Lịch sử Quân sự Việt Nam
Tin tức: Lịch sử quân sự Việt Nam
 
*
Chào Khách. Bạn có thể đăng nhập hoặc đăng ký. 29 Tháng Ba, 2024, 06:42:53 pm


Đăng nhập với Tên truy nhập, Mật khẩu và thời gian tự động thoát


Trang: « 1 2 3 »   Xuống
  In  
Tác giả Chủ đề: Biển gọi  (Đọc 4100 lần)
0 Thành viên và 1 Khách đang xem chủ đề.
trachvandung
Cựu chiến binh
*
Bài viết: 747



« Trả lời #10 vào lúc: 27 Tháng Mười, 2021, 07:45:23 am »

-   Tôi đề nghị cứ để đồng chí Vũ tiếp tục chỉ huy, xử trí (2). Đồng chí ấy nói cũng có  lý đồng chí Khôi ạ. Thời kháng Pháp, ở Bến Tre, tôi biết cũng có một trường hợp tương tự. Bất ngờ gặp địch. Không có cách gì hay hơn là chuẩn bị sẵn sàng chiến đấu thật tốt và cứ tiến, và thản nhiên như mọi tàu thuyền thường. Dạo ấy cha chú của chúng ta đã làm vậy, và đi thoát...



(2)   Trên các tàu thuyền hải quân, thường mỗi khi gặp khó khăn hoặc gặp địch, thuyền trưởng dù đang nghỉ ngơi, cũng phải lên trực tiếp chỉ huy. Tuy vậy trường hợp này, thấy Vũ đang nắm được công việc, nên Thuận đề nghị cho tiếp tục chỉ huy - T.G.

Thuận đã không dùng tiếng "anh" để xưng hô nữa, mà thay bằng hai tiếng "đồng chí". Cả Khôi, cả Vũ đều hiểu đó là một thói quen của anh mỗi khi vào việc quan trọng, hoặc mỗi khi cần phải phát biểu trên cương vị bí thư chi bộ.

Khôi không nói nữa. Bắp thịt ở hai bên má anh giật giật. Đôi mắt anh như lên cơn sốt.

-   Tiếp tục tiến! - Vũ phát tín hiệu động viên toàn tàu. Thế là đèn lửa trên chiếc "đánh cá" vẫn cứ để sáng nguyên. Con tàu tiếp tục đè sóng lướt tới.

Mỗi lúc những chấm đèn phía trước một lớn hơn lên, nhiều hơn lên. Dân dần đã nom rõ cả bốn chiếc tàu khu trục đèn sáng rực tầng trên tầng dưới, tựa như bốn thành phố nổi. Ở giữa khoảng cách của bốn "thành phố" ấy là những con tàu tiếp liệu, sửa chữa, cứu thương, liên lạc... lớn, nhỏ đủ các cỡ, đèn cũng thắp sáng trưng, sùng sục chạy ngược chạy xuôi.

Vũ vẫn đứng sững, hai cánh mũi mở rộng, cặp mắt xám chì nhọn hoắt. Anh liên tiếp phát ra những mệnh lệnh cho con tàu.

Thuận đứng liền phía sau, nhìn qua bờ vai rộng của Vũ. Đột nhiên Thuận thấy một  con tàu lớn gần gấp đôi con tàu của ta từ đằng trước lao tới. Nó lao tới rất dữ. Nước  xé ra trắng xóa. Đã nom rõ cả những họng súng bốn mươi ly. Rõ ràng nó đang nhằm thẳng con tàu ta đâm tới. Đúng là nó đang đâm thẳng tới...
 

-   Phải, năm độ! - Vũ thốt lên, giọng không đổi khác.

Đúng lúc đó, con tàu Mỹ phía trước cũng đột ngột chạy né sang một phía. Và nó phát tín hiệu chào. Ánh đèn nhấp nháy như nghịch ngợm, như cười cợt.

-   Không cần đáp lại nó! Tiếp tục tiến! - Lúc bấy giờ giọng Vũ mới như vỡ ra, gắt lên. Thuận khẽ thì thào:
-   Sao vậy? Cứ đáp nó đã sao, đồng chí Vũ?

-   Mặc mẹ nó! Cái thằng chướng quá! Đi láo, còn chào! Chào cái con mẹ gì? Bọn Mỹ hay ngang ngược. Mình cũng phải ngang hơn nó. Nó mới tin mình là "Mẽo" chứ anh!

-   À! - Thuận cười. Một cái gì bấy giờ mới như trút ra nhè nhẹ khỏi lồng ngực anh. Tâm trí anh trở lại trong thoáng hơn. Bấy giờ anh lại liếc nhìn Khôi. Khôi vẫn đứng đó. Gương mặt anh trở nên lầm lì. Rồi đột nhiên anh lẳng lặng đi ra, leo thang sắt xuống dưới boong. Thuận không nói gì, vẫn đứng liền bên Vũ.

-   Ông Vũ này! Mình với ông không biết hút thuốc cũng dở phải không ông? Lúc này, khoái thật, đi giữa mặt thằng Mỹ, đốt một điếu, vui biết mấy!

Vũ cười.

"Con tàu cá" đã dần dần đi xa bốn chiếc tàu khu trục địch. Cũng dần  dần xa  khỏi vùng đi lại của những chiếc tàu nhỏ Mỹ trong đêm ấy.

Cho tới khi đồng hồ trong buồng hàng hải chỉ bốn giờ sáng, ngoảnh lại không còn  thấy dấu vết nào của "cái 177" ấy nữa, Vũ phát hiệu lệnh báo yên. Cũng lúc đó anh cảm thấy toàn thân như một bộ khung gỗ bỗng rã ra. Khôi lên thay anh.

Thuận theo Vũ xuống phòng thủy thủ. Phòng hẹp, ngột ngạt dầu mỡ, hơi người và cả mùi thuốc nổ. Giường của thủy thủ treo hai tầng. Mỗi chiếc chỉ rộng bảy mươi phân. Vũ gieo mình xuống một chiếc dành riêng cho anh ở một góc. Vừa nằm xuống  đã  ngủ liền. Thuận mở rộng cánh cửa sổ mạn, lấy một chiếc chăn mỏng đắp cho anh, xong đâu đó, mới nhẹ nhàng trở ra. Đến lượt Thuận thấy hai mắt mình díu lại.

Gần sáng Vũ vẫn ngủ vùi. Anh đang mơ thấy mình còn bé bỏng, mười một tuổi, đeo một chiếc ba-lô to gần bằng người có cài một cây sáo trúc. Vũ đang bám vào ba-lô  của một bạn lớn tuổi hơn, vừa đi vừa vấp ngã. Đêm rừng đầy gió. Phía xa xa, các   thôn An Khánh và Ký Phú đang bốc cháy. Bọn Pháp đã từ Đại Từ, Lục Ba sục tới. Cuộc tiến công Thu Đông 1947. Toàn đội thiếu sinh quân của trung đoàn Thủ đô đã luồn lỏi suốt đêm qua những khu rừng ven núi để cố thoát ra khỏi vòng vây. Lửa vẫn cháy đỏ bốn bề. Tiếng súng chốc chốc lại rộ  lên. Toàn thân Vũ như rét run. Vũ  nghiến răng, cố bám lấy ba-lô của người đi trước. Bỗng phía trên có tiếng khóc. Vũ nhận ra tiếng khóc của Triệu Lan, một bạn lớn hơn Vũ hai tuổi đang được các anh Hiển, Sơn dạy chơi vĩ cầm. Triệu Lan khóc hẳn vì quá sợ. Anh Sơn từ phía sau vùn vụt chạy lên. Anh rít trong kẽ răng: "Ai khóc đấy? Sợ hả? Sợ cái gì? Sợ mà thoát chết
 

được hả? Phải can đảm lên chứ! Đội ta không có kẻ hèn yếu đâu!". Vũ nghe như anh Sơn mắng mình. Nhưng rồi lại vấp một lần nữa, Vũ ngã sấp. Vừa lúc đó một tiếng nổ đoàng. Một thằng Lê-dương cao lớn, đầy lông lá, mặt đỏ như gà chọi nhào tới. Vũ thấy mình chết. Rồi bỗng lại thấy mình đang đứng bơ vơ ở Phùng, nước mắt chảy dài. Mẹ đã chết bệnh. Ông bố cũng vừa bị tàu bay bắn. Chú bác đều nghèo... Bỗng một đơn vị của trung đoàn Thủ đô rút từ Hà Nội ra đi qua. Đơn vị dừng lại ở chợ một lúc. Một anh chỉ huy bỗng vẫy tay. Vũ chạy lại. "Nhà em ở đâu?". Anh vừa cất tiếng hỏi Vũ đã khóc ròng...

Cũng đúng lúc ấy Vũ tỉnh dậy. Anh trằn người, thay đổi thế nằm. Phòng thủy thủ tối om. Anh em chiến sĩ nhiều người vẫn còn đang ngáy giòn. Vũ thở dài một mình trong bóng tối. Anh không ngờ, đã bao năm bỗng lại mơ gần như đúng những chuyện cũ.

Con tàu vẫn đang tiếp tục chạy. Máy chạy tiến 3, mạnh mẽ lạ thường. Vũ bị lăn sang bên này, dồn sang bên kia chiếc giường vải. Không sao ngủ được nữa. Cũng sắp sáng rồi. Bỗng Vũ nghe thấy "rộc" một cái rất mạnh và  dường như đáy con tàu lao xiết  trên một vật gì cứng. Với một phản xạ rất nhanh, chưa kịp nghĩ gì thêm. Vũ đã tung mình khỏi chiếc giường vải, lao ra mặt boong. Anh suýt đâm sầm phải một người  cũng từ nơi nào không rõ đang phóng tới.

-   Nhẫn! Cái gì vậy? - Vũ đã nhận ra đồng chí trưởng máy.

-   Trời! Chết rồi! Chết rồi! - Nhẫn, anh chàng béo lùn, hay cau có ấy chỉ kịp kêu lên được mấy tiếng rụng rời như vậy đã lao xuống buồng máy.

Máy tắt. Con tàu đang đà trớn lao lên một đoạn nữa mới dừng lại. Toàn tàu đã trỗi dậy, chạy ra đầy mặt boong, nhốn nháo.
Vũ như bay lên ca-bin chỉ huy. Thuận và Khôi đang ở đây với Minh quắt, anh lính hàng hải mới, chưa thạo tay nghề, mặt cắt không còn hột máu.

-   Bình tĩnh! Bình tĩnh đã, các đồng chí! Không một ai được làm ầm ĩ! - Thuận vẫy  tay, cố nói cho thật ôn tồn mà nghe vẫn cứ như gào lên.

Vũ đã hiểu rõ chuyện gì xảy ra: vì là lính mới, về sáng lại có sương mù nhẹ và có thể cũng vì thiếu thận trọng, Minh quắt đã lái chệch con tàu từ một lúc nào đó. Độ lệch khá lớn. Đến lúc Khôi phát hiện được ra độ lệch, chỉnh lại hướng đi thì con tàu đã  lướt tới một hòn đảo san hô mới nổi lập lờ, không sao kìm lại được nữa.

Trời sáng dần. Mặt trời đỏ ửng, rất lớn, lấp ló đằng sau màn sương mù đã mỏng nhẹ.

Biển hồng lên. Đã nom rõ hòn đảo nhô cao khỏi mặt nước. Con tàu nằm chình ình ra, bị kẹp chặt gần hết cả thân mình vào giữa hai lằn san hô thấp và lởm chởm. Ở ngay phía trước mũi tàu là một phiến đá như một con voi khá lớn nằm chắn ngang.

Tất cả bằng ấy con người đều đứng ngây, gần như kinh hoàng. Nhưng sau khi kiểm  tra lại đuôi tàu thì thấy phía sau chân vịt có một vũng tròn to bằng gần một gian nhà.
 

-   Chân vịt hãy còn! - Vận, quân sĩ trưởng nói to, rồi nghẹn hẳn đi vì quá mừng. Chân vịt còn! Cũng có nghĩa: Thế là chưa đến nỗi "bàn làm gì nữa cho vô ích ở giữa cái nơi mênh mông trời nước này"...

Tất cả đoàn thủy thủ vẫn xôn xao.

Chi ủy họp cấp tốc ở ngay trên mũi tàu.

Một nghị quyết nhanh chóng được phổ biến: "Bằng mọi cách phải đưa con tàu ra khỏi bãi cạn san hô. Bằng mọi giá phải đưa hàng tới đích, đúng ngày đã ấn định. Đoàn kết! Không đổ lỗi cho nhau. Kiên quyết hoàn thành nhiệm vụ!".

Thế là đã có phương hướng. Thế là đã có quyết tâm! Công việc tức khắc được triển khai.
Tổ được chọn để lặn xuống kiểm tra đáy tàu và nghiên cứu san hô hai bên mạn là thuyền phó Thiêm, quân sĩ trưởng Vận và chiến sĩ hàng hải Tân. Cả ba đều là những người bơi, lặn giỏi.

Ba người đều cởi hết quần áo ngoài. Ông Thiêm lại phơi trần tấm lưng da nhăn nheo và dày như da voi. Vận lại phô bày cả tấm thân gầy nhẳng như nhái bén. Chỉ có Tân  là lúc nào da thịt cũng mỡ màng, căng ra như bóng thổi.

-   Nào! Các chú! Ta chuẩn bị để xuống nhá! - Ông Thiêm nói to, nhưng vẫn ề à "thuyền gỗ" y như xưa. Đến một câu hô khẩu lệnh nhỏ cũng vẫn không làm sao cho gãy gọn và đúng quy cách. Nhưng như một lão tướng, ông hiên ngang vươn mình, rồi lao phóng xuống biển đang dập sóng vào đảo, vào tàu tung bọt trắng xóa.

Khôi đứng ở đầu mũi hạm. Mặt anh hốc hác. Đôi mắt u tối, đau khổ và cay đắng. Các chiến sĩ chạy đi chạy lại trước mặt anh. Nhưng không một ai dám và nỡ nhìn vào cặp mắt ấy. Vũ đứng ở cuối tàu. Anh đã cởi chiếc may-ô đen  ném vào một  chỗ, mình trần, đứng nắm chặt lan can sắt, căng thẳng nhìn xuống nước.

Một lát, ông Thiêm ngoi lên, miệng nhổ phì phì. Tiếp đó là Vận và Tân. Thang dây được thả xuống. Cả ba người leo lên boong, cùng ngồi thở dốc.

Vận cất tiếng nói trước:

-   Đáy tàu không sao cả. Nhưng hai bên mạn sườn toàn đá san hô, nhiều lắm, nhiều lắm...

Đôi mắt to lồi lồi của anh đã đỏ như mắt cá chày. Râu ria như mọc thêm tua  tủa  chung quanh miệng rộng và kín cả hai bên quai hàm vuông bạnh của anh.

-   Thế nào, còn đồng chí Thiêm? - Thuận hỏi.
 

Ông Thiêm từ nãy vẫn ngồi thở, bấy giờ mới ngẩng lên. Đôi mắt ông như có ngấn lệ. Ông không nói ra, e ảnh hưởng tới tư tưởng của anh em, nhưng ông đã hiểu  đây là một trường hợp chẳng còn hy vọng, dù rằng chân vịt chưa gãy. Thời tàu gỗ, ông biết đã có một chiếc cũng mắc cạn ở một hòn đảo san hô, thời tàu sắt cũng có một chiếc mắc cạn ở đảo khác tương tự, gần Hoàng Sa. Cả hai lần đều phải điện về Đoàn báo cáo, xin tàu tới cứu đoàn thủy thủ. Sau đó hủy tàu. Lần này cơ mầu rồi cũng vậy thôi! Thế là tan tành mọi chuyện! Thế là cha con sẽ phải tay không lủi thủi đón nhau quay trở về. Nghĩ tới những buổi chuẩn bị ra đi: hứa hẹn, thề bồi... mà thêm xấu hổ!

-   Đồng chí Thiêm! Thế nào, ý kiến sao, nói đi chứ!

Ông Thiêm ngước nhìn Thuận, nhìn Khôi rồi nhìn Vũ. Ông chỉ lắc đầu. Đôi mắt càng như có ngấn nước.

Thuận đứng sững như trời trồng. Anh hiểu rồi.

Mấy chiến sĩ thủy thủ đứng đó cũng im phăng phắc. Khôi càng cúi gằm. Mặt tái ngắt.
Tất cả bao nhiêu người, bấy nhiêu cặp mắt đều đang đổ dồn vào anh, người thuyền trưởng, người cầm vận mạng của cả con tàu này. Phải, anh là người chỉ huy cao nhất  ở đây. Lần này số phận có lẽ không chiều anh nữa chăng? Đúng là ngay từ trước khi  ra đi anh đã linh cảm thấy những cái gì chẳng lành, chẳng ổn...

Thuận bỗng cất tiếng, quả quyết:

-   Thôi được! Tôi đề nghị họp toàn thể cán bộ chiến sĩ, động viên anh em phát huy sáng kiến xem sao.

Thế là chỉ năm phút sau tất cả đoàn thủy thủ, cũng có nghĩa là tất cả chi bộ Đảng, đã có mặt đầy đủ ở trên boong.

Thuận không cần phải dài lời. Anh không ngờ các chiến sĩ đều hăm hở tranh  nhau nói. Hứa, báo vụ đề nghị điện về Đoàn xin tàu cấp cứu tới kéo ra. Đĩnh voi có sáng kiến tập trung lực lượng lặn xuống, đục phá dần từng mảng san hô rồi chờ con nước lên, mở hết máy để lùi tàu...

Ý kiến nào cũng có mặt nghe được, nhưng cũng có mặt chưa được. Đến lượt Kính đứng dậy:

-   Báo cáo! Nhân ý kiến của đồng chí Đĩnh, tôi xin trình bày ý kiến của tôi như sau: đục san hô thì rất lâu rất khó. Việc đó không thể nào thực hiện được. Nhưng đợi con nước để lùi tàu là rất hay, rất khoa học. Bây giờ tôi xin bổ sung thế này: ta phải vận dụng nguyên tắc đòn bẩy để tời kéo cho con tàu nhích dần ra từng chút một. Như vậy rồi ta mới có thể làm cho nổ máy lùi tàu được. Tời bây giờ có thể làm như thế này: đem hai neo phụ xuống nước, đưa về phía sau tàu chốt lại để làm điểm trụ, kéo tời. Còn một neo chính thì chằng ở bên mạn để giữ cho tàu thăng bằng khỏi bị sóng vật...
 

Kính chưa nói hết, tiếng vỗ tay đã nổ vang:

-   Hay! Hay đấy! Nghe được đấy!

-   Ồ! Hoan hô ông Bồ! Hoan hô ông Voi! Bồ - Voi kết hợp khá quá! Quần chúng phấn chấn hẳn lên.
Thuận nhìn Vũ, cả hai cặp mắt đều sáng rỡ.

-   Nhưng neo lớn nặng những hai trăm rưởi cân một chiếc, lại không có phương tiện nào hết, đưa xuống nước làm sao để neo ở sau tàu được? - Khôi bỗng chen vào, thắc mắc.

Minh quắt suốt từ sáng đến giờ gần giống như một xác chết. Tuy chi ủy đã có nghị quyết: phải đoàn kết tập trung sức lực để cứu tàu, không đổ lỗi cho nhau, mọi việc sẽ kiểm điểm sau, nhưng Minh vẫn hoàn toàn ý thức được mình là thủ phạm chính của  tai nạn này. Sợ kỷ luật đã đành. Đối với Minh, việc còn đáng sợ hơn là con tàu phải   tự hủy, hàng không tới được mục tiêu đã định. Đến nước ấy... có lẽ mình chỉ còn một con đường: Chết. Minh thầm nhủ như vậy. Và anh đã để ý tới cây AK của mình. Phải rồi, trước khi con tàu phát nổ, chỉ cần đưa họng súng lên đúng thái dương này...

Nhưng, không hiểu sao, đầu óc đã rối tung lên như vậy, khi nghe thuyền trưởng Khôi nói không có cách gì để đưa hai chiếc neo lớn ra phía sau, Minh quắt bỗng vụt nảy ra một ý kiến. Nhưng không dám hăng hái, anh chỉ rụt rè:

-   Báo cáo! Tôi có ý kiến: Ta thử tập trung phao cấp cứu lại làm bè xem sao! May ra thì...

Một lần nữa, tất cả thủy thủ cùng reo ầm, ngạc nhiên:

-   À! Được đấy! Có thế mà không nghĩ ra nhỉ!

Thế là chỉ trong khoảnh khắc mọi việc đã được tổ chức tiến hành một cách rất khẩn trương.

Tất cả mọi người đều xoay trần. Nhóm kết phao làm bè, nhóm chuẩn bị tay tời, nhóm khiêng neo để chuẩn bị thả xuống nước. Sương mù tan từ lâu. Mặt trời  đã lên cao  chói lọi. Nắng và gió. Sóng tiếp tục cuồn cuộn xô vào đảo, đập mạnh vào những tảng đá lớn và con tàu, tung bọt trắng xóa. Sóng đánh liên hồi, đuôi con tàu lúc dềnh lên, lúc đập xuống dữ dội.

Vũ chạy đi chạy lại trên boong. Anh bỗng nhận ra: cứ đà này, rất dễ thủng đáy tàu và gãy cả trục lái. Anh lao đi tìm Khôi và Thuận:

-   Phải tháo chốt trục lái thôi các anh ạ! Gãy thì thôi, hết cách cứu chữa.

-   À, đúng! Vậy phải tháo ngay! - Thuận sốt sắng hưởng ứng.
 

-   Để tôi xuống cho! - Vũ vội vã quay đi.

-   Khoan đã Vũ! Để cử... - Khôi ngăn anh lại.

-   Thôi, anh em họ đang kéo neo cả. Sóng dữ quá! Bè đang bị đẩy vào, chưa đưa được cái neo nào ra sau hết. Các anh cứ tập trung vào việc đó, còn mặc tôi!

Nói đoạn, như một con cá vược mạnh mẽ, Vũ tung mình lao ngay xuống biển.

Chung quanh anh toàn một màu vàng kỳ lạ, rồi toàn một màu xanh xám ghê rợn, xao động...

Nó đây rồi! Cái chốt lái! Anh nghiến chặt hai hàm răng. Ngực tức rực. Thái dương cơ hồ muốn nổ tung. Giây phút sau, anh trở lại trên boong, bước đi lảo đảo, nhưng ngoái nhìn lại, anh bỗng mở to mắt, mừng rỡ, hai chiếc bè đã đưa được ra gần đúng nơi quy định để thả neo. Hàng chục con người vẫn bu quanh lấy hai chiếc bè ấy mà ngụp lặn, mà gào thét, vật lộn với sóng nước. Thuận và cả Khôi cũng đã bơi xuống hợp lực  cùng anh em.

-   Được rồi! Được rồi!

Những tiếng reo dậy lên át cả tiếng sóng. Mọi người cùng trở lại tàu. Ông Thiêm leo lên trước. Vũ kinh ngạc thấy da lưng ông bị nắng thiêu đốt và sóng biển chà xát, gần như đã bị lột hẳn lên từng mảng. Ông ngã vật xuống một đống dây chão. Rồi lần lượt đến Vận quân sĩ trưởng, Hứa báo vụ, Đĩnh voi ĐKZ, Minh quắt và Tân hàng hải... cuối cùng là Khôi và Thuận trở lại tàu.

Tất cả đều phờ phạc, mình mẩy cháy đỏ, sây sát.

Thế là đã có khả năng giữ được con tàu khỏi bị sóng đập vào san hô hư hại, nhất là đã có điểm tựa vững chắc để quay tời kéo con tàu lùi trở ra. Chỉ còn lo việc quay tời nữa thôi. Tuy vậy, tời chỉ là tời quay tay, liệu có đủ lực cần thiết không?

-   Bình tĩnh! Lại vẫn cứ phải bình tĩnh cái đã, anh em ạ!

Thuận vừa vuốt nước trên tóc, trên mặt vừa vui vẻ nói. Vũ nhìn Thuận, thấy anh lúc này thật đáng quý! Thuận nhận được cái nhìn đầy thiện cảm ấy. Anh cười và cũng   gửi lại một ánh mắt thân thiết. Dường như sau đêm vừa qua trò chuyện, tâm sự một cách vui vẻ và cởi mở, cả hai đã bắt được cái "tần số" thầm kín nào đó trong tâm tình của nhau, rõ hơn trước và mạch lạc hơn trước.

Bắt đầu tời.

Sáu người đứng tời. Thế là đã quá chật. Kíp đầu tiên là sáu thanh niên, do Đĩnh voi cầm trịch. Mọi người cùng ngả rạp. Những bắp tay, những tấm lưng cùng cuộn lên như sóng.

-   Nào! Phải có nhịp mới được! Hai... ba nào!...
 

-   Hai... ba nào!

Một công cuộc "kéo pháo Điện Biên" đang được diễn lại căng thẳng, quyết liệt giữa biển khơi hôm nay.

-   Hai... ba nào!

Những bàn tay dường như dần dần toạc cả hộ khẩu, và những đường gân chẳng trên  cổ các chiến sĩ cũng càng căng thêm ra nhức nhối.

-   Hai... ba nào!

Vũ cùng nhảy vào. Thuận tiếp luôn theo anh. Khôi đứng trên ca-bin chỉ huy, sẵn sàng để cho con tàu nổ máy. Không một ai đứng ngoài nữa.

Tời cứng như thép đúc. Trời dần dần đổ tối. Tất cả bằng ấy con người vẫn tiếp tục thay nhau "đánh vật" với con tàu không một giây phút ngừng lại. Nhiều lúc tưởng con tàu đã nhích lên được một chút, anh em reo ầm. Nhưng, thật ra đó chỉ là một ảo giác

"... Kéo pháo ta vượt qua đèo"...

Vũ bỗng như lại thấy cái "cửa mở" của đồi A1 năm nào. Xác những đồng chí ta hy sinh đêm trước vẫn còn nằm rải. Pháo địch tiếp tục trút xuống. Lửa rực lên từng hồi. Đạn xé tiếp thân thể các đồng chí... Trung đoàn trưởng Hùng Sinh, con hùm xám của trung đoàn Thủ Đô, rời sở chỉ huy. Anh tới đại đội chủ công. "Đại đội còn những ai, các em?". - Vũ tiến lại, toàn thân anh đầy bùn và máu, chỉ còn lại có đôi mắt. "Báo cáo! Còn một trung đội trưởng bị  thương nhẹ, năm chiến sĩ, một y tá và em, em là  liên lạc!". - Tôi cần lên trận địa. Trên đó đại đội 2 đang đánh. Em có dám lên đó lần nữa không? Tôi cần một người đưa đường!" - Báo cáo trung đoàn trưởng, em xin đi ngay!"... Pháo địch lại gầm lên. Lửa lại nháng đỏ ở "cửa mở". Hai anh em cùng liếc nhìn nhau một cái rất nhanh. Trung đoàn trưởng, một tay cầm cây K.51, một tay chỉ: "Cây đa thằng người kia phải không?" - "Báo cáo phải! Chỗ ấy, gốc cây  đã đỏ hết máu anh em ta!" - Vũ chỉ nói được có thế, nước mắt đã ứa ra. Và không đợi trung  đoàn trưởng kịp nói gì thêm, anh đã phất tay ra hiệu tiến, nói như chính mình có  quyền ra lệnh: "Anh cứ bám sát theo em!"...

Đêm ấy, trung đoàn trưởng đã đem tới cho đại đội 2 đủ cơ số đạn dược và một trung đội dũng sĩ. Anh đã trực tiếp chỉ huy toàn bộ số quân ấy của trung đoàn trên A1, đánh bại bốn lần phản xung phong của bọn Pháp. Đợt cuối cùng, bọn chúng tràn được vào chiến hào của đại đội. Trung đoàn trưởng Hùng Sinh cầm một ống bộc phá, vươn mình xông lên, lao thẳng ống thuốc nổ vào quân thù. Nhưng rồi anh ngã ngất bên  cạnh Vũ. Vũ đã bắn hết băng K.51. Tìm mãi không còn một viên nào nữa, anh rút hai quả thủ pháo cuối cùng, thét lên: "Trung đoàn trưởng, vẫn còn có em ở đây!". Cũng không ngờ, hai quả thủ pháo ấy đã gạt đổ hết tốp quân địch cuối cùng. Và trời cũng rạng sáng. Tiểu đoàn dự bị của trung đoàn đã bước vào chiến đấu thay thế cho tiểu đoàn chủ công xung kích...
 

Những mẩu ký ức sống dậy dồn dập. Vũ bỗng bỏ tay tời bước nhanh lại chỗ Thuận, cùng kéo anh lên ca-bin chỉ huy gặp Khôi. Trời đã tối hẳn. Khôi bật công tắc đèn. Mồ hôi vẫn thánh thót chảy, Vũ nói:

-   Không được các anh ạ! Cứ kéo đều đều cái kiểu này, kiệt sức mất. Không thể chỉ dùng sức. Phải dùng mẹo nữa, các anh ạ!

Thuận và Khôi cùng chăm chú:

-   Mẹo thế nào?

-   Theo ý tôi, cũng đơn giản thôi! Bây giờ ta phải lợi dụng từng con sóng mà kéo giật từng cái một. Đồng thời tập trung toàn thể thủy thủ lại để chống sào ở hai bên mạn nữa. Tất cả cùng kéo, cùng chống theo một hiệu lệnh chỉ huy. Từng cái một, thật nhanh mà cũng thật mạnh, để tạo cùng con sóng một lực đẩy được nhân lên...

-   Có thể hay đấy! - Thuận mừng rõ. Đối với anh, quả là không bao giờ có chuyện tuyệt vọng. Anh luôn luôn có một niềm tin sắt đá như vậy. Chiến tranh, anh đã hiểu  nó rất rõ với tất cả kinh nghiệm của bản thân, không bao giờ thiếu những con đường thoát, ngay cả trong những lúc hiểm nghèo nhất.

Khôi nhận việc thống nhất hiệu lệnh chung. Vận được trao nhiệm vụ chỉ huy lực  lượng chống sào, mặc dầu cả người anh lúc này dường như chỉ còn có hai con mắt và bộ râu. Vũ và Thuận trực tiếp mỗi người đứng đầu một kíp tời.

"Kéo pháo ta băng qua đèo...".

-   Hai... ba nào!...

Thế là công cuộc vật lộn lại tiếp tục, nhưng lần này không phải chỉ là những nhịp hô với những lực kéo liên tục thẳng căng nữa, mà cách quãng theo từng con sóng. Đêm nay, trời đầy mây hơn đêm trước. Gió lớn hơn. Sóng cũng mạnh hơn. Từng con sóng đằng xa hung hãn lao tới, nổ vang ở ngay đuôi con tàu và những  tảng đá lớn. Bọt  sóng bay như đạn ghém réo quanh người.

-   Hai ba... nào!

-   Trời ơi! Nhích rồi kìa! - Bỗng Vận reo quýnh.

-   Thật không?

-   Nhích rồi! Nhích thật rồi! Anh em ơi! Nhích thật rồi! Hai... ba, cố tí nữa nào!... Cả mười mấy con người cùng nhảy lên, reo lên, cuồng nhiệt.
-   Nhích rồi! Nhích thật rồi! Ôi, nhích thật rồi! Hai... ba nào!
 

"... Còn một đợt nữa thôi!...".

Vũ gần như ngả ngửa người ra phía sau. Hàm răng siết lại, anh tiếp tục giật mạnh tay tời cùng với những con sóng thúc mạnh vào hông con tàu. Anh không nom thấy gì  hết. Không biết có đúng con tàu đã nhích thật hay vẫn chỉ là một ảo giác khốn khổ  của anh em. Nhưng anh vẫn cứ nghiến răng lại, theo hiệu lệnh của Khôi giật mạnh.

-   Nhích thật rồi! Nhích quá rồi, anh em ơi!...

Một con sóng lớn nữa lại đổ rầm. Tời vừa cuốn một vòng căng với các chân sào thúc mạnh thì con tàu cũng bỗng như được một bàn tay "Thần" nào đó tống một cái, bật hẳn ra phía sau.

Cũng phải khen cho Khôi, anh vẫn còn đủ tỉnh táo và sẵn sàng. Con tàu vừa được  tống mạnh ra khỏi vùng đá kẹp, thì anh cũng kịp thời cho máy nổ vang, kéo giật một cái mãnh liệt, làm cho gần như tất cả bằng ấy con người trên tàu đều ngã lăn. Nhưng cũng lúc đó, toàn thân con tàu đã nổi bềnh lên mặt nước.

-   Thả neo! Củng cố lại tàu! - Khôi thở phào, ra lệnh.

Các chiến sĩ ôm lấy nhau, vật nhau, ngã lăn bon bon trên boong. Vui hết chỗ nói.  Đĩnh voi là anh chàng hay kê đệm, nghịch ngợm nhưng cũng là anh chàng háu ăn đã có tiếng. Anh bỗng nảy ra một sáng kiến, chạy vụt đi tìm Thuận:

-   Chính trị viên ơi! Thắng lợi rồi! Khao quân một tí đi! Rồi ta tiếp tục cuộc hành trình cho nó phấn khởi, chính trị viên ạ!

Thuận cười:

-   Cũng hay đấy! Vậy cậu gọi cụ Thiêm lại đây! Thuyền phó hậu cần mà. Tay hòm  chìa khóa ở cụ ấy hết. Để hỏi xem có cái gì đã.

Ông Thiêm vẫn đang nằm dựa lưng vào đống lưới mà thở. Sau khi nghe Thuận hỏi, ông trợn tròn hai con mắt, vùng ngay dậy, kinh ngạc gần như lúc con tàu bị mắc cạn:

-   Sao lại khao, hả bí thư? Đã đành kẹo bánh trên tàu không thiếu nhưng còn phải để dành chứ, phòng khi...

Thuận phải lựa hết lời khéo léo để nói với cụ. Đến mức gần như phải van vỉ và nịnh hót. Một lúc sau, cụ mới gật đầu, nhưng vẫn còn rất khó khăn và nhăn nhó:

Logged
trachvandung
Cựu chiến binh
*
Bài viết: 747



« Trả lời #11 vào lúc: 27 Tháng Mười, 2021, 07:46:05 am »

-   Vậy cho hai bao Tam Đảo và hai gói bích quy mặn thôi nhé!

Đĩnh voi đứng nghe, che miệng cười, theo dõi công cuộc thuyết phục nhẫn nại của Thuận, lúc ấy không nhịn được nữa, kêu lên:
 

-   Bố ơi là bố ơi! Sao đến lúc này mà bố vẫn cứ tiếp tục vắt cổ chày ra nước mãi thế? Mệt, khát mà bố lại cho bích quy mặn!

Ông Thiêm lườm Đĩnh một cái tưởng phải bắn ra xa tới năm mét. Thuận lại tiếp tục  dỗ dành và nịnh hót. Anh cũng phải "bố bố con con" với cụ y như lũ lính trẻ. Mãi sau cụ mới xiêu xiêu thêm được chút nữa:

-   Thôi được, vậy cho thêm một ít bột nước chanh! Còn bia và kẹo thì  tuyệt đối không! Để đến nơi, mới liên hoan!

Đĩnh voi thất vọng gần như hoàn toàn. Thuận cũng phải lắc đầu cười, nhưng chịu,   biết không còn làm sao hơn nữa.

Tuy vậy, bữa "khao" còm ấy cũng đã làm cho tinh thần anh em thêm vui vẻ rõ rệt. Niềm vui trả lại sức khỏe khá mau.

-   Anh Khôi cho điện về Đoàn đi! Chúng ta tiếp tục tiến! - Thuận giục. Đúng hai mươi bốn giờ đêm.
Khôi rung tay chuông. Con tàu nổ máy. Chân vịt lại rít lên, cuộn sóng sôi sục. "Toán chiến sĩ hải quân ra khơi hôm nay...
Bờ nước Nam, gió khơi nồng máu say..."

Một bài ca đã lâu lắm, nhưng các chiến sĩ vẫn rất thích hát. Con tàu tiếp tục đè sóng lướt tới.
Tâm hồn các chiến sĩ lại như reo cùng tiếng máy, tiếng sóng, bay lên cùng với  gió, bay mãi về phương nam xa vời mà xiết bao gần gũi. Trong phút giây ấy, họ đã gần như quên hẳn cái tai nạn bất kỳ vừa xảy ra. Chỉ riêng Khôi, trên ca-bin chỉ huy, anh vẫn lặng lẽ, gần như bi thảm. Anh thoáng nghĩ tới tờ quyết định tham mưu phó... Anh lại nghĩ tới cặp mắt sắc như dao của đoàn trưởng Thước. Rồi, tự an ủi mình, anh cố nghĩ tới bộ mặt vuông vức, nghiêm chỉnh của trung tá Lệnh trên cơ quan, con người  có thế lực, luôn ủng hộ anh. Nhưng cũng rất mau, anh đã trở lại với thực tế. Trước  mắt anh, biển phương Nam đang tối sẫm. Còn những tai ác, những khốn khổ nào nữa đang đợi chờ anh?

Lần này, vào khu Năm! Khu Năm thường là bãi ngang trả hàng rất khó đã đành, các cửa nói chung đều có đồn bốt địch. Vùng giải phóng ở bờ biển ít hơn trong Nam Bộ. Lần này, tuy đã được biết một bến có thể vào cửa được, ở vùng Bình Sơn - Quảng Ngãi, nhưng đó là một bến hoàn toàn mới, không một ai trên con tàu này thuộc rõ địa hình, địa vật ở đấy ra sao...

***
 

Khi vượt tuyến dẫu sao chủ yếu cũng chỉ là những phút giây có ý nghĩa tinh thần  nhiều hơn là thời điểm trọng yếu cụ thể của một trận chiến đấu. Phải là lúc con  tàu  bắt đầu chuyển hướng, từ vùng biển quốc tế quay mũi tiến vào bờ. Đó là lúc không phải riêng con tàu mà tất cả ba cơ quan, cho tới Đoàn trưởng, chính ủy, thậm chí cả  Bộ tư lệnh quân chủng, và cả một số đồng chí Trung ương cũng gần như thức trắng, căng thẳng từng giờ, từng phút để theo dõi chỉ đạo sao cho con tàu vào "bến" an toàn, thắng lợi.

Chuyển hướng cũng có nghĩa là bắt đầu vào vùng hiểm nguy, vào nơi địch đang tuần phòng gắt gao. Từ cái Mác-kết Thai-mơ, bọn Mỹ đã chia ra hai khu tuần phòng: viễn duyên và cận duyên. Vùng viễn duyên do Mỹ đảm trách, cận duyên do lực lượng hải quân ngụy gánh vác, với những chiến hạm lớn, trang bị mạnh, có đầy đủ ra-đa, và những đoàn hải thuyền ác ôn, những tàu nhỏ cao tốc. Ngoài ra còn có hàng chục đài ra-đa tầm xa, hàng trăm trạm ra-đa tầm gần trên bờ sục sạo ngày đêm.

Chuyển hướng cũng có nghĩa là trận đánh đã đi vào giai đoạn quyết liệt, và quyết định: một sống, một chết, một thắng, một bại...

Chuyển hướng, tất cả những chiến sĩ của Đoàn tàu không số đều đã quá hiểu: đây là bờ vực của mọi sự nát tan, và đây cũng là bậc thềm của những vinh quang chói lọi phía trước. Đã có những người, suốt mấy ngày trời luồn lách, né tránh, ở ngoài vùng biển quốc tế đã tỏ ra hết sức thông minh, và bình tĩnh, gan dạ, nhưng khi bắt đầu chuyển hướng bỗng dưng như một con người đã đổi khác. Ở đây, trên cái ranh giới đặc biệt này không phải đã không xảy ra những xung đột tự thân bi thảm.

Đã qua Đà Nẵng, qua cái đặc nhiệm 177 của hạm đội 7, và đã thoát khỏi hòn đảo san hô lập lờ nham hiểm được một đêm, một ngày. Tính toán thời gian và xác định kại vị trí tàu, Khôi biết: Thế là sắp bắt được cây đèn biển của đảo Ly Sơn. Đấy cũng là vật chuẩn để bắt đầu tính toán cho giai đoạn chuyển hướng vào bờ.

Đã hơn bốn giờ chiều. Quân sĩ trưởng Vận, người mà Khôi đã cự nự trước lúc ra đi là sớm dao động, đang mồ hôi ròng ròng ở trong bếp, nấu bữa chiều cho anh em. Biển miền Trung sóng dữ. Tàu lắc liên hồi, mấy cậu đến phiên nấu bếp không tài nào làm  gì nổi. Vận phải trực tiếp "ra tay".

Đã năm giờ. Biết Khôi đã quá đói vì trưa nay không hiểu sao anh  ăn rất ít, Vận đã phải tìm đến ông già Thiêm "thần giữ của". Nói mãi ông mới "nhè" ra cho được một gói bích quy. Nhưng theo thói quen cố hữu, trước khi phát, ông vẫn phải cằn nhằn  một thôi đã. Vận đem gói bánh lên ca-bin chỉ huy. Nhưng, Khôi lắc đầu:

-   Không! Tôi không ăn đâu, anh mang xuống đi!

