Lịch sử Quân sự Việt Nam
Tin tức: Lịch sử quân sự Việt Nam
 
*
Chào Khách. Bạn có thể đăng nhập hoặc đăng ký. 28 Tháng Ba, 2024, 07:01:58 pm


Đăng nhập với Tên truy nhập, Mật khẩu và thời gian tự động thoát


Trang: « 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 »   Xuống
  In  
Tác giả Chủ đề: PHÙNG CHÍ KIÊN ... Nhà chính trị, quân sự song toàn  (Đọc 3964 lần)
0 Thành viên và 1 Khách đang xem chủ đề.
chuongxedap
Đại tá
*
Bài viết: 13138



« Trả lời #50 vào lúc: 19 Tháng Mười Hai, 2021, 11:06:56 pm »


Ngày 6 tháng 7 năm 1941, các đồng chí Thường vụ Trung ương về đến xã Quỳnh Sơn, châu Bắc Sơn thì gặp bọn mật thám chặn đường. Với tinh thần cảnh giác, được tổ Cứu quốc quân thông thạo địa hình và nhân dân giúp đỡ, các đồng chí Trường Chinh, Hoàng Văn Thụ, Hoàng Quốc Việt, Phùng Chí Kiên và toàn đoàn đã rút vào cơ quan bí mật ở bản Lân Táy, xã Tân Lập, Bắc Sơn một cách an toàn. Trong thời gian này, thực dân Pháp liên tục mở các cuộc càn quét, khủng bố, đàn áp nhân dân rất dã man, hòng tách nhân dân với cơ sở cách mạng.

Đến cơ quan bí mật ở Lân Táy, các đồng chí Thường vụ Trung ương đã gặp đồng chí Lương Văn Tri, là Ủy viên Xứ ủy Bắc Kỳ được Trung ương phái lên chỉ đạo phong trào cách mạng ở Bắc Sơn - Võ Nhai. Đồng chí Lương Văn Tri là người tổ chức Hội võ trang đầu tiên của Đảng ở miền núi - Đội du kích Bắc Sơn, con đẻ của phong trào cách mạng Bắc Sơn và cuộc khởi nghĩa Bắc Sơn lịch sử. Đồng chí Lương Văn Tri, là người dân tộc Tày, quê ở Điềm He, Văn Quan, Lạng Sơn, còn có bí danh là Huy, anh em gọi thân mật là Huy Còm. Tại đây, các đồng chí Trung ương đã nghe đồng chí Lương Văn Tri báo cáo tình hình phong trào cách mạng ở Bắc Sơn - Võ Nhai. Ban Thường vụ Trung ương Đảng đã chỉ định Ban lãnh đạo mới của căn cứ địa Bắc Sơn - Võ Nhai đồng thời là Ban chỉ huy Đội Cứu quốc quân, gồm có đồng chí Phùng Chí Kiên, Ủy viên Trung ương Đảng làm Chỉ huy trưởng; đồng chí Lương Văn Tri, Ủy viên quân sự Xứ ủy Bắc Kỳ, làm Chính trị viên; đồng chí Chu Văn Tấn làm Chỉ huy phó. Ban Thường vụ Trung ương Đảng đã chỉ rõ nhiệm vụ của Cứu quốc quân là tích cực đấu tranh chống địch khủng bố, bảo vệ Trung ương, bảo vệ cơ sở cách mạng và bảo vệ nhân dân.

Mặc dù địch đang mở cuộc khủng bố lớn, trong thời gian dừng chân ở Lân Táy, Tân Lập, Bắc Sơn, các đồng chí Trung ương Đảng, trực tiếp là đồng chí Hoàng Quốc Việt và đồng chí Phùng Chí Kiên đã tổ chức phổ biến, quán triệt Nghị quyết Hội nghị lần thứ 8 của Trung ương Đảng cho cán bộ địa phương, đồng thời làm công tác huấn luyện, bồi dưỡng đường lối của Đảng, chính sách của Mặt trận Việt Minh và bổ túc kiến thức quân sự, đặc biệt là chiến thuật du kích cho cán bộ.

Trước tình hình càn quét, khủng bố của địch, Ban chỉ huy Cứu quốc quân đã di chuyển đến Khuổi Nọi - Vũ Lễ họp bàn và phân công thực hiện chỉ thị của Ban Thường vụ Trung ương Đảng. Đồng chí Phùng Chí Kiên và đồng chí Lương Văn Tri ở Bắc Sơn lãnh đạo nhân dân và chỉ huy Cứu quốc quân đấu tranh chống địch khủng bố, bảo vệ các đồng chí Trung ương Đảng. Đồng chí Chu Văn Tấn về Võ Nhai, cùng các đồng chí cán bộ nòng cốt ở địa phương lãnh đạo nhân dân và Cứu quốc quân đấu tranh chống địch khủng bố, càn quét và chuẩn bị cơ quan bí mật để các đồng chí Trung ương Đảng rút về Võ Nhai, đồng thời tổ chức chuẩn bị bảo đảm đường dây liên lạc để đưa các đồng chí cán bộ Trung ương về xuôi.

Được sự bảo vệ của Cứu quốc quân và giúp đỡ của nhân dân các dân tộc, ngày 21 tháng 7 năm 1941, các đồng chí Trung ương đã rời khỏi cơ quan bí mật ở Lân Táy - Tân Lập rút về căn cứ ở Võ Nhai. Đến đầu tháng 8 năm 1941, các đồng chí đó đã về đến cơ quan bí mật do Cứu quốc quân xây dựng ở Núi Lều, xã Tràng Xá, châu Võ Nhai. Và cũng từ đây, Cứu quốc quân căn cứ Võ Nhai đã tổ chức bảo vệ, đưa đường các đồng chí Trung ương về xuôi an toàn.

Trong gần một tháng càn quét, giặc Pháp không bắt được các đồng chí cán bộ Trung ương và cũng không tiêu diệt được Cứu quốc quân, chúng càng điên cuồng đàn áp nhân dân các dân tộc Bắc Sơn. Địch liên tục mở các cuộc hành quân càn quét, đánh phá khốc liệt vào vùng Khuổi Nọi - xã Vũ Lễ là trung tâm căn cứ của Cứu quốc quân. Trong các cuộc càn quét đó, địch đã triệt hạ hoàn toàn bản Khuôn Khát, một bản gồm 16 hộ người dân tộc Dao, duy nhất chỉ còn một người trốn thoát. Địch còn lùa bắt hầu hết nhân dân bản Nà Cái, bản Ít về giam ở trại giam Đàng Lang ở xã Quỳnh Sơn - Bắc Sơn.

Liên tục trong gần một tháng đấu tranh, chiến đấu chống địch càn quét, bảo vệ các đồng chí Trung ương và bảo vệ nhân dân, Cứu quốc quân đã dũng cảm chiến đấu, ngăn chặn từng bước các cuộc tiến quân, truy lùng, càn quét, khủng bố của địch. Tình hình ngày càng khó khăn, vùng trung tâm căn cứ liên tục bị tiến công, cơ sở quần chúng cách mạng ở một số nơi bị phá vỡ. Hoạt động và sinh hoạt của Cứu quốc quân ở trong rừng ngày một gặp khó khăn. Phạm vi hoạt động của Cứu quốc quân ở Bắc Sơn dần dần bị thu hẹp. So sánh tương quan lực lượng giữa ta và địch có sự chênh lệch quá lớn, không có lợi cho ta. Đứng trước tình hình đó, Ban chỉ huy Cứu quốc quân chủ trương bảo toàn lực lượng Cứu quốc quân, lực lượng du kích và cơ sở quần chúng cách mạng trong khu căn cứ, tránh bớt các cuộc khủng bố tàn khốc của địch và thực hiện kế hoạch gạt mục tiêu ra ngoài, làm cho địch mất phương hướng đánh phá, càn quét, khủng bố nhân dân. Thực hiện chiến thuật "Hoá chỉnh vi linh", đồng chí Phùng Chí Kiên và đồng chí Lương Văn Tri quyết định phân tán Cứu quốc quân thành các bộ phận nhỏ, vượt vòng vây ra ngoài khu căn cứ Bắc Sơn để xây dựng cơ sở và phát triển phong trào cách mạng, để lại một bộ phận nhỏ tiếp tục chiến đấu, kìm giữ chân địch và bảo vệ khu căn cứ Bắc Sơn.

Thực hiện kế hoạch phân tán lực lượng, Cứu quốc quân chia thành 3 bộ phận: Bộ phận thứ nhất rút lên hướng biên giới Việt - Trung. Bộ phận này gồm các đồng chí: Đặng Văn Cáp, Hoàng Văn Thái, Dương Công Bình, Hoàng Văn Hán, đồng chí Ý, đồng chí Sơn... Ngày 8 tháng 8 năm 1941, bộ phận này rút khỏi căn cứ Khuổi Nọi - Vũ Lễ - Bắc Sơn, qua Bình Gia, Văn Mịch, sang Tràng Định - Lạng Sơn... tới ngày 15 tháng 8 năm 1941 thì đến biên giới Việt - Trung an toàn.

Bộ phận thứ ba, trụ bám ở căn cứ Bắc Sơn, gồm các đồng chí Nguyễn Cao Đàm, Dương Quốc Vinh, Dương Thần Tần, Hoàng Đình Ruệ, Hoàng Doãn Hoàng, Hoàng Văn Thằng, Đường Quảng Long, Đường Văn Thức, Mã Viết Thốn, Mã Viết Vinh. Bộ phận này chia thành từng tổ công tác ở các xã Vũ Lễ, Vũ Lăng, Hưng Vũ, Chiêu Vũ, Hữu Vĩnh, Bắc Sơn... để giữ vững cơ sở quần chúng cách mạng. Địch tiến hành truy lùng ráo riết, đến cuối tháng 8 năm 1941, chúng bắt được sáu chiến sĩ Cứu quốc quân. Ngày 20 tháng 9 năm 1941, thực dân Pháp đưa các đồng chí đi xử bắn, dã man hơn địch còn chặt đầu các đồng chí cắm ở châu lỵ để uy hiếp tinh thần nhân dân các dân tộc Bắc Sơn. Hành động anh hùng, hiên ngang, không sợ hy sinh của các đồng chí chiến sĩ Cứu quốc quân đã nêu cao tấm gương trung thành với Đảng, với nhân dân, với Tổ quốc, kiên quyết không đầu hàng, và anh dũng hy sinh. Đó là các đồng chí Hoàng Đình Ruệ, Dương Thần Tần, Hoàng Doãn Hoàng, Hoàng Văn Thằng, Mã Viết Thốn và đồng chí Mã Viết Vinh; còn lại bốn đồng chí là Nguyễn Cao Đàm, Dương Quốc Vinh, Đường Văn Thức và Đường Quảng Long đã vượt qua vòng vây dày đặc của địch, rút xuống căn cứ Võ Nhai an toàn, cùng Cứu quốc quân đấu tranh chống địch càn quét, khủng bố.

