Lịch sử Quân sự Việt Nam
Tin tức: Lịch sử quân sự Việt Nam
 
*
Chào Khách. Bạn có thể đăng nhập hoặc đăng ký. 20 Tháng Tư, 2024, 03:47:33 am


Đăng nhập với Tên truy nhập, Mật khẩu và thời gian tự động thoát


Trang: « 1 2 3 4 5 6 7 8 9 »   Xuống
  In  
Tác giả Chủ đề: Lịch sử tư tưởng quân sự Việt Nam - Tập 5  (Đọc 2683 lần)
0 Thành viên và 1 Khách đang xem chủ đề.
quansuvn
Moderator
*
Bài viết: 6599



WWW
« Trả lời #20 vào lúc: 09 Tháng Giêng, 2022, 01:47:12 pm »

Thế kỷ XVIII, lịch sử Việt Nam chứng kiến một cuộc khởi nghĩa toàn dân của một lực lượng từ nhân dân mà ra, với những chiến công quân sự vang dội, làm thay đổi cục diện chính trị bế tắc của toàn dân tộc kéo dài gần 2 thế kỷ: nghĩa quân Tây Sơn. Với cuộc khởi nghĩa Tây Sơn (1771-1789), tư tưởng chỉ đạo hành động lúc đầu xác định là "lấy tiền của, thóc lúa của bọn nhà giàu chia cho người nghèo", nên anh em Tây Sơn được nhân dân địa phương hết lòng ủng hộ, thanh thế ngày càng lớn và lan tỏa khắp nơi. Để xây dựng được lực lượng không ngừng lớn mạnh, Bộ chỉ huy Tây Sơn không những thống nhất tư tưởng "tận suất vi binh" (toàn dân tòng quân) mà còn hết sức quan tâm mối quan hệ giữa nghĩa quân với dân chúng. Tại buổi lễ tế cờ xuất quân được tổ chức trên đỉnh đèo An Khê, Nguyễn Nhạc chính thức ban bố 3 điều quân luật, trong đó điều đầu tiên là "không được xâm phạm tính mạng và tài sản của nhân dân", nếu vi phạm sẽ bị xử chém. Về sau, tại lễ đăng quang ở Phú Xuân, Hoàng đế Quang Trung đã kêu gọi toàn dân tập hợp sức mạnh dưới ngọn cờ của Tây Sơn. Do biết dựa vào dân để xây dựng lực lượng, lại có quân lệnh nghiêm minh trong mối quan hệ với nhân dân, nên nghĩa quân Tây Sơn được dân chúng hăng hái tham gia, nhiệt tình ủng hộ về vật chất và tinh thần. Nhận xét về tính chất toàn dân của khởi nghĩa Tây Sơn, một nhà sử học nước ngoài đã viết: "Động lực cơ bản của cuộc khởi nghĩa là nông dân... chính họ đã hợp thành trụ cột của quân đội Tây Sơn, một quân đội đông đảo và thiện chiến; đó cũng là yếu tố quan trọng để họ tiêu diệt lực lượng quân đội phong kiến Việt Nam cũng như bọn xâm lược nhà Thanh"1 (Phong trào nông dân Tây Sơn dưới mắt người nước ngoài, Nxb. Tổng hợp Nghĩa Bình, 1988, tr.117).


Như thế, liên kết các lực lượng địa phương, nhận thức đúng vai trò của nhân dân và bảo vệ quyền lợi của nhân dân đã trở thành những giá trị cốt lõi của tư tưởng khởi nghĩa toàn dân thời phong kiến. Kế thừa và phát triển tư tưởng khởi nghĩa vũ trang của dân tộc, tiếp thu có chọn lọc tinh hoa quân sự nhân loại, mà cốt lõi là học thuyết quân sự Mác - Lênin, Đảng Cộng sản Việt Nam do Hồ Chí Minh đứng đầu đã xác định cuộc khởi nghĩa vũ trang ở Việt Nam là khởi nghĩa toàn dân, khởi nghĩa dân tộc, mang tính chất cách mạng. Ngay từ năm 1924, Nguyễn Ái Quốc đã nhấn mạnh: "... Tổ chức càng nhiều càng tốt những nhóm vũ trang của nông dân và công nhân Việt Nam. Đó là tế bào hợp thành hạt nhân của cuộc khởi nghĩa"1 (Bộ Quốc phòng - Viện lịch sử quân sự Việt Nam: Hồ Chí Minh - Biên niên sự kiện quân sự (1919-1969), Sđd, tr.54). Cũng trong năm 1924, trên cơ sở nghiên cứu cơ bản truyền thống lịch sử, nền văn hóa dân tộc Việt Nam và các giá trị phương Đông, Nguyễn Ái Quốc khẳng định: "Cuộc khởi nghĩa vũ trang ở Đông Dương... phải có tính chất một cuộc khởi nghĩa quần chúng chứ không phải một cuộc nổi loạn. Cuộc khởi nghĩa phải được chuẩn bị trong quần chúng"2 (Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.1, tr.468-469). Qua nghiên cứu, Nguyễn Ái Quốc phát hiện ra nội dung lớn mà các tác phẩm lý luận thời ấy ít đề cập, đó là sức mạnh của chủ nghĩa dân tộc. Với Nguyễn Ái Quốc: "Chủ nghĩa dân tộc là động lực lớn của đất nước. Chính nó đã gây nên cuộc nổi dậy chống thuế năm 1908, nó dạy cho những người culi biết phản đối, nó làm cho những người "nhà quê" phản đối ngầm trước thuế tạp dịch và thuế muối... Cũng chủ nghĩa dân tộc... đã thúc giục thanh niên bãi khóa, làm cho những nhà cách mạng trốn sang Nhật Bản và làm vua Duy Tân mưu tính khởi nghĩa năm 1917"3 (Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.1, tr.466).


Yếu tố dân tộc chẳng những có thể ảnh hưởng đến phong trào của giai cấp công nhân, nông dân mà nó còn có khả năng thay đổi lập trường của các giai cấp khác như tiểu tư sản, tư sản dân tộc và một bộ phận trong giai cấp địa chủ. Cần nhắc lại rằng, trong tư tưởng Hồ Chí Minh, dân tộc không chỉ là một cộng đồng người ý thức mình như là dân tộc, mà còn là dân tộc trong quan hệ với thế giới, và như thế, khởi nghĩa toàn dân của dân tộc được đặt trong quan hệ với cách mạng thế giới và nhăn loại tiến bộ. Quay trở lại, trong quá trình cách mạng, đặc biệt là trong thời kỳ chuẩn bị và thực hành khởi nghĩa vũ trang, Nguyễn Ái Quốc cho rằng điều cốt yếu là phải huy động được sức mạnh của toàn dân tộc, có như vậy, công cuộc giải phóng đất nước mới giành được thắng lợi.


Sự sáng tạo lớn của Nguyễn Ái Quốc là không những phát hiện ra vị trí, tầm quan trọng của sức mạnh dân tộc mà còn đặt đúng vị trí vấn đề dân tộc theo lập trường vô sản, cũng là lập trường tiến bộ của thế giới bấy giờ, từ đó, xác định đúng động lực của cách mạng là giai cấp công nhân, nông dân và các tầng lớp lao động khác dưới sự lãnh đạo của giai cấp công nhân; ngoài ra, "yếu tố dân tộc" còn bao gồm cả một số tư sản, địa chủ phần nào có ý thức dân tộc, chưa lộ rõ chống đối, phản động. Quan điểm cơ bản này được thể hiện rõ trong Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng (1930). Tuy nhiên, sự sáng tạo quan trọng này của Nguyễn Ái Quốc không phải đã dễ dàng được chấp thuận. Do sự chỉ đạo của Quốc tế Cộng sản, Hội nghị Trung ương Đảng (10-1930) nhấn mạnh vấn đề giai cấp, đã xác định: "Đến ngày thành thục điều kiện, nhất thiết phải có một cuộc lưu huyết công nông dưới quyền chỉ huy của Đảng làm võ trang bạo động cướp chính quyền". Về sau, đã có sự chuyển hướng mới. Tháng 7-1936, Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Đông Dương được triệu tập dưới sự chủ trì của đồng chí Lê Hồng Phong. Nghị quyết Hội nghị được trình bày cụ thế trong tài liệu Chung quanh vấn đề chiến sách mới, xuất bản ngày 30-10-1936. Tài liệu nêu chủ trương thành lập Mặt trận nhân dân phản đế Đông Dương. Mặt trận đó là cuộc liên hiệp hết thảy các giai cấp trong toàn thể dân tộc bị áp bức đặng tranh đấu đòi những quyền lợi hàng ngày cho toàn dân, chống chế độ thuộc địa vô nhân đạo, để dự bị điều kiện cho cuộc vận động giải phóng được phát triển... Đồng thời, Mặt trận nhân dân có thể là cuộc vũ trang tranh đấu dân tộc giải phóng. Có thể thấy, với những nhận thức đó, Hội nghị Trung ương Đảng (7-1936) là sự kiện đánh dấu bước chuyển biến của Đảng trong việc đánh giá khả năng của các giai cấp, các tầng lớp nhân dân nhằm "dự bị" cho cuộc giải phóng dân tộc. Đó là sự trở về với tư tưởng của Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng (1930). Đến Hội nghị Trung ương Đảng lần thứ tám (5-1941), Trung ương Đảng bàn về những vấn đề trọng đại của đất nước dưới ánh sáng tư tưởng Nguyễn Ái Quốc mà điểm cốt lõi là đặt nhiệm vụ giải phóng dân tộc lên trên hết. Nghị quyết Hội nghị khẳng định: "Trong lúc này quyền lợi của bộ phận, của giai cấp phải đặt dưới sự sinh tử, tồn vong của quốc gia, của dân tộc... Nếu không giải quyết được vấn đề dân tộc giải phóng, không đòi được độc lập, tự do cho toàn thể dân tộc, thì chẳng những toàn thể quốc gia dân tộc còn chịu mãi kiếp ngựa trâu, mà quyền lợi của bộ phận, giai cấp đến vạn năm cũng không đòi lại được"1 (Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd, t.7, tr.113). Đây chính là điểm mấu chốt, là ánh sáng soi đường cho khởi nghĩa vũ trang trong thời kỳ Cách mạng Tháng Tám mang tính toàn dân rộng rãi và đó cũng chính là nhân tố cốt lõi bảo đảm cho cuộc Cách mạng Tháng Tám thực sự là cuộc khởi nghĩa toàn dân tộc. Sau Hội nghị, Nguyễn Ái Quốc viết lời kêu gọi toàn dân: "Việc cứu quốc là việc chung. Ai là người Việt Nam đều phải kề vai gánh vác một phần trách nhiệm: người có tiền góp tiền, người có của góp của, người có sức góp sức, người có tài năng góp tài năng. Riêng phần tôi, xin đem hết tâm lực đi cùng các bạn, vì đồng bào mưu giành tự do độc lập, dầu phải hy sinh tính mệnh cũng không nề"2 (Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.3, tr.198).


Tư tưởng khởi nghĩa toàn dân, khởi nghĩa dân tộc dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản là sự vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin về khởi nghĩa vũ trang. Tư tưởng đó đi vào thực tiễn cách mạng Việt Nam đã tạo ra sức mạnh vĩ đại và đó là một trong những nhân tố quyết định bảo đảm cho sự thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám năm 1945.
Logged

Ai công hầu, ai khanh tướng, vòng trần ai, ai dễ biết ai
Thế Chiến Quốc, thế Xuân Thu, gặp thời thế, thế thời phải thế
quansuvn
Moderator
*
Bài viết: 6599



WWW
« Trả lời #21 vào lúc: 22 Tháng Giêng, 2022, 08:20:02 pm »

III- CHÚ TRỌNG XÂY DỰNG LỰC LƯỢNG, KẾT HỢP CÁC HÌNH THỨC ĐẤU TRANH TRONG QUÁ TRÌNH KHỞI NGHĨA

Các cuộc khởi nghĩa chống ngoại bang của nhân dân Việt Nam diễn ra trong tình thế quân xâm lược đã chiếm đóng Việt Nam và không từ một thủ đoạn tàn bạo nào để đàn áp, khủng bố nhằm bảo vệ sự thống trị của chúng. Bởi thế, muốn đập tan cơ cấu quyền lực của dịch, giành chính quyền về tay mình, những người khởi xướng và lãnh đạo các cuộc khởi nghĩa đều hết sức chăm lo xây dựng lực lượng vững mạnh, đồng thời chủ trương kết hợp các hình thức đấu tranh để qua đó vừa rèn luyện dân chúng, phát triển lực lượng ta, vừa từng bước làm suy yếu lực lượng địch, tạo thời cơ tiến lên đánh đuổi quân xâm lược, giải phóng đất nước.


Trong thời kỳ chống ách đô hộ phong kiến phương Bắc, dựa vào hình thức tổ chức cộng đồng căn bản lúc bấy giờ là làng bản, các thủ lĩnh nghĩa quân ra sức xây dựng lực lượng, chiêu tập hiền tài, kêu gọi nhân dân hưởng ứng khởi nghĩa. Được nhân dân nhiệt tình ủng hộ, hăng hái tham gia, nghĩa quân phát triển nhanh chóng, cùng với dân chúng nổi dậy tiến công đánh thắng quân thù. Điển hình của việc xây dựng lực lượng khởi nghĩa nhanh và mạnh trong thời kỳ lịch sử đó là cuộc khởi nghĩa Hai Bà Trưng. Theo sách Thiên nam ngủ lục và nhiều thần tích thì hưởng ứng lời kêu gọi của Hai Bà Trưng, chỉ trong 10 ngày đã có 10 vạn người tham gia khởi nghĩa. Với sức mạnh của dân chúng trong cả nước, chỉ trong hơn một tháng hoạt động, quân khởi nghĩa đã đập tan ách đô hộ của nhà Đông Hán, khôi phục nền độc lập tự chủ của đất nước, giữ được chính quyền trong ba năm. Tuy vậy, trước thế kỷ X, tư tưởng về xây dựng lực lượng không biểu hiện rõ nét quan hệ giữa vận động nhân dân kết hợp với đào tạo quân đội chính quy. Tính tự phát và tính địa phương của các lực lượng quân sự trước thế kỷ X, ngay cả dưới thời Đinh và Tiền Lê, chính là biểu hiện của một nền chính trị còn chưa được xây dựng với những nền tảng rộng lớn, thống nhất - đó cũng là hạn chế lớn của lịch sử đối với tư tưởng quân sự trước thế kỷ X, trước kỷ nguyên phục hưng Đại Việt.