Vận đứng ngẩn, mặt vẫn đen những râu, và toàn thân vẫn gầy nhách như bơi trong chiếc áo sơ-mi nhàu nát. Cũng là cán bộ chỉ huy trước đây, anh đã có đầy đủ kinh nghiệm để hiểu rằng lúc này sắp chuyển hướng, cần phải làm sao cho người thuyền trưởng được khỏe mạnh nhất, tỉnh táo nhất, và cũng vui vẻ thoải mái nhất. Vận đã sẵn sàng quên đi câu chuyện va chạm cũ. Mà thật ra anh cũng đã gần như quên hẳn nó
 

rồi. Anh em vẫn bảo anh là người có tấm lòng dễ tha thứ, một con người không biết thế nào là oán thù, chỉ biết có ân nghĩa...

-   Anh Khôi ạ, anh cố ăn một tí đi! Trưa nay, anh có ăn được mấy tí đâu! Nhưng, không ngờ, mặt Khôi bỗng đỏ bừng. Anh gần như rít lên:
-   Sao, anh lại chú ý theo dõi cả đến từng miếng ăn của tôi đến thế nữa kia à? - Rồi  mỉa mai - Tôi tưởng việc ấy là của đồng chí bí thư, đồng chí chính trị viên thôi chứ?
Anh cũng muốn giám sát, theo dõi cả tư tưởng tôi ư?
Vận há miệng. Anh hoàn toàn không ngờ sự phản ứng của Khôi trước thái độ săn sóc thành tâm của anh lại như vậy. Mặt Vận thoắt nhăn nhúm lại. Thế là lại không hiểu nhau rồi! Vận lặng lẽ quay ra. Hai mắt anh lại ầng ậng nước.

Anh chưa xuống hết chân thang bỗng đứng sững. Chiến sĩ quan sát trên nóc tàu chợt réo lên:

-   Bốn máy bay Mỹ! Có bốn máy bay Mỹ đang bay tới!

Vận ngoắt nhìn sang trái. Quả nhiên có bốn chiếc máy bay Mỹ ở xa đang bay lại. Trên đài chỉ huy, Khôi phát lệnh báo động.
Vận tụt xuống khỏi chân thang, chạy về phía cây ĐKZ.

-   Ai chạy kia? Muốn chết hả?

Tiếng Khôi quát to đuổi theo anh, tức giận và lẫn cả vẻ hoảng hốt.

Vận ngước nhìn lên ca-bin. Anh thấy Thuận, Vũ đang leo lên  thoăn thoắt.

Vận đã đến bên cây ĐKZ, anh đang định tháo bỏ ngụy trang thì nhìn thấy một lá cờ vàng ba sọc đỏ của ngụy được kéo lên rất nhanh trên đỉnh cột của tàu anh.

Rồi thấy Vũ lại trở xuống boong. Anh hô to với Sanh và Đĩnh voi, bồ Kính lúc đó cũng đã sẵn sàng ở các vị trí súng:

-   Nào ta căng rộng lưới ra phơi cho khô thêm. Anh Vận, chớ có tháo ngụy trang ra!

Vận mỉm cười. Thế là hiểu rồi! Xử trí thế là khá nhanh và cũng khá khéo! Vận tin phản ứng này lại là của Vũ chứ không phải Khôi, và cũng không phải Thuận. Thuận chắc nhưng chậm, Khôi giỏi kỹ thuật hàng hải nhưng chỉ huy lại lúng túng, thiếu  quyết đoán. Vận đã biết quá rõ cả ba con người này...
 

Bốn chiếc phản lực Mỹ kéo theo một màn tiếng động ào ào lướt tới. Nom thấy con  tàu, chúng sà hẳn xuống. Nom rõ cả những hàng chữ rất to US NAVY, nom thấy cả những ngôi sao trắng của hải quân Mỹ.

Con "tàu cá" vẫn bình thản, tiếp tục đi.

Đĩnh voi, chàng "tếu" cầm cả một mảnh vải dù huơ lên vui vẻ,  như  để vẫy chào những "người bạn đồng minh" của mình.

Nhưng không thể đùa được mãi.

Bốn chiếc máy bay Mỹ vừa vút đi xa, mấy phút sau hai chiếc bỗng quay  lại, vẫn  nhằm thẳng hướng "con tàu cá" lướt tới.

Trên đài chỉ huy, Khôi kéo mạnh tay chuông lệnh giảm xuống tiến 2. Mắt anh căng  ra. Anh nói gấp với Thuận:

-   Chuẩn bị nổ súng.

Thuận nheo nheo cặp mắt nhìn hai chiếc phản lực Mỹ:

-   Gượm! Để xem sao đã anh!

-   Sao lại gượm?

-   Nếu nó nghi mình, nó phải vòng lượn ngay từ đầu, và có quay lại, phải quay cả bốn chứ! Cứ bình tĩnh chút nữa xem sao đã.

Khôi mím chặt môi. Anh không muốn tranh luận với Thuận. Trong đáy lòng anh,  Khôi vẫn không thấy tin tưởng ở những cán bộ chính trị mà anh vẫn cho là  chỉ  chuyên nói lớn và lúc nào cũng chỉ có mỗi miếng võ "tư tưởng". Khôi kiên quyết phát hiệu lệnh báo động sẵn sàng chiến đấu.

Nhưng, hai chiếc máy bay Mỹ lần này tuy bay tới, lại bay cao và không sà sát xuống quan sát như trước. Chúng kẻ thẳng một mạch, rồi mất hút.

Thuận liếc nhìn Khôi. Khôi tránh cái nhìn ấy. Báo yên:
Nước chảy săng. (3)



(3)   Chảy mạnh.

Ba mươi phút sau, khi hoàng hôn tỏa rộng thì Khôi lại bỗng gần như giật mình, thốt lên:
 

-   Hạm đội 7!

Lần thứ ba hiệu lệnh báo động sẵn sàng chiến đấu lại được phát ra khẩn cấp.

Vũ lại lên đài chỉ huy. Anh phải thầm nhận Khôi có cặp mắt hết sức tốt. Quả là có  một đoàn tàu của Mỹ đỗ ở rất xa, như ở đường chân trời. Rất dễ lầm chúng là những vệt núi.

Thuận vẫn đứng ở bên Khôi từ nãy. Gần như bao giờ cũng vậy, bộ mặt anh rất ít biến sắc. Anh nho nhỏ nói với Khôi:

-   Cứ giữ vững hướng đi anh ạ! Bọn này còn ở xa, và không nhiều như bọn mà ta đã gặp ở trên Đà Nẵng!

Khôi ngoắt lại nhìn Thuận. Đôi mắt anh mở to. Thuận nói gì vậy? Thuận có ý so sánh Khôi với Vũ ư? Mặt Khôi không đỏ, mà tím lại. Tuy nhiên, lại như mọi lần, anh cố   im bặt, vì anh vốn rất sợ Thuận, sợ chỉ vì một lẽ duy nhất: Thuận là bí thư chi bộ, mà bí thư chi bộ, theo Khôi hiểu là người nắm sinh mạng chính trị của anh.

Trời đổ tối dần dần. Cũng dần dần mất hẳn dấu vết của đội tàu Mỹ. Khôi thở trút.

Đã bắt được đèn Ly Sơn ở xa tít. Cây đèn biển ấy đang nhấp nháy đều đặn. Ôi những cây đèn biển! Dầu cho nó ở đâu, sao vẫn thấy quý báu lạ lùng đối với những người đi biển.

-   Điện về nhà đi! Đã tới điểm chuẩn bị chuyển hướng! - Khôi ra lệnh.

Và sau đó là chi ủy họp. Tất cả cùng nhất trí: chuyển hướng được rồi. Mọi mặt trên  tàu đều đã sẵn sàng: dầu mỡ đã được chuẩn bị thêm, các mạch ống, máy móc đã được kiểm tra. Tinh thần thủy thủ nói chung đều rất tốt. Điện ở "nhà" trả lời: Đồng ý! Chúc thắng lợi!...

Thế là con tàu bắt đầu chuyển hướng.

Toàn thể thủy thủ đều đã sẵn sàng để bước vào một cuộc tử chiến, nếu xảy ra. Chuyển hướng!
Sắp sửa sẽ đối mặt với quân thù. Khôi vẫn trực tiếp chỉ huy con tàu:
-   Đè phải chín mươi độ!

-   Đè phải chín mươi độ! - Kính nhắc lại.

Con tàu như gầm vang, cất bổng mũi, rẽ về tay phải, nhằm thẳng hướng đất liền. Và như có hồn sống, nó cũng đang hồi hộp, cũng đang sôi sục một tình cảm quyết liệt.
 

Các lưới ngụy trang đã được gỡ hết. Tất cả các vị trí súng đều đã lắp đạn. Đĩnh voi  ôm một cây đại liên. Vận quân sĩ trưởng trực tiếp ở ụ ĐKZ, Sanh vẫn giữ cây trung liên ở mạn trái.

Trời vẫn đầy mây. Có phần còn đầy mây hơn tất cả mọi đêm trước. Biển gần như tối mù.

Thốt nhiên, tiếng anh chiến sĩ quan sát lại vọt lên:

-   Ba mươi độ, mạn phải, có đèn!

Tất cả mọi con mắt đều quay ngoắt lại. Ba mươi độ mạn phải, đúng là có ánh đèn  thoắt hiện thoắt biến mất sau những con sóng. Tàu địch hay tàu cá?

Khôi liếc nhìn Vũ. Anh đang chăm chú tác nghiệp hải đồ. Năm phút.
Mười phút.

Rồi mười lăm phút.

Ánh đèn vẫn thẳng với góc mạn của tàu ta, không thay đổi.

Trái tim Khôi vụt như thắt lại. Thế là hiểu rồi! Ánh đèn không thay đổi, có  nghĩa là  nó đang chạy song song với tàu này. Cũng có nghĩa là ta đang bị nó theo dõi.

Đúng lúc ấy Vũ ngẩng lên. Anh cũng có một nhận định giống Khôi. Anh đề nghị: cho đổi hướng về trái hai mươi độ. Khôi đồng ý, mặc dầu từ trước tới nay, Khôi không phải là người dễ dàng nghe theo ý kiến của cấp dưới.

Năm phút. Mười phút.
Rồi mười lăm phút.

Vẫn cứ thấy cái ánh đèn như ma quái ấy ở ba mươi độ mạn phải. Không còn nghi ngờ gì nữa, lộ rồi!
Vũ nói:

-   Ta thử đổi hướng lần nữa anh ạ! Khôi lại đồng ý.
Nhưng tình hình cũng vẫn y như trước.
 

Nó vẫn bám sát. Nguy hơn nữa: đã thấy có thêm ánh đèn của hai chiếc tàu khác.

Cuộc chiến đấu - mà tất nhiên là sẽ hoàn toàn không cân sức - chắc chắn sẽ không tránh khỏi rồi.

Đầu óc Khôi có cái gì bỗng nứt ra, rồi vỡ hẳn một khoảng, trống hoác. Một cái gì đó đen kịt, ập tới kinh hoàng. Ôi! Thế là hết! Nhưng, một phút sau, Khôi  lại thầm kêu lên: Không! Không thể thế được! Còn có thể quay ra chứ! Phải rồi, quay ra! Quay ra cũng hợp pháp lắm chứ! Để bảo đảm an toàn mà! Rồi đêm mai sẽ lại vào, có sao đâu! Hoặc đêm sau nữa... Phải rồi! Phải quay ra đã!

Lập tức, Khôi ra lệnh cho Kính, rất nhanh:

-   Hết lái trái!

Cả Vũ, cả Thuận và cả Kính bỗng cùng như thấy có một tiếng sét nổ. Cái gì vậy?
Khôi cho tàu quay trở ra ư? Sao vậy? Sao lại có thể như thế?

-   Sao? Anh cho tàu ra ư, anh Khôi? - Vũ chồm lại. Mặt Khôi trắng như vôi:
-   Phải, quay ra thôi!

-   Sao lại ra, anh?

-   Không thể vào được nữa! Vô ích! Phải bảo đảm cho con tàu - Khôi vừa như lý sự vừa như giảng giải - Đêm mai ta sẽ vào, cũng không muộn!

Vũ lắc đầu:

-   Không! Phải đưa hàng vào chứ! Đề nghị anh cứ cho tàu vào! Tình hình này thật ra cũng chưa đến nỗi nào mà!

Khôi thoắt nghiêm mặt, giọng anh trở nên đầy uy quyền:

-   Tôi là người chịu trách nhiệm cao nhất. Hãy để cho tôi xử trí!

-   Nhưng phải xử trí theo đúng nghị quyết của chi bộ, và mệnh lệnh của trên chứ anh!
-   Vũ cố kiên nhẫn - Vả lại, theo tôi, tình hình đã có gì nguy khốn quá đâu?

-   Nhất định là tôi sẽ làm đúng mệnh lệnh của trên, sẽ vào được "bến"! Nhưng lúc này phải khôn khéo đã. Làm cách mạng, dũng cảm không đủ, còn phải biết mưu cơ nữa! Ra cái đã! Đêm mai ta sẽ vào!
 

Trời! Mồm miệng sao quá giỏi! Vũ muốn gầm lên, nhưng vẫn cố nén lại, đề nghị   tiếp:

-   Vậy ta hội ý chi ủy đã anh ạ!

Giọng Khôi càng đanh lại, càng đầy uy quyền hơn:

-   Thôi! Tôi sẽ hoàn toàn chịu trách nhiệm!

-   Anh Khôi! Không thể thế được! Tôi đề nghị anh cho tàu vào! Tôi tin là vào được mà!

-   Thôi đi! Nói nhiều quá! Cái đầu óc phiêu lưu của anh từ lâu tôi đã hiểu quá rõ rồi! - Khôi bật rít lên.

Máu đã dồn hết lên mặt, tới lúc này Vũ không thể nén được nữa. Anh cũng rít theo:

-   Anh không được nói thế, anh Khôi! Anh phải chấp hành mệnh lệnh của cấp trên, và nghị quyết của chi bộ! Tôi không cãi vã với anh nữa. Tôi yêu cầu anh phải cho tàu vào! Nếu không...

-   Nếu không thì sao? - Khôi bật quát to - Tôi là người chỉ huy cao nhất ở đây. Tất cả phải theo mệnh lệnh của tôi! Không một ai được phép cưỡng lệnh!

Hàm răng Khôi siết lại, mắt anh sáng quắc.

Tóc Vũ cũng dường như đã dựng đứng hết. Không kìm nổi mình nữa, anh đặt phắt   tay vào bao khẩu Côn mười hai và thét lên:

-   Anh phải vào! Nếu không thì...

Rất nhanh, Kính cũng đưa tay vào bao súng của mình.
-   Trời ơi! - Kính chỉ còn biết kêu lên một tiếng rụng rời.

Nhưng cũng đúng lúc ấy, Thuận vụt nhảy lại, đứng chắn ở giữa hai "con hổ". Mặt anh đỏ rực như nhuộm lửa. Lần đầu tiên cả Kính, cả Vũ, cả Khôi thấy mặt Thuận đổi sắc. Anh đã theo dõi cuộc tranh cãi quyết liệt giữa Vũ và Khôi. Anh thừa nhận là  Vũ  có lý. Cũng lần đầu tiên, mọi người thấy Thuận nói gần như quát:

-   Nhân danh bí thư chi bộ Đảng, tổ chức lãnh đạo tuyệt đối của cách mạng, tôi yêu  cầu đồng chí Khôi trao lại toàn quyền chỉ huy con tàu cho đồng chí Vũ từ giây phút này!

Khôi gần như ngã quỵ. Tay rời khỏi bao súng, buông thõng xuống. Thuận quay lại phía Vũ, trang nghiêm:
 

-   Đồng chí Vũ hãy dũng cảm tiến lên! Đảng tin cậy ở đồng chí! Hãy hoàn thành nhiệm vụ đưa vũ khí vào bờ ngay trong đêm nay, dù cho chúng ta có thể sẽ nổ  tan tành cùng con tàu.

-   Rõ! - Vũ đáp gọn. Anh quay lại phía Kính, thong thả:

-   Đồng chí theo lệnh tôi: Đè phải bốn mươi độ!

-   Đè phải bốn mươi độ! - Kính sung sướng nhắc lại.

Thuận tới bên Khôi. Mặt anh đã trở lại bình thường. Giọng anh cũng đã trở lại ôn tồn như cũ:

-   Thôi, anh Khôi xuống nằm nghỉ đi cho bình tĩnh lại đã! - Nói đoạn, anh vòng tay ra sau lưng Khôi, dìu đi, như dìu một người bệnh đã hoàn toàn kiệt sức.

-   Đè trái ba mươi độ!

-   Đè trái ba mươi độ!

Con "tàu cá" đã tắt hết đèn hành trình và bắt đầu một cuộc chơi ú tim với những con tàu địch, chạy dích dắc, vòng vèo, chạy thẳng lên rồi lại chạy lộn xuống. Sóng vẫn  khá lớn. Trời càng đầy mây như sắp có mưa lớn. Biển càng tối thui. Con "tàu cá" đã ý thức được rất rõ thời cơ này và nó càng như thêm bình tĩnh, khôn ngoan để né tránh.

Cuộc trốn tìm kỳ lạ ấy cứ thế diễn ra tới hơn một giờ sau thì bỗng nhiên các chiến sĩ quan sát cùng thốt lên một loạt:

-   Không thấy đèn tàu địch nữa!

Thuận, sau khi đi khắp các vị trí súng, các vị trí máy để động viên các chiến sĩ sẵn sàng quyết tử, đã trở lại ca-bin đứng sát bên Vũ. Không nom thật rõ  mặt nhau, chỉ thấy một hình khối chuyển động. Chỉ nghe những khẩu lệnh quyết liệt. Chỉ thấy hơi thở dồn dập.

-   Không còn thấy tàu địch nữa!

Các chiến sĩ quan sát một lần nữa nhắc lại. Lúc đó như không thể kìm nổi mình, Thuận bỗng ôm choàng lấy Vũ, siết chặt và nghẹn ngào.

Đó cũng là giây phút mà ở "nhà", các đài viễn thông thám sát đã bắt được những sự phàn nàn và báo cáo của ba chiếc tuần tiễu Mỹ: "Trời tối quá! Mất mục tiêu! Không  rõ chiếc tàu bị nghi ngờ ấy đi đâu mất. Có nhiều khả năng nó đã rẽ về phía Phi-líp- pin".

Đó cũng là lúc mà về sau này, Thuận hỏi: "Cậu nghĩ gì khi ấy?", Vũ đã trả lời: "Tôi  đã nhớ lại cái lần mà một tiểu đoàn của trung đoàn Thủ đô bị cả một GM (4)của bọn Pháp vây hãm ở Hữu Bằng. Nhưng cuối cùng cả tiểu đoàn vẫn thoát ra được...".
 


 

(4)   Binh đoàn cơ động.

-   Ta tiếp tục chuyển hướng vào bờ chứ anh?

-   Chuyển hướng!

-   Nhưng vẫn phải cảnh giác. Chưa hết bất trắc đâu ông!
-   Rõ!

Thế là đã qua được vùng viễn duyên.

Con tàu bắt đầu vào gần bờ hơn: vùng cận duyên. Biển vẫn tối mù. Sóng vẫn lớn.
Thuận gọi Vận lên đảm nhiệm vị trí thuyền phó hàng hải để giúp thêm cho Vũ. Vận bước lên ca-bin chỉ huy, anh cảm động gần như muốn khóc:
-   Anh Vũ, anh Thuận! Tôi biết nói thế nào đây? Tôi xin hứa...

-   Thôi, ra tay luôn đi ông! - Thuận nói vui. Chiếc đèn pin bịt vải xanh lướt nhanh trên tấm hải đồ.
Chỉ mấy phút sau Vận đã phát hiện được cho Vũ: tàu đi lệch trái. Anh yêu cầu chỉnh lại hướng đi lên phía đông-bắc.

-   Ca-nô cao tốc! - Chiến sĩ quan sát bỗng lại báo cáo.

Một vệt sáng như một con rắn nước trườn loang loáng hết sức nhanh ở phía trước. Vũ kéo tay chuông, cho tàu chạy chậm lại.
-   Lại một ca-nô cao tốc nữa! Con tàu chậm hơn một chút nữa.
Hai vệt sáng lướt rất nhanh, rồi bỗng quành trở lại. Nhưng chúng vòng có vẻ rộng.
 

Con tàu ta lập tức tăng tốc. Rồi trong khoảnh khắc nó đã lọt hẳn vào phía trong: vùng các tàu, thuyền ngư dân lác đác có ánh đèn.

-   Cho lên đèn hành trình! - Vũ ra lệnh.

Thế là con "tàu cá" đã biến rất nhanh vào đám tàu thuyền chài lưới.

Nhưng cũng lạ, càng vào gần bờ, tàu thuyền đánh cá của dân lại  thưa thớt dần, rồi  mặt biển trở lại hoang vắng một cách đáng sợ.

-   Tắt đèn hành trình!

Con tàu lại như rơi vào một vực thẳm. Tiếp tục vào gần bờ hơn nữa.
Ông Thiêm đứng ở mũi tàu, bỗng cất tiếng nói run run với mấy chiến sĩ chung quanh, rồi chạy vội lại, nói ngược lên ca-bin chỉ huy:

-   Sắp tới rồi! Các đồng chí ơi, tôi... ngửi thấy mùi đất rồi, các đồng chí ơi!

Mọi người, trong giây phút đó, cũng phải bật cười. Nhưng tất cả đều mừng. Bởi ai ai cũng biết ông già này có một linh khiếu đặc biệt: ông ngửi thấy được cả mùi đất liền thật. Năm 1963, tàu vào Bình Định quê  ông, lúc các thủy thủ còn đang hoang mang  vì lạc thì ông bỗng ôm mặt khóc hu hu như đứa trẻ: "Quê tôi đây rồi! Quê tôi đây rồi các đồng chí ơi!". Thật thế, chỉ lát sau đã bắt được đất liền và vào đúng Bình Định.

Lần này cũng vậy, ông Thiêm vừa thốt lên, mọi người đều tin ngay.

Quả nhiên, vừa lúc đó, mọi người bỗng nhìn thấy ở phía trước có những loạt pháo sáng của một đồn địch nào đó bắn lên.

Đất liền!

Tất cả hơn chục con người đều muốn như ông Kha Luân Bố khi xưa, giơ cả hai tay  lên trời mà kêu lên: "Ôi! Hạnh phúc! Hạnh phúc!". Đĩnh voi tự nhiên cứ đái luôn xuống biển, đến nỗi Minh quắt phải ngạc nhiên. Đĩnh voi giải thích: xúc động quá thành ra như thế đấy.

Con tàu tiếp tục rướn tới. Nó bắt đầu chăm chú, nghiêng nghé, quan sát để tìm "Bến"!

Một "Bến" mới. Một cái vũng nhỏ, phía bắc có hai đồn địch, theo trên đã phổ biến. Nhưng chưa một ai đã thật biết rõ nó.

Không phải chỉ ngửi thấy nữa, mà đất liền đã nhìn rõ thấy kia rồi!

Vũ yêu cầu Vận xác định một lần nữa vị trí của tàu.
 

Nó chỉ còn cách bờ hơn năm hải lý, và đã vào đúng hướng của "Bến" đã quy định

Theo "ở nhà" phổ biến sẽ có một con thuyền nhỏ đậu ở ngoài biển để đón tàu. Nhưng quan sát mãi, không thấy một cái gì hết. Sự hiệp đồng không ăn khớp chăng? Hoặc địch đã phát hiện bắt nó mất rồi, và một cuộc phục kích đang giăng bẫy sẵn trên bờ? Con tàu chạy lên. Rồi lại chạy xuống. Vẫn hoàn toàn hoang vắng.

Đến lúc đó Thuận phải lên tiếng:

-   Làm thế nào bây giờ ông Vũ? Cẩn thận! Nhưng khẩn trương kẻo sáng mất! Vũ đáp nhỏ:
-   Để cho người vào thử tìm xem!

-   Ai vào bây giờ?

-   Tân và Đĩnh voi!

Thế là chỉ trong giây lát sau, một cảnh tượng cũng ít thấy đã diễn ra trong đêm biển: con tàu chạy tiến 1, như lướt đi, rất êm ái, không một tiếng động. Trên boong, một cuộc tiễn đưa rất chớp nhoáng. Thuận siết chặt tay từng chiến sĩ. Họ đều mình trần, lưng khoác tiểu liên. Thuận xúc động:

-   Các đồng chí cố nhé! Có gì, chúng tôi sẽ bắn yểm hộ. Tân và Đĩnh voi cùng gật đầu, khảng khái:
-   Chính trị viên cứ yên tâm! Gần một giờ sau.
Tân, Đĩnh cùng trở lại. Họ chỉ còn biết lắc đầu. Vũ quyết định rất nhanh:
-   Vậy chuyển dịch xuống phía nam, tìm mũi Xanh, mau!

-   Sao lại chuyển xuống mũi Xanh? - Thuận ngạc nhiên.

-   Nơi này, nghe nói thường nhiều ngư dân! Hãy tới đó xem sao! Mũi Xanh.
Quả nhiên có một con thuyền. Nhưng là thuyền neo. Thuyền dân hay thuyền liên lạc của ta đón ở đó?

Thuận lại nhìn Vũ.
 

Vũ bỗng phác một cử chỉ quả quyết:

-   Ông Vận! Lấy bộ đồ ngụy mặc vào. Mau lên! Tướng ông đóng thiếu úy ác ôn được đấy!

Bao giờ cũng vậy, Vận hiểu ý Vũ rất nhanh.

Lát sau một thiếu úy hải quân ngụy đã đứng chống tay vào hông, đứng nghênh ngang ở mũi tàu.

Con tàu tiến sát chiếc thuyền. Những người trong thuyền đã trỗi dậy. Họ bật đèn. Thoáng nom thấy một ông già, một thanh niên, một cô gái. Vẻ mặt người nào cũng  hết sức hốt hoảng.

"Thiếu úy nguỵ" cất tiếng hách dịch (giọng Nam của anh lơ lớ, chẳng ra Sài Gòn,  cũng chẳng ra Phan Thiết):

-   Ê, ông già! Tàu bọn choa tìm vô Vũng Hào, có việc gấp. Nhưng chưa rõ địa hình ra sao, ông dẫn vô nghe!

Ông già lắp bắp:

-   Dạ! Dạ! Xin dẫn ngay các thầy vô!

-   Cạn không?

-   Dạ, không, thầy!

-   Cạn, tôi bắn bỏ đó ông già!

-   Dạ! Dạ! Nhưng...

-   Nhưng sao?

-   Vùng này không yên lắm. Nhiều khi có Việt cộng họ tới đó...
Logged
trachvandung
Cựu chiến binh
*
Bài viết: 747



« Trả lời #12 vào lúc: 27 Tháng Mười, 2021, 07:46:39 am »

Viên "thiếu úy nguỵ" cười lớn:
-   Thì chính việc đó mà biệt kích của thủy quân lục chiến mới tới đây chớ. Tốt! Dẫn  vô nghe! Cho ông già và cả lũ con cái ông lên tàu luôn!

Khi ông già và người con trai, người con dâu lên tàu, họ cùng như ngỡ ngàng:

-   Trời! Sao như...

-   Sao ông già?

-   Sao như... không phải bên Quốc gia?
 

-   Thì quốc gì ông? Ông cứ đưa bọn tôi vô trót lọt, sẽ phân minh hắc bạch, hạ hồi phân giải sau nghe, ông!

Con tàu đã vào gần bờ. Đã nom rõ không phải những dãy núi mà cả những ngọn rừng ở trong Vũng.

Đĩnh voi lại đi đái liên tục.

Rồi đã nom rõ một hình vòng cung. Vũng nhỏ nhưng khá kín đáo. Đột nhiên thấy có tiếng súng nhỏ nổ từ phía bờ. Đạn bay chíu chíu xung quanh tàu.

-   Trời! Mấy ông Việt cộng rồi đó! - Ông già cuống lên. Vũ hỏi:
-   Sao ông biết? Lỡ lính Quốc gia thì sao?

-   Không! Tôi biết lính ở đồn 1, đồn 2, đêm, đâu họ có dám mò tới Vũng Hào! Vũng này từ năm, sáu tháng nay Việt cộng làm chủ mà. Nghe nói cố vấn Mỹ cự nự ông tướng vùng dữ lắm về chuyện này.

-   Vậy, tiến! Sanh, đánh tín hiệu lên!

Một ngọn đèn đỏ trên nóc tàu chớp liền ba cái, bẵng đi ba giây, lại chớp liền ba cái nữa. Cứ như thế

ba lần.

Tiếng súng trên bờ đột nhiên im bặt. Rồi bỗng thấy bùng lên một ngọn lửa như một ngọn đuốc.

Tất cả mười mấy con người trên tàu cùng nhảy lên, thét lên một loạt:

-   Đây rồi!

Vận hét to nhất:

-   Đây rồi! Thắng rồi! Thắng rồi! Các đồng chí ơi!

Một lần nữa, Thuận ôm chầm lấy Vũ. Và lần đầu tiên, Vũ thấy con người  gan góc,  kín đáo ấy chảy nước mắt:

-   Thắng rồi! Thắng rồi các đồng chí ơi!

Đã nhìn thấy mấy con thuyền nhỏ lao ra như bay.

-   Thắng rồi!

Trong lúc cả con tàu vui như điên thì riêng cha con ông già ngơ ngác:
 

-   Ủa, thì ra mấy ông là...

-   Phải rồi! Việt cộng chứ ai đâu, bác!

-   "Chèng đéc" ơi! "Gủy thần" ơi! "Dậy" mà không nói từ đầu. Làm cha con tui hết hồn, muốn chết luôn thôi!...

Chương 6

THÔNG TẤN XÃ GIẢI PHÓNG (Ngày 20 tháng 8 năm 1965).

... Sau cuộc càn quét ở Bình Giang, Bình Sa thuộc quận Bình Sơn, tỉnh Quảng Ngãi trong tháng 7 vừa qua, đế quốc Mỹ bắt đầu mở một cuộc hành quân lớn ngày  18  tháng 8 năm 1965 vào xã Vạn Tường cách Bình Giang chừng tám ki-lô-mét. Đây là một xã vùng ven biển của huyện Bình Sơn - Quảng Ngãi có đồi thấp và rừng  rậm  nằm ở đông - nam thị trấn Bình Sơn, cách Đà Nẵng bảy mươi ki-lô-mét và căn cứ An Tân (Chu Lai) mười bốn ki-lô-mét về phía Nam. Chúng đặt tên cho cuộc càn lớn đầu tiên này kể từ khi quân Mỹ đặt chân lên miền Nam Việt Nam, là cuộc hành quân  "Ánh Sao".

Đế quốc Mỹ đã tung vào cuộc càn quét này một lực lượng cả hải, lục không quân gần tám nghìn tên mà nòng cốt là lữ đoàn lính thủy đánh bộ Mỹ. Chúng đã dùng máy bay lên thẳng tổ chức rất nhiều lượt chở lính thủy đánh bộ đổ bộ thẳng đứng xuống một địa điểm ở phía tây Vạn Tường. Đồng thời chúng cũng đã huy động nhiều quân Mỹ thuộc "lực lượng đổ bộ đặc biệt" xuất phát từ hạm đội 7 được chở vào đổ bộ lên bãi biển phía đông Vạn Tường. Kế hoạch của Mỹ là đổ quân lên thành hai cánh khép lại, trong khi đó lực lượng trên bộ thọc sâu vào Vạn Tường. Theo Mỹ khoe, chúng đã dùng tất cả lực lượng hải quân và không quân ở khu vực trên để bắn phá yểm trợ cho cuộc hành quân này.

Cuộc hành quân "Ánh Sao" bắt đầu từ sáng sớm ngày 18 tháng 8 năm 1965 - Tướng Oét-mô-len đã quyết đánh một trận mà người Mỹ tin là bất ngờ vào các lực lượng vũ trang Giải phóng, và tin chắc là sẽ hoàn toàn thắng lợi. Oét-mô-len muốn giành một chiến thắng có tiếng vang để bù vào những thất thiệt trong các trận càn tháng 7 ở   Bình Giang, Bình Sa và để chào đón tên đại sứ Mỹ Ca-bốt Lốt sắp tới Sài Gòn.

Nhưng cuộc ra quân rầm rộ đầu tiên này của quân viễn chinh Mỹ đã thất bại nặng nề.

Cũng như ở Bình Giang, Bình Sa và các xã xung quanh Đà Nẵng, Chu Lai, quân và dân Vạn Tường đã DỰ ĐOÁN TRƯỚC được cuộc hành quân này, và ĐÃ CÓ CHUẨN BỊ SẴN SÀNG ĐẦY ĐỦ để giăng một lưới thép, chụp lên đầu giặc Mỹ.  Cho nên khi quân viễn chinh Mỹ vừa ồ ạt kéo tới bằng máy bay, tàu chiến, chưa kịp hành động gì đã bị ăn đòn tới tấp.

Cả cánh quân Mỹ đổ bộ thẳng đứng bằng máy bay lên thẳng lẫn cánh quân đổ bộ  bằng đường biển đều bị chặn đánh dữ dội ngay từ những giây phút đầu tiên. Theo hãng AP (Mỹ) ngày 18 tháng 8 năm 1965, ban chỉ huy lính thủy đánh bộ Mỹ trong
 

cuộc hành quân này đã phải thú nhận: "Chúng tôi bị trúng nhiều  phát đạn ngay khi còn ở trên các trực thăng, và đã bị thương vong không ít khi đặt chân lên đất liền...".

Thuật lại trận đổ quân thất bại của lính thủy đánh bộ Mỹ, hãng AP còn cho biết: "Hai đơn vị đổ quân bằng máy bay lên thẳng đã bị hỏa lực dày đặc của súng  cối và súng bắn thẳng các cỡ của Việt cộng bắn rất mạnh". Bộ chỉ huy cuộc hành quân càn quét Mỹ đã phải cấp tốc gọi máy bay tới oanh tạc dữ dội để yểm trợ. Song, lại như hãng  AP cho biết: "... Những phi công đã buộc phải ném bom xuống chỉ cách những đơn vị lính thủy đánh bộ khoảng một trăm mét...".

Mặc cho địch ném bom và bắn đại bác từ tàu chiến lên yểm trợ cho các cánh quân đổ bộ rất dữ, quân và dân VẠN TƯỜNG vẫn bình tĩnh ẩn nấp trong công sự, đợi  cho địch tới đúng tầm mới nổ súng. Từ trên một ngọn đồi, quân Giải phóng đã  nã súng  cối mãnh liệt vào đội hình quân Mỹ. Sau nhiều đợt gọi máy bay tới oanh kích, bọn  lính thủy đánh bộ Mỹ định xung phong lên đồi nhưng "... Hình như Việt cộng đã  ngắm sẵn nên đã nã cối rất trúng, và đại liên bắn dồn dập. Lính thủy đánh bộ Mỹ đã   bị chặn lại dưới chân đồi...".

Cuộc hành quân rầm rộ ấy đã buộc phải kết thúc ngay buổi chiều hôm đó. Theo con  số của  Bộ Chỉ huy Mỹ tiết lộ: mười ba máy bay lên thẳng đã bị bắn rơi hoặc bị hư  hại. Hai xe tăng và một xe chống tăng An-tốt đã bị phá hủy hoàn toàn. Quân số cả  chết và bị thương: hơn ba trăm...".

***

Trời đã tối, Hà Nội lên đèn

-   Lý! Mình đến nhà cậu mình, tối về. Nếu có ai hỏi nói giúp nhé!

Duyên liếc nhìn mình trong tấm gương treo trên tường một lần nữa, rồi cầm chiếc túi xách tay, thoăn thoắt bước ra khỏi phòng. Mùi nước hoa thoang thoảng bay. Chiếc sơ-mi va-li-de màu rực rỡ. Mái tóc mới được uốn điện lại, theo một mốt  mới đúng thời trang, láng bóng, kiểu cách.

Lý nhìn theo bạn. Từ ngày ông Kinh Bắc rời khỏi cơ quan này, quả là những xì xầm không hay về Duyên đã tắt dần. Duyên cũng đã chú ý hơn trong cách cư xử trong cơ quan, bớt những chuyện vờn giỡn các cán bộ cả trẻ lẫn già.

Tuy nhiên, dần dần Lý lại nhận thấy một hiện tượng khác trong sinh hoạt của Duyên: không giao thiệp nhiều với anh chị em trong cơ quan, nhưng dường như cô đã mở  rộng hơn mối quan hệ với bạn bè bên ngoài. Dạo này Duyên hay đi chơi, đi vắng luôn luôn. Lý không tò mò và cũng chẳng có thì giờ để tìm hiểu xem Duyên chơi với ai và ở đâu. Chỉ biết Duyên đi nhiều và ăn diện cũng rõ hơn trước. Ăn diện, lẽ cố nhiên Duyên luôn tỏ ra cần tiền và thiếu tiền. Duyên đã phải vay Lý mấy lần, chưa trả được.

Lý không tiếc tiền đối với bạn. Nhưng một mối lo âm thầm nhen mãi lên trong lòng cô. Đã không ít lần, Lý thầm tự hỏi: Vậy thực chất Duyên bây giờ là người ra sao?
 

Tuy vậy, Lý vẫn quan tâm nhiều nhất là mối tình của Duyên đối với Vũ. Bảo rằng Duyên vẫn yêu anh có lẽ vẫn cứ đúng. Mà nói là Duyên chẳng còn yêu anh thực sự nồng nàn như cô vẫn hằng tuyên bố, có lẽ cũng không sai. Bởi, một mặt Duyên vẫn viết thư gửi đi cho Vũ khá đều đặn (phần lớn đều cho Lý xem) với những lời lẽ vẫn đẹp đẽ, thiết tha, nhưng mặt khác rõ ràng đầu óc Duyên dường như phần lớn chỉ còn đặt vào những khao khát, những thú vui tầm thường và lặt vặt: một tấm áo đẹp, một đôi dép tốt, một tối phim hay, một bữa ăn ngon của bè bạn... Tất nhiên, đôi lúc Duyên cũng tỏ ra có khắc khoải muốn làm được một cái gì đó, cống hiến một cái gì đó... Nhưng dường như bao nghị lực, bao đam mê, cô đã dồn hết vào những thú vui và   ham muốn nọ, cuối cùng nỗi khắc khoải chỉ còn như một điều tự huyễn hoặc.

Vậy biết nói sao đây với Duyên? Mà có lúc nào hai đứa được ngồi riêng với nhau quá nửa giờ đồng hồ? Lẽ cố nhiên Duyên vẫn luôn luôn tỏ ra yêu Lý, thậm chí nhiều khi còn chiều Lý như chiều một người chị, hoặc một đứa em ruột. Nhưng tâm sự thì càng ngày càng ít hơn. Hình như, nếu Lý không lầm, dạo này Duyên cố tránh những cuộc tâm sự riêng với Lý.

Chỉ có một đêm gần đây, hai đứa mới nằm với nhau được một lúc và Duyên đã nhắc tới Vũ.

Nhắc rồi khóc. Rồi cười.
Rồi ôm ghì lấy Lý. Tấm thân cô mạnh mẽ, như lửa. Cô rên rỉ: "Lý ơi! Có lẽ mình không thể nào sống... cô đơn mãi thế này được nữa! Mình không thể nào sống  mãi  với những sự đợi chờ như vô vọng". Lý bàng hoàng. Cho tới hôm nay cô vẫn còn như cảm thấy tấm thân mạnh mẽ, bốc lửa ấy siết chặt lấy mình, và những câu nói kỳ quặc đã buột ra trong giây phút thảng thốt ấy vẫn còn vang mãi lên bên tai cô không sao quên.

Duyên lại tiếp tục đi chơi đều đều.

Lý vẫn luôn ở nhà một mình. Mùa đông đã tới. Bầu trời thành phố luôn u ám. Đêm đêm, gió rít ngoài cửa sổ như sóng biển. Đã nhiều lần, Lý bỗng chợt nghĩ tới Vũ. Không hiểu vì sao. Nghĩ tới anh với một nỗi bâng khuâng nhè nhẹ. Con người ấy dù chỉ mới gặp như trong một ánh chớp, nhưng Lý cũng đã cảm nhận thấy được: đây là một con người có một tâm hồn đẹp và bình dị, một tính cách mới mẻ và mãnh liệt. Con người ấy đang có một tình yêu. Nhưng không hiểu anh có thật hạnh phúc hay không? Theo Lý, lẽ ra những người như anh thường được có một tình yêu lớn, vững bền, và hoàn toàn trong sạch. Tình yêu ấy xứng đáng với anh, và giúp anh nhiều trên con đường sự nghiệp, con đường mà anh đã trọn đời hiến dâng, phấn đấu...

Đặc biệt, Lý đã phải hoảng lên với chính mình, trong một buổi chiều nọ, khi Duyên  lại trang điểm để đi chơi, trong đầu Lý bỗng chói lên một ý nghĩ, táo bạo đến lạ lùng: "Nếu mình là Duyên, mình sẽ yêu anh ấy biết bao! Và mình sẽ cố gắng để xứng đáng với anh. Chắc chắn mình sẽ không bao giờ để cho anh bị xúc phạm!". Ý nghĩ ấy đã
 

làm cô vụt đỏ mặt và thầm tự coi như mình đã có lỗi lớn với bạn. Cô vội xua đuổi nó đi, và để an ủi mình, bào chữa cho mình, Lý đã thầm tự giải thích: có lẽ và dẫu sao đó cũng chỉ là một phản ứng tình cảm quá khích, khi Lý không bằng lòng về một cái gì đó gần như một sự lãng quên của Duyên mà cô cảm thấy bất nhẫn...