Bộ phận thứ hai, gồm các đồng chí Phùng Chí Kiên, Lương Văn Tri, Bế Sơn Cương, Mã Thành Kính, Hà Khai Lạc, đồng chí Thành, đồng chí Lâm, tổ chức thành một đội, do đồng chí Phùng Chí Kiên và đồng chí Lương Văn Tri trực tiếp chỉ huy, rút theo hướng về căn cứ địa Cao Bằng. Ngày 10 tháng 8 năm 1941, Đội rời khỏi căn cứ Khuổi Nọi - Bắc Sơn. Sau nhiều ngày luồn lách vòng vây của địch, vượt qua nhiều khó khăn, thiếu thốn, vừa đi vừa phải tìm củ rừng để ăn, đến ngày 16 tháng 8 năm 1941, các đồng chí qua Bình Gia, sang Na Rì - Bắc Kạn. Ngày 18 tháng 8, Đội đến địa phận xã Văn Học, Na Rì, thấy địa thế rừng núi ở đây tiện cho tạm dừng trú quân, nên các đồng chí có ý định nghỉ lại vài ngày để dưỡng sức và nghe ngóng tình hình địch. Thời gian này, đồng chí Phùng Chí Kiên bị bệnh kiết lỵ và đồng chí Lương Văn Tri sức khoẻ cũng rất yếu. Sau khi quyết định tạm nghỉ vài ngày, đồng chí Hà Khai Lạc đưa toàn bộ anh em vào nhà người quen từ những năm trước, lúc đồng chí đó còn làm dân buôn trâu, để nghỉ nhờ và xin gạo vì quá đói. Do đã lâu, không nắm được thông tin, tên người quen cũ, có nhiều tiền đã được Pháp cho làm chánh tổng Văn Học thuộc châu Na Rì, khi đoàn cán bộ đến, gia đình tên này nghi các đồng chí ta là cộng sản, để giữ chân, chúng đã nấu cơm cho ăn, và bí mật cho người đi báo cho tên chánh tổng Nông Văn Thượng đưa lính dõng và tuần đinh về vây bắt. Trong khi đang ăn cơm, bất ngờ bị lính vây, đòi kiểm tra thẻ đinh, trong khi đó toàn đội của ta chỉ có một người có thẻ, biết là đã bị lộ, đồng chí Phùng Chí Kiên đã rất chủ động, kiên quyết đánh địch, phá vòng vây để bảo toàn lực lượng, đồng chí nói với đồng chí Bế Sơn Cương là sử dụng ngay khẩu súng Pạchoọc (súng ngắn của Đức), bắn thằng chánh tổng rồi rút lui vào rừng. Đồng chí Bế Sơn Cương nổ súng, bắn tên chánh tổng bị thương vào đùi và bắn chết một tên tuần đinh. Sau đó, toàn bộ anh em rút chạy vào rừng theo hướng xã Vũ Loan - Na Rì.

Sau khi tên chánh tổng bị thương và tên tuần đinh bị chết, địch ở tổng Văn Học hoảng sợ, nhanh chóng cấp báo cho đồn Yên Lạc ở châu lỵ Na Rì là có cộng sản đi qua Na Rì. Đồn Yên Lạc tiếp tục báo cáo tin này về tỉnh Bắc Kạn. Được tin báo, quân Pháp ở Bắc Kạn đã điều 2 tiểu đội cơ động, do tên quản Cơ chỉ huy, tức tốc hành quân bằng ô tô lên Nha châu úy Bàng Khẩu, phối hợp với lực lượng của châu Ngân Sơn, tập trung lính dõng của 7 xã thuộc 2 tổng Thượng Quan và Bàng Đức (mỗi xã có 5 đến 7 tên lính dõng) để lập vòng vây, phục kích đón lõng hòng chụp bắt lực lượng ta trên đường rút về Cao Bằng.

Từ xã Văn Học, Đội Cứu quốc quân tiếp tục đi lên xã Vũ Loan - Na Rì, Thượng Quan - Ngân Sơn (Bắc Kạn). Trong quá trình hành quân, đội luôn bị các lực lượng lính dõng của các xã, tổng và bọn phản động địa phương ở Na Rì, Ngân Sơn - Bắc Kạn bám đuổi. Đội chuyển hướng hành quân từ Thượng Quan, Ngân Sơn - Bắc Kạn sang xã Cao Minh, Tràng Định - Lạng Sơn, rồi từ đấy đi lên xã Quang Trọng, Thạch An - Cao Bằng. Đến sáng ngày 22 tháng 8 năm 1941, Đội trở sang xã Bàng Đức, châu Ngân Sơn - Bắc Kạn và vào một nhà người dân tộc Dao ở núi Khau Slao, cách bản Phiêng Nhượng, Bàng Đức khoảng 4km, hỏi mua gạo để nấu cơm. Gia đình người Dao này chỉ có một phụ nữ ở nhà, chị ta nói không còn gạo và đưa lúa cho để giã gạo nấu cơm. Cũng do không nắm được tình hình ở địa phương, Ngân Sơn - Bắc Kạn vốn là vùng trắng, nên chịu nhiều ảnh hưởng của người Pháp cai trị và chủ mỏ vàng Manu chưa có cơ sở cách mạng, anh em trong đội mất cảnh giác, không biết chị người Dao này đã bí mật lấy ngựa đi báo tin cho tên chánh Mục ở bản Phiêng Nhượng - xã Bàng Đức. Trước đó, tên quản cơ từ Bắc Kạn đã đưa quân cơ động lên Bàng Khẩu - châu Ngân Sơn, phối hợp với bọn địch ở đây giăng lưới, đón lõng, phục kích ta. Được tin của tên chánh Mục, địch đã nhanh chóng cơ động, chủ yếu bằng ngựa đến khu vực núi Khau Slao. Tại đây, địch tổ chức thành hai vòng vây. Khi anh em trong đội đang chờ cơm chín, thì phát hiện thấy rất nhiều lính địch, các đồng chí Phùng Chí Kiên và Lương Văn Tri chỉ huy anh em rút vào rừng để tránh địch. Đến khoảng 13 giờ chiều ngày 22 tháng 8 năm 1941, thấy tình hình yên tĩnh, toàn đội đi ra khỏi cửa rừng thì bất ngờ gặp địch phục kích. Đồng chí Phùng Chí Kiên đã dùng súng Pạchoọc, cùng anh em trong đội anh dũng chiến đấu vừa bắn trả địch, vừa đánh, chỉ huy anh em rút lui vào rừng. Đồng chí Phùng Chí Kiên trúng đạn, bị thương và bị địch bắt, chúng tra tấn đồng chí cực kỳ dã man đến chết, quân địch tàn ác đã cắt đầu bêu ở cầu châu lỵ Ngân Sơn hòng uy hiếp quần chúng nhân dân. Đồng chí Lương Văn Tri cũng bị trúng đạn địch, bị thương nhưng vẫn cố gắng cùng anh em chạy rút vào rừng. Trong khi đang chạy, đồng chí Lương Văn Tri bị tụt ngã xuống một hố đào vàng rất sâu, anh em trong đội tìm mọi cách để cứu đồng chí nhưng không được. Thấy địch đuổi đến rất gần, đồng chí Tri động viên anh em để đồng chí ở lại một mình, cố gắng vượt vòng vây địch về đèo Cao Bắc. Đồng chí Lương Văn Tri, sau đó cũng bị địch bắt, ngày 28 tháng 8 năm 1941, chúng đưa đồng chí về giam tại nhà tù Cao Bằng và đến ngày 29 tháng 9 năm 1941, đồng chí đã anh dũng hy sinh. Số anh em còn lại trong đội được sự giúp đỡ của các cơ sở quần chúng cách mạng ở Hoà An, Cao Bằng, vượt được vòng vây và sự truy đuổi của địch, về tới căn cứ địa Cao Bằng an toàn.

Năm 1943, đúng hai năm sau ngày đồng chí Phùng Chí Kiên hy sinh, chi bộ Đảng đầu tiên của tỉnh Bắc Kạn ra đời tại Thượng Ân, Ngân Sơn, được mang tên Phùng Chí Kiên. Chi bộ này trở thành cầu nối con đường cách mạng, con đường giải phóng, nối liền hai khu căn cứ địa Cao Bằng với căn cứ địa Bắc Sơn - Võ Nhai thành khu căn cứ địa rộng lớn - căn cứ địa Việt Bắc - cái nôi của cách mạng Việt Nam.

Gần bảy mươi năm đã đi qua, những tấm gương hy sinh anh dũng vì sự nghiệp độc lập, tự do của Tổ quốc và của dân tộc Việt Nam vẫn luôn được các thế hệ kế tiếp, hôm nay và mai sau noi theo.
Logged
chuongxedap
Đại tá
*
Bài viết: 13138



« Trả lời #51 vào lúc: 19 Tháng Mười Hai, 2021, 11:26:19 pm »


ĐÓNG GÓP CỦA PHÙNG CHÍ KIÊN
TRONG VIỆC KHÔI PHỤC TỔ CHỨC ĐẢNG (1932-1935)

TS NGUYỄN THỊ KIM DUNG*


Trong lịch sử dựng nước và giữ nước, dân tộc ta đã sản sinh ra bao lớp anh hùng hào kiệt làm rạng danh đất nước. Bước sang thế kỷ XX, khi cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc ngả dần theo ngọn cờ chủ nghĩa Mác - Lênin, đã thúc đẩy sự ra đời của nhiều thế hệ chiến sĩ cách mạng kiểu mới, lớp này ngã, lớp sau tiến, trong đó Nghệ An - mảnh đất "địa linh nhân kiệt" đã sản sinh cho đất nước nhiều người con ưu tú mà tên tuổi mãi mãi được lưu danh trên bảng vàng dân tộc như Lê Hồng Phong, Nguyễn Thị Minh Khai, Hồ Tùng Mậu, Phùng Chí Kiên, Phan Đăng Lưu, Lê Hồng Sơn, v.v.. Một trong những tên tuổi bất diệt đó là đồng chí Phùng Chí Kiên - người chiến sĩ cộng sản kiên trung của cách mạng Việt Nam.

