Lịch sử Quân sự Việt Nam
Tin tức: Lịch sử quân sự Việt Nam
 
*
Chào Khách. Bạn có thể đăng nhập hoặc đăng ký. 16 Tháng Tư, 2024, 10:59:03 pm


Đăng nhập với Tên truy nhập, Mật khẩu và thời gian tự động thoát


Trang: « 1 2 3 4 5 6 7 8 9 »   Xuống
  In  
Tác giả Chủ đề: Lịch sử tư tưởng quân sự Việt Nam - Tập 5  (Đọc 2667 lần)
0 Thành viên và 1 Khách đang xem chủ đề.
quansuvn
Moderator
*
Bài viết: 6599



WWW
« Trả lời #10 vào lúc: 29 Tháng Mười, 2021, 09:15:20 pm »

Các phong trào nói trên, ngoài việc phát huy tinh thần yêu nước và truyền thống đấu tranh của dân tộc, còn tiếp thu được trào lưu tư tưởng tư sản phương Tây; đã được đông đảo quần chúng tham gia trên các mặt chính trị, quân sự, văn hóa, tư tưởng và trở thành một phong trào yêu nước rộng lớn với những nội dung, sắc thái mới. Với các hình thức đấu tranh mới như "bạo động", "xuất dương cầu viện", "cải cách văn hóa, xã hội", phong trào yêu nước và cách mạng đầu thế kỷ XX đã góp phần vào sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc và hòa nhập vào cao trào "Phương Đông thức tỉnh" như Lênin đã từng nói đến.


Bấy giờ, ở các nước phương Đông, các nhà yêu nước đều thiên về vận động cải cách, nhưng ở Việt Nam cải cách không tách ròi hoạt động vũ trang. Đấu tranh đòi hỏi cải cách phát triển tới bạo động vũ trang, cũng như đấu tranh vũ trang kết hợp với vận động cải cách đã tạo nên sức mạnh, tính phong phú, đa dạng của phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc.


Nổi bật trong phong trào đấu tranh vũ trang đầu thế kỷ XX là cuộc khởi nghĩa nông dân Yên Thế. Những hoạt động của nghĩa quân Hoàng Hoa Thám gây cho quân Pháp nhiều tổn thất và có ảnh hưởng rất lớn, thu hút sự chú ý của nhiều nhà yêu nước lúc đó như Phan Bội Châu, phan Chu Trinh, v.v.. ở các địa phương trong nước, nhiều cuộc khởi nghĩa vũ trang khác, nhất là của đồng bào các dân tộc thiểu số, vẫn tiếp tục nổ ra mạnh mẽ. Đó là các cuộc khởi nghĩa của Nguyễn Văn Kiêm, Nguyễn Đình Nguyên (Hòa Bình), Giàng Tả Chay (Sơn La), Sùng Mi Chảng (Hà Giang), Trịnh Văn Cấn, Lương Ngọc Quyến (Thái Nguyên), Thăng Mậu (Quảng Ninh), Nơ Trang Lơng (Tây Nguyên)... Những cuộc cuộc khởi nghĩa này tuy tồn tại không lâu, nhưng đã thức tỉnh ý thức dân tộc, ý chí độc lập trong nhân dân, gây cho thực dân Pháp nhiều thiệt hại, nền thống trị của chúng không lúc nào yên. Tuy vậy, thời đại của tinh thần dân tộc dưới hình thức phong kiến, thời đại của khởi nghĩa địa phương chống ngoại xâm sẽ phải nhường chỗ cho thời đại mới, với những hình thức mới của tinh thần dân tộc: đảng chính trị, các hoạt động vận động quần chúng nhân dân, mặt trận chính trị, các tư tưởng cách mạng... Sự thất bại tất yếu của các cuộc khởi nghĩa chống Pháp đầu thế kỷ XX là ánh sáng bùng lên cuối cùng của nền phong kiến Việt Nam. Thất bại của phong trào Cần Vương1 (Phong trào Cần Vương nổ ra vào cuối thế kỷ XIX do đại thần Tôn Thất Thuyết, nhân danh hoàng đế Hàm Nghi đề xướng. Phong trào được coi là chấm dứt với sự thất bại của Phan Đình Phùng và khởi nghĩa Hương Khê. Theo GS. Đào Duy Anh, có thể kể những nguyên nhân thất bại của phong trào này: Một là, nền tảng sản xuất xã hội kém, vũ khí lạc hậu; hai là, lực lượng khởi nghĩa yếu, không đủ khả năng tấn công trực diện với quân đội chính quy của Pháp; ba là, tinh thần chiến đấu không đủ ngoan cường, nhiều thủ lĩnh đầu hàng khi tương quan bắt đầu bất lợi, khiến phong trào tan rã từng mảng nhanh chóng. Xem thêm Đào Duy Anh: Lịch sử Việt Nam từ thời cổ đại đến thế kỷ XIX, Nxb. Văn hóa thông tin, Hà Nội, 2007) vào cuối thế kỷ XIX chính là một thất bại tiêu biểu - thất bại của tư tưởng, ý thức hệ phong kiến, thất bại của một chế độ xã hội đã suy tàn. Nho giáo và hệ tư tưởng phong kiến mà nhà Nguyễn khôi phục đã tỏ ra bất lực và hết vai trò lịch sử trong bối cảnh mới của đất nước và thế giới. Một trong những bài học quý báu được rút ra là, trong điều kiện giai cấp cầm quyền đã bỏ rơi ngọn cờ vốn đã mục nát mà phong trào đấu tranh vẫn tiếp tục giương ngọn cờ ấy thì dù có cố gắng đến mấy cũng không thể thành công được.


Thực vậy, sau Chiến tranh thế giới thứ nhất (1914-1918), với ảnh hưởng của việc khai thác thuộc địa và các trào lưu tư tưởng tư sản từ bên ngoài dội vào, ý thức dân tộc và phong trào yêu nước ở Việt Nam có những bước phát triển mạnh mẽ, có quy mô rộng lớn hơn, hình thức đấu tranh phong phú hơn và gồm nhiều xu hướng chính trị khác nhau. Tầng lớp tư sản dân tộc với phong trào chấn hưng nội hóa, thành lập Đảng Lập hiến đấu tranh chống chuyên quyền của tư bản Pháp, đòi tự do dân chủ. Giới trí thức tiểu tư sản với những hoạt động xuất bản, báo chí sôi nổi, đã cổ vũ mạnh mẽ tinh thần yêu nước của nhân dân. Việt Nam Quốc dân Đảng theo tư tưởng dân chủ tư sản ra đời (1927), tổ chức cuộc khởi nghĩa Yên Bái (1930). Các phong trào chống Pháp tuy phát triển sôi nổi, rộng khắp và gây được tiếng vang lớn, nhưng cuối cùng đều bị đàn áp; nhiều người Việt Nam yêu nước bị bắn giết, giam cầm, tù tội hay bị lưu đày biệt xứ.


Những phong trào yêu nước chống thực dân Pháp nói trên tuy đã biểu lộ một tinh thần dân tộc mạnh mẽ, nhưng rốt cuộc đều bị thất bại, bởi thiếu sự lãnh đạo của một lực lượng xã hội tiên tiến với những lãnh tụ có uy tín lớn, có đường lối phù hợp với khát vọng giải phóng dân tộc triệt để của dân tộc Việt Nam, với xu hướng mới của thời đại.


Phong trào đòi tự do dân chủ sôi nổi của nhân dân Việt Nam đầu thế kỷ XX đứng trước sự khủng hoảng bế tắc "dường như bị chìm trong đêm tối không có đường ra". Ý thức dân tộc và những giá trị yêu nước truyền thống bấy giờ vẫn là một động lực to lớn, nhưng chỉ với những nhân tố đó, quả thực dân tộc Việt Nam chưa thể giải đáp được bài toán thời đại: bằng con đường nào, phương thức nào, với lực lượng xã hội nào, các dân tộc bị áp bức có thể đánh bại được ách thống trị của chủ nghĩa thực dân, giành độc lập, tự do? Thực vậy, các hình thức phong kiến và những lực lượng xã hội đại diện cho ý thức dân tộc, ý thức chính trị từ trước đều không phải là giải pháp cho tình thế mới của dân tộc. Đi tìm một con đường mới, một tư duy mới để giải phóng dân tộc là vấn đề cấp bách của phong trào cách mạng, của lịch sử Việt Nam giai đoạn này. Chính vì thế, sau khi phong trào Cần Vương và những cuộc khởi nghĩa nông dân thất bại, nhiều nhà yêu nước Việt Nam với tinh thần dân tộc mạnh mẽ đã hướng ra nước ngoài, hy vọng tìm ra con đường mới để tự giải phóng. Đó là con đường duy tân của Nhật Bản, con đường Cách mạng Tân Hợi của Trung Quốc, con đường nghị viện tư sản ở các nước phương Tây. Phan Bội Châu và Phan Chu Trinh là những nhân vật tiêu biểu cho xu hướng mới của con đường cứu nước kiểu tư sản, những nhà cách mạng dân tộc đại diện cho một lớp người Việt Nam yêu nước trong giai đoạn chuyển giao giữa hai thời đại và hai thế kỷ. Tư tưởng và hoạt động nhiệt huyết của các ông có ảnh hưởng to lớn đối với sự phát triển của ý thức dân tộc, với phong trào yêu nước Việt Nam đầu thế kỷ XX.


Thất bại của cuộc vận động yêu nước đầu thế kỷ XX chứng tỏ con đường dân chủ tư sản không phải là con đường cứu nước phù hợp với xu thế thời đại, với đòi hỏi của cách mạng Việt Nam. Những nhà yêu nước thuở ấy tuy có tinh thần và ý thức dân tộc cao và lòng yêu nước nhiệt thành, nhưng vẫn chưa nhìn thấy ánh sáng trong đêm tối nô lệ. Giữa lúc đó xuất hiện một xu hướng cách mạng mới do Nguyễn Ái Quốc khởi xướng và lãnh đạo, một nhân tố mới phù hợp với xu thế phát triển của thời đại.
Logged

Ai công hầu, ai khanh tướng, vòng trần ai, ai dễ biết ai
Thế Chiến Quốc, thế Xuân Thu, gặp thời thế, thế thời phải thế
quansuvn
Moderator
*
Bài viết: 6599



WWW
« Trả lời #11 vào lúc: 29 Tháng Mười, 2021, 09:16:47 pm »

Vượt qua tầm nhìn và hạn chế của những người yêu nước đương thời, Nguyễn Ái Quốc là người Việt Nam yêu nước đầu tiên đã tìm ra con đường giải phóng đúng đắn cho giai cấp công nhân, cho nhân dân lao động và toàn thể dân tộc. Bằng trí tuệ và sự hoạt động tích cực của mình, Người đã kịp thời đáp ứng nhu cầu bức thiết của lịch sử. Nguyễn Ái Quốc rất khâm phục tinh thần yêu nước của các bậc tiền bối như Phan Bội Châu, Phan Chu Trinh, Hoàng Hoa Thám, nhưng không đi theo con đường của vị nào. Mang trong mình lòng yêu nước nồng nàn và tình yêu thương bao la đối với đồng bào cùng khổ, truyền thống quật cường của dân tộc, với hoài bão và tư duy vượt qua mọi lối mòn của những người đi trước, năm 1911, Nguyễn Ái Quốc (lúc đó là Nguyễn Tất Thành) đã rời Tổ quốc sang phương Tây để nhận thức thế giới, tìm hiểu tận gốc nền văn minh phương Tây đề tìm một con đường cứu nước đúng đắn cho dân tộc Việt Nam.


Năm 1919, nhân danh những người yêu nước Việt Nam, Nguyễn Ái Quốc đã gửi tới Hội nghị Vécxây tám yêu sách đòi quyền tự do, dân chủ và bình đẳng dân tộc. Từ năm 1921 đến năm 1929, Nguyễn Ái Quốc đã tiến hành một cuộc đấu tranh kiên trì, gian khổ trên phạm vi quốc tế cũng như trong nước, truyền bá quan điểm cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin và con đường cách mạng Việt Nam do Người đề xướng vào công nhân, nông dân và những người Việt Nam có tinh thần yêu nước, đồng thời tích cực chuẩn bị về mọi mặt để thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam.


Ngày 6-1-1930, Hội nghị hợp nhất do Nguyễn Ái Quốc triệu tập họp tại Cửu Long, Hương cảng, Trung Quốc để thống nhất các tổ chức cộng sản ở Việt Nam thành một Đảng Cộng sản chung nhất. Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời, với Chính cương, Sách lược, Điều lệ tóm tắt của Đảng là một bước ngoặt vĩ đại của cách mạng Việt Nam. Con đường cứu nước của Nguyễn Ái Quốc trở thành đường lối của Đảng Cộng sản Việt Nam, của cách mạng Việt Nam do Người sáng lập và lãnh đạo. Những quan điểm tư tưởng quân sự mới phù hợp yêu cầu thời đại đã xuất hiện. Từ đây, Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh trở thành lãnh tụ của Đảng và của cả dân tộc. Cách mạng Việt Nam đã chuyển sang một kỷ nguyên mới. Được lý luận cách mạng soi đường, được một tổ chức tiên tiến lãnh đạo, phong trào yêu nước Việt Nam phát triển vượt bậc. Từ đây, tinh thần yêu nước, ý chí độc lập tự chủ của nhân dân Việt Nam được phát huy mạnh mẽ. Ý thức tự tôn, tự lập, tự cường được củng cố trên cơ sở niềm tin vững chắc vào sự nghiệp giải phóng, vào tiền đồ của dân tộc.


Dưới sự lãnh đạo của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh, những truyền thống cao quý của dân tộc từ ngàn năm được kế thừa, phát huy cao độ và được nhân lên một trình độ mới, một chất lượng mới. Đảng đã kết hợp tinh thần cách mạng của giai cấp công nhân với truyền thống kiên cường, bất khuất, mưu trí, dũng cảm của dân tộc, tạo nên một khí thế cách mạng mới.


Từ năm 1930 đến năm 1945, những cao trào cách mạng mới xuất hiện, trở thành những cuộc tổng diễn tập để tiến tới cuộc Tổng khởi nghĩa Tháng Tám năm 1945. Ý thức dân tộc Việt Nam từng bước phát triển, trưởng thành. Nhiều cuộc khởi nghĩa đã nổ ra như khởi nghĩa Bắc Sơn (9-1940), khởi nghĩa Nam Kỳ (11-1940) và khởi nghĩa Đô Lương (1-1941) báo hiệu một thời kỳ cách mạng mới: thời kỳ những cuộc khởi nghĩa từng phần có thể nổ ra để chuẩn bị cho cuộc tổng khởi nghĩa trong cả nước. Trong thời kỳ này, nhiều chiến sĩ cộng sản đã dấn thân vào con đường cách mạng, chấp nhận hy sinh, tù đày vì sự nghiệp cứu nước. Các liệt sĩ cách mạng Trần Phú, Lê Hồng Phong, Hà Huy Tập, Nguyễn Văn Cừ, Nguyễn Thị Minh Khai... đã "giữ vững chí khí chiến đấu" đến hơi thở cuối cùng. Biết bao chiến sĩ yêu nước đã hy sinh anh dũng vì nền độc lập.


Ngày 27-1-1941, lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc về nước trực tiếp lãnh đạo cách mạng Việt Nam. Mặt trận Việt Minh được thành lập, chủ trương tiến hành khởi nghĩa từng phần tiến tới tổng khởi nghĩa. Đây là thời kỳ động viên quần chúng sôi nổi, mạnh mẽ, phát triển lực lượng chính trị sâu rộng ở nông thôn và thành thị, đồng bằng và rừng núi, kết hợp phát triển lực lượng vũ trang, chuẩn bị mọi mặt tiến tới Tổng khởi nghĩa. Ngọn lửa cách mạng bốc cao chưa từng thấy, tinh thần dân tộc được huy động mạnh mẽ. Những điều kiện chủ quan và khách quan đã hoàn toàn chín muồi. Đảng và Mặt trận đã lãnh đạo nhân dân chớp thời cơ, tiến hành cuộc Tổng khởi nghĩa toàn thắng. Cuộc Tổng khởi nghĩa giành chính quyền Tháng Tám năm 1945 là thể hiện ý chí "Dù phải đốt cháy cả dãy Trường Sơn củng quyết giành cho được tự do, độc lập". Những đoàn người đủ các tầng lớp, tay cầm cờ đỏ sao vàng, cùng vũ khí thô sơ, gậy gộc, dao kiếm, miệng hô những khẩu hiệu cách mạng, tràn lên áp đảo vũ khí và binh lính Nhật; đó là hình ảnh tiêu biểu của Cách mạng Tháng Tám. Trong cuộc Tổng khởi nghĩa Tháng Tám, Đảng đã động viên toàn thể nhân dân Việt Nam từ Bắc chí Nam, tập hợp trong Mặt trận dân tộc thống nhất rộng rãi, trên nền tảng liên minh công nông vững chắc, nhất tề nổi dậy ở khắp thành thị và nông thôn, đập tan ách thống trị của đế quốc và phong kiến, giành toàn bộ chính quyển về tay nhân dân.


Cuộc Tổng khởi nghĩa Tháng Tám năm 1945 là thành quả quyết tâm chiến đấu của nhân dân Việt Nam vì độc lập, tự do và hòa bình dưới sự lãnh đạo của Đảng; là thành tựu tuyệt vời của tinh thần, ý chí, của trí tuệ con người Việt Nam, của truyền thống văn hóa Việt Nam. Tinh thần, trí tuệ ấy xuất hiện từ buổi đầu lịch sử dân tộc, được nâng lên một tầm cao mới. Nó kết tinh những truyền thống đấu tranh kiên cường, bất khuất của một dân tộc có lịch sử hàng nghìn năm chống phong kiến bành trướng xâm lược và gần một thế kỷ đấu tranh chống ách thống trị của chủ nghĩa thực dân. Một dân tộc nô lệ, rên xiết dưới ba tầng áp bức, đã anh dũng đứng lên quét sạch bộ máy thống trị của đế quốc thực dân, phong kiến, giành lại độc lập, tự do, lập nên nhà nước dân chủ nhân dân. Đây là quá trình phát triển tất yếu của lịch sử dân tộc, một đỉnh cao của tinh thần yêu nước, ý chí độc lập, tự do của dân tộc Việt Nam. Ngày 2-9-1945, trong bản Tuyên ngôn độc lập, Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: "Nước Việt Nam có quyền hưởng tự do và độc lập, và sự thật đã thành một nước tự do độc lập. Toàn thể dân tộc Việt Nam quyết đem tất cả tinh thần và lực lượng, tính mạng và của cải để giữ vững quyền tự do, độc lập ấy"1 (Hồ Chí Minh, Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002, t.4, tr.4).


Như vậy, từ giữa thế kỷ XIX, đối tượng đấu tranh của dân tộc Việt Nam đã đổi thay, đó không còn là chủ nghĩa bành trướng Đại Hán và những thế lực xâm lược ở phương Đông nữa, mà là chủ nghĩa tư bản phương Tây. Các phong trào đấu tranh chống xâm lược mang tư tưởng - hình thái phong kiến đều bị thất bại. Đầu thế kỷ XX, nhiều trào lưu, tư tưởng yêu nước, giải phóng dân tộc theo xu hướng mới đã xuất hiện. Tuy nhiên, phải đến khi có sự lãnh đạo của Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh và Đảng Cộng sản Việt Nam, phong trào yêu nước, ý thức độc lập dân tộc mới đi đúng hướng, vận động được quần chúng nhân dân, quy tụ được sức mạnh dân tộc, phát triển cao và giành thắng lợi vĩ đại.
Logged

Ai công hầu, ai khanh tướng, vòng trần ai, ai dễ biết ai
Thế Chiến Quốc, thế Xuân Thu, gặp thời thế, thế thời phải thế
quansuvn
Moderator
*
Bài viết: 6599



WWW
« Trả lời #12 vào lúc: 30 Tháng Mười, 2021, 12:17:04 pm »

III- CHỦ NGHĨA YÊU NƯỚC, TINH THẦN ĐẤU TRANH BẢO VỆ ĐỘC LẬP, TỰ DO VÀ TƯ TƯỞNG QUYẾT CHIẾN QUYẾT THẮNG TRONG BA MƯƠI NĂM CHIẾN TRANH CÁCH MẠNG Ở VIỆT NAM (1945-1975)

Cách mạng Tháng Tám vừa thành công, chỉ ít ngày sau giặc Pháp đã tái xâm lược Đông Dương. Hàng nghìn quân Pháp được quân Anh giúp sức đã đánh chiếm Sài Gòn, mở đầu cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam lần thứ hai. Ở miền Bắc, gần 20 vạn quân Tưởng mượn cớ giải giáp quân Nhật cũng đã tiến vào nước Việt Nam. Nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa vừa ra đời đã phải đứng trước một thử thách "ngàn cân treo sợi tóc". Dân tộc Việt Nam lại bước vào tình thế "một cổ đôi tròng". Lợi dụng Việt Nam đang chồng chất khó khăn, bè lũ đế quốc "định hãm ta trong thế cô độc, buộc ta phải đánh với nhiều kẻ thù một lúc". Để giữ vững hòa bình, chuẩn bị kháng chiến, Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh chủ trương hòa hoãn nhân nhượng, tập trung ngọn lửa đấu tranh vào kẻ thù nguy hiểm nhất. Với quân Tưởng, Chủ tịch Hồ Chí Minh nêu khẩu hiệu "Hoa - Việt thân thiện", hòa hoãn với quân Tưởng và bọn tay sai để tập trung lực lượng chống Pháp, giữ vững chính quyền cách mạng. Sau đó lại hòa với Pháp để đẩy quân Tưởng về nước và mong muốn giải quyết cuộc xung đột Việt - Pháp bằng con đường hòa bình, nếu không thành cũng kéo dài thêm thời gian để chuẩn bị kháng chiến. Để bảo vệ nền độc lập, tự do vừa giành được, nhân dân Việt Nam đã phải chấp nhận chiến đấu chống thực dân Pháp. Một lần nữa nhân dân Việt Nam buộc phải đứng lên cầm vũ khí chống ngoại xâm. Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ rõ: "Bọn thực dân Pháp phải biết rằng: dân Việt Nam không muốn đổ máu, dân Việt Nam yêu chuộng hòa bình. Nhưng nếu cần phải hy sinh mấy triệu chiến sĩ, nếu cần phải kháng chiến bao nhiêu năm để giữ gìn quyền độc lập của Việt Nam, để cho con cháu Việt Nam khỏi kiếp nô lệ, thì chúng ta vẫn kiên quyết hy sinh và kháng chiến. Vì dân Việt Nam tin chắc rằng thế nào cuộc kháng chiến này cũng thành công"1 (Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.4, tr.91-92).


Đêm 19-12-1946, kháng chiến toàn quốc bùng nổ. Cả dân tộc Việt Nam nhất tề đứng lên theo lời kêu gọi của Chủ tịch Hồ Chí Minh, đoàn kết chặt chẽ, quyết chiến đấu đến cùng vì độc lập tự do, với tinh thần "thà hy sinh tất cả chứ nhất định không chịu mất nước, nhất định không chịu làm nô lệ". Trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, theo tiếng gọi thiêng liêng của Bác Hồ kính yêu, cả nước "bất kỳ đàn ông, đàn bà, bất kỳ người già, người trẻ, không chia tôn giáo, đảng phái, dân tộc. Hễ là người Việt Nam thì phải đứng lên đánh thực dân Pháp để cứu Tổ quốc. Ai có súng dùng súng. Ai có gươm dùng gươm, không có gươm thì dùng cuốc, thuổng, gậy gộc. Ai cũng phải ra sức chống thực dân Pháp cứu nước"1 (Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.4, tr.480). Hình tượng những chiến sĩ tự vệ Thủ đô "quyết tử để Tổ quốc quyết sinh" mãi mãi là bức tượng đài bất hủ về một cuộc chiến tranh mà mỗi người dân Việt Nam đều sẵn sàng hy sinh tất cả vì Tổ quốc. Sáu mươi ngày đêm chiến đấu anh dũng ở Hà Nội (19-12-1946 - 17-2-1947), lực lượng vũ trang Thủ đô đã hoàn thành nhiệm vụ tiêu hao và giam chân quân địch để bảo vệ Trung ương Đảng và Chính phủ rút lui an toàn về căn cứ địa. Đó không chỉ là thắng lợi của tinh thần quyết chiến quyết thắng của Vệ quốc đoàn và tự vệ, của những người tình nguyện ở lại "sống chết với Thủ đô", mà còn là thắng lợi của ý chí độc lập, tự do, đại diện cho quyết tâm, trí tuệ của cả dân tộc.


Từ năm 1945 đến năm 1954, quân và dân cả nước đã tiến hành một cuộc kháng chiến toàn dân, toàn diện, trường kỳ và tự lực cánh sinh, giành được những thắng lợi rực rỡ, làm thất bại nhiều kế hoạch chiến lược của thực dân Pháp. Với ý thức dân tộc cao, với tinh thần chiến đấu dũng cảm và sáng tạo, quân và dân Việt Nam đã giành được nhiều chiến công; tiêu biểu là chiến thắng Việt Bắc Thu - Đông 1947, chiến thắng Biên giới (1950), chiến thắng Hòa Bình, Tây Bắc (1952), và cuối cùng là chiến cuộc Đông - Xuân 1953 - 1954 với đỉnh cao là trận quyết chiến chiến lược Điện Biên Phủ chấn động địa cầu.


Chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ là biểu tượng của ý chí quyết chiến, quyết thắng của quân và dân Việt Nam: Chiến đấu vì độc lập, tự do của dân tộc và vì nển hòa bình thế giới. Trước bối cảnh trong nước và quốc tế lúc đó, chiến dịch Điện Biên Phủ có một vị trí hết sức quan trọng. Đây là cuộc đọ sức lớn nhất, quyết liệt nhất, toàn diện nhất giữa quân đội Việt Nam và quân đội Pháp. Khi bước vào chiến dịch này, quân đội và nhân dân Việt Nam đứng trước muôn vàn khó khăn tưởng chừng không thể nào vượt qua nổi. Làm thế nào có thể cung cấp đầy đủ lương thực, vũ khí, đạn dược cho một binh lực lớn ở xa hậu phương hàng 500 - 700km, trong một thời gian dài và trong điều kiện thời tiết, giao thông vận tải cực kỳ khó khăn, lại bị địch thường xuyên bắn phá?


Chính trong những khó khăn, khắc nghiệt đó, ý thức dân tộc, truyền thống yêu nước, ý chí và quyết tâm chiến đấu của nhân dân Việt Nam, vì độc lập, tự do của Tổ quốc lại được tôi luyện và phát huy mạnh mẽ. Hưởng ứng lời kêu gọi của Chủ tịch Hồ Chí Minh và nêu cao tinh thần "Dân tộc trên hết, Tổ quốc trên hết", "Tất cả cho tiền tuyến, tất cả cho chiến thắng", nhân dân cả nước, từ vùng tự do, cũng như trong các vùng tạm bị chiếm đều hăng hái tự nguyện đóng góp sức người, sức của, sẵn sàng hy sinh hết thảy vì độc lập, tự do. Cả nước ra trận, cả dân tộc, từ đồng bào người Kinh đến đồng bào các dân tộc thiểu số, từ thanh niên, phụ nữ đến người già, trẻ nhỏ đều tham gia đánh giặc, cứu nước bằng trí tuệ, lòng dũng cảm và bằng mọi phương tiện sẵn có của mình. Trong 9 năm kháng chiến chống Pháp, sức mạnh của hậu phương lại được phát huy cao độ, đặc biệt trong chiến dịch Điện Biên Phủ. Cả hậu phương rộng lớn của đất nước, từ vùng tự do Việt Bắc, Liên khu III, Liên khu IV, vùng mới giải phóng Tây Bắc, vùng du kích và căn cứ du kích ở đồng bằng Bắc Bộ, vùng mới giải phóng ở Thượng Lào đều dồn sức người, sức của cho chiến dịch. Đồng bào Tây Bắc, Việt Bắc, Liên khu III, Liên khu IV đã đóng góp 4.720.000 ngày công với 260.000 dân công, 20.991 xe đạp thồ và hàng chục nghìn phương tiện vận chuyển thô sơ, bán thô sơ khác. Chỉ riêng số vật phẩm đã chuyển được ra mặt trận hơn 2 vạn tấn, trong đó có 14.950 tấn gạo, 266 tấn muối, 62,7 tấn đường, 577 tấn thịt và 565 tấn thức ăn khô1 (Theo Hậu cần chiến dịch trong kháng chiến chống Phap, Nxb. Quân đội nhân dân, Hà Nội, 1994, tr.138).
Logged

Ai công hầu, ai khanh tướng, vòng trần ai, ai dễ biết ai
Thế Chiến Quốc, thế Xuân Thu, gặp thời thế, thế thời phải thế
quansuvn
Moderator
*
Bài viết: 6599



WWW
« Trả lời #13 vào lúc: 30 Tháng Mười, 2021, 12:17:42 pm »

Trong các chiến dịch của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, truyền thống yêu nước, ý chí quyết chiến quyết thắng vì độc lập, tự do của Tổ quốc và truyền thống "Cả nước một lòng, toàn dân đánh giặc", đã được phát huy mạnh mẽ. Trong chiến đấu và phục vụ chiến đấu, đã xuất hiện nhiều tấm gương chiến đấu hy sinh, kiên cường, dũng cảm, sáng tạo tuyệt vời, làm rạng rỡ thêm truyền thống yêu nước, ý chí quyết chiến quyết thắng. Tiêu biểu là Mạc Thị Bưởi, Võ Thị Sáu, anh hùng Núp, Nguyễn Thị Chiên, Ngô Gia Khảm... Các chiến sĩ Tô Vĩnh Diện và Nguyễn Viết Chức đã hy sinh thân mình để bảo vệ pháo; Bê Văn Đàn lấy thân mình làm giá súng; Phan Đình Giót đã lấy thân mình lấp lỗ châu mai tạo điều kiện cho toàn đơn vị tiến vào diệt địch... Cuộc chiến đấu lúc đầu không cân sức giữa dân tộc Việt Nam và kẻ xâm lược như "châu chấu đá xe", nhưng dân tộc Việt Nam vẫn "Gan không núng. Chí không mòn", để cuối cùng làm nên một Điện Biên Phủ chấn động địa cầu. Chính ý thức dân tộc, tinh thần quyết chiến quyết thắng vì độc lập, tự do đã tạo nên sức mạnh to lớn, góp phần quan trọng đưa cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp vượt qua những khó khăn chồng chất, giành thắng lợi từng bước, tiến lên giành thắng lợi hoàn toàn, đánh bại thực dân Pháp xâm lược. Đến đây, có thể nói rằng, những hình thức hiện thực hay lực lượng thực tiễn của tinh thần dân tộc, chủ nghĩa yêu nước đã tựu thành không chỉ trên nền tảng dân tộc mà còn trên đà phát triển tiến tới sự hình thành một xã hội mới. Thực vậy, chính cuộc chiến tranh vệ quốc là môi trường tốt nhất để dân tộc Việt Nam giải quyết triệt để mâu thuẫn giữa lợi ích giai cấp và lợi ích dân tộc, giữa tinh thần dân tộc và hiện thực mất nước. Hiệp định Giơnevơ sau chiến thắng Điện Biên Phủ là minh chứng cho sự trưởng thành chính trị của những người lãnh đạo xã hội mới, cũng cho thấy tư cách của một chính phủ thực sự, đại diện cho dân tộc Việt Nam độc lập, tự do.


Nhưng đế quốc Mỹ đã phá hoại Hiệp định Giơnevơ, dựng nên chính quyền tay sai và biến miền Nam Việt Nam thành thuộc địa kiểu mới, thành căn cứ quân sự của Mỹ, nhằm chia cắt lâu dài đất nước Việt Nam, ngăn chặn làn sóng cách mạng thế giới1 (Trong bối cảnh thế giới bấy giờ, và trong nhận thức của chính giới Mỹ, chủ nghĩa dân tộc của các nước thuộc địa có vẻ đã tìm thấy một hình thái thích đáng có thể phát huy sức mạnh tối đa của dân tộc ấy: chủ nghĩa cộng sản. Tổng thống Aixenhao (D.Eisenhower) đã phát biểu nói rõ rằng cần ngăn cản chủ nghĩa cộng sản tại Đông Dương, mà trọng tâm là miền Nam Việt Nam, nếu không làn sóng cộng sản sẽ cuốn phăng Đông Nam Á. Kế hoạch của Mỹ là phế truất Bảo Đại một cách hợp thức (để Bảo Đại tự thoái vị), lập ra một chính quyền bản địa (chính quyền Ngô Đình Diệm), để cho chính quyền này nắm giữ cùng lúc hai ngọn cờ quốc gia và chống cộng. Kế hoạch này, rốt cuộc, đã không như dự định của Mỹ. Xem thêm: Pentagon Papers: Evolution of the War, U.S. and France's Withdrawal from Vietnam, 1954-56, The U.S. National Archives and Records Administration, p.5-6), dẫn đến cuộc đụng đầu lịch sử giữa dân tộc Việt Nam anh hùng với đế quốc Mỹ - thế lực hiếu chiến lớn mạnh và tàn bạo nhất thời đại.


Cuộc kháng chiến chống đế quốc Mỹ là thử thách lớn nhất đối với dân tộc Việt Nam. Cuộc xâm lược của đế quốc Mỹ đe dọa thủ tiêu những thành quả cách mạng mà nhân dân Việt Nam đã giành được, đưa dân tộc Việt Nam trở lại ách nô lệ dưới hình thức mới. Lúc đầu, các lực lượng tiến bộ không tránh khỏi nghi ngại và lo âu cho nhân dân Việt Nam trong một cuộc chiến không cân sức, trước một kẻ địch có sức mạnh quân sự và kinh tế hùng hậu. Hệ thống các nước xã hội chủ nghĩa cùng chung lý tưởng với Việt Nam, nhiệt tình ủng hộ cuộc chiến đấu chính nghĩa của nhân dân Việt Nam, nhưng cũng có nước khuyên ta nên tập trung xây dựng kinh tế hoặc "trường kỳ mai phục" để chờ thời cơ thuận lợi. Sự lo lắng này không phải không có cơ sở. Đế quốc Mỹ có thế mạnh tuyệt đối về quân sự, kinh tế, thậm chí cả về chính trị. Nhưng họ tiến vào Đông Dương mà không hiểu biết về Đông Dương. Chỉ có dân tộc Việt Nam, với tất cả sức mạnh tiềm tàng và hiện có bấy giờ mới dám hiên ngang chấp nhận cuộc đụng đầu lịch sử đó với tinh thần quyết chiến quyết thắng giặc Mỹ xâm lược.


"Nước Việt Nam là một, dân tộc Việt Nam là một", "Không có gì quý hơn độc lập, tự do", "Hễ còn một tên xâm lược trên đất nước Việt Nam thì ta còn phải chiến đấu quét sạch nó đi"; đó là chân lý, là khẩu hiệu, là mệnh lệnh chiến đấu của cả dân tộc Việt Nam. Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng Cộng sản Việt Nam đã thức tỉnh lòng yêu nước, khơi dậy và cổ vũ ý thức dân tộc tiềm ẩn ở mỗi người Việt Nam, phát triển nó thành chủ nghĩa yêu nước và chủ nghĩa anh hùng cách mạng Việt Nam. Vì thế, nhân dân Việt Nam sẵn sàng đứng lên chiến đấu chống lại thế lực hùng cường nhất thế giới để bảo vệ độc lập, tự do của Tổ quốc, chẳng những không sợ mà còn dám đánh, quyết đánh và quyết thắng. Mấy chục triệu người trong cả nước cùng đánh giặc chứ không phải chỉ có quân đội đánh giặc. Cả dân tộc thực hiện một cuộc chiến tranh nhân dân thần thánh. Tuổi trẻ Việt Nam "xẻ dọc Trường Sơn đi cứu nước". Nơi nào có giặc là nơi ấy có người đánh giặc, mỗi người dân là một chiến sĩ, mỗi đường phố là một trận địa, mỗi làng xã là một pháo đài, mỗi tỉnh, huyện là một chiến trường. Quân và dân Việt Nam kiên quyết tiến công, bám địch mà đánh, một người cũng tiến công, đánh lâu dài, lâu bao nhiêu cũng đánh, quyết tâm đánh bại và quét sạch bè lũ xâm lược ra khỏi đất nước. Với tinh thần và ý chí vì độc lập tự do, vì đại nghĩa dân tộc, vì nghĩa vụ quốc tế cao cả, người Việt Nam biết dẹp tình riêng, chịu đựng những hy sinh tổn thất lớn nhất. Hầu hết các gia đình trong cả nước đã gửi con em ra trận, có nhiều gia đình có từ 2 đến 7 con, tất cả đều là liệt sĩ. Trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, biết bao anh hùng, liệt sĩ đã ngã xuống vì Tổ quốc, máu của hàng triệu người Việt Nam đã đổ, tô thắm thêm truyền thống Việt Nam. Tinh thần Nguyễn Văn Trỗi, Nguyễn Viết Xuân... sống mãi trong lòng dân tộc.
Logged

Ai công hầu, ai khanh tướng, vòng trần ai, ai dễ biết ai
Thế Chiến Quốc, thế Xuân Thu, gặp thời thế, thế thời phải thế
quansuvn
Moderator
*
Bài viết: 6599



WWW
« Trả lời #14 vào lúc: 30 Tháng Mười, 2021, 12:18:21 pm »

Chủ nghĩa anh hùng cách mạng thời chống Mỹ, cứu nước là một hiện tượng độc đáo trong xã hội Việt Nam. Nó là sản phẩm của sự kết hợp truyền thống dân tộc với tinh thần cách mạng mới, nó có tính quần chúng hết sức rộng rãi, đã trở thành đạo đức mới, chuẩn mực cuộc sống mới của hàng triệu con người, thể hiện trong câu ngạn ngữ mới: "Việt Nam ra ngõ gặp anh hùng". Tinh thần và ý chí dân tộc, chủ nghĩa anh hùng cách mạng ấy là chủ nghĩa anh hùng tập thể của những con người bình thường làm nên sự nghiệp phi thường. Hàng chục triệu người trong mấy chục năm trường chịu đựng trăm đắng nghìn cay, đồng cam cộng khổ, chống địch trên mọi mặt trận, thực hiện kháng chiến toàn dân, toàn diện, cả nước đánh giặc. Họ đã vươn lên như Phù Đổng với sức mạnh mới, quyết tâm mới, tập trung cố gắng lớn nhất, dốc toàn lực giành lấy thắng lợi cuối cùng. Có những thời điểm khó khăn tưởng chừng không qua nổi, có khi hơn 50 vạn quân Mỹ và đồng minh đã tràn ngập miền Nam, đế quốc Mỹ đã sử dụng nhiều loại phương tiện, vũ khí tối tân, hiện đại nhất, kể cả vũ khí lade và máy bay chiến lược B.52 bắn phá cầu đường, tàn phá nhiều thành phố, làng quê, hòng đè bẹp tinh thần, ý chí chiến đấu của nhân dân Việt Nam, ngăn chặn sự chi viện cho miền Nam. Chỉ riêng năm 1965, chúng đã thực hiện 55.000 phi vụ, ném xuống miền Bắc 33.000 tấn bom đạn, trong đó 50% số lần đánh phá tập trung vào các mục tiêu giao thông vận tải; trung bình mỗi ngày máy bay địch xuất kích từ 100 đến 150 lần/chiếc, ngày cao nhất là 250 lần/chiếc. Trong cuộc tập kích chiến lược đường không 12 ngày đêm cuối năm 1972, đế quốc Mỹ đã sử dụng 729 lần/chiếc máy bay chiến lược B.52, gần 4.000 lần/chiếc máy bay chiến thuật ném bom xuống Hà Nội, Hải Phòng và một số mục tiêu khác, với một khốĩ lượng bom đạn tương đương 35.000 tấn thuốc nổ. Nhưng dưới bom đạn ác liệt của quân thù, nhân dân Việt Nam không nao núng. Đảng ta đã khẳng định: Cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước dù phải trải qua nhiều khó khăn, gian khổ và trong bất cứ tình huống nào, nhân dân Việt Nam trong cả nước cũng nêu cao quyết tâm đánh thắng hoàn toàn giặc Mỹ xâm lược.


Trên mọi chiến trường, người Việt Nam nêu cao tinh thần: "Nhằm thẳng quân thù, bắn", "Nắm thắt lưng Mỹ mà đánh". Bằng ý chí, bằng tài năng và lòng dũng cảm, quân và dân Việt Nam đã kiên cường đánh trả, bắn rơi nhiều máy bay, bắt sống nhiều giặc lái. Đế quốc Mỹ chẳng những không đạt được mục tiêu đánh phá, mà còn bị thất bại nặng nề. Quân địch càng đánh thì nhân dân Việt Nam càng kiên định, lòng yêu nước càng dâng cao, sự quyết tâm đánh giặc càng lớn hơn, mạnh mẽ hơn. Quân và dân miền Bắc thực hiện "vừa sản xuất vừa chiến đấu, vừa quyết tâm đánh bại cuộc chiến tranh phá hoại của địch ở miền Bắc, vừa ra sức giúp đỡ cách mạng miền Nam". Phong trào thi đua yêu nước diễn ra sôi nổi khắp nơi. Đó là phong trào "Thanh niên xung phong", "Thanh niên ba sẵn sàng", "Phụ nữ ba đảm đang", "Tay cày tay súng", "Tay búa tay súng"... "Nhà nhà thi đua, người người thi đua", "Một người làm việc bằng hai", "Thóc không thiếu một cân, quân không thiếu một người", "Giặc phá ta sửa ta đi", "Xe chưa qua nhà không tiếc" nhằm chi viện tốt nhất cho chiến trường miền Nam.


Quân và dân Việt Nam anh hùng đã đánh thắng cuộc chiến tranh xâm lược trải qua năm đời tổng thống Mỹ nối tiếp nhau, làm thất bại bốn chiến lược chiến tranh xâm lược quy mô ngày càng lớn, với tính ác liệt, dã man nhất. Đòn tiến công chiến lược Tết Mậu Thân năm 1968, thắng lợi của cuộc tổng tiến công chiến lược năm 1972, cùng với chiến công xuất sắc của quân và dân Việt Nam đập tan cuộc tập kích chiến lược bằng máy bay B.52 của Mỹ vào Hà Nội và Hải Phòng đã buộc đế quốc Mỹ phải ký Hiệp định Pari, rút quân về nước. Đại thắng mùa Xuân năm 1975 với đỉnh cao là Chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử đã kết thúc vẻ vang cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước. Quân và dân cả nước thực hiện trọn vẹn quyết tâm chiến lược "đánh cho Mỹ cút, đánh cho ngụy nhào", giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất Tổ quốc.


Cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước là cuộc chiến tranh vĩ đại nhất trong lịch sử đấu tranh chống ngoại xâm vô cùng oanh liệt của nhân dân Việt Nam. Thắng lợi đó "mãi mãi ghi vào lịch sử dân tộc Việt Nam như một trang chói lọi nhất, một biểu tượng sáng ngời về sự toàn thắng của chủ nghĩa anh hùng cách mạng và trí tuệ con người, và đi vào lịch sử thế giới như một chiến công vĩ đại của thế kỷ XX, một sự kiện có tầm cỡ quan trọng quốc tế to lớn và tính thời đại sâu sắc"1 (Đảng Cộng sản Việt Nam: Báo cáo chính trị của Ban Chấp hành Trung ương Đảng tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IV, Nxb. Sự thật, Hà Nội, 1977, tr.5-6). Đó là thắng lợi vĩ đại của tinh thần và ý chí độc lập của dân tộc Việt Nam.


Cội nguồn của tư tưởng trên bất cứ phương diện nào chính là tinh thần, vốn là di sản kế thừa giữa các thế hệ thống qua truyền thống và văn hóa. Một dân tộc được cấu thành từ hai mặt: một mặt là toàn thể con người tham gia vào dân tộc ấy, và mặt khác là tinh thần đã nối kết cộng đồng để mỗi thành viên tự ý thức mình là một thành viên của cộng đồng ấy. Chính vì thế, một mặt thì dân tộc chỉ có thể lớn mạnh và đối phó với những nguy cơ của nó nếu động viên được toàn thể lực lượng dân tộc; mặt khác thì không gì có thể động viên được lực lượng dân tộc nếu tinh thần dân tộc không được khơi dậy đủ để thúc đẩy mọi thành viên trong dân tộc ấy. Nhiệm vụ thức tỉnh tinh thần dân tộc, cũng như nhiệm vụ điều chuyển lực lượng toàn dân, bao giờ cũng đặt vào tay lực lượng chính trị đại diện cho dân tộc ấy, và vì thế mà tinh thần dân tộc buộc phải mang lấy hình thái thực tiễn của lực lượng chính trị đại diện cho nó. Trong thời phong kiến, tinh thần dân tộc ấy là trung quân - ái quốc. Trong thời đại cách mạng, tinh thần dân tộc, lòng yêu nước ấy hòa nhập với chủ nghĩa cộng sản để trở thành chủ nghĩa dân tộc, chủ nghĩa anh hùng cách mạng...


Và còn có một thực tế nữa: nếu một dân tộc phải thường xuyên đối mặt với kẻ thù xâm lược, thì tinh thần dân tộc, lòng yêu nước lại sẽ thường xuyên trở thành một ý thức - thực tiễn trong tinh thần và tâm hồn người dân. Trong trường hợp Việt Nam, lòng yêu nước, tinh thần dân tộc, tinh thần độc lập, tự chủ... đã trở thành truyền thống, thành một giá trị trong đời sống mỗi con người Việt Nam. Vì thế, như Chủ tịch Hồ Chí Minh nói: "Đó là một truyền thống quý báu của ta. Từ xưa đến nay, mỗi khi Tổ quốc bị xâm lăng, thì tinh thần ấy lại sôi nổi, nó kết thành một làn sóng vô cùng mạnh mẽ, to lớn, nó lướt qua mọi sự nguy hiểm, khó khăn, nó nhấn chìm tất cả lũ bán nước và lũ cướp nước"1 (Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.6. tr.171).
Logged

Ai công hầu, ai khanh tướng, vòng trần ai, ai dễ biết ai
Thế Chiến Quốc, thế Xuân Thu, gặp thời thế, thế thời phải thế
quansuvn
Moderator
*
Bài viết: 6599



WWW
« Trả lời #15 vào lúc: 09 Tháng Giêng, 2022, 01:40:41 pm »

Chương II
TƯ TƯỞNG KHỞI NGHĨA VŨ TRANG


Trong lịch sử hàng nghìn năm của dân tộc, nhân dân Việt Nam đã tiến hành nhiều cuộc khởi nghĩa vũ trang chống ách áp bức ngoại bang để giải phóng dân tộc. Bên cạnh đó, còn có nhiều cuộc khởi nghĩa của nông dân chống ách áp bức nặng nề của giai cấp phong kiến, giành lại quyền sống yên bình. Chính trong quá trình chống ngoại xâm và ách áp bức, bóc lột, tư tưởng khởi nghĩa vũ trang từng bước hình thành, không ngừng được bổ sung và phát triển với nhiều nội dung phong phú, đặc sắc. Nhiều luận điểm cơ bản trong tư tưởng khởi nghĩa vũ trang có giá trị lớn, hợp thành bộ phận quan trọng của tư tưởng quân sự Việt Nam.


I- KHỞI NGHĨA VŨ TRANG: CÓ ĐƯỜNG LỐI ĐÚNG THÌ THÀNH CÔNG

Khởi nghĩa vũ trang là nhân dân vùng dậy dùng vũ khí đánh đuổi quân cướp nước, đánh đổ sự thống trị của tập đoàn cầm quyền suy tàn, thối nát, đối lập với lợi ích dân tộc, lợi ích nhân dân; là cuộc đấu tranh to tát về chính trị và quân sự, là việc quan trọng, làm đúng thì thành công, làm sai thì thất bại. Đây là luận điểm then chốt trong tư tưởng khởi nghĩa vũ trang. "Làm đúng thì thành công" nghĩa là trước hết phải có đường lối đúng, biểu hiện tập trung ở việc xác định mục tiêu khởi nghĩa và những chủ trương, quyết sách đúng trong quá trình tiến hành khởi nghĩa.


Từ các cuộc khởi nghĩa Hai Bà Trưng, Lý Bí, Mai Thúc Loan, Phùng Hưng cho đến cuộc khởi nghĩa Lam Sơn, Tây Sơn... giành được thắng lợi là do ngay từ đầu đã xác định đúng mục tiêu khởi nghĩa.

Cuộc khởi nghĩa Hai Bà Trưng đã xác định rõ tôn chỉ, mục đích khởi nghĩa: "Một xin rửa sạch thù nhà. Hai xin đem lại nghiệp Xưa họ Hùng. Ba kẻo oan ức lòng chồng. Bốn xin vẻn vẹn sở công lênh này''1 (Dẫn theo Bộ Quốc phòng - Viện Lịch sử quân sự Việt Nam: Danh nhân quân sự Việt Nam, Nxb. Quân đội nhân dân, Hà Nội, 2004, t.1, tr.20). Mục tiêu đấu tranh là giành lại đất nước, khôi phục lại "nghiệp xưa họ Hùng" đã cổ vũ mạnh mẽ dân chúng tham gia khởi nghĩa, trở thành động lực to lớn của công cuộc cứu nước. Chính vì thế, chỉ trong một thời gian ngắn, dưới sự lãnh đạo của Trưng Trắc và Trưng Nhị, cuộc khởi nghĩa đã thành công, việc "dựng nước, xưng vương dễ như trở bàn tay"2 (Đại Việt sử ký toàn thư, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội, 1993, t.I, tr.178).


Nếu như các cuộc khởi nghĩa trong giai đoạn đầu Bắc thuộc, đỉnh cao là khởi nghĩa Hai Bà Trưng có mục tiêu đấu tranh giành lại đất nước, khôi phục lại chế độ Hùng Vương, thì đến thế kỷ VI, cuộc khởi nghĩa Lý Bí có bước phát triển mới về mục tiêu đấu tranh. Sau khi đánh đuổi quân xâm lược nhà Lương, Lý Bí chủ trương xây dựng quốc gia độc lập, ngang hàng với phương Bắc và trên thực tế "nhân thắng giặc", ông đã "tự xưng là Nam Việt Đế, lên ngôi, đặt niên hiệu, lập trăm quan, dựng quốc hiệu là Vạn Xuân... Dựng điện Vạn Thọ làm nơi triều hội"1 (Đại Việt sử ký toàn thư, Sđd, t.I, tr.179). Đồng thời, ông còn lấy niên hiệu riêng là Đại Đức (đức lớn), xây chùa ở kinh đô và đặt tên là chùa Khai Quốc2 (Ngày nay là chùa Trấn Quốc, nằm trên một hòn đảo phía đông Hồ Tây (thuộc quận Tây Hồ, Hà Nội). Việc dựng "chùa Khai Quốc" có một ý nghĩa quan trọng: rõ ràng Phật giáo đã trở thành một phần lực lượng chính trị thời bấy giờ, và hành động lập chùa còn có nghĩa lực lượng tinh thần ấy nghiễm nhiên có được hình thái thực tiễn của mình trong quá trình giữ nước từ buổi ban sơ. Như thế, từ một góc nhìn khác, đối với Lý Bí, trong khởi nghĩa, nhiệm vụ động viên và biểu hiện lá cờ tinh thần dân tộc cũng như thể hiện tính chính danh của cuộc khởi nghĩa là hết sức cần thiết. Thực vậy, vào cuối thế kỷ VI, nguồn lực vật chất và tinh thần từ phía tăng lữ Phật giáo chắc chắn là một động lực quan trọng cho khởi nghĩa của Lý Bí. Xem thêm: Nguyễn Duy Hinh: Văn minh Đại Việt, Nxb. Văn hóa thông tin, Hà Nội, 2005) (mở nước). Kể từ đó trở đi, ngoại trừ khởi nghĩa của Trần Ngỗi, Trần Quý Khoáng1 (Cuộc khởi nghĩa của Giản Định Đế Trần Ngỗi (mất năm 1410) và sau đó là Trung Quang Đế Trần Quý Khoáng (mất năm 1414) là một ví dụ lịch sử quan trọng. Ban đầu, mục tiêu của cuộc khởi nghĩa là hợp đề của a- sự phục hưng một triều đại và b- độc lập, tự chủ chính trị của một quốc gia. Nhưng khi lợi ích dòng họ và sự ích kỉ cá nhân của Trần Khoáng trở thành động lực cho hành xử của người đứng đầu khởi nghĩa, thì cuộc khởi nghĩa đã nhanh chóng đi đến chỗ tự hủy hoại với việc Trần Khoáng, vì nghi kị, đã chém hai người quan trọng của cuộc khởi nghĩa là Đặng Tất và Nguyễn Cảnh Chân. Xem thêm: Đại Việt sử ký toàn thư, Nxb. Văn hóa thông tin, Hà Nội, 2004) có mục tiêu đánh đuổi quân Minh, khôi phục lại vương triều Trần, còn hầu hết các cuộc khởi nghĩa giành được thắng lợi đều xác định đúng mục tiêu đấu tranh là cứu dân, cứu nước, giành lại độc lập dân tộc, xây dựng vương triều mới thay thế chính quyền đô hộ hoặc vương triều cũ đã suy tàn không còn có vai trò lịch sử nữa.


Có mục tiêu đấu tranh đúng lại phải có những chủ trương chiến lược đúng và quyết sách sáng tạo trong quá trình tiến hành khởi nghĩa. Bởi vì, trong lịch sử, không ít trường hợp có đường lối đúng nhưng phương pháp sai, thiếu nhạy bén và quyết đoán sai lầm nên khởi nghĩa không giành được thắng lợi. Khởi nghĩa Lam Sơn và khởi nghĩa Tây Sơn vượt qua được tình thế hiểm nghèo để tiếp tục tồn tại rồi xây dựng lại lực lượng, nhanh chóng phát triển thành chiến tranh giải phóng quét sạch quân thù là do không chỉ có đường lối đúng mà còn có những quyết sách phù hợp sáng tạo.


Chính thức khởi binh ngày 2 tháng Giêng năm Mậu Tuất (7-2-1418), nhưng trong thời kỳ đầu (1418-1424), nghĩa quân Lam Sơn chủ yếu hoạt động ở vùng núi rừng Thanh Hóa. Suốt thời gian đó, có lúc nghĩa quân gặp muôn vàn khó khăn: "Khi Lương Sơn lương cạn mấy tuần, lúc Khôi Huyện quân không đầy một lữ"; lại có lúc nghĩa quân bị tổn thất nặng nề, quân còn hơn 100 người, ở trong tình thế bị bao vây chặt đến mức "Lê Lai phải liều mình cứu Chúa". Được nhân dân đùm bọc, che chở, nghĩa quân đã vượt qua được khó khăn, từ đó khôi phục được lực lượng. Nhưng khởi nghĩa Lam Sơn chỉ thực sự phát triển vượt bậc kể từ khi lãnh đạo khởi nghĩa chấp nhận kế hoạch của Nguyễn Chích, chuyển hướng chiến lược vào Nghệ An, "nơi hiểm yếu, đất rộng, người đông" để xây dựng địa bàn đứng chân, tiến công quân giặc. Với quyết sách chiến lược đúng đắn đó, chỉ trong một thời gian ngắn (1425-1427), nghĩa quân Lam Sơn liên tiếp giành được thắng lợi và phát triển nhanh chóng về mọi mặt, trở thành lực lượng chiến đấu hùng mạnh có hàng vạn người, đủ các thành phần gồm bộ binh, thủy binh, kỵ binh, tượng binh; cuối cùng đánh thắng quân Minh, giải phóng đất nước.
Logged

Ai công hầu, ai khanh tướng, vòng trần ai, ai dễ biết ai
Thế Chiến Quốc, thế Xuân Thu, gặp thời thế, thế thời phải thế
quansuvn
Moderator
*
Bài viết: 6599



WWW
« Trả lời #16 vào lúc: 09 Tháng Giêng, 2022, 01:41:48 pm »

Cuộc khởi nghĩa Tây Sơn thời kỳ đầu cũng gặp nhiều khó khăn. Có lúc, nghĩa quân lâm vào tình thế hiểm nghèo "lưỡng đầu thọ địch", nghĩa là mặt Bắc thì quân chúa Trịnh, mặt Nam thì quân của chúa Nguyễn. Trước nguy cơ mất còn, Nguyễn Nhạc đã có quyết sách sáng tạo là cử người mang lễ vật đến gặp tướng cầm đầu quân Trịnh với lời lẽ nhún nhường là Nguyễn Nhạc "xin làm tướng tiên phong" cho quân Trịnh để đánh quân Nguyễn. Với nhiều toan tính, người cầm đầu quân Trịnh là Hoàng Ngũ Phúc đồng ý, từ đó quân Tây Sơn tránh được cuộc tiến công của quân Trịnh ở mặt Bắc, tập trung lực lượng đối phó với quân Nguyễn ở mặt Nam. Khi quân Trịnh rút khỏi Quảng Nam về Thuận Hóa, Nguyễn Nhạc nhanh chóng cho quân tiếp quản, đồng thời cử người ra Bắc xin chúa Trịnh cho Nguyễn Nhạc làm trấn thủ vùng đất này và đã được Trịnh Sâm đồng ý. Có được Quảng Nam, Nguyễn Nhạc cho sắm sửa vũ khí, tích trữ lương thực, đóng quân chốt giữ những nơi hiểm yếu. Khi thế và lực đã vững, ông cho rằng không cần phải nhún nhường nữa. Bởi thế năm 1776, Nguyễn Nhạc quyết định danh xưng mới là Tây Sơn Vương, hai năm sau lên ngôi Hoàng đế, đặt niên hiệu là Thái Đức, lấy thành Đồ Bàn làm kinh đô, phong cho Nguyễn Lữ làm Tiết chế, Nguyễn Huệ làm Long Nhương tướng quân1 (Xem Bộ Quốc phòng- Viện Lịch sử quân sự Việt Nam: Danh nhân quân sự Việt Nam từ thời Lê Trung Hưng - Tây Sơn, Sđd, tr.59). Từ đó, nghĩa quân Tây Sơn phát triển mạnh mẽ, lập nhiều chiến công, cuối cùng lật đổ hai tập đoàn phong kiến Trịnh - Nguyễn, quét sạch quân xâm lược Xiêm và Thanh, giữ yên bờ cõi.


Trong khi nhiều cuộc khởi nghĩa xác định mục tiêu đúng, có quyết sách đúng trong quá trình khởi nghĩa thì có không ít cuộc khởi nghĩa do thiếu linh hoạt, chủ trương sai nên dẫn đến thất bại.

Năm 1802, triều Nguyễn - triều đại cuối cùng trong lịch sử chế độ phong kiến Việt Nam được thiết lập. Do chính sách đối nội hà khắc gây cho dân chúng đói khổ, bất bình, thêm vào đó là sự bạc nhược trước các thế lực tư bản phương Tây, đặc biệt là từng bước đầu hàng thực dân Pháp, nên nhân dân nổi dậy chống "cả Triều lẫn Tây"; phong trào nhanh chóng lan tỏa khắp ba miền đất nước dưới sự lãnh đạo của triều đình kháng chiến. Sau khi vua Hàm Nghi bị bắt (11-1888), vai trò lãnh đạo phong trào Cần Vương chuyển hẳn sang văn thân, sĩ phu. Dưới sự lãnh đạo của tầng lớp đó, phong trào đấu tranh chống thực dân Pháp tiếp tục phát triển, hình thành những trung tâm kháng chiến lớn như Hương Sơn - Hương Khê (Hà Tĩnh), Ba Đình - Hùng Lĩnh (Thanh Hóa), Bãi Sậy - Hai Sông (Hải Dương - Hưng Yên). Từ khi phong trào Cần Vương bị thực dân Pháp dập tắt năm 1896 (bên cạnh đó còn cuộc khởi nghĩa nông dân Yên Thế kéo dài đến năm 1913), quyền lãnh đạo công cuộc giải phóng dân tộc chuyển sang những nhà yêu nước có xu hướng dân chủ tư sản. Tuy đã tiến lên một bước mới so với phong trào Cần Vương, nhưng các cuộc khởi nghĩa của Việt Nam Quang Phục hội ở Nam Trung Kỳ và Huế (5-1916)1 (Việt Nam Quang Phục hội được thành lập năm 1912 do Phan Bội Châu đề xướng với tôn chỉ Khôi phục Việt Nam, kiến lập dân quốc cộng hòa. Những hoạt động của hội này một mặt cho thấy sự yếu kém trong tư tưởng khởi nghĩa vũ trang, mặt khác thì sự yếu kém ấy lại phản ánh tình trạng bế tắc của các lực lượng yêu nước bấy giờ. Nỗ lực đáng nói nhất về công tác tổ chức lực lượng tiến đến khởi nghĩa của Việt Nam Quang Phục hội là cuộc vận động phối hợp với vua Duy Tân năm 1916 ở Huế và Nam Trung Kỳ lại là một thảm kịch của công tác tổ chức và đường lối khởi nghĩa. Xem thêm: Dương Kinh Quốc: Việt Nam những sự kiện lịch sử (1858-1918), Nxb. Giáo dục, Hà Nội, 2001, tr.365. Cũng xem thêm: 100 năm phong trào Duy Tân ở miền Trung (Tạp chí Xưa và Nay, số 148/2003)) đến cuộc khởi nghĩa Yên Bái1 (Khởi nghĩa Yên Bái là một phần trong cuộc khởi nghĩa do Việt Nam Quốc dân Đảng (thành lập năm 1927) tổ chức và lãnh đạo, nhằm vào một số thành phố trọng yếu ở miền Bắc Việt Nam, vào tháng 2-1930. Cần thấy rằng, trong tư tưởng khởi nghĩa vũ trang khá mù mờ, công tác tổ chức và kế hoạch khởi nghĩa đều mang tính chất nhất thời, nhỏ hẹp, thậm chí có xu hướng tự phát, thiếu lực lượng, thiếu liên kết thực sự giữa các khâu đoạn của "tổng khởi nghĩa". Cuộc tổng khởi nghĩa như dự tính của họ đã thất bại nhanh chóng) của Việt Nam Quốc dân Đảng (1930) đều không thành công.


Nguyên nhân sâu xa và căn bản mà các cuộc khởi nghĩa chống thực dân Pháp từ năm 1858 đến năm 1930 thất bại chính là tình trạng khủng hoảng về đường lối, thực chất là khủng hoảng về vai trò lãnh đạo, vì chưa có sự lãnh đạo của giai cấp tiên tiến nhất trong xã hội. Giai cấp phong kiến trong những thế kỷ trước từng đóng vai trò tích cực đối với tiến trình lịch sử Việt Nam nhưng từ thế kỷ XVI trở về sau bắt đầu đi xuống. Đặc biệt, khi thực dân Pháp xâm lược nước Việt Nam, giai cấp phong kiến từng bước đầu hàng thực dân Pháp, trở thành lực lượng phản động trên phương diện là một giai cấp. Thất bại của phong trào Cần Vương, tiêu biểu là cuộc khởi nghĩa Hương Khê do Phan Đình Phùng lãnh đạo đánh dấu sự chấm dứt của thời kỳ đấu tranh chống thực dân Pháp giải phóng dân tộc dưới khẩu hiệu "phò vua giúp nước". Đoạn tuyệt với con đường cứu nước theo ý thức hệ phong kiến lỗi thời, nhiều sĩ phu hướng ra nước ngoài tìm đường cứu nước theo khuynh hướng dân chủ tư sản, nhưng lúc đó khuynh hướng ấy cũng đã bị lịch sử vượt qua. Cho nên, tuy đầy nhiệt huyết cứu nước, nhưng những người yêu nước theo khuynh hướng dân chủ tư sản vẫn không tìm thấy ánh sáng soi đường để đưa công cuộc giải phóng dân tộc đến thắng lợi. Khởi nghĩa Yên Bái - nỗ lực cuối cùng của Việt Nam Quốc dân Đảng thất bại. Khẩu hiệu "Không thành công thì cũng thành nhân" biểu lộ tính chất hăng hái nhất thời, đồng thời cũng "biểu lộ tính chất không vững chắc, non yếu của phong trào tư sản"1 (Lê Duẩn: Một vài đặc điểm của cách mạng Việt Nam, Nxb. Sự thật, Hà Nội, 1959, tr.41).


Không có con đường cứu nước đúng đắn, các phong trào yêu nước nói chung, hàng chục cuộc khởi nghĩa nói riêng của nhân dân Việt Nam từ năm 1858 đến năm 1930, tuy diễn ra khắp nơi trong cả nước và đã gây cho kẻ thù những thiệt hại to lớn; nhưng rốt cuộc, không lật đổ được nền thống trị của thực dân Pháp.
Logged

Ai công hầu, ai khanh tướng, vòng trần ai, ai dễ biết ai
Thế Chiến Quốc, thế Xuân Thu, gặp thời thế, thế thời phải thế
quansuvn
Moderator
*
Bài viết: 6599



WWW
« Trả lời #17 vào lúc: 09 Tháng Giêng, 2022, 01:43:00 pm »

Giữa lúc những hoạt động của các nhà yêu nước theo khuynh hướng dân chủ tư sản, cũng như các cuộc đấu tranh vũ trang của phong trào Duy Tân (1908), Việt Nam Quang Phục hội (1915-1916), khởi nghĩa Thái Nguyên (1917)... không thành công, thì một xu hướng cách mạng mới hình thành do Nguyễn Ái Quốc khởi xướng và lãnh đạo. Trải qua nhiều năm, đi qua nhiều nơi, hòa mình vào cuộc sông lao động và đấu tranh của nhân dân nhiều nước ở châu Á, châu Phi, châu Mỹ, châu Âu, hoạt động sôi nổi trong phong trào công nhân quốc tế, Nguyễn Ái Quốc đã đến với chủ nghĩa Mác - Lênin và trở thành người cộng sản Việt Nam đầu tiên (1920). Kể từ đó, Người hướng cách mạng Việt Nam vào quỹ đạo cách mạng vô sản. Năm 1927, các bài giảng của Người tại Trường huấn huyện chính trị ở Quảng Châu được Bộ Tuyên truyền của Hội Liên hiệp các dân tộc bị áp bức Á Đông tập hợp lại, in thành cuốn sách nhan đề Đường kách mệnh1 (Tác phẩm Đường kách mệnh, do Bộ Tuyên truyền của Hội Liên hiệp các dân tộc bị áp bức Á Đông ấn hành lần đầu tiên tại Quảng Châu (Trung Quốc) năm 1927. Có thể coi tác phẩm này là "đề cương", "dự án" cách mạng Việt Nam khái quát nhất và cơ bản nhất. Cái nhìn về sự liên kết giữa dân tộc cách mệnh và giai cấp cách mệnh, dân tộc cách mệnh và thế giới cách mệnh, cách mệnh An Nam và cách mệnh Pháp, lực lượng cách mệnh và tổ chức cách mệnh... là kim chỉ nam quan trọng cho đường lối cách mạng nói chung và đường lối tổ chức khởi nghĩa nói riêng).


Tác phẩm Đường kách mệnh đề cập đến nhiều vấn đề then chốt của cách mạng Việt Nam. Tư tưởng bao trùm là thực hiện ở Việt Nam cuộc cách mạng "đến nơi" với mục tiêu độc lập dân tộc, dân chủ và chủ nghĩa xã hội. Mục tiêu đó "cũng là mục tiêu của khởi nghