   vẫn nhận ra một đám còn thấp lúp xúp nhưng đã xanh ngắt, lá khỏe như gươm, như mác đâm lên. Đó là đám dừa của con tàu do Vũ chỉ huy vào Bến Tre năm trước chở   ra đổ xuống đó. Chuyến vào Cà Mau, anh mới bắt đầu gặp những

rắc rối...

Nghĩ tới Vũ, bao giờ Thước cũng lại thấy lòng mình rưng rưng, đau nhức.

Hôm nay anh sẽ lại phóng tiếp những con tàu, những "Vũ", những "Thuận", những "Thiêm", những "Vận", những "Bá", những "Bồ Kính, Tân, Đĩnh voi"... ra đi.

Những đứa con của Quân chủng vẫn tiếp tục cuộc vật lộn, cuộc chiến đấu vô cùng gian nan và hùng tráng của họ.

Gió trên Cảng lồng lộng, như hét, như gào trên những đám dừa xanh chung quanh. Chiếc ca-nô cao tốc đã tới. Trước khi bước xuống, ông Lệnh chợt cất tiếng hỏi:

-   Anh Thước này! Bao giờ thì báo tin chính thức về cậu Vũ cho gia đình cậu ấy? À, mà cũng biết báo cho ai được nhỉ? Gia đình cậu ấy còn có ai ở quê đâu. Cậu ấy mồ  côi từ nhỏ...

Thước trầm ngâm:

-   Có! Rồi chúng tôi sẽ báo cho một người.

-   Ai thế?

-   Một cô ở Viện X. Ông Lệnh tròn mắt:
-   Cô Lý ấy hả? Chuyện đâu lăng nhăng với nhau vậy thôi. Đã có chính thức báo cáo  gì với ta đâu anh?
 

Thước vụt quay phắt lại. Anh như rít lên:

-   Lăng nhăng hả? Thôi anh im đi!

Ông Lệnh tái mặt, miệng há ra. Nhưng rõ ràng, trước một vẻ dữ dội của Thước, ông không thể thốt lên được một lời nào nữa.

Chiếc ca-nô rời Cảng, lướt đi như bay. Nước xé ra thành hai cánh bạc trước mũi. Chẳng mấy chốc đã ra tới biển.
Biển.

Biếc xanh một mênh mông vô tận. Những ngọn sóng trắng phau tung lên liên tiếp.  Gió càng như rộng rãi, phóng khoáng, tự do dào dạt thổi mạnh.

Thước chớp chớp đôi mắt. Hồn anh rạo rực. Ôi biển!
Thiên nhiên mới tráng lệ và đồ sộ làm sao!

Biển mới quyến rũ làm sao, mặc dầu không phải là không vô cùng gian khổ vì nó. Trên đầu những ngọn sóng, Thước bỗng như lại nhìn thấy từng gương mặt thân yêu đang nhô lên tươi cười và giục giã, thấy cả hình ảnh của từng CON TÀU KHÔNG   SỐ đã ra đi và ở đường chân trời bình minh của Chiến thắng đang ló rạng dần dần.

Hà Nội 1976 - 1978
 

Logged
Trang: « 1 2 3   Lên
  In  
 
Chuyển tới:  

Powered by MySQL Powered by PHP Powered by SMF 1.1.21 | SMF © 2006-2008, Simple Machines

Valid XHTML 1.0! Valid CSS! Dilber MC Theme by HarzeM