1. Một thanh niên đầy nhiệt huyết cách mạng.

Phùng Chí Kiên tên thật là Nguyễn Vĩ, sinh ngày 18 tháng 5 năm 1901, trong một gia đình nông dân ở xã Diễn Yên, huyện Diễn Châu, Nghệ An - một vùng quê giàu truyền thống cách mạng.

Sau khi tốt nghiệp tiểu học, vì hoàn cảnh gia đình khó khăn, Phùng Chí Kiên phải nghỉ học, xin vào làm công cho một hiệu buôn người Hoa ở ga Yên Lý1. Anh được chứng kiến nhiều cảnh đối xử bất công đối với người lao động, nhất là nông dân. Mối đồng cảm với thân phận cơ cực của những người nông dân là chất men nuôi dưỡng trong anh lòng căm giận và ý thức phản kháng đối với chế độ phong kiến chuyên chế và bọn thực dân cướp nước. Anh đã gặp gỡ, tiếp xúc với bạn bè cùng chí hướng, tìm đọc các sách báo tiến bộ, như Một bầu tâm sự của Trần Huy Liệu, Chiêu hồn nước của Phạm Tất Đắc, v.v.

Năm 1925, tại Quảng Châu (Trung Quốc), Nguyễn Ái Quốc sáng lập ra Hội Việt Nam cách mạng thanh niên, một tổ chức yêu nước, cách mạng. Hội đã ra Báo Thanh niên để tuyên truyền cách mạng, mở các lớp huấn luyện chính trị để đào tạo cán bộ và cử người về nước tuyên truyền, vận động thanh niên, học sinh sang Quảng Châu dự lớp huấn luyện chính trị, từng bước chuẩn bị về chính trị, tư tưởng và tổ chức cho việc thành lập Đảng Cộng sản ở Việt Nam.

Thông qua Lê Hữu Lập, một hội viên của Việt Nam cách mạng thanh niên, tháng 10 năm 1926, Phùng Chí Kiên được giới thiệu sang Quảng Châu (Trung Quốc) tham dự lớp huấn luyện chính trị do Hội Việt Nam cách mạng thanh niên tổ chức. Sau khi học xong, Phùng Chí Kiên được lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc giới thiệu vào học ở Trường Quân sự Hoàng Phố (khóa 5) với tên Mạnh Văn Liễu2. Với bầu máu nóng của tuổi trẻ, anh say sưa học tập và tham gia nhiều hoạt động yêu nước, cách mạng của nhà trường.

Tháng 4 năm 1927, Tưởng Giới Thạch làm cuộc chính biến phản cách mạng. Phùng Chí Kiên đã đứng về phía Đảng Cộng sản Trung Quốc, tham gia chiến đấu trong hàng ngũ của Hồng quân công nông chống lại quân phản cách mạng. Tháng 12 năm 1927, nổ ra khởi nghĩa Quảng Châu, Phùng Chí Kiên tham gia khởi nghĩa Quảng Châu3. Khởi nghĩa Quảng Châu thất bại, quân cách mạng rút về hai huyện Hải Phong và Lục Phong, thành lập khu Xô-viết. Phùng Chí Kiên đến Hải Phong và Lục Phong tham gia bảo vệ khu Xô-viết, giữ chức đại đội trưởng Hồng quân công nông.

Với thành tích học tập và chiến đấu của mình, Phùng Chí Kiên đã vinh dự được đứng trong hàng ngũ Đảng Cộng sản Trung Quốc (12.1929). Thời gian đầu đồng chí làm việc tại Trường Quân chính của Hồng quân Trung Quốc, sau đó được cử làm Chỉ huy trưởng Trung đoàn số 4 của Quân đoàn Hồng quân II của Tông Can ở căn cứ Hải - Lục Phong (thời kỳ Lý Lập Tam). Đồng chí là một trong những người khởi xướng cuộc đấu tranh chống đường lối phản động của Lý Lập Tam trong trung đoàn của mình. Trong thời gian phục vụ Hồng quân Trung Quốc, Phùng Chí Kiên lấy tên là Cam My Liệt, đồng chí đã tham gia 50 trận đánh chống lại quân đội Quốc dân đảng Trung Hoa4.
_________________________________________
* Viện Hồ Chí Minh và các lãnh tụ của Đảng, Học viện Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh.
1. Một nhà ga thuộc địa phận huyện Diễn Châu, nằm trên tuyến đường sắt Hà Nội - Sài Gòn.
2. Theo tác giả Lê Hiển Hằng trong bài Những người cách mạng Việt Nam tham gia khởi nghĩa Quảng Châu thì Nguyễn Ái Quốc đã cử hàng chục cán bộ vào học Trường Quân sự Hoàng Phố như: Lê Hồng Phong, Trương Vân Lĩnh, Lê Thiết Hùng, Lê Hồng Sơn, Phùng Chí Kiên, Trịnh Đình Cửu...
3. Theo tác giả Lê Hiển Hằng: Tham gia khởi nghĩa Quảng Châu có Hồ Tùng Mậu, Phùng Chí Kiên, Lê Duy Điếm...
4. Xôcôlốp, Quốc tế cộng sản và Việt Nam, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1999, tr. 247.
Logged
chuongxedap
Đại tá
*
Bài viết: 13138



« Trả lời #52 vào lúc: 19 Tháng Mười Hai, 2021, 11:28:20 pm »


2. Một nhà hoạt động cách mạng chuyên nghiệp.

Tháng 12 năm 1930, Phùng Chí Kiên trở lại Hồng Kông, đồng chí đã gặp lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc và gia nhập Đảng Cộng sản Đông Dương. Từ đây Phùng Chí Kiên trở thành một nhà hoạt động cách mạng chuyên nghiệp, chiến đấu vì sự nghiệp giải phóng dân tộc.

Được lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc giới thiệu, tháng 1 năm 1931, Phùng Chí Kiên sang Liên Xô học tập tại Trường Đại học Phương Đông của Quốc tế Cộng sản. Trên đường đi, đồng chí bị bắt ở Kharbin, ngồi tù gần 1 năm. Tháng 4 năm 1932, Phùng Chí Kiên lại bí mật sang Liên Xô, vào học Trường Đại học Phương Đông, khóa học (6.1932 - 3.1934), mang thẻ sinh viên số 5690, với tên Nga là Can (Kan)1.

Ở Việt Nam có nhiều người sang học tại Trường Đại học Phương Đông, trước Phùng Chí Kiên có Nguyễn Thế Rục, Nguyễn Thế Vinh, Bùi Lâm, Trần Phú, Bùi Công Trừng, Lê Hồng Phong, Hà Huy Tập, v.v. Phần lớn những sinh viên này đã học xong và lần lượt trở về nước đẽ hoạt động.

Phùng Chí Kiên học trong nhóm sinh viên Đông Dương. Về nội dung học tập, Phùng Chí Kiên phải học các môn ngoại ngữ (chủ yếu là tiếng Nga), lịch sử cách mạng Nga, lịch sử các phong trào cách mạng ở phương Đông, lịch sử các hình thái xã hội, triết học, kinh tế chính trị học, chủ nghĩa Lênin, xây dựng Đảng, lịch sử Đảng Cộng sản Nga, lịch sử Quốc tế cộng sản, v.v. Về chương trình học tập, hàng tuần Phùng Chí Kiên được nghe 4 bài giảng ở trên lớp, thời gian còn lại dành cho các giờ tự học, tham gia sinh hoạt tổ Đảng và hoạt động công tác Đảng.

Mặc dù mới sang Liên Xô, trình độ tiếng Nga còn rất hạn chế nhưng Phùng Chí Kiên luôn xác định cho mình một quyết tâm cao trong học tập. Những giờ giảng trên lớp, anh chăm chú lắng nghe. Trong giờ tự học, anh tranh thủ học thêm tiếng Nga, tìm đọc các tác phẩm của Mác, Ăngghen, Lênin; tích cực tham gia các buổi đi thực tế tham quan do nhà trường tổ chức: như tham quan các di tích lịch sử, các viện bảo tàng ở Mátxcơva, ở Lêningrát; đi thực tế ở các nhà máy, các cơ sở sản xuất ở Mátxcơva. Những chuyến đi tham quan, thực tế này đã giúp Phùng Chí Kiên có một cái nhìn rõ nét về vai trò của Đảng Cộng sản và Nhà nước Xô-viết, về nhân dân Liên Xô và anh mong muốn một ngày nào đó đất nước Việt Nam sẽ được như Liên Xô. Điều đó càng thôi thúc anh phải cố gắng học tập hơn nữa, để trở về giúp đồng bào, giúp Tổ quốc mình. Thời gian học tại trường, anh có dịp tiếp xúc, trao đổi với sinh viên ở các nước khác nhau cùng đến đây học tập, như Ấn Độ, Triều Tiên, Mông cổ, Inđônêxia, Trung Quốc, v.v. họ đều có chung một khát vọng là học tập tốt để phục vụ cho sự nghiệp giải phóng dân tộc mình.

Trong bản nhận xét về tư cách đạo đức của đồng chí Phùng Chí Kiên do bà Vaxiliêva, phụ trách nhóm sinh viên Đông Dương đã viết: "Phùng Chí Kiên có khả năng lớn về công tác, có trình độ chính trị cao, năng động. Kết quả học tập rất tốt"2.