Khởi nghĩa Lam Sơn cũng là một điển hình về xây dựng lực lượng khởi nghĩa. Những ngày đầu dựng cờ khởi nghĩa, Lê Lợi đã dồn hết tâm sức và của cải để xây dựng nghĩa quân. Ông đã "hậu đãi tân khách, vời hiền tài, đón người trốn tránh, ngầm nuôi kẻ mưu sĩ, bỏ của phát thóc giúp người cơ bần, nhún lời hậu lễ để thu hào kiệt" (Bia Vĩnh Lăng). Nhờ đó, lực lượng nghĩa quân ngày càng đông. Nếu như đầu năm 1416, Lê Lợi mới có 18 người thân tín nhất làm lễ thề kết nghĩa anh em ở Lũng Nhai thì đến năm 1418 - năm chính thức phát động cuộc khởi nghĩa, Lê Lợi đã có hơn 600 người1 (Bộ Quốc phòng, Trung tâm từ điển Bách khoa quân sự: Từ điển Bách khoa quân sự Việt Nam, Nxb. Quân đội nhân dân, Hà Nội, 2005, tr.558), bao gồm 35 quan võ và một số quan văn, 200 quân thiết đột, 200 nghĩa sĩ, 200 dũng sĩ và 14 thớt voi. Với lực lượng đó, nghĩa quân vừa đánh du kích vừa xây dựng lực lượng. Khi cuộc khởi nghĩa đã có ảnh hưởng lớn, quy tụ được nhiều cuộc khởi nghĩa khác, Lê Lợi và Nguyễn Trãi nhận thấy rằng cần phải tổ chức quân đội dân tộc. Phương châm xây dựng lực lượng của hai ông là: "Vỗ nuôi sĩ tốt, vời đón hiền giả, thu dụng nhân tài, sửa rèn khí giới, luyện tập binh tượng, dạy bảo những phương pháp ngồi, đứng, tiến, lùi; lại hun đúc điều nhân nghĩa..."1 (Nguyễn Trãi: Toàn tập, Quân trung từ mệnh tập, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội, 1969). Quan điểm của Lê Lợi và Nguyễn Trãi là vừa chiến đấu vừa xây dựng lực lượng, chú trọng huấn luyện để có tinh binh ngày càng nhiều. Về vấn đề này, Đại Việt sử ký toàn thư viết: "Vua rèn luyện tướng sĩ, sửa sang khí giới... dạy bảo phép ngồi, đứng, đánh, đâm; chỉ bảo những thế kỳ, chính, phân, hợp; cho biết hiệu chiêng, hiệu trống, hiệu cờ. Kỷ luật quân đã nghiêm, khí thế quân lại càng hăng..."2 (Đại Việt sử ký toàn thư, Sđd, t.3, tr.300). Nhờ có quan điểm đúng đắn trong việc xây dựng lực lượng, Lê Lợi và Bộ chỉ huy Lam Sơn đã thực sự xây dựng được lực lượng nghĩa binh ngày càng lớn mạnh. Từ một đội nghĩa quân nhỏ bé ban đầu ở núi rừng Thanh Hóa đã trở thành quân đội giải phóng chính quy hùng mạnh có số lượng lên đến 35 vạn người, bao gồm nhiều đạo tinh binh, có cả quân bộ và quân thủy với nhiều voi chiến và chiến thuyền. Sự lớn mạnh của nghĩa binh về số lượng và chất lượng đã từng bước tạo ra chuyển biến tương quan lực lượng và cục diện cuộc chiến đôi bên; từ lực lượng mạnh tạo ra thế tốt vây thành, diệt viện, đánh bại quân xâm lược nhà Minh. Có được kết quả đó là do Bộ chỉ huy Lam Sơn có quan điểm tư tưởng đúng đắn trong việc tổ chức, xây dựng lực lượng nghĩa quân.


Khởi nghĩa Tây Sơn có nét tương đồng với khởi nghĩa Lam Sơn về xây dựng lực lượng thông qua việc kêu gọi dân chúng ủng hộ, tham gia và chú trọng xây dựng nghĩa quân, nhưng phương thức tiến hành có điểm mới nên nghĩa quân phát triển nhanh từ buổi đầu khởi binh. Năm Tân Mão (1771), ba anh em Nguyễn Nhạc, Nguyễn Huệ, Nguyễn Lữ dấy binh khởi nghĩa chống lại ách áp bức, bóc lột của tập đoàn cát cứ chúa Nguyễn. Tư tưởng chỉ đạo ban đầu là lấy của người giàu chia cho người nghèo, nghĩa là thực hiện "phân chia lại" quyền sở hữu vật chất, nên đã tranh thủ được sự ủng hộ của đại bộ phận dân chúng lao động nghèo. Không những thế, anh em Nguyễn Nhạc đã khéo khai thác mâu thuẫn gay gắt trong nội bộ quan lại chúa Nguyễn, đưa ra khẩu hiệu: "Đánh đổ quyền thần Trương Phúc Loan, ủng hộ hoàng tôn Nguyễn Phúc Dương"1 (Nguyễn Phúc Dương là cháu đích tôn Nguyễn Phúc Khoát, lẽ ra được kế vị ngôi chúa, nhưng bị Trương Phúc Loan phế bỏ. Chính vì thế mà phái tôn thất và cựu thần chúa Nguyễn căm giận Trương Phúc Loan). Sách lược khôn ngoan của anh em Nguyễn Nhạc không chỉ nhanh chóng lôi kéo, thu hút được rất nhiều tráng đinh nông thôn đến đầu quân cho nghĩa quân Tây Sơn mà còn lôi kéo được một bộ phận quan lại trong bộ máy chúa Nguyễn có mối bất bình với phe Trương Phúc Loan nên họ đã đưa nhiều tiền ủng hộ quân khởi nghĩa. Nhờ đó, chỉ một thời gian ngắn sau ngày dấy binh, lực lượng nghĩa quân Tây Sơn đã có số lượng hàng nghìn người. Với lực lượng đó, Bộ chỉ huy Tây Sơn chia nghĩa quân làm nhiều đạo tiến đánh các đồn binh, trừng trị bọn quan lại, địa chủ có nhiều tội ác với dân, tuyên bố bãi bỏ các thứ thuế, giải phóng làng xã. Những làng mạc "bị thuế khóa hà khắc đè nặng đã nhiệt liệt tuyên thệ hưởng ứng khởi nghĩa". Vừa tác chiến, vừa xây dựng lực lượng, đến năm Quý Tỵ (1773), nghĩa là chỉ hai năm sau ngày dấy binh, lực lượng nghĩa quân đã lên đến vài vạn người. Tiếp đó, trải qua những năm tháng hoạt động tác chiến trên các địa bàn Trung, Nam, Bắc, lực lượng nghĩa quân Tây Sơn không ngừng được bổ sung, phát triển về số lượng và chất lượng, quân số lên đến hàng chục vạn người.


Cũng cần nói thêm, với uy tín và thiên tài quân sự của Nguyễn Huệ, ông không chỉ thu hút được đông đảo dân chúng lao động nghèo tham gia khởi nghĩa mà còn quy tụ được nhiều nhân sĩ, trí thức ủng hộ, tham gia, làm cho thanh thế nghĩa quân thêm mạnh. Điển hình là trong cuộc hành quân ra Bắc phá giặc Thanh, lúc xuất phát ở Phú Xuân (12-1888) nghĩa quân chỉ độ vài vạn (bộ phận quan trọng ở lại bảo vệ Phú Xuân), nhưng không đầy một tháng trên đường hành quân, nghĩa quân đã lên đến 10 vạn, gồm đủ các thành phần: bộ binh, thủy binh, tượng binh, kỵ binh, đại bác thần công... Thực tiễn đó chứng tỏ tài năng kiệt xuất của Hoàng đế Quang Trung trong việc tổ chức, xây dựng lực lượng nghĩa quân. Có thực lực mạnh và cách đánh tài giỏi, nghĩa quân Tây Sơn lần lượt đánh dẹp các tập đoàn phong kiến chúa Nguyễn ở Đàng Trong, chúa Trịnh ở Đàng Ngoài, đánh bại quân xâm lược Xiêm La và Mãn Thanh, để lại dấu ấn đậm nét trong lịch sử quân sự dân tộc.
Logged

Ai công hầu, ai khanh tướng, vòng trần ai, ai dễ biết ai
Thế Chiến Quốc, thế Xuân Thu, gặp thời thế, thế thời phải thế
quansuvn
Moderator
*
Bài viết: 6599



WWW
« Trả lời #22 vào lúc: 22 Tháng Giêng, 2022, 08:20:59 pm »

Lịch sử đấu tranh giải phóng dân tộc diễn ra lúc thăng, lúc trầm, nhưng ngay cả lúc trầm, dân tộc Việt Nam vẫn không ngưng nghỉ xây dựng lực lượng chuẩn bị cho cuộc chiến đấu mới. Trong cái nhìn biện chứng, sự thất bại của mỗi cuộc khởi nghĩa lại chuẩn bị nền tảng cho những cuộc khởi nghĩa lớn hơn, cũng là nền tảng thực tiễn cho sự phát triển của tư tưởng quân sự nói chung và tư tưởng khởi nghĩa nói riêng.


Kể từ khi thực dân Pháp xâm lược nước Việt Nam (1858), nhân dân Việt Nam liên tiếp đứng lên chống quân xâm lược, nhiều cuộc khởi nghĩa đã nổ ra. Trong các cuộc khởi nghĩa đó, những người khởi xướng khởi nghĩa hết sức quan tâm đến việc xây dựng lực lượng nghĩa quân. Sau khi khởi nghĩa Phan Đình Phùng bị thực dân Pháp đàn áp, đánh dấu sự kết thúc phong trào Cần Vương (1896), thì đầu thế kỷ XX, phong trào đấu tranh chống thực dân Pháp phát triển lên một bước mang màu sắc dân chủ tư sản.


Tháng 5-1912, Việt Nam Quang Phục hội được thành lập, thay cho Duy Tân hội được tổ chức từ năm 1904. Việt Nam Quang Phục hội chủ trương đánh Pháp bằng vũ lực nên quyết định thành lập Quang Phục quân. Để xây dựng lực lượng, Phan Bội Châu và Hoàng Trọng Mậu đã viết tác phẩm Việt Nam Quang Phục quân phương lược gồm 4 chương, xác định rõ tôn chỉ, nghĩa vụ, kỷ luật, kế hoạch thực hiện. Đây là tác phẩm thể hiện rõ quan điểm xây dựng lực lượng vũ trang, phác họa mô hình xây dựng quân đội khác với quân đội triều Nguyễn về lý tưởng chiến đấu, tổ chức biên chế và tính kỷ luật. Dẫu rằng các điều quy định trong các chương đó không được thực hiện đầy đủ trong thực tiễn bởi nhiều lý do, trong đó có việc Phan Bội Châu bị bắt (12-1923), nhưng đã đánh dấu bước nhận thức mới về xây dựng lực lượng để đánh Pháp.


Tháng 12-1927, sau những nỗ lực vận động của Nguyễn Thái Học và một số người khác, một tổ chức mới mang tên Việt Nam Quốc dân Đảng ra đời. Để chuẩn bị khởi nghĩa vũ trang, trong chương trình hoạt động đầu tiên (1927), Việt Nam Quốc dân Đảng đã xác định điều kiện khởi nghĩa và chia quá trình hành động theo ba thời kỳ: thời kỳ thứ nhất, phát triển đảng viên, xây dựng cơ sở đảng; thời kỳ thứ hai, chú trọng xây dựng lực lượng, phát triển các đoàn thể quần chúng; thời kỳ thứ ba, tiến hành khởi nghĩa. Trong Chương trình hành động năm 1929, Việt Nam Quốc dân Đảng chủ trương tiến hành theo 4 thời kỳ: Thời kỳ phôi thai, đảng sẽ bí mật tập hợp lực lượng...; thời kỳ dự bị, bí mật chuẩn bị lương thực, vũ khí, quân trang và vật chất cần thiết...; thời kỳ công khai, tổ chức bãi khóa, bãi công, đánh đuổi giặc Pháp và tay sai; thời kỳ kiến thiết, lập chính phủ cộng hòa, nâng cao dân trí, thực hiện tự do, dân chủ1 (Trần Huy Liệu, Văn Tạo: Tài liệu tham khảo lịch sử cách mạng cận đại Việt Nam, Sđd, t.5, tr.122). Với bản chương trình hành động sau, quan điểm xây dựng lực lượng của Việt Nam Quốc dân Đảng được bổ sung hoàn chỉnh hơn. Tuy nhiên trên thực tế, Việt Nam Quốc dân Đảng không tuân theo các bước đó. Khi quyết định khởi nghĩa Yên Bái, Việt Nam Quốc dân Đảng vẫn chưa vượt qua thời kỳ thứ nhất, tức là thời kỳ tập hợp, xây dựng lực lượng. Do chưa có lực lượng đông đảo để có thể phối hợp chiến đấu giữa các vùng, các khu vực khởi nghĩa, cuộc khởi nghĩa do Việt Nam Quốc dân Đảng khởi xướng và lãnh đạo bị thất bại nhanh chóng trước sự đàn áp khốc liệt của thực dân Pháp.