Duyên đi khỏi nhà được một lúc, có tiếng gõ cửa. Không phải tiếng gõ cửa quen  thuộc của bà "trưởng ban thông tin". Lý xỏ dép chạy ra. Cửa mở. Cô bỗng đứng sững, bàng hoàng. Lưỡi cô như líu lại, mãi sau mới thốt lên được:

-   Trời ơi, anh!

Vũ hiện ra ở khuôn cửa. Đúng là anh. Vẫn gương mặt cháy nắng, vẫn cặp mắt màu xám gan góc, phóng khoáng, tự do.

Lý cuống lên. Cô không biết mình đã nói, đã reo lên những gì nữa. Cô chỉ cảm nhận thấy một nỗi mừng xao xuyến, một niềm vui tràn ngập.

-   Anh ngồi xuống đây! Ôi, em không ngờ anh lại trở về vào lúc này! Chắc anh lại có việc...

Vũ mỉm cười, nhìn Lý. Anh không ngờ Ngọc Lý lại mừng đến thế. Cả gương mặt cô đỏ hồng. Cô nói líu ríu, không câu nào vào với câu nào. Chân tay cô luống cuống, rối rít. Một cái gì như một bóng mây bỗng lướt qua một vùng sa mạc đang nắng cháy. Một cái gì đó như một ngọn lửa bỗng bừng lên trong một chiều đông. Tâm hồn Vũ  dịu lại.

Lần này Vũ được về Hà Nội vì cũng có công việc. Sau chuyến đưa hàng vào Quảng Ngãi phục vụ kịp cho trận Vạn Tường trở về, Thuận và anh đã được Bộ gọi lên báo cáo trực tiếp bằng miệng. Các anh tới Hà Nội từ hôm qua, đã báo cáo xong với đồng chí Tổng Tham mưu trưởng. Chiều nay, đồng chí ấy đã giữ các anh ở lại ăn cơm với gia đình. Cơm nước xong, Thuận xin về Bạch Mai thăm một bạn đồng hương. Vũ rẽ về đây. Chín giờ tối sẽ có người tới đón Vũ, rồi đón Thuận, về Hải Phòng luôn trong đêm.

-   Anh yên trí, anh Vũ ạ! Lần này thì anh không đến nỗi không may như lần trước. Duyên có nhà! Duyên lên ông cậu. Sắp về rồi! Anh chịu khó chờ một chút. Nào, bây giờ anh thích uống gì nào? Để em lấy! Lại "một chút nước đường" nhé! - Lý cười.

Cô vẫn chưa quên cốc nước ngọt mà Vũ yêu cầu lần trước. Bữa nay Vũ đã nhận thấy rõ hơn: tuy không tươi giòn như Duyên, nhưng Lý lại có cái gì mềm dịu, sâu kín, tinh tế, và mới mẻ khác hẳn.

-   Anh Vũ ạ, thôi, lần này anh khỏi phải khó xử nữa. Em đã hiểu tính anh rồi. Em không hỏi vừa qua anh đã đi những đâu, đã làm những gì nữa!

Vũ mỉm cười:

-   Cô nói thế cũng có nghĩa như đã hỏi tôi rồi còn gì! Cô láu lắm.
 

-   Anh Vũ!... - Lý cười ran.

Và cô muốn thốt lên"Quả là rất đáo để, anh Vũ !". Nhưng lại thôi, sợ quá trớn. Rồi cô làm bộ nghiêm, cải chính:

-   Không! Em nói thật đấy! Em có dám hỏi nữa đâu! Em chỉ xin thành thực nói là thấy anh trở lại, em cũng mừng lắm. Còn Duyên thì chắc chắn khỏi phải nói rồi! Bây giờ anh có muốn hỏi gì không? Vâng! Đúng rồi! Bây giờ chỉ có các anh mới có quyền được hỏi, và chúng em ở hậu phương có bổn phận phải trả lời các anh thật đầy đủ.

-   Cô không khách sáo đấy chứ, cô Lý!

Lý lại cười ran, hàm răng thật sáng và đẹp. Lần này thì cô phải nói:

-   Quả là anh rất đáo để! Nhưng anh cẩn thận nhé! Anh rất dễ rơi vào chủ nghĩa hoài nghi đấy, anh Vũ ạ! Anh có hoài nghi ai bao giờ không, anh Vũ!

Vũ lắc đầu

-   Rất ít khi tôi hoài nghi. Tôi luôn luôn tin ở mọi người, mọi chuyện, hoặc ít ra cũng có thể nói là luôn muốn tin. Tôi vừa hỏi cô có khách sáo không, xin hiểu cho chỉ là một câu... vui!

-   Ôi, anh cũng phải giải thích thế nữa kia à?

-   Xin lỗi! Tôi đã quên là đang nói chuyện với... cô. Cả hai lại cùng cất tiếng cười giòn.
Lại có tiếng gõ cửa. Lý biết không phải Duyên. Cô đã thuộc từng bước chân lẫn cách nắm quả đấm sứ xoay xoay để mở của Duyên. Người lạ!

Lý miễn cưỡng đứng dậy. Oanh.
Lý đứng sững. Duyên đã đưa Oanh tới nhà này một lần, cách đây hơn một năm. Dù chỉ mới qua một buổi tiếp xúc, Lý cũng đã hiểu được phần nào cô gái này.

Oanh bước vào phòng. Cô nhìn Vũ, cặp mắt sắc như dao bỗng sáng lên:

-   À, anh Vũ! Anh có phải là anh Vũ không ạ?

Vũ lễ độ đứng dậy gật đầu, mặc dầu chưa biết Oanh là ai.

Với tư cách chủ nhà, Lý bắt buộc phải vắn tắt vài lời giới thiệu hai người mới quen nhau. Oanh có vẻ rất thích thú, reo lên:
 

-   Hay quá! Em đang muốn được gặp anh. Em đã bảo chị Duyên nhiều lần là khi nào anh về, cho em gặp với. Chị ấy cứ hứa đều đều. Thêm nữa gần đây bố em cho biết  ông có một ông bạn ở Bộ tư lệnh hải quân. Ông này nói là có biết anh, khi ông bố em tình cờ nhắc đến mối quan hệ của chị Duyên là cháu ông với anh. Ông ở Bộ tư lệnh hải quân nói anh là một con người... thật tuyệt vời! Có đúng không ạ?

Vũ lắc đầu, phác một cử chỉ phủ nhận.

-   Chị Duyên đi đâu, chị? - Oanh quay lại phía Lý.

Đến lúc ấy Lý mới nhận ra: bất chợt thấy Oanh đến cô đã rất hoảng sợ.

-   Duyên nói là lên bác kia mà! - Lý đáp.

-   Đâu có!

-   Thật mà! Hay là cô Oanh vừa ở một nơi nào tới đây, nên không biết? Oanh vẫn khăng khăng:
-   Đâu có! Tôi vừa ở nhà xuống thẳng đây mà! Tôi đang mong chị ấy đến chết mấy hôm  nay. Chị ấy mượn nóng của tôi hai trăm hôm nọ để vào mậu dịch quốc tế! Bảo  sẽ trả ngay.

Lý hiểu ra rồi: Thì ra những chiếc sơ-mi lụa Nhật và va-li-de Đức mà Duyên  mới  may hôm nọ rồi nhượng lại cho mấy cô bạn ở cơ quan khác, không phải là do "bà mợ mình tặng" mà là do số tiền hai trăm đi vay này!

-   ... Nhưng cứ đợi mãi, giục mãi. Hẹn bán được cái máy ảnh sẽ trả. Nay bán được rồi, cũng vẫn cứ mất hút con mẹ hàng lươn. Tôi thì tôi đang cần tiền quá...

Lý ngắt lời Oanh:

-   Nhưng Duyên đã bán được đâu, cô! Thấy bảo đang nhờ chữa mà!

-   Chữa ở đâu? Bán rồi! Bán cho ông bảo vệ nhà bác Sơn, bạn của bố tôi. Cũng tài  thật! Cái máy ảnh ọc ạch chết tiệt ấy mà chị ấy cũng vẫn cứ bán được ba trăm. Cứ "chú chú cháu cháu" ngọt như mía lùi. Ông lão nhà quê kia thì có biết gì là kỹ thuật! Thấy "cháu" bảo tốt, "chú" cũng ừ tốt.

Lý như chết lặng. Cô đưa mắt nhìn Vũ. Anh cũng đang ngồi như đông cứng lại trong một nỗi kinh ngạc. Nhưng anh kinh ngạc vì ai? Lý thầm tự hỏi. Vì Duyên hay vì cô  gái ăn nói táo tợn, kỳ cục này? Cũng có thể cả hai chăng? Ôi, hãy cút đi! Hãy cút đi! Ma quỷ nào đã đưa cô tới đây vào đúng lúc này, khi người chiến sĩ mới từ nơi xa trở về. Ma quỷ nào đã xui cô tới đây để phá cái giây phút vui này của Lý và cũng rất có  cơ nguy sẽ phá tan luôn cả hạnh phúc của Duyên.
 

-   Thôi được rồi! Cô cứ về đi cô Oanh ạ! Khi nào Duyên trở lại, tôi sẽ nói Duyên lên gặp cô ngay! - Lý cố lấy giọng thật âu yếm, ngọt ngào. Nhưng Oanh bật cười ngất và sỗ sàng hỏi luôn:

-   Chị Lý đuổi khéo tôi đấy hả?

Rồi nhao hẳn người về phía trước, cô gái gầy quắt ấy như bắt đầu ra tay:

-   Nhưng chị đuổi, tôi cũng không đi ngay đâu! Chả mấy khi được gặp anh Vũ, chị phải cho tôi nói chuyện với "anh rể tương lai" của tôi một tí đã chứ!

Có thể hiểu Oanh sẽ nói những gì, Lý hoảng lên:

-   Thôi, tôi xin cô, cô Oanh! Cô hãy để cho anh Vũ nghỉ đã. Anh mới về, còn mệt!

-   Ô hay! Việc gì mà chị lại có vẻ sợ hãi như thế nhỉ? Tôi nói chuyện với anh Vũ một  tí thì đã sao nào? Chị sợ tôi lại tiết lộ những chuyện không hay về chị Duyên với anh ấy phải không? Chị nhân đạo và cao thượng

quá nhỉ!

-   Trời! Cô Oanh! Tôi đã nói là tôi xin cô mà! Tôi nhắc lại: anh Vũ mới ở đơn vị về. Anh không muốn nghe, và chắc anh cũng không hiểu chuyện gì hết. Chúng ta đừng làm cho anh ấy phải phiền lòng!...

Oanh bẻ luôn:

-   Sao mà anh ấy lại phiền lòng được nhỉ? Rồi quay hẳn sang phía Vũ:
-   Anh Vũ, anh có phiền lòng không anh? Vũ lắc đầu, cố giữ bình tĩnh:
-   Tôi chưa hiểu chuyện gì cả. Nói chung tôi có thể nghe tất cả mọi chuyện miễn là nghiêm chỉnh. Tuy nhiên cũng có điều là tôi không bao giờ muốn nói về những người vắng mặt.

-   À! Em hiểu anh muốn nói gì rồi. Nhưng em đâu có ý định bôi bác sau lưng chị Duyên. Bởi, có lần em cũng đã nói hết mọi chuyện với chính chị ấy.

Vũ bướng bỉnh:

-   Vậy nói với Duyên rồi, hà tất cô phải nhắc lại với tôi nữa. Bây giờ ta nói chuyện khác, được không cô Oanh?

Oanh lại cười ngất:
 

-   Hay lắm! Anh bảo vệ người yêu của anh kiên quyết và tế nhị đấy! Nhưng như vậy, em càng có thể hiểu được và càng tin chắc điều mà em đã phỏng đoán về anh  từ lâu  là đúng, đúng hoàn toàn!

-   Cô phỏng đoán sao?

-   Em đã nghĩ là anh yêu chị Duyên hết sức chân thành...

-   Vâng, điều đó hoàn toàn không sai;

-   ... Em cũng tin là tình yêu của anh là một tình yêu trong sáng, tuyệt đối...

-   Cô cứ nói tiếp đi!

-   Nhưng em cũng nghĩ: đó là một tình yêu đã không hề được bù đắp lại xứng đáng. Mặt Vũ đỏ lên:
-   Sao vậy? Vì sao cô lại có thể... nghĩ như vậy?

-   Anh nổi giận đấy ư anh Vũ? Nếu vậy thôi, em không nói nữa! Vũ lại cố nén mọi nỗi xúc động:
-   Có lẽ giữa Duyên và cô đã có điều gì xảy ra phải không, cô Oanh?

-   Không! Một trăm lần không! À, mà nhìn vào mắt anh em thấy anh lại nói là "có". Phải không? Anh muốn nói tới sự đố kỵ phải không? Đố kỵ về nhan sắc, đố kỵ về hạnh phúc, về tình yêu nữa phải không? Đúng là đàn bà chúng em nói chung hay có cái tật rất xấu ấy. Cứ cho là có đi! Nhưng không phải điều đó dễ dàng có thể đưa em tới chỗ bôi bác bậy bạ.

-   Vậy cô muốn nói gì, cô Oanh?

-   Em muốn chống lại sự giả dối, muốn vạch trần những thói hư tật xấu... Lý lại ngắt lời Oanh, van vỉ:
-   Cô Oanh! Thôi, nói sang chuyện khác đi, kìa! Oanh vẫn lắc đầu:
-   Quả là chị không có bản lĩnh như anh Vũ. Anh Vũ ạ! Như ông ở Bộ tư lệnh hải   quân đã cho biết: anh là một con người đáng quý, đáng trọng. Vậy anh cần phải được bảo vệ, cần phải được hưởng một tình yêu chân chính theo đúng nghĩa của nó...

-   Nhưng theo cô thế nào là tình yêu chân chính, thiêng liêng? - Vũ trở lại bình tĩnh hơn. Anh đã chấp nhận "vào trận".
 

Oanh nhìn thẳng vào đôi mắt anh, cười thoải mái:

-   Anh phải tìm đâu xa! Anh cứ tự xem chính những tình cảm của anh đối với chị Duyên là đủ!

-   Cô đã quá khen tôi nhiều điều. Nhưng thú thật tôi tự thấy tôi chưa hề xứng đáng với tình yêu của Duyên.

Đôi mắt Oanh bỗng như nhọn hoắt lại:

-   Trời! Đã vậy, em phải nói! Anh không muốn nghe, em cũng cứ nói, cho dù anh có bịt tai lại, cho dù chị Lý có đuổi em thẳng cánh! Em phải nói rằng: anh chưa hề nhận được một tình yêu nào hết cho đúng là một tình yêu!

Tới lúc đó Vũ càng nhận thấy mình đã vào trận thực sự. Đạn lửa như đã réo tít mù chung quanh con tàu. Anh hiểu mình càng phải bình tĩnh và tỉnh táo hơn nữa, chủ động hơn nữa:

-   Cô không đùa đấy chứ, cô Oanh? Tôi muốn nhắc lại, cô Oanh ạ, tôi sẵn sàng nghe  tất cả mọi chuyện nhưng cần là những chuyện nghiêm chỉnh.

-   Thì em nói hoàn toàn nghiêm chỉnh chứ sao! Anh Vũ ạ! Anh chưa hề nhận được  một tình yêu nào hết! Anh mới chỉ được thích! Xin lỗi anh, tựa như người ta thích  một món đồ trang sức lạ!

-   Tôi e cô lầm rồi! - Mặt Vũ lại không khỏi thoắt nóng bừng.

-   Không! Chính anh đã lầm! - Oanh thản nhiên.

-   Tôi có thể đưa cô xem tất cả thư từ của Duyên gửi cho tôi. - Vũ cố kháng cự lại. Oanh cười nửa miệng:
-   Để chứng minh là chị ấy đã yêu anh thực sự, tha thiết chứ gì? Không đâu! Tất nhiên em cũng không bảo đó là những lá thư lừa bịp. Không đến nỗi thế! Chị Duyên cũng không đến nỗi phải lấy nước lã vẩy lên lá thư cho nhòe, để giả làm nước mắt. Chị ấy khóc thật đấy! Em biết chứ!

Vũ cướp luôn lời Oanh:

-   Cô cũng đồng ý thế chứ? Nếu vậy không thật yêu tôi, việc gì Duyên phải... mất thì giờ, phải khóc trên những lá thư mà chính cô cũng thừa nhận là không lừa dối?

-   Quá dễ hiểu! Xin lỗi, anh thông minh vậy mà còn phải hỏi ư?

-   Vậy cô còn muốn nói sao nữa, cô Oanh?
 

-   Anh Vũ ạ, thôi được, đã vậy để em nói rõ: chị ấy đã gặp anh. Anh trẻ. Anh đẹp. Anh là quân đội. Một hình tượng đã và đang được cả xã hội ngưỡng mộ! Chị ấy lại đang trong một thời điểm bồng bột, đầy mơ mộng sau khi vừa tốt nghiệp ở nhà trường,  được đưa ngay về một cơ quan trung ương, lại vừa trải qua những ngày hè tuyệt đẹp   ở bờ biển... Chính vì vậy cái gọi là tình yêu ấy đã tới rất dễ dàng, rất nhanh chóng. Nhưng thật ra, đó mới chỉ là một sự thích thú. Thích thú khác với tình yêu xa quá...

-   Không! Tôi đã nói rồi: Duyên rất yêu tôi! - Vũ ngắt lại.
Logged
trachvandung
Cựu chiến binh
*
Bài viết: 747



« Trả lời #13 vào lúc: 27 Tháng Mười, 2021, 07:47:32 am »

-   ... Đó chỉ là một sự huyễn hoặc tự thân! Chị ấy thuộc loại người khác anh, hoàn toàn khác! Anh thuộc những con người sống trong sáng quá, lương  thiện quá. Các anh được đào luyện trong một môi trường đầy lý tưởng cao cả. Các anh sống thật tốt đẹp. Nhưng các anh cũng ít hiểu xã hội với những con người muôn mặt chung quanh. Các anh luôn nhìn đời, nhìn con người bằng những con mắt tuyệt đối. Tuyệt đối tin yêu, tuyệt đối chân thành. Nhưng có lẽ cũng tuyệt đối đơn giản. Hoặc ít ra cũng là khá đơn giản. Chính vì thế mà em cần phải làm cho anh hiểu  rõ hơn về con người mà anh  đang dành tất cả tình yêu, dành tất cả niềm tin tưởng, nói tóm lại: sẵn sàng dành cả cuộc đời anh...

-   Tôi không biết nên cám ơn hay căm giận cô đây! Một tình yêu không phải là tình yêu! Lạ đấy! Một sự giả dối trong một sự thành thực, lạ đấy!

-   Vâng! Lạ chứ sao! Nhưng đó lại là sự thật! Theo em, chị Duyên là người chưa thực sự yêu ai hơn... yêu chính chị ấy.

-   Cô Oanh, tôi yêu cầu cô chấm dứt đi thôi! - Lý không chịu nổi nữa, nói như la lên.

-   Chị không nghe nổi nữa à? Thế còn anh? Vũ lắc đầu:
-   Sấm sét tôi cũng vẫn có thể chịu đựng nổi. Nhưng tôi xin nói với cô một điều: tôi vẫn tin là tôi không nhầm! Tôi vẫn tin là tình yêu của tôi và Duyên là có thực, là vô cùng tốt đẹp!

Oanh cười:

-   Anh có lẽ không phải người bảo thủ. Nhưng rõ ràng anh là người thiên lệch, chỉ vì anh đã quá tin yêu. Nhưng, cái đó cũng nói thêm sự trong sáng cũng như cả lòng tự  tin của anh nữa. Không sao! Em chỉ lo rồi đây anh sẽ gặp toàn bi kịch.

-   Không! Đối với tôi cuộc đời này không bao giờ có bi kịch, nhưng khó khăn thì có thể có!

Oanh bật cười to:

-   Đúng là ngôn ngữ của một chiến sĩ.
 

Một lần nữa, Lý như muốn đứng bật dậy:

-   Cô Oanh! Tôi yêu cầu cô không nên có thái độ... như thế đối với anh!

-   Ô hay, chị Lý! Tôi có dám nói bậy điều gì đâu! Tôi nói rất thành thật mà. Chị Lý ạ, thôi, đang đà nói thật, xin cứ cho phép tôi nói điều nữa nhé. Theo tôi, người phù hợp với anh Vũ nếu là chị, vâng, là chị, có lẽ đúng hơn chị Duyên tôi!

-   Trời! Cô Oanh! - Lý vụt đỏ bừng mặt và như run lên, trong khi đó Vũ cũng tròn  mắt, ngồi ngẩn.

Oanh đứng dậy, tươi cười, đầy tự tin và đắc thắng. Cô chào Vũ, chào Lý rồi bước nhanh ra cửa, như không cần phải tranh luận thêm điều gì nữa.

Oanh đã ra khỏi phòng được tới năm sáu phút mà cả Lý, cả Vũ vẫn còn ngồi lặng. Lát sau, Vũ mới lắc đầu, cất tiếng:

-   Một cô gái kỳ quặc! Tôi chưa hề gặp.

Lý cũng chưa hết sững sờ, bối rối và ngượng ngùng, mặc dầu trong nơi sâu thẳm của lòng cô, một cái gì đó lại đang bừng bừng lên như men say.

-   Anh hãy... tha thứ cho cô ấy!

-   Không! Tôi không muốn nói cô ấy là một con người xấu. Nhưng kỳ quặc. Quả là kỳ quặc.

-   Anh đừng tin ở những lời nói kinh khủng của cô ấy! - Lý vẫn còn như run lên trong nỗi xúc động về những chuyện quá bất ngờ của Oanh đem tới, nói ra.

Vũ cúi đầu ngẫm nghĩ một lúc rồi ngẩng lên. Anh nhìn thẳng cặp mắt Lý. Lần đầu, anh nhìn Lý rất lâu bằng cặp mắt bừng sáng, nghiêm trang hết sức:

-   Vâng! Tôi không tin cô ấy. Tuy vậy, cô Lý ạ, tôi muốn được hỏi cô, bởi vì... thú  thật: tôi tin cô! Cô hãy nói cho tôi biết đi: sự thật là... thế nào đây?

Lý như lên một cơn sốt. Toàn thân cô nóng bừng, đôi môi cô run lên. Ôi biết nói sao? Biết nói sao đối với anh? Ôi đôi mắt của anh... Không có thể nào giấu nổi anh nữa sao? Và cũng nỡ nào dối lừa anh mãi? Nhưng...

Trong giây phút Lý đang bối rối, chưa biết trả lời Vũ thế nào, thì có tiếng giày bước nhanh ngoài hành lang, rồi lại có tiếng gõ cửa.

Thuận tươi cười bước vào. Anh vồn vã, và thân mật:

-   Chào chị Duyên! Chà, lần đầu tiên, chúng tôi được gặp chị đấy!
 

Lý thở trút. Cô đã được cứu thoát khỏi giây phút khó khăn nhất. Cô vội vã xua tay.  Vũ bật cười. Anh giới thiệu lại. Thuận đứng ngẩn, xấu hổ:

-   Chết! Vậy xin lỗi cô Lý nhé! Tôi lầm. Xin lỗi! Rồi quay sang phía Vũ, anh phân vân:
-   Đã tới giờ rồi! Các đồng chí ấy đang chờ cả  ở ngoài cổng. Mà cô Duyên thì vẫn chưa về. Vậy bây giờ anh tính sao đây? Nhưng nếu cần, thì... để tôi ra mời các đồng chí ấy vào đây, uống nước, đợi một lúc nữa cũng được.

Đồng hồ đã chỉ hai mươi giờ ba mươi bảy phút.

Vũ mím đôi môi lại, suy nghĩ. Trong khi ấy Lý đứng như trời trồng. Cô không hiểu nên khuyên Vũ nán lại chờ Duyên hay giục anh đi luôn. Lý biết: Duyên không bao  giờ đúng hẹn. Đã đi chơi tối, cô thường đi rất khuya. Có khi cách đêm không về.

Nhưng Vũ đã tự chọn được một quyết định dứt khoát:

-   Thôi! Ta đi, anh Thuận!

Rồi quay lại phía Lý, anh đưa tay ra.

Anh thấy bàn tay cô nóng bừng và như run rẩy.

Cô cũng cảm nhận bàn tay anh siết chặt hơn lần đầu gặp gỡ, thậm chí hơn cả lúc tạm biệt ở sân ga đêm nào! Cô bỗng nghẹn ngào, cố giữ một làn nước mắt.

Vũ bỗng gần như thì thào:

-   Cô Lý ở lại nhé! Nói giùm với Duyên là tôi rất tiếc lại không được gặp!

-   Vâng! Anh đi! Khỏe mạnh! Có dịp anh nhớ gắng lại trở về!...

Hai người chỉ nói với nhau được có vậy. Vũ bước nhanh ra khỏi cửa theo Thuận.

Tiếng còi xe cất lên "rúp - rúp" ngoài cổng. Tiếng còi như gửi lại một lời chào. Tiếng còi tưởng như có bọc giấu cả ở bên trong một nỗi niềm rối bời và đau nhức.

Hai mươi giờ.

Rồi hai mươi mốt giờ. Duyên vẫn chưa về.

Gian phòng trống trải, buồn dễ sợ. Lý bỗng nảy ý muốn đi dạo một mình ngoài   đường vắng. Cô vẫn có thói quen, những hôm nhức đầu, hoặc làm việc căng thẳng, thường hay thả bộ ở ngoài trời.

Cô đi dọc những đường phố lớn, đầy bóng cây loang lổ và dịu mát. Cô lại nhớ buổi  tối hôm nào tiễn đưa anh ra ga. Trái tim cô thoáng se lại. Rồi ý nghĩ dường như bất
 

chợt trong buổi sáng bỗng lại nháng lên trong tâm hồn cô như một ánh chớp: "Ừ nhỉ, nếu mình là Duyên..." và cả câu nói hồi buổi chiều của Oanh: "Người phù hợp với  anh Vũ có lẽ là chị. Vâng là chị, hơn là chị Duyên tôi...". Ôi, câu nói thật lạ lùng nhưng rõ ràng không phải là đùa bỡn!

Cũng trong lúc đó, trên đường về một quân cảng xa, chiếc xe Gát nhỏ của Bộ tư lệnh hải quân vẫn lao đi vun vút, Thuận bỗng như sực nhớ điều gì, nói với đồng chí cán bộ của quân chủng đi cùng:

-   Chết, tôi lẫn Vũ đều quên báo cáo với đồng chí Tổng Tham mưu trưởng cả ý kiến của một hai cán bộ trên cơ quan, mà tiêu biểu là của đồng chí Lệnh. Đồng  chí này  cho tới nay vẫn giữ ý kiến cho quyết định của đồng chí Khôi đưa tàu quay ra đêm đó, để đêm sau vào, cũng có mặt đúng, vì như vậy bảo đảm an toàn hơn. Còn quyết định của đồng chí Vũ đưa tàu vào ngay trong đêm đó dẫu sao cũng là phiêu lưu, mạo   hiểm. Thoát được chỉ là do may rủi nhiều hơn. Ngoài ra, đồng chí Lệnh còn lên án kịch liệt đồng chí Vũ định giở vũ khí ra đe dọa. Đồng chí ấy nói đó là hành động phát xít, không đúng bản chất của quân đội ta...

Đồng chí trung tá đi cùng cười nhẹ nhàng:

-   Thôi! Nhắc làm gì những chuyện vặt ấy! Kể cũng tiếc, ông Lệnh chẳng có cơ hội trực tiếp phụ trách một con tàu để ông ta thi thố tài năng của mình. Nhưng không sao! Ngồi ở bàn giấy ông ấy vẫn cứ phán được như... "Trạng" cơ mà!

Bên ông, Vũ ngồi tựa đầu vào lưng ghế xe, nhắm mắt. Nhưng anh không ngủ. Tâm hồn anh đang bay trở lại với chuyến xe buýt kỳ diệu Bãi Cháy - Hải Phòng cách đây ba năm. Buổi ấy anh về họp ở Tham mưu Bộ tư lệnh. Một cô gái bước lên xe, và "Trời" như "đã xếp đặt" từ trước, cô gái đã chọn chỗ ngồi liền bên cạnh anh. Cô gái  rất đẹp, đẹp đến nỗi vừa trông thấy, Vũ đã phải choáng váng, bàng hoàng. "... Có phải đêm liên hoan vừa rồi ở Hòn Gai, anh chơi ghi-ta trong dàn nhạc của quân cảng phải không ạ?" - Cô gái vui vẻ và tự nhiên bắt chuyện trước - "Vâng! Nhưng tôi chơi có ra gì đâu! Hơn nữa, tôi cũng chỉ có mỗi bài ấy là bài tủ!" - Vũ cười, nói thật. Nhưng có  lẽ cô gái lại cho đó là một cách nói đùa ý nhị, nên rất vui. Cô khen mãi bài độc tấu ghi-ta của anh. Có gì đâu, anh Sơn, anh Hiển đã dạy cho anh từ cái thời thiếu sinh quân ấy. Rồi cô nói sang chuyện ca hát và nhảy múa. Vũ lại góp được vài ý - cũng  vẫn chút kiến thức từ cái thở "Vệ út". Cô tỏ vẻ ngạc nhiên, và thích thú. Cô cho biết  cô vừa tốt nghiệp đại học về rừng nhiệt đới. Rừng, Vũ cũng lại biết. Tám năm kháng chiến, dấu chân đã in khắp Việt Bắc, Tây Bắc, Thượng Lào, Trung Du... anh có lạ gì rừng. Cô gái càng thêm ngạc nhiên và thích thú. Tới Hải Phòng, hai người đã như đôi bạn thân. Cả hai cùng đan tay nhau đi dưới những hàng phượng vĩ thắp lửa suốt dọc bờ sông Lấp. Cả hai cùng đứng ngắm những con tàu biển trên bến Cảng với biết bao ước mơ rực rỡ về Đất nước, về con người... Thế rồi, theo lời mời thiết tha của Duyên, Vũ đã lên Hà Nội. Một lần. Rồi hai lần. Rồi ba lần... Cho đến buổi tối hôm ấy, bên  một gốc cây trong chùa Trấn Quốc, trong cái dịu mát của con hồ, trong niềm rạo rực yêu thương, Vũ lắp bắp, cố gắng thốt lên: "Duyên, Vũ muốn nói với Duyên điều này...". Thì người con gái đã lắc đầu. Cặp mắt say đắm: "Thôi, không cần phải nói,
 

anh!". Rồi cô bỗng ôm ghì lấy cổ anh, kéo xuống. Hai đôi môi cháy bỏng từ từ tìm  gặp nhau, gắn chặt, gắn mãi như hòa liền thành một...

Thế nhưng chỉ sau đó ít lâu, anh đã đột ngột nhận được quyết định về với Đoàn tàu không số. Và cũng từ đó là những cách xa...

Vậy bây giờ giả dụ quả thật có chuyện gì đó không hay đã xảy ra, giả dụ như vậy, thì phải chăng lỗi chẳng phải ở em? Ôi, anh đã yêu em, như yêu cả cuộc đời  này! Tin  em, hơn tin cả bản thân mình... Nhưng dẫu sao, câu chuyện của cô gái kỳ quặc vẫn cứ như một liều thuốc độc. Nó đang dù ít dù nhiều loang ra, ngấm mãi trong cơ thể anh. Anh muốn quằn quại. Anh muốn gào thét. Không! Không có thể tin ở những lời tàn nhẫn ấy cũng như không thể tin bất cứ con người cay độc nào. Nhưng, biết hỏi ai bây giờ? Chỉ có Lý! Phải, chỉ có Lý! Nhưng còn công việc và nhiệm vụ! Biển cả lại gọi anh. Anh phải tiếp tục chuẩn bị để lại ra đi...

-   Cậu ấy ngủ rồi! Hôm nay sao cậu ấy có vẻ mệt?

Thuận thì thầm nói, bàn tay anh khe khẽ, đầy yêu thương, đặt lên bàn tay Vũ.

Chương 7

Sang thu, thời tiết xấu, thay đổi thất thường. Trời biển luôn u ám.

Đã là năm 1966. Chiến trường ngày càng sôi động. Sau khi thua ở Vạn Tường, bọn Mỹ phản ứng dữ hơn; đối lại, ta cũng vững tâm hoạt động ráo riết hơn. Mùa khô lại sắp tới rồi.

Yêu cầu tiếp tế cho chiến trường do đó càng trở nên cấp bách. Đường Trường Sơn đã phát huy tới cao độ tác dụng của mình, nhưng không đủ. Vẫn cần phải có cả con đường trên biển.

Ba con tàu được tung đi cùng một đợt; mỗi chiếc nhổ neo cách nhau một  ngày để  địch khó theo dõi. Chiếc đầu tiên có nhiệm vụ vào tận Cà Mau. Chiếc thứ hai vào Bà Rịa, chiếc thứ ba có mục tiêu tương đối gần hơn; một địa điểm cách Nha Trang hơn mười cây số. Nhưng đấy lại là một nơi đổ hàng khó khăn, phức tạp: bởi không có cửa sông, cửa rạch cho tàu vào ẩn náu. Cũng không có vũng lớn, vũng nhỏ cho tàu vào sát chân núi, để dỡ hàng. Nơi đây chỉ toàn bãi cát thoai thoải... Quân ta quen gọi đây là những "Bến ngang".

Thả hàng ở đó, dễ mất đã đành, tàu còn phải quay ra ngay trong đêm để vượt ra vùng biển quốc tế. Như vậy thủy thủ vừa mệt nhọc, vừa nguy hiểm, vì nếu tính toán thời gian kém, hoặc gặp trục trặc gì đó phải quay ra muộn, trời sáng rõ, rất dễ làm mồi cho địch.

Đoàn trưởng Thước cùng chính ủy sau khi làm việc với ba cơ quan đã trình lên Bộ tư lệnh quân chủng một phương án tác chiến táo bạo và ý đồ sử dụng rất cụ thể từng con tàu.
 

Con tàu thứ ba đã được quyết chọn rất mau lẹ. Đó là con tàu đã hoàn thành tốt nhiệm vụ trong chuyến đi Quảng Ngãi - Vạn Tường. Một quyết định quan trọng cũng đã được gửi xuống con tàu này cùng ngày với nhiệm vụ mới: Bộ tư lệnh hải quân quyết định trao cho trung úy Đoàn Vũ chính thức chức vụ thuyền trưởng (Khôi đã được gọi về Đoàn để trao công tác khác, mặc dầu ông Lệnh đã ráo riết bênh vực anh ta).

Tàu của Vũ đã nhổ neo được một ngày, trong gió cấp bốn, có lúc cấp năm. Trời đầy mây. Gió tốc độ từ 17 tới 21 hải lý một giờ. Sóng tuy chưa phải lớn lắm nhưng cũng đã làm cho con tàu lắc lư, chồm lên hụp xuống liên tục. Những ngọn sóng luôn rạn  vỡ, tung bọt trắng xóa. Mấy cậu lính mới say liệt, nằm lăn lóc như khoai trên ca-bin hoặc dưới buồng thủy thủ.

Thời tiết mỗi lúc một thêm xấu hơn. Thuận hội ý chi ủy, kịp đưa ra một nhận định: "Sóng gió, thời tiết xấu, cũng có lợi cho ta, vì ta tuy vất vả nhưng địch cũng bớt canh phòng, tuần tiễu hơn".

Thuận bám dây cáp, bám lan can, bám các ụ súng, luôn luôn đi tới các vị trí, cổ vũ  anh em chiến sĩ. Với ai anh cũng cố tìm được một câu pha trò vui vẻ. Trừ mấy cậu  lính mới, những chàng thủy thủ cựu trào - "những con sói biển non" - đều nhận thấy rất rõ: trong chuyến đi này Thuận rất vui và hăm hở. Hăm hở và vui vẻ dường như  còn hơn cả chuyến đi Quảng Ngãi. Bởi Thuận vừa nhận được tin của Hội đồng hương cho biết: ông già Thuận đã từ Bến Tre chuyển ra một vùng quê ở ven thành phố Nha Trang vì bị địch o ép quá dữ ở quê nhà hoặc vì một lý  do công tác nào đó, không  được biết rõ. Vũ và các chiến sĩ đều đã đọc được trong đôi mắt của chính trị viên một niềm hy vọng chan chứa và phần nào thơ ngây. Vào bãi ngang là phải ra ngay, làm  sao mà có thể liên lạc được với gia đình! Vậy mà Thuận, xưa nay vẫn luôn tỏ ra một con người giàu đầu óc thực tế, một người cán bộ chính trị luôn tỉnh táo, thận trọng, vẫn phấp phới một niềm hy vọng. Anh đưa cho Vũ và cả thủy thủ xem một tấm ảnh  đã úa vàng, ảnh ông cụ đẻ ra anh. Một người trạc năm mươi, mặt vuông vức, có đôi mắt trầm tĩnh, khắc khổ. Đặc biệt, ông có một sẹo nhỏ và khá dài ở  chéo trên  má phải. Thuận cho biết đó là dấu vết sau một lần ông đã định thí mạng cùng tên hội  đồng xã năm một chín bốn tư, vì tên này tróc thuế và lăng nhục ông. Tám năm chống Pháp ông làm du kích rồi xã đội phó. Khi Thuận tập kết ra Bắc, ông bị bệnh tê thấp khá nặng, phải ở lại. Lúc từ biệt nhau, ông  không có gì cho con ngoài một tấm hình  và mấy đồng bạc rách...

Cho nên, khi được phổ biến nhiệm vụ đi Nha Trang, Thuận gần như reo lên.

Anh em nhận thấy Vũ cũng hăm hở, hào hứng không kém. Bến ngang - Nha Trang - Vùng địch đang "nặng". Nỗi hồi hộp như đã lặn đi trước niềm hăm hở của một con người vốn thích xông pha và dám xông pha. Và phải chăng ý thức trách nhiệm của một sĩ quan vừa được trao trọng trách mới cũng đã tạo thêm cho anh sự hăng say, niềm phấn khởi?

Buổi tàu nhận nhiệm vụ mới và cũng là buổi Vũ nhận được quyết định làm thuyền trưởng, tất cả đoàn thủy thủ đã nhất trí đề nghị cho tàu treo cờ đầy. Đó là nghi lễ  chính thức của hải quân trong những ngày hội lớn. Buổi ấy, ông Thiêm - "Thần giữ
 

của" - cũng đã có một cử chỉ có "ý nghĩa lịch sử". Ông tuyên bố phát cho mỗi người một chai bia và mở "những hai" hộp kẹo! Quả là ông rất vui bụng. Vui vì nhiệm vụ mới đã đành, còn vui vì từ sau chuyến đi Quảng Ngãi trở về an toàn, thắng lợi, ông đã tin ở anh chàng thuyền phó "sặc mùi nhà trường" này hơn trước. Cũng đến bây giờ ông mới tự coi như hết những thắc mắc vẫn ấm ách trong lòng từ lâu. Trước đây, ông hay thắc mắc với Vũ từ những cái lặt vặt, ví dụ: ai cầm đệm va? Ai ra dây, ai cầm  sào? Trước kia ở tàu gỗ cứ tiện ai người nấy làm, khỏi phải lôi thôi. Nay Vũ cứ "vẽ" ra, nào phân công, nào quy định... Thắc mắc đến cả những  việc lớn như lúc vào  luồng, lúc tới "Bến", khi gặp địch, vai trò, vị trí của các thuyền phó thế  nào? Ông  thấy Vũ cứ làm khác tuốt tuồn tuột cái thời tàu gỗ của ông khi trước.

Tàu treo cờ đầy một buổi, rồi nhổ neo, giữa lúc trời vẫn còn đang sầm tối.

Đã là đêm thứ ba. Biển vẫn động. Con tàu đã vượt qua vĩ tuyến 17 xuống sâu, gần ngang Đà Nẵng.

Vượt vĩ tuyến 17, vẫn như mọi khi, Vũ lại thầm gọi tên Duyên. Nhưng anh chợt nhận thấy lần này tiếng gọi của lòng mình sao chẳng sung sướng, cuồng nhiệt như trước.  Có một cái gì đó cấn sạn đã làm cho tiếng gọi của anh gần như đục đi và khắc khoải.

Một con sóng bỗng quật mạnh, bọt trắng tung lên, phủ kín đầu mũi con tàu. Cùng lúc đó chiến sĩ quan sát hô to:
-   Một tàu lạ, mạn trái 35 độ!

Tất cả mọi ý nghĩ, tình cảm của Vũ đang như mớ chỉ rối vụt bay đi theo một cơn gió mạnh.

-   Tăng cường quan sát! - Anh ra lệnh.

Thuyền phó Vận tới bên anh, vẫn bộ quai hàm bạnh đầy râu, vẫn đôi mắt thô lố, vẫn tấm thân gầy nhẳng như bơi trong một chiếc sơ-mi nhàu nát. Rồi thêm Thuận.

-   Tàu lạ đã tới gần! - Chiến sĩ quan sát báo cáo tiếp.

Bằng mắt thường, Vũ đã nhận ra những chấm đèn nhỏ xíu ở phía xa, lúc ẩn lúc hiện sau những ngọn sóng đen sẫm, đang tiếp tục lúc vồng lên, lúc tan biến.

Những chấm đen ấy lớn dần, rồi thoắt nháy lên liên tiếp. Con tàu lạ hỏi: "Ai đó?". Vũ không cho đánh tín hiệu đáp lại.
"Con tàu dầu" vẫn thản nhiên, tiếp tục lầm lũi, quả quyết đè sóng tiến tới. Một lát sau, chiến sĩ quan sát lại cất tiếng hô, nhưng nhỏ hơn, mềm hơn:
-   Tàu lạ đã đi xa!
 

Vận từ đầu vẫn không rời mắt khỏi những chấm đèn ấy. Anh thở trút ra nhè nhẹ.

-   Có lẽ một con tàu Phi-lip-pin thì phải! Nó chuyển hướng vào Đà Nẵng rồi! Bấy giờ Vũ mới cất tiếng:
-   Đúng! Nhìn đèn trên, dưới, có thể biết đó chỉ là một con tàu buôn!

Rồi liếc nhìn đồng hồ: Kim dạ quang chỉ một giờ năm phút sáng. Anh quay lại phía Thuận:

-   Anh xuống ngủ đi! Tôi tin là lúc này mọi việc vẫn bình thường!

Thuận gật đầu. Anh lại nhìn Vũ. Có phải đây là con người tự do, xốc nổi, phiêu lưu như anh đã từng nhận xét không? Một chuyến Quảng Ngãi vừa rồi đã đủ làm sáng tỏ những gì mà anh còn hồ nghi hoặc thắc mắc hay chưa?

Qua ngày thứ năm, thời tiết khá hơn một chút. Tàu đã bớt lắc. Trời đôi lúc đã nhẹ mây. Anh em đã đỡ say hơn.

Mười một giờ. Đến phiên Vận trực chiến chỉ huy con tàu.

Vận xác định lại vị trí: tàu đang cách bờ biển Quảng Ngãi một trăm bốn mươi hải lý. Anh lệnh cho thủy thủ ăn bữa trưa. Biển vẫn động, không nấu cơm được. Mọi người đem lương khô ra. Nhưng chưa một ai kịp ăn lấy một miếng, một chiếc máy bay Mỹ, bay rất thấp, gần như rà trên mặt sóng, từ đằng xa bay thẳng lại, đột ngột  như ma  hiện. Khi chiến sĩ quan sát báo cáo, nó chỉ còn cách tàu khoảng dưới một nghìn mét.

-   Bình tĩnh! - Thuận vội hô to khi mấy cậu lính mới gần như hốt hoảng định nhào xuống khoang tàu.

Chiếc máy bay ào tới. Tiếng động cơ rít lên dữ dội. Nó lướt ngay trên đỉnh đầu mọi người. Nom rõ cả những chữ US NAVY ở hai cánh của nó.

-   Máy bay trinh sát! - Vận thốt lên. Chiếc máy bay vòng lại một lần nữa.
-   Ai cứ ngồi yên chỗ nấy! - Chính trị viên Thuận lại hô to.

Lần này chiếc NAVY vẫn lướt đúng trên đầu mọi người, y như lượt trước.

-   Lộ rồi! - Một cậu lính mới, mặt thoáng xanh đi.

-   Cứ bình tĩnh! - Thuận tiếp.  Chiếc trinh sát vòng lại lần thứ ba.
Lần này thì không riêng mấy cậu lính mới mà tất cả thủy thủ đều thốt lên:
 

-   Đúng là lộ rồi!

Vũ đang ngủ bù trong khoang thủy thủ, thấy ồn ào trỗi dậy. Anh lên đài chỉ huy.

-   Trinh sát hả các anh?

-   Trinh sát! - Vận gật đầu.

-   Vậy cho giảm tốc độ!

-   Có cần cho chuyển hướng không?

-   Không cần! Cứ giữ vững hướng đi, vì ta chưa vào bờ. Mặt khác, dẫu sao, theo tôi, cũng có thể đây chỉ là sự trinh sát bình thường của bọn nó. Chưa có gì để khẳng định là ta đã lộ! Chờ xem tí nữa đã!

Vận thấy Vũ có lý. Anh vững dạ hơn.

Chiếc máy bay Mỹ đã bay xa. Đợi mãi, không thấy nó quay lại nữa. Mười ba giờ, Vũ bỗng hỏi Vận:
-   Anh xem lại phi (vĩ độ) và lan-đa (kinh độ) bao nhiêu, ta đang ở đâu? Tôi cảm thấy có lẽ ta đang đi ngang với Vũng Rô - Phú Yên thì phải.

Vận xem lại hải đồ. Anh bỗng thốt lên, xúc động:

-   À, đúng! Chúng ta đang đi ngang Vũng Rô, cách bờ hơn một trăm hải lý. Vũng Rô.
Hình ảnh Vĩnh lại hiện lên trắng toát trước mặt Vũ. Trái tim anh se lại. Vĩnh hy sinh rồi, không sao cứu chữa nổi. Cỏ chắc đã xanh trên mộ anh!

Vũng Rô!

Con người chúng ta bây giờ là như vậy đấy! Cả một thế hệ lao mình vào lửa. Cả một thế hệ hy sinh nhẹ nhàng biết bao nhiêu và cũng quyết liệt biết bao nhiêu cho cái mà chúng ta vẫn hằng mơ tưởng: Ngày Mai sung  sướng, Ngày Mai tự do, Ngày Mai  hạnh phúc...

Cả một thế hệ đã và đang được xưng tụng là anh hùng. Cả một thế hệ tràn ngập niềm tin yêu và hy vọng...

Ngoảnh mặt về phía đất liền, Vũ im lặng, thầm gửi tới hương hồn những người chiến sĩ hải quân đã nằm lại đó, gửi Vĩnh lời chào đồng chí. Trái tim anh thoắt rung lên nghẹn ngào.

Rồi anh quay lại, nói với Vận cho tăng tốc.
 

-   Báo cáo! Lại một NAVY!

Đúng là lại một chiếc trinh sát Mỹ. Chiếc này từ đất liền bay ra. Nó cũng lướt đúng trên đỉnh đầu mọi người, máy gầm lên như một lời hăm dọa quái đản. Có cảm giác như nó nhe cả hàm răng ra cười trắng nhởn.

Vận liếc nhìn Vũ. Vẫn bình thản như mọi khi, nhưng lần này anh gật đầu:

-   Chúng đã chú ý tới tàu ta! Anh cho điện về Đoàn báo cáo  được rồi đấy!

Trong phòng báo vụ, chiến sĩ Hứa bắt đầu làm việc gấp rút. Chỉ một lát sau đã có   điện trả lời: "Tiếp tục đi - Vẫn còn hy vọng đi tốt - Nhưng cảnh giác và cảnh giác.  Cấp bách lắm - Không thể lùi bước! Tin tưởng hoàn toàn ở các đồng chí.".

Toàn hạm tàu được báo động.

Nhưng từ đó cho tới khi trời đổ tối, không thấy một chiếc máy bay hoặc tàu lạ nào xuất hiện nữa.

Đĩnh voi khoái trí, đi tìm ông Thiêm.

-   Bố nhá! Chuyến này mà êm ngọt, bố phải đi lễ đấy!

-   Lễ cái gì? - Ông Thiêm ngạc nhiên.

-   Lễ để tuyên thệ từ nay bỏ hẳn cái chức "Thần giữ của" ấy mà!

-   Bố láo!

Ông đạp cho Đĩnh một cái. Thế rồi một già, một trẻ cãi nhau inh cả lên một cách hết sức vui vẻ.

Con tàu đã tiến sâu xuống phía nam. Và giờ phút trọng đại lại sắp tới: Chuyển hướng vào bờ.

Hứa bỗng như một cơn gió ào vào ca-bin chỉ huy. Vũ đang phiên trực. Dưới ánh đèn, anh nhíu đôi lông mày đen nhánh, đọc nhanh: "Chú ý! Địch đang lệnh cho nhau sục sạo kỹ trên mặt biển. Hãy bình tĩnh và cảnh giác! - Quyết tâm phát huy trí tuệ tập thể
-   Hoàn thành tốt nhiệm vụ". Anh cho mời Thuận lên.
Đọc xong bức điện, Thuận nói:

-   Theo tôi, lúc này mới chỉ cần anh, tôi và Vận biết là đủ. Nói sớm e dễ hoang mang. Tất nhiên nói muộn sẽ không kịp xử trí. Anh cứ giữ vững đường đi. Và cho tăng cường quan sát cái đã!
 

Vũ cũng phải thầm ngạc nhiên trước sự bình tĩnh của Thuận. Anh hoàn toàn chấp  nhận ý kiến của Thuận là đúng.

Vừa lúc đó, chiến sĩ quan sát bỗng lại réo lên báo cáo ở phía tây có một số ánh đèn, phía mà tàu ta sắp chuyển hướng để vào bờ.

Thuận chăm chú nhìn ra:

-   Chúng nó làm gì thế nhỉ? Đón đường tàu ta chăng?

-   Để xem! - Vũ đáp.

Vận cũng đã chồm dậy, từ phòng thủy thủ chạy lên, anh không giấu được vẻ lo lắng:

-   Này! Hình như tàu nó thả trôi, để giăng lưới ta hay sao ấy các anh ạ! Vũ lắc đầu:
Logged
trachvandung
Cựu chiến binh
*
Bài viết: 747



« Trả lời #14 vào lúc: 27 Tháng Mười, 2021, 07:48:14 am »

-   Khoan để xem chút nữa đã! Giảm tốc độ! Anh Vận xác định lại giùm tôi vị trí tàu. Tôi ngờ đó là Hòn Tre thì phải hơn.

Vận tới trước tấm hải đồ. Chỉ nửa phút sau anh đã ném thước, ném bút, reo lên:

-   Đúng! Hòn Tre!

Vũ quay lại phía Thuận, thong thả:

-   Bây giờ thì đề nghị anh cho họp chi ủy đi. Ta chuẩn bị để chuyển hướng vào bờ được rồi!

Thuận cho gọi thêm chiến sĩ Tân và thuyền phó Thiêm. Tân mới được bổ sung chi ủy thay Khôi. Cả năm khối óc cùng chụm lại.

Nhưng cũng ngay khi ấy, Hứa lại bước vào, đưa một bức điện mới:

"Chú ý! Địch báo với nhau: đã phát hiện có mục tiêu ở xa, đã cho hai tuần dương   HQ, và bốn hải thuyền đi săn lùng. Cứ bình tĩnh - Quyết tâm không thay đổi - Vẫn  còn hy vọng vào được nếu xử trí tốt, vì địch vẫn chưa bắt được mục tiêu cụ thể".

Đồng hồ chỉ hai mươi hai giờ. Đêm tối mù mù. Sóng vẫn khá mạnh. Con tàu vẫn lắc liên tục.

Hai mươi ba giờ ba mươi. Con tàu bắt đầu kẻ một đường thẳng, khôn ngoan tiến vào bờ. Nó chỉ cách bờ còn có hai mươi hải lý.

Tất cả mười mấy con người đều thức hết, ai ở vị trí người nấy. Tất cả mười mấy trái tim cùng căng phồng trong nỗi xúc động.

Con tàu tắt hết đèn, tiếp tục tiến tới.
 

-   Báo cáo, có nhiều máy bay địch đang bay dọc phía gần bờ. Vũ gọi Hứa:
-   Cậu điện đi: "Chúng tôi tiếp tục tiến - Có máy bay ven bờ - Chúng tôi sẽ tránh né, tìm cách tiếp cận đất liền - Quyết tâm toàn tàu rất tốt - Hãy tin tưởng ở chúng tôi".

Mươi phút sau, một bức điện trả lời:

"Tuyệt đối tin tưởng các đồng chí - Địch đang hỏi nhau tại sao không thấy mục tiêu nữa".

Vận bật reo lên bằng cái giọng khàn rè của anh:

-   Thế là... có lẽ lại y như lần trước. Chúng nó đã mất mục tiêu!

Nhưng Vũ chỉ nhìn anh, không gật đầu, cũng không cười. Cái nhìn như muốn nói: "Đừng mừng vội! Vào trận vội mừng cũng như vội lo, thường dễ trật! Hãy  coi chừng".

Chỉ còn cách Hòn Tre mười hải lý. Con tàu bắt đầu lướt về phía đông Hòn Chà Là. Chợt mọi người cùng mở tròn mắt nhìn về phía  đất liền: có nhiều phát pháo sáng  bỗng vọt lên, lấp lóa trên nền trời tối sẫm. Rồi thoáng nghe qua tiếng sóng dường như có tiếng trọng pháo và cả tiếng đại liên ở phía Nha Trang. Nhưng cùng lúc, ở phía vùng trời Hòn Dung, Hòn Ho lại xuất hiện những chấm đèn của hai chiếc C.130. Và chỉ trong khoảnh khắc, đèn dù từ hai chiếc C.130 ấy bay ra sáng rực cả một vùng trời, vùng biển phía Hòn Chà Là.

-   Tiếp tục tiến! - Vũ ra lệnh rồi quay lại phía Thuận:

-   Ta nép sóng, cứ tiến vào, kệ cha nó anh ạ!

-   Bờ kia rồi! - Thuận bỗng gần như giơ cả hai tay lên, reo to. Đôi mắt anh rực sáng.  Cả gương mặt anh như rung lên vì mừng rỡ.

Vũ phát lệnh: Chuẩn bị chiến đấu và chuẩn bị thả hàng. Anh nói với Thuận và cả Vận:
-   Các anh xuống đi! Động viên anh em hết sức bình tĩnh và khẩn trương! Sắp tới tọa độ thả hàng rồi!

Phía bên trái, cả một vùng trời mây vẫn sáng rực dưới ánh đèn dù.

-   Vị trí một, tốt! - Kính nói to.

-   Vị trí sáu, tốt! - Sanh báo cáo.

-   Vị trí bảy, tốt! - Đĩnh voi réo lên.
 

Các chiến sĩ khác lần lượt báo cáo tiếp, với tất cả vẻ phấn chấn hồi hộp. Thuận chạy  từ đầu xuống cuối tàu. Anh cổ vũ các chiến sĩ. Anh cũng bắt tay vào mở sẵn nắp các hầm hàng cùng anh em. Anh muốn thốt lên, reo lên những lời cảm ơn, những lời  khâm phục đối với những người đồng chí, những người anh em của mình. Và, mỗi  khi ngước nhìn lên ca-bin, qua làn kính, thấp thoáng, mờ mờ dưới ánh đèn dù từ xa  hắt lại,

anh thấy gương mặt của Vũ, gương mặt quả cảm đẹp đẽ lạ lùng. Con tàu đã tới mũi Bàn Than.
-   Cạn rồi! Không phải bến! - Vũ bỗng nói.

Vận phải kinh ngạc trước sự nhạy cảm gần như kỳ lạ của Vũ. Anh cho đo sâu, quả nhiên tàu sắp gặp bãi cạn ở phía trước. Xác định lại hải đồ , anh cũng thấy đúng là chưa phải bến.

Con tàu nhanh nhẹn quay trở lại phía Mũi Hòn.

Phía vịnh Cây Bàn và hòn Chà Là pháo sáng càng rực trời.

-   Đây mới đúng! "Bến" đây rồi! - Lúc đó Vũ mới tuyên bố.

"Bến" nằm kẹp giữa hai vùng địch đang thả đèn dù soi tìm dữ dội.

-   Trên sáng suốt quá! - Vũ thở trút ra nhè nhẹ, và mỉm cười. "Bến" chọn ở chỗ  bất ngờ này quả là thằng Mỹ ngụy khó có thể tin là ta dám vào tới.

Đồng hồ chỉ không giờ một phút.

Theo sự tính toán, con tàu đã vào hoàn toàn đúng với yêu cầu cao nhất về thời gian. Nếu công việc không có vấn đề gì trục trặc, tàu có thể quay trở ra ngay  trong đêm  một cách khá ung dung.

-   Đánh tín hiệu liên lạc đi, Sanh!

Con mắt đỏ trên tàu bắt đầu nháy lên - Một - Hai...

Nhưng tín hiệu đã phát tới ba lần vẫn không thấy có trả lời.

-   Vậy cứ buông neo! Dỡ hàng - Vũ bàn với Thuận rồi quyết định.

Đèn dù soi tìm ở hai khu vực bắc và nam "Bến" vẫn mỗi lúc một nhiều hơn. Nhưng đáng chú ý là mỗi lúc một gần hơn. Hiển nhiên bất cứ một sự do dự, chậm trễ nào trong giây phút này đều sẽ tạo nên một mối hiểm nguy không nhỏ.

Chỉ trong khoảnh khắc, các chiến sĩ ta đã giải quyết hết những kiện hàng ở hầm sau.

-   Hầm giữa! - Vũ lệnh tiếp.
 

Một quang cảnh lao động lạ lùng diễn ra trên mặt biển ban đêm đang mỗi lúc một   tràn ngập ánh đèn dù và vang rền tiếng máy bay, tiếng tàu chiến mỗi lúc một gần hơn.

Vận bỗng chỉ tay:

-   Ôi kìa! Tàu địch! Tàu địch! Nhiều quá, các anh ơi! Vũ cũng đã nom thấy rõ khá nhiều ánh đèn ở xa xa.
-   Hình như chúng bật đèn để bắt đầu triển khai bao vây ta hay sao ấy? - Vận tiếp, đầy lo lắng.

Vũ gật đầu, xác nhận:

-   Đúng! Lúc nãy tắt hết đèn vì còn giữ bí mật để dò tìm mục tiêu. Nay chúng bật đèn lên, có nghĩa là ta đã nằm trong vòng vây của chúng rồi.

-   Vậy thì...

-   Cứ tiếp tục! Phải hoàn thành bằng xong nhiệm vụ đã!

-   Nếu như thế thì...

Vũ phác một cử chỉ quả quyết:

-   Đằng nào cũng đã lọt trong vòng vây của chúng rồi. Cứ bình tĩnh thực hiện công việc của mình! Anh xuống nói giúp với anh Thuận: Đã tới lúc phải nói rõ cho các chiến sĩ hiểu: Không thể tránh nổ súng được nữa! Hãy anh dũng đứng vững! Hãy làm sao cho xứng đáng là người Đảng viên Cộng sản, người Chiến sĩ Hải quân Việt Nam! Chuẩn bị, sẵn sàng!

-   Rõ!

Lát sau, con tàu đã hiện lên lồ lộ, trắng xóa giữa một vùng đèn dù trên biển. Nom rõ từng gương mặt chiến sĩ. Nhưng bỗng như cùng một lúc vang lên những tiếng hô của tất cả các thủy thủ, của Kính, của Sanh, của Đĩnh, của Minh...

-   Hãy tin tưởng ở chúng tôi!

-   Chi ủy và thuyền trưởng ra tiếp mệnh lệnh cho chúng tôi!

-   Chúng ta quyết thắng!

Chỉ loáng mắt đã hết hàng ở hầm giữa. Đến hầm đầu mũi. Rồi hầm cuối.

-   Xong!

-   Xong!
 

-   Thắng rồi! Báo cáo xong! Thắng rồi! - Tiếng Vận gào lên, sung sướng đến tột đỉnh.

Các chiến sĩ cùng nhảy lên, múa lên; sau đó như cả một bầy chim họ cùng bay vù trở về các vị trí súng ở hai bên mạn, ở mũi, và cuối tàu.

-   Xong!

-   Xong!

-   Xong!

Vũ hiểu rất rõ: những tiếng "Xong" lần này có nghĩa  "Chúng tôi  đã sẵn sàng đánh", và cũng là: "Chúng tôi đã sẵn sàng hy  sinh vì Tổ quốc thống nhất". Anh nói nhanh  với báo vụ Hứa:

-   Điện về báo cáo tiếp đi: Đã chấp hành đúng mệnh lệnh - Địch đã bao vây - Cuộc chiến đấu không thể tránh được nữa - Chúng tôi sắp nổ súng đây!

Nói dứt, anh hạ lệnh nhổ neo, cho con tàu quay mũi. Thuận lao lên ca-bin:
-   Anh cho quay ra?

-   Vâng! Quay ra để tàu ở thế cơ động dễ nhất và cũng có thể chủ động tác chiến tốt nhất.

-   Phương án hai mà chi ủy đã bàn chứ?

-   Vâng! Không còn có cách nào khác nữa. Chấp nhận chiến đấu! Vì thế, ta phải đánh cho hết mình đã! Phải giữ vững thế chủ động tiến công anh ạ!

Thật là đẹp! Con tàu ta vừa gầm lên, quay mũi trở ra, cũng vừa lúc một chiếc tàu nhỏ của địch bật pha sáng lòa lao tới vun vút. Chỉ chậm độ một phút, tàu ta đã lâm vào thế bị địch công kích thẳng ở ngang mạn sườn phải.

-   WPB (1)địch! Bốn trăm mét! - Tiếng Kính ở ụ đại liên đầu mũi réo lên.



(1)   VPB = tuần duyên đĩnh: một loại tàu tuần tiễu nhỏ ven biển của Mỹ, năm 1965 đưa sang Việt Nam hoạt động.

-   ĐKZ! Đại liên! Thượng liên, chuẩn bị! - Vũ ra lệnh.

Cả con tàu đã bị luồng pha cực mạnh của chiếc WPB trùm kín.

-   WPB hai trăm mét... trăm rưởi mét...
 

-   Bắn! - Vũ thoắt vươn mình thét lên. Mặt anh đỏ rực.  Cùng một loạt, các cỡ súng trên Con tàu không số nổ vang.
Trong một ánh chớp, Vũ nhìn thấy tên lính địch giữ đèn pha trên nóc chiếc WPB ngã lộn. Pha tắt ngấm. Biển trời thoắt như chìm ngập trong một vực thẳm. Không một  phát đạn nào của chiếc WPB kịp nã tới. Chừng một phút sau mới thấy rực lên ánh lửa của những họng đại bác bốn mươi ly, một trăm ly của những chiếc tàu lớn đậu ở  ngoài xa. Đạn nổ tới tấp bốn chung quanh con tàu ta. Nước vọt  lên từng cột trắng  xóa. Tiếng những mảnh thép chém vào thành tàu loảng xoảng, và phá tung cửa kính ở đài chỉ huy. Mảnh thép như những lưỡi lửa chém vù vù cháy bỏng trước mặt, sau   lưng Vũ. Anh bỗng thấy có cái gì mát lạnh ở một bên trán. Đưa tay lên úp chặt lấy  chỗ đó, anh thấy ướt đẫm. Cũng lúc ấy, một quả cầu lửa bừng lên ở khoang báo vụ.

-   Thuận! Trời ơi, anh Thuận! Anh Vũ ơi!

Tân, chi ủy viên đồng thời là chiến sĩ lái, thét lên rụng rời. Vũ vội nhào sang. Mờ mờ trên một đống đổ gãy tan tành đang nghi ngút khói, Thuận nằm vắt ngang trên ngực Hứa. Cạnh đó, một chiến sĩ tác nghiệp hải đồ nằm úp sấp, đầu mất hẳn một mảng.

Vũ lật từng người lên. Mắt anh tối sập. Anh lảo đảo quay trở ra ca-bin. Anh gắng lấy lại sự tỉnh táo. Anh hiểu mình cần phải làm gì lúc này. Tàu địch vẫn đang tiếp tục bắn chung quanh con tàu ta như bão táp.

-   Báo cáo, Kính bị thương!

-   Báo cáo, Minh hy sinh!...

-   Báo cáo, Sanh bị thương nặng! Vũ quay lại phía Tân:
Giữ vững tay lái! Phải mười độ!...

Rồi anh bước hẳn ra ngoài. Gió biển và sóng xung kích của đạn trái phá ào ào thổi lật ngược mái tóc anh như dựng đứng. Một tay vuốt  máu trên mặt, một tay bám thanh  sắt, anh hô to:

-   Tất cả tạm ngừng bắn! Đồng chí Thiêm, thả khói mù cố định!

Mọi người hiểu ngay ý anh. Lập tức, một làn khói dày đặc được phụt tung ra. Chỉ trong chớp mắt, khói đã trùm kín hết con tàu, rồi lan ra rất nhanh, rất rộng...

Con tàu không số tức khắc tăng tốc. Nó chạy vượt lên một quãng, rồi bắt đầu chạy vòng vèo. Trong lúc đó, đạn pháo địch vẫn tập trung nã về hướng cũ. Nhưng  bắn được hơn một phút, dường như chúng cảm thấy mất mục tiêu, bèn  chuyển làn, lúc  bắn chỗ này lúc bắn chỗ hướng khác, như một lũ mù lòa điên loạn.
 

Con tàu không số vẫn tiếp tục chạy vòng vèo. Nhưng khói đã tan dần.
Máy bay C.130 địch lướt tới. Đèn dù lại bật sáng rực trời. Đạn pháo địch lại bắn nhích dần tới con tàu ta.
-   Trái hai mươi độ!

-   Trái hai mươi độ! - Tân nhắc lại - Vào bờ hả anh?

-   Phải! Lúc này thì vào bờ!

Các chiến sĩ đã bị thương vong hầu hết. Súng cũng đã hỏng hóc khá nhiều. Thành tàu bị rách, vỡ be bét. Nhưng ở mũi tàu vẫn còn khẩu mười hai ly bảy. Ông Thiêm chỉ bị thương nhẹ ở tay trái, vẫn đang ở đó, tiếp tục phối hợp với Kính. Kính đã bị thương ở cả hai ống chân nhưng vẫn cố ngồi, hai tay ghì chặt lấy cây súng. Còn cả khẩu ĐKZ với Đĩnh voi, anh này cũng đã bị thương vào vai. Còn thêm một khẩu trung liên nữa. Vận đã bị thương, máu ướt hết cả ngực áo, vẫn đang khư khư ôm lấy nó. Bên cạnh  anh là một chiến sĩ nằm gục trên một vũng máu.

-   Các đồng chí! Tiếp tục chiến đấu!

Vũ vừa nói xong, thì ba chiếc WPB khác ở đâu lại xuất hiện như ba con chó ngao dữ tợn trong truyện huyền thoại. Chúng vừa bắn đại liên xối xả vừa chia ba hướng áp lại, như có ý muốn bắt sống con tàu "xâm nhập".

-   Đại liên, ĐKZ, bắn!

Cũng không ngờ cây đại liên của Kính và ông Thiêm lại hay đến như thế. Ông già "Thần giữ của" ấy chỉ còn một tay nhưng tiếp đạn cho Kính vẫn khá nhanh nhẹn.  Súng vừa nổ ông vừa hò la cổ vũ: "Hay lắm! Hay lắm! Kính ơi hay lắm! Bắn mạnh nữa lên! Bao nhiêu đạn lúc này tao cũng không tiếc mày nữa! Cho bắn thả sức!".

Cây trung liên trên tay Vận cũng rất tốt. Anh ôm cây súng lăn hết chỗ này tới chỗ khác, luôn thay đổi vị trí, y như một xạ thủ cự phách.

Cây ĐKZ của Đĩnh voi cũng nện từng phát sấm sét, nhằm thẳng từng con tàu địch.

Vũ cũng nhảy xuống cuối tàu. Anh khẽ nâng một tử sĩ, nhắc một cây thượng liên lên, lắp đạn, nhằm chiếc WPB ở hướng chính diện siết cò.

Ba chiếc WPB không sao vào được nữa, phải giạt cả ra.

-   Bờ kia rồi! Bờ kia rồi! Thuyền trưởng ơi!

Một chiến sĩ nào đó reo lên, rồi bật khóc nức nở vì quá mừng.
 

Vũ thở trút:

-   Cứ tiếp tục bắn mạnh nữa! - Anh hô lớn.

Nhưng, cũng lúc đó một phát trái phá bỗng nổ bùng ở ngay mạn trái. Con tàu như bị bốc hẳn lên rồi ném mạnh xuống. Một chiến sĩ bị hất tung từ trên boong xuống mặt biển.

-   Báo cáo...

Vũ bỗng nhận thấy một cái gì rất khác lạ: con tàu như lệch về một bên và dừng tại  chỗ.

-   Báo cáo!... Ống nước, ống dầu, ống hơi đều vỡ hết cả rồi!

Trưởng máy Nhẫn từ dưới khoang vọt lên. Dường như không còn nhận ra anh nữa. Toàn thân anh đầy dầu mỡ. Anh chạy loạng choạng. Vừa chạy vừa gào:

-   Báo cáo! Máy liệt rồi! Ống nước, ống dầu... thuyền trưởng ơi!

Vũ buông rời cây thượng liên. Anh hiểu rằng: thế là đã tới giây phút quyết định cuối cùng.

Anh chạy lên ca-bin. Tấm áo may-ô của anh đã rách bươm, chỉ còn dính lại vài mảnh sau lưng. Máu đã đỏ kín khắp mặt.

Anh trang nghiêm đứng vào vị trí của thuyền trưởng của mình, nhắm mắt  lại một giây, cố nén mọi nỗi đau ghê gớm đang muốn phá nát trái tim. Rồi cất tiếng nói:

-   Toàn thể các đồng chí, hãy nghe mệnh lệnh của tôi: Rời tàu!

Tất cả con tàu như rung lên. Tất cả những người còn khỏe hoặc đã bị thương đều như nghẹn thở.

Rời tàu vào bờ! Ai cũng hiểu thế cũng có nghĩa là: Hủy tàu! Ôi! Con tàu! Ôi con tàu của chúng ta, con tàu của tôi!...

Kính ôm choàng lấy một trụ neo của con tàu, máu, nước mắt chan hòa đầy mặt, láng đỏ cả cây trụ trong vòng tay anh.

Ông Thiêm cũng nấc lên. Đĩnh voi và Vận cùng ôm mặt bên những người tử sĩ. Nhưng Vũ đã bước xuống. Anh nghiêm nghị:
-   Theo đúng kế hoạch đã phổ biến: Những đồng chí có nhiệm vụ điểm hỏa, hãy sẵn sàng! Trước hết, tổ chức đưa thương binh rời tàu. Thứ tự: đồng chí Thiêm điểm hỏa xong hầm mũi, dìu đồng chí Kính, mang phao xuống trước. Đồng chí Vận điểm hỏa xong hầm giữa, đưa đồng chí Sanh rời tàu tiếp theo. Các đồng chí Đĩnh, Tân, Nhẫn
 

điểm hỏa hầm máy trước, máy sau rồi cũng rời tàu. Còn tôi sẽ điểm hỏa và đánh bộc phá hầm lái xong, sẽ rời tàu sau cùng!

Vũ nói đoạn, toan bước đi, nhưng có tiếng gào lên giữ chân anh lại: Kính!

-   Thuyền trưởng ơi! Tôi hiểu: phần việc của thuyền trưởng quá nặng, e thuyền trưởng không rời tàu kịp trước khi phát nổ mất. Xin cho tôi ở lại! Xin cho tôi ở lại tiếp sức  với thuyền trưởng!

Vũ nghiến răng, cố giữ một vẻ thật nghiêm khắc:

-   Tất cả hãy chấp hành mệnh lệnh của tôi. Không ai có ý kiến nữa.

Ông Thiêm chạy vụt đi. Điểm hỏa xong hầm mũi, quay trở lại, tay ôm một chiếc  phao, ông xốc Kính lên, rồi bật hô to:

-   Hồ Chí Minh muôn năm! Nước mắt ông lại như mưa tuôn.
Hai người ôm phao cùng nhào xuống đúng lúc một con sóng ập tới...

Rồi đến cặp Vận - Sanh. Cũng giống như cặp trước: cả hai đều bị thương, anh nhẹ dìu anh nặng (Sanh đã bị mảnh đạn phá vỡ một bên sườn) và cũng như ông Thiêm với Kính, trước khi rời tàu, họ lại cùng hô:

-   Hồ Chủ tịch muôn năm!

Ba chiếc WPB không dám vào gần nữa, cứ chạy vòng vòng ở ngoài xa nã đạn tới. Nhưng có lẽ đã có ý đề phòng các chiến sĩ ta rời tàu, nhưng chiếc tuần dương lớn ở phía ngoài bắt đầu bắn lên bờ để đón chặn. Pháo cày trên các bãi cát. Pháo gào thét trong các khu rừng rậm, trên các vách núi đá...

Chỉ còn lại đúng một mình Vũ trên tàu. Mảnh đạn vẫn như mưa rào gõ khắp bốn chung quanh thân tàu. Anh trở lại khoang báo vụ. Anh cúi xuống đưa tay rờ rờ trên mặt Thuận một lần nữa, rồi xếp Thuận nằm lại ngay ngắn bên Hứa cùng anh chiến sĩ tác nghiệp hải đồ. Sau đó quay ra, bàn tay thoắt nóng rực, ngón tay Vũ ấn mạnh vào nút điểm hỏa cuối cùng của con tàu.

Anh lảo đảo ra boong và cũng nhào xuống biển.

Mặt biển đen kịt, chốc chốc lại rực lên, đỏ khé như toàn máu tươi. Vũ bơi mà không biết mình bơi nữa...
***
 

Vũ bước lên một bãi cát lầy. Anh loạng choạng gắng chạy tới một lùm cây rậm. Đằng sau anh, ngoài biển, chợt có một tiếng nổ như một quả bom nguyên tử nhỏ, sau một chớp lửa khủng khiếp. Sóng xung kích quật Vũ ngã sấp. Liền ngay sau đó lại nghe  rầm một tiếng nữa. Khi chồm trở dậy anh nhìn lại, thấy một nửa cái ca-bin chỉ huy  của con tàu đã bay vào tới tận trong này. Kinh hoàng, Vũ đứng ngẩn ra một giây. Sau đó cứ thế đạp lên gai góc, anh lao thẳng vào trong rừng. Gặp đá, trèo đá, gặp khe, tụt khe. Không còn biết gì là đau đớn nữa. Bây giờ không phải chỉ có khuôn mặt anh đầy máu, mà cả hai bàn tay, hai cánh tay, rồi cả thân thể anh đã dần dần bị gai nhọn, đá  sắc cào nát. "Chíp! Chíp! Chíp! Chíp! Chíp! Chíp!". Anh vẫn còn nhớ được một điều trước hết là phải nhanh chóng bắt liên lạc với anh em, để thu quân lại. "Chíp! Chíp! Chíp!". Đó mà mật khẩu đã quy định với nhau từ nhà. Anh biết rõ: tất cả còn lại có chín anh em, kể cả anh. Đứng trên ca-bin, anh đã đếm cẩn thận từng người, từng cặp rời tàu. Như vậy còn nằm lại ở trên tàu tám tử sĩ, trong đó có Thuận.

"Chíp! Chíp! Chíp!". Chợt có tiếng "chim" đáp lại. Vũ thận trọng né người sau một thân cây, phát ra mật hiệu một lần nữa. Vẫn tiếng "chim" ấy đáp lại, đúng theo nhịp.

Vũ bước hẳn ra.

Đèn dù vẫn sáng rực trên bầu trời đêm. Ánh sáng chiếu lọt xuống rừng rậm loang lổ, quay lộn như ma quái. Mấy bóng người lố nhố hiện ra.

-   Lửa đã cháy!

-   Sóng đang cồn!

Đúng là anh em ta rồi! Cả hai bên cùng tiến lại, ôm chầm lấy nhau.

Tân và Đĩnh voi, Nhẫn và Tuế (chiến sĩ cơ điện mới về tàu). Thêm Công Bằng nữa. Anh này là một chiến sĩ pháo thủ người dân tộc Tày Lạng Sơn. Chỉ riêng Tân không  bị thương, còn tất cả đều đã ít nhiều nặng nhẹ.

-   Đồng chí Thiêm với đồng chí Kính, và đồng chí Vận với đồng chí Sanh đâu? - Vũ hỏi.

Tân thở dốc:

-   Không thấy đồng chí Thiêm với đồng chí Kính đâu cả! Chúng tôi tìm mãi. Còn  đồng chí Vận thì dìu đồng chí Sanh hình như chạy về phía đằng kia. Cậu Tuế cơ điện nói là có nom thấy họ.

-   Vậy tìm Vận và Sanh trước, sau đó ta sẽ đi tìm đồng chí Thiêm và Kính. Các đồng chí ngồi cả đây. Đồng chí Tuế đi theo tôi!

Tân vụt đứng dậy:
 

-   Thuyền trưởng cũng bị thương, lại mệt rồi! Để chúng tôi đi! Vả lại lúc này tất cả  anh em chúng tôi chỉ còn biết trông cậy vào thuyền trưởng. Thuyền trưởng cần ở lại  để quy tụ và giữ vững tinh thần anh em. Để tôi và Tuế đi cho!

Vũ đành phải dừng lại. Anh nhìn theo Tân, người chi ủy viên mới được bầu thay  Khôi, chàng công nhân nông trường Sao Vàng khi trước, khoác khẩu AK cong người bước đi nhanh như một con sóc. Tuế đi theo sau. Cánh tay trái anh bị thương đã được anh em xé áo, xé băng treo lên cổ. May mắn cho anh vẫn còn đôi chân toàn vẹn.

Pháo địch vẫn tiếp tục bắn xăm vào rừng. Chỗ này oàng, chỗ kia uỳnh. Mùi thuốc nổ khét nồng bốn phía. Đèn dù tắt hết đợt này, bật tiếp đợt khác. Ánh sáng tiếp tục rọi xuống loang lổ, xáo lộn trong khắp các cánh rừng gai góc.

Vũ tìm mấy hốc đá, bảo anh em tản rộng, ngồi chờ Tân và Tuế. Bấy giờ anh  mới  nhận ra không phải anh chỉ bị dính mảnh vào đầu mà còn cả mấy mảnh nhỏ ở bắp đùi bên trái nữa. Không còn băng. Anh xé nốt mấy mảnh may-ô còn dính trên người nối lại để buộc vết thương. Đáng mừng là vẫn còn nguyên khẩu Côn mười hai. Anh vội  rút khẩu súng khỏi bao, tháo ra, lau cho sạch nước biển.

Lát sau có tiếng chân đạp trên cành khô gãy vụn.

Tân và Tuế đã trở về. Tân đang dìu một người nào đó.

Vận! Không ngờ những vết thương trên ngực Vận khá nặng. Vũ ngạc nhiên và cũng không hiểu sao khi còn ở trên tàu anh ta đã chiến đấu được một cách lanh lẹn, quyết liệt đến thế.

-   Sanh đâu? - Vũ hồi hộp cất tiếng hỏi tiếp.

-   Hy sinh rồi! Ruột... - Tân cúi mặt, thở dài, đáp nhỏ.

Vũ ngồi xuống một tảng đá, lặng đi. Sanh! Chàng trai vùng Mỹ - ngụy vượt ra vùng giải phóng, chưa được hiểu gì mấy về chủ nghĩa xã hội; trong lòng mới chỉ có một   hạt ngọc duy nhất: tình yêu nước. Sanh! Chàng trai hai mươi mốt tuổi đời, ngây thơ như nai rừng, thỉnh thoảng vẫn ngồi trên boong ngân nga khe khẽ mấy câu vọng cổ buồn: "... Dằng dặc say giấc nồng...". Chàng trai vẫn mơ ước: "Rồi mai sau thống nhứt, cuộc sống nhứt định sẽ tươi đẹp hơn".

Vũ cố nén một cái gì đó đang nghẹn đầy nơi cổ họng. Anh gọi Tân lại:

-   Thôi được! Bây giờ chúng ta cần phải hội ý chi ủy cái đã!

Mấy phút sau, Vũ tập hợp mọi người lại. Anh cất tiếng nói, trang nghiêm như trước bất cứ một cuộc họp chi bộ long trọng nào ở căn cứ:

-   Đồng chí bí thư đã hy sinh, chi ủy cử tôi thay thế. Chi ủy nhận định: như vậy chúng ta đã hoàn thành nhiệm vụ về cơ bản, mặc dầu đã bị tổn thất khá nặng. Địch bây giờ đang tiếp tục bắn xăm vào rừng. Cũng có khả năng bộ binh chúng sẽ vào sục. Tuy
 

nhiên vì đêm tối, chúng có thể chưa dám vào, có gì cũng phải đợi sáng mai. Vậy phương hướng nhiệm vụ hiện nay của chi bộ chúng ta như sau: cố gắng tìm bằng  được hai đồng chí Thiêm và Kính trong đêm nay. Sau đó, cố tìm đường, bắt liên lạc với các đồng chí phụ trách "Bến". Tàu ta đã vào đúng hướng, chắc chắn là như thế. Vậy các đồng chí "Bến" cũng không ở cách đây bao xa. Khi tìm được "Bến", bàn   giao hàng xong, ta sẽ tìm đường lên Trường Sơn, trở ra Bắc. Yêu cầu đối với toàn thể đảng viên lúc này là: tiếp tục giữ vững tinh thần dũng cảm, sẵn sàng hy sinh. Bình tĩnh. Sáng suốt. Đoàn kết, sống cùng sống, chết cùng chết. Giữ vững khí tiết quân nhân cách mạng. Tuyệt đối trung thành với Tổ quốc, nếu lỡ có rơi vào tay địch...

Tất cả mấy con người mình đã đầy thương tích cùng thoắt giơ tay và bật lên như cùng một lời:

-   Nhất trí!

Tân lại khoác cây AK đứng dậy. Lần này Vũ cử Công Bằng đi cùng với Tân. Đĩnh  voi và Nhẫn máy trưởng bị thương nhẹ họp thành một tổ thứ hai cùng đi tìm Thiêm   và Kính.

Chỉ còn lại Tuế có trách nhiệm làm "lực lượng dự bị chiến lược" của toàn đội và giúp Vũ săn sóc Vận.