Sau khi học xong Trường Đại học Phương Đông (1934), Phùng Chí Kiên cùng với một số đồng chí khác được Quốc tế cộng sản cử về nước hoạt động, nhằm khôi phục cơ sở cách mạng bị địch phá sau cao trào cách mạng 1930-1931.
__________________________________________
1. Danh sách học sinh của Trường Đại học Phương Đông (1921-1937), tiếng Nga. Lưu trữ tại Nga, ký hiệu ϕ 532, on 1, g 245, δ.41. Lưu tại Cục Lưu trữ Văn phòng Trung ương Đảng.
2. Tài liệu lưu trữ tại Nga, ký hiệu ϕ 532, on 1, g.1384.
Logged
chuongxedap
Đại tá
*
Bài viết: 13138



« Trả lời #53 vào lúc: 19 Tháng Mười Hai, 2021, 11:33:29 pm »


3. Một chiến sĩ cộng sản kiên trung có công khôi phục tổ chức của Đảng trong hoàn cảnh khó khăn.

Sau khi Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời, phong trào cách mạng bước vào thời kỳ phát triển mới rất sôi động. Dưới sự lãnh đạo của Đảng, nhân dân cả nước đã vùng lên đấu tranh chống lại các thế lực đế quốc thực dân xâm lược và bọn phong kiến tay sai. Phong trào cách mạng những năm 1930-1931 đã tiến tới cao trào với đỉnh cao là Xô-viết Nghệ Tĩnh, làm cho bọn thực dân xâm lược và phong kiến tay sai vô cùng hoảng sợ. Chúng đã tiến hành một chiến dịch khủng bố quy mô lớn trên toàn quốc, với những thủ đoạn độc ác, tàn bạo, hòng dập tắt phong trào yêu nước và cách mạng, tiêu diệt Đảng Cộng sản non trẻ vừa thành lập. Theo thống kê chưa đầy đủ, những năm 1930-1933, có tới 246.532 đảng viên và quần chúng yêu nước bị địch bắt giam. Kẻ thù đã điên cuồng tiến hành khủng bố, bắt bớ và giết hại rất dã man hàng nghìn người cộng sản ưu tú. Các nhà tù lớn như Côn Đảo, Sơn La, Lao Bảo, Hỏa Lò (Hà Nội), Khám Lớn Sài Gòn, v.v. đều chật ních tù chính trị.

Sau Hội nghị Trung ương lần thứ hai (3.1931) trước sự khủng bố của kẻ thù, cơ quan trung ương và các xứ ủy gần như bị xóa trắng. Ngày 18 tháng 4 năm 1931, Tổng Bí thư Trần Phú bị bắt, Xứ ủy Nam Kỳ, Bắc Kỳ và Trung Kỳ tình hình cũng rất nghiêm trọng, nhiều đồng chí lãnh đạo Xứ ủy bị sa lưới mật thám1. Đến khoảng giữa năm 1931, hầu hết Ban lãnh đạo Trung ương, lãnh đạo các xứ ủy và cơ quan của Đảng bị tan vỡ.

Không chỉ tiến hành khủng bố trắng ở trong nước, thực dân Pháp còn câu kết với các lực lượng phản động quốc tế tiến hành truy nã và bắt bớ các cán bộ của Đảng ta đang hoạt động ở nước ngoài. Ngày 6 tháng 6 năm 1931 lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc bị cảnh sát Anh bắt ở Hồng Kông; các đồng chí Hồ Tùng Mậu, Nguyễn Thị Minh Khai, Trương Vân Lĩnh, v.v. cũng bị bắt ở Hồng Kông. Có thể nói, đây là thời kỳ Đảng Cộng sản và cách mạng Việt Nam bị tổn thất nặng nề, các đường dây liên lạc trong nước với quốc tế và các đảng bạn bị tắc nghẽn. Báo cáo tại Đại hội 7 Quốc tế cộng sản (1935) đồng chí Lê Hồng Phong đã nhận xét: "Vì còn thiếu kinh nghiệm thật sự bônsêvích trong lĩnh vực tổ chức, vì chưa quen công tác bất hợp pháp và bí mật, Đảng chúng tôi đã bị tổn thất nặng nề. Bộ máy của Đảng bị phá hủy, liên lạc bị đứt mối, các tổ chức tan tành, những chiến sĩ cộng sản ưu tú bị cầm tù. Chỉ còn lại từng người cộng sản hoặc nhóm cộng sản riêng lẻ"2.

Điều đáng chú ý là ngay trong giai đoạn đầy khó khăn thử thách, cách mạng bị khủng bố, song những cán bộ đảng viên còn lại của Đảng vẫn rất trung kiên. Họ hòa vào nhân dân, được nhân dân nuôi dưỡng, che chở và bảo vệ. Nhiều đồng chí vẫn bám sát phong trào và lãnh đạo quần chúng đấu tranh; nhiều quần chúng ưu tú vẫn hăng hái xin gia nhập Đảng, số lượng đảng viên của Đảng vẫn tăng. Ngày 11 tháng 4 năm 1931, tại phiên họp thứ 25 Hội nghị toàn thể lần thứ 11 Ban Chấp hành Quốc tế cộng sản đã quyết định: "Đảng Cộng sản Đông Dương trước đây là một chi bộ của Đảng Cộng sản Pháp, từ nay được công nhận là chi bộ độc lập thuộc Quốc tế cộng sản"3. Và ngày 27 tháng 2 năm 1932, Quốc tế cộng sản đã gửi thư cho các đảng cộng sản Pháp, Trung Quốc, Ấn Độ, yêu cầu các đảng này "phải triệt để tìm mọi phương kế thực hiện việc giúp đỡ những người cộng sản Đông Dường, nhất là lúc thực dân Pháp và bọn phản cách mạng bản xứ đang ra sức đàn áp, giết chóc những người cộng sản và quần chúng cách mạng, hòng phá hoại các cơ sở và bộ máy lãnh đạo của Đảng Cộng sản Đông Dương. Vì vậy, Ban Chấp ủy các đảng này cần "chăm lo việc gây dựng lại cơ sở cho Đảng Cộng sản Đông Dương"4. Đối với Đảng ta, Quốc tế cộng sản yêu cầu: "Những người cộng sản Đông Dương phải đem ý chí bônsêvích phấn đấu tiến lên, chống ấu trĩ "tả" khuynh, chống cơ hội hữu khuynh, bè phái phân tán lực lượng và các xu hướng hoạt đầu, bi quan, phải đứng mũi vượt cơn phong ba bão táp do đế quốc và bọn phản động gây ra, kiên trì xây dựng và củng cố phong trào cộng sản ở xứ Đông Dương"5.

Cùng với việc yêu cầu các đảng anh em hết sức giúp đỡ phong trào cách mạng và Đảng Cộng sản Đông Dương, từ giữa năm 1931 trở đi, Quốc tế cộng sản đã cử hơn ba chục cán bộ, sinh viên Việt Nam sau khi hoàn thành chương trình đào tạo ở Liên Xô, gấp rút trở về nước hoạt động, nhằm nhanh chóng lập lại Ban lãnh đạo Đảng các cấp, nhưng trên hai chục cán bộ đã bị mật thám Pháp và các thế lực đế quốc bắt hoặc không trở về tới nơi do nhiều nguyên nhân khác nhau. Trong số những người lần lượt trở về an toàn có đồng chí Lê Hồng Phong (bí danh Litvinốp), đồng chí Phùng Chí Kiên. Đầu năm 1932, Lê Hồng Phong tới Nam Ninh, liên lạc được với một cơ sở cũ còn lại của Hội Việt Nam cách mạng thanh niên ở xưởng cơ khí Nam Hưng. Tại đây, Lê Hồng Phong bắt tay vào việc khôi phục lại tổ chức Đảng ở Bắc Kỳ và tìm cách chắp mối liên lạc với các tổ chức Đảng ở Trung Kỳ, Nam Kỳ, Lào và Xiêm.

Tháng 3 năm 1934, Phùng Chí Kiên về tới Hương cảng (Trung Quốc) tham gia ngay vào Ban Chỉ huy ở ngoài của Đảng (BCHON) do đồng chí Lê Hồng Phong làm Thư ký. Tháng 6 năm 1934, Phùng Chí Kiên tham dự Hội nghị mở rộng giữa Ban Chỉ huy ở ngoài với đại biểu đại diện các đảng bộ ở trong nước, tổ chức ở Ma Cao (Trung Quốc). Hội nghị quyết định 7 vấn đề quan trọng, trong đó có việc sẽ tổ chức Đại hội toàn quốc lần thứ nhất của Đảng, dự định tiến hành vào đầu năm 1935.
_________________________________________
1. Nguyễn Phong Sắc, Nguyễn Đức Cảnh, Trần Văn Lan, Ngô Gia Tự, Hoàng Quốc Việt.
2. Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đảng Toàn tập, Tập 5, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002, tr. 322.
3. Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đảng Toàn tập, Tập 3, Nxb Chính trị quốc gia, tr. 309.
4. Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đảng Toàn tập, Tập 4, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1999, tr. 252.
5. Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đảng Toàn tập, Tập 4, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1999, tr. 252-253.
Logged
chuongxedap
Đại tá
*
Bài viết: 13138



« Trả lời #54 vào lúc: 19 Tháng Mười Hai, 2021, 11:42:55 pm »


Sau Hội nghị 6 năm 1934, các đồng chí trong Ban Chỉ huy ở ngoài bắt tay vào chuẩn bị nội dung cho đại hội, như Dự thảo các văn kiện trình đại hội, dự kiến chương trình họp, nhân sự trung ương, chuẩn bị địa điểm, kinh phí để tiến hành Đại hội, v.v. Giữa lúc công việc đang được tiến hành khẩn trương thì Ban Chỉ huy ở ngoài nhận được giấy triệu tập của Quốc tế Cộng sản về việc cử đoàn đại biểu của Đảng Cộng sản Đông Dương đi dự Đại hội 7 Quốc tế Cộng sản họp ở Mátxcơva. Các đồng chí Lê Hồng Phong, Nguyễn Thị Minh Khai, Hoàng Văn Nọn... được cử đi dự Đại hội 7 Quốc tế Cộng sản (cuối năm 1934). Mọi công việc chuẩn bị cho Đại hội Đảng do các đồng chí Hà Huy Tập, Phùng Chí Kiên tiếp tục thực hiện. Với vốn kiến thức lý luận đã học được ở Trường Đại học Phương Đông, Phùng Chí Kiên đã có những đóng góp quan trọng vào việc dự thảo các văn kiện đại hội.

