Lịch sử Quân sự Việt Nam
Tin tức: Lịch sử quân sự Việt Nam
 
*
Chào Khách. Bạn có thể đăng nhập hoặc đăng ký. 28 Tháng Ba, 2024, 05:47:30 pm


Đăng nhập với Tên truy nhập, Mật khẩu và thời gian tự động thoát


Trang: « 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 »   Xuống
  In  
Tác giả Chủ đề: PHÙNG CHÍ KIÊN ... Nhà chính trị, quân sự song toàn  (Đọc 3962 lần)
0 Thành viên và 1 Khách đang xem chủ đề.
chuongxedap
Đại tá
*
Bài viết: 13138



« Trả lời #40 vào lúc: 18 Tháng Mười Hai, 2021, 04:09:37 pm »


Tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ nhất của Đảng họp ở Ma Cao (3.1935), đồng chí Phùng Chí Kiên được bầu vào Ban Chấp hành Trung ương Đảng, được cử làm Ủy viên Thường vụ Trung ương Đảng. Ở vị trí quan trọng này, đồng chí có điều kiện đem hết trí tuệ, khả năng và sức lực phục vụ các nhiệm vụ của Đảng Cộng sản Đông Dương.

Tháng 8 năm 1936, đồng chí Phùng Chí Kiên được cử về Sài Gòn cùng đồng chí Hà Huy Tập trực tiếp chỉ đạo phong trào cách mạng trong nước, theo tinh thần Nghị quyết Hội nghị lần thứ 7 của Quốc tế Cộng sản và Nghị quyết Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng ngày 16 tháng 7 năm 1936, nhằm đòi tự do dân chủ, cơm áo và hoà bình. Nhưng một năm sau, do yêu cầu mới của cách mạng, đồng chí Lê Hồng Phong về Sài Gòn hoạt động, đồng chí Phùng Chí Kiên lại sang Trung Quốc chỉ đạo công tác Đảng ở nước ngoài.

Đầu năm 1940, ở Vân Nam, Trung Quốc, một chi bộ Ban Chỉ huy ở ngoài (BCHON), gồm ba người: Phùng Chí Kiên, Vũ Anh, Hoàng Văn Hoan được thành lập. Đồng chí Phùng Chí Kiên, lúc đó lấy tên là Liệu, là Bí thư chi bộ, trực tiếp phụ trách tờ báo Truyền tin. Khi Nguyễn Ái Quốc đến Côn Minh, đồng chí Phùng Chí Kiên đã thay mặt Chi bộ báo cáo với Người về tình hình hoạt động của BCHON, các tổ chức quần chúng Việt kiều ở Côn Minh, về tờ báo Truyền tin, sau đổi tên thành tờ Đồng Thanh. Sau đó, theo gợi ý của Nguyễn Ái Quốc, tờ Đồng Thanh được đổi thành Đ.T (có thể hiểu là Đảng ta, Đấu tranh, Đánh Tây,...). Bắt đầu từ thời gian này, Nguyễn Ái Quốc trực tiếp chỉ đạo mọi hoạt động của BCHON, Người tham gia viết bài cho báo Đ.T. Cũng từ đó, Phùng Chí Kiên được làm việc gần Nguyễn Ái Quốc và thường xuyên xin chỉ thị của Người về nội dung hoạt động của BCHON. Đồng chí đã nhiều lần đưa Nguyễn Ái Quốc đến các nơi như Mông Tự, Nghi Lương, Khai Viễn, Chi Thôn... thuộc tỉnh Vân Nam, thăm các cơ sở quần chúng cách mạng và khảo sát đường về Tổ quốc khi có đủ điều kiện.

Đầu tháng 6 năm 1940, chính đồng chí Phùng Chí Kiên đã bố trí cuộc gặp của Nguyễn Ái Quốc với các đồng chí Phạm Văn Đồng, Võ Nguyên Giáp vừa ở trong nước sang tại công viên Thúy Hồ, ở Côn Minh, Trung Quốc.

Tháng 6 năm 1940, Pháp đầu hàng Đức, Nhật nhảy vào Đông Dương. Tại một ngôi nhà nhỏ, nơi BCHON thường họp và là tòa soạn báo Đ.T, Nguyễn Ái Quốc đã họp với đồng chí Phùng Chí Kiên và BCHON bàn việc vận động thành lập Hội Việt Nam độc lập đồng minh, đồng thời khẩn trương chuẩn bị về nước. Người nói: "Việc Pháp mất nước là một cơ hội rất thuận lợi cho cách mạng Việt Nam. Ta phải tìm mọi cách về nước ngay để tranh thủ thời cơ. Chậm trễ lúc này là có tội với cách mạng".

Sau đó, Phùng Chí Kiên theo Nguyễn Ái Quốc chuyển tới Tĩnh Tây, tỉnh Quảng Tây. Nhận được tin Nguyễn Ái Quốc đã về Tĩnh Tây, Trung ương Đảng ở trong nước cử đồng chí Hoàng Văn Thụ sang đón. Sau khi thống nhất kế hoạch với đồng chí Hoàng Văn Thụ, đồng chí Phùng Chí Kiên đã tập hợp hơn bốn mươi thanh niên Cao Bằng mới chạy sang Tĩnh Tây để lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc huấn luyện thành những cán bộ cốt cán, đưa về Cao Bằng xây dựng thí điểm các đoàn thể Việt Minh, lập khu căn cứ cách mạng. Lớp huấn luyện được tổ chức ở bản Nậm Quang và Ngàn Tấy, thôn Linh Quang, xã Thiện Bàn, huyện Tĩnh Tây, thuộc tỉnh Quảng Tây, giáp biên giới Trung Quốc - Việt Nam. Dựa theo tài liệu huấn luyện của Nguyễn Ái Quốc về cách tuyên truyền, tổ chức, vận động quần chúng, đồng chí Phùng Chí Kiên đã cùng với các đồng chí Phạm Văn Đồng, Võ Nguyên Giáp biên soạn thành bài giảng, sau đó đưa Người duyệt lại. Đồng chí Phùng Chí Kiên cùng các đồng chí Phạm Văn Đồng, Võ Nguyên Giáp trực tiếp giảng dạy. Các bài giảng sau đó được tập hợp thành tập bài giảng nhan đề: "Con đường giải phóng1 gồm 6 bài như sau:

Bài 1: Tình hình thế giới: Trong đó đề cập đến các vấn đề thế giới chiến tranh, phong trào cách mạng thế giới, về Liên bang Xô-viết, về Tàu (Trung Quốc).

Bài 2: Tình hình Đông Dương: Giới thiệu về đặc điểm địa lý; kinh tế; chính trị; về các giai cấp trong nước; các dân tộc Đông Dương; thái độ người Pháp ở Đông Dương; thái độ Hoa kiều.

Bài 3: Vấn đề cách mạng Việt Nam: Giới thiệu lịch sử dân tộc giải phóng Việt Nam, về cách mạng giải phóng dân tộc hiện nay và những điều kiện thắng lợi của cách mạng Việt Nam. Chỉ ra những sai lầm, ý kiến có hại cần chống; giới thiệu những đoàn thể chính trị ở Đông Dương; các chủ trương cứu nước của Việt Nam Độc lập Đồng minh, chủ nghĩa tân dân chủ của Việt Nam.

Bài 4: Công tác: Hướng dẫn cách điều tra, tuyên truyền, tổ chức, huấn luyện và đấu tranh cách mạng.

Bài 5: Vấn đề khởi nghĩa: Trong đó có nội dung: Khởi nghĩa; Du kích.

Bài 6: Một người cách mạng phải như thế nào: Nói về tư cách một người cách mạng.

Nội dung chương trình huấn luyện trên đây tuy ngắn gọn, nhưng đã trang bị những kiến thức cơ bản cho cán bộ, rất thiết thực và bổ ích, là cẩm nang hướng dẫn cho cán bộ trong quá trình hoạt động, tổ chức, giáo dục, động viên quần chúng nhân dân tham gia các tổ chức cách mạng, chuẩn bị tiến tới tổng khởi nghĩa, giành chính quyền về tay nhân dân lao động. Con đường giải phóng là một tư liệu lịch sử gắn với cuộc đời hoạt động của Chủ tịch Hồ Chí Minh và các đồng chí Phùng Chí Kiên, Võ Nguyên Giáp, Phạm Văn Đồng. Tài liệu này chưa được phổ biến rộng. Giới thiệu tài liệu này, chúng tôi mong muốn góp thêm một tư liệu về sự cống hiến của đồng chí Phùng Chí Kiên với cách mạng Việt Nam.

Ngày 28 tháng 1 năm 1941, đồng chí Phùng Chí Kiên theo lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc về Pắc Bó, tỉnh Cao Bằng. Ở đây, đồng chí hoạt động bên cạnh Người và đã góp phần quan trọng vào việc xây dựng, bảo vệ khu căn cứ. Đồng chí đã tích cực tham gia vào việc tổ chức các lớp huấn luyện, đào tạo cán bộ Việt Minh cho các tỉnh Cao Bằng, Bắc Kạn, Lạng Sơn và các tỉnh miền xuôi. Tại Hội nghị Trung ương Đảng lần thứ 8 (5.1941), họp tại lán Khuổi Nậm, Pắc Bó, Cao Bằng, đồng chí Phùng Chí Kiên tiếp tục được bầu là Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng, phụ trách quân sự, trực tiếp chỉ đạo khu căn cứ Bắc Sơn - Võ Nhai và Trung đội Cứu quốc quân 1.

Tài liệu của lớp huấn luyện tại bản Nậm Quang, cùng với những bài văn vần do Nguyễn Ái Quốc soạn thảo, đã được đồng chí Phùng Chí Kiên sử dụng để tiếp tục mở các lớp huấn luyện ở Bắc Sơn. Ngày 22 tháng 8 năm 1941, đồng chí đã hy sinh trên đường phá vòng vây của kẻ thù, tại Ngân Sơn. Được tin dữ này, lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc đã lặng đi, rất đau xót. Cách mạng Việt Nam mất đi một cán bộ trung kiên, được đào tạo rất cơ bản, cả về chính trị lẫn quân sự. Lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc mất đi một người cộng sự gần gũi, tin cậy đã theo Người suốt những năm tháng đi gây dựng cơ sở, tổ chức quần chúng, mở lớp huấn luyện cán bộ.

Nghiên cứu về cuộc đời hoạt động của Chủ tịch Hồ Chí Minh, những năm tháng ở nước ngoài, những ngày về nước gây dựng phong trào đều thấy sự hiện diện của Phùng Chí Kiên bên cạnh Người. Đồng chí hy sinh giữa lúc tuổi trẻ, khi mà tài năng, trí tuệ, lòng quả cảm của đồng chí đang độ chín và có điều kiện đóng góp nhiều cho cách mạng Việt Nam. Lịch sử cách mạng Việt Nam mãi mãi ghi nhận những cống hiến của đồng chí, lớp cán bộ cốt cán đầu tiên của Đảng, một học trò xuất sắc của Chủ tịch Hồ Chí Minh.
______________________________________
1. Tài liệu lưu tại Bảo tàng Hồ Chí Minh, ký hiệu H2C7/3.
Logged
chuongxedap
Đại tá
*
Bài viết: 13138



« Trả lời #41 vào lúc: 18 Tháng Mười Hai, 2021, 08:39:29 pm »


NHỮNG NĂM THÁNG HOẠT ĐỘNG
BÊN CẠNH LÃNH TỤ NGUYỄN ÁI QUỐC
CỦA ĐỒNG CHÍ PHÙNG CHÍ KIÊN

Trung úy LÊ VĂN PHONG*


Đầu thế kỷ XX, trên bầu trời cách mạng Việt Nam xuất hiện một vì tinh tú, một chiến sĩ cách mạng kiên cường mang tên Phùng Chí Kiên.

Đến nay, đã có khá nhiều bài viết về thân thế, sự nghiệp của đồng chí Phùng Chí Kiên, nhưng có lẽ, một trong những yếu tố quan trọng, tác động trực tiếp đến cuộc đời và sự nghiệp của đồng chí là những năm tháng được sống và làm việc bên cạnh lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc. Chính nhân cách, đạo đức, trí tuệ và tác phong làm việc của Người là tấm gương mẫu mực sáng ngời để đồng chí học tập và rèn luyện.

Sinh năm 1901, tại mảnh đất Nghệ An giàu truyền thống cách mạng, ngay từ nhỏ, Phùng Chí Kiên đã tỏ rõ tố chất thống minh, hoạt bát hơn người. Sau khi thi đỗ Sơ học yếu lược, do đời sống gia đình khó khăn, đồng chí phải nghỉ học ở nhà làm ruộng. Đến năm 1925, đồng chí ra ga Yên Lý làm thuê cho một thương nhân Hoa kiều.

Thời kỳ này, tình hình cách mạng trong nước và quốc tế có nhiều chuyển biến tích cực. Tháng 11 năm 1924, Nguyễn Ái Quốc, sau bao năm bôn ba tìm con đường cứu nước, đã về Quảng Châu (Trung Quốc) - nơi đang có rất đông người Việt Nam yêu nước hoạt động - để xúc tiến các công việc chuẩn bị cho sự ra đời của chính đảng mác-xít ở Việt Nam. Tháng 6 năm 1925, Người thành lập Hội Việt Nam cách mạng thanh niên với mục đích: "Hy sinh tính mệnh, quyền lợi, tư tưởng để làm cuộc cách mệnh dân tộc (đập tan bọn Pháp và giành độc lập cho xứ sở) rồi sau đó làm cách mạng thế giới (lật đổ chủ nghĩa đế quốc và thực hiện chủ nghĩa cộng sản"1.