Vận vẫn nằm mê man. Anh bị vào phổi, thở khò khò và lảm nhảm nói những điều gì. Không còn một băng cấp cứu nào mà. Bộ đồ tiêm, với thuốc men ông Thiêm mang theo, không rõ còn hay mất.

Lần đầu tiên Vũ cảm thấy trách nhiệm mình quá nặng nề, phức tạp. Bây giờ anh vừa  là chỉ huy vừa là chính ủy. Lúc này không phải chỉ có một việc tránh địch, đánh địch mà còn phải cứu chữa thương binh, phải tìm cho ra "Bến", giao được hàng, và còn phải làm sao tổ chức đưa được anh em an toàn trở về Bắc. Thế là lại tái diễn một cái "Vũng Rô"!

Pháo địch vẫn tiếp tục nã vào rừng. Quả xa, quả gần. Có quả nổ cách chỗ Vũ không quá hai trăm mét.

Mất đồng hồ. Nhưng cũng có thể phỏng đoán đã hai, ba giờ sáng.

Nhóm Đĩnh voi đã trở về. Cả hai cùng ngồi phệt xuống, thở dốc. Không ai nói nổi  một lời. Vũ hiểu. Anh không hỏi thêm điều gì nữa. Lòng anh cay đắng. Khoảng nửa giờ sau lại có tiếng "chíp! chíp! chíp!". Đến lượt Tân và Công Bằng trở lại. Cũng y như Đĩnh voi và Nhẫn, họ lảo đảo gieo mình xuống đá. Mãi sau Tân mới mệt mỏi cất tiếng:

-   Không thấy gì hết! Có lẽ... họ không vào nổi bờ chăng?

Logged
trachvandung
Cựu chiến binh
*
Bài viết: 747



« Trả lời #15 vào lúc: 27 Tháng Mười, 2021, 07:49:14 am »

-   Không! Tôi không thể tin là họ đã mất tích ngoài biển - Vũ lắc đầu.

-   Vậy bây giờ định sao đây, anh?
 

-   Chi ủy đã quyết nghị rồi: bằng mọi giá phải tìm được họ.

-   Vậy cứ ở đây nữa sao anh?

-   Ở chứ!

-   Sớm mai, em tin là bộ binh chúng nó sẽ bắt đầu càn lớn.

-   Tôi cũng tin như vậy. Nhưng ít nhất phải ở đây hết đêm nay, mai sớm, dễ nhận phương hướng, dễ tìm đường hơn. Cần chống càn, ta sẽ gắng chống càn, rồi tìm cách luồn khỏi càn...

Tân vò đầu, mái tóc bung rối lên qua những kẽ ngón tay. Trời sáng dần.
Đã nhìn rõ mặt nhau. Vũ không khỏi kinh ngạc nhìn thấy anh em chung quanh đều như những người đã bị đâm chém, đã bị vùi xuống mồ sâu nay mới được moi  lên.  Tân cũng kêu to:

-   Thuyền trưởng! Ôi, nom thuyền trưởng kìa!

Ngay lúc đó có tiếng súng bộ binh bỗng nổ ran phía bờ biển cách đó không xa lắm. Tiếng trung liên, cả tiếng đại liên.

Đôi mắt Vũ bỗng bật sáng. Anh mừng rỡ:

-   Các cậu, nghe hình như có cả tiếng AK nữa, phải không? Tất cả bằng ấy cái tai đều dỏng lên. Tân cũng mừng rú:
-   Đúng! Đúng rồi! Có cả tiếng AK! Trời ơi! Thuyền trưởng thính quá! Họ rồi! Đúng  là họ rồi!

Vũ đứng phắt dậy, siết chặt lại dây lưng đeo khẩu Côn mười hai.

-   Đồng chí Đĩnh tạm thay tôi ở lại đây chỉ huy chung! Tân và Công Bằng đi theo tôi! Công Bằng bị thương ở bụng, quấn chặt lại đã! Đồng chí sẽ dùng AK như đồng chí Tân.

Anh quyết định rất nhanh.

Thoắt cái ba người đã xé các bụi gai chằng chịt, băng qua các tảng đá lởm chởm, cố bươn về phía có tiếng súng nổ.

Nhưng, ngồi nghe thì thấy gần, khi đi lại thấy xa. Không có đường. Ba anh em phải liên tục đu mình qua những khé đá, liên tục trườn qua, hoặc rúc qua những bụi gai  dày. Chốc chốc gặp một chỗ bằng bằng, có cây to, mới có thể chạy được một đoạn ngắn. Rồi lại leo, lại xé, lại rúc. Quần áo đã rách, càng tơi tả. Máu trên mặt mũi, trên
 

mình, tay chân của cả ba anh em tiếp tục tóe ra theo những đường gai cào, đá cắt. Vũ bỗng thấy lồng ngực mình vụt như lạnh cứng, bởi anh bỗng nhận

thấy tiếng súng AK đã im bặt. Vậy có thể là... hoặc nghĩa là...

-   Mau! Cố nữa lên các đồng chí! Cố lên! Một là họ đã thoát, hai là họ...

Lát sau đã ngửi thấy mùi thuốc súng nồng nặc, Vũ vẫy tay ra hiệu cho anh em tản rộng, tiến theo đội hình chiến đấu.

Anh thoắt đứng sững, mồm há hốc.

Trước mặt anh, phía dưới dốc đá, có hai xác người nằm dài. Hai cây AK bị gãy tan nát, tung toé ở chung quanh.

Như một con cọp, từ trên cao, Vũ tung người nhảy chồm xuống, chụp lấy hai xác người. Đầu gối anh khuỵu ngay bên cạnh thi thể một người mình trần, da dày, nhăn như da voi, mặt đã bị đạn M.16 của bọn Mỹ bắn nát bấy không còn nhận ra hình thù  gì nữa. Hai tay Vũ run bắn. Anh quay sang xác người thứ hai nhỏ nhắn hơn. Một quyển sách nhỏ đã rách nát tuột khỏi miệng túi áo còn nằm ngay trên ngực phía trái - cuốn "Những điều kỳ diệu trên bầu trời" bằng tiếng Pháp. Cũng một khuôn mặt đã bị bắn nát không còn nhận ra đường nét nào nữa.

-   Thuyền trưởng! Lui lại mau! Bọn Mỹ có thể còn phục ở đây! - Từ sau một thân cây to. Tân gọi gấp.

Bấy giờ Vũ mới như choàng tỉnh. Anh buộc phải tạm lùi lại, mặt trắng bệch, hai hàm răng nghiến chặt, quai hàm như nứt vỡ.

-   Thuyền trưởng ạ! Thế là đủ rồi! Chúng ta rút thôi!

-   Tân! - Vũ rít lên - Rút ư? Rút sao được? Còn hai đồng chí của mình, phải chôn cất  đã chứ!

Tân lắc đầu!

-   Không! Phải đạt lý mới được, thuyền trưởng ạ! Thuyền trưởng còn phải lo cho sáu cái mạng sống. Còn phải tìm "Bến" để giao hàng.

Tân nói tới tìm "Bến" để giao hàng. Vũ mới có vẻ chịu chịu. Nhưng anh giơ tay phác một cử chỉ quyết định:

-   Thôi được! Các cậu sợ chôn cất thì quá lâu, vì bọn ta không có xẻng cuốc gì trong tay. Nhưng bỏ đi, dứt khoát là không được. Bây giờ tất cả theo lệnh tôi: Công Bằng cảnh giới phía trái, Tân phía phải! Tôi sẽ xuống đưa cả hai đồng chí ấy vào một hốc đá. Nếu có động, rút cũng kịp. Sau khi tìm được "Bến" ta sẽ quay lại, tìm cách chôn cất lại các đồng chí ấy cho tử tế.
 

Thế là không sao được nữa, Tân đành phải nghe theo anh.

Lại như một con cọp, Vũ nhào xuống, hai tay cùng một lúc xốc hai xác liệt sĩ, nhào  tới  một hốc đá ở phía bên. Sau đó, anh vơ lấy vơ để những đám lá khô ở chung  quanh, dứt cả những chùm lá tươi, rắc kín lên thi thể hai người liệt sĩ.

Mọi việc đã xong, ba người mới quay trở lại. Lần này, không ai cần phải chạy, mà thật ra cũng không còn sức để chạy nữa.

Gặp lại anh em, Vũ nằm lịm đi. Một lúc sau, trỗi dậy,  anh điểm danh các chiến sĩ.  Thế là tất cả chỉ còn lại có bảy người: Vũ, Tân, Đĩnh voi, Vận, Công Bằng, Tuế và Nhẫn máy trưởng. Tám liệt sĩ đã hy sinh dưới tàu, thêm hai trên bờ nữa là tròn mười. Mười người con của Tổ quốc hôm nay đã hoàn thành sứ mạng của mình. Mười Anh hùng đã ra đi trọn đoạn đường vinh quang dù ngắn ngủi của họ. Đoạn đường còn lại: bảy người sẽ đi tiếp...

Chống một cây AK, vừa làm vũ khí tác chiến vừa làm gậy đỡ cho một bên chân đã bị mảnh đạn, Vũ đưa mắt nhìn suốt lượt các gương mặt vây quanh, rồi thong thả nói:

-   Các đồng chí! Chúng ta thế là đã thực hiện được một điểm của nghị quyết là tìm hai đồng chí Thiêm và Kính. Bây giờ chúng ta thực hiện điều tiếp theo: đi tìm "Bến". Các đồng chí hiểu chứ?

-   Rõ!

-   Bình tĩnh - Sáng suốt - Đoàn kết, sống chết có nhau. Các đồng chí vẫn nhớ cả chứ?

-   Nhớ!

-   Và giữ vững khí tiết quân nhân cách mạng, lỡ có bị rơi vào tay địch...

-   Rõ!

Vũ gật đầu. Trái tim anh tuy đang xiết bao đau buồn nhưng cũng rộn lên một niềm kiêu hãnh chưa bao giờ cảm thấy. Anh cắt Đĩnh voi và Công Bằng dìu Vận.

Mọi người cùng cất bước, bắt đầu công cuộc đi tìm đường, tìm "Bến".

Lại gai. Lại đá sắc. Lại những bụi rậm cao ngập đầu người, dày đặc. Vũ và Tân người đi trước, người đi sau, cùng ra sức phá mở.

Trên trời, một chiếc L.19 è è bay lượn tìm tòi, soi mói. Pháo địch chốc chốc lại dập  tới từng loạt rung chuyển núi rừng. Rõ ràng bọn địch vẫn còn vây chặt quanh đây.

Tân đi đầu bỗng reo lên:

-   Quang lắm rồi! Chúng ta đã lên được một mỏm cao, có thể quan sát được phương hướng, rất tốt! Có lẽ đã đi được khá nhiều đường đất!
 

Cả bảy anh em đều mừng rỡ, xốc nhau, dìu nhau, tiến lên. Nhưng tất cả cùng sững lại.
Bộ mặt đẫm mồ hôi, đầy vết gai cào của Tân vụt như tan vỡ.

Thì ra đi loanh quanh bao nhiêu lâu, tưởng đã đi được khá xa, nào ngờ lên mỏm cao, nhìn xuống vẫn thấy biển ở ngay dưới chân mình.

-   Trời ơi! Tàu ta kia kìa! - Một chiến sĩ vụt thốt lên. Rồi khóc òa.

Vũ nhìn trừng trừng. Đúng là con tàu của bọn anh. Nó kia! Nó vẫn còn kia, nhưng phần lớn đã chìm xuống nước, chỉ còn nhô lên một đoạn đuôi. Nước mắt Vũ cũng bỗng âm thầm trào ra, trào ra mãi. Lần đầu tiên trong đời, anh không sao kìm nổi nỗi đau đớn, cay đắng. Ba chiếc WPB Mỹ vẫn chạy quành quành ở phía ngoài, với cả   một con tàu lớn. Có lẽ chúng đang tìm cách trục vớt chiếc WPB bị bọn anh đánh đắm đêm trước.

Trên trời, một chiếc L.19 vẫn đang tiếp tục è è bay lượn. Nó bỗng tuôn ra một tràng tiếng ẽo ợt của một con đàn bà nào đó, qua loa phóng thanh. Nó đang "chiêu hồi" -   "... Hỡi các anh cán binh Việt cộng! Các anh xâm nhập vào đây, các anh đã làm một công việc vô cùng dại dột... Hãy mau mau ra hồi chánh... Các anh sẽ được đối đãi tử tế... Các anh nên nhớ rằng: các anh sẽ chết đói, chết khát trong rừng rậm, nếu các anh vẫn còn cố tình ẩn náu... Chúng tôi đã nom rõ các anh...".

-   Đ. mẹ! Giá có cây trung liên, ông quất bỏ con mẹ mày liền! - Đĩnh voi nghiến răng, trợn mắt - Nom thấy! Hừ, nom thấy thì hãy xuống đây!

Mặt Tân xám lại. Anh cũng không giữ nổi một câu chửi thề tục tĩu.

Tiếng loa chiêu hồi tiếp tục ẽo ợt, dai dẳng lúc như trút ngay xuống giữa đỉnh đầu bảy anh em, lúc lảng ra xa tít mãi cuối rừng, như ma giỡn.

-   Ta đi thôi, các đồng chí! - Vũ phất tay ra hiệu cho mọi người cùng tụt xuống chân dốc phía trong.

Tân nhăn nhó:

-   Ta không có một chiếc địa bàn nào lúc này, cực quá thuyền trưởng ạ. Vũ an ủi:
-   Gắng chịu vậy! Không đúng hướng này, ta sẽ tìm hướng khác.

Từ sau giây phút bàng hoàng khi nhìn lại thấy biển vẫn ở ngay sau lưng, và đầu óc tưởng chừng như nổ tung khi nhìn thấy cả con tàu của mình nằm ở đó, bây giờ Vũ đã thấy tâm hồn mình trở lại bình tĩnh hơn - một thứ bình tĩnh sáng suốt nhưng đau buốt
 

ở bên trong. Cái bình tĩnh mà anh đã thấy ở trước "cửa mở" đồi  A1 năm nào. Cái  bình tĩnh mà anh đã có sau buổi thăm Vĩnh trở về với con tàu ở khu neo...

Lại gai cào. Lại đá cắt. Đoàn người lại lúc bám cây, leo lên, khi ngồi bệt để cho cả thân mình tụt xuống.

Một hồi lâu sau, bảy anh em tới một quãng rừng có nhiều phiến đá lớn khá phẳng, và những cây nhỏ, cao, thân mốc trắng, mọc lưa thưa.

-   Ối trời ơi! Kìa, lại biển!

Một chiến sĩ bỗng thốt lên như tuyệt vọng. Đoàn người lại đứng sững.
Đúng là vẫn biển. Biển! Biển xanh ngăn ngắt vẫn như ở ngay dưới chân. Trời ơi,  biển! Sao hôm nay nhìn thấy biển lại tuyệt vọng nhường này! Mới hôm qua, biển còn là bạn, là đồng chí, là con đường sống, là áo giáp, là... là biết bao sự thân thiết, biết bao nỗi ân tình.

Các chiến sĩ không ai bảo ai cùng ngồi phịch xuống. Chỉ riêng Vũ vẫn đứng sững,   đầu quấn băng trắng, mình trần, ngang dọc đầy máu, chống cây AK, nhìn xuống những con sóng đang nối tiếp nhau xô vào bãi cát, và nhìn ra xa nơi đuôi con tàu vẫn còn nhô lên như một tiếng gọi, như cả một nỗi đau ghê gớm.

Anh bỗng nghĩ tới Thuận. Ôi Thuận! Quả là lúc này thấy cần có cậu quá, và phải chăng phải có những giây phút này, cảnh ngộ này mới hiểu rằng những người như   cậu là không thể thiếu?

Nhưng cũng rất nhanh, Vũ lại hiểu rằng mình không thể khoanh tay, và không còn có cái gì để đợi chờ ở đây nữa. Anh quay lại đồng đội của mình, cất tiếng  thong thả,  rành mạch và dứt khoát:

-   Các  đồng chí! Như vậy không còn nghi ngờ gì nữa: chúng ta mất phương hướng  rồi! Mà địch chắc vẫn còn quanh đây! Công việc tìm đường, tìm "Bến" đã không thể dễ dàng và mau chóng như chúng ta tưởng. Tôi nghĩ: vậy chúng ta còn phải mất ít  nhất vài ngày nữa, trong những điều kiện như thế này, giữa rừng rậm, giữa vòng vây địch. Cho nên chúng ta phải tổ chức nhau lại. Đúng vậy! Phải tổ chức lại chặt  chẽ  hơn nữa, các đồng chí ạ! Có như thế mới mong thoát khỏi vùng núi đá này, mới   mong tìm được "Bến". Các đồng chí nghĩ sao?

Tân là người lên tiếng trước:

-   Hoàn toàn đồng ý! Chúng tôi luôn luôn tuyệt đối tin tưởng, và triệt để tuân theo mệnh lệnh của thuyền trưởng. Xin cứ giao nhiệm vụ cho chúng tôi!

-   Đồng ý!
 

Tất cả các chiến sĩ cùng một loạt thốt lên theo. Vũ cố giấu nỗi nghẹn ngào.

Đêm đó, toàn đội nghỉ lại trong một khe núi. Đèn dù vẫn rực trời suốt sáng. Tân đã được Vũ chỉ định làm đội phó, toàn quyền thay anh khi anh vắng mặt hoặc hy sinh. Tân còn đặc trách công tác "quân lương" của đội. Anh vẫn giữ được một trăm viên đa sinh tố. Toàn đội vét lại được hơn một trăm viên nữa, giao cả cho Tân. Tiêu chuẩn đã được ấn định: mỗi người chỉ được phát năm viên một ngày cầm hơi, còn ngoài ra   phải kiếm lá rừng, củ rừng ăn đỡ. Giúp cho Tân trong việc lo  ăn uống còn có Đĩnh  voi và Công Bằng. Chàng trai đô vật đất cụ Đề Thám tuy chỉ còn một tay lành lặn, nhưng một tay của anh cũng bằng bốn tay của người khác. Còn Công Bằng vốn   người Tày Lạng Sơn, anh rất rành các loại cây, lá trong rừng, có thể biết loại nào   lành, loại nào độc. Đĩnh và Công Bằng sẽ giúp Tân lo kiếm cái ăn, nhưng hai anh này vẫn có nhiệm vụ làm "lực lượng tác chiến chủ lực" của toàn đội. Và Nhẫn trưởng  máy, con người béo lùn và hay cằn nhằn, phần nào giống ông Thiêm, vốn là thợ máy lừng danh của mỏ Đèo Nai cũ, được trao nhiệm vụ sửa chữa vũ khí và phân phát đạn dược. Riêng Tuế, cậu học sinh lớp mười Thanh Hóa vốn là con một ông lang, cũng biết võ vẽ ít nhiều về thuốc men dân tộc, được trao đặc trách săn sóc Vận và các vết thương của toàn đội. Trợ lực cho Tuế về mặt tìm thuốc có thêm Công Bằng, vì anh là dân miền núi, cũng có biết một chút thuốc.

Đêm đó, Vũ lại nằm với Vận. Và anh bỗng nằm mơ. Anh thấy mình đang đi chơi với Duyên ở một bờ biển, dường như một bến cảng nào đó. Gió dạt dào như hát trên các hàng phi lao. Sóng rì rầm, mơn trớn, vỗ về những con tàu đang trú đậu và rủ rê chúng tiếp tục ra đi. Duyên cười, rồi Duyên khóc. Rồi Duyên tự nhiên đùng đùng bỏ đi. Anh đuổi theo, Duyên chạy rất nhanh. Anh nghiến răng lại mà không sao đuổi kịp. Rồi   anh bỗng ngã nhào. Anh lại chồm dậy, anh gọi. Anh gọi đến kiệt sức. Tiếng anh bay đi, tan trong gió mênh mông một vùng biển xanh ngăn ngắt, xanh đến lạ lùng như nhuộm phẩm. Rồi tự nhiên thân anh trôi đi lênh đênh trên làn nước xanh trong suốt  ấy. Anh cứ nằm ngửa, mở to đôi mắt nhìn lên bầu trời cao vòi vọi không một gợn  mây. Chỉ có độc một mặt trời vàng ửng như một trái cam. Cứ  nhìn như thế mãi,  không vui và cũng chẳng buồn, chỉ thấy toàn thân mình ê ẩm, đau nhức, đau mãi, rồi tất cả tứ chi cùng rời ra, từng chiếc, từng chiếc, thong thả rơi xuống đáy biển, nơi  nước mỗi lúc một vàng ra như hổ phách, rồi dần dần đen kịt lại, lạnh buốt. Có những con quái vật và đàn cá mập miệng há ra, bơi lượn, hầm hè bốn chung quanh. Anh muốn quát lên mà quát không được. Anh dốc toàn lực, gắng chồm lên đấm mạnh vào đầu một con cá mập lớn vừa lao tới. Nhưng sao quả đấm cứ nhẹ bẫng, đấm không sao nổi nữa. Anh bật thét lên một tiếng điên giận và tuyệt vọng.

Anh tỉnh dậy, mồ hôi đầm đìa trên mặt. Thì ra anh đã nằm đè về phía trái tim mình. Cũng lúc đó, Vận cựa quậy và lại lảm nhảm những điều gì đó. Tiếng thở khò khò từ vết thương hai buồng phổi anh thoát ra, ban đêm, nghe muốn dựng cả tóc gáy.

***

Toàn đội trỗi dậy tập tễnh, tiếp tục dìu dắt nhau đi. Họ đi từ lúc mờ sáng. Trong rừng không một tiếng chim. Công Bằng, người đẻ ra và lớn lên từ trong rừng biên giới nói: "Như vậy vẫn còn có địch quanh đây!".
 

Tới lúc ngẩng lên, nhìn qua vòm lá, thấy mặt trời đúng đỉnh đầu, mọi người mới dừng lại để ăn cái gọi là "bữa ăn trưa".

Đĩnh voi, Công Bằng trong lúc hành quân đã chú ý bắt nhặt được ngót một chục con ốc sên, và hái được một nắm lá thiên tuế non, một ít đậu ma, và một số quả dẹp.

Không có diêm. Đập đá vào nhau cũng không lấy được lửa.

Toàn đội cùng nhai sống tất cả bằng ấy thứ. Nhai  mà muốn nôn oẹ. Nhưng không  một chiến sĩ nào để lộ một nét nhăn. Cũng không cả một tiếng ca cẩm, than vãn. Tất cả, người nào cũng đều cố tạo ra một vẻ bình thản, hơn thế nữa, cố nở một nụ cười để cổ vũ bạn và chắc chắn cũng để cổ vũ chính mình. Tân đã ra dáng một phụ tá chỉ huy. Anh an ủi người này một câu, anh khích lệ người khác một lời. Vũ cũng luôn luôn   tìm cách pha trò để cố kiếm lấy tiếng cười hiếm hoi. Đĩnh voi, chàng hay tán, lúc này bỗng trở nên "hữu ích" đặc biệt. Không hiểu chàng ta nghe được ở đâu mà đã tuôn ra đủ các loại món ăn ngon lành ở hậu phương làm anh em muốn ứa nước miệng. Đặc biệt hơn cả là khi anh ta bắt đầu đề cập tới món chả chó:

-   ... Các ông có hiểu không, chả chó cũng năm bảy đường chả chó! Chả chó quê  tôi  ấy à, các cụ bảo có lần Bảo Đại ngày trước đã phải trút bỏ long bào, làm hẳn một tay chuyên hám "cờ tây"(2)đến làng tôi xin ăn thử. Ăn xong lão ta lăn đùng ngay  giữa  sân nhà con mẹ thịt chó góa chồng chuyên bán thịt  chó cho tiên thứ chỉ trong làng,  mà tuyên bố rằng: "Thôi, trẫm cóc cần làm vua nữa, trẫm xin lấy luôn con mụ này để quanh năm được ăn chả chó làng Gành!".



(2)   Cầy tơ - tiếng nói lái vui. Tân thét lên:
-   Thế cái chả chó làng mày làm thế nào mà mãnh liệt đến thế hả?

-   Ôi, bí mật! Bí mật gia truyền! Bí mật! Nhưng thôi được, chỗ anh em tôi cũng xin  tiết lộ chút ít để anh em mấy bữa nữa về Bắc, thử làm coi. Thế này nghe! Thịt, phải chọn thứ thịt có giắt mỡ, mà chó phải là chó thật già! Đúng! Hượm cãi nào!  Ở đâu  nói cầy tơ ngon là chưa biết ăn thịt chó. Các cụ làng tôi bảo phải là chó già! Đúng! Càng già, càng ngon. Nhưng chó già, lại phải chọn thứ có lông mày cụp xuống và râu phải vểnh thật hách kia, mới được!

Cả mấy con người bỗng gần như cùng ngã lăn đùng ra mà cười:

-   Bố láo! Chó lại có thứ chó hách!

-   Thôi! Không tin, không nói nữa! Đúng là phải xem râu! Xem cả râu nữa! Râu thật hách!

Lại một lần nữa, toàn đội bò ra mà cười.
 

-   Thôi! Dẹp cười! Để đi luôn vào các khâu kỹ thuật nghe! Thịt cắt ra từng miếng rồi ướp, nghe! Ướp thì cũng riềng mẻ, mắm tôm thôi. Nhưng có một cái đặc biệt không thể thiếu: đó là phải giã lá húng, vắt lấy nước, lấy vài chục giọt. Trộn vào. Nhưng  chưa xong! Còn lá ổi non nữa. Cũng phải giã lấy nước. Cũng vài chục giọt thôi. Ướp xong, xiên que. Nhưng phải thứ que chuyên nghiệp nhé! Tre mới là vứt đi. Phải là thứ que đã nướng vài ba con rồi là ít. Nướng nhé! Phải là than tốt! Nhưng lại phải là than bàng nhé! Đúng! Than cây bàng ấy mà! Nhưng chưa xong, trong chậu than còn phải thêm, các ông biết cái gì không: hai, hai nhé, chứ không phải một, mà cũng không  phải ba! Hai thanh trầm để luyện thêm hương. Mà đặc biệt phải là trầm hương xứ Nghệ...

-   Đã bảo im để nói nốt mà! Thế rồi quạt lên nhé! Thịt cứ vàng dần, vàng dần, rồi mỡ bắt đầu xèo xèo, xèo xèo nhểu ra từng giọt, từng giọt, mùi thơm bắt đầu tỏa ra... và tâm hồn cũng bắt đầu bay bổng...

Lại cười, lại réo lên mà kêu "ông thánh tán".

Cứ như thế vừa cười vừa nhấm lá thiên tuế, nhai lá đậu ma, và nuốt cả những con ốc sên tanh mửa.

Bữa "ăn trưa" xong.

Toàn đội lại tiếp tục cuộc hành trình. Mặt trời xế dần.
Rừng vẫn bưng bít bao quanh.

Vũ lại ra lệnh nghỉ để ăn "bữa chiều". Bữa này, Đĩnh voi đưa ra một bọc lá, trịnh  trọng tuyên bố: "Món mới đây!". Mọi người hồi hộp. Mở ra: một ổ kiến vàng...

-   Ôi, ông Voi! Ông cho anh em ăn kiến hả?

-   Chứ sao? Ăn thử xem! Vi-ta-min C đấy chứ bộ! Dễ đã có! Nó đoạn anh nhúm mấy con cho luôn vào miệng, nhai liền. Mọi người dè dặt cùng làm theo. Đắng... chua chua...
Vũ cũng nhón một ít ăn. Anh gật đầu, làm ra vẻ ngon lành thực sự:

-   Được đấy! Không sao! Đúng là vi-ta-min C thật! Hôm nay cho cậu Đĩnh bốn điểm.

"Bữa ăn" lại xong. Nhưng Tuế đột nhiên lảo đảo gục xuống. Mặt anh trắng nhợt. Mọi người xúm lại. Đôi môi Tuế khô nứt.

-   Khát! Em... khát quá!... Chết mất!...
 

Khát! Cái từ ghê gớm ấy, thật ra suốt từ sáng tới giờ không một ai dám thốt  lên.  Khát! Tất cả đều cố nhịn, và cũng cố giấu đi, để khỏi làm xao xuyến đồng đội. Khát! Cả một vùng núi đá, rừng rậm khô cằn này, đã đi suốt một ngày trời, để ý rất kỹ mà vẫn không nhìn thấy một hốc nước nhỏ nào, chưa nói tới một khe nước.

Khát!

Tiếng kêu ấy vừa bật lên, quả nhiên, tất cả đều sững sờ, hoảng hốt. Khát!
Tân nhìn Vũ. Hiểu cái nhìn ấy, anh khẽ gật đầu. Tân đến bên Tuế khe khẽ:

-   Gắng chịu, Tuế ơi!

-   Khát!... - Tuế gần như mê đi. Anh quằn quại, vật vã - Em... khát... Tân tiếp tục khe khẽ:
-   Vậy... chịu uống một chút... nước tiểu nhé! Được không? Tuế vẫn quằn quại. Đôi mắt dại đờ. Nhưng anh gật đầu.

Tân đứng dậy, ra sau một gốc cây. Lát sau anh đem lại một chiếc bồ đài kết bằng lá dại, trong đựng một thứ nước vàng vàng, nồng hắc.

Tuế vồ lấy cái bồ đài ấy. Anh ngửa mặt, uống một hơi liền, rồi nằm úp mặt xuống đất thở dốc.

Toàn đội im lặng nhìn nhau. Đĩnh voi lại cố tìm một câu chuyện buồn cười nào đó. Nhưng anh không sao "nặn" ra nổi nữa. Trong lòng anh như có mưa tuôn.

Trời tối dần. Những gương mặt nhòa đi.

-   Thôi, ta tạm nghỉ ở đây! - Vũ nói.

Mọi người lại chia tay nhau nằm tản rộng, và cắt gác.

Vũ lại nằm bên Vận. Sờ tay vào người bạn, anh lo lắng. Vận càng nóng, càng mê  man. Những tiếng khò khò từ trong ngực anh nghe yếu dần.

Vũ không sao ngủ được nữa. Trong lúc đó, anh em mệt nhọc suốt cả một ngày trời đã thiếp đi.

Bỗng Vũ thấy một bàn tay sờ soạng tìm bàn tay mình. Rồi tiếng Vận thều thào cất  lên:

-   Vũ! Đồng chí... Vũ! Vũ chồm dậy, lo lắng:
 

-   Sao? Anh Vận? Anh làm sao?

-   Máu... máu đang tràn ra trong ngực!... Tôi... tôi biết... Nguy rồi!...

-   Trời ơi! Anh Vận! - Vũ như thét lên. Anh quay lại lay Tân, rồi chạy sang phía hốc  đá bên lay Đĩnh.

-   Dậy! Dậy mau!

Toàn đội đã ngồi vây quanh Vận. Đèn dù đêm nay tuy ít hơn đêm trước, nhưng vẫn còn lấp lóa. Ánh sáng lạnh lẽo loang lổ chiếu xuống. Râu đã mọc gần kín khuôn mặt Vận. Đôi mắt lồ lộ của anh long lanh khác thường. Anh nhếch đôi môi trắng bệch, hai tay ôm lấy ngực:

-   Các đồng chí đấy ư?... Tôi... tôi... biết mình... Xin... vĩnh... biệt! Toàn đội, nước mắt cùng chảy dài.
Vũ bỗng giơ tay:

-   Khoan! Các đồng chí chú ý, anh Vận muốn nói thêm điều gì đó! Vận quay mặt lại, nhìn Vũ. Ôi, cái nhìn sao đau thương...
-   Các đồng chí ạ! Tôi chỉ... xin nhờ... nếu về Bắc được... gặp các cháu... nói giùm: Suốt mấy năm qua... tôi đau khổ... tôi quằn quại... sau khi... mắc phải khuyết điểm. Nhưng... tôi không ngại... cấp trên... thành kiến... cũng không  ngại... anh em trên  tàu... ghét bỏ. Tôi chỉ sợ... các con tôi... mang tiếng là... đã có... một người cha... hèn nhát... chạy trốn... bỏ nhiệm vụ... Như thế... tôi sẽ ân hận... suốt đời... Nhưng  nay...  tôi đã... dầu sao... cũng làm tròn... nhiệm vụ... và giữ được... phẩm chất... người cán bộ, người... Đảng viên... Tôi chết đi... thôi thế là... không còn... ân hận gì nữa... Chỉ thương cho... các cháu... hãy còn... thơ dại...

Lát sau Vận lại tiếp. Nhưng tiếng anh càng thều thào. Yếu lắm rồi.

-   Tôi tiếc... đồng chí Thuận... đã hy sinh trước tôi... Tôi biết... lúc đầu... đồng chí ấy... cũng ngại tôi... sợ là... cái vạ... cho tàu. Nhưng... đúng là... nếu đồng chí ấy...  cứ  thành kiến mãi... khéo tôi... hỏng thật... là cái vạ thật. Nhưng... đồng  chí ấy... dần dần... hiểu tôi... thương tôi... tin tôi... cũng vì vậy tôi đã... đứng dậy được... cũng nhờ đồng chí ấy... một phần...

Lát sau nữa, Vận bỗng lại mở choàng mắt, ngơ ngác:

-   Còn... đồng chí Khôi... bây giờ... ở đâu? ... Có được làm tham mưu phó nữa không?... Nhưng khéo lại... làm to hơn nữa... không biết chừng... Anh ấy... khôn  ngoan quá... Nhưng anh ấy... cũng... tầm thường quá!

Đầu Vận ật sang một bên. Tiếng khò khò im bặt.
 

Toàn đội cùng một loạt khóc òa.

Gió rít trên những tàu lá khô khốc. Lá rụng tơi bời, lả tả, phủ lên thi thể người liệt sĩ. Xa xa, biển cũng đang gầm lên. Sóng vật vã, liên tục xô vào chân các vách đá. Bọt tung lên ngất trời. Bọt sóng bay lên, bay lên mãi như để đưa hồn người tử sĩ hải quân đi xa...

***

Đã sang ngày thứ ba. Rồi ngày thứ tư.

Đoàn người tiếp tục dệch dẹo, lê lết, kéo nhau, dìu nhau kiên nhẫn đi. Nghe tiếng
L.19 đã xa xa một chút. Biết rằng dẫu sao cũng đã đi khỏi được vùng núi đá, vẫn còn bao quanh trùng trùng. Đá vẫn tầng tầng cao thấp. Vẫn chưa tìm thấy một dấu vết của "Bến".

Đói và khát.

Lại lá thiên tuế. Lại quả dẹp. Lại đậu ma. Lại ốc sên. Lại kiến vàng. Lại nước giải. Nhưng dường như nước giải cũng đã cạn.
Khát đến cháy bỏng hết cả các cuống phổi. Sức càng kiệt đi. Đĩnh  voi  cũng không còn có thể tán được như mọi khi nữa. Đêm lại xuống. Cơn khát tiếp tục giày vò, cấu  xé từng người đến phát điên, phát cuồng. Tân bắt buộc phải lên tiếng:

-   Anh Vũ ạ! Phải cử người đi tìm nước thôi! Xem ra nhiều anh em không sao chịu nổi nữa! Và cũng không sao đi nổi nữa.

Vũ gật đầu. Anh nói với anh em dừng lại ở lưng chừng một sườn núi, rồi cử Đĩnh voi và Công Bằng xuống chân núi trước để tìm cái uống cho toàn đội.
Logged
trachvandung
Cựu chiến binh
*
Bài viết: 747



« Trả lời #16 vào lúc: 27 Tháng Mười, 2021, 07:50:02 am »

Đĩnh voi, Công Bằng cùng khoác súng đi.

Đêm, càng khuya, càng lộng gió. Núi rừng như có hồn sống, trỗi dậy, thì thầm, đi lại, bí mật, u ẩn lạ lùng. Cũng như mọi đêm, Vũ chỉ chợp đi được một lúc; rồi mắt lại chong chong. Đầu óc lại ngổn ngang rối bời. Nhưng luôn luôn, cuối cùng bao giờ  hình ảnh những kiện hàng vẫn lại hiện lên trước mặt anh chồng chất, ngả nghiêng, nghiêng ngả, cả gương mặt Duyên, cả mọi nỗi vui buồn, không sao nhận ra nữa...

Nửa đêm. Rồi sắp sáng. Đĩnh voi với Công Bằng vẫn chưa trở lại. Ruột Vũ mỗi lúc một thêm nóng như lửa đốt.

Rồi sáng bạch.

Vũ gọi tất cả anh em dậy. Anh hội ý với Tân và quyết định: tất cả cùng tụt xuống  chân núi để tìm hai người đi lấy nước.
 

Lên dốc cái cái cực của lên dốc. Xuống dốc cũng có cái cực của xuống dốc. Từng người lại nghiến răng bám cây, ôm đá mà tụt, mà lao xuống. Tuế yếu sức nhất. Nhiều lúc anh tuột tay, lăn bon bon, rồi nằm ngất dưới chân một tảng đá, hoặc một gốc cây. Nom thương quá, Vũ quyết định: Tuế phải luôn luôn đi bên anh, để anh dìu đỡ. Tuế kinh ngạc: người thuyền trưởng của anh đã bị thương cũng chẳng ít nào, nhưng xem  ra vẫn có một sức chịu đựng dường như khó tưởng tượng được nổi. Nhìn Vũ nghiến răng bước đi, có lúc Tuế liên tưởng tới một con báo đã bị thương tập tễnh, nhưng vẫn mãnh liệt, nhảy nhót, leo trèo liên tục trong rừng rậm. Cũng có lúc anh lại nghĩ tới hình ảnh một Đan-kô (3)xé tan lồng ngực đang cầm trái tim mình để soi đường dắt đoàn người vượt qua đêm tối...



(3)   Nhân vật thần thoại Nga trong một truyện của Mác-xim Goóc-ki.

-   Công Bằng! - Vũ bỗng thốt lên một tiếng.

Dưới chân  dốc, trên một bãi đất hơi bằng phẳng, có nhiều bụi cây, chàng trai miền  núi Lạng Sơn đang nằm đó, dang cả hai tay, mắt nhắm nghiền, không động đậy.

Tất cả cùng lập cập chạy lại.

Nhưng, ghé mắt xuống nghe, Công Bằng vẫn còn thở. Anh bỗng mở choàng mắt, ngơ ngác:

-   Thuyền trưởng!

-   Công Bằng! Sao vậy? - Vũ xốc nách đỡ người chiến sĩ của mình dậy. Công Bằng  lắc đầu, lử lả:

-   Không! Không sao cả. Em chỉ bị mệt quá, mới lả đi thôi.

-   Vậy Đĩnh đâu?

-   Anh ấy lên đón đội xuống mà! Mọi người cùng sững sờ, nhìn nhau.
-   Thế là lạc mất Đĩnh rồi! - Vũ buột nói như kêu lên. Tân cũng buồn bã gật đầu:
-   Em cũng nghĩ thế! Vũ gặng:
-   Nhưng có khả năng nào xấu hơn thế nữa không? Thử tính kỹ lại xem! Tân hiểu ý Vũ, ngẫm nghĩ rồi lắc đầu:
 

-   Không anh ạ! Nếu gặp địch thì chắc chắn cậu này sẽ nổ súng, không bao giờ đầu hàng. Em biết cậu này lắm. Thêm nữa, ta có nhiều khả năng đã ra thoát khỏi vùng có địch lùng sục rồi. Còn thú dữ, thì xem ra ở đây không có. Vậy chỉ có khả năng là lạc.

Mọi người cùng cất tiếng nói theo, hoàn toàn đồng ý với sự suy xét, phân tích của  Tân.

-   Bây giờ anh định sao đây, anh Vũ? - Tân hỏi.

-   Chờ!

-   Chờ tới bao giờ?

-   Chờ bằng thời gian từ chỗ ta ngủ đêm qua tụt xuống tới đây, và thêm từ đây ngược lên tới đó.

-   Vậy cũng phải hai ba giờ.

-   Nếu cần bốn giờ ta cũng chờ! - Vũ đáp rồi quay lại phía Công Bằng:

-   Vậy tìm ra nước rồi sao mà Đĩnh trở lại đón bọn tôi?

-   Có! Có thuyền trưởng ạ! Cả đội mừng rú.
-   Gần hay xa?

-   Chỗ kia! Dưới bụi cây kia! Mọi người cùng như bay lại. Một vũng bùn lắp xắp nước. Tất cả lại đứng sững. Vũ nói:
-   Không sao! Tốt lắm! Bây giờ trong khi chờ Đĩnh, ta cố vét, chắt lấy từng vụm nước mà uống.

Công Bằng nói theo:

-   Đĩnh và em cũng đã làm như thế. Nhưng... tanh và bẩn lắm. Vũ cười:
-   Không sao! Lọc kỹ vào! Nào, ai còn mảnh áo nào xé nốt đưa đây.

Thế là một công cuộc vét bùn, chắt nước, lọc nước, khẩn trương, hăm hở diễn ra.
 

Nhưng cuối cùng, mỗi người chỉ được một vài ngụm. Bùn hết, chỉ còn trơ lại đá. Đêm lại xuống. Một ngày nữa qua đi.
Sang ngày thứ năm, Đĩnh vẫn mất hút, không biết còn sống hay chết. Toàn đội chỉ  còn lại có năm: Vũ, Tân, Nhẫn, Tuế và Công Bằng.

-   Ta đi thôi! Đành vậy các đồng chí ạ! Không phải chúng ta thiếu lòng kiên nhẫn chờ Đĩnh. Mà bởi chúng ta còn có nhiệm vụ tìm "Bến" để giao hàng. Nhưng, tôi cảm thấy có lẽ ta vẫn phải đi men theo bờ biển. Bởi "Bến" nhất định không bao giờ ở quá sâu trong đất liền.

Nói đoạn, Vũ lại chống cây AK đứng dậy, vẫy Tuế bám sát theo mình.

Và, cả ngày hôm ấy, lại ốc sên, lại kiến vàng, lại lá thiên tuế... lại chia nhau từng vụm nước bùn. Và lại chỉ đi được chừng một, hai cây số.

***

Đã bước sang ngày thứ bảy.

Buổi sáng nay Vũ gọi anh em dậy cảm thấy khó hơn bao giờ hết. Không phải vì ngái ngủ. Mà biết anh em đã gần kiệt sức. Cứ suy bản thân mình, Vũ đã có thể hiểu quá rõ điều đó. Tân không hề bị một thương tích nào hết. Mọi hôm năng nổ làm vậy, sáng nay cũng đột ngột lên cơn sốt.

Nhưng Vũ sửng sốt, ngạc nhiên hơn nữa, khi thấy Nhẫn trưởng máy bất thần cất tiếng vừa gay gắt vừa đau khổ:

-   Thuyền trưởng ạ! Nói thật đi! Có thật là chúng ta đã đi đúng hướng không? Hay là thuyền trưởng chỉ động viên anh em... để rồi cùng chết gục cả trong xó rừng này?

Liền sau đó, Tuế cũng rên rỉ hỏi theo:

-   Có phải là ta vẫn lạc phải không? Ta đã hoàn toàn tuyệt vọng rồi phải không thuyền trưởng.

Vũ lặng đi vì đau đớn. Anh nhìn Tân vẫn đang sốt miên man nằm đấy. Thế là, hôm nay không phải toàn đội đã tới được nơi có "Bến", mà đã tới bờ vực của một sự suy sụp hoàn toàn. Phải chăng con người đã đi tới cái ranh giới cuối cùng của lòng kiên nhẫn, của niềm tin và sức chịu đựng?

-   Thuyền trưởng? Nói đi! Để chúng ta sẽ cùng liệu. Còn một ít đạn đây! Cũng thừa đủ cho cả mấy anh

em ta!
 

Nhẫn lại nói như điên, như mê sảng, lưng dựa vào một gốc cây, đầu ngoẹo sang một bên, mặt trắng bệch.

Tới lúc đó thì Vũ phải nói. Nhưng không phải là an ủi, dỗ dành như mọi khi. Anh đứng thẳng sống lưng, đôi lông mày dựng xếch. Từng lời nói của anh rít trong kẽ   răng bật ra:

-   Hãy nghe đây các đồng chí! Phải giữ vững lòng tin của mình! Mất hết lòng tin, dù sống hay chết chúng ta cũng nhục nhã! Nhân danh bí thư chi bộ, tôi kêu gọi tất cả các đồng chí Đảng viên: Hãy tỉnh táo! Hãy bình tĩnh cho tới hơi thở cuối cùng! Hãy giữ vững bản lĩnh, khí tiết của người chiến sĩ Hải quân nhân dân Việt Nam! Chúng ta  chưa phải đã cùng đường. Phải tiếp tục phấn đấu!

Anh thoắt nghĩ tới câu chuyện xa xưa của ông Crít-xtốp Cô-lông... Đúng! Phải đứng vững! Phải biết gan góc, và thậm chí phải biết quyết liệt trong những giây phút  cực  kỳ khó khăn này, cái giây phút mà chỉ lùi nửa bước sẽ hoàn toàn sa xuống vực thẳm. Và ngược lại, nếu biết giữ vững, cố nhích lên cũng chỉ nửa bước thì lại có thể giành được những thắng lợi mà không sao lường trước được hết mọi tầm quan trọng.

-   Các đồng chí! Đứng dậy! Theo mệnh lệnh của tôi: Tiếp tục tiến!

Kỳ lạ thay, cả năm con người đều đứng ngay dậy, nghiêm chỉnh thành một hàng dọc, khá đều đặn, anh nọ lại bám anh kia, tiếp tục cất bước.

Vũ đứng chống cây AK, ngắm nhìn nhúm người của mình, rách rưới, tả tơi, máu me bê bết đã đen cứng khắp người, râu tóc bù xù như những Rô-bin-xơn. (4) Bỗng nhiên anh thấy thương họ, yêu họ và kính trọng họ vô hạn. Ai dám bảo chiến tranh đã biến những con người thành những con vật? Không! Có hai thứ chiến tranh! Rõ ràng đó không phải là chuyện giáo điều, sách vở! Chúng ta tiến hành chiến tranh, cuộc chiến tranh giải phóng thiêng liêng, thần thánh này, dầu cho có lúc chúng ta như bị nhận chìm xuống tận cùng của đau đớn và cùng khổ, nhưng rõ ràng chúng ta vẫn luôn luôn là những Con Người - Những Con Người sáng suốt - Những Con Người viết hoa, đẹp nhất.



(4)   Nhân vật trong cuốn tiểu thuyết phiêu lưu của Đê-phô-ê (Anh). Qua ngày thứ tám.
Rồi ngày thứ chín.

Cho đến ngày thứ mười...

Năm "ông Rô-bin-xơn" vẫn tiếp tục lết đi trong rừng rậm. Mười một ngày trời khủng khiếp đã vắt gần hết tàn lực cuối cùng của họ. Tinh lực giảm sút đã tới mức thấp nhất. Kể cả Vũ. Đầu óc anh giờ đây không còn có thể nghĩ ngợi gì nhiều và xa nữa. Chung
 

quanh anh đã như một đám mây mờ. Chỉ còn le lói, hồng hồng như một ngọn lửa duy nhất ở phía trước: "Bến".

Thốt nhiên Tân dừng lại, cất tiếng, giọng anh hôm nay khản đặc, nghe lạ hẳn:

-   Rừng quang ra nhiều quá, thuyền trưởng ạ!

Vũ định thần nhìn kỹ. Rồi anh chống cây súng tập tễnh bước vượt lên phía trước. Anh ôm chầm lấy một thân cây mốc trắng. Bầu trời phía trên đầu anh như quay đảo.
-   Làng!

Anh chỉ thốt lên được một tiếng, rồi nghẹn đi. Làng.
Đúng là một cái làng.

Một cái làng đã bị đốt cháy trụi, chỉ còn trơ lại những cột gỗ đen sì, mưa nắng đã mài mòn nhẵn. Không một bóng người. Không một tiếng chó sủa. Thậm chí không một tiếng chim. Nhưng đúng là một cái làng.

Vậy, chắc dân ở quanh đây, không xa lắm nữa. Vũ vẫy tay:
-   Tân! Xuống trinh sát! Tôi và Công Bằng sẽ yểm hộ cho cậu.

Tân "rõ" một tiếng, sấp ngửa tụt xuống dốc. Anh dừng lại trước một bụi cây rậm, chăm chú quan sát.

Bỗng nghe "roạt" một tiếng, anh quay lại. Một họng  súng chĩa tới. Một người vận  một bộ đồ bà ba đen ló nửa mình ra khỏi đám lá.

Tân đã  nhìn rõ một cây bá đỏ. Miệng anh há hốc, như cứng lại, đến nỗi không thốt  lên nổi một lời nào nữa.

-   Biển động, bão lớn! - Người mặc bà ba đen nói. Tân cố nén mọi xúc động, run rẩy đáp lại:
-   Trường sơn, nổi gió!

Người mặc bà ba đen nhào tới. Anh gào lên như điên:

-   Trời đất! Đây rồi! Đây rồi! Họ đây rồi! Các đồng chí ơi!

***
 

Cũng không ngờ "Bến" đã được lệnh cấp tốc di chuyển ngay lúc chập tối hôm đó vì địch đã phát hiện được con tàu của ta. Lệnh trên: chỉ giữ lại một tổ ở địa điểm cũ để liên lạc với con tàu nếu nó vào được, rồi dẫn đường cho đoàn thủy thủ rút khỏi vòng vây địch theo một con đường rất mật mà chỉ riêng "Bến" mới biết.

Cũng không ai ngờ, tổ ba người để ở lại đón tàu đã hy sinh toàn bộ ngay trong đợt pháo lớn đầu tiên từ những chiếc tuần dương hạm ngoài xa bắn vào bờ.

"Bến" đã cho nhiều tổ đi khắp các nơi tìm kiếm. Nhưng càng ngày nỗi thất vọng càng tăng. Tới ngày thứ năm, một tổ tìm kiếm đột ngột trở về. Anh em khiêng theo một người bị thương.

Người đó khai tên là Lê Văn Đĩnh. Bị lạc đội, anh ta gặp một toán thám báo Mỹ. Không kịp tránh, anh đã ném liền hai trái lựu đạn. Bọn thám báo Mỹ đổ hết. Anh cắm đầu tháo chạy và rơi xuống một khe đá, chết ngất.

Tổ tìm kiếm đã đến tận chỗ ba tên Mỹ chết để xác minh lại. Anh em đã thu được một máy vô tuyến điện nhỏ và ba cây Ga-răng với nhiều lựu đạn, cùng khiêng về theo với Đĩnh.

"Bến" đã đưa Đĩnh vào trạm xá, rồi cấp tốc tăng thêm số người đi tìm kiếm đoàn thủy thủ còn lại.

Đồng chí bến trưởng là một người khu Năm đã có tuổi, chưa một lần nào ra Bắc. Ông ngạc nhiên khi thấy mấy con người chỉ còn da bọc xương, với thương tích be bét, áo quần tơi tả, râu ria như những người rừng vẫn đứng xếp hàng ngang rất nghiêm chỉnh trước mặt ông. Đúng là những Chiến sĩ!

Ông nghẹn ngào bước lại, ôm lấy từng người:

-   Nhân danh bến trưởng, tôi nhiệt liệt khen ngợi các chiến sĩ! Và cũng nhân danh một người miền Nam, tôi trăm lần cảm tạ, ngàn lần cảm tạ các chiến sĩ! Tôi biết nói thế nào đây? Tôi biết nói thế nào nữa đây, hả các đồng chí?...

***

Hai mươi ngày sau khi nằm điều trị ở trạm xá của "Bến", các vết thương đã đỡ, mấy anh em xin đi, để lên Trường Sơn bắt liên lạc với các trạm giao liên, trở ra Bắc.  Không thể nào giữ họ được nữa, ông bến trưởng bùi ngùi cho vét voi còn bao nhiêu gạo đem chia hết cho cả mấy anh em. Mỗi người được hơn hai lon, cộng thêm một nhúm muối.

Một lần nữa, ông trưởng bến lại ứa nước mắt, nghẹn ngào ôm  lấy từng người, nhắc  lại câu nói hôm nào:

-   Nhân danh là trưởng bến... nhân danh một người miền Nam...
 

Đường đi từ "Bến" lên Trường Sơn phải vượt qua lộ Một, vượt qua cả một vùng đồng bằng địch nhiều như trấu. Trạm chỉ có vài ba người. Không có ai dẫn đường cho đoàn thủy thủ. Bản đồ, địa bàn cũng chẳng có. Chỉ còn biết ngoảnh mặt về phía tây, nhằm những chỏm núi xanh rì mà chỉ cho nhau:

-   Đấy! Các đồng chí cứ hướng ấy mà đi! Khắc đi khắc tới thôi. Trót lọt, bình yên vô sự thì dăm bảy ngày. Trục trặc gặp biệt kích, gặp địch càn... thì nửa tháng, hoặc một vài tháng cũng nên. Không biết đâu mà lường trước được hết. Tụi tôi đã đi nhiều, nên biết rất rõ, chỉ có một "cẩm nang", một "bảo bối" duy nhất, ấy là: tin tưởng ở dân, và biết dựa vào dân. Đấy! Tất cả kinh nghiệm chỉ có chừng nấy là quý nhất.

Mấy anh em vẫn quả quyết lên đường: ngày nghỉ, nằm bụi nằm bờ, đêm đi, đi thấu sáng. Bảy ngày sau anh em đã vượt hết vùng đồng bằng, cả vùng giáp ranh, lên tới rừng. Cũng may sao, và cũng khéo làm sao, không một đêm nào họ đụng địch.

Ngày thứ tám, mấy anh em cùng mừng rú khi nhìn thấy một chiếc lán trong một khe núi sâu. Trong lán có năm sáu nữ thanh niên, nói toàn giọng Nghệ An, Hà Tĩnh.  Chẳng cần hỏi, Vũ và anh em đều biết đó là mấy cô thanh niên xung phong từ ngoài Bắc vào.

Vũ và Tân hăng hái bước vào lán trước. Cả hai đều khấp khởi đợi chờ một sự mừng  rỡ đến bàng hoàng của mấy cô. Nhưng không ngờ vừa trông thấy hai anh em, các cô đã tỏ ra rất ngạc nhiên đồng thời vô cùng lạnh nhạt.

-   Báo cáo các đồng chí! Chúng tôi là bộ đội bị lạc đơn vị. Đề nghị các đồng chí chỉ giúp xem có trạm giao liên nào gần đây không...

Tân nói hết sức dịu dàng và mềm mại. Nhưng anh chưa hết câu, một cô đã quát to:

-   Không biết!

Vốn bình tĩnh như Vũ mà cũng phải sững sờ. Tân thì há hốc miệng ra, không hiểu  sao. Nhưng anh vẫn cố  nài nỉ lại một  lần nữa.  Cô  gái vừa quát,  lần này  càng quát  to hơn:

-   Các anh là đồ Bê quay (5)chứ lạc gì! Muốn sống muốn tốt các anh phải trở về đơn  vị ngay! Không biết xấu hổ hả?



(5)   Tiếng lóng của bộ đội ta vẫn thường dùng trước đây để chỉ những anh em vào Nam bỏ ngũ quay trở ra Bắc.

Trời đất! Thế là hiểu lầm nhau rồi. Vũ cười ra nước mắt. Anh ngắm nhìn lại Tân, ngắm nhìn lại mình: gầy còm, tơi tả thế này, không mũ, không ba-lô, không giày  dép... Thôi đúng là "bê quay" thật rồi, cãi làm sao được nữa! Trong lúc đó Tân ức   quá, gân cổ lên quát giả:
 

-   Các cô không được phép nói bậy! Chúng tôi đâu phải loại hèn nhát ấy! Chúng tôi là... là... (anh nghẹn cứng. Đơn vị anh là đơn vị tuyệt mật. Đã có quy định rồi, bất cứ trường hợp nào cũng không được khai rõ là hải quân) là... bộ đội thật đấy mà! Bị lạc thật mà!

-   Vậy giấy tờ các anh đâu? - Cô gái vặn.

Một lần nữa Tân lại như chết đứng, chỉ còn biết đưa cặp mắt sầu thảm nhìn Vũ. Giấy tờ! Làm gì có những của sang trọng ấy ở đây. Trước khi nhổ neo ra đi đã hủy hết, cho tới một lá thư riêng cũng không còn giữ lại. "Bến" cũng chẳng có giấy, có mộc để cấp cho.

Hai anh em đành đứng ngây ra chịu trận.

Nhưng rồi có lẽ cái vẻ đau khổ quá thành thực của hai anh em đã làm cho các cô gái phải mủi lòng. (Đàn bà, con gái vẫn thường dễ thương người như vậy).

-   Thôi được! Hãy cứ gọi cả mấy người kia vào đây! Cho nghỉ tạm, để báo cáo lên cấp trên xem sao đã.

Các cô nói tới hai tiếng "cấp trên", Vũ bỗng như choàng tỉnh. Ừ nhỉ, tại sao không  nhờ các cô nói với cấp trên hộ. Đã có quy định từ nhà rồi: trường hợp bị lạc không được phép khai rõ quân chủng, đơn vị, nhưng được phép khai tên họ và một ký hiệu mật đã được Bộ tư lệnh hải quân đăng ký với Bộ Tổng Tham mưu. Khai và nhờ điện về Bộ Tổng Tham mưu. Khắc sẽ có trả lời xác nhận của cấp trên. Khắc sẽ có người nhanh chóng tới đón.

Cả mấy anh em được các cô đưa vào một chiếc lán nhỏ bên một khe suối, cách nơi  các cô ở khoảng ba trăm mét. Các cô phát cho mỗi anh một nắm cơm và một nhúm muối trắng, phát mà vẫn ngấm nguýt, vẫn lườm lườm.

Suốt đêm hôm đó không một ai trong nhóm ngủ được. Hy vọng tràn ngập. Biết thế là sống rồi. Biết thế là chắc chắn sẽ trở về được miền Bắc, không sớm thì muộn.

Nhưng nửa đêm, bỗng có tiếng B.57. Chiếc máy bay như một con quỷ cứ rà sát các ngọn rừng mà phóng, đi, hú từng hồi dài. Tiếng rít mỗi lúc một dữ. Vũ đã định nằm gan, sau cũng phải trỗi dậy, nhắc anh em:

-   Thôi, ra hầm, các cậu! Nó lượn vùng này sao nhiều quá. Phải cẩn thận! Mấy anh em cùng nhỏm dậy. Đêm tối om.
Quả nhiên, đúng lúc đó, một trái bom gầm lên. Lửa nháng đỏ một góc rừng.

Đến khi chiếc B.57 đã bay đi khá xa, Tân mới chồm dậy. Mấy anh em cũng chạy lại. Tất cả cùng kêu lên một tiếng rụng rời:

-   Anh Vũ!
 

Không còn tìm thấy đâu dấu vết của người thuyền trưởng, cũng không nhìn thấy cả chiếc lán mà mấy anh em vừa nằm tán gẫu. Nơi ấy lúc này là một hố bom rất lớn, đất đá cồn cồn bốn chung quanh. Thuốc nổ vẫn còn khét sặc. Cây cối đổ gãy bời bời.

Tân và mấy anh em gần như cùng phủ phục xuống những đống đất bên hố bom mà nấc lên, gào lên như điên dại:

-   Anh Vũ! Ôi anh Vũ! Thuyền trưởng! Thuyền trưởng!...

Chương 8

Hà Nội có báo động luôn. Máy bay Mỹ đã leo thang vượt qua vĩ tuyến 20, nhiều lần mon men tới vùng trời Thủ đô.

Cơ quan đã phải chuyển thêm nhiều bộ phận, nhiều phần việc sang khu sơ tán bên Hà Bắc. Cũng vì vậy Ngọc Lý và Duyên đã phải sang đó làm việc nhiều ngày hơn trước. Thỉnh thoảng người này hoặc người kia mới có dịp trở lại Hà Nội.

Chiều nay Ngọc Lý lại quay trở về thành phố để mượn một số sách ở thư viện Khoa học trung ương. Sau đó cô sẽ lên Hòa Bình lấy thêm những số liệu và tài liệu cần  thiết.

Chiếc xe buýt đổ khách ở Bến Nứa, ngay đầu cầu Long Biên. Lý cầm chiếc túi dây đựng mấy thứ lặt vặt bước rảo về phía đường Hàng Đậu. Bỗng cô cảm giác như có ai đi theo mình. Quay lại, cô thấy một thanh niên mặt tròn, nhiều trứng cá, mang kính cận, mặc áo kẻ, ôm một chiếc cặp da. Cô ngờ ngợ. Người thanh niên bước vội tới, lễ phép chào, rồi hỏi:

-   Xin lỗi! Không hiểu cô Lý có còn nhớ tôi không? Lý lục đầu óc mình rồi bật nói:
-   Anh Đức!

Đúng là "Chàng Ngốc"! Cách đây đã lâu lắm, anh ta có tới tìm Duyên một lần ở khu nhà tập thể của cơ quan. Bữa ấy, Duyên đi vắng, anh ta đã nán lại nói chuyện xã giao với Lý một lúc.

"Chàng Ngốc" thấy Lý vẫn nhớ ra mình, sung sướng đến đỏ mặt:

-   Tôi cứ e cô Lý đã quên tôi mất rồi.

Lý cười:

-   Ồ! Không mà!

-   Cô Lý đi đâu vậy?
 

Lý cho anh ta biết là cô vừa ở khu sơ tán về. "Chàng Ngốc" vui vẻ nói anh ta có công việc trên khu gang thép Thái Nguyên, cũng vừa xuống xe.

-   Cô Lý! Vậy, nếu... không có gì trở ngại, tôi cùng đi với cô một quãng được chứ? Lý nhìn anh ta, mỉm cười:
-   Được chứ ạ! Có sao đâu! Anh vẫn khỏe chứ?

-   Dạ khỏe! Cám ơn cô!

-   Hình như... đã lâu rồi, anh không gặp Duyên thì phải?
Một lần nữa "Chàng Ngốc" đỏ mặt. Câu hỏi như một mũi dao chích vào trái tim anh. Giọng anh thoắt nghẹn lại:

-   Vâng. Đã lâu. Lâu rồi! Vâng. Kể từ khi cô ấy phản bội tôi.

Lý quay lại, nhìn vào đôi mắt buồn bã của "Chàng Ngốc". Cô hối hận đã vô tình buột miệng hỏi anh ta về chuyện này.

-   Xin lỗi anh! - Lý nói - Tôi vô ý quá. Lẽ ra tôi không nên nhắc lại việc này....

-   Không sao! Không sao, cô Lý ạ, tôi cũng đang muốn được nói ra những điều phiền muộn. Chính vì vậy tôi rất mừng vì tình cờ được gặp cô ở đây và được đi nói chuyện với cô một đoạn đường. Cô Lý ạ! Đúng là từ khi cô ấy phản bội tôi...

-   Có lẽ anh không nên kết tội Duyên vội vã như vậy...

-   Còn gì nữa, cô? Không phản bội sao cô ấy đã đem đi rêu rao tất cả những gì mà tôi đã đối xử với cô ấy, kể cả mối tình chân thực, vụng về và khốn khổ của tôi, với ông trưởng phòng của cô ấy? Để làm gì nhỉ? Để thanh minh là cô ta vô tư, là trong sáng  ư? Để nói rằng tôi là kẻ tồi tệ, xấu xa ư? Và  theo lô-gích, như vậy cũng là để thầm  bày tỏ cả sự phục tùng, lòng tin tưởng tuyệt đối của cô ta với cấp trên ư? Hay là còn nhằm một mục đích gì khác nữa? Nói tóm lại, cô ấy đã phản bội tôi một cách khá
thấp kém.

-   Anh Đức! Anh xem có nặng lời quá không?

-   Tôi không còn cách nào nói khác hơn, cô Lý ạ! Tôi biết có những cô gái không chấp nhận được tình yêu của người đang theo đuổi mình, hoặc thôi không yêu người mà mình đã một thời từng yêu dấu nhưng họ đều im lặng. Tôi chưa hề thấy một ai đã đi  kể lể lung tung để "bán" người tình cũ của mình hoặc đang đeo đuổi mình. Cô Lý ạ, như thế đấy! Tôi buồn lắm. Tôi chỉ buồn thôi, và chẳng hiểu vì sao. Sau tôi mới biết  cô ấy đã yêu một anh hải quân nào đó. Nhưng tại sao cô ấy lại không nói thật với tôi, và im lặng cắt đứt mọi mối liên hệ với tôi, thế có cao thượng hơn không? Cô Lý, có
 

đúng là cô ấy đã yêu một anh chàng hải quân phải không? Tôi ngốc quá. Đúng, chúng nó gọi tôi là "Chàng Ngốc" cũng không sai.

Lý lắc đầu, buột nói như không kịp nghĩ:

-   Không! Duyên không yêu một anh hải quân nào hết!
"Chàng Ngốc" như từ cung trăng rơi xuống:

-   Hả? Vậy không phải ư? Vậy chỉ là một tin đồn thổi thôi ư?

-   Cũng không đến nỗi là một tin đồn vô căn cứ. Nói cho đúng ra, Duyên có quen thân một anh hải quân...

-   Quen là quen thế nào?

-   Một thứ quen có lẽ... cũng tương tự như quen với anh vậy thôi, không hơn nhiều lắm.

-   Ồ, thật khó hiểu nhỉ? Vậy cô có thể cho biết, xin lỗi nhé, tôi hơi tò mò, Duyên thực sự đang yêu ai?

Lý cười buồn:

-   Anh tìm Duyên mà hỏi, tôi sao biết được?

-   Duyên và cô vẫn ở chung với nhau trên căn gác ở khu nhà tập thể đấy chứ? Lý lắc đầu:
-   À! Tôi cũng quên chưa nói để anh biết: Tôi với Duyên bây giờ không ở chung với nhau nữa. Duyên đã chuyển sang một phòng nhỏ hơn, nhưng một mình, ở nhà bên. Phòng tôi bây giờ có một chị khác.

-   Sao vậy? Hai cô ở chung rất vui cơ mà?

-   Phải thú thật là... chúng tôi mới có một số điều xung đột không hòa giải được. Nhưng anh cũng không cần hỏi tỉ mỉ làm gì về chuyện này.

-   Ồ, lạ quá nhỉ? Và cũng đáng tiếc nữa. Vì như vậy nếu tôi có muốn nhắn cô ấy điều  gì thì có lẽ cô Lý cũng không thể chuyển hộ nữa. Phải không? Tôi biết: các cô gái đã giận nhau thì... thôi hết ý! Hơn nữa, điều mà tôi muốn nhắn lại chẳng vui gì cho cô   ấy.

Lý lại cười buồn:
 

-   Anh cũng có cả kinh nghiệm ấy nữa kia à, anh Đức? Đúng! Anh không nên nhắn gì Duyên qua tôi hết. Anh muốn nói gì, tốt hơn cả là anh nên gặp thẳng Duyên.

Hai người đã tới ngã ba đường Hoàng Diệu. Lý chào Đức để rẽ. "Chàng Ngốc" chìa tay ra. Anh có vẻ buồn thực sự:

-   Chào cô! Xin lỗi, dẫu sao, đối với cô, cô vẫn cho phép tôi được coi cô như một... người bạn chứ?

-   Có sao đâu? Tôi rất vui vì được quen biết anh.

-   Cô Lý ạ, tôi cảm thấy... trước đây, lần đầu được gặp cô, cô có vẻ... nhút nhát và như chẳng có ý kiến của riêng mình về bất cứ chuyện gì. Nhưng lần này...

-   Lần này sao ạ?

-   Xin lỗi, cho tôi được nói thật nhé, cô có một vẻ gì như... cứng cỏi hơn... như...  người nhớn hơn. Tôi không biết cách nói sao, xin lỗi!

Lý mỉm cười:

-   Hay đấy! Anh có những nhận xét... lạ đấy nhỉ?

Đi đã một quãng xa, Lý vẫn còn thầm nhủ: "Dẫu sao anh ta cũng chỉ mới biết có một chuyện anh hải quân. Giả dụ còn biết nhiều hơn thế nữa, không hiểu anh ta sẽ còn dùng những từ gì khác nữa để nói về người con gái đã một thời mà anh mê đắm, dù chỉ hão huyền...".
Logged
trachvandung
Cựu chiến binh
*
Bài viết: 747



« Trả lời #17 vào lúc: 27 Tháng Mười, 2021, 07:51:02 am »

Lý trở về căn nhà tập thể cũ. Mọi người đã sơ tán hầu hết. Vắng hoe. Buồn lạ lùng. Tắm rửa xong, Lý lấy gạo nấu bữa cơm chiều. Nồi cơm sôi, hạ lửa, thì vừa có tiếng người hỏi ngoài hành lang:

-   Chị Lý có nhà không thế?

Một giọng nói lanh lảnh khá quen. Lý chạy ra.

-   Cô Oanh!

Cô gái gầy như một con cá mắm ấy lại xuất hiện đột ngột, làm cho Lý không khỏi ngạc nhiên. Nhưng trong giây phút cô đơn này, có một người để nói chuyện còn hơn không. Lý cũng chợt nhận thấy vẻ mặt Oanh có vẻ gì khác lạ. Toàn bộ gương mặt cô dường như bớt đanh đá, nanh nọc hơn.

Hai người cùng vào trong phòng:

-   Cũng may, tình cờ đi ngang qua cổng khu nhà này thấy người thường trực, hỏi thì được biết chị vừa ở khu sơ tán về. Tôi tạt vào luôn. Tuần trước tôi đã đến đây tìm chị, nhưng không gặp. Người ta bảo không rõ bao giờ chị mới về.
 

Lý đã cảm thấy câu chuyện không bình thường rồi; cô vội hỏi:

-   Vâng! Cô tìm tôi nhưng tìm cả Duyên nữa chứ?

-   Không! Tôi không cần tìm chị ấy! Tôi tìm chị thôi!

Trái tim Lý như một con chim non bắt đầu nhao nhác khi thấy gió lớn thổi mạnh.

-   Vậy chắc là...

-   Vâng! Có một chuyện rất quan trọng, tôi muốn báo cho chị. Vâng, một chuyện quan trọng vô cùng...

-   Cho tôi hay cho Duyên, hả cô? - Lý cố nén hồi hộp hỏi lại.

-   Cho chị!

-   Cho tôi, chứ không phải Duyên? - Lý vẫn cố gặng lại.
-   Nói cho đúng ra là cả hai? Nhưng tôi không thích báo cho chị Duyên. Chị ấy biết  hay không biết chuyện này, theo tôi cũng chẳng có quan trọng gì lắm đối với chị ấy.

-   Vậy chuyện gì thế cô Oanh? Cô làm tôi hồi hộp muốn chết đây. Chuyện lành hay chuyện dữ thế?

-   Chuyện dữ!

-   Thật ư? Ôi, cô Oanh! Chuyện gì vậy? Chuyện gì thế?

-   Anh Vũ... hy sinh rồi!

-   Trời!

Lý bàng hoàng kêu lên một tiếng rồi ngồi lặng. Đầu óc cô vụt tối tăm. Toàn thân cô như tê cứng.

Mãi mãi sau cô mới cất tiếng được, gần như run rẩy:

-   Sao cô biết? Có thật không, cô Oanh? Thật không?

Oanh không nhìn thẳng vào mặt Lý trân trân như lúc trước nữa:

-   Thật! Cũng tình cờ mà tôi biết. Tôi sang bác Huyên, bạn của bố tôi. Tôi cũng không ngờ bác Huyên lại có một người con trai là thủy thủ ở cùng một tàu với anh Vũ. Tên người ấy là Kính. Đơn vị Kính vừa có người về báo cáo cho gia đình bác Huyên biết: con tàu ấy đã đi làm một nhiệm vụ nào đó và ở địa điểm nào đó không ai được phép nói rõ. Chỉ biết là đã xảy ra tác chiến. Thủy thủ hy sinh một số, trong đó có Kính.
 

Còn lại một số do anh Vũ chỉ huy lên bờ được. Toán người này đã tìm được đường  trở về căn cứ. Nhưng cũng không ngờ, dọc đường, họ đã bị bom, lại tan tác một lần nữa. Chỉ còn lại có bốn người, toàn chiến sĩ, trở về để báo tin này...

Lý ngồi đó, nhưng chung quanh cô đã như toàn một màu trắng. Đau đớn và kinh hoàng đến nỗi không còn có thể tin đây là chuyện có thực nữa, không tin cả Oanh đang ngồi trước mặt cô bằng xương bằng thịt nữa. Oanh tiếp tục nói:

-   Chị Lý ạ! Thú thật tôi cũng rất quý anh ấy. Vì vậy tôi cũng không khỏi bàng hoàng về chuyện mất mát khủng khiếp này. Tôi thấy cần phải báo ngay tin này cho chị. Bởi tôi biết... chị đã yêu anh ấy!

-   Cô Oanh! Trời ơi!...

Lý bật đứng hẳn dậy, lại kêu lên một tiếng. Nhưng rồi không một lời cải chính, cô  gieo mình xuống ghế, ứa nước mắt ròng ròng.

-   Tôi biết! - Oanh vẫn tiếp tục nói - Tôi biết rõ điều ấy như hiểu chính lòng tôi. Bởi vậy, tôi nhận thấy tôi có bổn phận phải báo tin này cho chị. Để ít ra cũng có một

người con gái xứng đáng với anh ấy khóc cho linh hồn anh, khóc cho một người   chiến sĩ đã bỏ mình vì nhiệm vụ. Còn chị Duyên, tôi chẳng giấu giếm cũng chẳng sợ hãi gì, tôi đã nói với chính chị ấy: Chị ấy là một người không bao giờ biết có tình yêu
-   tình yêu chân chính. Chị ấy không bao giờ thực sự yêu người chiến sĩ ấy. Chị ấy chỉ có những thứ tình yêu phù phiếm. Vì vậy tôi không muốn báo cho chị ấy tin này. Còn chị, chị có báo lại cho Duyên hay không, tùy chị. Thôi tôi về! Tôi xin thành thực chia sẻ với chị nỗi buồn này. Nhưng tôi thấy: dầu sao ít ra thế là chị cũng đã hạnh phúc  hơn chị Duyên gấp nghìn lần. Bởi chị đã biết tin, yêu một con người như anh mặc   dầu tình yêu ấy chưa bao giờ thực sự được thổ lộ với anh, và cả với chính chị.

Oanh đứng dậy ra về. Lý vẫn ngồi như chết.
Ngay sáu giờ sáng hôm sau, Lý tìm tới nhà Oanh. Lần đầu tiên trong đời cô bước  chân tới một gia đình lớn. Nhưng không một chút rụt rè, không một sự e sợ.

Oanh cũng ngạc nhiên và không khỏi cảm động. Cô không ngờ Lý lại đến tìm cô.

-   Cô Oanh! Tôi muốn được hỏi lại cô về câu chuyện tối qua. Tôi vẫn cứ e rằng tôi nghe không được rõ, hoặc chưa hết, thậm chí... tôi đã bàng hoàng nghe nhầm.

Hai người bạn gái cùng dắt nhau vào trong phòng. Một lát sau có tiếng xe hơi nổ máy trong sân. Oanh vội vã kéo Lý chạy ra.

Đồng chí Quốc Vinh sắp đi làm. Chiếc xe Von-ga đã chờ sẵn ở ngoài cổng. Oanh  chạy tới nói những gì khá dài với cha cô. Ông Quốc Vinh  quay lại, siết chặt tay Lý. Im lặng giây lâu, ông mới thong thả, khẽ nói:
 

-   Vâng! Đúng là tôi vừa được bác Huyên cho biết. Kính, con trai bác đã hy sinh, thuyền trưởng tàu ấy cũng mất tích. Rất đáng tiếc là họ đã lên được bờ rồi, bắt liên   lạc được rồi, trên đường trở về thì bị bom tọa độ - một thứ bom ném hú họa. Cô Lý ạ! Tôi thành thực chia buồn với cô. Tôi vội đi họp. Tôi rất muốn được gặp cô để nói chuyện nhiều hơn. Được không? Chủ nhật này, xin mời cô lại đây...

Thế là đã rõ.

Lý trở về nhà, qua Bờ Hồ, cô mua một bó hoa trắng.

Cô cắm bó hoa vào bình rồi ra chiếc giường nhỏ bên cửa sổ, nằm úp mặt trên chiếc  gối mền trên chiếc giường của Duyên vẫn nằm khi trước. Cô không khỏi nhớ lại cái buổi tối ghê gớm cách đây vài tháng. Đó là buổi tối mà Lý đã nói thẳng, nói hết tất cả những gì mình đã biết và đã nghe thấy chung quanh cách sống lộn xộn của Duyên.

Không ngờ Duyên đã lồng lên, điên giận. Không những đã không nhận một điều gì hết, Duyên còn kết tội Lý là ghen tuông vì đố kỵ. Ngay hôm sau, Duyên đùng đùng lên gặp trưởng phòng Lê Thuyết xin đổi đi nơi khác, hoặc ít nhất: đổi chỗ ở. Thuyết phải ngạc nhiên trước cuộc xung đột mà anh  cứ tưởng là nhỏ, tưởng là rất "đàn       bà" này lại quyết liệt đến thế. Dường như lần đầu tiên, cơ quan thấy trưởng phòng Lê Thuyết đã phải nhượng bộ trước một sự kiện rắc rối. Anh đã phải đề nghị với văn phòng và Công đoàn của Viện xin cho Duyên chuyển chỗ ở khác trong một tòa nhà cuối khu tập thể.

Tính tới nay đã ba tháng; tuy vẫn luôn luôn gặp nhau trong cơ quan, nhưng Lý và Duyên gần như không ai nói với nhau một lời nào.

Đã ba tháng, tưởng như không còn chút gì dính líu với nhau, ai ngờ hôm nay lại có   tin sét đánh về Vũ! Oanh đã dứt khoát không báo. Vậy Lý có nên nói cho Duyên biết không?

Oanh. Con người thật đáng sợ và đáng ngạc nhiên, không thể nào ngờ hôm nay cô đã báo tin ghê gớm về Vũ, và còn nói thẳng ra cả cái điều mà chính Lý thật ra cũng chưa bao giờ dám tự thú hoàn toàn với lòng mình. Ôi! Phải rồi, Lý đã yêu anh! Yêu anh  rồi! Yêu tự bao giờ không rõ nữa. Nhưng quả là Lý đã yêu anh. Vì sao vậy? Khó có thể trả lời được. Chỉ biết rằng, càng gần đây ngọn lửa nhỏ bé, âm thầm ấy  ẩn  kín trong lòng Lý đã ngày càng bùng cháy ghê gớm. Đến nỗi Lý đã phải thầm đi tới một quyết định: Lý sẽ chủ động bước tới với anh một ngày nào đó...

Suốt đêm đó Lý thức trắng.

Sáng hôm sau cô vào thư viện làm việc.

Ngày hôm sau nữa, cô đáp xe lửa đi Yên Bái. Cô như mê, như tỉnh: "Em sẽ làm tất cả thay anh! Em sẽ luôn luôn và mãi mãi xứng đáng với anh! Em sẽ làm việc gấp đôi  gấp mười để lấp tràn mọi đau khổ! Em sẽ làm việc gấp trăm gấp nghìn để cuộc đời này luôn luôn đáng tin cậy...".
 

Chuyến xe lửa đêm lắc liên tục. Báo động hai lần. Đạn cao xạ ở Việt Trì bay lên như những chuỗi hạt đỏ lừ. Hai lần hành khách phải xuống, tản ra hai bên đường, trên  cánh đồng. Lý cũng xách túi tài liệu, tư trang hai lần  nhảy xuống. Nhưng lần  nào cũng vậy, cô thấy bình thản đến nỗi chính mình phải ngạc nhiên. Không phải là vì không thiết sống nữa, mà thành ra chẳng sợ chết. Có lẽ chỉ vì luôn luôn, một đôi mắt xám lì lợm mà nồng nàn nhìn theo cô từ một điểm vô hình phía trước; luôn luôn một gương mặt trẻ trung, phóng khoáng dõi theo cô với một nụ cười thật dịu dàng và sâu kín.

Bốn tuần lễ sau, từ miền rừng, Lý lại trở về Hà Nội. Rồi cô lên thẳng khu sơ tán. Bốn tuần lễ trôi qua, dẫu sao, Lý cũng đã đỡ buồn hơn. Cô đã đi tới một quyết định dứt khoát: cứ báo cho Duyên biết tin chẳng lành về Vũ. Không tin yêu Duyên nữa, nhưng Lý vẫn không bao giờ muốn thù ghét bạn.

Khu sơ tán ở một xóm nhỏ dưới chân một dãy đồi thông khá vắng vẻ, yên tĩnh, xa các trục lộ giao thông lớn, xa các thị trấn, các mục tiêu quân sự khác.

Lý đạp xe về tới đầu xóm, thấy có mấy người đàn bà, áo quần có vẻ người thành thị đang ngồi giặt ở bên một chiếc giếng nước. "Ba người đàn bà họp thành một cái chợ". Người nào cũng búi tóc cao, quần xắn tới ngang đùi, cười nói ngặt nghẽo. Lý nhận ra ngay người có bắp vế to, trắng nhễu, với bộ mặt tròn xoay là "bà trưởng ban thông  tin" của khu nhà tập thể ngoài Hà Nội.

Quả nhiên, trông thấy Lý "bà trưởng ban" lập tức reo lên, ném đống quần áo, te tái chạy tới, túm luôn lấy tay lái xe đạp của Lý:

-   Này! Này! Ghê lắm nhá! Thật là không ngờ nhé! Lý hồi hộp:
-   Gì thế chị?

-   Con Duyên! Con Duyên!...

Trời ơi! Lại Duyên ư? Lý thầm kêu lên:

-   Làm sao cơ ạ? - Cô hỏi tiếp.

-   Thế này nhé! Thế mới biết từ dạo ông Kinh Bắc tới giờ nó kín hơn nhiều. Nhưng  kín rồi cũng hở chứ. Cái kim bọc trong giẻ cũng có ngày phải lòi ra. Này nhé! Cơ  quan bên trường Cao đẳng kỹ thuật Mười họ vừa liên hệ báo một tin...

-   Gì thế chị? - Lý sốt ruột.

-   Người ta đến báo là con Duyên cơ quan ta có liên hệ không lành mạnh với một tay phó tiến sĩ trẻ tuổi nổi tiếng ở bên đó...

-   Thật vậy à?
 

-   Thật chứ bỡn! Trưởng phòng ta giận đến mức như điên lên. Ông ta gọi con Duyên tới toát cho một trận tưởng không còn đất mà chui xuống nữa. Ông ta nói: Thật không ngờ! Ông ta đang rất tin tưởng ở nó. Ông ta đang bồi dưỡng cho nó để  có thể sang năm có dịp cho sang nước ngoài làm nghiên cứu sinh.

Lý đứng như trời trồng. Không còn có thể hiểu ra sao nữa.

-   Vậy Duyên đâu, chị? - Lý khổ cực hỏi.

-   Nó về Hà Nội từ đầu tuần, sau khi bị phát giác chuyện này. Nhưng nó lại bảo người ta lại vu khống cho nó. Nó dọa về sẽ báo cáo với cậu nó...

Đến câu ấy thì Lý thực sự kinh ngạc, hết sức kinh ngạc:

-   Gì thế chị? Duyên dọa về báo cáo với ông cậu?

-   Phải!

Thế là thế nào? Mà ông cậu ấy đâu có phải người để cho ai muốn lợi dụng uy tín của ông thế nào thì lợi dụng đâu nhỉ! Mặt Lý đỏ bừng. Cô cảm thấy buồn nôn. Như trong một ánh chớp, tất cả những gì tựa như một chút tình thương, như một niềm tha thứ, một nỗi cảm thông còn sót lại trong lòng cô, tới lúc này thoắt đổ sụp. Không còn gì nữa.

***

Lý lại trở về Hà Nội.

Cô tới thành phố, trời vừa tối. Ấy là một buổi tối mùa xuân ấm áp và rất sáng của Hà Nội. Mầm non đang rạo rực thắp xanh trên khắp các hàng cây. Gió từ sông Hồng, hồ Tây dào dạt lướt trên thành phố.

Hà Nội sơ tán thêm, vắng đi nhiều. Nhưng trong cái thưa thớt ấy dường như lại thấy  rõ hơn vẻ mặt trang nghiêm và trẻ trung của thành phố, dường như cũng thấy rõ hơn lòng dũng cảm, cũng như sự trong sạch của kinh thành.

Lại như mọi lần, tắm rửa và ăn cơm xong, Lý định đi thăm một số cô bạn vẫn còn ở  lại trong nội thành. Có tiếng gõ cửa. Oanh. Lại Oanh chăng? Hoặc Duyên? Lý vội vã xỏ dép chạy ra.

Cửa mở.

-   Trời ơi! - Lý gần như rú lên, bật lùi trở lại.

Hai bàn tay cô vội bíu chặt lấy cánh cửa. Cô gần như ngất xỉu. Vũ.
 

Đúng là anh! Anh! Trời ơi! Sao lại như thế này được nhỉ? Hay mình trông lầm? Vũ dìu Lý vào phòng. Anh đặt cô ngồi xuống chiếc ghế bên bàn.
Hai mắt Lý nhòa lệ. Toàn thân cô vẫn còn như run bắn trong nỗi xúc động quá đột ngột. Nhưng rồi cô đã nhìn rõ được anh hơn! Ôi! Đúng là anh! Đúng là anh rồi! Vẫn mái tóc này, vẫn cặp mắt này, vẫn cái miệng này. Nhưng sao anh gầy quá, đen đi nhiều quá? Và một cái sẹo dài đã đặt chéo trên góc vầng trán rộng của anh. Một cái sẹo nhỏ nữa như dính ở dưới cái cằm khỏe khoắn của anh. Anh như từ một thế giới nào trở lại!...

-   Anh! - Hai bàn tay Lý thốt nhiên chụp lấy bàn tay Vũ. Dường như cô vẫn không thể tin đây là một sự thật. Cũng dường như sợ người đang ngồi trước mặt cô thoắt sẽ lại bay đi, bay đi xa mãi.

-   Trời ơi! Anh! Sao lại có tin là... Anh có biết không... Vũ mỉm cười, gật đầu:
-   Có! Tôi biết cả rồi. Có tin là tôi đã chết. Nhưng thật ra tôi chỉ bị bom hất văng đi  khá xa, ngất đi. Anh em tôi tìm mãi không ra, lại phải cấp tốc đi luôn để ra khỏi vòng nguy hiểm. Hôm sau, một đơn vị công binh ở khu vực đó đã nhặt được tôi. Cũng không hiểu sao tôi vẫn chưa chết. Anh em đưa tôi vào một quân y viện trong rừng sâu điều trị... Nói tóm lại, bọn Tân trở ra báo cáo lúc đầu là đúng.

-   Ôi! Anh Vũ! Anh về được thế này, đúng là không sao tưởng tượng được nổi. Và lần này anh về, cũng đã có biết bao nhiêu chuyện ở nhà xảy ra...

Trong lúc quá xúc động, Lý đã thốt lên không kịp nghĩ gì nữa. Nhưng nói tới đó cô cũng đã dừng ngay lại được.

Tuy vậy, Vũ đã gật đầu. Đôi mắt anh vụt trở nên tăm tối:

-   Vâng! Tôi cũng đã biết hết mọi chuyện rồi!

-   Anh đã biết hết cả rồi ư? - Lý kinh ngạc, một lần nữa kêu lên.

-   Biết! Tôi về đây đã hai hôm nay. Tôi đã được gặp cô Oanh.

-   Cô Oanh! Trời ơi!

-   Vâng! Và tôi còn gặp cả Triệu Lan, một người bạn cũ của tôi từ thời thiếu sinh  quân. Triệu Lan bây giờ là một nhạc sĩ chơi vĩ cầm. Không ngờ Triệu Lan lại là bạn của anh phó tiến sĩ mà Duyên... đang quen. Do đó tôi đã biết thêm cả những gì đã xảy ra gần đây nhất...

-   Anh Vũ! Em không ngờ anh vẫn còn sống trở về! Và cũng không ngờ thế là anh đã nghe được tất cả những chuyện... rất không vui ấy.
 

-   Vâng! Tôi đã biết rõ. Tôi đã hiểu được những gì mà lần trước trở về tôi đã bắt đầu ngờ ngợ. Bắt đầu phải ngờ ngợ, nhưng tôi vẫn cố cưỡng lại, vẫn muốn giữ mãi, giữ vững tất cả những gì tốt đẹp mà tôi đã nghĩ về Duyên, tất cả những gì yêu thương mà tôi đã dành gửi cho Duyên...

Cách nói có vẻ như bình tĩnh nhưng giọng sao thật nặng nề, đau nhức. Nghe như không sao chịu nổi.

-   Vâng! Thế là tôi đã hiểu. - Vũ nhắc lại một lần nữa. Đôi mắt xám gan góc và cuồng nhiệt của anh lúc này như bắn ra những tia lửa không sao kìm giữ được. - Tôi  hiểu  thế là tôi đã lầm. Vâng! Tôi đã lầm! Tôi đến đây tìm Duyên cũng định là để nói rõ điều đó. Tôi đã lầm. Và từ nay, mọi chuyện cũ thế là sẽ phải chấm dứt hoàn toàn...

Lý thoắt đứng dậy. Cô lau nước mắt và bỗng trở nên minh mẫn một cách lạ lùng. Cô dịu dàng hơn bao giờ hết:

-   Anh Vũ! Khoan đã. Ta ra ngoài dạo chơi một lát đi! Rồi sẽ tiếp tục nói chuyện!  Ngồi trong này... ngột ngạt quá. Em không chịu nổi!

Miệng nói, tay cô cầm lấy chiếc mũ hải quân của anh và đứng dậy luôn.

-   Đi! Ta đi chơi một chút, anh! Đêm nay trời ấm lắm.

Vũ ngơ ngác, nhưng rồi đôi mắt Lý như đã có một sức chinh phục lạ lùng nào đó làm cho anh cũng phải đứng dậy, như một cái máy. Lý âu yếm đặt chiếc mũ lên đầu anh. Cô nhìn thấy đôi mắt đang dữ dội của anh thoáng  như dịu lại phần nào. Và trên  gương mặt anh những cái gì như đang sôi lên cũng dần dần trở lại yên tĩnh hơn.

-   Ta đi, anh nhé! - Lý với trên ghế một tấm áo len mỏng màu khói khoác lên vai  mình, và dịu dàng nhắc lại.

Hai người ra một đường phố lớn.

Tưởng như những câu chuyện chói tim vừa rồi sẽ được tiếp tục. Nhưng không, Lý không hỏi, mà Vũ cũng không nói thêm điều gì nữa. Không khí đã thay đổi rồi. Đêm xuân thật là đẹp. Đâu đây ngan ngát hương thơm của nhựa mới, lộc non. Chút lạnh vương vương, ngọt ngào, biếc xanh như ôm ấp lấy anh, lấy Lý, đưa cả hai người đi vào một thế giới thật ngọt ngào, đầy yêu thương và đầy hạnh phúc. Cô gái đi bên anh  y như mùa xuân tươi trẻ đang hiện thân. Cô bỗng cầm lấy bàn tay anh, rất tự nhiên. Bàn tay cô thật ấm mềm.

Và Lý cứ cầm lấy bàn tay anh như thế mãi, cùng nhau đi thong thả. Cô vẫn không nói thêm một lời nào. Vũ để nguyên bàn tay mình trong tay cô gái, và cũng im lặng như thế.

Hai người đến một vườn hoa nhỏ giữa thành phố. Họ cùng ngồi xuống một chiếc ghế dài, dưới bóng tối lung linh của một hàng cây cao. Ở cuối hàng cây ấy là một trận địa
 

cao xạ cỡ nhỏ, mới tới thì phải. Những khẩu pháo còn nằm nguyên trên bãi cỏ, chưa có công sự. Những người lính đeo tiểu liên gác ở chung quanh, đi đi, lại lại.

Hai người cùng ngồi bên nhau và vẫn im lặng.

Ngẩng nhìn lên khung trời đen xanh thăm thẳm, Lý đột nhiên quay lại, cô lại cầm lấy bàn tay anh lần nữa. Bàn tay cô như run lên, và cặp mắt có hàng mi dài cũng thoắt  như lên một cơn sốt. Và lần này cô mới nói, giọng rung lên kỳ lạ:

-   Anh Vũ! Em yêu anh. Anh đừng buồn. Em yêu anh. Hãy quên đi và bỏ mọi chuyện cũ lại!

Tiếng nói như chợt thốt ra một nơi nào sâu thẳm nghẹn ngào, cháy bỏng. Và, không cần đợi nghe anh nói gì hết, cô thoắt úp mặt mình vào bả vai rộng rãi như vẫn còn  khét mùi thuốc súng của anh.

-   Lý!

Vũ không khỏi bàng hoàng - Bàng hoàng nhưng không hề ngạc nhiên - Chẳng phải vì Oanh đã nói ra với anh sự khám phá ấy của cô, rồi sao? Và dường như từ một góc sâu thẳm nào trong trái tim mình, Vũ cũng đã mơ hồ linh cảm từ lâu một điều gì đó rất lạ, rất mới, có thể sẽ tới với anh, sẽ phá vỡ cái mối quan hệ bình thường giữa anh với người con gái tuyệt vời này.

-   Lý!

Anh như chìm đi trong một giấc mộng. Ôi, thế nào đây? Nhưng có chắc đây là một hạnh phúc thực sự không? Anh chỉ biết anh đang chìm trong một giấc mộng  tràn  ngập ánh sáng, giấc mộng đang cố xóa mọi thương đau giúp anh!

-   Lý!

Đôi mắt cô - cả một bầu trời xao xuyến - ngước lên.

-   Anh! Anh hiểu không, em yêu anh. Anh không phải buồn vì  một ai hết. Em yêu  anh. Em sẽ xứng đáng với anh.

Rồi đôi cánh tay tròn trịa mềm mại của cô vươn lên, ôm tròn lấy cổ anh. Đôi hàng mi dài khép lại, say đắm...

Chỉ còn mơ hồ đâu đây như tận trên tầng trời cao nào đó những tiếng thì thầm: "Vũ! Vũ" của em...

Đêm ấy Vũ không trở về nhà Triệu Lan. Anh đã ở lại với Ngọc Lý.
Họ đã thức trọn đêm bên nhau.
 

Một đêm hồng thiêng liêng, kỳ diệu nhất của đời họ. Họ không còn nhớ tới ai, cũng không còn biết tới việc gì nữa, ngoài họ với mối tình mà họ hoàn toàn tin tưởng là  tươi đẹp, và trong sáng tuyệt vời. Họ đã trao gửi cho nhau tất cả tâm hồn và thể xác mình. Họ đã sống với nhau, một đêm mà bằng cả một cuộc đời với hạnh phúc mà họ đã chủ động kiếm tìm và giành lấy.

Nhưng cũng chỉ đêm ấy, sáng hôm sau anh đã phải lên đường, trở về đơn vị - Anh lại trở về với biển.

Chương 9

... Vượt trùng dương ta ra đi. Dù bão tố nào xá chi.
Dù đạn bom Dù máu đổ Ta vẫn đi.
Ôi Chiến sĩ Hải quân Việt Nam Mặt cháy nắng hồng trời nhiệt đới
Ngực tràn đại dương bốn mùa gió thổi Việt Nam! Hồn Việt Nam!
Một chiến sĩ nào đó bỗng cất tiếng hát. Chưa tới phiên trực chỉ huy, Vũ ngồi trên một đống dây chão ở mũi tàu. Những con hải âu bay chao liệng luồn qua những sợi dây cáp, dây ăng-ten chi chít, như vẫn còn lưu luyến mãi người đi.

Vượt trùng dương ta ra đi...

Cái điệp khúc ấy cất lên mãi say sưa, ngây ngất.

Lần này Vũ và đoàn thủy thủ của anh - đoàn thủy thủ của con tàu cũ đã được bổ sung, củng cố lại đầy đủ - lại lĩnh nhiệm vụ: tiếp tục ra đi, với một con tàu mới đã được cải dạng thành một con tàu chở dầu khá đẹp. Cũng giống như mọi chuyến đi trước: con tàu được lệnh gấp rút nhổ neo, và phải giao được hàng bằng mọi giá.

Chiến trường đang đòi hỏi gấp. Đường Trường Sơn đưa được hàng vào tuy đã nhiều gấp đôi trước nhưng vẫn không sao đủ. Có điều khác với những chuyến đi trước: lần này, theo một kế hoạch mới của Bộ tư lệnh hải quân và Tham mưu Đoàn, Vũ sẽ đưa con tàu của anh đi khá xa bờ để cho địch không nắm được quy luật, khó bề kiểm soát. Con tàu của anh lần này sẽ vào tới tận Cà Mau, nơi chót cùng của Tổ quốc. Trước
 

đây đã có một chiếc cũng đã vào tới Cà Mau. Nhưng con tàu ấy bị kẹt lại trong đó, chưa ra được.

Đi xa - Dài ngày - Trong điều kiện địch đang tiếp tục phong tỏa gắt gao - Chừng ấy đặc điểm đã đòi hỏi những người đi khá căng thẳng, khá vất vả trong những ngày chuẩn bị. Căng thẳng và vất vả rõ ràng là hơn nhiều những chuyến đi ngắn, ven bờ trước đây. Tuy vậy cho tới lúc này, neo đã kéo lên rồi, tàu đã rúc những hồi còi chào tạm biệt, khu neo đã dần dần mờ xóa và chìm hẳn ở đường chân trời sau lái,

thì lòng người thủy thủ lại mở ra cùng với trời nước bao la. Ít ra, đây cũng là những giây phút rất nhẹ nhàng, thoải mái, khi mà ngày đầu tiên của cuộc khởi hành nói  chung đã tỏ ra suôn sẻ.

... Vượt trùng dương ta ra đi...

Trong chốc lát, tâm hồn Vũ lại quay trở về với Lý. Lý đã sống hết mình và hiển nhiên cũng đã mê đắm hết mình. Lý đã tới với anh như một  ánh chớp. Nhưng, cũng  như mọi ánh chớp, thật ra nó đã vọt lên từ một chân trời ủ kín mây dông. Bây giờ Vũ đã bình tĩnh để có thể nhớ lại cái buổi đầu gặp gỡ bất chợt. Phải chăng mọi chuyện đã   bắt nguồn ngay từ giây phút ấy? Em đã đến với anh khác Duyên rất  nhiều. Bây giờ,  đã có thể nhận ra: Cuộc tình cũ chỉ như hơi rượu say. Đối với anh, Lý mới thật như một thế giới mới. Lý đến với anh tự tin và quả quyết biết bao! Cũng y như anh khi thấy cần phải đưa con tàu vào bến, và có thể vào bến được, đã không hề ngần ngại, kiên quyết đòi hỏi Khôi phải tiến, kiên quyết đến mức tưởng chừng đã phải đổ máu... Và anh tự xét anh đã đón nhận tình yêu của Lý hoàn toàn không phải vì tự ái, càng không như một sự trả thù Duyên. Không! Anh đã giống như một người giũ bỏ một đồ giả để nhận về một vật quý thực sự. Còn Duyên, dẫu sao đôi lúc vẫn nhớ tới em, nhưng quả thật chỉ như nhớ một kỷ niệm buồn, nhớ một lần vấp hụt, nhớ một thời thơ ngây dại dột... Cám ơn Lý, không những em đã đền bù, mà còn giữ được cho anh  niềm tin ở con người, ở cuộc sống này.

Logged
trachvandung
Cựu chiến binh
*
Bài viết: 747



« Trả lời #18 vào lúc: 27 Tháng Mười, 2021, 07:51:54 am »

Con tàu đã đi qua hòn Rồng Xanh. Đêm xuống dần. Vũ lên trực chỉ huy cho Bá, một thuyền phó mới ở cơ quan tham mưu xuống.

Đêm không trăng sao. Con tàu đi trong một vùng mờ tối. Sóng lân tinh lấp loáng   xanh lét xa, gần. Không khí huyễn hoặc.

Mạch, anh chiến sĩ lái mới, bỗng cất tiếng hỏi:

-   Sắp tới Hoàng Sa phải không thuyền trưởng? Vũ gật đầu:
-   Phải! Hoàng Sa. Chúng ta sắp tới vĩ tuyến 16.

-   Em đã được đi hai chuyến với các tàu khác. Lần này được về tàu này đi với thuyền trưởng, là lần đầu được đi theo một hải trình khác. Cũng vì vậy em chưa hiểu lắm về quần đảo này. Thuyền trưởng nói cho em nghe đi...
 

Vũ cười buồn:

-   Mình cũng không hiểu nhiều chi tiết cho lắm. Tiếc rằng không còn cậu Kính hôm nay... Nhưng mà thôi, mình cũng có thể nói đại lược cho cậu chút ít: Quần đảo này thuộc ta từ xa  xưa. Đâu như từ thế kỷ XV cụ Lê Quý Đôn đã có sách viết rõ là các  đời vua chúa từ trước đều đã tổ chức ra những đội gọi là Hoàng Sa  để  ra quần đảo này thu lượm hải sản...

-   Vậy các cụ ta xưa đi biển hẳn cũng cừ lắm, thuyền trưởng nhỉ!

-   Sách còn viết: đi thuyền mất độ ba bốn hôm thì ra tới nơi...

-   Hải sản chắc nhiều lắm?

-   Nhiều. Hải sâm, bào ngư, đồi mồi và nhiều nhất là phốt phát. Nghe nói năm 1938, Nhật đã xin phép Nam Triều và toàn quyền Pháp khai thác phốt phát ở đảo Phú Lâm thuộc một nhóm của quần đảo này. Hiện nay vẫn còn đường goòng và một số nhà cửa đổ nát ở đảo ấy...

-   Sau này có dịp ta lên đó xem thì thú quá, thuyền trưởng nhỉ!

-   Trên hòn đảo có tên là Hoàng Sa còn có cả bia chủ quyền của Việt Nam. Có cả một ngọn đèn biển nhỏ và một trại lính, một trạm khí tượng. Nhật đã  chiếm đảo này hồi đại chiến lần thứ hai. Sau khi Nhật thua, Pháp ra chiếm lại. Sau Giơ-ne-vơ, Pháp rút, ngụy ra thế chân. Hiện ở đảo này có một trung đội ngụy...

-   Thế Hoàng Sa chỉ là tên một hòn đảo trong cả quần đảo ấy sao, thuyền trưởng?

-   Phải! Người ta lấy tên đảo Hoàng Sa để gọi chung cả quần đảo. Quần đảo có tới một trăm hai mươi hòn đảo lớn, nhỏ, hầu hết toàn san hô.

-   Vừa rồi thuyền trưởng nói ở Hoàng Sa có bia chủ quyền ạ?

-   Phải rồi. Sử cho biết người Việt đã ra tận đảo này, để kéo cờ chủ quyền. Nhưng sau mới đặt bia. Trên đảo ấy còn có miếu thờ, một tượng phật nữa...

-   Hay quá nhỉ! Em chỉ ước khi nào đuổi hết bọn Mỹ, ta lên Hoàng Sa coi chơi!

-   Đó là cái chắc! Hoàng Sa tuy chỉ là một quần đảo san hô nhưng khá đẹp, lại quan trọng về mặt quân sự nữa. Ta phải giữ lấy nó như giữ cửa ngõ nhà mình. Nhưng này, có một điều mà nhất định các cậu chưa

biết rõ...

-   Sao ạ?

-   Năm 1950, quân Trung Quốc của Mao Trạch Đông đã ra tự ý chiếm mất một số đảo thuộc Hoàng Sa của ta. Hiện nay họ vẫn còn ở đó.
 

Mạch trợn tròn mắt:

-   Ồ! Sao thế ạ? Lạ quá nhỉ! Quả thật là nếu thuyền trưởng không nói thì em cũng chỉ hiểu là ở đó có ngụy. Thì ra ở Hoàng Sa vừa có cả Trung Quốc, cả nguỵ?

-   Phải! Đó là những sự rắc rối mà rồi sau này hai nước Việt, Trung sẽ phải mất công giải quyết. Còn bây giờ chủ trương của chúng ta là hãy tập trung toàn bộ tâm sức vào đuổi Mỹ đã.

Mạch biết không nên hỏi nữa, nhưng vẻ ngạc nhiên vẫn chưa tan trên nét mặt, và  trong lòng anh vẫn vọng mãi lên khá nhiều câu hỏi. Vũ tiếp:

-   Chú ý nhé! Hoàng Sa và Trường Sa xưa nay vẫn nổi tiếng là vùng nguy hiểm vì là vùng bão gió đã đành, còn là vùng nhiều đá ngầm. Đã có một số tàu thuyền quốc tế bị nạn ở vùng này rải rác từ thế kỷ thứ XVI...

Mạch lại hỏi:

-   Thuyền trưởng vừa nói tới cả Trường Sa. Vậy thuyền trưởng nói thêm về Trường Sa cho em nghe một chút đi!

-   Trường Sa quần đảo ở xa về phía nam, cũng như Hoàng Sa đều là lãnh thổ của chúng ta. Trường Sa ở trên, dưới vĩ tuyến 10, còn Hoàng Sa ở trên, dưới vĩ tuyến 10, còn Hoàng Sa ở trên, dưới vĩ tuyến tuyến 16. Cách nhau gần 6 vĩ tuyến, nhưng người ta vẫn cho rằng Trường Sa thật ra chỉ là cái đuôi nối dài của Hoàng Sa. Nhưng mà thôi, để khi gần Trường Sa, tôi sẽ nói thêm một số chuyện về quần đảo này cho cậu nghe. Bây giờ chú ý nhé: đè trái năm độ!

-   Trái năm độ! - Mạch nhắc lại.

-   Chúng ta sắp tới Hoàng Sa rồi đấy. Đêm nay trời mù. Cậu phải tỉnh táo và vững tay lái. Tôi đã nói: nơi đó đang có địch và có đá ngầm...

-   Rõ! - Mạch đáp to, đầy xúc động. - Nơi đó đang có quân ngụy, có cả quân Trung Quốc của Mao Trạch Đông chiếm giữ của ta!

Sóng vẫn dồi con tàu lên rồi kéo rút nó xuống. Con tàu lắc lư liên tục, nhằm thẳng hướng nam tiến tới. Biển vẫn một màu đen kịt, chốc chốc lại hằn lên những vệt sóng lân tinh như những bầy thủy quái nối tiếp nhau chạy cuồn cuộn.

Vũ nói với chiến sĩ tác nghiệp hải đồ:

-   Đo cho một vị trí hạm!

Xứ, anh chiến sĩ hải đồ cũng mới về, nhỏ nhắn như một cô gái, thoăn thoắt đo đạc, rồi thốt lên:

-   Mười sáu độ vĩ bắc, trăm mười độ hai mươi phút kinh đông!
 

Mạch biết không nên hỏi nữa, nhưng vẻ ngạc nhiên vẫn chưa tan trên nét mặt, và  trong lòng anh vẫn vọng mãi lên khá nhiều câu hỏi. Vũ tiếp:

-   Chú ý nhé! Hoàng Sa và Trường Sa xưa nay vẫn nổi tiếng là vùng nguy hiểm vì là vùng bão gió đã đành, còn là vùng nhiều đá ngầm. Đã có một số tàu thuyền quốc tế bị nạn ở vùng này rải rác từ thế kỷ thứ XVI...

Mạch lại hỏi:

-   Thuyền trưởng vừa nói tới cả Trường Sa. Vậy thuyền trưởng nói thêm về Trường Sa cho em nghe một chút đi!

-   Trường Sa quần đảo ở xa về phía nam, cũng như Hoàng Sa đều là lãnh thổ của chúng ta. Trường Sa ở trên, dưới vĩ tuyến 10, còn Hoàng Sa ở trên, dưới vĩ tuyến 10, còn Hoàng Sa ở trên, dưới vĩ tuyến tuyến 16. Cách nhau gần 6 vĩ tuyến, nhưng người ta vẫn cho rằng Trường Sa thật ra chỉ là cái đuôi nối dài của Hoàng Sa. Nhưng mà thôi, để khi gần Trường Sa, tôi sẽ nói thêm một số chuyện về quần đảo này cho cậu nghe. Bây giờ chú ý nhé: đè trái năm độ!

-   Trái năm độ! - Mạch nhắc lại.

-   Chúng ta sắp tới Hoàng Sa rồi đấy. Đêm nay trời mù. Cậu phải tỉnh táo và vững tay lái. Tôi đã nói: nơi đó đang có địch và có đá ngầm...

-   Rõ! - Mạch đáp to, đầy xúc động. - Nơi đó đang có quân ngụy, có cả quân Trung Quốc của Mao Trạch Đông chiếm giữ của ta!

Sóng vẫn dồi con tàu lên rồi kéo rút nó xuống. Con tàu lắc lư liên tục, nhằm thẳng hướng nam tiến tới. Biển vẫn một màu đen kịt, chốc chốc lại hằn lên những vệt sóng lân tinh như những bầy thủy quái nối tiếp nhau chạy cuồn cuộn.

Vũ nói với chiến sĩ tác nghiệp hải đồ:

-   Đo cho một vị trí hạm!

Xứ, anh chiến sĩ hải đồ cũng mới về, nhỏ nhắn như một cô gái, thoăn thoắt đo đạc, rồi thốt lên:

-   Mười sáu độ vĩ bắc, trăm mười độ hai mươi phút kinh đông!
 

Bá nhìn chiếc trinh sát đang lượn trên cao, vẽ thành một đường vòng tròn. Anh cũng có một nhận xét giống Vũ:

-   Nó đang dòm tàu ta. Nhưng đúng là chưa có dấu hiệu gì khác thường cả.

Con tàu tiếp tục đè sóng, chồm lên, hụp xuống, như một con trâu nước khổng lồ vừa thở phì phò vừa lúc lắc cái đầu, hục hặc tiến tới.

Đúng như nhận định của Vũ và Bá, chiếc trinh sát Mỹ chỉ lượn một vòng rồi nhằm hướng Đà Nẵng bay thẳng.

Bấy giờ Trúc mới nở một nụ cười thoải mái. Anh và Bá quay trở xuống phòng thủy thủ.

Hai giờ sau, lại có tiếng báo cáo:

-   Máy bay, góc mạn mười hai độ đông!

Vũ nhíu đôi lông mày nhìn lên. Anh lại nom rõ một chiếc trinh sát. Nhưng cũng gần như cùng một lúc anh lại nhìn thấy thấp thoáng sau những ngọn sóng xa xa có những chấm đèn sáng. Tàu. Nhưng không hiểu loại gì, vì ở xa và đêm tối không sao rõ được dạng.

Vũ tiếp tục quan sát, và theo dõi thời gian trên đồng hồ. Lại giống như lần nào, mươi phút, mười lăm phút rồi ba mươi phút sau, khi chiếc trinh sát Mỹ đã bay lướt qua trên đỉnh đầu tàu lâu rồi, những chấm đèn trên mặt biển đen ngòm ở xa vẫn thoắt ẩn, thoắt hiện sau những ngọn sóng, và vẫn luôn luôn giữ đúng góc mạn với con tàu ta.

Nó bám rồi. Đúng như lần trước vào Nha Trang. Vũ cho mời Trúc và Bá lên.
Vũ nói với Trúc:

-   Anh cho điện về nhà báo cáo đi: "Chúng tôi đang bị đeo!". Đôi cánh mũi Trúc phập phồng:
-   Rồi sao nữa?
 

-   "Chúng tôi sẽ né tránh và tiếp tục tiến!". Đã hai giờ sáng.
Ba giờ sáng.

Những chấm đèn ma quái vẫn giữ nguyên góc mạn với con "tàu dầu". Rồi bình minh.
Mặt trời đỏ thắm nhô dần lên khỏi đường chân trời rực rỡ như vàng chảy trong lò.

Đã nhìn thấy bằng viễn kính khá rõ một con tàu Mỹ đang chạy gần như song song với tàu ta. Một con tàu dạng WHEC. (1)



(1)   Tuần dương hạm thuộc lực lượng phòng thủ bờ biển của Mỹ, đem sang phong tỏa bờ biển Nam Việt Nam từ 1965.

Vũ cho đánh điện lần thứ hai về Đoàn.

Suốt cả ngày hôm đó, con tàu Mỹ vẫn không rời con "tàu dầu". Con "tàu dầu" giảm tốc, nó cũng giảm tốc, tăng tốc nó cũng tăng tốc. Quẹo trái nó cũng quẹo trái, quẹo phải nó cũng quẹo phải. Nhưng cự ly,

gián cách của hai chiếc vẫn như cũ. Chiếc tuần dương hạm Mỹ vẫn chưa tiến lại gần hơn. Phải chăng nó vẫn chưa dám quyết đoán con tàu dầu này là một con tàu "xâm nhập"?

Đêm xuống. Vẫn thấy nó. Ngày thứ hai.
Nó vẫn lẵng nhẵng đi theo không rời. Hết sức khó chịu.

Sang tới đêm thứ ba, Vũ cho xác định lại vị trí tàu, thấy bọn anh đã xuống tới ngang địa phận Khánh Hòa mà con tàu Mỹ vẫn dai dẳng bám theo, anh phải buột lên một tiếng chửi thề.

Và lúc đó, chiến sĩ báo vụ đột ngột đưa tới một bức điện rất vắn của "nhà": "Hãy   quay trở lại ngay - Địch đã theo dõi rất chặt chẽ các anh".

Vũ đứng sững. Anh lại cho mời Trúc và Bá tới.

-   Thế là thế nào, các anh? - Vũ hỏi, tràn ngập nỗi băn khoăn.
 

Đọc lướt lại bức điện, Trúc đáp nhanh:

-   Tuyệt đối chấp hành thôi! Quay trở lại chứ còn thế nào nữa!

Đôi mắt buồn nản, Vũ quay về Bá như cầu cứu. Nhưng anh gặp cặp mắt Bá cũng  đang đầy vẻ bối rối như muốn cầu cứu anh.

-   Theo tôi... Theo tôi... - Bá ấp úng.

Vũ thoắt cất tiếng, như không chịu nổi cái gì đang đè trĩu trong lòng mình nữa:

-   Các anh ạ! Tôi đề nghị thế này, xem có được không: ta cứ điện về xin cho phép chúng ta cứ tiếp tục tiến. Chúng ta sẽ gắng tìm cách đánh lạc hướng chúng nó.

Trúc ngạc nhiên:

-   Anh muốn tiếp tục đi à?

-   Vâng!

-   Thế còn anh Bá?

-   Tôi... tôi cũng...

Mặt Trúc vụt đanh lại, như trước đây mỗi khi anh gặp một việc gì rắc rối hoặc mất thì giờ, khó chịu:

-   Không! Theo ý tôi, không nên như vậy! Không ai sáng suốt hơn cấp trên được! Đề nghị lại, các anh ở trên dễ đánh giá chúng mình lắm...

-   Đánh giá làm sao? - Vũ hỏi.

-   Là... phiêu lưu, là mạo hiểm! Là... thiếu ý thức chấp hành...

Vũ nhếch miệng cười. Anh nhìn Trúc lúc này thấy sao giống ông Lệnh quá. Giống cả Khôi nữa. Khôi là một người thường rất ngại, nói cho đúng hơn, rất sợ có những ý kiến, hoặc những đề nghị khác với ý cấp trên. Thậm chí thay đổi một lời đề nghị, hơi khác với đề nghị cũ, Khôi cũng không bao giờ dám thốt ra. Chỉ sợ cấp trên cho là làm ăn không chắc chắn, lúc thế này lúc thế khác. Còn nhớ khi mới về đoàn này ở quân cảng ba, một buổi trưa rất nóng bức, anh em không có chỗ trú, Vũ đề nghị dựng một cái lán dưới hàng cây ven cảng. Một đồng chí cấp trên xuống thăm, bảo thôi đừng  làm, để sau  sẽ làm to, làm đẹp hơn. Vũ đã đề nghị với Khôi là người thường hay  được lên gặp cấp trên, gắng trình bày lại ý kiến của bọn anh và xin cứ cho làm vì quá cần. Nhưng Khôi nhất định không chịu nói. Công việc phải bỏ lại. Ba tháng sau, cũng đồng chí thủ trưởng ấy lại xuống thăm đơn vị. Khi đi qua hàng cây, ông vui vẻ bảo: "Nên làm một cái lán ở đây cho anh em nghỉ trưa các cậu ạ!". Vũ hiểu, thì ra câu nói cách đây ba tháng của ông chỉ là câu nói bất chợt, ông đã hoàn toàn quên. Nếu như  lúc đó Khôi chịu khó trình bày lại thì có lẽ cái lán này đã được hình thành từ lâu rồi...
 

Vũ nhíu lông mày lại:

-   Thôi được! Nếu vậy tôi đề nghị thế này: điện nói rõ ý kiến là của riêng tôi, tôi đề nghị cho tàu cứ tiếp tục tiến.

Trúc lắc đầu, kiên quyết:

-   Cũng không được! Làm như vậy, các anh ấy lại nghĩ là ban chỉ huy chúng ta không nhất trí. Các anh ấy chỉ lo thêm...

Câu nói cũng có lý. Vũ không cưỡng lại được nữa.

-   Thôi thế nhé! Ta tuyệt đối chấp hành, anh Vũ ạ! Cho quay lại thôi, anh! - Trúc như dỗ dành.

Như một kẻ bị oan ức, Vũ quay mặt đi, giọng gần nghẹn ngào:

-   Hết lái phải!

-   Hết lái phải!

Anh chiến sĩ hàng hải nhắc lại, cũng hình như có sỏi ở trong cổ họng. Con tàu gầm  lên một tiếng buồn thảm, xé sóng, từ từ quay mũi. Tất cả các chiến sĩ đứng  trên  boong câm lặng, lòng héo hắt.

Con tàu đã quay mũi, cũng có nghĩa là con tàu lùi, dẫu chỉ là tạm lùi. Những người chiến sĩ hải quân cũng như tất cả các chiến sĩ lục quân, không quân của chúng ta dường như từ lúc biết cầm cây súng đều đã được giáo dục chỉ có một điều: Tiến! Thẳng tiến tới thắng lợi cuối cùng của cách mạng! Không một ai quen với hai tiếng  rút lui, cũng như không một ai chịu nổi mấy tiếng: hèn nhát, hoặc nhẹ hơn: không hoàn thành nhiệm vụ.

Cũng đêm ấy, chính ủy Đoàn và đoàn trưởng Thước cùng thức trắng. Ngày hôm sau, hai anh cùng ra khu neo để đón đợi con "tàu dầu" trở lại. Các anh đều đã hình dung được tâm trạng của anh em thủy thủ. Nhưng quyết định bắt con tàu phải quay về đâu có phải là của riêng Đoàn? Nó còn là của Bộ Tư lệnh quân chủng. Nó cũng còn là của Bộ Tổng tham mưu. Quyết tâm, nhưng cần thận trọng. Táo bạo, nhưng cũng phải biết khôn ngoan. Từ sau vụ Vũng Rô, tỉ lệ thương vong, tổn thất của các chiến sĩ, cán bộ trong đoàn tàu này đã lên cao trông thấy. "Biển đông không xanh nữa!". Các chiến sĩ đã nói không đùa một chút nào hết. Những con tàu được tiếp tục phóng đi. "Tất cả vì miền Nam!", "Tất cả vì Tổ quốc thống nhất!". Nhưng cứ mười con tàu đi, thường chỉ thành công có hai, ba. Các cán bộ, chiến sĩ của tất cả các con tàu vẫn tiếp tục nhổ neo ra đi, không một mảy may do dự. Anh em ra đi đúng như những người quyết tử. Mỗi lần đưa tiễn, nhìn theo những người con tuyệt vời của Tổ quốc cưỡi những  con tàu nhỏ bé ra khơi, tất cả những người lãnh đạo, chỉ huy đều cảm thấy lòng mình như có lửa đốt. Người ra đi bình thản, nhẹ nhàng bao nhiêu thì người lãnh đạo, chỉ huy ở căn cứ lại thấy trách nhiệm mình như núi bấy nhiêu. Cũng bởi vậy, từ lúc một con tàu   nhổ neo, những người chỉ huy, lãnh đạo ở hậu phương đã ngày ngày, đêm đêm phải
 

thay nhau ngồi trước những tấm hải đồ, bên hàng loạt máy viễn thông để theo dõi nó từng giờ, từng phút. Các đồng chí thường cảm thấy tóc mình như bạc thêm ra sau mỗi đêm, mỗi ngày căng thẳng lo toan, suy nghĩ. Con "tàu dầu" của Vũ lần này vào Cà Mau. Nó đã gặp địch. Nó báo về như vậy. Trinh sát trên bờ của ta cũng đã biết rõ như thế. Một tuần dương hạm Mỹ đã đeo bám nó hết sức sít sao và đã dần dần xác định được con "tàu dầu" ấy là ai. Qua các nguồn tin tình báo, Bộ Tư lệnh quân chủng biết rõ thêm: địch đã tổ chức một cuộc phục kích hết sức ác hiểm ở ngang Trường Sa. Không thể nào để cho con tàu của chúng ta đi tiếp được nữa. Phải kiên quyết gọi nó về, cũng như trước đây mỗi khi nhận thấy những con tàu cần phải tiến, cần phải vào bờ, cũng đã kiên quyết động viên, chấp nhận cho nó tiến thẳng vào bằng mọi giá...

Con "tàu dầu" đã hiện lên thành một chấm đen ở đường chân trời. Dần dần nhìn rõ được hình dạng nó.

Cả ban chỉ huy Đoàn cùng bắc ống nhòm lên. Con tàu sao mà chậm chạp.
Đã nhìn thấy rõ từng ô cửa mạn, từng ống thông gió, thông hơi. Đã nhìn thấy đài chỉ huy với những bóng người lố nhố.

Một hồi còi rền rĩ kéo lên.

Tất cả các sĩ quan chỉ huy và chiến sĩ trên con tàu đón đợi đều đứng xếp hàng dài trên boong, áo quần tề chỉnh. Quốc kỳ bay phấp phới trên đỉnh cột.

Con "tàu dầu" cặp mạn.

Vũ từ trên đài chỉ huy thong thả bước xuống, rồi chuyển sang tàu chỉ huy.

Thước dang cả hai tay ra. Anh siết chặt, siết mãi người thuyền trưởng yêu dấu vào lồng ngực mình. Vũ đen và gầy hẳn đi. Đôi mắt anh buồn mênh mông.

Chính ủy cũng ôm lấy anh và thì thầm:

-   Vũ! Đừng phiền muộn! Hãy cùng chi ủy giữ vững quyết tâm của anh em! Quay về không có nghĩa là ta đành chịu nó. Đã có quyết định của Bộ rồi. Sẽ lại cho các cậu đi ngay thôi. Nhưng phương án 2, hiểu chưa? À, hiểu rồi! Có nghĩa là phải huấn luyện  lại cho thủy thủ cẩn thận đã. Và có lẽ phải có diễn tập nữa cơ đấy. Thủ trưởng Bộ và có thể có cả các đồng chí trong Bộ Chính trị tới xem các cậu diễn tập nữa. Hiểu chưa! À, hiểu rồi ư? Tốt lắm!...

Vũ mở to đôi mắt. Gương mặt anh hé sáng lên một chút.

Phương án 2! Anh đã được nghe phổ biến nó một lần từ trước. Đó là phương án bung đi rất xa, xa hơn cả con đường hàng hải mà tàu anh vừa đi. Phương án 2. Có nghĩa là bọn anh sẽ phải tới cả những vùng biển lạ rất xa xôi...
 

Phương án 2. Cũng có nghĩa thế là bọn anh sẽ đi biển hoàn toàn bằng thiên văn, chứ không dùng địa văn được như trước nữa. Mà trong đoàn tàu này cho tới nay chưa có một ai đi như vậy. Đi bằng thiên văn, nếu giỏi thì vẫn vô cùng chính xác. Nhưng nếu lúng túng,

thì cũng chắc chắn sẽ giống một anh mù bị ném vào rừng rậm.

Ngay chiều hôm ấy, chi bộ toàn tàu họp đại hội. Mọi người cùng nhất trí xin bỏ hết mọi chương trình nghỉ ngơi để bắt tay luôn vào việc.

Con tàu quay trở về ngay trong đêm, nhằm cửa Ba Lạt (Thái Bình) để huấn luyện và diễn tập - Diễn tập toàn diện từ cách đo thiên văn tìm hướng đi và xác định vị trí tàu   ở ngoài khơi xa, cho tới kỹ thuật của các chiến sĩ lái, xạ kích của các pháo thủ, thao  tác của các thợ máy... Cuối cùng là động tác đổ bộ. Thêm nữa, diễn tập cả việc phá   nổ con tàu ở giữa biển, cũng như hủy bỏ nó lúc ở nơi cặp bến chuyển hàng, hoặc khi  bị địch vây ép...

***

Mười ngày sau, con tàu lại nhổ neo.

Phương án 2. Tất cả thủy thủ, sĩ quan đều đã được lệnh tạm trút bỏ những bộ quần áo lao động, chiến đấu cũ, thay vào đó là những bộ đồ Tây nhiều kiểu, nhiều màu sắc để nghi trang. Các chiến sĩ thường làm việc trên boong, trên ca-bin còn được lệnh để tóc cho dài hơn, và một số cậu còn được phép để cả ria nữa.

Mọi người không sao nhịn được cười khi thấy Đĩnh voi đeo một cặp kính đen to tướng, ria lún phún, tóc trùm gáy, mặc một chiếc sơ-mi cộc tay có vẽ chim cò đứng  bắt chéo chân trước mũi con tàu, phì phèo điếu thuốc lá.

-   Được! Coi mi như một thủy thủ dân sự thuộc một nước nào đó ở Đông Nam Á được đấy! Nhưng phải bôi cho mặt đen đen thêm chút nữa kia! - Tân bình luận một cách hăng hái như vậy.

Tân cũng đã ra dáng một sĩ quan nhỏ dưới tàu với sơ-mi trắng, quần xám sẫm, giày đen, và vai lấp lánh một đôi phù hiệu (nhưng chẳng hề giống của bất  cứ một nước  nào trên thế giới này).

Trước giờ xuất phát, một bức thư của Thủ trưởng trên Bộ được đưa tới: "Các đồng chí yêu quý,
"Lần này các đồng chí lại vượt biển ra đi, vì miền Nam, vì Tổ quốc thống nhất. Lần này các đồng chí đi theo một hải trình mới, hoàn toàn xa lạ, chắc sẽ có không ít khó khăn. Nhưng tôi tin với truyền thống vẻ vang của Quân đội ta, của Hải quân nhân dân ta, với ý chí kiên cường của những người Đảng viên, chắc chắn các đồng chí sẽ phát huy mọi sáng kiến, sẽ đem hết sức mình hoàn thành tốt được nhiệm vụ. Tôi đã báo  cáo với Bác về chuyến đi này. Bác gửi tới các đồng chí nhiều cái hôn và chúc các
 

đồng chí thắng lợi. Bác sẽ theo dõi các đồng  chí từng giờ, từng ngày. Bác chờ đón  các đồng chí toàn thắng trở về.

Hãy anh dũng, mưu trí tiến lên!

Hãy tô thắm thêm trang sử vẻ vang của Hải quân nhân dân Việt Nam nói riêng và của Quân đội Nhân dân Việt Nam anh hùng nói chung...".

Con tàu đã đi theo hướng đông, đến hòn Phượng Hoàng thì chuyển hướng đông nam. Tới mũi Sà Cừ, vượt eo Đại Bàng, nó bắt đầu chuyển hướng đi xa hẳn bờ. Từ đó, núi non trên đất liền mờ dần, nhỏ dần, rồi sau hoàn toàn chỉ còn trời nước  một màu,  mênh mông vô tận. Biển lặng, sóng im. Im lặng lạ lùng - cái im lặng giữa biển khơi gây nên một cảm giác cô đơn kỳ lạ. Không còn một chút dấu vết của lục địa. Bắt đầu phải dùng thiên văn hàng hải để đưa dắt con tàu đi. Nhưng máy móc cũng chỉ có hai máy 1/6 đo góc kẹp, một máy tính đường nước ép, và một bộ tài liệu tính số liệu cơ bản. Ngoài ra, mọi phương tiện đảm bảo hàng hải khác như vô tuyến định hướng, ra- đa, máy đo sâu... đều không có một thứ nào hết cả.

Vũ mời Bá lên đài chỉ huy để hợp lực cùng anh. Anh muốn, từ những giây phút đầu tiên công việc làm hàng hải thiên văn phải thật tốt để tạo được ngay lòng tin cho toàn thể anh em. Anh biết, tuy không nói ra, không phải không có chiến sĩ vẫn còn thấp thỏm lo con tàu lạc đường, không biết rồi sẽ trôi giạt tới  đâu, đến tận những  bến bờ xa lạ nào.

Mặt trời như một quả cam vàng treo lơ lửng trên đường chân trời nhỏ tắp. Vũ ngửa mặt nhìn lên, cầm chiếc máy 1/6 đo góc kẹp, anh bỗng nhận ra tới giây phút này của đời anh, anh mới hiểu hết được tầm giá trị, sự quý báu không gì so sánh nổi của "trái cam vàng" ấy. Thử tưởng tượng xem, nó biến mất, trời mù mịt, biển gầm thét, làm   sao mà có thể đo nổi một vị trí thiên văn để rồi từ đó làm một loạt các con tính, cuối cùng xác định được rõ, được hoàn toàn đúng là con tàu mình đang ở đâu, xa hoặc gần mục tiêu, xa hoặc gần những nơi cạm bẫy địch...?

Vũ ngắm nhìn mặt trời rồi dùng mắt mình kéo thẳng một đường xuống. Anh mừng thầm: Biển đang lặng sóng. Yếu tố quyết định là đo đạc từ mặt  trời xuống đường  chân trời. Mắt phải rất tinh đã đành, còn phải trông chờ biển êm sóng. Nếu sóng lớn, xác định có thể lệch từ ba tới bảy hải lý là thường.

Vũ đã chập máy 1/6 xuống được một góc kẹp an-pha. Bá ngạc nhiên. Trong thâm  tâm, Bá vẫn thầm nghĩ: Vũ chỉ có thể làm được địa văn giỏi.

-   Hay quá! - Nói đoạn, Bá cắm đầu lia bút trên trang sổ tay làm luôn một loạt con  tính.

Đã xác định được vị trí hoàn toàn chính xác của con tàu. Một nỗi mừng lan tràn trong khắp đoàn thủy thủ.
 

Thế là đã có thể yên tâm, mặc dầu con tàu mỗi lúc như đi sâu thêm vào một vũ trụ mênh mông không biết đâu là bờ là bến, không còn thật rõ đâu là đông, tây, nam, bắc. Những chuyến đi trước, đã tưởng là ra xa, đi rộng, nhưng đúng  là phải tới chuyến  này, mới thấy được hết, được cụ thể thế nào là Đại dương. Tâm hồn như được mở  tung ra. Một cảm giác tự do tuyệt vời dâng lên tràn ngập, ngây ngất. Con người như muốn bay lên...

Chiều xuống dần. Cả một khung trời phía tây cháy đỏ. Hoàng hôn trên biển lớn bao giờ cũng uy nghiêm và lắng buồn. "Trái cam vàng" bây giờ đã là một cục thép đỏ  đang từ từ chìm xuống chân sóng ở xa vời đang chuyển dần sang màu tím sẫm huyền bí.

Một số vì sao bắt đầu thắp sáng trên khung trời.

-   Xem sao đi anh Vũ! - Bá nói.
Logged
trachvandung
Cựu chiến binh
*
Bài viết: 747



« Trả lời #19 vào lúc: 27 Tháng Mười, 2021, 07:52:37 am »

Vũ gật đầu. Ngoài việc đo đạc mặt trời, trong tác nghiệp thiên văn hàng hải còn có việc xác định xem các vì sao, các chòm sao, cũng để xác định phương hướng và tìm  vị trí tàu. Sau những ngày diễn tập, Vũ đã bò ra, đọc ngốn ngấu những tài liệu thiên văn mượn được ở Tham mưu. Anh đã hiểu: trong một ngày có hai thời điểm tốt nhất để xem sao. Ấy là lúc bình minh và hoàng hôn, được gọi là "bình minh hàng hải" và "hoàng hôn hàng hải". Những đêm trăng sáng, tưởng là dễ xem sao, nhưng thật ra chỉ để tham khảo chứ không mấy chính xác.

Những chòm sao, những vì sao lẻ tiếp tục mọc lấp lánh đầy trời. Ngôi sao Hôm rực sáng nhất vẫn như một con mắt tươi cười nhìn theo con tàu đang lênh đênh giữa biển lớn. Kia là chòm sao Thiên Cầm. Kia là chòm sao Thiên Nga - Thiên Ưng  hay còn  gọi là Ngưu Lang - Chức Nữ. Kia là chòm Lạp Hộ (Orion). Kia nữa là chòm Thần Nông mà phương Tây quen gọi là Scoóc-pi-uýt. Ôi "Ông Thần Nông" quá đỗi thân thuộc! Ông là người Việt Nam từ bao đời nay lụm cụm, khom lưng cấy cày, chân lấm tay bùn vất vả... Đi đâu, ở đâu, ngẩng đầu lên cũng gặp ông như gặp lại người làng, một lão nông cần mẫn. Giữa biển khơi mênh mông, xa vời đêm nay, lại gặp "ông". Hồn quê bỗng như dào dạt trong lòng tất cả những người chiến sĩ. Thì ra "ông" cũng theo chúng tôi ra trận? "Ông" đang nghĩ gì, hỡi ông lão nông hiền như đất, mà  ước  mơ chỉ giản dị có một điều: no ấm và tự do!... Và cả kia nữa, chòm sao Bắc Đẩu cũng quá đỗi thân quen. Tây gọi nó nào là Gàu lớn, nào là Gàu nhỏ. Nhưng cũng vẫn luôn luôn nhìn nó là chiếc gàu dai, chiếc gàu dai nghèo khổ quê ta. Hỡi chiếc gàu dai, ta tạm gửi mày lại ở quê nhà cho bà con, cho mẹ, cho cha, cho em yêu, ta ra trận. Hãy  soi rõ cho ta những dặm dài máu lửa, hãy chỉ cho ta hướng đi, hãy dắt cho ta lối về. Hãy nhắn cho tất cả những người ở hậu phương: những đứa con ra đi vẫn luôn gửi lòng mình về quê cũ, về chốn thương yêu, về với miền đất cội, dù cho nắng mưa, dù cho sỏi đá... Và đây nữa là chòm sao Vệ Nữ dường như đang soi sáng để cho Vũ nhìn lại được cặp mắt em với hàng mi dài mềm mại, để Vũ lại có thể gọi lớn tên em: "Lý! Lý!".

Thế là lại một lần nữa xác định được đúng vị trí tàu và đã hiểu rõ mình đã tới đâu, đang ở đâu. Con tàu đã xuống ngang vĩ tuyến 16. Nhưng lần này nó ở mãi tít một
 

trăm mười sáu độ bốn mươi hai phút kinh đông. Nó đang  đi giữa một luồng nước chảy từ biển Nhật Bản xuống ngang Phi-lip-pin. Luồng nước chảy qua những bãi san hô nổi hoang vu không một bóng người, không một ngọn cỏ mang những tên xa lạ: Mắc-clét-phin-dơ, Xcác-brao..

Con tàu lần này được cải dạng thành một con tàu nghiên cứu cá biển, biển trắng, số đen, tàu xanh lơ, ống khói vàng, ung dung đi ra ngoài những vùng tuần tiễu của Mỹ, ngụy. Nó đã ra khỏi vùng "biển đỏ" mà cái chiến dịch gọi là Mác-kết Thai-mơ vẫn đang được tiếp tục đẩy mạnh. Nhẹ thở biết bao nhiêu, mặc dầu cũng vất vả về kỹ  thuật biết bao nhiêu!

-   Báo cáo! Có tàu lạ phía trước hai hải lý!

-   Báo cáo! Có tàu lạ phía sau ba hải lý!

Những chấm đèn xa hiện lên trên mặt biển đang hoang vắng, lạnh lẽo, bỗng như bừng dậy dấu hiệu của sự sống, sáng lên dấu vết của con người.

-   Báo cáo! Lại có khá nhiều ánh đèn phía trước nữa!

Vũ cho giữ vững tốc độ con tàu mình, anh mỉm cười quay sang với Bá:

-   Con đường này thế mà vui, hả?

Bá gật đầu. Không ai bảo ai, các anh đều hiểu đó là những con tàu buôn đang ngược xuôi tấp nập trên con đường biển quốc tế từ Trung Đông tới Xanh-ga-po - In-đô-nê- xi-a - Mã Lai - Hồng Công - Nhật Bản, và ngược lại.

Chính trị viên Trúc cũng lên ca-bin, dường như muốn chia sẻ niềm vui cùng Vũ, Bá. Anh phấn khởi, hào hứng nói:

-   Từ nay ta chịu khó bung đi xa thế này là dễ ăn nhất. Vũ lắc đầu:
-   Hãy biết chuyến này cái đã. Mà chuyến này cũng mới biết có chặng này đã. Trên  mặt biển chiến tranh, mỗi ngày một khác anh ạ! Bọn Mỹ quỷ quái lắm...

Trúc im bặt, anh liếc nhìn Vũ, và thầm tự hỏi: Có phải đây là con người chỉ biết có "húc", còn không hề có tài năng gì, ngoài ra lại còn tính tự do và thói ngang bướng... như ông Lệnh đã từng nhận xét và căn dặn Trúc phải luôn luôn để ý giúp đỡ không?

Con tàu tiếp tục tiến theo một con đường rất chính xác, mặc dầu nó đang ở vùng biển có dòng hải lưu mạnh và gió cũng khá lớn. Trúc cũng võ vẽ biết được ít nhiều về nghiệp vụ hàng hải. Anh hiểu: bình thường gió nước thế này tàu dễ bị ảnh hưởng, nghe nói thường bị dạt đi có khi từ sáu mươi tới bảy mươi hải lý mà không biết, nếu người thuyền trưởng con tàu mù mờ chỉ căn cứ vào tốc độ, thời gian mà không biết
 

căn cứ vào thiên văn và chỉ huy lái cho vững, thêm nữa chưa có được cái mà người ta vẫn thường gọi là "sự linh cảm thủy thủ" hoặc "giác quan của sói biển".

Trúc đứng sát Vũ chăm chú theo dõi Vũ làm việc. Anh lờ mờ nhận thấy: người  thuyền trưởng đang nắm rất chắc mọi quy tắc, quy trình đi biển lớn.

Qua một đêm bình yên.

Ba ngày sau, con tàu "nghiên cứu cá biển" vẫn vô sự. Nó đã qua quần đảo Trường Sa với cái tên xưa đầy gợi cảm "Vạn lý thạch sàng" có nghĩa là "Giường đá vạn dặm". Con tàu như đã ngửi thấy cả mùi đất mầu mỡ của đảo quốc Phi-líp-pin, của Mã Lai Á...

Vũ lại nhớ tới Kính. Tiếc rằng Kính chẳng còn để lại kể cho anh em nghe những sự tích Trường Sa, quần đảo san hô mà tổ tiên ta đã vượt biển tìm ra được  từ trước thế  kỷ 15, trước cả khi Trịnh Hòa đi ngang qua đó. Trịnh Hòa là người mà Trung Quốc hiện nay đang đề cao là nhà hàng hải vĩ đại của họ. Trịnh Hòa sống  vào đời  nhà Minh. Nhà Minh phong kiến thuở ấy có một tham vọng bành trướng rất lớn "xuống khắp miền Đông Nam Á (mà hồi đó họ gọi là Tây Dương). Trịnh Hòa, con "người hùng" thực hiện âm mưu bành trướng của vua Thành tổ nhà Minh, đã đem hai vạn quân, tám tàu buồm lớn cùng nhiều ghe nhỏ, cũng đã đi trên vùng biển  mà con tàu  của Vũ đang đi hôm nay. Chỉ có khác: ngày ấy họ đi thực hiện tham vọng bành trướng, còn các anh hôm nay đi đánh Mỹ xâm lược, cứu nước. Họ đã tới Can-quít-ta (Ấn Độ). Họ đã tới Tích Lan. Sau đó vài chục năm họ lại tới tận Péc-ca thuộc Rập. Nhưng chính sách bành trướng thống trị của nhà Minh đã bị phá sản vì sự phục hưng của không phải ai khác mà chính là do nước Đại Việt ta, dưới ngọn cờ khởi nghĩa giải phóng vĩ đại của Lê Lợi, người anh hùng áo vải đất Lam Sơn...

Nếu Kính còn sống chắc cũng sẽ kể lại cho anh em nghe cả về cái thời mà nhà Minh suy tàn. Mạc Phủ Nhật Bản đã hưng binh đánh Triều Tiên (khi đó Triều Tiên là chư hầu của nhà Minh). Nhà Minh đem quân cứu viện, nhưng đuối sức. Năm 1516, Trịnh Tùng ở Nam Việt đã đưa biểu sang vua Minh đề nghị sẵn sàng đem thủy quân giúp Triều đánh Nhật. Nhưng vua nhà Minh sợ Nam Việt hùng cường sẽ trở thành mối lo cho chính mình nên đã khước từ. Đã mấy ai biết cái chi tiết quý giá ấy trong lịch sử! Như vậy, xưa kia hải quân của cha ông ta hiển nhiên cũng đã một thời hùng  mạnh.  Và từ xa xưa, cha ông ta cũng đã có một tấm lòng đại nghĩa, sẵn sàng cứu trợ lân   bang diệt trừ xâm lược, Hải quân Việt Nam đã một thời hùng mạnh, điều này còn  được chứng minh vào năm 1643. Năm đó, thủy quân Hà Lan định vào xâm lược Việt Nam đã bị hải quân Việt Nam tuy chỉ có thuyền chiến gỗ và giáo mác, súng hỏa mai, dưới sự chỉ huy tài giỏi của Dũng Lễ hầu Nguyễn Phúc Tần đánh cho tan tác ở ngoài khơi Hội An - Đà Nẵng.

Như thế đấy, từ xa xưa, Việt Nam đã có những hải đội bé nhỏ mà anh hùng. Truyền thống ấy vẫn còn vang vọng mãi cho tới hôm nay. Cha ông chúng ta đã ra biển. Cha ông ta đã chiến thắng. Hôm nay chúng ta cũng ra biển, nhưng đi xa hơn, và nhất định chúng ta cũng sẽ không hề hổ thẹn là con cháu của những người đã chiến thắng ở Bạch Đằng, Chương Dương, Hàm Tử, Hội An, Cửa Nộn...
 

Chiều lại xuống dần. Một ngày bình yên nữa sắp trôi qua. Chẳng bao lâu sẽ tới quần đảo Na-tu-na dưới vĩ độ bắc bốn, nằm giữa vùng biển Mã Lai Á. Cái quần đảo xa vời này từ trước tới nay Vũ mới chỉ được thấy trên hải đồ và nghe danh trong những câu hát mơ mộng theo tiếng ghi-ta mượt trầm và trong gió biển reo trên các bãi cát vàng  và những rừng dừa xanh biếc.

Theo thường lệ, Bá lại sửa soạn đón đợi hoàng hôn hàng hải để đo vị trí tàu theo yêu cầu của Vũ. Bất chợt, anh thấy Vũ gọi lên đài chỉ huy:

-   Bá này! Khéo có mù.

Bá ngạc nhiên, Vũ nói tiếp:

-   Chú ý nhìn xem! Gió đột nhiên tắt. Cờ thông tin không bay nữa. Trời tối lại khá nhanh, và hơi lạnh từ mặt sóng phả lên khá rõ.

Bá quay lại: quả nhiên các cờ tín hiệu thông tin quốc tế đều rũ hết. Chân trời mờ đục. Mặt sóng tối và hơi lạnh đang tỏa lên, nếu không tinh không ai thấy rõ được những triệu chứng khác thường ấy. Nhưng Bá vẫn nghi hoặc:

-   Hay là bão? Vũ lắc đầu:
-   Không! Mù đấy! Hồi mới ra trường, ở tuần la tôi đã gặp nó một lần... Nói đoạn anh bảo Bá lấy máy quan trắc ra đo khí tượng, rồi mời Trúc lên:
-   Đề nghị anh cho họp chi bộ. Sắp có mù. Phải hết sức thận trọng. Chúng ta vẫn chưa qua hết vùng đá ngầm.

Mặt Trúc xanh đi. Anh chưa hề có kinh nghiệm về mù. Nhưng cũng đã được nghe chẳng ít về những vụ đắm tàu bi thảm chỉ vì thứ sương mù đáng sợ ấy.

Chi ủy đã đủ mặt: Trúc, Vũ, Bá, Tân và Đĩnh voi. Vũ thong thả nói:
-   ... Tuy vậy, cứ bình tĩnh! Chúng ta đã tác nghiệp hải đồ rất cẩn thận từ nhà. La bàn đã được kiểm tra độ lệch. Tôi đã thử cả tám hướng. Như vậy tuy mất mặt trời không làm được hàng hải thiên văn, ta cứ giữ vững lái, giữ vững tinh thần chiến sĩ, đề cao trách nhiệm, tăng cường quan sát. Cũng vẫn có thể thoát hiểm được.

Thái độ của Vũ làm mọi người đỡ lo hơn.

Con tàu lập tức được báo động. Trúc được phân công xuống khoang máy đặc trách động viên và giúp các chiến sĩ cơ điện kiểm tra lại mạch ống, máy móc.
 

Các cửa mạn đã được đóng hết.

Các phương tiện chống chìm và cấp cứu đã được chuẩn bị sẵn sàng.

Chiều dần xuống. Biển càng xám lạnh. Vòm mây nhợt nhạt không một tia sáng mặt trời. Vũ bảo đưa hải đồ và đèn bấm lại cho anh, rồi gọi Tân nay đã là thủy thủ trưởng nhưng vốn là tay lái cừ khôi mà anh hằng tin tưởng từ lâu, lên ở liền bên anh để sẵn sàng giúp anh nắm vững đường đi của con tàu.

Thế rồi mù nổi lên thật. Mù bắt đầu kín đường chân trời. Nhưng trước đó, rất thận trọng, Vũ đã cùng Bá đo được một vị trí tàu rất chuẩn xác.

Mù bốc lên rất nhanh như khói tỏa. Chỉ một lúc sau đã loang ra khắp mặt biển, không còn phân biệt được đâu là trời, đâu là nước nữa. Mù bay luồn cả vào trong ca-bin chỉ huy. Bóng anh lính quan sát ở trụ neo đầu mũi tàu nhòa dần rồi chìm hẳn trong hơi  mù trắng xóa. Mạch, anh lính lái đứng cách Vũ có mấy bước cũng dần dần trở thành một cái bóng mờ ảo. Vũ và Tân đứng sát bên nhau cũng như đã bị ngăn cách bằng  một tấm kính đục, không nhìn thật rõ nét mặt nhau nữa.

-   Mù bình lưu Tân ạ! Không phải mù khúc xạ.

Gáy Tân thoáng lạnh hẳn. Anh đã được nghe nói mù bình lưu là thứ mù rất dày đặc, kéo dài ngày, quái ác nhất.

Vũ gọi chiến sĩ báo vụ tới:

-   Điện về nhà đi: "Chúng tôi gặp mù bình lưu - Xin cứ yên tâm - Chúng tôi quyết  vượt qua nó".

Rồi anh bắt đầu kéo còi hiệu đi đường, nhằm tránh va chạm. Bàn tay anh  ấn mạnh  vào nút điện. Ù ú... ù ú... ù ú...

Tiếng còi âm phù bật lên một hồi dài đặc. Hai phút sau, theo quy định quốc tế, lại cất lên một nhịp nữa, và cứ thế con tàu vừa tiến vừa kéo còi đều đặn, để báo cho các tàu ngược xuôi tránh va vấp.

Con tàu y như đi trong một cơn ác mộng. Vũ nói với Tân:

-   Hãy báo cho anh em biết: đúng là mù bình lưu rồi. Có thể chúng ta sẽ phải lênh  đênh trong mù này vài ngày. Vậy tôi ra lệnh: bắt đầu phải thực hiện tiết kiệm lương thực và nước ngọt ngay từ giờ phút này, theo quy định ngặt nghèo đã được phổ biến.

Tân như một con chim bay vù xuống mặt boong.

Chỉ một lát sau đã nghe thấy từ đầu mũi tới cuối tàu ran lên những tiếng hô:

-   Rõ!
 

-   Rõ!

-   Xin tuyệt đối chấp hành!

Vũ muốn nghẹn ngào. Một lần nữa trong cuộc đời, anh lại thấy các chiến sĩ ủng hộ anh tuyệt đối.

Ù ú... Tiếng còi lại đều đặn cất lên, cô đơn như tiếng nai con lạc mẹ giác giữa rừng thẳm.

Ù ú...

Lý! Em cũng nghe đấy chứ? Con tàu đang gọi bạn tàu. Và con tàu anh cũng đang gọi cả tên em, gọi Đất Nước, gọi Cuộc đời. Con tàu nói: chúng tôi vẫn quyết đi và quyết tới, để rồi sẽ trở về với Em yêu, với đồng đội...

Vũ đã khá mệt. Đồng hồ chỉ sáu giờ. Đã qua một đêm. Mặt trời chắc đang mọc, anh thầm nghĩ. Bá bước vào ca-bin:

-   Anh xuống nghỉ một chút đi! Tôi thay anh. Thế là đã qua được một đêm. Thật lạ, chiến sĩ họ bảo nhau: con tàu mình hình như đi vẫn có thiên văn hàng hải!

Vũ cười:

-   Chúng ta đang đi theo một thứ văn khác: đó là Tâm văn hàng hải!

Bá cười theo. Còn nhớ khi về con tàu này, đoàn trưởng Thước đã bảo anh: "Cậu sẽ làm phụ tá cho một tay được đấy!". Lúc đó, thật ra Bá chưa biết rõ Vũ cho lắm, mới chỉ được nghe nói ít nhiều. Cho tới hôm nay anh đã có thể hiểu rõ hơn cái "được đấy" của con người này ra sao.

Mù vẫn chưa tan. Con tàu tiếp tục mò mẫm đi trong mọi nỗi phấp phỏng dẫu sao vẫn chưa hết trong lòng người. Vũ xuống phòng thủy thủ. Anh chỉ thiếp đi được chừng hơn hai tiếng đã trỗi dậy. Anh lại lên ca-bin, mặc dầu anh hoàn toàn tin tưởng Bá vì  đã biết Bá là người khá thông minh lại nắm vững mọi yêu cầu công tác hàng hải,   cũng như công tác chỉ huy một con tàu. Trong lúc đó, chính trị viên Trúc vẫn chạy đi chạy lại trên boong, động viên các chiến sĩ có nhiệm vụ quan sát, nhắc nhở những chiến sĩ làm nhiệm vụ cấp cứu, rồi xuống khoang với các chiến sĩ thợ máy.

Chiếc đồng hồ trong ca-bin chỉ năm giờ chiều. Thế là một ngày nữa sắp trôi qua.
Con tàu đã đi tới đâu? Giạt tới đâu? Thật khó lường được!

Nhưng mù đã bắt đầu tan dần. Sương không còn đặc sệt nữa mà bắt đầu bay tỏa, rồi mỏng nhẹ dần, chờn vờn như khói bay, như mây trời. Đã nhìn suốt được từ đầu tới
 

cuối tàu. Rồi dần dần nhìn rõ được cả từng mặt người trên boong. Ngẩng đầu lên đã thấp thoáng thấy một vài mảng trời xanh nhạt...

Vũ lập tức phát một hồi còi náo nhiệt.

Tất cả thủy thủ đều lên boong. Nhiều anh ôm chầm lấy nhau, cũng nhảy lên, tung mũ lên, reo hò vang dậy.

Thoát rồi.

Con tàu như từ từ tiến ra khỏi một thế giới mù lòa.

Đã thoáng nhìn thấy cả chân trời. Đã nhìn thấy mặt trời hiện lên như một trái hồng chín mọng.

-   Bá! Anh đo cho một vị trí tàu!

-   Có ngay!

Chỉ mấy phút sau Bá đã quẳng bút reo lên:

-   Chúng ta đã xuống tới vĩ độ bắc sáu, chỉ còn cách bắc quần đảo Na-tu-na gần bảy mươi hải lý. Tuyệt, tuyệt! Tàu ta thế là vẫn đi đúng hướng, đúng đường hành trình đã vạch sẵn!

Mừng quá! Mừng đến nỗi không thể chịu nổi. Tâm hồn Vũ như một đứa trẻ, anh liền ấn mạnh tay vào nút điện phát tiếp một hồi còi dài dặc, náo nhiệt.

Cả đoàn thủy thủ lại một lần nữa reo hò, nhảy nhót như mở hội trên boong tàu. Trúc cũng rất phấn khởi. Nhưng nghe hiệu còi lần thứ hai anh không khỏi ngỡ ngàng, rồi thầm nhủ: "Cái cậu này đúng là vẫn có những lúc bốc, chẳng có quy tắc gì hết. Sao   lại phát còi loạn như thế được! Đĩnh voi đứng gần đó thấy Trúc hơi nhíu lông mày, tưởng anh đang nghĩ cách để mừng con tàu thoát mù, liền chạy ngay lại, tán:

-   Chính trị viên ơi! Khao đi! Thế này mà không cho anh em một chầu bia kẹo, cũng hoài. Khao đi, chính trị viên ạ!

Vừa nói, anh ta vừa gãi đầu gãi tai, cười toe toét, như vẫn còn là một "phó thượng sĩ" khi trước.

Lúc đó Tân đi tới. Anh nói xen vào:

-   Đĩnh! Muốn khao hả! Thịt chó tốt hơn! Nhưng liệu có kiếm được "chó có bộ râu  thật hách" không mày?

Tân đã nhắc lại câu chuyện nghệ thuật làm chả chó của Đĩnh trong cuộc vượt  rừng tìm "Bến" ở gần Nha Trang năm ngoái. Trúc không hiểu gì hết, ngơ ngác. Chỉ có hai anh em cùng cười ầm.
 

Đã tới gần bắc Na-tu-na hơn. Hầu như cùng một lúc, ba bốn con tàu buôn xuất hiện. Tàu mang cờ Nhật Bản, tàu mang cờ Anh, tàu mang cờ Mã Lai Á... Những con tàu   đồ sộ như những tòa thành. Con tàu "nghiên cứu cá biển" của ta chỉ như một quả trứng. Những con tàu Nhật Bản chở dầu từ Trung Cận Đông về rất khẳm, chạy chậm chạp. Những con tàu từ Hồng Công ra đi, chắc đã hết hàng, nổi bồng.

Lại thấy ba bốn con tàu khác xuất hiện ở xa, gần. Cũng không ngờ vùng biển này lại tấp nập đông vui đến thế.

Chợt có tiếng nói to, như reo:

-   Ô, tàu Liên Xô!

Quả nhiên có một con tàu lớn từ từ đi ngang qua, khá gần con tàu ta, trên đỉnh cột buồm phấp phới một lá cờ búa liềm đỏ thắm. Tất cả các chiến sĩ ta đều hướng về phía con tàu Xô Viết. Muốn reo lên, muốn vẫy chào những người đồng chí, nhưng vì phải giữ bí mật, tất cả chỉ còn biết nhe răng ra cười, và cố nhìn cho rõ những chàng thủy thủ Nga vạm vỡ, da đỏ au đang đứng tì tay trên lan can boong tàu nhìn sang.

Con tàu Liên Xô đã đi xa, mà dường như lòng các chiến sĩ Việt Nam vẫn còn ấm lên như bất chợt gặp những người ruột thịt ở giữa nơi bốn bề xa lạ này.

Đêm lại xuống. Mặt biển vừa tối nhòa thì cũng vừa lúc thấy nháng lên ở phía  chân trời một vệt sáng dài.

-   Đèn biển! - Anh chiến sĩ quan sát trên cao hô to.

Đèn biển thật. Vũ nhìn xuống tấm hải đồ, rồi thốt lên ngạc nhiên:

-   Đèn măng-cai (2)nam Na-tu-na. Ồ! Còn cách nó hơn bốn mươi hải lý mà sao đã  nom thấy rồi. Sáng quá hả!



(2)   Thuộc đảo Anambas - Mã Lai Á. Bá, Trúc cũng chạy lên, mừng quýnh:
-   Măng-cai! Măng-cai! Vậy là hoàn toàn đúng hướng. Sắp tới tọa độ để chuyển vào  bờ rồi.

Cây đèn biển tiếp tục nhấp nháy.

Các chiến sĩ cũng đều mừng. Đĩnh voi khoái quá, vỗ bụng nghêu ngao: "... Nào ai sung sướng như ta lính xoàng
Lênh đênh trên chiếc tàu xa vời
 

Ngày đêm trên nước mênh mông sáng ngời Ta ngao du khắp cùng phương trời...".
Cả Vũ, cả Bá đều phải bật cười. Không hiểu anh chàng voi này học được ở đâu (hẳn  là học dân xe rùa, dân bốc vác cũ của đất cảng Hải Phòng) những câu hát rất xưa của thủy thủ Pháp ngày trước.

Vũ nói:

-   Thôi đi ông! Làm mấy câu cách mệnh cho nó "khỏe" hơn!

Tàu đi suốt đêm đó, trưa hôm sau lại bắt được một cây đèn biển khác: đèn Tăng-gôn.

-   Xác định vị trí tàu!

Vũ nói với Bá, rồi quay lại phía Trúc, giảng giải:

-   Sắp tới tọa độ để chuyển hướng nhằm Hòn Khoai của Tổ quốc ta. Từ đó ta sẽ chuyển hướng vào bờ.

Trúc xúc động hết sức. Đây là lần đầu, kể từ khi rời tuần la từ thời bình, bây giờ anh mới được trải qua những giây phút của một con tàu không  số sắp chuyển hướng  nhằm bờ trong thời chiến.

Anh hấp tấp hỏi:

-   Đã cần họp chi ủy chưa?

-   Chưa! Tới Hòn Khoai đã! Có nghĩa là bắt đầu vào vùng lửa của chúng  nó đã. Ta  dẫu sao vẫn còn đang ngoài biển lớn...

Trúc thở trút ra nhè nhẹ, bớt hồi hộp. Vũ nói để anh hiểu thêm: tàu ta vẫn còn ở ngoài tầm ra-đa địch.

Sóng như hoa trắng phau nở rải rác trên mặt biển.

Một chiếc máy bay trinh sát của hải quân Mỹ bất thình lình xuất hiện. Chiếc máy bay trắng lóa dưới ánh mặt trời, như một thứ đồ chơi. Nó bay dọc theo con tàu, nhưng có lẽ thấy không có gì đáng chú ý, nó bỏ đi qua, bay thẳng vào đất liền.

Con tàu tiếp tục đè sóng, kẻ một đường giữa Côn Đảo và Hòn Khoai chạy vào, đàng hoàng, thản nhiên như một con tàu đã quá quen thuộc với vùng biển này. Nhưng, đột nhiên, Bá đang phiên chỉ huy thấy tiếng máy có cái gì khác lạ. Chiến sĩ hàng hải  Mạnh  cũng nhận ra tiếng máy không bình thường. Bá thét lên trong ống loa hỏi  xuống buồng máy:

-   Cái gì thế?
 

Rồi anh lao xuống.

Vũ và Trúc cũng chạy tới. Vừa lúc con tàu như liệt hẳn.
Có lẽ bị hỏng chân vịt. Bị long một chốt nào đó hoặc có thể bị rong quấn quá nhiều? Mọi người cùng nghi hoặc.

Trúc không giấu nổi sự lo lắng:

-   Chết! Thế này mà tàu tuần tiễu nó tới thì nguy mất. Ta phải giải quyết cho nhanh  các anh ạ. Tôi đề nghị họp toàn thể thủy thủ...

Vũ và Bá đều đồng ý

Trong khoảnh khắc, tất cả thủy thủ đã có mặt đầy đủ trên boong. Và cũng chỉ lát sau, một kế hoạch đã được vạch ra: cử một tổ lặn xuống chữa. Đồng thời toàn tàu chuẩn bị chiến đấu sẵn sàng vừa chống máy bay vừa chống tàu địch. Nhưng lặn xuống biển ở đây đâu có phải chuyện dễ. Những người đi biển nhiều ai cũng đã biết: đây là vùng   có lắm cá mập.

-   Vậy ai xung phong? - Vũ nhìn lướt tất cả các chiến sĩ, cất tiếng hỏi. Những gương mặt căng thẳng. Im lặng một giây.
Rồi một cánh tay bỗng giơ lên.

-   Tân.

-   Ai nữa?

-   Đĩnh voi!

-   Ai nữa?

-   Nhẫn máy trưởng!

-   Được rồi! - Ba người này Vũ đã quá hiểu họ.

Ba người cùng cởi hết áo quần ngoài, chỉ mặc quần bơi chẽn. Mỗi người đeo một túi lắc lê, kìm, búa. Vũ khí mang theo chỉ có dao găm. Công tác bảo hiểm cũng không có gì hơn ngoài mỗi anh một sợi dây buộc quanh bụng dòng lên tàu. Một tổ thiện xạ với AK, ĐKZ bố trí ở trên boong sẵn sàng để nổ súng khi có động.

Vũ ôm lấy từng người. Anh bỗng nhớ lại đêm nào ở bờ biển Quảng Ngãi, Thuận   cũng đã ôm lấy hai chiến sĩ khi họ sắp sửa rời tàu bơi vào bờ bắt liên lạc. Anh nhìn mãi vào đáy mắt từng người, như để tìm ra những điều bí ẩn mà anh vẫn chưa hề biết. Ôi những người chiến sĩ! Họ đã phải trải qua bao nỗi gian nan, qua bao vùng lửa
 

máu. Một lần nữa, hôm nay họ lại chấp nhận một thử thách đặc biệt, nói cho đúng hơn: lại sẵn sàng chấp nhận một hi sinh.

-   Dũng cảm nhé, các cậu! Tôi nhắc lại: Đội hình chiến đấu tổ ba người. Người sau yểm hộ người trước vào chữa. Và kinh nghiệm của những người thợ lặn chuyên nghiệp ở đại dương đã nói rõ: gắng bơi thật đứng. Cá mập hàm dưới hụt sâu, chỉ dễ dàng đớp những con cá hay sinh vật nào nằm thoai thoải theo chiều ngang...

Ba người cùng đáp:

-   Báo cáo, rõ!

Vũ nhìn xuống biển. Nước tím như mận chín. Những ai đã đi biển nhiều đều hiểu đó  là nơi biển rất sâu, lặn xuống ghê rợn lạ lùng. Một ánh chớp bỗng lóe lên trong đầu Vũ. Anh gọi Bá:

-   Đề nghị hạ cả xuồng cấp cứu nữa. Anh Bá ở trên tàu, tôi xuống xuồng cho!  - Rồi  nói với Tân, thủy thủ trưởng: - Cho tôi ba chiến sĩ có vũ trang!

Mọi người thoăn thoắt làm theo anh. Không khí trên tàu căng như sợi dây đàn.
Chiếc xuồng nhỏ đã được tung xuống mặt biển như một chiếc lá rơi. Vũ nhảy xuống. Anh ngồi sau lái, nhổ miếng nước bọt vào hai bàn tay, cầm lấy chiếc bơi chèo:

-   Nào, ta ra rộng một chút! Các cậu quan sát. Sẵn sàng nhá! Khi nào có cá mập, tôi  hô, thì bắn liền nghe không!

Rồi anh phất tay một cái. Tân, Đĩnh, Nhẫn cùng một loạt tung mình lao vọt xuống biển.

Thời khắc trôi đi thật chậm chạp. Chiếc xuồng của Vũ lượn vòng, lượn mãi.

... Nhưng rồi, tất cả mọi nỗi hiểm nguy lại một lần nữa đã qua đi. Sau ba lần vọt lên khỏi mặt nước để thở, lần cuối cùng cả ba chiến sĩ đều nhô lên, tay giơ cao vẫy vẫy

báo hiệu: chân vịt đã được chữa xong. Gần đúng như dự đoán: nó bị cả  một chiếc  lưới không rõ từ đâu trôi, quấn chặt.

Toàn tàu thở trút. Chính trị viên Trúc bốc lên, lại thét vang những khẩu hiệu để chào đón ba người trở lại tàu: "Hoan hô các dũng sĩ Hải quân nhân dân Việt Nam!", Trúc  cứ thét mãi không thôi.

Chiều rồi. Một chiếc tàu Mỹ kiểu tuần tiễu cỡ nhỏ xuất hiện phía Hòn Khoai. Vận tốc của nó khá lớn. Nước rẽ thành hai cánh trắng xóa phía trước mũi con tàu.

Nó đã nhìn thấy con tàu "nghiên cứu cá biển".
Logged
Trang: « 1 2 3 »   Lên
  In  
 
Chuyển tới:  

Powered by MySQL Powered by PHP Powered by SMF 1.1.21 | SMF © 2006-2008, Simple Machines

Valid XHTML 1.0! Valid CSS! Dilber MC Theme by HarzeM