Trong điều kiện hoạt động bí mật, việc chuẩn bị cho đại hội càng khó khăn và khẩn trương, không ít cán bộ lãnh đạo cốt cán ở trong nước trong quá trình hoạt động chuẩn bị cho đại hội đã không may rơi vào tay kẻ thù (hơn 100 cán bộ, trong đó có 49 người của Xứ ủy Nam Kỳ bị bắt), cũng có những kẻ hèn nhát đầu hàng phản bội làm lộ những bí mật trong công tác chuẩn bị (Nguyễn Văn Trâm (tức Trọng) lấy cắp 1.500 đôla Hồng Kông rồi bỏ trốn), v.v. Điều đó đã gây thêm những khó khăn, trở ngại cho việc chuẩn bị tổ chức đại hội, buộc phải thay đổi kế hoạch, thời gian và địa điểm.

Để đối phó với những thủ đoạn của địch, các đồng chí Hà Huy Tập, Phùng Chí Kiên đã bàn bạc thống nhất bố trí các địa điểm đón cán bộ, phát tài liệu đọc trước, đến sát ngày Đại hội mới báo địa điểm họp. Trước đó, các đồng chí dự kiến Đại hội sẽ tiến hành trong 10 ngày bắt đầu từ ngày 18 tháng 3, nhưng do phải chuyển địa điểm và chờ các đại biểu đến dự Đại hội, nên Đại hội phải lùi lại đến cuối tháng 3 năm 1935 và rút ngắn thời gian họp xuống còn 4 ngày rưỡi.

Ngày 27 tháng 3 năm 1935, Đại hội lần thứ nhất của Đảng Cộng sản Đông Dương chính thức khai mạc tại Ma Cao (Trung Quốc). Các đồng chí Hà Huy Tập, Phùng Chí Kiên và một số đồng chí trong Ban Chỉ huy ở ngoài chủ trì và lãnh đạo toàn bộ quá trình Đại hội. Tham dự Đại hội có 13 đại biểu đại diện cho các Đảng bộ Bắc Kỳ, Trung Kỳ, Nam Kỳ, Cao Miên, Lào và Xiêm...

Đại hội đã thông qua Nghị quyết chính trị và nhiều nghị quyết quan trọng khác như công nhân vận động, nông dân vận động, thanh niên vận động, phụ nữ vận động, v.v. Đặc biệt, Đại hội đã ra Nghị quyết về chương trình hành động của Đảng Cộng sản Đông Dương, thông qua Điều lệ mới của Đảng và Điều lệ của các tổ chức đoàn thể1, về bộ máy lãnh đạo, Đại hội đã bầu Ban Chấp hành Trung ương gồm 13 đồng chí2, và Ban Thường vụ 5 đồng chí3 do đồng chí Lê Hồng Phong làm Tổng Bí thư. Đồng chí Phùng Chí Kiên được bầu là Ủy viên Thường vụ Ban Chấp hành Trung ương Đảng, phụ trách công tác đảng ở nước ngoài4.

Thành công của Đại hội lần thứ nhất của Đảng đánh dấu việc Đảng ta đã được khôi phục về tổ chức, các cơ quan lãnh đạo từ Trung ương đến cơ sở được lập lại. Đây là một sự kiện có ý nghĩa lịch sử hết sức to lớn. Trong lúc kẻ thù cách mạng dùng mọi thủ đoạn khủng bố hòng tiêu diệt Đảng Cộng sản Đông Dương và phong trào cách mạng Đông Dương, nhưng các đồng chí Lê Hồng Phong, Hà Huy Tập, Phùng Chí Kiên, Nguyễn Văn Dựt... vẫn kiên trì phấn đấu, giữ vững tinh thần để nhen nhóm lại ngọn lửa cách mạng. Thời gian lịch sử không dài, nhưng các đồng chí đã vượt qua gian khó hy sinh và đã giải quyết một khối lượng công việc rất to lớn, hoàn thành trọng trách mà cách mạng Việt Nam và Quốc tế Cộng sản giao phó. Lịch sử cách mạng Việt Nam ghi nhận công lao và cống hiến to lớn của các đồng chí Lê Hồng Phong, Hà Huy Tập, Phùng Chí Kiên và nhiều chiến sĩ cộng sản trung kiên khác.

Tuy nhiên, Đại hội lần thứ nhất của Đảng tiến hành khi Đảng mới phục hồi và diễn ra trước Đại hội 7 Quốc tế cộng sản, vì vậy một số hạn chế trong quan điểm, đường lối của Đại hội là khó tránh khỏi. Nhận định về những hạn chế này, tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ hai của Đảng (2.1951), Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nói: "Năm 1935, Đảng họp Đại hội lần thứ nhất ở Ma Cao, Đại hội đã nhận định tình hình trong nước và tình hình thế giới, kiểm thảo lại công tác đã qua và ấn định chương trình cho công tác sắp tới. Nhưng chính sách Đại hội Ma Cao vạch ra không sát với phong trào cách mạng thế giới và trong nước lúc bấy giờ (như định chia ruộng đất cho công nhân nông nghiệp, chưa rõ nhiệm vụ chống phát xít và nguy cơ chiến tranh phát xít"5.
___________________________________________
1. Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đảng Toàn tập, Tập 5, Sđd, tr. 1-170.
2. Ban Chấp hành Trung ương gồm 13 người, trong đó một người chưa được bầu.
3. Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đảng Toàn tập, Tập 6, Sđd, tr. 48.
4. Báo Cờ giải phóng, số 2, ngày 26.8.1943.
5. Hồ Chí Minh Toàn tập, Tập 6, Sđd, tr. 155.
Logged
chuongxedap
Đại tá
*
Bài viết: 13138



« Trả lời #55 vào lúc: 20 Tháng Mười Hai, 2021, 07:44:04 pm »


PHÙNG CHÍ KIÊN THAM GIA KHỞI NGHĨA
QUẢNG CHÂU, TRUNG QUỐC (12.1927)

TS ĐINH QUANG HẢI*

Cuộc khởi nghĩa Quảng Châu (hay còn gọi là Công xã Quảng Châu) ở Trung Quốc tháng 12 năm 1927 là một trong những mốc son trong lịch sử hiện đại Trung Quốc. Đây là một trong những thử nghiệm khởi nghĩa vũ trang giành chính quyền về tay giai cấp công nông cho Đảng Cộng sản lãnh đạo với sự tham gia của khoảng 30 nghìn người, trong đó có 10 chiến sĩ cách mạng Việt Nam, tiêu biểu như Lê Hồng Sơn, Phùng Chí Kiên, Lê Thiết Hùng, Nguyễn Sơn... Sự đóng góp đó của những nhà cách mạng Việt Nam đã góp phần xây đắp nên tình hữu nghị giữa nhân dân Việt Nam và nhân dân Trung Quốc.

Trong phạm vi bài viết này, chúng tôi muốn đề cập một cách khái quát quá trình dẫn đến Khởi nghĩa Quảng Châu và sự tham gia của những nhà cách mạng Việt Nam, trong đó có đồng chí Phùng Chí Kiên, vào cuộc khởi nghĩa.

1. Cuộc khởi nghĩa Quảng Châu, Trung Quốc (12.1927).

Đầu những năm 20 của thế kỷ XX, sức sản xuất xã hội ở Trung Quốc đã bị bọn đế quốc xâm lược và quân phiệt gây cản trở và phá hoại nghiêm trọng. Nền sản xuất công thương nghiệp bị phá sản, nhân dân bị bần cùng hoá, đời sống hết sức khó khăn. Những mâu thuẫn kinh tế - xã hội đó đã làm dấy lên một phong trào đấu tranh cách mạng sôi nổi trong toàn quốc của nhân dân chống đế quốc và tay sai.

Trước tình hình đó, Đảng Cộng sản Trung Quốc đã rút ra nhận định cần thiết phải thành lập Mặt trận thống nhất cách mạng, dựa trên những nguyên tắc cơ bản là đoàn kết và đấu tranh. Đảng Cộng sản đã quyết định hợp tác với Quốc dân đảng, cho đảng viên tham gia Quốc dân đảng trên cở sở tạm thời thừa nhận chủ nghĩa Tam dân mới của Tôn Trung Sơn.

Về phía Quốc dân đảng, tại Đại hội Quốc dân đảng lần thứ I họp ở Quảng Châu (20.1.1924), Tôn Trung Sơn cũng đã giải thích chủ nghĩa Tam dân mới với sự đổi mới về một số nội dung đã trở thành chủ nghĩa Tam dân cách mạng với ba chính sách lớn là "Liên Nga, dung Cộng, ủng hộ công nông". Đại hội này đã coi việc hợp tác Quốc dân đảng với Cộng sản là mục tiêu chính và tuyên bố thành lập Mặt trận thống nhất cách mạng. Đại hội bầu Ban Chấp hành mới của Quốc dân đảng, có sự tham gia của 10 đảng viên cộng sản, trong đó có Mao Trạch Đông. Trong Mặt trận thống nhất cách mạng, Đảng Cộng sản chủ trương hợp tác, đoàn kết chặt chẽ với "cánh tả" trong Quốc dân đảng, đoàn kết với quần chúng trong mặt trận, ngăn chặn và đập tan âm mưu của "cánh hữu" trong Quốc dân đảng. Sau khi Mặt trận ra đời, Đảng Cộng sản Trung Quốc đã giúp Tôn Trung Sơn thành lập chính quyền và quân đội cách mạng, đặt trụ sở Chính phủ ở Quảng Châu và mở Trường Quân sự cách mạng ở Hoàng Phố1.

Cùng lúc đó, Đảng Cộng sản Trung Quốc đã khôi phục phong trào công nhân, khôi phục Công đoàn đường sắt, thành lập Hội công nhân Quảng Đông, xây dựng lực lượng vũ trang công nhân, phát động phong trào bãi công trong toàn quốc. Đảng cũng mở trường huấn luyện công tác nông vận ở Quảng Đông để đào tạo đội ngũ cán bộ cho phong trào nông dân. Từ đó bước đầu hình thành liên minh công nông, làm cơ sở cho Mặt trận thống nhất cách mạng.

Đi đôi công tác củng cố chính quyền, xây dựng lực lượng vũ trang, vận động phong trào công nông, Đảng Cộng sản còn lợi dụng sự chia rẽ trong nội bộ bọn quân phiệt miền Bắc để phát động phong trào đòi triệu tập Hội nghị quốc dân nhằm lật đổ chính phủ quân phiệt, thành lập chính quyền cách mạng quốc dân trong toàn quốc.

Trước tình hình lực lượng công nông lớn mạnh và vai trò của Đảng Cộng sản ngày càng phát huy tác dụng, có uy tín sâu rộng trong nhân dân, những người "cánh hữu" trong Quốc dân đảng hoảng sợ. Giữa năm 1925, đại biểu "cánh hữu" Quốc dân đảng là Tưởng Giới Thạch đã tập hợp các phần tử địa chủ, mại bản mở cuộc tranh giành quyền lãnh đạo cách mạng. Chúng chống lại công nông, chống Đảng Cộng sản, chống ba chính sách lớn của Tôn Trung Sơn.

Trước hết, Tưởng Giới Thạch tìm cách gạt những đảng viên cộng sản ra ngoài quân đội, cho quân bắt giữ tất cả đảng viên cộng sản ở Trường Quân sự Hoàng Phố và Quân đoàn 1. Tiếp đến, Tưởng Giới Thạch đưa ra đề án "Chỉnh lý đảng vụ" quy định số đảng viên cộng sản trong các cấp ủy Quốc dân đảng không được quá một phần ba, đảng viên cộng sản không được giữ các chức bộ trưởng trong chính phủ, không được tham gia cơ quan trung ương Quốc dân đảng. Dần dần, Tưởng Giới Thạch nắm giữ các chức Hiệu trưởng Trường Quân sự Hoàng Phố, Ủy viên Trung ương Quốc dân đảng, Chủ tịch Ủy ban thường vụ Quốc dân đảng, Chủ tịch Ủy ban quân sự, Bộ trưởng Bộ Tổ chức, Bộ trưởng Bộ Quân nhân. Như vậy phái hữu, mà đại biểu là Tưởng Giới Thạch đã cướp được quyền lực trên cả ba mặt quân, chính, đảng. Cách mạng Trung Quốc đứng trước thử thách hết sức nghiêm trọng.

Tuy nhiên, lúc đó thế lực cách mạng Trung Quốc đã lớn mạnh, "phái hữu" Quốc dân đảng chưa dám công khai chống cộng, nhân dân lại đang mong muốn quân cách mạng tiến hành Bắc phạt để tiêu diệt 3 tập đoàn quân phiệt lớn và đánh đuổi đế quốc ra khỏi Trung Quốc. Đáp ứng yêu cầu đó, Đảng cộng sản đã lãnh đạo Chính phủ quốc dân quyết định Bắc phạt vào tháng 7 năm 1926 với 8 vạn quân xuất quân từ Quảng Châu. Mùa Xuân năm 1927, quân cách mạng tiến đến lưu vực sông Trường Giang và Hoàng Hà, các tập đoàn quân phiệt lớn ở phía Bắc đã căn bản bị tan rã.
__________________________________________
* Trưởng phòng Lịch sử hiện đại, Viện Sử học - Viện Khoa học xã hội Việt Nam.
1. Trường Quân sự Hoàng Phố chính thức được xây dựng từ ngày 1 tháng 5 năm 1924 trên đảo Hoàng Phố nằm trên sông Tây Giang, cách Quảng Châu 25km. Ngày 15 tháng 6 năm 1924 chính thức cắt băng khánh thành. Đội ngũ giáo viên huấn luyện của trường ngoài 58 cố vân quân sự và chính trị Liên Xô là những sĩ quan được đào tạo ở nước ngoài, hoặc sĩ quan tốt nghiệp tại các trường võ bị ở Trung Quốc.
Logged
chuongxedap
Đại tá
*
Bài viết: 13138



« Trả lời #56 vào lúc: 20 Tháng Mười Hai, 2021, 07:45:09 pm »


Cùng phối hợp với cuộc Bắc phạt, phong trào công nhân và nông dân nổ ra và phát triển mạnh mẽ khắp mọi nơi, đặc biệt là ở Thượng Hải và Hồ Nam. Đến tháng 3 năm 1927 quân cách mạng đã tiến đến Nam Kinh, đánh mạnh vào thế lực đế quốc ở Hoa Trung, lưu vực sông Dương Tử. Trước tình hình đó, bọn đế quốc bên ngoài quyết định dùng vũ lực chống lại cách mạng. Chúng cho quân từ Thượng Hải đánh vào Nam Kinh giết và làm bị thương 2.500 người, đồng thời tìm cách phá hoại Mặt trận thống nhất cách mạng.

Lúc này "phái hữu" Quốc dân đảng đã phản bội cách mạng dần chuyển sang làm tay sai cho đế quốc, phá cách mạng từ trong ra. Ở nhiều nơi, chúng khủng bố và giết hại các đảng viên cộng sản, ra lệnh giải tán các Đảng bộ Quốc dân đảng Nam Xương, Cửu Giang là những đảng bộ ủng hộ ba chính sách lớn của Tôn Trung Sơn. Bọn cường hào địa chủ cũng chống phá phong trào nông dân, dùng lực lượng vũ trang ám hại các cán bộ nông hội....

Tháng 4 năm 1927, Tưởng Giới Thạch lập mưu và cho quân xả súng bắn vào đoàn người biểu tình ở Thượng Hải làm cho 13.000 người bị chết và bị thương. Đồng thời, bọn phản động Quốc dân đảng mở những cuộc tàn sát ở khắp nơi như Nam Kinh, Hàng Châu, Phúc Châu, Quảng Châu, v.v. Tưởng Giới Thạch thành lập Chính phủ Nam Kinh đối lập với Chính phủ quốc dân ở Vũ Hán.

Trước tình hình đó, Đảng Cộng sản thấy cần thiết phải chuẩn bị phát động mạnh mẽ hơn, dựa vào lực lượng công nông nhằm đánh bại cuộc tiến công liên minh của bọn phản cách mạng và ổn định tính dao động bên trong của Chính phủ Vũ Hán. Nhưng "phái tả" Quốc dân đảng, đứng đầu là Uông Tinh Vệ đã dao động, chúng ban hành các chỉ thị để áp chế phong trào công nông, hạn chế hoạt động công đoàn, ra lệnh giải tán nông hội. Mặt khác tổ chức những cuộc binh biến, dần dần Uông Tinh Vệ đã vào hùa với Tưởng Giới Thạch để chống phá cách mạng, quyết định hợp tác Nam Ninh - Vũ Hán để chống cộng sản, chống Liên Xô, phân liệt với Đảng Cộng sản. Sau đó, Quốc dân đảng phản động ở Nam Kinh nắm quyền thống trị Trung Quốc.

Dưới sự thống trị của Quốc dân đảng, nhân dân lao động Trung Quốc bị tước đoạt những quyền lợi chính trị và kinh tế mà họ đã giành được trong thời kỳ cách mạng (1924-1927). Các tổ chức công đoàn, nông hội cách mạng bị đàn áp. Các lãnh tụ của phong trào công - nông bị sát hại tàn khốc. Công nhân phải làm việc trong những điều kiện tồi tệ với đồng lương chết đói. Người nông dân phải chịu tô cao thuế nặng, lại bị thiên tai, hạn hán, lụt lội, làm cho đời sống vô cùng khó khăn.

Nhân dân Trung Quốc không chịu khuất phục đã tiến hành Khởi nghĩa vũ trang ở Nam Xương ngày 1 tháng 8 năm 1927 và giành thắng lợi. Sau đó tiến xuống phía Nam với mục tiêu đánh chiếm Quảng Châu. Trên đường tiến, quân khởi nghĩa đã đẩy lùi nhiều đợt chặn đánh của quân đội Quốc dân đảng, rồi từ Quảng Tây tiến vào Phúc Kiến rồi tiến vào Quảng Đông. Do không có sự kết hợp với phong trào nông dân, so sánh lực lượng quá chênh lệch, nên đầu tháng 10 năm 1927, quân khởi nghĩa đã thất bại ở miền Đông Quảng Đông.

Sau khi đàn áp quân khởi nghĩa ở Quảng Đông, tháng 11 năm 1927, bọn quân phiệt ở Quảng Đông rất hỗn loạn mà nguyên nhân đầu tiên là sự cạnh tranh quyền lực giữa Trương Phát Khuê và Lý Tế Thâm. Trong khi đó quần chúng đang nổi dậy mạnh mẽ chống lại sự khủng bố của bọn phản cách mạng.

Ngày 26 tháng 11 năm 1927, Đảng bộ Quảng Đông kêu gọi quần chúng đứng dậy khởi nghĩa dưới các khẩu hiệu: "Cơm cho công nhân ăn!", "Ruộng đất cho nông dân cày!", "Chính quyền phải về tay Xô-viết công nông!".

Ngay từ sáng sớm ngày 11 tháng 12 năm 1927, cuộc khởi nghĩa vũ trang ở Quảng Châu bắt đầu. Binh lính và công nhân cùng học viên Trường Quân sự Hoàng Phố tập trung trong một đội ngũ gần 30 nghìn người. Quân khởi nghĩa đã kiên quyết và dũng cảm tham gia chiến đấu chống bọn phản động. Hàng vạn quần chúng yêu cầu được nhận súng chiến đấu.

Ngay từ khi bắt đầu nổ ra khởi nghĩa, Công xã Quảng Châu - một hình thức chính quyền công nông đã được tổ chức ở Quảng Châu. Quân khởi nghĩa chiến đấu rất dũng cảm, tuy nhiên Công xã Quảng Châu chỉ tồn tại 3 ngày. Quân đội Quốc dân đảng, được đế quốc Anh đưa tàu chiến đấu yểm hộ, đã phản công quyết liệt. Chúng đàn áp hết sức dã man, "giết hại gần 10.000 người, trong đó có hàng nghìn đảng viên và 100 cộng tác viên của Lãnh sự quán Liên Xô..."1.

Cuộc khởi nghĩa Quảng Châu tuy bị thất bại nhưng có ý nghĩa hết sức vẻ vang đối với lịch sử dân tộc Trung Hoa; đồng thời đã có tác dụng cổ vũ mạnh mẽ phong trào cách mạng đang dâng cao ở khu vực châu Á. Điều đặc biệt quan trọng đối với Việt Nam không chỉ chịu tác động ảnh hưởng của cuộc khởi nghĩa, mà còn trong cuộc Khởi nghĩa Quảng Châu có sự tham gia đóng góp của những người cách mạng Việt Nam, trong đó có Phùng Chí Kiên và những người đồng chí của ông.
_______________________________________
1. Viện Sử học, Thế giới những sự kiện lịch sử thế kỷ XX (1901-1945), Nxb Giáo dục, Hà Nội, 2001, tr. 203.
Logged
chuongxedap
Đại tá
*
Bài viết: 13138



« Trả lời #57 vào lúc: 20 Tháng Mười Hai, 2021, 07:49:23 pm »


2. Sự tham gia của đồng chí Phùng Chí Kiên và những người cách mạng Việt Nam trong cuộc khởi nghĩa Quảng Châu.

Sau Đại hội V1, Quốc tế Cộng sản cử đồng chí Nguyễn Ái Quốc tới Quảng Châu để chuẩn bị về chính trị tư tưởng và tổ chức, tiến tới xây dựng Đảng cộng sản ở Đông Dương và giúp đỡ các đại biểu cách mạng của các nước khác ở Đông Nam Á.

Tháng 11 năm 1924, đồng chí Nguyễn Ái Quốc tới Quảng Châu là trung tâm cách mạng của Trung Quốc lúc đó đang sục sôi khí thế cách mạng, như đại diện của Quốc tế cộng sản là Đalin trong cuốn "Hồi ức Trung Quốc 1921-1927" đã viết: "Ở đây có cái gì đó tựa như năm 1917 không bao giờ quên ở nước Nga vậy. Tôi luôn luôn có cảm giác rằng ngôn ngữ loài người còn quá nghèo nàn để có thể diễn đạt hết sức mạnh của tình cảm: phẫn nộ và sung sướng, yêu thương và căm giận của quần chúng nhân dân tràn ra trên các đường phố và quảng trường"2.

Quảng Châu lúc đó còn là nơi hội tụ của nhiều thế hệ những người Việt Nam yêu nước. Kể từ phong trào Đông Du, Quang phục hội, và lớp thanh niên trí thức yêu nước mới xuất dương đến Quảng Châu đầu những năm 20 tập hợp trong tổ chức Tâm tâm xã với tấm lòng yêu nước và nhiệt huyết của tuổi trẻ sẵn sàng phụng sự cho Tổ quốc. Đúng lúc đó, lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc đến Quảng Châu, Người gặp gỡ với cụ Phan Bội Châu bàn cách cải tổ Quang phục hội theo đường lối chính trị mới.

Từ đầu năm 1925, trên cơ sở những hội viên trung kiên của Tâm tâm xã, lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc đã thành lập "Nhóm bí mật" gồm 5 đảng viên cộng sản dự bị và 2 đoàn viên thanh niên cộng sản dự bị3. Lấy "Nhóm bí mật" này làm nòng cốt, tháng 6 năm 1925 Hội Thanh niên cách mạng Việt Nam được thành lập. Đánh giá về tổ chức cách mạng này, lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc viết: "... Năm 1925, thanh niên cách mạng hội được thành lập ở Quảng Châu... làm cho đế quốc Pháp Đông Dương khiếp sợ”. Nhiệm vụ hàng đầu, bức thiết nhất của Hội Thanh niên cách mạng Việt Nam lúc đó là đào tạo những thanh niên yêu nước xuất dương sang Quảng Châu. Trong một báo cáo gửi cho Quốc tế cộng sản tháng 6 năm 1926, Nguyễn Ái Quốc báo cáo là đã thực hiện được những việc cho phong trào cách mạng Đông Dương gồm:

1. Thành lập một hội bí mật.

2. Thành lập một tổ chức nông hội của những người Việt sống tại Xiêm.

3. Lựa chọn một nhóm "tiên phong" từ con em của nông dân và công nhân (một số trong họ đến từ Xiêm) để đào tạo tại Quảng Châu.

4. Tổ chức một nhóm phụ nữ cách mạng gồm 12 người.

5. Thành lập một lớp tuyên truyền ở Quảng Châu cho những học viên bí mật đưa sang từ Việt Nam và Xiêm4.

Để đào tạo ra một đội ngũ cán bộ cách mạng cho một Đảng Mácxít tương lai ở Việt Nam, thời gian này Tổng bộ Hội Thanh niên cách mạng Việt Nam ở Quảng Châu đã cử cán bộ về Nghệ Tĩnh hoạt động. Nhiều thanh niên học sinh ở Nghệ Tĩnh được giác ngộ và đưa sang Quảng Châu học tập.

Vào thời điểm này, khoảng đầu năm 1925, đồng chí Phùng Chí Kiên từ quê nhà ở làng Mỹ Quan, tổng Vạn Phần (nay là xã Diễn Yên), huyện Diễn Châu, tỉnh Nghệ An, ra làm thuê cho một thương nhân người Hoa ở ga Yên Lý, huyện Diễn Châu, Nghệ An. Là một thanh niên thông minh, nhanh nhẹn, hoạt bát, nhạy bén với thời cuộc, tháng 10 năm 1926, đồng chí Phùng Chí Kiên được giác ngộ và đã cùng một số người được giới thiệu sang Quảng Châu tham dự khoá huấn luyện do lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc tổ chức, rồi sau đó vào học Trường Quân sự Hoàng Phố.

Đồng chí Phùng Chí Kiên vào học khoá thứ V, đó cũng là khoá cuối cùng của Trường Quân sự Hoàng Phố, vì sau đó trường phải đóng cửa do cuộc đảo chính phản cách mạng của Tưởng Giới Thạch. Trước khoá thứ V, những người Việt Nam đầu tiên vào học trường này bắt đầu từ khoá III (năm 1925) có khoảng từ 10-15 người, trong số đó có Lê Hồng Sơn, Trương Vân Lĩnh... Từ khoá III đến khoá V đều có người Việt Nam theo học. Tác giả Wou Hai Tsieo trong bài "Học viên quân sự Hoàng Phố và cách mạng Việt Nam" đăng trên tờ Tuần báo của Học viện Hoàng Phố đã viết "Trường Hoàng Phố đã tồn tại 3 năm và đã đào tạo được 5 khoá trong suốt thời gian đó đã có những đồng chí Việt Nam vượt qua muôn trùng nguy hiểm tới trường tham gia vào sinh hoạt của trường làm tăng lực lượng quân sự của trường và tăng uy tín cho trường. Số đồng chí này tốt nghiệp rời trường thì số đồng chí khác vào học... Hết khoá này đến khoá khác, số lượng các đồng chí Việt Nam ngày càng đông hơn"5.
_____________________________________
1. Ngày 17 tháng 6 năm 1924, Đại hội V Quốc tế Cộng sản khai mạc tại Mátxcơva với sự tham dự của 46 đảng cộng sản, 4 đảng cánh tả và 10 tổ chức quần chúng.
2. Phạm Xanh, Trường Quân sự Hoàng Phố và việc đào tạo những cán bộ quân sự cách mạng đầu tiên của Việt Nam. Trong "Sửa lại cho đúng bàn thêm cho rõ", Nxb Quân đội nhân dân, Hà Nội, 2006, tr. 130.
3. Viện sử học, Việt Nam những sự kiện lịch sử (1919-1945), Nxb Giáo dục, Hà Nội, 2000, tr. 91.
4. Hồ Chi Minh những năm tháng chưa được biết đến. Http//www.x.cafe vn.org.
5. Phạm Xanh, Trường Quân sự Hoàng Phố... Sđd, tr. 140.
Logged
chuongxedap
Đại tá
*
Bài viết: 13138



« Trả lời #58 vào lúc: 20 Tháng Mười Hai, 2021, 07:51:14 pm »


Tính đến tháng 2 năm 1927 đã có 53 người Việt Nam theo học tại Trường Quân sự Hoàng Phố1.

Khi cuộc khởi nghĩa Quảng Châu nổ ra, hưởng ứng lời kêu gọi của Đảng Cộng sản Trung Quốc và chủ trương của Tổng bộ Hội Thanh niên Cách mạng Việt Nam, những người cách mạng Việt Nam ở Quảng Châu trong đó có đồng chí Phùng Chí Kiên và hầu hết học viên Việt Nam ở Trường Quân sự Hoàng Phố đã tham gia vào các đơn vị quân chủ lực và đoàn thể khởi nghĩa. Họ đã trực tiếp cầm súng chiến đấu, đào hầm hào, phát truyền đơn, ủng hộ chính quyền Xô-viết, tham gia cứu thương, vận chuyển lương thực, nước uống để cung cấp cho mặt trận. Tham gia vào đơn vị chủ lực ở Giáo đạo đoàn có các đồng chí Trương Văn Lĩnh, Quý Mộng Sơn, Lê Thiết Hùng... ở mặt trận Hoàng Phố có hơn 20 người tham gia, trong đó có đồng chí Lê Hồng Phong, Lê Quảng Đạt... Ở Xích vệ đội có các đồng chí Hồ Tùng Mậu, Lê Hồng Sơn... Một số phụ nữ tham gia làm nhiệm vụ liên lạc, cứu thương và hậu cần2.

Qua ba ngày tiến hành khởi nghĩa rất anh dũng, song do tương quan lực lượng quá chênh lệch, quân đội Quốc dân đảng được quân Anh giúp sức đã phản công quyết liệt, cuộc khởi nghĩa Quảng Châu bị thất bại. Quân khởi nghĩa và các đoàn thể quần chúng phải rút khỏi Quảng Châu chuyển về vùng nông thôn.

Rất nhiều chiến sĩ cách mạng Trung Quốc và Việt Nam đã bị bắt giam, tra tấn. Trụ sở của Hội Thanh niên cách mạng Việt Nam cũng bị khám xét, 24 hội viên Hội thanh niên cách mạng Việt Nam bị bắt, trong đó có các đồng chí Hồ Tùng Mậu, Trần Văn Cung, Lê Hồng Sơn, Lý Tự Trọng... Chúng giam giữ, thẩm vấn các đồng chí, nhưng không có đủ chứng cớ; mặt khác các đồng chí Trung Quốc đã nhờ luật sư bào chữa và đồng bào Hoa kiều ở các nơi cũng viết đơn thư yêu cầu Tưởng Giới Thạch trả tự do cho những nhà cách mạng Việt Nam bị bắt. Cuối cùng, ngày 13 tháng 5 năm 1928 những đồng chí của ta đã được thả tự do. Trong tài liệu lịch sử Công xã Quảng Châu viết: có một học viên sĩ quan người Việt tên là Đỗ Huy Liên đã hy sinh trong cuộc khởi nghĩa, nhưng trong thực tế, đồng chí đã lưu lại ở Hoàng Phố đến cuối năm 1928, rồi tiếp tục làm việc cho Hội Thanh niên Cách mạng Việt Nam, sau đó trở về hoạt động trong Đông Dương Cộng sản Đảng tại Bắc Kỳ cho đến khi đồng chí bị bắt vào năm 1930.

Trong những người thoát khỏi sự truy lùng của Quốc dân đảng có các đồng chí Phùng Chí Kiên, Nguyễn Sơn, Lê Thiết Hùng, Trương Văn Lĩnh, Phương Sĩ Hùng... Nhiều tài liệu viết rằng: các đồng chí đã cùng với quân cách mạng Trung Quốc rút khỏi Quảng Châu về Đông Giang. Một thời gian sau đồng chí Phùng Chí Kiên rút về Hải Phong và Lục Phong xây dựng khu Xô-viết, làm Đại đội trưởng Hồng quân Trung Quốc. Nhưng theo tôi, căn cứ vào những tài liệu mới được công bố thì ý kiến sau đây có lẽ có sức thuyết phục hơn. Đó là sau khi cuộc Khởi nghĩa Quảng Châu bị thất bại, đồng chí Phùng Chí Kiên đã mưu trí nhanh nhẹn thoát khỏi sự truy lùng của bọn Quốc dân đảng phản động, đồng chí Phùng Chí Kiên rút về căn cứ địa ở hai huyện Hải Phong và Lục Phong, nơi Xô-viết nông dân Hải - Lục Phong đã được xây dựng vững chắc từ trước đó. Sau đó, đồng chí Phùng Chí Kiên đã trở lại Hoàng Phố cho đến khi bị bắt vào đầu năm 1929. Đến mùa Thu năm 1929, Phùng Chí Kiên được ra tù, tham gia Đảng Cộng sản và gia nhập Hồng quân công nông Trung Quốc tại Đông Giang, Quảng Đông với chức Đại đội trưởng.

Cuộc Khởi nghĩa Quảng Châu là một sự kiện trọng đại trong tiến trình lịch sử cách mạng Trung Quốc. Hơn 80 năm đã trôi qua kể từ khi cuộc khởi nghĩa nổ ra, nhưng ý nghĩa và tầm vóc ảnh hưởng của nó vẫn rất to lớn đến hôm nay. Sự tham ra vào cuộc khởi nghĩa của những người cách mạng Việt Nam, trong đó có đồng chí Phùng Chí Kiên, đã khẳng định những giá trị vĩ đại của tinh thần quốc tế vô sản cao cả của những người cách mạng Việt Nam. Với tất cả tinh thần và sức lực, có cả sự hy sinh xương máu, với ý chí quyết tâm và lòng quả cảm cao độ, họ đã sẵn sàng hiến dâng tất cả cho cuộc đấu tranh của nhân dân Trung Quốc vì sự nghiệp đấu tranh giải phóng; đồng thời qua đó cũng giúp rèn luyện cho các nhà cách mạng Việt Nam những bài học kinh nghiệm vô cùng quý giá và sự trưởng thành về mọi mặt, cả về lý luận và thực tiễn đấu tranh, để phục vụ cho sự nghiệp cách mạng của nhân dân Việt Nam sau này.
________________________________________
1. Hồ Chí Minh những năm tháng chưa được biết đến. Http// . diễn đàn.
2. Tô Kiên, Những người cách mạng Việt Nam tham gia khởi nghĩa Quảng Châu. Tạp chí Xưa và Nay, số 111, tháng 3 năm 2002, tr. 7.
Logged
chuongxedap
Đại tá
*
Bài viết: 13138



« Trả lời #59 vào lúc: 20 Tháng Mười Hai, 2021, 08:10:59 pm »


PHÙNG CHÍ KIÊN - NHỮNG NĂM THÁNG HOẠT ĐỘNG
CÁCH MẠNG Ở NƯỚC NGOÀI

Thượng úy NGUYỄN HỒNG DUNG*
Trung úy NGUYỄN HÀ HẢI

Cuộc đời của đồng chí Phùng Chí Kiên tuy ngắn ngủi chỉ vẻn vẹn 40 tuổi xuân, nhưng sự nghiệp cách mạng của ông lại rất lớn lao. Trong bài này, chúng tôi viết về những năm tháng hoạt động cách mạng đầy khó khăn gian khổ nhưng rất vẻ vang của Phùng Chí Kiên ở nước ngoài, mà chủ yếu là ở Trung Quốc và Liên Xô.

Theo sách Danh nhân lịch sử Việt Nam, Tập 2, Giáo sư, Nhà giáo nhân dân Đinh Xuân Lâm (chủ biên), Nhà xuất bản Giáo dục, Hà Nội, 1988, thì năm 1926 Nguyễn Vĩ đã sang Quảng Châu dự lớp huấn luyện đầu tiên do Nguyễn Ái Quốc tổ chức. Kết thúc lớp học, Nguyễn Vĩ được Nguyễn Ái Quốc gửi vào học Trường Quân sự Hoàng Phố của Chính phủ Tôn Trung Sơn với tên là Mạnh Văn Liễu1. Năm sau, chính quyền Tưởng Giới Thạch quay ra khủng bố cộng sản, nhà trường bị đóng cửa. Mạnh Văn Liễu cùng với một số cán bộ Việt Nam tham gia cuộc Khởi nghĩa Quảng Châu (12.12.1927) do Đảng Cộng sản Trung Quốc lãnh đạo. Cuộc khởi nghĩa thất bại, quân cách mạng rút về xây dựng khu Xô-viết ở hai huyện Hải Phong và Lục Phong. Năm 1930, Mạnh Văn Liễu gia nhập Đảng Cộng sản Việt Nam.

Tháng 2 năm 1931, sau một thời gian hoạt động ở Xiêm, Nguyễn Ái Quốc trở lại Trung Quốc. Sau khi biết được tình hình của các học viên lớp huấn luyện chính trị, quân sự những năm 1926-1927, Người đã cử Mạnh Văn Liễu cùng với hai người khác sang Liên Xô để vào học tại Trường Đại học của những người lao động Phương Đông. Nhưng khi Mạnh Văn Liễu vừa đến Mãn Châu thì bị bắt giam, gần một năm sau mới được thả. Ra tù, Mạnh Văn Liễu quyết chí tiếp tục qua Liên Xô học tập. Tháng 4 năm 1932, Mạnh Văn Liễu đến Mátxcơva2. Từ ngày 15 tháng 6 năm 1932 cho đến ngày 28 tháng 3 năm 1934, Mạnh Văn Liễu mang tên là Kan, học tại Trường Đại học Phương Đông.

Trong những năm Kan học tại Liên Xô, phong trào cách mạng ở trong nước gặp rất nhiều khó khăn. Sau Xô-viết Nghệ Tĩnh, hầu hết các ủy viên Trung ương Đảng Cộng sản Đông Dương người bị bắt hoặc bị xử tử. Quốc tế Cộng sản mất liên lạc với Việt Nam nên đã đề cử Lê Hồng Phong, rồi Hà Huy Tập từ Liên Xô về nước để thành lập lại Ban Chấp hành Trung ương.

"Ngày 1 tháng 8 năm 1933, tại Quảng Châu đã diễn ra cuộc họp quan trọng của các đồng chí Lê Hồng Phong, Hà Huy Tập và Nguyễn Văn Dựt, thông báo cho nhau tình hình phong trào cách mạng ở Đông Dương, tình hình quốc tế và quyết định của Ban Phương Đông Quốc tế Cộng sản về việc thành lập Ban Chỉ huy ở ngoài của Đảng"3. Đầu năm 1934, Ban Chỉ huy ở ngoài của Đảng được chính thức thành lập (gồm có: Lê Hồng Phong, Hà Huy Tập, Nguyễn Văn Dựt4), do Lê Hồng Phong đứng đầu.

Năm 1934, sau khi tốt nghiệp Trường Đại học Phương Đông, dưới sự phân công của Ban Chấp hành Quốc tế Cộng sản, Kan trở về Hương Cảng (Trung Quốc) tham gia Ban Chỉ huy ở ngoài của Đảng Cộng sản Đông Dương. Ngày 14 tháng 6 năm ấy, với tư cách là Ủy viên Ban Chỉ huy ở ngoài của Đảng Cộng sản Đông Dương, ông đã tham dự hội nghị của ban cùng với các đại biểu từ trong nước ra. Hội nghị đã ra quyết nghị quan trọng là thành lập Ban trù bị cho Đại hội Đảng lần thứ nhất. Mạnh Văn Liễu được tín nhiệm bầu vào ban này. Nhận trách nhiệm, ông đã cùng với Lê Hồng Phong, Hà Huy Tập tích cực chuẩn bị cho việc triệu tập Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ nhất của Đảng, như đề ra các chủ trương, chính sách và soạn thảo các văn kiện của Đảng5.
___________________________________________
* Viện Lịch sử quân sự Việt Nam.
1. Theo PGS Phạm Xanh, Mạnh Văn Liễu học khóa V Trường Hoàng Phố cùng với Lý Đức Lan, Nguyễn Sơn, Đỗ Huy Kiên, Nguyễn Tường Loan, Võ Tùng, Hoàng Khắc Trung... (16 người Việt).
2. A. A. Xôcôlốp, Quốc tế cộng sản và Việt Nam, Bản tiếng Việt, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000.
3. Hà Huy Tập - Người cộng sản kiên trung, nhà lý luận xuất sắc, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2006, tr. 565.
4. Theo A. A. Xôcôlôp, Sđd, Nguyễn Văn Dựt, còn có tên là Trần Huy Rôn (?) tên Nga là Svan, được Đảng Cộng sản Pháp cử đi học Trường Phương Đông, ra trường tháng 4 năm 1933. Năm 1938, về Cần Thơ dạy học. Sau năm 1945, tham gia Mặt trận Liên Việt ở địa phương.
5. Đinh Xuân Lâm, Chương Thâu, Danh nhân Lịch sử Việt Nam, Tập 2, Nxb Giáo dục, Hà Nội, tr. 192.
Logged
Trang: « 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 »   Lên
  In  
 
Chuyển tới:  

Powered by MySQL Powered by PHP Powered by SMF 1.1.21 | SMF © 2006-2008, Simple Machines

Valid XHTML 1.0! Valid CSS! Dilber MC Theme by HarzeM