Chính chủ trương, mục đích của Hội đã lôi cuốn đông đảo những người Việt Nam yêu nước tham gia, trong đó có Phùng Chí Kiên. Tháng 10 năm 1926, đồng chí dự lớp huấn luyện chính trị do Nguyễn Ái Quốc tổ chức. Nội dung các bài giảng của Người là những vấn đề cơ bản về chủ nghĩa Mác - Lênin, về phong trào công nhân quốc tế, về con đường cách mạng vô sản và con đường cách mạng Việt Nam... Có thể nói, đây là bước ngoặt lớn trong cuộc đời hoạt động cách mạng, đánh dấu sự trưởng thành từ một thanh niên yêu nước, từ chủ nghĩa yêu nước đến với chủ nghĩa Mác - Lênin của đồng chí. Và, cũng từ đây, đồng chí thường xuyên được sống, học tập và làm việc bên cạnh Nguyễn Ái Quốc.

Sau đó, Phùng Chí Kiên cùng với các đồng chí Lê Hồng Phong, Lê Thiết Hùng, Trương Vân Lĩnh... được Nguyễn Ái Quốc và các cố vấn quân sự Liên Xô chọn vào học Trường Quân sự Hoàng Phố. "Qua học tập và rèn luyện, đồng chí Phùng Chí Kiên tỏ rõ là người có năng lực về chỉ huy quân sự, được Ban lãnh đạo nhà trường đặc biệt chú ý"2. Tuy nhiên, khi công việc học hành đang diễn ra thuận lợi thì cũng là lúc phái hữu Quốc dân đảng tiến hành phá hoại ba chính sách lớn của Tôn Trung Sơn. Chúng tuyên bố "thanh Đảng", thẳng tay đàn áp, bắn giết hàng nghìn, hàng vạn người cộng sản và công nông, trí thức. Riêng Trường Quân sự Hoàng Phố, tháng 4 năm 1927, chúng bắt hơn 400 giảng viên và học sinh là đảng viên cộng sản, trong đó có cả đảng viên người Việt Nam.

Dưới sự chỉ đạo của Nguyễn Ái Quốc, Phùng Chí Kiên và những người cách mạng Việt Nam đã hưởng ứng lời kêu gọi của Đảng Cộng sản Trung Quốc: "Ai nấy tuỳ theo điều kiện và khả năng của mình hăng hái tham gia guồng máy khởi nghĩa để chiến đấu chống thù chung, nêu cao tinh thần quốc tế vô sản"3. Ngày 12 tháng 12 năm 1927, đồng chí tham gia Khởi nghĩa Quảng Châu do Đảng Cộng sản Trung Quốc lãnh đạo. Nhưng do lực lượng chênh lệch nên khởi nghĩa đã thất bại. Dù vậy, hành động cách mạng của những người Việt Nam, trong đó có Phùng Chí Kiên là "dấu son lịch sử mà Bác Hồ và các bậc tiền bối đã vun đắp lên bằng xương máu"4, đồng thời khẳng định tinh thần quốc tế vô sản của những người Việt Nam.

Khởi nghĩa bị thất bại, quân cách mạng rút về xây dựng Khu Xô-viết ở hai huyện Hải Phong và Lục Phong. Trên cương vị là Đại đội trưởng quân cách mạng, Phùng Chí Kiên cùng với cán bộ, đảng viên và nhân dân Trung Quốc kiên trì bảo vệ cách mạng và "... đã nêu một tấm gương sáng về chịu đựng gian khổ, kiên trì bảo vệ chân lý và thành quả cách mạng, nhiều lần được Ban lãnh đạo Khu Xô-viết biểu dương trong toàn quân và trong mấy chục triệu nhân dân Khu Xô-viết Hải - Lục Phong...”5.

Qua thử thách chiến đấu ác liệt, những phẩm chất cách mạng của Phùng Chí Kiên ngày càng được khẳng định vững chắc. Tháng 2 năm 1931, đồng chí tiếp tục được Nguyễn Ái Quốc giới thiệu sang Mátxcơva học tại Trường Đại học Phương Đông của Quốc tế Cộng sản.

Đến đất nước của Lênin vĩ đại, quê hương của Cách mạng Tháng Mười, nơi Nguyễn Ái Quốc tìm ra con đường giải phóng cho dân tộc Việt Nam, Phùng Chí Kiên đã bước ra một chân trời mới với trách nhiệm nặng nề nhưng cũng rất vẻ vang. Tại đây, đồng chí ngày đêm chuyên cần học tập, được đánh giá là: "... Có khả năng lớn về công tác, năng động, trình độ chính trị cao, kết quả học tập nói chung là tốt..."6.

Năm 1934, sau khi tốt nghiệp Trường Đại học Phương Đông, đồng chí được Quốc tế Cộng sản phái về hoạt động cách mạng ở Hương cảng (Trung Quốc). Năm 1935, tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ nhất Đảng Cộng sản Đông Dương, đồng chí được bầu vào Ban Chấp hành Trung ương Đảng, phụ trách bộ phận công tác Đảng ở ngoài nước.

Trở lại đất nước Trung Quốc, ngoài nhiệm vụ được phân công, Phùng Chí Kiên còn tích cực lãnh đạo Việt kiều tham gia cuộc vận động ủng hộ nhân dân Trung Hoa chống phát xít Nhật. Ngày 23 tháng 10 năm 1936, đồng chí bị cảnh sát Anh bắt tại nhà số 71, phố Đại Nam, thành phố Hương Cảng. Nhưng do không tìm được chứng cớ buộc tội, nên sau hai tháng giam giữ chúng buộc phải thả tự do và trục xuất đồng chí ra khỏi Hương cảng.

Rời Hương Cảng, đồng chí đến thị trấn Sán Dầu, tỉnh Quảng Đông rồi qua Côn Minh, thủ phủ của tỉnh Vân Nam. Tại đây, đồng chí cùng với một số đồng sự Việt Nam tiến hành củng cố lại Ban Chỉ huy ở ngoài của Đảng, lập ra Hội Việt Nam ủng hộ nhân dân Trung Quốc đánh Nhật và cho xuất bản tờ báo Đồng Thanh.

Nhận thấy tình hình hoạt động cách mạng của những người Việt Nam ở Côn Minh đang phát triển mạnh, đầu năm 1940, lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc đến Côn Minh. Trong những ngày ở Côn Minh, đồng chí Phùng Chí Kiên luôn tìm đến gặp Người, báo cáo với Người về tình hình hoạt động của Đảng ở ngoài nước, về tờ báo Đồng Thanh. Người đã góp ý nhiều vấn đề về tổ chức và hoạt động của Đảng ở ngoài nước. Riêng với báo Đồng Thanh, Người chỉ rõ: "Về việc tuyên truyền, Bác đề nghị đổi tên tờ Đồng Thanh ra thành tờ Đ.T. Theo Bác giải thích, thì Đ.T có thể hiểu là Đồng Thanh, cũng có thể hiểu là Đồng Tâm, củng có thể hiểu là Đấu Tranh, và cũng có thể hiểu là Đánh Tây"7. Đây là những ý kiến quan trọng giúp cho tổ chức Đảng ở ngoài nước và báo Đồng Thanh hoạt động ngày càng có hiệu quả, tránh được sự truy xét của kẻ thù.
_________________________________________
* Viện Lịch sử quân sự Việt Nam.
1. Đinh Xuân Lâm (chủ biên), Đại cương Lịch sử Việt Nam, Tập 2, Nxb Giáo dục, Hà Nội, 2001, tr. 266.
2. Đức Vượng, Nguyễn Đình Nhơn, Những người cộng sản trẻ tuổi, Nxb Thanh niên, Hà Nội, 1987, tr. 150.
3, 4. Tô Kiên, Những người cách mạng Việt Nam tham gia khởi nghĩa ở Quảng Châu, Tạp chí Xưa và Nay, tháng 3 năm 2002, tr. 7.
5. M.T.H, Phùng Chí Kiên - một đảng viên trọn vẹn trung dũng, Tạp chí Xưa và Nay, số 83, tháng 1.2001, tr. 27.
6. Đỗ Quang Hưng, Phùng Chí Kiên (1901-1941) - một cán bộ quân sự - chính trị tài ba, Tạp chí Lịch sử quân sự, số 6, 2001, tr. 19.
7. Vũ Anh, Những ngày gần Bác, in trong Đầu nguồn - Hồi ký về Bác Hồ, Nxb Văn học, Hà Nội, 1975, tr. 225.
Logged
chuongxedap
Đại tá
*
Bài viết: 13138



« Trả lời #42 vào lúc: 18 Tháng Mười Hai, 2021, 09:00:09 pm »


Để hiểu đời sống của Việt kiều ở Vân Nam và tìm cách gây dựng cơ sở cách mạng, đồng chí Phùng Chí Kiên đã cùng lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc đi đến nhiều nơi có đồng bào ta đang sinh sống như Mông Tự, Nghi Lương, Khai Viễn, Chi Thôn... Những ngày đi cùng Người, Phùng Chí Kiên hiểu sâu sắc hơn về tâm tư, nguyện vọng và chủ trương của Người đối với những người con sống xa đất nước. "Theo anh Phùng Chí Kiên kể lại, thì lúc ở Chỉ Thôn, quần chúng đang làm chay cho những người bị bom Nhật giết chết ở Bua Chai, Bác và anh Phùng đã tham gia lễ làm chay, theo đề nghị của Bác, anh Phùng đã lấy bài Khóc đồng bào bị nạn ở Bua Chai trong Báo Đ.T ra đọc, quần chúng rất xúc động"1.

Giữa lúc Nguyễn Ái Quốc và những người cách mạng Việt Nam đang tích cực chuẩn bị những điều kiện cần thiết để trở về nước lãnh đạo cách mạng, thì tình hình thế giới có sự chuyển biến lớn. Cuộc chiến tranh thế giới lần thứ 2 nổ ra. Tháng 6 năm 1940, phát xít Đức tiến công nước Pháp, Chính phủ Pháp đã nhanh chóng đầu hàng. Nhân cơ hội này, phát xít Nhật nhảy vào xâm lược Đông Dương.

Trước tình thế thuận lợi này, Nguyễn Ái Quốc chỉ thị cho đồng chí Phùng Chí Kiên triệu tập cuộc họp toàn thể của Ban lãnh đạo Đảng ở ngoài nước tại toà soạn báo Đ.T. Rất nhiều vấn đề về cách mạng Việt Nam đã được Nguyễn Ái Quốc trao đổi với đồng chí Phùng Chí Kiên và đồng chí Vũ Anh. Cuối cùng, Người quyết định: phải nhanh chóng trở về nước hoạt động, chuẩn bị mọi mặt, chờ thời cơ khởi nghĩa giành chính quyền. Để cho việc về nước thuận lợi, Nguyễn Ái Quốc và đồng chí Phùng Chí Kiên chuyển tới Tĩnh Tây - một thị trấn thuộc tỉnh Quảng Tây, giáp biên giới Trung - Việt.

Nhận được tin Nguyễn Ái Quốc về Tĩnh Tây, Trung ương Đảng trong nước cử đồng chí Hoàng Văn Thụ sang đón. Trước khi về nước, với nhãn quan sâu rộng của mình, sau khi thống nhất với đồng chí Hoàng Văn Thụ, đồng chí Phùng Chí Kiên đã tập hợp 43 thanh niên Việt Nam để Người huấn luyện2. Trong Hồi ký của Đại tướng Võ Nguyên Giáp viết: "Đầu tháng 12, Bác và anh Phùng Chí Kiên về một làng cách Tĩnh Tây năm chục cây số. Bác cho người đến gọi anh Đồng và tôi về để mở lớp huấn luyện... Các anh Phùng Chí Kiên, Phạm Văn Đồng và tôi được Bác hướng dẫn làm chương trình huấn luyện. Bác phân công mỗi người làm từng mục: tuyên truyền, tổ chức, huấn luyện, đấu tranh..."3. Ngày 26 tháng 1 năm 1941, lớp học bế mạc. Và, lực lượng cách mạng mà Phùng Chí Kiên, Vũ Anh, Hoàng Văn Hoan, Phạm Văn Đồng, Võ Nguyên Giáp... tập hợp đã "bay theo cánh chim đầu đàn, người đàn anh, người thầy quý mến là Bác Hồ, chuẩn bị vượt biên giới về Pắc Bó, Cao Bằng"4. Đây là những hạt giống đỏ của cách mạng được Bác Hồ gieo trồng, sau này trở thành những cán bộ cốt cán, những tướng lĩnh cao cấp của quân đội và có nhiều đóng góp cho cách mạng Việt Nam5.

Ngày 28 tháng 1 năm 1941, lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc cùng với các đồng chí: Lê Quảng Ba, Phùng Chí Kiên, Đặng Văn Cáp, Thế An, Hoàng Văn Lộc đã vượt mốc 108 biên giới Việt - Trung, đặt những bước chân đầu tiên lên mảnh đất Việt Nam. "Xa rời Tổ quốc đã hơn 30 năm. Đã mất bao nhiêu thời giờ và sức lực tìm liên lạc không được. Bao nhiêu năm thương nhớ đợi chờ. Hôm nay mới bước chân về nơi non sông gấm vóc của mình. Khi bước qua cái bia giới tuyến, lòng Bác vô cùng cảm động..."6.