Tiếp thu và phát triển truyền thống quân sự đặc sắc của dân tộc và tinh hoa quân sự thế giới, Nguyễn Ái Quốc cho rằng, công cuộc giải phóng dân tộc trong thời đại mới muốn thành công, phải giải quyết được mối quan hệ giữa yếu tố bên trong và bên ngoài, trong đó yếu tố bên trong mang tính quyết định. Chính vì thế mà từ năm 1923, trong bức thư gửi những người bạn cùng hoạt động ở Pháp, Nguyễn Ái Quốc đã viết: "Chúng ta phải làm gì?... Đối với tôi, câu trả lời đã rõ ràng: trở về nước, đi vào quần chúng, thức tỉnh họ, tổ chức họ, đoàn kết họ, huấn luyện họ, đưa họ ra đấu tranh giành tự do độc lập"2 (Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.1, tr.192).


Từ quan điểm đó, khi về nước cùng Trung ương Đảng Cộng sản Đông Dương trực tiếp lãnh đạo cách mạng, Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh đặc biệt quan tâm đến khâu then chốt là xây dựng lực lượng cách mạng (chính trị, quân sự). Do hoàn cảnh dân tộc bị thực dân Pháp thống trị lâu ngày, nhiều cuộc khởi nghĩa vũ trang nổ ra không thành công, tâm lý tự ti, thất vọng, thậm chí mất phương hướng xuất hiện trong một bộ phận của các tầng lớp xã hội. Bởi vậy, để "thức tỉnh" nhân dân, Người viết bức thư Kính cáo đồng bào phân tích rõ nguyên nhân các cuộc khởi nghĩa trước đây không thành công "không phải vì đế quốc mạnh, nhưng một là vì cơ hội chưa chín, hai là vì dân ta chưa hiệp lực đồng tâm"1 (Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.3, tr.197). Kế đó, Người sáng lập tờ báo Việt Nam độc lập làm công cụ tuyên truyền tập thể và sáng tác nhiều bài thơ dễ hiểu, sát với trình độ nhân dân, động viên các giới đồng bào, các đoàn thể tham gia tranh đấu. Ngày 19-5-1941, theo sáng kiến của Nguyễn Ái Quốc, Mặt trận Việt Nam độc lập đồng minh, gọi tắt là Việt Minh chính thức được thành lập. Theo sự chỉ đạo của Người, ngày 25-10-1941, Việt Minh công bố Tuyên ngôn, Chương trình và Điều lệ. Chương trình Việt Minh gồm 44 điểm, tinh thần cơ bản là cốt thực hiện hai điều mà toàn thể đồng bào đang mong ước: Một là, làm cho nước Việt Nam được hoàn toàn độc lập. Hai là, làm cho dân tộc Việt Nam được sung sướng, tự do. Tuyên ngôn và chương trình Việt Minh phản ánh nguyện vọng thiết tha của toàn dân tộc, có giá trị to lớn trong việc động viên, cổ vũ toàn dân tham gia cách mạng. Về sau, chương trình Việt Minh được đúc kết thành 10 chính sách lớn đem thực hiện ở vùng giải phóng và là nền tảng chính sách cơ bản của nước Việt Nam mới sau khi giành được độc lập. Nhiều người nghiên cứu Mặt trận Việt Minh đã cho rằng đó là một hình thức mặt trận có ý nghĩa to lớn trong việc xây dựng lực lượng để tiến tới khởi nghĩa vũ trang trong cả nước.


Vấn đề đoàn kết, tổ chức được Đảng, đứng đầu là lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc, xác định là khâu then chốt. Theo quan điểm đó, tháng 12-1941, Trung ương Đảng đã ra chỉ thị về công tác tổ chức, chỉ thị nêu rõ: "Biết tổ chức thì dù bọn phát xít quỷ quyệt tàn nhẫn đến đâu cũng không làm gì nổi. Biết tổ chức, tức là có thêm cán bộ, có võ khí, có tài chính, có chiến đấu lực"1 (Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd, t.7, tr.229-230). Chấp hành chỉ thị của Trung ương Đảng, các cấp ủy địa phương đã đẩy mạnh công tác tổ chức, xây dựng lực lượng. Các hội như Công nhân cứu quốc, Nông dân cứu quốc, Phụ nữ cứu quốc, Thanh niên cứu quốc... được thành lập, tạo nên một lực lượng chính trị hùng hậu và không ngừng phát triển. Đến cuối năm 1944 đầu năm 1945, lực lượng Việt Minh vững mạnh và có ảnh hưởng tới mức mà nhóm tình báo chiến lược Mỹ đã phải ghi nhận là ở Đông Dương chỉ có Đảng Cộng sản là tổ chức duy nhất có thực lực và có một hệ thống cơ sở từ nông thôn đến thành thị, còn các tổ chức khác ngoài Việt Minh đều không có thực lực và không có cơ sở trong dân chúng1 (Báo cáo của nhóm GBT (tên viết tắt của Gođơn, Bécna, Pherenky Tân) gửi cơ quan tình báo chiến lược Mỹ OSS).
Logged

Ai công hầu, ai khanh tướng, vòng trần ai, ai dễ biết ai
Thế Chiến Quốc, thế Xuân Thu, gặp thời thế, thế thời phải thế
quansuvn
Moderator
*
Bài viết: 6599



WWW
« Trả lời #23 vào lúc: 22 Tháng Giêng, 2022, 08:21:53 pm »

Trên cơ sở lực lượng chính trị hùng hậu, Đảng Cộng sản Đông Dương và Nguyễn Ái Quốc chủ trương xây dựng và phát triển lực lượng vũ trang với quy mô thích hợp. Nhưng để phát triển lực lượng đó, vấn đề đặt ra là phải xây dựng lý luận về lực lượng vũ trang sao cho phù hợp với đặc điểm, truyền thống xây dựng lực lượng vũ trang của dân tộc và phù hợp với nguyên lý xây dựng quân đội kiểu mới mà các nhà sáng lập chủ nghĩa Mác - Lênin đã đúc kết. Nhận thức rõ điều đó, Nguyễn Ái Quốc hết sức lưu tâm đến việc xây dựng lý luận về tổ chức quân sự - một vấn đề mà các hội nghị Trung ương Đảng trước đó đã đề cập đến các khía cạnh khác nhau, nhưng chưa đầy đủ và hệ thống do nhu cầu thực tiễn chưa cấp bách. Người cho rằng, trên cơ sở lực lượng chính trị hùng hậu của quần chúng mà xây dựng lực lượng vũ trang cơ sở song song với việc xây dựng quân đội cách mạng. Để làm sáng tỏ những nguyên tắc cơ bản về xây dựng lực lượng vũ trang, Nguyễn Ái Quốc viết một số tác phẩm tập trung lý giải làm sáng tỏ bản chất lực lượng vũ trang; xác định cơ cấu lực lượng; các mối quan hệ nội bộ, quân với dân; vấn đề đoàn kết, kỷ luật, địa bàn đứng chân và xác định phương pháp đánh giặc... Trên cơ sở lý luận của Người, các cấp ủy đảng đã vận dụng vào thực tiễn rất sáng tạo. Nhờ đó, lực lượng vũ trang phát triển nhanh về số lượng, vững chắc về tổ chức. Từ tiểu tổ du kích, đội du kích chính thức được tổ chức rộng khắp, cuối năm 1944, đội quân chủ lực đầu tiên đã được thành lập. Trên cơ sở lực lượng vũ trang, nòng cốt là đội quân chủ lực phát triển nhanh chóng, tháng 4-1945, Ban Thường vụ Trung ương Đảng triệu tập Hội nghị quân sự Bắc Kỳ, quyết định thống nhất Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân và Cứu quốc quân thành Việt Nam giải phóng quân, thành lập Ủy ban quân sự cách mạng, thúc đẩy phong trào cách mạng, phát triển lực lượng chính trị quần chúng và lực lượng vũ trang nhanh, mạnh mẽ hơn nữa.


Việc xây dựng được lực lượng cách mạng (chính trị, quân sự) hùng hậu trong thời kỳ này là một thành công to lớn của cách mạng Việt Nam. Thành công đó khẳng định quan điểm đúng đắn, sáng tạo của Đảng, đứng đầu là lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh trong việc xây dựng lực lượng tiến tới Tổng khởi nghĩa giành chính quyền trong cả nước.


Đồng thời với việc chú trọng xây dựng lực lượng khởi nghĩa, tư tưởng quân sự Việt Nam còn chú trọng đến việc kết hợp các hình thức đấu tranh trong quá trình khởi nghĩa nhằm chuyển hóa lực lượng có lợi cho Việt Nam, tiến lên đánh đổ chính quyền địch.


Dân tộc Việt Nam tiến hành khởi nghĩa trong điều kiện lúc đầu thường chỉ có một lực lượng quân sự (nghĩa quân) không nhiều, vũ khí ít và thô sơ. Trong điều kiện đó, những người khởi xướng và lãnh đạo các cuộc khởi nghĩa chủ trương vừa chiến đấu vừa xây dựng, đi từ nhỏ đến lớn, từ yếu đến mạnh; đồng thời, đề ra các phương thức đấu tranh thích hợp để giành thắng lợi. Đó là phương thức kết hợp tác chiến của nghĩa quân với nổi dậy của dân chúng để tiêu diệt địch, đập tan ách thống trị của kẻ thù, giành lại chính quyền trên toàn bộ đất nước. Phương thức đấu tranh đó vừa khai thác, phát huy được sức mạnh của dân chúng, thực hiện cả nước nổi dậy tiến công giặc, vừa tạo điều kiện để lực lượng quân sự tiến công, giáng cho địch những đòn đau, làm tan rã hàng ngũ quân xâm lược. Cuộc khởi nghĩa của Hai Bà Trưng, Lý Bí, Mai Thúc Loan... là kiểu mẫu thành công của sự phối hợp tác chiến giữa nghĩa quân với nổi dậy của dân chúng trên cả nước.


Bên cạnh phương thức đấu tranh cơ bản đó, phương thức tác chiến kết hợp với địch vận cũng được quân khởi nghĩa áp dụng nhằm đưa đến kết quả cao nhất. Tiêu biểu cho việc áp dụng phương thức này là cuộc khởi nghĩa Lam Sơn. Trong cuộc khởi nghĩa đó, Lê Lợi và Nguyễn Trãi chủ trương đánh lâu dài, kết hợp các hình thức đấu tranh quân sự, chính trị, ngoại giao, địch vận. Theo hai ông, một nước nhỏ cầm vũ khí chống lại quân xâm lược lớn mạnh thì phải kháng chiến lâu dài để từng bước làm chuyển biến tương quan lực lượng, quân ta ngày càng mạnh, đối phương ngày càng suy yếu. Như thế, quá trình kháng chiến phải kết hợp các hình thức đấu tranh, trong đó có địch vận, góp phần vào thắng lợi chung.


Từ những bức thư gửi cho đối phương, có thể nói rằng, Nguyễn Trãi là người đầu tiên trong lịch sử quân sự Việt Nam đã nêu lên và thực hiện chủ trương địch vận một cách hệ thống. Trong các bức thư gửi tướng nhà Minh, Nguyễn Trãi đặc biệt chú ý phân tích tính chất chính nghĩa, sự lớn mạnh của nghĩa quân và nguy cơ diệt vong của quân xâm lược. Ông đứng trên tư thế của người chiến thắng dùng lý lẽ để vận động, thuyết phục quân thù. Sự vận động, thuyết phục đó tất nhiên chưa thể lay chuyển được thái độ ngoan cố của những kẻ cầm đầu quân Minh; nhưng sau đó, kết hợp với đòn quân sự tiêu diệt lực lượng viện binh, chém đầu Liễu Thăng, Vương Thông và các tướng khác của quân Minh mới chịu khuất phục. Không chỉ viết thư vận động, thuyết phục quân Minh, Nguyễn Trãi còn viết thư cho bọn tay sai nhằm phân hóa, thuyết phục họ quay giáo đánh quân xâm lược, trở về với chính nghĩa. Qua 68 bức thư gửi cho quân giặc, tiếng nói và ngòi bút tuyệt vời của Nguyễn Trãi có sức mạnh chẳng kém gì "cả vạn quân thiện chiến", về thành công của tư tưởng chiến lược này, chính Nguyễn Trãi đã viết trong Lam Sơn thực lục: "Xưa quân sĩ đói thiếu thì lại nhờ vào lương của giặc mà lương của ta thêm đầy đủ, xưa khi quân sĩ trốn tan, thì lại nhờ binh của giặc trở giáo đánh nhau. Phàm cung tên, giáo mộc của giặc đều là chiến khí của ta, vàng bạc châu báu của giặc đều là quân tư của ta; cái nó dùng để hại ta ngược lại lại hại nó, cái nó muốn dùng để đánh úp ta, ngược lại lại đánh nó"1 (Nguyễn Trãi: Toàn tập, Sđd, tr.72).


Ngoài hai phương thức đấu tranh trên đây, các cuộc khởi nghĩa còn sử dụng phương thức tác chiến kết hợp với hoạt động ly gián nội bộ địch. Tiêu biểu cho phương thức này là khởi nghĩa Tây Sơn. Biết Phạm Ngô Cầu, tướng giữ thành Phú Xuân, bản tính nhu nhược và mê tín, Nguyễn Huệ lập mưu cho người đến phán tướng số họa phúc, khiến cho Cầu hoảng sợ, sai quân sĩ xây đàn, tổ chức cúng lễ nhiều ngày đêm gây hao tổn sức lực của quân lính. Đã thế, Nguyễn Huệ còn sai người viết thư dụ hàng phó tướng là Nguyễn Đình Thể, nhưng lại "gửi nhầm" cho chủ tướng Cầu để ly gián nội bộ. Nhờ kế hiểm lừa địch, lại giỏi tính toán thủy triều, quân Tây Sơn dễ dàng hành binh, vượt tường thành đột nhập vào bên trong giáp chiến tiêu diệt đối phương.


Các hình thức đấu tranh trong khởi nghĩa vũ trang của dân tộc được Đảng Cộng sản Việt Nam kế thừa và phát triển lên một bước mới. Thông qua Mặt trận Việt Minh, Đảng đã lãnh đạo nhiều cuộc đấu tranh của công nhân, nông dân, học sinh, tiểu thương ở ngay các trung tâm kinh tế, chính trị của chính quyền thuộc địa. Đó là cuộc đấu tranh của công nhân bến tàu Sài Gòn (11-1941); mít tinh chống cướp thóc ở Quảng Nam (1-1942); đình công đòi phát lương của công nhân Hòn Gai (2-1942); đấu tranh đòi chia lại ruộng công của nông dân Tiền Hải - Thái Bình (6-1942); bãi thị chống tăng thuế của tiểu thương Hà Nội (1-1943), v.v.. Nổi bật nhất của phong trào đấu tranh thời kỳ này là phong trào phá kho thóc của Nhật chia cho nhân dân. Phá kho thóc của Nhật cứu đói đồng bào là một hình thức đấu tranh mới, nhân văn, có ý nghĩa quan trọng trong việc phát triển lực lượng.


Dưới sự lãnh đạo của Đảng, không khí cách mạng sục sôi, lan rộng khắp các tỉnh từ Bắc chí Nam. Nhân dân ở nhiều nơi đã sẵn sàng khởi nghĩa. Để phong trào phát triển đồng đều và mạnh hơn nữa, cuối năm 1944, Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh chủ trương từng bước đẩy mạnh đấu tranh vũ trang trên cơ sở phong trào đấu tranh chính trị. Người nói: "Nếu bây giờ chúng ta vẫn chỉ hoạt động bằng hình thức chính trị thì không đủ để đẩy mạnh phong trào đi tới. Nhưng nếu phát động khởi nghĩa vũ trang ngay thì quân thù sẽ tập trung đối phó. Cuộc đấu tranh bây giờ phải từ hình thức chính trị tiến lên hình thức quân sự. Song hiện nay chính trị còn trọng hơn quân sự"1 (Võ Nguyên Giáp: Những chặng đường lịch sử, Nxb. Văn học, Hà Nội, 1977, tr.129). Chủ trương sáng suốt thay đổi hình thức đấu tranh từ chính trị tiến lên quân sự và Người chỉ rõ cho đến thời điểm đó chính trị còn trọng hơn quân sự, có ý nghĩa rất quan trọng trong việc chỉ đạo các hoạt động thực tiễn. Trên cơ sở định hướng đó, đến đầu năm 1945, phong trào cách mạng có những bước phát triển mới. Cũng từ định hướng đó, khi Hồ Chí Minh ra nước ngoài thực hiện chiến lược ngoại giao quốc tế thì Tổng Bí thư Trung ương Đảng Trường Chinh đã quyết định triệu tập và chủ trì Hội nghị Ban Thường vụ Trung ương Đảng (mở rộng) ngay trong đêm Nhật đảo chính Pháp (9-3-1945). Hội nghị quyết định thay đổi khẩu hiệu và hình thức đấu tranh trong cả nước, sẵn sàng chuyển lên Tổng khởi nghĩa khi đã hội đủ điều kiện. Chủ trương đúng đắn của Thường vụ Trung ương Đảng đã lập tức dấy lên cao trào chống Nhật, cứu nước mạnh mẽ trong toàn quốc. Hàng triệu hội viên mới gia nhập Việt Minh. Lực lượng chính trị ở thành thị và nông thôn cũng như lực lượng vũ trang phát triển nhanh chóng. Khởi nghĩa từng phần nổ ra ở nhiều địa phương. Thế và lực cách mạng phát triển mạnh. Có được kết quả đó là do lãnh tụ Hồ Chí Minh và Đảng Cộng sản Việt Nam có quan điểm đúng đắn trong xây dựng lực lượng chính trị, quân sự và xác định các hình thức đấu tranh phù hợp, sáng tạo.


Tư tưởng xây dựng lực lượng và tư tưởng về các hình thức đấu tranh, xét đến cùng, đều có cốt lõi là tính nhân dân trong công tác tổ chức các hoạt động quân sự. Tính nhân dân, bao giờ cũng vậy, tự nó biểu hiện trên hai phương diện: phương diện thứ nhất là sự tham gia và thái độ của nhân dân đối với các hoạt động quân sự được tổ chức và vận động; phương diện thứ hai chính là công tác tổ chức và vận động quần chúng nhân dân khi tiến hành các hoạt động quân sự. Thật vậy, trong khi phương diện thứ nhất là nền tảng cho phương diện thứ hai, thì phương diện thứ hai của tính nhân dân, như đã được trình bày, chính là cốt lõi của tư tưởng quân sự về xây dựng lực lượng cũng như tư tưởng quân sự về các hình thức đấu tranh trong khởi nghĩa. Còn có thể thấy rằng, khi tính nhân dân trên hai phương diện đó được biểu hiện ở mức cao nhất, nghĩa là hai phương diện của tính nhân dân trong tư tưởng quân sự thống nhất trong các biểu hiện của nó, thì khởi nghĩa đến rất gần giai đoạn tổng khởi nghĩa.
Logged

Ai công hầu, ai khanh tướng, vòng trần ai, ai dễ biết ai
Thế Chiến Quốc, thế Xuân Thu, gặp thời thế, thế thời phải thế
quansuvn
Moderator
*
Bài viết: 6599



WWW
« Trả lời #24 vào lúc: 22 Tháng Giêng, 2022, 08:23:16 pm »

IV- KHỞI NGHĨA TỪNG PHẦN TIẾN LÊN TỔNG KHỞI NGHĨA

Trong khởi nghĩa vũ trang, việc xác định đúng hình thái khởi nghĩa có ý nghĩa rất quan trọng. Nếu xác định đúng về lý luận, thì từ đó công tác tổ chức khởi nghĩa sẽ có những bước chuyển quan trọng trong giai đoạn khởi nghĩa, từ đó tạo điều kiện cho sự phong phú trong hoạt động và thành công trong thực tiễn của khởi nghĩa. Khởi nghĩa từng phần tiến lên Tổng khởi nghĩa là luận điểm mới được Đảng khái quát và nêu rõ trong Nghị quyết Hội nghị Trung ương của Đảng tháng 5-1941.


Trước đây, tuy không có nhiều tài liệu đề cập đến hình thái khởi nghĩa về tư tưởng lý luận, nhưng trong thực tiễn lại diễn ra khá đa dạng, nhiều màu sắc. Nhìn chung, các cuộc khởi nghĩa trong lịch sử, có cuộc diễn ra ngắn, có nhiều cuộc kéo dài, nhưng có điểm chung là các cuộc khởi nghĩa đó đều bắt đầu khởi sự từ địa phương các vị thủ lĩnh, sau đó mới lan ra các địa phương khác trong vùng hoặc phát triển thành cuộc khởi nghĩa có tính chất toàn quốc. Nếu các cuộc khởi nghĩa chỉ có tính chất địa phương, hoạt động trong địa phương của một tỉnh hoặc một vùng gồm nhiều tỉnh lân cận thì các cuộc khởi nghĩa đó dù kéo dài nhiều năm, thậm chí trên 30 năm, cuối cùng vẫn bị kẻ thù đàn áp tàn khốc. Đó là trường hợp khởi nghĩa của Lê Duy Mật (1738-1769), khởi nghĩa Hoàng Công Chất (1739-1769), khởi nghĩa Yên Thế (1884-1913)... Nhưng lại có nhiều cuộc khởi nghĩa thời gian ngắn, lúc đầu khởi sự tại quê hương người khởi xướng, sau đó lan rộng ra toàn quốc, được toàn dân ủng hộ, hăng hái hưởng ứng tham gia, nên cuối cùng giành được thắng lợi, xét trên phương diện những mục tiêu ban đầu của khởi nghĩa. Đó là khởi nghĩa Hai Bà Trưng, khởi nghĩa Lý Bí, khởi nghĩa Mai Thúc Loan, khởi nghĩa Phùng Hưng. Đặc biệt, có những cuộc khởi nghĩa, tiêu biểu là khởi nghĩa Lam Sơn và khởi nghĩa Tây Sơn đã chuyển hóa hình thái và tính chất, lúc đầu nổ ra ở địa phương người thủ lĩnh nghĩa quân và mang tính chất khởi nghĩa, về sau phát triển thành cuộc chiến tranh giải phóng, có quân đội hàng chục vạn người, tác chiến trên nhiều địa bàn của cả nước, đánh bại quân xâm lược trên chiến trường, kết thúc thắng lợi sự nghiệp cứu nước, cứu dân.


Kế thừa và phát triển truyền thống quân sự của dân tộc và vận dụng sáng tạo lý luận Mác - Lênin về khởi nghĩa vũ trang, Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng đã xác định đúng hình thái khởi nghĩa - khởi nghĩa từng phần tiến lên tổng khởi nghĩa trong cả nước. Ngay từ những năm hoạt động ở nước ngoài, Nguyễn Ái Quốc đã dành nhiều thời gian nghiên cứu lý luận, khảo sát các cuộc khởi nghĩa tiêu biểu như khởi nghĩa ở Đa Hô Mây, Thổ Nhĩ Kỳ, Ấn Độ, cách mạng tư sản Pháp, Mỹ và nhất là lưu ý đến các cuộc khởi nghĩa do giai cấp vô sản lãnh đạo như Công xã Pari (1871), Tổng khởi nghĩa Tháng Mười Nga (1917), khởi nghĩa Quảng Châu (1927). Nhận thấy những bài học sâu sắc của cuộc Tổng khởi nghĩa ở Nga, nên khi về nước cùng với Trung ương Đảng trực tiếp lãnh đạo cách mạng, Nguyễn Ái Quốc đã dành thời gian dịch tác phẩm Lịch sử Đảng Cộng sản (b) Liên Xô1 (Chính trong thời gian này, 1941-1942, Nguyễn Ái Quốc biên soạn một số tài liệu quan trọng đối với công tác huấn luyện quân sự bấy giờ trên Cao - Bắc - Lạng: Một là, tác phẩm Cách đánh du kích, trình bày nguyên lý và phương pháp đánh du kích, tổ chức tác chiến du kích. Hai là, tác phẩm Lịch sử nước ta, gồm 236 câu lục bát với sự đúc rút tinh thần đoàn kết và truyền thống dân tộc (Dân ta xin nhớ chữ Đồng/Đồng tình, đồng sức, đồng lòng, đồng minh) - tài liệu này được phổ biến rộng rãi để động viên tinh thần nhân dân. Ba là, bản dịch cuốn Lịch sử Đảng Cộng sản (b) Liên Xô tóm tắt. Xem Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.3. Từ công tác tổ chức tác chiến đến công tác vận động quần chúng cũng như đường lối cách mạng đã được vạch ra rõ ràng chính trong 3 tác phẩm đó. Đặc biệt cuốn Cách đánh du kích và các chương được tìm thấy về sau là một tác phẩm quân sự quan trọng đối với tư tưởng quân sự Việt Nam nói riêng và thực tiễn cách mạng Việt Nam nói chung. Đối với kho tàng quân sự thế giới về du kích chiến, cuốn Cách đánh du kích có thể xem là một kiệt tác bổ sung vào tư tưởng du kích chiến bên cạnh những tên tuổi như Mao Trạch Đông, Chêrêvara...) - một tác phẩm trình bày khá rõ kinh nghiệm đảng của giai cấp công nhân lãnh đạo khởi nghĩa vũ trang thắng lợi ở Nga. Người nhận xét rằng, cuộc khởi nghĩa ở Nga thành công, mở ra thời đại mới. Xét về hình thái, khởi nghĩa chủ yếu nổ ra ở thành thị, nơi tập trung lực lượng giai cấp công nhân đông đảo. Những bài học kinh nghiệm Tổng khởi nghĩa Tháng Mười Nga rất quý, nhưng khi áp dụng vào thực tiễn phải lưu ý đến bối cảnh và đặc điểm của các nước thuộc địa, bởi ở đó đội ngũ công nhân vừa ít, vừa không tập trung do hệ thống công nghiệp non kém và rời rạc.


Do tầm quan trọng của việc xây dựng lý luận cách mạng giải phóng mà trọng tâm lúc đó là lý luận về khởi nghĩa vũ trang, Nguyễn Ái Quốc bổ sung và hoàn chỉnh tác phẩm Con đường giải phóng. Tác phẩm xác định: Muốn giải phóng, ta phải đánh đuổi Nhật - Tây. Cuộc khởi nghĩa vũ trang sắp diễn ra ở Việt Nam là một cuộc khởi nghĩa giải phóng dân tộc do toàn dân tiến hành, lấy công nhân và nông dân làm lực lượng chủ yếu. Hình thái cuộc khởi nghĩa ở Việt Nam không giống như hình thái khởi nghĩa ở các nước châu Âu. Nếu như các nước châu Âu, châu Mỹ, khởi nghĩa vũ trang thường bắt đầu từ các cuộc bãi công chính trị ở thành thị rồi chuyển tiếp tới bạo động vũ trang thì ở Việt Nam, cuộc khởi nghĩa có thể bùng nổ ở một vài địa phương rồi lan dần khắp nước. Điểm xuất phát các cuộc khởi nghĩa địa phương có thể là những vùng rừng núi, nơi tiện cho lối đánh du kích, tiện cho việc xây dựng căn cứ địa cách mạng1 (Xem Bộ Quốc phòng - Viện Lịch sử quân sự Việt Nam: Hồ Chí Minh - Biên niên sự kiện quân sự (1919-1969), Nxb. Quân đội nhân dân, Hà Nội, 2011, tr.114).


Tinh thần cơ bản đó được Hội nghị Trung ương lần thứ tám của Đảng (5-1941) tiếp nhận. Nghị quyết Hội nghị đã dành hẳn một phần viết về "võ trang khởi nghĩa". Phân tích xu hướng phát triển của tình hình thế giới và trong nước, Hội nghị cho rằng tình hình thế giới chuyển biến sẽ làm cho tình hình Đông Dương thay đổi có lợi cho cách mạng; ách thống trị của Pháp - Nhật tuy chưa bước vào thời kỳ khủng hoảng đến cực điểm, nhưng nhất định trong thời gian tới, khi cuộc chiến tranh chuyển sang có lợi cho phe dân chủ, chính quyền Pêtanh và chính quyền phát xít Nhật lung lay, đổ nát thì lúc đó chúng không thể "đem sức đàn áp cách mạng của ta". Còn đối với nhân dân Việt Nam, tuy đã khổ sở nhiều, nhưng cũng chưa phải đã hết đường sống, cho nên chưa quyết liệt bước vào con đường tranh đấu. Nhưng rồi đây một khi tình thế đã khác, quần chúng nhất định đứng lên chống lại quân giặc. Đến lúc đó, cả thế giới như một nồi nước sôi, cách mạng Đông Dương sẽ có một bước phát triển nhảy vọt để "dọn đường cho một cuộc tổng khởi nghĩa mạnh mẽ". Tiếp thu tư tưởng của Nguyễn Ái Quốc, Hội nghị phân tích và chỉ ra mối quan hệ giữa cách mạng Việt Nam và cách mạng thế giới, từ đó khẳng định hình thái khởi nghĩa ở Việt Nam trong bối cảnh Chiến tranh thế giới thứ hai: "Mai đây cuộc chiến tranh Thái Bình Dương và cuộc kháng chiến của nhân dân Tàu xoay ra hoàn toàn cho cuộc cách mạng Đông Dương thắng lợi, thì lúc đó với lực lượng sẵn có, ta có thể lãnh đạo một cuộc khởi nghĩa từng phần trong từng địa phương cũng có thể giành sự thắng lợi mà mở đường cho một cuộc tổng khởi nghĩa to lớn"1 (Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd, t.7, tr.131-132). Như vậy, "khởi nghĩa từng phần" được Hội nghị đề ra có nội dung khác với khởi nghĩa địa phương. Khởi nghĩa từng phần đóng vai trò đòn bẩy thúc đẩy phong trào cách mạng phát triển nhảy vọt, nó là cơ sở để tổng khởi nghĩa thành công. Chỉ trong điều kiện cuộc tổng khởi nghĩa đang vận động tới chín muồi thì các địa phương mới có điều kiện phát động khởi nghĩa từng phần thắng lợi. Khởi nghĩa từng phần tiến lên tổng khởi nghĩa là hình thái vận động đặc thù của quy luật tổng khởi nghĩa ở Việt Nam được lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc phát hiện, sau đó được Đảng khẳng định trong Nghị quyết Hội nghị Trung ương lần thứ tám của Đảng (5-1941).


Không chỉ quan tâm xây dựng lý luận khởi nghĩa, xác định hình thái đặc thù khởi nghĩa từng phần tiến lên tổng khởi nghĩa, lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc và Đảng còn rất nhạy bén trong chỉ đạo thực tiễn khởi nghĩa vũ trang. Ngay trong đêm phát xít Nhật nổ súng đảo chính Pháp (9-3-1945), Ban Thường vụ Trung ương Đảng đã họp (mở rộng), chủ trương đưa quần chúng ra đấu tranh bằng nhiều hình thức nhằm tập dượt cho quần chúng mạnh dạn tiến lên khởi nghĩa, đồng thời quyết định cao trào kháng Nhật, cứu nước mạnh mẽ. Với chủ trương đúng đắn này của Đảng, phong trào đấu tranh của quần chúng dâng lên mạnh mẽ. Đến tháng 8-1945, thực lực cách mạng đã phát triển hùng hậu. Lúc này, tình hình quốc tế cũng chuyển biến mau lẹ, có lợi cho cách mạng Việt Nam. Trước thời cơ lịch sử xuất hiện, theo quyết định của lãnh tụ Hồ Chí Minh, Đảng họp Hội nghị toàn quốc (từ ngày 13 đến ngày 15-8-1945) và ngay sau đó, Đại hội Quốc dân khai mạc (16-8) tán thành chủ trương Tổng khởi nghĩa của Đảng. Sự kiện lịch sử đó chứng tỏ rằng, tư tưởng Hồ Chí Minh về khởi nghĩa từng phần tiến lên tổng khởi nghĩa không những là hạt nhân của đường lối khởi nghĩa vũ trang của Đảng mà tư tưởng đó đã thâm nhập vào thực tiễn, được toàn dân quyết tâm thực hiện với nghị lực và sức mạnh vĩ đại trong những ngày Tổng khởi nghĩa Tháng Tám năm 1945 lịch sử.


Từ một phương diện nhất định, tư tưởng tổng khởi nghĩa là một bước tiến lớn trong tư tưởng quân sự Việt Nam, và là bộ phận quan trọng trong tư tưởng quân sự Việt Nam hiện đại. Trước hết, tư tưởng tổng khởi nghĩa không chỉ bao gồm hai bộ phận (a) lực lượng khởi nghĩa - phương thức chiến tranh (b) công tác tiến hành khởi nghĩa từ bộ phận đến toàn thể, mà còn bao gồm (c) thời cơ khởi nghĩa. Trong đó, nhân tố (c) cho thấy tính chất hiện đại của tư tưởng tổng khởi nghĩa với hai nhân tố: thời cơ trong nước và thời cơ quốc tế. Như thế, tư tưởng tổng khởi nghĩa và tư tưởng giành chính quyền có mối quan hệ biện chứng, vừa là hai tiến trình độc lập trong tổng thể một cuộc chiến tranh cách mạng giành chính quyền, vừa là hai tiến trình thống nhất và kế tiếp nhau trong tổng thể cách mạng.
Logged

Ai công hầu, ai khanh tướng, vòng trần ai, ai dễ biết ai
Thế Chiến Quốc, thế Xuân Thu, gặp thời thế, thế thời phải thế
quansuvn
Moderator
*
Bài viết: 6599



WWW
« Trả lời #25 vào lúc: 28 Tháng Giêng, 2022, 03:05:54 pm »

V- CHỚP THỜI CƠ LỊCH SỬ ĐẬP TAN CƠ CẤU QUYỀN LỰC ĐỊCH, GIÀNH CHÍNH QUYỀN GẮN LIỀN VỚI BẢO VỆ CHÍNH QUYỀN TRONG CẢ NƯỚC

Mục tiêu hàng đầu của khởi nghĩa vũ trang là đập tan cơ cấu quyền lực của địch, giành chính quyền. Để thực hiện mục tiêu đó, công tác cần có là phải xác định đúng thời cơ thuận lợi để tiến hành những bước cuối của khởi nghĩa vũ trang, nhất là khi thời cơ đã xuất hiện thì phải nhạy bén chớp lấy để phát động quần chúng và lực lượng vũ trang đứng lên giành lại chính quyền gắn liền với bảo vệ chính quyền trong cả nước. Tư tưởng về chớp thời cơ lịch sử đập tan cơ cấu quyền lực địch, giành chính quyền là khớp nối quan trọng và là khâu quyết định trong tổng thể quá trình thực hiện và tiến hành chiến tranh cách mạng.


Khởi nghĩa Hai Bà Trưng, Lý Bí, Mai Thúc Loan, Phùng Hưng... được đông đảo toàn dân ủng hộ, hăng hái tham gia nên giành được thắng lợi. Sau thắng lợi, các vị thủ lĩnh của các cuộc khởi nghĩa đó đều xưng đế hoặc xưng vương, thành lập chính quyền, củng cố lực lượng bảo vệ chính quyền. Tuy nhiên, do ở sát biên giới với các thế lực xâm lược phong kiến phương Bắc có tiềm lực mạnh, bổ sung quân số nhanh, nên việc bảo vệ thành quả khởi nghĩa đều bất thành, bị kẻ thù thẳng tay đàn áp, lập lại ách đô hộ của chúng.


Cuối thế kỷ IX đầu thế kỷ X, phong trào đấu tranh giành quyền tự chủ của nhân dân Việt Nam nổ ra mạnh mẽ. Lúc này, ở Trung Quốc, triều đình phong kiến bắt đầu đổ nát. Nạn cát cứ của các tập đoàn quân phiệt phong kiến và cuộc khởi nghĩa nông dân Hoàng Sào (874-884) đã làm lung lay tận gốc nền thống trị nhà Đường. Chớp thời cơ viên Tiết độ sứ Độc Cô Tổn về nước (6-905), Khúc Thừa Dụ - một hào trưởng đất Hồng Châu (Hải Dương) được nhân dân ủng hộ đã nổi dậy tiến quân chiếm phủ Tống Bình (Hà Nội), tự xưng là Tiết độ sứ, xóa bỏ thực chất chính quyền đô hộ (nhưng lại lợi dụng danh nghĩa của chính quyền đó), chuyển sang giành quyền tự chủ. Nắm được thực quyền, Khúc Thừa Dụ khôn khéo ứng xử với triều đình phong kiến phương Bắc theo phương châm "độc lập thật sự, thần thuộc trên danh nghĩa". Buộc phải công nhận một việc đã rồi, vua Đường phong tước và phong chức "Tĩnh hải quân Tiết độ sứ" cho Khúc Thừa Dụ. Sau khi Khúc Thừa Dụ qua đời, Khúc Hạo lên thay (7-907); khoảng năm 917-918, Khúc Thừa Mỹ thay Khúc Hạo làm Tiết độ sứ cho đến năm 930 thì bị Nam Hán khởi binh đàn áp. Mặc dù Khúc Thừa Mỹ bị quân xâm lược bắt, nhưng chúng không thể đè bẹp được ý chí của lực lượng khẩng chiến; Dương Đình Nghệ, tiếp đến là Ngô Quyền đã chỉ huy quân sĩ đánh bại quân Nam Hán, giành lại quyền tự chủ lâu dài cho đất nước vào năm 938. Chớp thời cơ nổi dậy xóa bỏ thực chất chính quyền đô hộ, nắm thực quyền của họ Khúc và những cải cách quan trọng của Khúc Hạo có ý nghĩa to lớn trong "giai đoạn bản lề" của lịch sử.


Tiếp nối truyền thống đấu tranh chống ách đô hộ phong kiến phương Bắc, từ đầu thế kỷ XV cho đến cuộc khởi nghĩa của Việt Nam Quốc dân Đảng ở Yên Bái (1930), nhiều cuộc khởi nghĩa đã nổ ra. Xét về quy mô, khởi nghĩa Lam Sơn và khởi nghĩa Tây Sơn là nổi bật nhất, đánh dấu bước phát triển mới về tạo thời cơ và chớp thời cơ tiến công địch, giành chính quyền và bảo vệ chính quyền.


Đối với khởi nghĩa Lam Sơn, thời kỳ đầu (1418-1424), nghĩa quân hoạt động ở núi rừng Thanh Hóa gặp nhiều khó khăn, nhưng khi tiến vào đất Nghệ An theo kế của Nguyễn Chích thì thế và lực nghĩa quân có bước phát triển mới. Chỉ trong vòng một năm (1424-1425), nghĩa quân đã giải phóng một vùng đất rộng lớn từ Thanh Hóa đến Thuận Hóa. Nhằm đối phó với nghĩa quân, quân Minh đưa lực lượng vào chống đỡ, đồng thời cho người về nước cầu cứu viện binh. Nhận thấy "tinh binh của giặc tất ở Nghệ An, còn các thành Đông Đô đều ruỗng yếu"1 (Nguyễn Trãi: Toàn tập, Lam Sơn thực lục, Sđd, tr.49), viện binh chưa kịp sang, Lê Lợi và Bộ chỉ huy nghĩa quân quyết định tranh thủ thời cơ mở cuộc tiến công ra Bắc tiêu diệt địch, mở rộng vùng giải phóng. Sau khi tiêu diệt 6 vạn quân Minh2 (Sáu vạn quân Minh bị tiêu diệt là bộ phận quân tiếp viện mới sang do Vương Thông cầm đầu và một bộ phận quân của Phương Chính, Lý An và Sơn Thọ) ở Cổ Lãm, Tốt Động, Chúc Động và Ninh Kiều, Lê Lợi và Nguyễn Trãi chủ trương củng cố hậu phương, xây dựng chính quyền trong đại bộ phận đất nước đã được giải phóng; tiếp tục vây các thành và công hãm thành Đông Quan, chuẩn bị tiêu diệt viện binh của giặc. Bằng nghệ thuật tác chiến độc đáo, quân Lam Sơn nhanh chóng đánh bại hai đạo quân tiếp viện gồm 15 vạn tên do Liễu Thăng và Mộc Thạnh cầm đầu. Quân tiếp viện bị đánh bại, tướng sĩ quân Minh ở Đông Quan vô cùng hoảng sợ nhưng vẫn rất ngoan cố. Với thiện chí hòa bình, kết thúc chiến tranh trên tinh thần đại nghĩa và nhân văn, Lê Lợi và Nguyễn Trãi kiên trì thuyết phục, mở đường thoát danh dự cho quân địch. Mười vạn quân Minh bị đại bộ phận tinh binh (trong tổng số 35 vạn quân Lam Sơn) vây chặt trong thành, không còn con đường nào khác buộc phải "giảng hòa". Bộ chỉ huy Lam Sơn tổ chức "hội thề Đông Quan", cấp ngựa, cấp thuyền cho quân Minh về nước. Việc "tha kẻ hàng mười vạn sĩ binh"1 (Nguyễn Trãi: Thơ văn chữ Hán, Nxb. Văn hóa, Hà Nội, 1962, tr.120), rồi cấp phương tiện cho chúng về nước đã tác động mạnh mẽ đến chủ trương của triều Minh, không dám gây sự báo thù. Sau thắng lợi trọn vẹn của cuộc kháng chiến chống quân Minh xâm lược, vương triều Lê Sơ được thành lập. Quốc gia Đại Việt bước vào thời kỳ phát triển mới và không bị nạn xâm lược của phong kiến phương Bắc trong nhiều thế kỷ.


Khởi nghĩa Tây Sơn cũng có nét đặc sắc riêng trong việc tạo thời cơ diệt địch giành chính quyền và bảo vệ chính quyền. Đó là sau khi lấy được vùng đất Quảng Nam, trên cơ sở thế và lực đã mạnh, Nguyễn Nhạc quyết định danh xưng mới là Tây Sơn Vương (1776). Hai năm sau, ông lên ngôi Hoàng đế, lấy thành Đồ Bàn làm kinh đô. Sau khi đánh bại quân Nguyễn Ánh ở Gia Định (1782) và chiến công vang dội quét sạch quân xâm lược Xiêm ra khỏi đất nước (1785), Nguyễn Nhạc quyết định tiến công quân Trịnh ở Phú Xuân, đánh chiếm toàn bộ Thuận Hóa1 (Lúc đầu, Nguyễn Nhạc chưa nắm được đầy đủ việc phòng thủ của chúa Trịnh ở Phú Xuân. Nhưng sau đó, Nguyễn Phúc Như từ Phú Xuân vào Quy Nhơn nói rõ thực trạng Phú Xuân, Thuận Hóa với Nguyễn Hữu Chỉnh. Nguyễn Hữu Chỉnh trình Nguyễn Nhạc. Khi đã rõ cách bố phòng của quân chúa Trịnh, Nguyễn Nhạc vạch kế hoạch hành quân đánh Phú Xuân, chiếm toàn bộ Thuận Hóa. Lần này, Nguyễn Nhạc không trực tiếp cầm quân mà giao cho Nguyễn Huệ làm Tiết chế quân thủy bộ thực hiện kế hoạch đó). Thực hiện kế hoạch, quân Tây Sơn do Nguyễn Huệ chỉ huy đã đánh bật hơn 3 vạn quân Trịnh khỏi lãnh thổ Đàng Trong, lấy được Phú Xuân (6-1786).
Logged

Ai công hầu, ai khanh tướng, vòng trần ai, ai dễ biết ai
Thế Chiến Quốc, thế Xuân Thu, gặp thời thế, thế thời phải thế
quansuvn
Moderator
*
Bài viết: 6599



WWW
« Trả lời #26 vào lúc: 28 Tháng Giêng, 2022, 03:06:36 pm »

Chớp thời cơ thuận lợi, Nguyễn Huệ cử người về trình báo Nguyễn Nhạc tin đại thắng, đồng thời ra lệnh cho quân sĩ vượt sông Gianh tiến thẳng ra Bắc đập tan sự thống trị của chúa Trịnh đang bị lung lay bởi nạn kiêu binh. Sau chiến thắng, quân Tây Sơn rút về Nam, Bắc Hà lại rơi vào tình trạng hỗn loạn nghiêm trọng. Bởi thế, Nguyễn Huệ lại cầm quân ra Bắc diệt quân phản loạn (5-1788). Để đề phòng sự bất trắc có thể xảy ra, trước khi trở về Phú Xuân, Nguyễn Huệ thành lập Bộ chỉ huy Tây Sơn để cai quản 11 trấn Bắc Hà.


Cuối năm 1788, nhà Thanh cho quân tràn sang xâm lược nước ta. Nhận được tin, ngày 25-11 năm Mậu Thân (22-12-1788), Nguyễn Huệ xưng Hoàng đế, lấy niên hiệu là Quang Trung, trực tiếp cầm quân ra Bắc phá giặc Thanh. Khi dẫn đại quân đến Tam Điệp - Biện Sơn, Hoàng đế Quang Trung đã nói với các tướng sĩ: Lần này, ta thân hành cầm quân, phương lược tiến đánh đều đã được tính toán sẵn, chẳng qua chỉ độ mươi ngày là đã có thế đánh được người Thanh. Nhưng chúng là nước lớn gấp mười lần nước mình, sau khi bị thua một trận, ắt sẽ lấy làm thẹn mà lo mưu báo thù, như thế thì họa binh đao chẳng bao giờ dứt, đó không phải là điều phúc cho dân, ai nỡ lòng nào mà làm được. Đến lúc ấy chỉ có người khéo lời lẽ mới mong dập nổi binh đao1 (Xem Bộ Quốc phòng - Viện Lịch sử quân sự Việt Nam: Danh nhân quân sự Việt Nam thời Lê Trung Hưng - Tây Sơn, Nxb. Quân đội nhân dân, Hà Nội, 2010, tr.85). Đúng như lời Hoàng đế Quang Trung, chỉ bằng một cuộc tiến quân thần tốc với "phương lược tiến đánh" tài tình, quân đội Tây Sơn đã nhanh chóng quét sạch 29 vạn quân xâm lược nhà Thanh ra khỏi bờ cõi nước Việt Nam.


Sau chiến thắng vang dội đó, để bảo vệ chính quyền Tây Sơn, Hoàng đế Quang Trung cử Ngô Thì Nhậm đảm nhiệm việc bang giao với nhà Thanh2 (Theo Kỷ yếu Hội thảo: Phú Xuân - Thuận Hóa thời Tây Sơn, Huế, 20021, thì đến thế kỷ XVIII, nhà Thanh là một đế chế phong kiến mạnh nhất ở phương Đông, dân số năm 1790 trên 300 triệu người. Với tiềm lực mạnh, nhà Thanh có thể động binh trả thù nếu Tây Sơn không có biện pháp ngoại giao mềm dẻo). Năm 1790, Hoàng đế Quang Trùng còn giao cho Ngô Văn Sở dẫn đầu đoàn sứ đưa người đóng giả Quang Trung là Phạm Công Trị sang Yên Kinh mừng thọ vua Thanh nhân dịp 80 tuổi. Cùng với chiến thắng to lớn về quân sự, hoạt động bang giao của Ngô Thì Nhậm một năm ba lần lên ải Nam Quan (Nhất niên tam độ đáo Nam Quan) để gặp các quan triều Thanh bàn việc hữu hảo và hoạt động của phái bộ do Ngô Văn Sở dẫn đầu đã góp phần chấm dứt nguy cơ một cuộc chiến tranh xâm lược mới từ phía nhà Thanh (trước đó, vua nhà Thanh đã cử Phúc An Khang làm Tổng đốc Lưỡng Quảng, phao tin điều động 50 vạn quân sang báo thù). Không những thế, vua Thanh còn chính thức công nhận triều Tây Sơn, ra lệnh an trí bọn lưu vong Lê Chiêu Thống, bãi bỏ lệ cống người bằng vàng, bỏ việc đòi đất đai. Rõ ràng, tư tưởng kiên quyết tiến công đánh bại đối phương bằng đòn quân sự sấm sét trên chiến trường kết hợp với ngoại giao mềm dẻo để bảo vệ nền độc lập đất nước, bảo vệ chính quyền thời Tây Sơn là bước phát triển mới, làm phong phú thêm tư tưởng quân sự của dân tộc.


Tiếp thu truyền thống quân sự đặc sắc của dân tộc, vận dụng sáng tạo chỉ dẫn của các nhà sáng lập chủ nghĩa Mác - Lênin về thời cơ khởi nghĩa, giành chính quyền gắn liền với bảo vệ chính quyền cách mạng, Đảng Cộng sản Việt Nam, đứng đầu là Hồ Chí Minh, đã đề ra những chủ trương phù hợp với điều kiện và đặc điểm của cách mạng Việt Nam. Cần nhấn mạnh rằng, khi đang hoạt động ở nước ngoài, Nguyễn Ái Quốc đã hiểu sâu sắc vấn đề thời cơ trong khởi nghĩa vũ trang. Trong bài giảng cho học viên Việt Nam tại lớp huấn luyện chính trị ở Quảng Châu (Trung Quốc), Người đã viết: "Cuối tháng 10, đâu cũng có tổ chức cả rồi, ai cũng muốn cử sự. Nhưng ông Lênin bảo: "Khoan đã! Chờ ít bữa nữa cho ai ai cũng phản đối chính phủ, lúc ấy sẽ cử sự". Đến ngày 5 tháng 11, chính phủ khai hội để ban bố phép luật mới, mà phép luật ấy thì lợi cho tư bản mà hại cho công, nông. Ông Lênin nói với đảng viên rằng: Mồng 6 cử sự thì sớm quá, vì dân chưa biết hết luật lệ xấu ấy, mà chưa biết luật lệ ấy thì chưa ghét chính phủ lắm. Mồng 8 cử sự thì muộn quá vì khi ấy thì chính phủ đã biết rằng dân oán và đã phòng bị nghiêm ngặt rồi. Quả nhiên ngày mồng 7 Đảng Cộng sản hạ lịnh cách mạng, thì thợ thuyền ào đến vây chính phủ, dân cày ào đến đuổi địa chủ... Từ bữa ấy, chính phủ hoạt đầu bỏ chạy, Đảng Cộng sản cầm quyền, tổ chức ra Chính phủ công, nông, binh"1 (Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.2, tr.279-280). Nguyễn Ái Quốc, qua bài giảng, đã truyền thụ cho học viên hiểu rõ về vấn đề thời cơ trong khởi nghĩa vũ trang, về sau, khi về nước cùng với Trung ương Đảng trực tiếp lãnh đạo cách mạng, Người đặc biệt lưu ý đến vấn đề thời cơ. Trong tác phẩm Con đường giải phóng do Người chỉ đạo biên soạn, chỉnh lý và Nghị quyết Trung ương lần thứ tám của Đảng (5-1941) do Người chủ trì, lý luận về thời cơ khởi nghĩa ở Việt Nam được trình bày sáng rõ. Theo đó, thời cơ xuất hiện khi: Một là, lực lượng đế quốc thống trị lung lay, bối rối, không đủ sức giữ địa vị của chúng như trước nữa. Hai là, dân chúng căm tức kẻ thù cực điểm, quyết hy sinh nổi dậy đấu tranh với đế quốc đến cùng vì hiểu rằng ngồi yên cũng chết. Ba là, chính đảng cách mạng có chính sách đúng lãnh đạo dân chúng khởi nghĩa và được dân chúng tin cậy.
Logged

Ai công hầu, ai khanh tướng, vòng trần ai, ai dễ biết ai
Thế Chiến Quốc, thế Xuân Thu, gặp thời thế, thế thời phải thế
quansuvn
Moderator
*
Bài viết: 6599



WWW
« Trả lời #27 vào lúc: 28 Tháng Giêng, 2022, 03:07:15 pm »

Từ những nét tổng quát về lý luận thời cơ khởi nghĩa được xác định, vấn đề đặt ra là phải theo dõi sát và đánh giá đúng cũng như lượng định chính xác xu hướng diễn biến của tình hình quốc tế và trong nước để vận dụng lý luận đó vào công tác tổ chức và chỉ đạo thực tiễn. Trong thời gian này, những nhân tố nội lực bảo đảm cho cuộc tổng khởi nghĩa mà lãnh tụ Hồ Chí Minh và Đảng Cộng sản Việt Nam xác định trong lý luận và dày công tổ chức đã thành hiện thực. Các điều kiện quốc tế cũng đang vận động thuận lợi, nhất là khi Hồng quân Liên Xô mở cuộc tiến công vào đạo quân Nhật ở Mãn Châu (Trung Quốc); phát xít Nhật đứng trước tình thế sụp đổ chỉ tính từng ngày. Bởi vậy, lãnh tụ Hồ Chí Minh chỉ thị: "Lúc này thời cơ thuận lợi đã tới, dù hy sinh tới đâu, dù phải đốt cháy cả dãy Trường Sơn cũng phải kiên quyết giành cho được độc lập"1 (Võ Nguyên Giáp: Từ nhân dân mà ra, Nxb. Quân đội nhân dân, Hà Nội, 1964, tr. 212). Tuy nhiên, theo Người, thời điểm phát lệnh tổng khởi nghĩa lại phải chính xác, khoa học. Phát lệnh tổng khởi nghĩa sớm hoặc muộn đều không có lợi cho cách mạng, bởi Pháp đang lăm le quay trở lại thuộc địa cũ, Tưởng cũng đang ấp ủ mưu đồ của họ, còn lực lượng phát xít Nhật trên đất nước Việt Nam lúc đó rất lớn. Bởi vậy, thời điểm phát lệnh tổng khởi nghĩa không thể trước lúc quân Nhật có biểu hiện ngoại giao đầu hàng. Nhưng nếu đợi đến lúc Chính phủ Nhật đầu hàng Đồng minh và chỉ thị cho quân Nhật trên chiến trường hạ vũ khí thì sẽ rất phức tạp vì đội quân "nhập Việt" của Tưởng đã đóng sát biên giới sẽ lập tức tràn vào Việt Nam. Chính vì vậy, lãnh tụ Hồ Chí Minh đã theo dõi sát tình hình, nhất là các tin tức từ thủ đô nước Nhật. Qua bản tin của đài Xan Phranxicô (Mỹ) loan báo Chính phủ Thụy Sỹ đã chuyển công hàm của Nhật đến Chính phủ Mỹ đề nghị sửa đổi bốn điều trong bản Tuyên bố Pốtxđam, lãnh tụ Hồ Chí Minh nhận thấy động thái sắp sửa đầu hàng của Nhật Bản. Ngay trong đêm 12-8, Người đã bàn với Tổng Bí thư Trường Chinh họp ngay Hội nghị đại biểu toàn quốc của Đảng, mặc dầu giấy triệu tập ấn định ngày 18-8-1945. Theo gợi ý và chỉ đạo của Người, Thường vụ Trung ương Đảng và Tổng bộ Việt Minh đã quyết định thành lập Ủy ban khởi nghĩa toàn quốc. Đúng 23 giờ ngày 13-8, bản Quân lệnh số 1 về Tổng khởi nghĩa được công bố. Ngày 15-8, trong khi Hội nghị đại biểu toàn quốc của Đảng đang họp phiên cuối cùng để quyết định những chủ trương lớn trong đối nội, đối ngoại, thì trưa hôm đó Đài phát thanh phương Tây đưa tin Nhật Bản tuyên bố đầu hàng Đồng minh. Ngày hôm sau (16-8), Đại hội quốc dân Tân Trào họp và bàn ngay những vấn đề then chốt, tán thành chủ trương Tổng khởi nghĩa của Đảng, quyết định thành lập Ủy ban giải phóng dân tộc Việt Nam do lãnh tụ Hồ Chí Minh làm Chủ tịch. Cũng ngay trong ngày 16-8, Hồ Chí Minh gửi Thư kêu gọi Tổng khởi nghĩa đến toàn thể quốc dân Việt Nam. Bức thư nhấn mạnh: "Giờ quyết định cho vận mệnh dân tộc ta đã đến. Toàn quốc đồng bào hãy đứng dậy đem sức ta mà tự giải phóng cho ta... Chúng ta không thể chậm trễ"1 (Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.3, tr. 554). Lệnh Tổng khởi nghĩa đã phát. Lời hiệu triệu của lãnh tụ dân tộc đã gửi quốc dân. Toàn dân Việt Nam nhất tề vùng dậy. Ngày 19-8, khởi nghĩa thành công ở Hà Nội; ngày 23-8, chính quyền cách mạng được thiết lập ở Huế; ngày 25, ta giành chính quyền ở Sài Gòn. Tổng khởi nghĩa Tháng Tám năm 1945 thành công trong cả nước.


Hiểu rõ nguyên lý mà V.I. Lênin đã nêu về giá trị của cuộc cách mạng khi biết tự bảo vệ thành quả, nên trong quá trình lãnh đạo chuẩn bị và tiến hành khởi nghĩa vũ trang, Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng không chỉ quan tâm đến xây dựng lực lượng cách mạng (chính trị, quân sự) và vấn đề thời cơ khởi nghĩa mà còn rất quan tâm đến việc bảo vệ thành quả cách mạng, gắn việc đấu tranh giành chính quyền với bảo vệ chính quyền.


Quá trình lãnh đạo toàn dân khởi nghĩa từng phần tiến lên Tổng khởi nghĩa, Đảng Cộng sản Việt Nam và Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh đã nêu rõ quan điểm về xây dựng chế độ mới, xây dựng chính quyền và bảo vệ chính quyền cách mạng. Điều đó phản ánh sâu sắc trong tác phẩm Con đường giải phóng và các nghị quyết của Đảng. Dưới ánh sáng tư tưởng Hồ Chí Minh và đường lối khởi nghĩa vũ trang của Đảng, Việt Nam đã xây dựng chính quyền cách mạng ở các căn cứ địa, khu giải phóng; chiến đấu chống các cuộc càn quét của địch bảo vệ vùng giải phóng, bảo vệ chính quyển cách mạng. Tổng khởi nghĩa Tháng Tám năm 1945 thắng lợi, Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc Tuyên ngôn độc lập, trịnh trọng tuyên bố với thế giới và toàn thể quốc dân sự ra đời của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, đồng thời khẳng định mạnh mẽ quyết tâm bảo vệ chính quyển cách mạng, bảo vệ nền độc lập dân tộc: "Nước Việt Nam có quyền hưởng tự do và độc lập, và sự thật đã thành một nước tự do độc lập. Toàn thể dân tộc Việt Nam quyết đem tất cả tinh thần và lực lượng, tính mạng và của cải để giữ vững quyền tự do, độc lập ấy"1 (Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd, t.7, tr.437). Như vậy, cách mạng Việt Nam vừa tạo nên thành quả giành được chính quyền trong cả nước, vừa tạo nên tiền đề vững chắc về tinh thần và lực lượng để bảo vệ thành quả ấy, tiến lên giành những thắng lợi mới trong các giai đoạn lịch sử tiếp theo.


Tóm lại, xuất phát từ nhu cầu của công cuộc đấu tranh cứu nước, cứu dân khỏi ách áp bức ngoại bang, tư tưởng khởi nghĩa vũ trang của dân tộc Việt Nam từng bước hình thành, được bổ sung, hoàn chỉnh và phát triển đến đỉnh cao trong thời kỳ khởi nghĩa từng phần tiến lên Tổng khởi nghĩa dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam. Tư tưởng đó đề cập nhiều nội dung: Khẳng định khởi nghĩa vũ trang thắng lợi trước hết phải có đường lối đúng; tính chất khởi nghĩa toàn dân, do toàn dân tộc tiến hành; chú trọng xây dựng lực lượng, kết hợp các hình thức đấu tranh; xác định hình thái khởi nghĩa, thời cơ khởi nghĩa giành chính quyền gắn liền với bảo vệ chính quyền. Các quan điểm cơ bản trong tư tương khởi nghĩa vũ trang không chỉ soi sáng cho thực tiễn đấu tranh chống ách áp bức ngoại bang trước đây mà còn giúp cho các thế hệ kế tiếp những định hướng có tính nguyên tắc, phương pháp xem xét và vận dụng trong điều kiện lịch sử mới (về sự đúng đắn, sáng tạo trong việc hoạch định chủ trương, đường lối; về phương thức xây dựng lực lượng; phát huy sức mạnh toàn dân tộc; tạo thời cơ và chớp thời cơ...) để xây dựng đất nước giàu mạnh và bảo vệ Tổ quốc bình yên.
Logged

Ai công hầu, ai khanh tướng, vòng trần ai, ai dễ biết ai
Thế Chiến Quốc, thế Xuân Thu, gặp thời thế, thế thời phải thế
quansuvn
Moderator
*
Bài viết: 6599



WWW
« Trả lời #28 vào lúc: 29 Tháng Giêng, 2022, 03:48:38 pm »

Chương III
TƯ TƯỞNG CHIẾN TRANH NHÂN DÂN
VÀ NGHỆ THUẬT QUÂN SỰ VIỆT NAM


Ở Việt Nam, chiến tranh nhân dân và nghệ thuật quân sự là hai lĩnh vực xuất hiện sớm do nhu cầu dựng nước và giữ nước. Ban đầu, chiến tranh là để bảo vệ bộ tộc, bộ lạc, bảo vệ địa bàn cư trú, sinh sống, tiến tới bảo vệ cộng đồng, bảo vệ độc lập dân tộc. Chiến tranh nhân dân và nghệ thuật quân sự là hai lĩnh vực có quan hệ hữu cơ, có sắc thái và tính độc đáo riêng. Trải hàng nghìn năm trong tiến trình lịch sử dân tộc, hai lĩnh vực đó ngày càng được bồi đắp phong phú cả về nội dung, hình thức biểu hiện và tính hiệu quả, trở thành một thứ "cẩm nang", thành truyền thống quý báu của dân tộc Việt Nam. Các nội dung và quan điểm cơ bản của chiến tranh nhân dân và nghệ thuật quân sự - phản ánh cốt lõi tư tưởng về chiến tranh nhân dân và nghệ thuật quân sự đã góp phần quyết định chỉ đạo các cuộc kháng chiến bảo vệ Tổ quốc và giải phóng dân tộc, bảo vệ độc lập, chủ quyền lãnh thổ của dân tộc Việt Nam.


Tư tưởng về chiến tranh nhân dân và nghệ thuật quân sự Việt Nam sở dĩ xuất hiện sớm và có sắc thái riêng, độc đáo là do những nhân tố cội nguồn quyết định và chi phối.

I- TƯ TƯỞNG CHIẾN TRANH NHÂN DÂN

Trong các cuộc kháng chiến ở Việt Nam, do những nhân tố cơ bản - đấu tranh với thiên nhiên và đấu tranh chống ngoại xâm để sinh tồn và phát triển quy định, tính nhân dân đã xuất hiện từ rất sớm và ngày càng được phát triển lên trong công tác tổ chức chiến tranh cũng như vận động quần chúng nhân dân tham gia chiến tranh. Dù ở thời nào, mối quan hệ biện chứng giữa thượng tầng xã hội, hay các lực lượng lãnh đạo xã hội, với các tầng lớp nhân dân của xã hội đó cũng cấu thành bản chất của tính nhân dân. Dưới góc nhìn đó, tính nhân dân vừa là biểu hiện mối quan hệ giữa nhà nước và nhân dân; mặt khác, đến lượt mình, tính nhân dân lại cung cấp động lực cho mối quan hệ đó. Cũng cần nhấn mạnh rằng, một mặt tính nhân dân biểu hiện thông qua từng phương diện cụ thể trong hoạt động xã hội, chẳng hạn chiến tranh; mặt khác, chính những hoạt động xã hội lại bồi đắp, củng cố và phát triển tính nhân dân.


Trong lịch sử Việt Nam, nhà nước và những mối liên kết tạo nên đặc tính của cộng đồng đều gắn liền với hoàn cảnh - nhu cầu chiến tranh và trị thủy. Nói cách khác, hai hoạt động chiến tranh vệ quốc và trị thủy, giữ nước và dựng nước là hai lĩnh vực chính, ở đó, tính nhân dân không ngừng phát triển. Cũng chính trong quá trình dựng nước và giữ nước như vậy, tư tưởng về chiến tranh nhăn dân đã hình thành, như một biểu hiện thực tiễn nhất của tính nhân dân trong lịch sử Việt Nam. Dưới thời phong kiến, do những đặc trưng chính trị - quyền lực cụ thể, chiến tranh nhân dân vẫn còn nhiều điểm chưa thể hiện trọn vẹn được nội dung nhân dân của nó. Đến thời hiện đại, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam và Chủ tịch Hồ Chí Minh, chiến tranh nhân dân phát triển lên một trình độ mới, một chất lượng mới cao hơn, trở thành chiến tranh toàn dân, toàn diện với tính chất triệt để, mục tiêu cao cả, hình thức phong phú và sức mạnh vô địch. Có thể nêu những tư tưởng lớn của chiến tranh nhân dân Việt Nam như sau:


1. Tư tưởng chiến tranh tự vệ, bảo vệ cộng đồng, bảo vệ độc lập dân tộc và hòa bình

Ý chí chiến đấu tự vệ, giữ gìn địa vực cư trú, bảo vệ độc lập, tự do xuất hiện từ rất sớm trong tư tưởng người Việt. Thư tịch cổ ghi rằng, năm 473 Tr.CN, Việt Vương Câu Tiễn diệt được nước Ngô, làm bá chủ cả một vùng đất duyên hải rộng lớn từ Sơn Đông đến Quảng Châu. Việt Vương Câu Tiễn sai sứ sang dụ vua Hùng thuần phục, nhưng vua Hùng đã "chống cự lại"1 (Việt sử lược, Nxb. Văn - Sử - Địa, Hà Nội, 1960, tr.14. Dẫn theo Bộ Quốc phòng - Viện Lịch sử quân sự Việt Nam: Lịch sử quân sự Việt Nam, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1999, t.1, tr.388). Sự kiện được ghi lại đó thể hiện sức sống và tính cách mãnh liệt của dân tộc Việt Nam, ý thức dựng nước đi liền với ý thức giữ nước ngay trong buổi bình minh lịch sử của mình.


Nhà Tần, sau khi thống nhất toàn Trung Quốc (221 Tr. CN), đã phát 50 vạn quân xâm lược phương Nam; liền sau đó là cuộc xâm lược của Triệu Đà. Hai tác giả Trung Quốc sống cách các cuộc chiến kể trên 50 - 60 năm là Lưu An - tác giả sách Hoài Nam Tử và Tư Mã Thiên trong sử ký đã miêu tả chân thực như sau: Trong ba năm (quân Tần) không cởi giáp, dãn nỏ... Nhưng người Việt đều vào trong rừng, ở với cầm thú, không ai chịu để cho quân Tần bắt. Họ cùng nhau đặt người tuấn kiệt lên làm tướng để ban đêm ra đánh quân Tần, đại phá quân Tần và giết được Đồ Thư. (Quân Tần) thây phơi máu chảy hàng mấy chục vạn người...1 (Xem Đào Duy Anh: Lịch sử Việt Nam, quyển thượng, Hà Nội, 1956. Dẫn theo Lịch sử quân sự Việt Nam, Nxb. Quân đội nhân dân, Hà Nội, 1998, t.1, tr.390). Sử ký của Tư Mã Thiên cũng viết: Quân Tần đem lâu thuyền xuống Nam đánh Bách Việt. Người Việt bỏ trốn. Quân Tần đóng lâu, "lương thực bị tuyệt và thiếu... Người Việt ra đánh. Quân Tần đại bại... Trong hơn 10 năm đàn ông mặc áo giáp, đàn bà phải chuyên chở, khổ không sống nổi. Người ta tự thắt cổ trên cây dọc đường. Người chết trông nhau. Kịp khi Tần Thủy Hoàng đế hăng hà thì thiên hạ nổi lên chống"2 (Tư Mã Thiên: Sử ký, Nxb. Văn học, Hà Nội, 1988, tr.48).


Trong thời Bắc thuộc và chống Bắc thuộc, người Việt luôn nổi dậy khởi nghĩa và kháng chiến chống quân xâm lược, giành lại độc lập, chủ quyền. Đây thực tế là thời Bắc thuộc và chống Bắc thuộc. Tiếp theo các cuộc kháng chiến chống quân Tần và quân Triệu, dưới ngọn cờ của Hai Bà Trưng, tại 65 thanh trì1 (Có sách đính chính là 56 thành trì vì cho rằng Hậu Hán thư chép nhầm), nhân dân Âu Lạc đã nổi dậy chống quân Đông Hán. Mục tiêu chiến đấu, như lời thề của Hai Bà tại nơi khởi phát công cuộc tụ nghĩa và khởi nghĩa - cửa sông Hát, vẫn là giành lại độc lập, chủ quyền:

   "Một xin rửa sạch nước thù,
   Hai xin đem lại nghiệp xưa họ Hùng..."2 (Dẫn theo Lịch sử Việt Nam, Sđd, tr.81).

Cuộc khởi nghĩa thắng lợi và chuyển thành kháng chiến, như cách nói hiện nay là chiến tranh bảo vệ Tổ quốc, trong những năm 42-43.

Tiếp đó, năm 248, Bà Triệu lãnh đạo nhân dân nổi dậy khởi nghĩa, mục tiêu vẫn là độc lập tự chủ "đánh đuổi quân Ngô giành lại giang sơn, cởi ách nô lệ..."3 (Dẫn theo Lịch sử Việt Nam, Sđd, tr.109); là cuộc kháng chiến của nhân dân Vạn Xuân chống quân Lương (545- 550), quân Tùy (năm 602). Đến năm 905, Khúc Thừa Dụ lãnh đạo khởi nghĩa giành thắng lợi, nhân dân Việt Nam đã phá bỏ được ách đô hộ của nhà Đường, giành lại tự chủ.


Không chịu thất bại, các triều đại phong kiến Trung Quốc liên tục phái quân sang xâm lược Đại Cồ Việt1 (Quốc hiệu Đại Cồ Việt được Lê Hoàn đặt từ năm 968, kéo dài đến năm 1054). Và, càng trải qua các cuộc kháng chiến chống xâm lược, ý thức về độc lập tự chủ của nhân dân, bản lĩnh người đứng đầu Đại Cồ Việt càng được nâng cao. Lý Bí xưng đế (Lý Nam Đế - 544), Ngô Quyền xưng vương (Ngô Vương Quyền - 938) và Đinh Bộ Lĩnh lên ngôi Hoàng đế (Đinh Tiên Hoàng - 968), sau đó (năm 980) Lê Hoàn là người kế tục, lập nên nhà Tiền Lê, đã khẳng định mạnh mẽ ý thức độc lập, tự chủ. Theo sự phát triển đó, từ thời Ngô, nhân dân Đại Cồ Việt đã tiến hành nhiều cuộc kháng chiến lớn; kháng chiến chống giặc - chiến tranh nhân dân cũng mở ra quy mô rộng lớn với ý nghĩa sâu sắc hơn.
Logged

Ai công hầu, ai khanh tướng, vòng trần ai, ai dễ biết ai
Thế Chiến Quốc, thế Xuân Thu, gặp thời thế, thế thời phải thế
quansuvn
Moderator
*
Bài viết: 6599



WWW
« Trả lời #29 vào lúc: 29 Tháng Giêng, 2022, 03:49:33 pm »

Khi nhà Tiền Lê bước vào buổi tàn mạt, được các triều thần thống nhất tôn lên ngôi thiên tử, Lý Công Uẩn nhìn rõ yêu cầu và điều kiện phát triển đất nước, tin vào sức mạnh của quân và dân Đại Cồ Việt, đã quyết định dời đô từ Hoa Lư ra Thăng Long. Điều này khẳng định vị thế mới của Đại Việt và đặt bệ phóng cho đất nước tiến nhanh về phía trước. Việc dời đô, kinh dinh kiến thiết và đánh thắng giặc Tống xâm lược lần thứ hai dưới triều Lý, chứng tỏ ý thức độc lập, chủ quyền của nhân dân Đại Việt có bước nhảy vọt lớn, vươn lên tầm cao mới. Điều đó kết tinh trong bài thơ thần vang lên từ đền Thánh Tam Giang, bên bờ sông Như Nguyệt, hào sảng khẳng định chủ quyền nước Nam: "Nam quốc sơn hà Nam đế cư,...".


Thời Trần, ý thức tự tôn dân tộc rất cao. Trả lời sự hiến kế của các quan về thay đổi chế độ quan lại, vua Trần Nghệ Tông nói: "Triều trước dựng nước, có luật pháp chế độ riêng, không theo quy chế của nhà Tống, là vì Nam Bắc, nước nào làm chủ nước đó, không phải bắt chước nhau"1 (Đại Việt sử ký toàn thư, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội, 1993, t.II, tr.151).


Trong thế kỷ XIII, nhà Mông - Nguyên ba lần cất quân xâm lược Đại Việt (1258, 1285 và 1287 - 1288). Đánh thắng quân Mông - Nguyên xâm lược là một tiêu biểu của tài lãnh đạo, tổ chức kháng chiến của nhà Trần và tinh thần yêu nước, ý chí quyết chiến, quyết thắng của nhân dân Đại Việt. Đó là tiếng hô đồng thanh "Đánh!" của các bậc phụ lão - những đại biểu có uy tín của nhân dân và đại diện ý nguyện toàn dân trả lời vua Trần về kế đánh giặc; là hai chữ "Sát Thát" mà binh sĩ tự thích vào cánh tay; là câu trả lời của Trần Thủ Độ trước vua Trần, đầy tự tin và khí phách: "Đầu tôi chưa rơi xuống đất, xin bệ hạ đừng lo!".


Trong cuộc kháng chiến chống quân Minh xâm lược vào đầu thế kỷ XV, dưới sự lãnh đạo của Lê Lợi và triều đình nhà Lê - một nhà nước ra đời từ thắng lợi của khởi nghĩa chống ách ngoại bang, tư tưởng về độc lập, chủ quyền được phát huy cao độ. Lê Lợi thường xuyên nhắc nhở nghĩa quân tăng cường sức mạnh đoàn kết, chiến đấu hy sinh vì quê hương, đất nước, như đã tuyên trong Hội thề Lũng Nhai (1416): "Ta cùng các ngươi nghĩa như cha con, mong hết một lòng thu lại bờ cõi"2 (Nguyễn Trãi: Toàn tập, Quân trung từ mệnh tập, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội, 1969, tr.171, 143). Thời Lê - Trịnh, Mạc, trong khoảng 250 năm (nửa đầu thế kỷ XVI đến cuối thế kỷ XVIII), do nhiều nguyên nhân, nhất là với chính sách đối ngoại - đối nội quân sự mềm dẻo của các bậc vua, chúa đương thời, nước Việt Nam giữ được biên cương và không xảy ra họa chiến tranh xâm lược.


Tương tự như khởi nghĩa Lam Sơn do Lê Lợi lãnh đạo đã chuyển thành chiến tranh giải phóng, khởi nghĩa nông dân Tây Sơn vào cuối thế kỷ XVIII cũng phát triển lên thành phong trào dân tộc, thành cuộc chiến tranh giải phóng khi vươn lên làm nhiệm vụ chống ngoại xâm, bảo vệ nền độc lập tự chủ của đất nước: chống quân Xiêm ở phía Nam và chống quân Thanh ở phía Bắc. Cả hai cuộc chiến tranh đều mang tính nhân dân sâu sắc. Trước hết và tiêu biểu trong lịch sử Việt Nam đến lúc đó, là tinh thần tự tôn dân tộc, ý thức kiên quyết bảo vệ độc lập, chủ quyền, bảo vệ văn hóa Đại Việt của lãnh tụ khởi nghĩa, cũng là người đứng đầu đất nước sau đó, Hoàng đế Quang Trung - Nguyễn Huệ.


Từ giữa thế kỷ XIX, nhân dân Việt Nam phải đương đầu với cuộc xâm lược của kẻ thù hoàn toàn mới, hoàn toàn khác trước - một đế quốc phương Tây, hơn hẳn Việt Nam về tiềm lực kinh tế và quân sự, đặc biệt về khoa học kỹ thuật, đó là thực dân Pháp. Nhà Nguyễn không những không dựa vào dân để phát động, tổ chức kháng chiến, mà còn có những hành động ngăn cản nhân dân kháng chiến và để mất nước.


Vào giữa thế kỷ XX, Đảng Cộng sản Việt Nam và Chủ tịch Hồ Chí Minh lãnh đạo toàn dân khởi nghĩa giành lại độc lập, tự do và liền theo đó lãnh đạo cuộc chiến tranh cách mạng chống cuộc xâm lược trở lại nước Việt Nam của thực dân Pháp. Pháp thua, nhân dân Việt Nam tiếp tục kháng chiến chống Mỹ, cứu nước. Mục tiêu của 30 năm chiến tranh cách mạng (1945- 1975) là bảo vệ và phát triển thành quả của Cách mạng Tháng Tám, giành độc lập và thống nhất đất nước trọn vẹn, giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, giải phóng xã hội, tiến lên xây dựng chế độ mới với lý tưởng tốt đẹp "dân chủ, cộng hòa, độc lập, tự do, hạnh phúc". Mục tiêu ấy của cuộc kháng chiến phù hợp với nguyện vọng của mọi người Việt Nam yêu nước trở thành ngọn cờ hiệu triệu, tập hợp lực lượng toàn dân tộc. Trải qua 30 năm chiến tranh, toàn dân đã đoàn kết một lòng xung quanh Ban Chấp hành Trung ương Đảng Lao động Việt Nam do Chủ tịch Hồ Chí Minh đứng đầu, vượt qua bao thử thách to lân, khắc phục mọi thiếu thốn, khó khăn, bền lòng kháng chiến. Những năm chống đế quốc Mỹ xâm lược nếu hậu phương lớn miền Bắc "Thóc thừa cân, quân thừa người" dồn sức cho tiền tuyến lớn miền Nam, lực lượng và thế trận chiến tranh nhân dân ở miền Nam ngày càng phát triển trên cả 3 vùng chiến lược: rừng núi, nông thôn đồng bằng và đô thị; thế trận và lực lượng đó chứng tỏ tính nhân dân sâu rộng của cuộc kháng chiến vì một nước Việt Nam hòa bình, độc lập, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ. Nhờ đó, quân và dân Việt Nam trên cả hai miền Nam, Bắc đã vượt qua muôn vàn hy sinh, gian khổ, khó khăn, nhất là sự chênh lệch về so sánh lực lượng được ví như "Châu chấu đá voi", đánh bại kẻ xâm lược có tiềm lực kinh tế, quân sự với vũ khí tối tân nhất thời hiện đại, vượt trội Việt Nam quá nhiều lần, giành thắng lợi trọn vẹn.


Trong hàng chục cuộc kháng chiến chống ngoại xâm mà dân tộc Việt Nam buộc phải tiến hành, có ba lần kháng chiến đã không thành công, đất nước rơi vào ách thống trị tàn khốc của ngoại bang. Thục An Dương Vương chủ quan, mất cảnh giác, ỷ vào vũ khí, kỹ thuật quân sự - nỏ thần; Hồ Quý Ly không dựa được và không động viên được nhân dân; còn nhà Nguyễn bất lực, bế tắc về phương thức kháng chiến, không những không dựa được vào nhân dân mà còn ngăn cản phong trào kháng chiến của nhân dân và quan lại, sĩ phu yêu nước dẫn đến thảm họa mất nước. Và dù tư tưởng về kháng chiến giữ nước - giải phóng dân tộc và bảo vệ Tổ quốc, tuy mỗi thời mỗi khác, song ngoại trừ ba lần mất nước kể trên, các cuộc kháng chiến - chiến tranh của nhân dân còn lại, đều có một mẫu số chung. Các cuộc kháng chiến vĩ đại nêu trên tỏ rõ sức mạnh to lớn, khát vọng độc lập, tự do của dân tộc Việt Nam.


Mục tiêu kháng chiến vì độc lập, tự do của nhân dân Văn Lang - Âu Lạc - Vạn Xuân - Đại Việt - Việt Nam, gắn chặt với khát vọng một nền hòa bình chân chính để xây dựng một đất nước giàu mạnh, cường thịnh.

Từ môi trường sống của người Việt Nam, nhiều nhà nghiên cứu cho rằng, do gắn liền với "văn hóa lúa nước" mà người Việt Nam sống ôn nhu, bình thản, có phần sâu kín khi trời yên biển lặng và chỉ trở nên quyết liệt, mạnh mẽ khi đất nước nguy nan. Cuộc sống nông nghiệp lúa nước phụ thuộc vào nhiều yếu tố: khí hậu, thời tiết - nắng mưa, giống má, thời vụ, sâu bệnh... khiến cư dân nơi đây phải xử lý thỏa đáng các mối quan hệ trên, và chính điều đó, theo thời gian, dẫn đến tư duy biện chứng và lối sống ôn hòa, hài hòa: hài hòa với con người, với xã hội, với tự nhiên, với lân bang và bạn bè trên thế giới. Chính vì thế, như một lôgích của thực tiễn, càng phải chống xâm lược nhiều, phải đối phó với các thế lực hung hăng khét tiếng, con người Việt Nam, dân tộc Việt Nam càng tha thiết với nền hòa bình - nhưng phải là một nền hòa bình chân chính, hòa bình trong "độc lập, tự do". Từ lịch sử nhiều giông bão, trải qua hàng nghìn năm, đã bồi đắp, hun đúc nên bản sắc, nền văn hóa Việt Nam trọng hòa bình, chuộng nhân nghĩa...
Logged

Ai công hầu, ai khanh tướng, vòng trần ai, ai dễ biết ai
Thế Chiến Quốc, thế Xuân Thu, gặp thời thế, thế thời phải thế
Trang: « 1 2 3 4 5 6 7 8 9 »   Lên
  In  
 
Chuyển tới:  

Powered by MySQL Powered by PHP Powered by SMF 1.1.21 | SMF © 2006-2008, Simple Machines

Valid XHTML 1.0! Valid CSS! Dilber MC Theme by HarzeM