Về Pắc Bó, Bác và mọi người đến nghỉ ở nhà ông Máy Lỳ, người dân tộc Nùng. Những ngày đầu, ở tạm trong căn nhà nhỏ của ông, nhưng để tiện cho sinh sống và hoạt động lâu dài, Người đã đề nghị với mọi người ra rừng để ở. Đồng chí Lê Quảng Ba kể lại: "Ông Máy Lỳ dẫn Bác và chúng tôi ra phía sau nhà đi đến một dãy núi gần nhà. Mọi người theo ông leo lên một quả núi, đến lưng chừng núi thì đến một cái hang. Tin cậy người cách mạng, ông mới đưa đến cái hang bí mật của gia đình ông, đó là hang Cốc Bó... Sáng sớm hôm sau, Bác gọi tôi và bảo dẫn Bác và anh Phùng Chí Kiên đi xem địa thế quanh hang Cốc Bó...7.

Thời gian sống và làm việc ở Pắc Bó, đồng chí Phùng Chí Kiên và nhiều đồng chí khác được sống trong hang đá cùng với Người. Ban ngày, các đồng chí kê một tấm ván gỗ lên một tảng đá để làm việc. Đêm về, bàn làm việc lại biến thành giường nằm. Tuy công việc vẫn rất bộn bề, nhưng ở từng góc độ, từng cách khác nhau, Người đều tìm cách chỉ bảo mọi người. Thượng tướng Chu Văn Tấn kể lại: "Hàng ngày, được sống gần Bác; tôi được nghe Bác kể nhiều chuyện hay như chuyện đội không quân thám hiểm bay qua chóp địa cầu... Đồng chí Phùng Chí Kiên cũng được Bác phân công nói cho tôi nghe về việc vào Bát lộ quân, và các trận đánh Nhật thắng lợi ở Trung Quốc... Mọi nơi, mọi lúc, Bác đều quan tâm giáo dục tôi"8. Cũng tại đây, Bác đã dịch cuốn Lịch sử Đảng Cộng sản (b) Nga ra tiếng Việt để làm tài liệu huấn luyện cho cán bộ ta. Ngoài thời gian làm việc, Người thường đến ngồi bên bờ suối lấy cơm thả xuống cho cá ăn. Vừa xem phong cảnh, vừa tức cảnh làm thơ. Xuân 1941, trong bài "Tức cảnh Pắc Bó", Người viết:

"Sáng ra bờ suối tối vào hang
Cháo bẹ rau măng vẫn sẵn sàng
Bàn đá chông chênh dịch sử Đảng
Cuộc đời cách mạng thật là sang".

Do sớm chiều được cùng Người sống một cuộc sống giản dị, khoa học, đồng chí Phùng Chí Kiên đã học tập ở Người rất nhiều điều. "Sáng sớm, đồng chí dậy tập thể dục đều đặn, sau đó vác bương xuống suối Lênin múc nước đưa về hang để dùng trong ngày. Chiều về, đồng chí lại đi tăng gia, cuốc đất trồng rau"9. Sự cần mẫn, chăm chỉ, cộng với tố chất thông minh của mình, đồng chí đã được Người tin tưởng, phân công phụ trách lớp huấn luyện chính trị cho các đảng viên các tỉnh Cao Bằng, Bắc Kạn và Lạng Sơn. Sau đó đồng chí tiếp tục được Người giao nhiệm vụ cùng với một số đồng chí khác trực tiếp chuẩn bị cho Hội nghị Trung ương 8 của Đảng.

Ngày 10 tháng 5 năm 1941, Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Đông Dương lần thứ 8 đã họp tại khu rừng Khuổi Nậm, Pắc Bó, Hà Quảng, Cao Bằng. Dưới sự chủ trì của lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc, Hội nghị đã bầu ra Ban Chấp hành Trung ương Đảng gồm 9 đồng chí, trong đó có đồng chí Phùng Chí Kiên.

Theo đề nghị của Người, Hội nghị quyết định thành lập Mặt trận Việt Nam độc lập đồng minh, gọi tắt là Mặt trận Việt Minh. Hội nghị quyết định lấy khu vực Bắc Sơn - Võ Nhai làm căn cứ cách mạng, tổ chức đấu tranh vũ trang chính trị. Đồng chí Phùng Chí Kiên được Người và Trung ương Đảng giao nhiệm vụ trực tiếp chỉ đạo khu căn cứ Bắc Sơn - Võ Nhai và Trung đội Cứu quốc quân 1.

Cuối tháng 6 năm 1941, Pháp huy động hàng nghìn quân cùng với lực lượng phản động địa phương mở cuộc càn quét lớn vào Bắc Sơn - Võ Nhai. Do lực lượng của ta còn nhỏ, không đủ sức chống cự, đồng chí đã quyết định chia nhỏ lực lượng, vừa đối phó với địch, vừa tìm cách rút dần về phía Cao Bằng - biên giới Việt - Trung để bảo tồn lực lượng. Sau gần một tháng băng rừng, lội suối, ngày 20 tháng 8 năm 1941, khi đội của đồng chí Phùng Chí Kiên đến xóm Khâu Long, huyện Ngân Sơn thì bị quân địch bao vây bốn phía. Dưới sự chỉ huy của đồng chí, các đội viên đã chiến đấu rất dũng cảm. Nhưng đến ngày 22 tháng 8 năm 1941, đồng chí đã anh dũng hy sinh khi vừa tròn 40 tuổi. Đau xót trước sự hy sinh của người học trò xuất sắc, lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc đã khóc rất nhiều. Trong bài viết "Phùng Chí Kiên - một đảng viên trọn vẹn trung dũng", tác giả M.T.H có ghi: "bốn năm trước Cách mạng tháng Tám, Già Thu (tức Bác Hồ) đã nức nở khóc, khóc rất lâu, rất đau đớn như rứt ruột ra, khi Phùng Chí Kiên đã chết, mà lại là chết thảm, chết chặt đầu, đầu còn bị treo ở đầu cầu cho người địa phương khiếp đảm không dám qua cầu. Trước đó lâu rồi, và về sau này, không lần nào người ta thấy Già Thu khóc thảm thiết như vậy"10.

Từ mảnh đất Nghệ An giàu truyền thống cách mạng, Phùng Chí Kiên đã đi theo con đường cách mạng mà lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc đã chọn. Với tố chất thông minh và tinh thần nhiệt huyết cách mạng, lại được sống và hoạt động cách mạng bên cạnh Người, được Người dìu dắt, hướng dẫn, nên cùng với thời gian, Phùng Chí Kiên đã dần trở thành một nhà chính trị, quân sự, một vị tướng của Quân đội nhân dân Việt Nam và là một trong những lãnh tụ đầu tiên của Đảng. Ghi nhận công lao to lớn của đồng chí đối với cách mạng Việt Nam nói chung, đối với Quân đội nhân dân Việt Nam nói riêng, 62 năm sau kể từ ngày đồng chí hy sinh, tháng 11 năm 2003, Đảng, Chính phủ ra quyết định công nhận đồng chí Phùng Chí Kiên: nguyên Ủy viên Thường vụ Trung ương Đảng (khoá I), cán bộ lãnh đạo quân đội cấp tướng, là liệt sĩ đã anh dũng hy sinh trong chiến đấu.
________________________________________
1. Hồi ký của Hoàng Văn Hoan, in trong Đầu nguồn - Hồi ký về Bác Hồ, Nxb Văn học, Hà Nội, 1975, tr. 98.
2. Dựa theo những tài liệu huấn luyện của Người, Phùng Chí Kiên, Phạm Văn Đồng, Võ Nguyên Giáp đã biên soạn thành bài giảng làm tài liệu huấn luyện cho cán bộ sau khi về nước. Những tài liệu này về sau được xuất bản thành sách với tên gọi "Con đường giải phóng".
3. Võ Nguyên Giáp, Từ Cao Bằng đến Pắc Bó, in trong Đầu nguồn - Hồi ký về Bác Hồ, Nxb Văn Học, Hà Nội, 1975, tr. 50.
4. Đỗ Quang Hưng, Phùng Chí Kiên (1901-1941) - một cán bộ quân sự - chính trị tài ba. Tạp chí Lịch sử quân sự, số 6, 2001, tr. 20.
5. Tiêu biểu như các đồng chí: Lê Quảng Ba, Đàm Quang Trung, Bằng Giang, Hoàng Tô...
6. Trần Dân Tiên, Vừa đi đường vừa kể chuyện, Nxb Sự thật, Hà Nội, 1976, tr. 73.
7. Lê Quảng Ba, "Bác Hồ về nước" in trong Đầu nguồn - Hồi ký về Bác Hồ, Nxb Văn học, Hà Nội, 1975, tr. 197.
8. Chu Văn Tấn, "Một lòng theo Bác", in trong Đầu nguồn - Hồi ký về Bác Hồ, Nxb Văn học, Hà Nội, 1975, tr. 140, 142.
9. Đức Vượng - Nguyễn Đình Nhơn, Những người cộng sản trẻ tuổi, Nxb Thanh niên, Hà Nội, 1987, tr. 155.
10. M.T.H, Phùng Chí Kiên - một đảng viên trọn vẹn trung dũng, Tạp chí Xưa và Nay, số 83, tháng 1 năm 2001, tr. 27.
Logged
chuongxedap
Đại tá
*
Bài viết: 13138



« Trả lời #43 vào lúc: 18 Tháng Mười Hai, 2021, 09:16:38 pm »


MỐI QUAN HỆ GIỮA PHÙNG CHÍ KIÊN VÀ LÊ HỒNG PHONG
TRONG NHỮNG NĂM HOẠT ĐỘNG Ở NƯỚC NGOÀI

Đại tá, TS LÊ VĂN THÁI*


Trong lịch sử cách mạng vẻ vang của Đảng và dân tộc ta, Phùng Chí Kiên và Lê Hồng Phong thuộc lớp đảng viên đầu tiên của Đảng. Hai người quê ở Nghệ An, đều học Trường Quân sự Hoàng Phố (Trung Quốc) và Trường Đại học Phương Đông của Quốc tế Cộng sản ở Mátxcơva (Liên Xô)1. Mối quan hệ giữa hai nhà cách mạng càng thân thiết hơn khi Quốc tế Cộng sản cử Phùng Chí Kiên vừa tốt nghiệp Trường Đại học Phương Đông, về tăng cường cho Ban Chỉ huy ở ngoài của Đảng do Lê Hồng Phong đứng đầu. Từ đây, qua hoạt động lý luận và thực tiễn, Phùng Chí Kiên đã có cống hiến quan trọng vào sự nghiệp cách mạng dưới sự lãnh đạo của Đảng.

Ngay sau khi thành lập, Đảng đã lãnh đạo nhân dân cả nước vùng lên đấu tranh cách mạng sôi nổi. Cao trào cách mạng 1930-1931, mà đỉnh cao là Xô-viết Nghệ Tĩnh, đã làm cho đế quốc Pháp và phong kiến tay sai hoảng sợ. Chúng đã dùng mọi thủ đoạn đàn áp phong trào đấu tranh của nhân dân và hòng tiêu diệt Đảng ta. Trong năm 1930 và năm 1931, hàng chục nghìn cán bộ, đảng viên, chiến sĩ yêu nước Việt Nam bị địch bắt. Nhiều tổ chức Đảng bị đàn áp. Đây là thời kỳ Đảng ta bị thiệt hại nặng nề. Nhiệm vụ cấp bách lúc này là phải tăng cường cán bộ lãnh đạo, củng cố Đảng và khôi phục lại phong trào. Trước tình hình đó, Quốc tế Cộng sản đã cử đồng chí Lê Hồng Phong về lãnh đạo việc khôi phục, phát triển các tổ chức của Đảng để đưa phong trào cách mạng tiến lên.

Thực hiện nhiệm vụ Quốc tế Cộng sản giao, giữa năm 1932, Lê Hồng Phong đến Long Châu (Trung Quốc). Tại đây, Lê Hồng Phong cùng các đồng chí ở ngoài nước đã mở nhiều lớp huấn luyện cán bộ rồi cử về nước hoạt động, cùng với các đảng viên thoát khỏi nhà tù của địch khôi phục tổ chức Đảng và lãnh đạo quần chúng đấu tranh. Với sự nỗ lực hoạt động của nhiều đảng viên trung kiên, Xứ ủy Bắc Kỳ và Xứ ủy Nam Kỳ được tổ chức lại trong năm 1933 và Xứ ủy Trung Kỳ được bầu ra trong năm 1934. Nhiều tỉnh ủy, thành ủy, các tổ chức cơ sở của Đảng Cộng sản Đông Dương ở Lào và Campuchia cũng được xây dựng. Để thống nhất lãnh đạo trong toàn Đảng, tháng 3 năm 1934, Ban Chỉ huy ở ngoài của Đảng được thành lập. Ban gồm ba đồng chí: Lê Hồng Phong (Lítvinốp) là Thư ký, Hà Huy Tập (Xinhítxkin) làm tuyên truyền cổ động (Tổng biên tập Tạp chí Bônsêvích), Nguyễn Văn Dựt (Savan) phụ trách kiểm tra. Ban Chỉ huy ở ngoài của Đảng "giữ vai trò là người lãnh đạo, người tổ chức, sẽ tổ chức lại cơ quan lãnh đạo Trung ương của Đảng Cộng sản Đông Dương"2. Ngoài nhiệm vụ đặc biệt đó, Ban Chỉ huy ở ngoài của Đảng "còn chú ý tới việc thành lập một vài cơ quan liên lạc ở biên giới Tàu và Xiêm để giữ mối liên hệ chặt chẽ với Ban Chấp ủy Trung ương và các xứ ủy"3.

Nhằm tăng cường cho Ban Chỉ huy ở ngoài của Đảng vừa mới thành lập, Quốc tế Cộng sản cử đồng chí Kan (Phùng Chí Kiên) và đồng chí Min (Nguyễn Vĩnh Xuyên)4 về Trung Quốc hoạt động. Tháng 5 năm 1934, Phùng Chí Kiên và Nguyễn Vĩnh Xuyên đến Thượng Hải. Nguyễn Vĩnh Xuyên ở lại đây, còn Phùng Chí Kiên tới Long Châu (Quảng Tây) tìm gặp Lê Hồng Phong. Sau hơn một tháng ở Long Châu chắp nối liên lạc, Phùng Chí Kiên đã gặp Lê Hồng Phong, mở đầu mối quan hệ công tác trong thời kỳ cách mạng còn muôn vàn khó khăn. Về sự kiện này, trong báo cáo gửi Quốc tế Cộng sản nhan đề "Về công tác trong ba năm qua và tình hình Đảng Cộng sản Đông Dương", Lê Hồng Phong đã viết: "Min và Kan đã đến Thượng Hải vào tháng 5 năm 1934. Min ở lại, còn Kan thì tới Long Châu vì nghĩ rằng tôi đang ở đó; vì vậy khi đến Long Châu, đồng chí tìm địa chỉ của tôi. Lúc này cơ quan tạp chí đã đóng cửa (vì địa chỉ này tôi đã báo từ tháng 9 năm 1933 không sử dụng được nữa), do một đồng chí của tôi (một người cộng sản Tàu làm phóng viên cho tờ báo này) đã báo với tôi rằng, người biên tập báo biết có một bức thư được gửi từ Pháp đến và bức thư ấy đã được người biên tập chuyển tới Tổng lãnh sự Pháp ở Long Châu, sau đó bức thư bị chuyển ngược về Pháp...). Đồng chí Kan ở lại Long Châu hơn một tháng. Đồng chí ấy làm quen với những kiều dân An Nam ở Long Châu và tình cờ gặp một đồng chí của chúng tôi. Đồng chí này đã chuyển cho tôi thư của Kan. Sau khi nhận được thư của Kan, tôi đã cho người đi Long Châu để đưa Kan về Ma Cao... Lúc đó, Min còn 330 đôla, chúng tôi dành tiền này cho việc chuẩn bị điện đài. Kan còn 370 đôla chuyển cho Ban Chỉ huy ở ngoài. Ngoài số tiền này chúng tôi còn gần 1.000 đôla Thượng Hải dành cho việc gửi đại biểu và sinh viên tới Trường Đại học Phương Đông"5.
_______________________________________
* Chủ nhiệm Bộ môn Lịch sử Tư tưởng quân sự, Viện Lịch sử quân sự Việt Nam.
1. Lê Hồng Phong (1902-1942) quê ở huyện Hưng Nguyên, Nghệ An. Tốt nghiệp Trường Quân sự Hoàng Phố khoá III (8.1924-12.1925) và Trường Đại học Phương Đông (12.1928-12.1931), sau đó học nghiên cứu sinh (1932). Còn Phùng Chí Kiên (1901-1941), quê ở huyện Diễn Châu, Nghệ An. Tốt nghiệp Trường Quân sự Hoàng Phố khoá V (1927) và Trường Đại học Phương Đông (1931-1933).
2, 3. Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đảng Toàn tập, Tập 5 (1935), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002, tr. 402.
4. Trong "Thư gửi các đồng chí Đông Dương" đề ngày 17 tháng 3 năm 1935, Quốc tế Cộng sản đề nghị "bố trí đồng chí Min làm công việc gì đó ở Lào hoặc Cao Miên".
5. Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đảng Toàn tập, Tập 5 (1935), Sđd, tr. 405-404.
Logged
chuongxedap
Đại tá
*
Bài viết: 13138



« Trả lời #44 vào lúc: 18 Tháng Mười Hai, 2021, 09:26:37 pm »


Thời gian này, tại Ma Cao (Trung Quốc), Ban Chỉ huy ở ngoài của Đảng tổ chức Hội nghị với đại diện các tổ chức Đảng ở trong nước. Hội nghị họp từ ngày 16 đến ngày 21 tháng 6 năm 1934, thảo luận và thông qua các bản Điều lệ của Đảng, Công đoàn, Đoàn thanh niên cộng sản, Nông hội đỏ; ra Nghị quyết chính trịNghị quyết về các vấn đề tổ chức, quyết định lấy các nghị quyết mà Hội nghị vừa thông qua và Chương trình hành động của Đảng (năm 1932) làm tài liệu chính để thảo luận trong các chi bộ nhằm chuẩn bị cho Đại hội lần thứ nhất của Đảng dự kiến họp vào mùa Xuân 1935. Hai ngày sau Hội nghị, Lê Hồng Phong cử Nguyễn Văn Dựt (Savan) về Nam Kỳ với tư cách là đại diện Ban Chỉ huy ở ngoài của Đảng bên cạnh Xứ ủy Nam Kỳ. Để tiến tới Đại hội lần thứ nhất của Đảng công việc chuẩn bị các văn kiện Đại hội được Ban Chỉ huy ở ngoài của Đảng đặc biệt quan tâm. Với tư cách là Thư ký (Bí thư) Ban Chỉ huy ở ngoài của Đảng, Lê Hồng Phong phân công Phùng Chí Kiên tham gia soạn thảo các văn kiện đại hội.

Trong lúc công tác chuẩn bị cho Đại hội Đảng đang được khẩn trương thực hiện, thì tháng 9 năm 1934 Đảng Cộng sản Đông Dương nhận được thông báo của Quốc tế Cộng sản về việc cử đại biểu đi dự Đại hội lần thứ VII Quốc tế Cộng sản1. Nhận được thông báo đó, Ban Chỉ huy ở ngoài của Đảng quyết định cử đoàn đại biểu của Đảng Cộng sản Đông Dương gồm Lê Hồng Phong (Lítvinôp), Nguyễn Thị Minh Khai (Bà Vai) và Hoàng Văn Nọn (Cao Bằng) đi Mátxcơva dự Đại hội Quốc tế Cộng sản. Trong thời gian đồng chí Lê Hồng Phong đi dự Đại hội Quốc tế Cộng sản lần thứ VII, mọi công việc của Ban Chỉ huy ở ngoài của Đảng và công việc chuẩn bị Đại hội Đảng lần thứ nhất do đồng chí Hà Huy Tập, Phùng Chí Kiên và một số đồng chí khác đảm nhiệm. Đáp lại sự tin cậy của đồng chí Thư ký (Bí thư) Lê Hồng Phong, Phùng Chí Kiên cùng Hà Huy Tập và các đồng chí khác đã nỗ lực hoàn thành xuất sắc các nhiệm vụ.

Mùa Xuân 1935, sau khi hệ thống Đảng được khôi phục và công việc dự thảo các báo cáo trình Đại hội Đảng đã hoàn thành; theo kế hoạch từ trước của Ban Chỉ huy ở ngoài của Đảng, đồng chí Hà Huy Tập và Phùng Chí Kiên... quyết định triệu tập Đại hội Đảng lần thứ nhất.

Đại hội Đảng lần thứ nhất họp từ ngày 27 đến ngày 31 tháng 3 năm 1935 tại Ma Cao (Trung Quốc). Tham dự Đại hội có 13 đại biểu (nhiều đại biểu trước đó được lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc trực tiếp đào tạo hoặc gửi vào học các trường quân sự, trong đó có Phùng Chí Kiên), thay mặt cho hơn 600 đảng viên thuộc các Đảng bộ ở trong nước và các tổ chức Đảng đang hoạt động ở nước ngoài. Đại hội đã thảo luận và thông qua nhiều văn kiện (13 nghị quyết và chương trình hành động, 6 bản điều lệ, 1 bản tuyên ngôn, 5 thư gửi Quốc tế Cộng sản và các Đảng anh em)2. Đại hội xác định rõ ba nhiệm vụ chính trước mắt là: củng cố và phát triển Đảng; thâu phục quảng đại quần chúng lao động; chống đế quốc chiến tranh3. Điểm lưu ý là tại Đại hội Đảng, lần đầu tiên, Đảng ta đã thảo luận và thông qua Nghị quyết về Đội tự vệ, xác định những nguyên tắc cơ bản xây dựng lực lượng vũ trang cơ sở. Nghị quyết về Đội tự vệ xác định bản chất cách mạng của Đội tự vệ, nhấn mạnh phải giữ quyền chỉ huy nghiêm ngặt của Đảng trong Tự vệ thường trực, các đảng bộ phải đem đảng viên và đoàn viên cương quyết nhất vào tự vệ và các cấp chỉ huy tự vệ, nhưng cũng lưu ý "như thế không phải là không cho những hội viên thường hăng hái dự cuộc chỉ huy tự vệ". Nghị quyết cũng xác định những vấn đề cơ bản về tổ chức, biên chế, trang bị, huấn luyện cho Đội tự vệ và nhấn mạnh rằng, nhiệm vụ huấn luyện quân sự là rất quan trọng, "nhưng phải chú trọng hơn hết là thâu phục quần chúng theo ảnh hưởng cộng sản"4. Những nguyên tắc cơ bản và hệ thống trong Nghị quyết Đội tự vệ thể hiện rõ quan điểm giai cấp, quan điểm quần chúng và quan điểm thực tiễn của Đảng trong việc xây dựng lực lượng tự vệ; có ý nghĩa quan trọng đối với việc hình thành đường lối quân sự trong thời kỳ Đảng mới thành lập5. Sau những ngày làm việc khẩn trương, thảo luận và thông qua nhiều văn kiện, Đại hội lần thứ nhất bầu ra Ban Chấp hành Trung ương Đảng gồm 13 người, trong đó có Nguyễn Ái Quốc, Lê Hồng Phong, Hà Huy Tập, Phùng Chí Kiên. Ban Chấp hành Trung ương cử ra Ban Thường vụ Trung ương 5 người6, do đồng chí Lê Hồng Phong làm Tổng Thư ký (Tổng Bí thư).

Đại hội Đảng lần thứ nhất đánh dấu sự khôi phục về tổ chức từ Trung ương đến cấp cơ sở của Đảng và ghi nhận công lao to lớn của Hà Huy Tập, Phùng Chí Kiên... trong việc chuẩn bị về mọi mặt để Đại hội thành công tốt đẹp.

Trong thời gian Đại hội Đảng lần thứ nhất, đồng chí Lê Hồng Phong tham dự Đại hội Quốc tế Cộng sản lần thứ VII tại Mátxcơva (Liên Xô). Sau Đại hội Quốc tế Cộng sản, Lê Hồng Phong về Trung Quốc cùng với Hà Huy Tập, Phùng Chí Kiên chỉ đạo các cấp ủy Đảng tiếp tục củng cố, phát triển Đảng. Thời gian này, qua Nguyễn Thị Minh Khai và Hoàng Văn Nọn, lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc nêu mấy ý kiến chuyển đến đồng chí Duy (Lê Hồng Phong): Trung ương Đảng phải chuyển về trong nước để trực tiếp lãnh đạo phong trào cách mạng; lập mặt trận dân chủ rộng rãi chống phát xít, chống chiến tranh đế quốc7.
___________________________________________
1. Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đảng Toàn tập, Tập 5 (1935), Sđd, tr. 480.
2. Số liệu theo Thư của Ban Chỉ huy ở ngoài của Đảng Cộng sản Đông Dương gửi Quốc tế Cộng sản ngày 31 tháng 3 năm 1935 in trong Văn kiện Đảng Toàn tập, Tập 5, Sđd, tr. 193.
3. Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đảng Toàn tập, Tập 5, Sđd, tr. 23.
4. Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đảng Toàn tập, Tập 5, Sđd, tr. 23, 194.
5. Hiện nay chưa có đủ tư liệu để biết rõ đồng chí nào được phân công viết dự thảo lần đầu Nghị quyết về Đội tự vệ, nhưng đều được khẳng định là lúc đó, Lê Hồng Phong và Phùng Chí Kiên là hai người được đào tạo cơ bản trong các trường quân sự. Đồng chí Phùng Chí Kiên tốt nghiệp Trường Quân sự Hoàng Phố, đã từng làm Đại đội trưởng trong quân đội cách mạng Trung Quốc (1927), có lý luận và thực tiễn quân sự.
6. Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đảng Toàn tập, Tập 5, Sđd, tr. 23, 194.
7. Tú Hưu (Hoàng Văn Nọn), Đi họp Quốc tế Cộng sản, Nxb Dân tộc, Việt Bắc, 1964, tr. 9.
Logged
chuongxedap
Đại tá
*
Bài viết: 13138



« Trả lời #45 vào lúc: 18 Tháng Mười Hai, 2021, 09:29:08 pm »


Tháng 7 năm 1936, với tư cách là ủy viên Quốc tế Cộng sản và Tổng Bí thư Ban Chấp hành Trung ương Đảng, đồng chí Lê Hồng Phong triệu tập và chủ trì Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng. Hội nghị bổ sung Nghị quyết Đại hội lần thứ nhất, chỉ đạo chuyển hướng tổ chức và sách lược của Đảng theo tinh thần Nghị quyết Đại hội lần thứ VII Quốc tế Cộng sản. Hội nghị xác định nhiệm vụ trước mắt là chống phát xít, chống chiến tranh đế quốc, chống phản động thuộc địa và tay sai, đòi tự do dân chủ và cơm áo hoà bình. Hội nghị chủ trương thành lập Mặt trận nhân dân phản đế Đông Dương. Nghị quyết Hội nghị khẳng định: Mặt trận nhân dân phản đế "là cuộc liên hợp hết các giai cấp trong toàn dân tộc bị áp bức đặng đấu tranh đòi những quyền lợi hàng ngày cho toàn dân, chống chế độ thuộc địa vô nhân đạo, dự bị điều kiện cho cuộc vận động dân tộc giải phóng được phát triển"1. Để trực tiếp lãnh đạo cách mạng trong nước, Hội nghị quyết định chuyển trụ sở của Ban Chấp hành Trung ương Đảng về Sài Gòn. Đồng chí Lê Hồng Phong được Trung ương Đảng phân công ở lại Thượng Hải để chỉ đạo công tác của Đảng ở ngoài nước; liên lạc và báo cáo tình hình kịp thời với Quốc tế Cộng sản. Sau Hội nghị Trung ương Đảng, tháng 8 năm 1936, Hà Huy Tập, Phùng Chí Kiên và một số đồng chí trong Ban Chấp hành Trung ương Đảng về nước hoạt động. Hơn một năm sau, do yêu cầu mới của cách mạng, Ban Chấp hành Trung ương Đảng cử đồng chí Phùng Chí Kiên làm nhiệm vụ chỉ đạo công tác của Đảng ở ngoài nước và liên lạc với Quốc tế Cộng sản để đồng chí Lê Hồng Phong về nước hoạt động. Đây là sự tin cậy và đánh giá cao của Trung ương Đảng đối với Phùng Chí Kiên về năng lực tổ chức và hoạt động đối ngoại; bởi công tác của Đảng ở ngoài nước lúc đó rất khó khăn, không chỉ đòi hỏi phải có tài năng, sự linh hoạt nhạy bén mà còn phải có uy tín, tạo thuận lợi trong quan hệ với các Đảng Cộng sản anh em cũng như trong liên lạc với Quốc tế Cộng sản.

Thực hiện sự phân công của Trung ương Đảng, cuối tháng 10 năm 1937, Phùng Chí Kiên rời Sài Gòn đến Hồng Kông (Trung Quốc). Sau khi gặp và trao đổi kinh nghiệm công tác với người đồng chí thân thiết Phùng Chí Kiên, tháng 11 năm 1937, với thẻ căn cước lấy tên là La Anh trong vai một thương gia Trung Quốc giàu có, Lê Hồng Phong về Sài Gòn cùng Trung ương Đảng trực tiếp lãnh đạo cách mạng, tiếp tục có nhiều cống hiến to lớn cho Đảng và nhân dân cho đến khi bị địch bắt và anh dũng hy sinh tại nhà tù Côn Đảo (6.9.1942). Còn Phùng Chí Kiên ở Trung Quốc tiếp tục thực hiện các nhiệm vụ mà trước đó Lê Hồng Phong đảm nhiệm. Ngày 15 tháng 11 năm 1937, thay mặt Trung ương Đảng Cộng sản Đông Dương tại Trung Quốc, Phùng Chí Kiên đã viết thư gửi Quốc tế Cộng sản đề xuất ý kiến giao cho đảng Tàu liên lạc trực tiếp với đảng Xiêm, "cho chúng tôi chính thức liên lạc với đảng Tàu", những chỉ thị, tài liệu cho "Đảng chúng tôi cũng có thể gửi qua Trung ương đảng Tàu đưa về Nam ủy chuyển". Trong thư, Phùng Chí Kiên còn giải thích thêm là "Bản chữ Tàu" (thư ngày 10.7) là báo cáo của đảng Xiêm và kết luận của chúng tôi trong cuộc nói chuyện với Nam ủy của đảng Tàu và đại diện đảng Xiêm2. Bằng nỗ lực hoạt động của mình, Phùng Chí Kiên đã có những đóng góp xuất sắc trong việc duy trì mối quan hệ với các đảng anh em và Quốc tế Cộng sản. Thời gian này, tình hình thế giới có nhiều biến đổi sâu sắc; loài người đứng trước ngưỡng cửa cuộc Chiến tranh thế giới lần thứ hai. Cuối năm 1938, Nguyễn Ái Quốc rời Liên Xô tới Diên An3 rồi từ đó đi cùng một đơn vị Hồng quân công nông Trung Quốc xuống phía Nam công tác. Vừa hoạt động trong Tập đoàn 18 Bát Lộ quân, Nguyễn Ái Quốc vừa tìm cách bắt liên lạc với Trung ương Đảng ta. Khoảng giữa năm 1940, lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc đã liên lạc được với Phùng Chí Kiên, Vũ Anh, Cao Hồng Lĩnh, Đặng Văn Cáp... và Phạm Văn Đồng, Võ Nguyên Giáp vừa được Trung ương ở trong nước cử ra nước ngoài đang hoạt động ở Côn Minh4. Đầu tháng 1 năm 1941, Nguyễn Ái Quốc cùng Phùng Chí Kiên, Phạm Văn Đồng, Võ Nguyên Giáp, Đặng Văn Cáp đi theo con đường Long Lâm qua Nậm Bo xuống Nậm Quang, do Hoàng Sâm dẫn đường. Tại Nậm Quang, Nguyễn Ái Quốc mở một lớp huấn luyện ngắn ngày cho hơn 40 thanh niên thành cán bộ để trở về Cao Bằng hoạt động. Kết thúc khoá huấn luyện, lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc cùng Phùng Chí Kiên, Trưởng ban cán sự của Đảng ở nước ngoài5 và Lê Quảng Ba, Đặng Văn Cáp, Hoàng Văn Lộc lên đường trở về Tổ quốc. Về nước hoạt động, Phùng Chí Kiên được lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc và Trung ương Đảng giao nhiệm vụ công tác quân sự. Tại Hội nghị Trung ương lần thứ 8 (5.1941), Phùng Chí Kiên được bầu vào Ban Chấp hành Trung ương Đảng, được Trung ương Đảng giao trực tiếp chỉ đạo khu căn cứ Bắc Sơn - Võ Nhai và Trung đội Cứu quốc quân 1. Thực hiện nhiệm vụ Đảng phân công, Phùng Chí Kiên đã nỗ lực hoạt động cống hiến cho cách mạng trong thời kỳ mới. Đồng chí đã hy sinh ở Khau Pàn, xã Bằng Đức, châu Ngân Sơn (Bắc Kạn) ngày 22 tháng 8 năm 19416, khi đang làm nhiệm vụ.

Như vậy, trong quá trình hoạt động cách mạng ở nước ngoài, Phùng Chí Kiên đã có một thời gian công tác cùng Lê Hồng Phong. Từ mối quan hệ đồng chí tốt đẹp giữa hai người, Phùng Chí Kiên nỗ lực hoạt động, có nhiều cống hiến cho sự nghiệp cách mạng của Đảng và dân tộc. Tên tuổi và sự nghiệp của Phùng Chí Kiên, tấm gương về ý chí cách mạng, xả thân chiến đấu hy sinh của đồng chí và của các bậc cách mạng tiền bối được Đảng và nhân dân ghi nhận và tôn vinh.
____________________________________________
1. Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đảng Toàn tập, Tập 5 (1935), Sđd, tr. 151.
2. Dẫn theo Tạp chí Lịch sử quân sự, số 6, 2001, tr. 20.
3. T. Lan, Vừa đi đường vừa kể chuyện, Nxb Sự thật, Hà Nội, 1976, tr. 62.
4. Lê Thiết Hùng, Tôi được làm người học trò nhỏ của Bác, Tạp chí Lịch sử quân sự, số 11, 1986, tr. 74.
5. Viện Lịch sử quân sự Việt Nam, Sự nghiệp, tư tưởng quân sự Hồ Chí Minh, Nxb Quân đội nhân dân, Hà Nội, 2002, tr. 42.
6. Viện Lịch sử quân sự Việt Nam, Lịch sử các đội quân tiền thân Quân đội nhân dân Việt Nam, Nxb Quân đội nhân dân, Hà Nội, 2004, tr 156.
Logged
chuongxedap
Đại tá
*
Bài viết: 13138



« Trả lời #46 vào lúc: 19 Tháng Mười Hai, 2021, 10:55:09 pm »


VAI TRÒ, CỐNG HIẾN CỦA ĐỒNG CHÍ PHÙNG CHÍ KIÊN
TRONG HOẠT ĐỘNG QUÂN SỰ, CHỈ ĐẠO XÂY DỰNG CĂN CỨ ĐỊA CÁCH MẠNG
VÀ ĐỘI CỨU QUỐC QUÂN 1

Đại tá, ThS NGUYỄN VĂN QUANG*

Trong lịch sử đấu tranh dựng nước và giữ nước oanh liệt của dân tộc ta đã xuất hiện nhiều nhà quân sự, tướng lĩnh tài ba xuất chúng. Đặc biệt, từ khi có Đảng ra đời và lãnh đạo cuộc chiến tranh cách mạng giải phóng dân tộc, nhiều nhà quân sự tài thao lược đã xuất hiện và khẳng định tài năng. Một trong những vị tiền bối cách mạng và sớm trở thành nhà lãnh đạo quân sự tài năng của Đảng - đó là đồng chí Phùng Chí Kiên. Cuộc đời hoạt động cách mạng và tham gia lãnh đạo quân sự của đồng chí tuy ngắn ngủi nhưng hết sức sinh động, oanh liệt và để lại nhiều bài học kinh nghiệm quý giá.

1. Lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc phát hiện, bồi dưỡng và đào tạo nhà chính trị - quân sự Phùng Chí Kiên.

Nguyễn Vĩ, tên khai sinh của Phùng Chí Kiên, sinh ngày 18 tháng 5 năm 19011 tại làng Mỹ Quan Thượng, tổng Vạn Phần, nay là xã Diễn Yên, huyện Diễn Châu, tỉnh Nghệ An trong một gia đình nông dân. Kinh tế của gia đình tuy khó khăn nhưng cha mẹ vẫn cố dành dụm để Vĩ được đến trường và học xong trình độ sơ học. Vốn tính thông minh, lại được thầy giáo làng có lòng yêu nước dạy dỗ, Vĩ đã sớm nhận thức được những bất công trong xã hội và quyết nung nấu tìm chí hướng cứu dân, cứu nước. Mới 15 tuổi (1916) anh đã bỏ bút nghiên để dấn thân vào đời, theo bạn bầu vào làm thuê ở nhà máy xe lửa Tràng Thi, sau đó về làm thư ký cho một thương nhân ở ga Yên Lý. Đây là bước khởi đầu quan trọng để Nguyễn Vĩ được tiếp xúc với đời sống và phong trào đấu tranh của giai cấp công nhân Việt Nam non trẻ. Thời gian này Tổng bộ Việt Nam thanh niên đồng chí hội - một tổ chức cách mạng do lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc sáng lập ở Quảng Châu (Trung Quốc) cử người về gây cơ sở ở Nghệ Tĩnh nhằm tìm kiếm và vận động những thanh niên ưu tú đưa ra nước ngoài hoạt động và học tập. Đầu năm 1926, Nguyễn Vĩ cùng với nhiều thanh niên ưu tú khác như Lê Mậu, Lê Nhu, Nguyễn Phong Hanh, được bí mật đưa sang Xiêm (Thái Lan) và sau đó đến Quảng Châu (Trung Quốc) - một trong những trung tâm cách mạng của châu Á lúc bấy giờ2.

Vào những năm 1924-1925, khi về hoạt động ở Quảng Châu, cùng với việc thành lập tổ chức Việt Nam thanh niên cách mạng đồng chí hội, với tầm nhìn chiến lược, Nguyễn Ái Quốc đã mở nhiều lớp huấn luyện chính trị đào tạo cán bộ cách mạng để tiến tới thành lập một chính đảng của giai cấp công nhân Việt Nam. Qua tổ chức giới thiệu, Phùng Chí Kiên được gặp lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc - một người mà ngay từ trong nước anh đã hằng ngưỡng mộ và kính trọng. Qua các bài giảng lớp huấn luyện chính trị do Nguyễn Ái Quốc trực tiếp biên soạn và lên lớp, Phùng Chí Kiên đã hiểu ra được nhiều khái niệm mới mẻ như cách mạng vô sản, Đảng mác-xít, vai trò và địa vị của giai cấp công nhân, vấn đề bạo lực cách mạng, con đường giải phóng dân tộc, vấn đề xây dựng lực lượng vũ trang và chuẩn bị đội ngũ cán bộ quân sự của Đảng cách mạng v.v... Với tố chất thông minh, nhạy cảm trong tiếp thu bài giảng và thảo luận các vấn đề đặt ra, Phùng Chí Kiên đã gây được những ấn tượng mạnh mẽ đối với Nguyễn Ái Quốc. Chính vì vậy, sau khi học xong lớp huấn luyện chính trị, Phùng Chí Kiên đã được Nguyễn Ái Quốc giới thiệu sang học ở Trường Quân sự Hoàng Phố (khoá V) - một trường quân sự nổi tiếng do Liên Xô giúp đỡ tổ chức cho lực lượng của Tôn Trung Sơn3. Trong thời gian học ở Trường Quân sự Hoàng Phố với bí danh Mạnh Văn Liễu, anh đã tích cực học giỏi tiếng Trung Quốc để có thể nắm bắt được các kiến thức bài giảng về quân sự của nhà trường, đồng thời tự nghiên cứu được các tác phẩm kinh điển về quân sự như "Binh pháp Tôn Tử"... Do sự phản bội của Tưởng Giới Thạch, Trường Quân sự Hoàng Phố đóng cửa, năm 1929 nhận chỉ thị của An Nam Cộng sản Đảng, Mạnh Văn Liễu bí mật rời khỏi trường Hoàng Phố4 và gia nhập Hồng quân Trung Quốc, cùng quân cách mạng rút về xây dựng khu Xô-viết ở hai huyện Hải Phong và Lục Phong thuộc tỉnh Quảng Châu.

Theo bản lý lịch tự khai (trong hồ sơ của Quốc tế Cộng sản) với tài năng chỉ huy quân sự của mình, Mạnh Văn Liễu được kết nạp vào Đảng Cộng sản Trung Quốc (12.1929), tiếp đó được bổ nhiệm các chức vụ Đại đội trưởng trong Trường Quân chính Hồng quân Trung Quốc, Trung đoàn trưởng Trung đoàn 4 Hồng quân Đông Giang (thời kỳ Lý Lập Tam). Trong thời gian công tác và chiến đấu trong Hồng quân Trung Quốc, Phùng Chí Kiên đã chỉ huy Trung đoàn 4 tham gia hàng chục trận đánh chống lại quân đội Tưởng Giới Thạch và bọn quân phiệt Nhật, nhiều lần đồng chí bị thương. Đây chính là thời kỳ Phùng Chí Kiên tích luỹ được nhiều kinh nghiệm trong tổ chức xây dựng đơn vị quân đội, chỉ huy trận mạc và các chiến thuật tác chiến của quân đội cách mạng Trung Quốc5.

Trong bước đường hoạt động cách mạng, chiến đấu và trưởng thành của nhà quân sự Phùng Chí Kiên, lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc luôn dõi theo chặt chẽ và thông qua các tổ chức của Quốc tế Cộng sản, Người yêu cầu giúp đỡ các nhà cách mạng trẻ tuổi Việt Nam. Tháng 12 năm 1930, theo chỉ thị của Đảng Cộng sản Đông Dương, Phùng Chí Kiên rời quân đội Trung Quốc, trở về Hồng Kông gặp lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc để nhận nhiệm vụ mới. Tại đây Phùng Chí Kiên đã được kết nạp vào Đảng Cộng sản Đông Dương, đồng thời theo giới thiệu của Nguyễn Ái Quốc với Quốc tế Cộng sản, Phùng Chí Kiên cùng Trần Văn Điềm và Trương Phước Đạt được cử sang đào tạo tại Trường Đại học Phương Đông của Quốc tế Cộng sản. Nhưng không may, trên đường đi cả ba người đều bị bắt giam gần 10 tháng. Sau khi được trả tự do Phùng Chí Kiên cùng các đồng chí của mình sang học tại Trường Đại học Phương Đông (khoá 1932-1934) với bí danh Kan.

Trong thời gian học tại Đại học Phương Đông, ngoài các kiến thức chung về lý luận cách mạng, phương pháp hoạt động, đấu tranh, Phùng Chí Kiên còn được đào tạo một khoá đặc biệt về mật mã quân sự và sử dụng vô tuyến điện. Đây là một môn học rất khó đòi hỏi người học phải có một kiến thức cao về toán - vật lý mới tiếp thu được. Với trí thông minh và quyết tâm cao độ, Phùng Chí Kiên đã tự học thêm môn toán, vật lý để có thể nhanh chóng nắm bắt được kỹ thuật mật mã và sử dụng thành thạo vô tuyến điện. Anh còn tích cực học giỏi tiếng Nga để tự đọc và nghiên cứu các tác phẩm kinh điển (bằng tiếng Nga) bàn về chiến tranh và quân đội của Claudơvít, Mác - Ăngghen, Lênin, Xtalin, về nghệ thuật quân sự Xô-viết v.v...

Với sự phát hiện, bồi dưỡng của lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc, giới thiệu nhà cách mạng trẻ tuổi Phùng Chí Kiên đi đào tạo tại các trường quân sự và trường đại học cách mạng nổi tiếng, đồng thời thông qua thực tiễn hoạt động cách mạng, tham gia chỉ huy chiến đấu trong quân đội Trung Quốc, Phùng Chí Kiên đã thực sự trở thành một cán bộ lãnh đạo chính trị - quân sự vững vàng và đầy triển vọng của cách mạng Việt Nam. Chính vì vậy, đầu năm 1941, khi trở về nước để trực tiếp lãnh đạo cách mạng Việt Nam chuẩn bị giành độc lập dân tộc, lãnh tụ Hồ Chí Minh đã tin tưởng và giao Phùng Chí Kiên nhiều trọng trách lớn như phụ trách công tác quân sự của Đảng, chỉ đạo xây dựng lực lượng vũ trang và chiến khu cách mạng.
_____________________________________
* Phó trưởng phòng Quản lý Khoa học, Viện lịch sử quân sự Việt Nam.
1. Có tài liệu ghi sinh năm 1904 hoặc 1905.
2. Lịch sử Đảng bộ và nhân dân xã Diễn Yên 1930-2007, Nxb Văn hoá - Thông tin, Hà Nội, 2007, tr. 45.
3. Nguyễn Ái Quốc đã cử hàng chục cán bộ Việt Nam vào học Trường Quân sự Hoàng Phố lớp đầu tiên như Lê Hồng Phong, Trịnh Đình Cửu, Lê Hồng Sơn, Trương Văn Lĩnh, Lê Thiết Hùng. Các lớp tiếp theo như: Lâm Bá Kiệt (Phạm Văn Đồng), Dương Hoài Nam (Võ Nguyên Giáp), Lê Quảng Ba v.v...
4, 5. A. Xôcôlốp, Quốc tế Cộng sản và Việt Nam, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1999, tr. 246, 247.
Logged
chuongxedap
Đại tá
*
Bài viết: 13138



« Trả lời #47 vào lúc: 19 Tháng Mười Hai, 2021, 10:57:04 pm »


2. Người Tổng chỉ huy khu căn cứ Bắc Sơn và Chỉ huy trưởng Đội Cứu quốc quân 1.

Vào đầu năm 1940, tình hình thế giới và trong nước có nhiều chuyển biến lớn có lợi cho cách mạng Việt Nam. Nguyễn Ái Quốc quyết định chuẩn bị trở về nước để trực tiếp lãnh đạo cách mạng Việt Nam. Để chuẩn bị và tăng cường cho việc xây dựng cơ sở cách mạng ở trong nước, Nguyễn Ái Quốc gấp rút tổ chức huấn luyện đội ngũ cán bộ cốt cán đang hoạt động ở Quảng Tây để đưa về Cao Bằng và các vùng chiến khu cách mạng khác. Theo hồi ức của Đại tướng Võ Nguyên Giáp, nhiệm vụ tổ chức huấn luyện cán bộ chính trị, quân sự của Đảng lúc này được lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc giao cho đồng chí Phùng Chí Kiên trực tiếp phụ trách, cùng với các đồng chí Phạm Văn Đồng, Võ Nguyên Giáp, Vũ Anh1... chịu trách nhiệm nghiên cứu biên soạn các bài giảng về đường lối chính trị, quân sự, xây dựng lực lượng vũ trang và chiến khu cách mạng, đồng thời trực tiếp lên lớp cho cán bộ. Các bài giảng về chính trị, quân sự do Phùng Chí Kiên phụ trách biên soạn và giảng dạy đã góp phần trang bị, bồi dưỡng những kiến thức cơ bản cho trên 40 cán bộ cốt cán về nước hoạt động và phát huy hiệu quả. Các bài giảng này sau đó được tập hợp xuất bản thành cuốn sách "Con đường giải phóng" đã trở thành cẩm nang quý báu cho nhiều thế hệ cán bộ lãnh đạo, chỉ huy học tập, vận dụng. Với kinh nghiệm dày dặn những năm học tập, hoạt động tại Trung Quốc và tham gia chiến đấu trong đội ngũ quân giải phóng Trung Quốc chống phát xít Nhật và quân đội Tưởng Giới Thạch, Phùng Chí Kiên đã biên soạn thành tài liệu "Về chiến tranh chống Nhật của nhân dân Trung Quốc" để huấn luyện cán bộ lãnh đạo chỉ huy quân sự của Đảng. Rất tiếc các trước tác quý giá này của đồng chí Phùng Chí Kiên do điều kiện lịch sử đã bị thất lạc đến nay chưa tìm lại được song vẫn còn in đậm trong tâm khảm và trí nhớ của nhiều lớp cán bộ lãnh đạo, chỉ huy quân sự tiền bối của Đảng ta.

Sau gần 30 năm hoạt động ở nước ngoài, ngày 28 tháng 1 năm 1941 lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc trở về nước trực tiếp chỉ đạo xây dựng lực lượng vũ trang, tổ chức đoàn thể cứu quốc, xây dựng căn cứ địa cách mạng, chuẩn bị mọi mặt cho Hội nghị Trung ương lần thứ 8 ở Cao Bằng nhằm chuyển hướng chiến lược của Đảng, tiến tới khởi nghĩa vũ trang giành chính quyền.

Qua một thời gian chuẩn bị, từ ngày 10 đến ngày 19 tháng 5 năm 1941 tại Pắc Bó (Cao Bằng), Hội nghị Trung ương lần thứ 8 do Nguyễn Ái Quốc chủ trì đã ra Nghị quyết thành lập Mặt trận Việt Nam Đồng minh hội (gọi tắt là Việt Minh), về nhiệm vụ quân sự, Hội nghị quyết định xây dựng những tổ chức tiểu tổ du kích, du kích chính thức và ra nghị định: "Điều lệ của Việt Nam tiểu tổ du kích cứu quốc"2 - một tổ chức rộng rãi của quần chúng nhân dân có khả năng tiến hành chiến tranh du kích và bảo vệ cơ quan Trung ương Đảng.

Căn cứ vào tình hình ở vùng Bắc Sơn - Võ Nhai và Cao Bằng là những chiến khu cách mạng được xây dựng từ nhiều năm nay, lại đang có đội du kích tập trung của Đảng hoạt động, được Nguyễn Ái Quốc chọn làm nơi thí điểm xây dựng những cơ sở Việt Minh đầu tiên của Đảng. Đối với khu căn cứ Bắc Sơn, Hội nghị quyết định giao cho Ban Thường vụ Trung ương Đảng trực tiếp chỉ đạo xây dựng căn cứ và phát triển lực lượng du kích, đồng thời cử đồng chí Phùng Chí Kiên - Ủy viên Trung ương Đảng làm Tổng chỉ huy khu căn cứ Bắc Sơn và Chỉ huy trưởng Đội du kích Bắc Sơn3.

Thực hiện Nghị quyết Trung ương 8, tháng 7 năm 1941, đồng chí Phùng Chí Kiên cùng nhiều cán bộ cao cấp của Đảng từ Cao Bằng được tăng cường về cho Bắc Sơn đã về tới Lân Táy (xã Hữu Vinh) an toàn. Trong hơn nửa tháng ở Lân Táy, các đồng chí Thường vụ Trung ương cùng đồng chí Phùng Chí Kiên đã có nhiều buổi làm việc với Ban chỉ huy Đội du kích Bắc Sơn để nắm tình hình mọi mặt và truyền đạt Nghị quyết của Đảng về việc xây dựng khu căn cứ Bắc Sơn, đồng thời nêu chủ trương tiếp tục củng cố, phát triển đội du kích lên một trình độ mới nhằm đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ cách mạng trong giai đoạn mới. Tại đây, đồng chí Trường Chinh - Tổng Bí thư thay mặt Trung ương Đảng đã quán triệt Nghị quyết Hội nghị Trung ương 8 cho toàn thể cán bộ, chiến sĩ Đội du kích, đồng thời tuyên bố đổi tên Đội du kích Bắc Sơn thành Đội Cứu quốc quân Bắc Sơn do đồng chí Phùng Chí Kiên làm Chỉ huy trưởng, đồng chí Lương Văn Tri, Ủy viên Thường vụ Xứ ủy Bắc Kỳ, làm Chính trị viên4. Đây chính là Trung đội Cứu quốc quân 1 - một trong những đơn vị tiền thân đầu tiên của Quân đội nhân dân Việt Nam.

Ngay sau khi nhận nhiệm vụ mới, đồng chí Phùng Chí Kiên đã tích cực bắt tay vào xây dựng, củng cố lại các cơ sở cách mạng ở căn cứ Bắc Sơn, phát triển các tổ chức Đảng và đoàn thể cách mạng như công nhân cứu quốc, nông dân cứu quốc, thanh niên cứu quốc, phụ nữ cứu quốc, thành lập các tổ đội tuyên truyền đi vận động và giác ngộ quần chúng, đồng thời tổ chức được một số lớp huấn luyện chính trị, quân sự ngắn ngày về Chương trình Việt Minh cho các tổ chức cách mạng ở châu Bắc Sơn. Tại căn cứ Bắc Sơn - Võ Nhai, mặc dù địch đàn áp, khủng bố gắt gao, nhưng Đội Cứu quốc quân 1 dưới sự lãnh đạo chỉ huy của đồng chí Phùng Chí Kiên vẫn kiên cường bám trụ vào dân, được nhân dân các dân tộc nuôi dưỡng, che giấu đã không ngừng phát triển về mọi mặt, cả về tổ chức, trang bị và trình độ chiến thuật. Một số cán bộ chính trị, quân sự do Đảng đào tạo cùng một số vũ khí thu được của địch đã được tăng cường bổ sung cho Đội Cứu quốc quân 1.

Toàn Trung đội Cứu quốc quân 1 (từ 32 người khi mới thành lập) tăng lên 37 người, được biên chế thành 3 tiểu đội do các đồng chí Dương Thuần Tần, Hoàng Đình Ruệ, Hà Khai Lạc làm tiểu đội trưởng. Vũ khí của Trung đội Cứu quốc quân trước đây chỉ có 5 súng trường, đã tăng lên 15 súng trường, súng kíp cùng một số lựu đạn, dao găm, giáo mác, gậy gộc. Mặc dù trang bị còn hết sức thô sơ thiếu thốn, lương thực tự túc và chủ yếu dựa vào dân, nhưng tinh thần của các đội viên đều hết sức phấn khởi, hăng hái, một lòng quyết tâm đi theo cách mạng, tuyệt đối trung thành với Trung ương Đảng. Dưới sự lãnh đạo chỉ huy của đồng chí Phùng Chí Kiên và các cán bộ cốt cán của Đảng, Đội Cứu quốc quân 1 đã không ngừng lớn mạnh về nhiều mặt, trở thành nòng cốt quan trọng để xây dựng và bảo vệ khu căn cứ Bắc Sơn, đồng thời làm cơ sở tiếp tục xây dựng và phát triển các tổ đội tự vệ, du kích tại các địa phương khác trong vùng. Đội Cứu quốc quân 1 đã tổ chức đánh một số đồn nhỏ lẻ, tiêu diệt địch, thu vũ khí, đồng thời tổ chức tiễu trừ một số tên tay sai việt gian phản động trong bộ máy cai trị của địch làm cho nhân dân hết sức phấn khởi, tin tưởng ở cách mạng. Đặc biệt, Đội Cứu quốc quân 1 đã bảo vệ an toàn các đồng chí Trung ương và cán bộ phụ trách các khu vực và địa phương về dự cuộc họp quán triệt Hội nghị Trung ương 8 do Ban Thường vụ Trung ương Đảng triệu tập tại Khuổi Cườm (xã Tân Lập) và sau đó trở về địa phương an toàn.

Giữa lúc phong trào cách mạng ở Bắc Sơn đang phát triển mạnh làm cho thực dân Pháp hết sức lo sợ, vào trung tuần tháng 7 năm 1941, chúng đã tập trung một lực lượng hơn 4.000 quân mở cuộc càn quét lớn vào khu căn cứ Bắc Sơn - Võ Nhai nhằm tiêu diệt cơ quan đầu não Trung ương Đảng và các lực lượng vũ trang cách mạng non trẻ. Trước sức mạnh gấp nhiều lần của kẻ thù, đồng chí Phùng Chí Kiên vẫn bình tĩnh, mưu trí chỉ huy Đội Cứu quốc quân 1 và các tổ du kích, tự vệ trong chiến khu chiến đấu ngoan cường, tiêu diệt địch, đẩy lùi một số cuộc càn quét của địch, bảo vệ an toàn cho các đồng chí Ủy viên Trung ương và cán bộ cốt cán thoát khỏi vòng vây của địch. Nhưng do lực lượng quá chênh lệnh, để bảo toàn đội vũ trang non trẻ, Ban chỉ huy Cứu quốc quân 1 đã quyết định rút các tiểu đội Cứu quốc quân về căn cứ mới. Một cánh quân do đồng chí Hoàng Văn Thái chỉ huy đã rút sang biên giới Việt - Trung an toàn. Cánh thứ hai do đồng chí Phùng Chí Kiên và Lương Văn Tri chỉ huy, ngày 21 tháng 8 năm 1941, khi về đến Khau Pàn (Ngân Sơn - Bắc Kạn) thì bị địch phục kích, chặn đánh quyết liệt. Do bị trọng thương, đồng chí Phùng Chí Kiên đã tình nguyện trụ lại bắn chặn địch, tạo điều kiện cho các đội viên Cứu quốc quân chạy thoát và đồng chí đã hy sinh anh dũng.

Đồng chí ngã xuống khi tuổi đời còn rất trẻ, một trí tuệ lãnh đạo của Đảng đang độ sung sức chín muồi và hứa hẹn một tài năng chính trị - quân sự đầy triển vọng. Đây là một tổn thất lớn của cách mạng nói chung, của lực lượng vũ trang nói riêng.
______________________________________
1. Đại tướng Võ Nguyên Giáp, Tổng tập Hồi ký, Nxb Quân đội nhân dân, Hà Nội, 2006, tr. 25, 26.
2. Văn kiện Đảng 1930-1945, Tập 3, Ban Nghiên cứu Lịch sử Đảng Trung ương xuất bản, Hà Nội, 1978, tr. 224.
3, 4. Bộ Quốc phòng - Viện Lịch sử quân sự Việt Nam, Lịch sử các đội quân tiền thân Quân đội nhân dân Việt Nam, Nxb Quân đội nhân dân, Hà Nội, 2004, tr. 146, 149.
Logged
chuongxedap
Đại tá
*
Bài viết: 13138



« Trả lời #48 vào lúc: 19 Tháng Mười Hai, 2021, 10:59:11 pm »


3. Một số kinh nghiệm chỉ đạo công tác quân sự và xây dựng lực lượng vũ trang cách mạng của Phùng Chí Kiên.

Do hoàn cảnh lịch sử, cách mạng đang ở thời kỳ trứng nước, phần nhiều là phải hoạt động trong điều kiện bí mật, công tác lưu giữ gặp nhiều khó khăn, vì vậy nhiều bài viết, tài liệu huấn luyện, giảng dạy, trước tác chỉ đạo của đồng chí Phùng Chí Kiên hầu hết đều bị thất lạc, mất mát chưa tìm lại được. Những gì lưu lại hiện nay là rất ít ỏi. Tuy nhiên, qua trí nhớ, hồi ký của các nhà tiền bối cách mạng hoạt động cùng thời với Phùng Chí Kiên, qua các văn kiện, nghị quyết và tài liệu chỉ đạo khác của Đảng mà đồng chí tham gia soạn thảo, đặc biệt qua thực tiễn hoạt động cách mạng, chỉ đạo công tác quân sự của đồng chí có thể rút ra một số kinh nghiệm chỉ đạo xây dựng Chiến khu cách mạng và lực lượng vũ trang của Phùng Chí Kiên gồm các vấn đề sau đây:

Thứ nhất: Xây dựng lực lượng vũ trang trước hết phải xây dựng về tổ chức, công tác đào tạo huấn luyện con người, cán bộ phụ trách phải đi trước một bước.

Là một người học trò xuất sắc của lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh, được Người dìu dắt và có nhiều thời gian gần gũi bên Người, Phùng Chí Kiên đã thấm nhuần và vận dụng nhuần nhuyễn các nguyên tắc, quan điểm chỉ đạo của Hồ Chí Minh về xây dựng lực lượng vũ trang và chiến tranh cách mạng vào điều kiện thực tiễn. Phùng Chí Kiên hiểu rõ rằng muốn cứu nước, giải phóng dân tộc, phải dùng bạo lực cách mạng chống lại bạo lực phản cách mạng - tức phải xây dựng được lực lượng vũ trang cách mạng đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng. Để xây dựng được lực lượng vũ trang, trước hết phải chăm lo xây dựng về tổ chức: đó là phải xây dựng được những tổ chức mạnh, hoạt động có nguyên tắc, có kỷ luật chặt chẽ với những con người chỉ huy, phụ trách có trình độ cách mạng vững vàng, có kinh nghiệm và tri thức quân sự. Từ quan điểm chỉ đạo này, trước khi về nước Hồ Chí Minh đã giao nhiệm vụ cho Phùng Chí Kiên nghiên cứu và soạn thảo các nguyên tắc về xây dựng tổ chức vũ trang, đồng thời tổ chức đào tạo, huấn luyện gấp đội ngũ cán bộ quân sự - đặt cơ sở cho việc xây dựng các lực lượng vũ trang cách mạng trong thời kỳ chuẩn bị Tổng khởi nghĩa. Những ý tưởng phác thảo về nguyên tắc tổ chức lực lượng vũ trang của Phùng Chí Kiên sau đó đã trở thành những cơ sở quan trọng để Hội nghị Trung ương 8 (5.1941) ra Nghị định: "Điều lệ của Việt Nam tiểu tổ du kích cứu quốc”. Bản điều lệ quy định về mục đích, phương pháp tổ chức, điều lệ kết nạp đội viên, trách nhiệm, tập luyện, vũ khí, kỹ thuật của tiểu tổ du kích cứu quốc1.

Cùng với việc xây dựng các tổ chức vũ trang, Phùng Chí Kiên đặc biệt coi trọng việc huấn luyện đào tạo cán bộ phụ trách quân sự. Trong đào tạo huấn luyện cán bộ quân sự đặc biệt chú trọng giáo dục về chính trị tư tưởng, làm cho cán bộ thấm nhuần được mục tiêu, lý tưởng cách mạng, tuyệt đối trung thành với Đảng, với nhân dân, chiến đấu vì lợi ích của giai cấp công nhân và nhân dân lao động.

Về việc lựa chọn cán bộ quân sự, bổ sung kết nạp đội viên mới, Phùng Chí Kiên đã chỉ đạo các cơ sở phải lựa chọn những người ưu tú trong các đội tự vệ, du kích, những quần chúng tích cực, nhất là con em của người lao động, nông dân, trí thức cách mạng, đồng bào các dân tộc để đào tạo, huấn luyện đưa vào đội vũ trang.

Thứ hai: Trong quá trình xây dựng, chiến đấu và phát triển, lực lượng vũ trang cách mạng phải dựa chắc vào nhân dân, vì nhân dân mà chiến đấu, bảo vệ.

Dựa vào nhân dân để xây dựng, chiến đấu, tồn tại và phát triển là nguyên tắc mang tính sống còn của lực lượng vũ trang cách mạng. Ngay từ khi nhận nhiệm vụ chỉ huy Đội Cứu quốc quân 1, Phùng Chí Kiên đã luôn nhắc nhở và quán triệt cán bộ, chiến sĩ trong toàn đội phải tuyệt đối chấp hành nghiêm kỷ luật quân dân, tuyệt đối tôn trọng và bảo vệ nhân dân, làm tốt công tác dân vận, ra sức giúp đỡ nhân dân, đồng cam cộng khổ với đồng bào các dân tộc. Ở Bắc Sơn, trong điều kiện bị địch luôn truy lùng, khủng bố, đàn áp gắt gao nhưng nhờ thấu suốt quan điểm dựa vào nhân dân để chiến đấu và xây dựng, Đội Cứu quốc quân đã được nhân dân hết lòng yêu thương đùm bọc, giúp đỡ và che chở. Đội đã tích cực luyện tập, tổ chức các trận đánh, bảo vệ khu căn cứ cách mạng, bảo vệ Trung ương Đảng và cuộc sống của nhân dân, trừng trị bọn việt gian phản động và quan lại cường hào gian ác đè nén, ức hiếp nhân dân. Vì vậy, dù trong điều kiện khó khăn nào, Đội Cứu quốc quân vẫn luôn được nhân dân tin cậy và cưu mang.

Ba là: Ra sức huấn luyện phát triển về trình độ kỹ chiến thuật và tăng cường bảo đảm trang thiết bị vũ khí.

Đi đôi với việc giáo dục, đào tạo đội ngũ cán bộ quân sự, Phùng Chí Kiên đã chỉ đạo cán bộ, chiến sĩ Đội Cứu quốc quân không ngừng học tập, rèn luyện về trình độ kỹ thuật, chiến thuật, tăng cường bổ sung về vũ khí trang bị, làm cho đơn vị không ngừng phát triển về mọi mặt, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ cách mạng. Với những kiến thức tích luỹ được qua nghiên cứu các tác phẩm quân sự của Liên Xô và Trung Quốc, kinh nghiệm chỉ huy, chiến đấu trong quân đội cách mạng Trung Quốc, Phùng Chí Kiên đã chắt lọc và vận dụng sáng tạo vào việc huấn luyện kỹ thuật, chiến thuật cho Đội Cứu quốc quân phù hợp với hoàn cảnh, yêu cầu của cách mạng và đối tượng tác chiến. Nhờ đó, trình độ tác chiến của Đội không ngừng được nâng lên, đủ sức đương đầu với mọi kẻ thù, bảo vệ an toàn Trung ương Đảng và chiến khu cách mạng.

Bốn là: Xây dựng, bảo vệ chiến khu cách mạng phải đi đôi với nhiệm vụ kiện toàn, phát triển lực lượng vũ trang.

Giữa vấn đề xây dựng, bảo vệ chiến khu cách mạng với vấn đề kiện toàn, phát triển lực lượng vũ trang luôn có mối quan hệ gắn bó chặt chẽ với nhau. Xây dựng, bảo vệ vững chắc chiến khu cách mạng là cơ sở để kiện toàn, phát triển lực lượng vũ trang và ngược lại, lực lượng vũ trang phát triển vững mạnh là yếu tố cơ bản để xây dựng, bảo vệ vững chắc chiến khu. Nhận thức rõ vấn đề này, trong quá trình chỉ đạo xây dựng Chiến khu Bắc Sơn và Đội Cứu quốc quân, trên cương vị là Tổng chỉ huy chiến khu Bắc Sơn và Chỉ huy trưởng Đội Cứu quốc quân, Phùng Chí Kiên đã hết sức coi trọng vấn đề xây dựng, bảo vệ chiến khu cách mạng với vấn đề củng cố, phát triển lực lượng vũ trang, coi đây là một trong những nhiệm vụ cấp bách hàng đầu mang tính sống còn đối với phong trào cách mạng. Thực tế đã chứng minh rằng, khi chiến khu cách mạng Bắc Sơn được xây dựng, bảo vệ vững chắc thì lực lượng vũ trang hoạt động thuận lợi, có điều kiện để củng cố và phát triển rộng khắp, nâng cao cả số lượng và chất lượng. Khi Đội Cứu quốc quân cùng các tổ đội du kích tự vệ trong chiến khu phát triển vững mạnh thì phong trào cách mạng ở chiến khu đi lên, lòng dân được củng cố và khí thế cách mạng ngày càng sôi sục. Đây chính là những kinh nghiệm được đúc kết từ chính thực tiễn chỉ đạo cách mạng của Đảng ta mà đồng chí Phùng Chí Kiên là một trong những bậc lãnh đạo tiền bối đã góp phần tổng kết và làm phong phú thêm các kinh nghiệm quý báu đó.

*


*          *

Trên đây là những cống hiến xuất sắc của đồng chí Phùng Chí Kiên trong hoạt động quân sự và chỉ đạo xây dựng Đội Cứu quốc quân 1 cùng những kinh nghiệm về xây dựng chiến khu cách mạng và lực lượng vũ trang thời kỳ non trẻ. Tên tuổi và sự nghiệp của đồng chí Phùng Chí Kiên, tấm gương về ý chí cách mạng, sẵn sàng xả thân chiến đấu, hy sinh vì độc lập, tự do của dân tộc, vì hạnh phúc nhân dân của đồng chí sáng mãi cùng non sông, đất nước.
____________________________________
1. Bộ Quốc phòng - Viện Lịch sử quân sự Việt Nam, Lịch sử các đội quân tiền thân..., Sđd, tr. 146.
Logged
chuongxedap
Đại tá
*
Bài viết: 13138



« Trả lời #49 vào lúc: 19 Tháng Mười Hai, 2021, 11:05:47 pm »


PHÙNG CHÍ KIÊN - NHỮNG THÁNG NĂM HOẠT ĐỘNG
TRÊN ĐỊA BÀN VIỆT BẮC

Đại tá NGUYỄN ĐÌNH KHIÊM*


Đã 67 năm đi qua, việc nghiên cứu một cách toàn diện, hệ thống về đồng chí Phùng Chí Kiên - một người cán bộ quân sự tiền bối của Đảng đã đi vào lịch sử, là công việc có ý nghĩa và trách nhiệm lớn lao của thế hệ con cháu đối với các bậc lão thành cách mạng Việt Nam. Đây cũng là một công việc vô cùng khó khăn, vì nguồn tư liệu hiếm hoi và ít ỏi viết về Phùng Chí Kiên quả là thách thức quá lớn đối với việc làm rõ những ngày tháng hoạt động và chiến đấu của đồng chí trên địa bàn Việt Bắc sau khi trở về Tổ quốc.

Như chúng ta đã biết, sau 30 năm bôn ba đi tìm đường cứu nước, lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc đã quyết định trở về nước để trực tiếp lãnh đạo cách mạng Việt Nam. Để chuẩn bị lực lượng cán bộ cơ sở ở trong nước, tháng 12 năm 1940, lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc đã triệu tập và mở lớp đào tạo huấn luyện chính trị, quân sự đầu tiên cho 43 thanh niên người dân tộc thiểu số ở Cao Bằng tại Ngàm Táy, Nậm Quang, Tĩnh Tây, Quảng Tây, Trung Quốc. Đây là một địa điểm gần biên giới huyện Hà Quảng, Cao Bằng, nhân dân hầu hết là dân tộc Nùng. Lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc trực tiếp chỉ đạo và cùng các đồng chí Phạm Văn Đồng, Vũ Anh, Phùng Chí Kiên, Võ Nguyên Giáp tham gia biên soạn tài liệu và giảng dạy. Đồng chí Phùng Chí Kiên được phân công phụ trách lớp học, cứ mỗi buổi sáng đồng chí lại cùng học viên đi hái củi để làm công tác chính trị với dân làng. Sau 10 ngày huấn luyện, lớp học kết thúc, lại đúng vào dịp Tết Nguyên đán Tân Tỵ (1941). Sáng mùng 1 Tết, được lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc phân công, đồng chí Phùng Chí Kiên cùng anh em học viên đi cảm ơn nhân dân trong bản đã giúp đỡ ăn, ở trong thời gian lưu lại học tập. Ngay tối hôm đó, các học viên trở về nước, theo đường mòn qua mốc biên giới 108 xã Trường Hà, Hà Quảng, Cao Bằng. Đồng chí Phùng Chí Kiên ở lại cùng với đoàn của lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc trở về Tổ quốc vào ngày 28 tháng 1 năm 1941. Bác Phạm Duy Tiến, cán bộ lão thành cách mạng, một trong hơn 40 thanh niên được dự lớp học ở Ngàm Táy cho biết: Đồng chí Phùng Chí Kiên có thân hình dong dỏng, cao khoảng một mét bảy, tính tình cởi mở, luôn gần gũi với anh em học viên.

Đầu tháng 5 năm 1941, tại Pắc Bó, Trường Hà, Hà Quảng, Cao Bằng, lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc, với tư cách là đại biểu của Quốc tế cộng sản, đã triệu tập Hội nghị Trung ương lần thứ 8 của Đảng Cộng sản Đông Dương. Dưới sự chủ trì của lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc, Hội nghị đã hoàn chỉnh sự chuyển hướng chỉ đạo chiến lược cách mạng Việt Nam. Chủ trương và chính sách mới của Đảng được phát triển về mọi mặt.

Để thiết thực chuẩn bị khởi nghĩa, Hội nghị đã quyết định "Lấy miền rừng núi Việt Bắc để xây dựng căn cứ vũ trang", trước hết là căn cứ Cao Bằng và căn cứ Bắc Sơn - Võ Nhai. Căn cứ địa Cao Bằng do lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc và các đồng chí Vũ Anh, Phạm Văn Đồng, Võ Nguyên Giáp... phụ trách. Căn cứ địa Bắc Sơn - Võ Nhai do Ban Thường vụ Trung ương Đảng trực tiếp chỉ đạo. Hội nghị còn quyết định tăng cường cho căn cứ địa Bắc Sơn - Võ Nhai một số cán bộ, do đồng chí Phùng Chí Kiên, Ủy viên Trung ương Đảng, phụ trách.

Bắc Sơn - Võ Nhai là hai châu miền núi. Nơi đây rừng già, núi đá vôi xen núi đất hiểm trở, đi lại khó khăn, đã từng là một trong những địa bàn hoạt động chống Pháp nổi tiẽng của nghĩa quân Hoàng Đình Kinh, nghĩa quân Hoàng Hoa Thám. Bắc Sơn - Võ Nhai có địa hình thiên hiểm, thành phòng tuyến thiên nhiên ngăn chặn kẻ thù, có truyền thống đoàn kết yêu nước của nhân dân các dân tộc. Chính vậy, dưới sự lãnh đạo của Đảng, ngày 27 tháng 9 năm 1940, tiếng súng vang dội của cuộc khởi nghĩa Bắc Sơn đã báo hiệu một thời kỳ mới của cách mạng Việt Nam. Hội nghị Trung ương Đảng tháng 11 năm 1940 đã đánh giá "Đó là những tiếng súng báo hiệu cho cho cuộc khởi nghĩa toàn quốc, là bước đầu đấu tranh bằng võ lực của các dân tộc Đông Dương".

Sau Hội nghị Trung ương Đảng lần thứ 8, các đồng chí Thường vụ Trung ương và các đại biểu đi dự Hội nghị cùng các cán bộ được tăng cường cho căn cứ Bắc Sơn - Võ Nhai đã nhanh chóng trở về Căn cứ Bắc Sơn - Võ Nhai.

Trước đó, Cứu quốc quân Bắc Sơn - Võ Nhai đã cử một tổ do đồng chí Chu Văn Tấn chỉ huy, đồng chí Hoàng Tài làm liên lạc, có nhiệm vụ đưa đường và bảo vệ đoàn đại biểu đi dự Hội nghị lần thứ 8 của Trung ương. Tổ Cứu quốc quân đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ, cùng đoàn đại biểu vượt qua mọi khó khăn đến địa điểm quy định an toàn, đúng thời gian. Từ Khuổi Nọi, Vũ Lễ - Bắc Sơn, đoàn đi qua Bình Gia, Văn Mịch, Tràng Định - Lạng Sơn rồi vượt sang Bó Cục, Tả Tấn, Long Châu, Quảng Tây - Trung Quốc. Từ Long Châu, đoàn đi dọc biên giới Việt - Trung về phía Tây Bắc, đến mốc 108 thì vào Pắc Bó. Sau Hội nghị, tổ Cứu quốc quân lại tiếp tục làm nhiệm vụ đưa đường và bảo vệ các đồng chí đại biểu trở về căn cứ địa Bắc Sơn - Võ Nhai.

Khi trở về căn cứ địa Bắc Sơn - Võ Nhai, đoàn chia thành hai bộ phận đi theo 2 đường. Một bộ phận đi dọc biên giới Việt - Trung theo đường lúc đi lên Pắc Bó. Bộ phận thứ hai đi từ Pắc Bó - Hà Quảng xuống Hoà An, Thạch An về Tràng Định rồi sang qua biên giới đến Bó Cục, Tả Tấn, Long Châu, Quảng Tây, Trung Quốc. Hai bộ phận cùng gặp nhau tại Bó Cục, rồi từ đó trở qua biên giới vào Tràng Định, qua Bình Gia.

Khi đến Bình Gia, đoàn đã thấy dấu hiệu của một cuộc khủng bố lớn. Khắp các ngả đường từ Bình Gia vào Bắc Sơn đều thấy có lính dõng và bọn mật thám đi tuần và canh gác1. Ngày 30 tháng 6 năm 1941, Sở Mật thám Bắc Kỳ đã đưa một chi nhánh lên Đình Cả thuộc châu Võ Nhai - Thái Nguyên để đón lõng đường các đồng chí Thường vụ Trung ương về xuôi. Tại Đình Cả, chúng lập phòng tra tấn tại chỗ để đàn áp, khủng bố nhân dân địa phương. Đồng thời, Sở Mật thám Bắc Kỳ còn chỉ thị cho các chi nhánh mật thám Thái Nguyên, Lạng Sơn, Bắc Giang tăng cường mạng lưới mật thám, thường xuyên liên hệ với nhau để chặn đường hòng chụp bắt gọn các đồng chí Thường vụ Trung ương của ta. Chánh mật thám tỉnh Lạng Sơn Đăng-vít (Denkwick) đã tức tốc điều quân về Bắc Sơn, đóng chốt tại xã Vũ Lễ. Cùng lúc đó, thực dân Pháp tập trung binh lính, dưới sự chỉ huy của những tên thực dân khét tiếng gian ác như tên Barôn, Bútkê, Bêrada... từ ba hướng tiến công vào căn cứ địa Bắc Sơn - Võ Nhai. Một hướng từ Bắc Giang lên, một hướng từ Thái Nguyên sang, một hướng từ Lạng Sơn về. Ngoài ra, thực dân Pháp còn tăng cường lực lượng tại chỗ để đàn áp, khủng bố nhân dân các dân tộc. Với lực lượng như vậy, chúng hy vọng trong một thời gian ngắn sẽ bắt gọn các đồng chí Thường vụ Trung ương Đảng, tiêu diệt hoàn toàn lực lượng Cứu quốc quân của ta và dập tắt phong trào cách mạng ở Bắc Sơn - Võ Nhai. Trọng tâm cuộc khủng bố của địch là Bắc Sơn, sau đó dịch chuyển xuống Võ Nhai.
_______________________________________
* Trưởng phòng Khoa học Công nghệ và Môi trường Quân khu 1.
1. Sau này, ta được tin, địch biết được cuộc hành trình của đoàn cán bộ Trung ương ta là do tên Công (một phần tử phản bội) đi dự Hội nghị Trung ương lần thứ 8 bằng đường công khai (hợp pháp) về Hà Nội, đã cung cấp tin tức cho thực dân Pháp.
Logged
Trang: « 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 »   Lên
  In  
 
Chuyển tới:  

Powered by MySQL Powered by PHP Powered by SMF 1.1.21 | SMF © 2006-2008, Simple Machines

Valid XHTML 1.0! Valid CSS! Dilber MC Theme by HarzeM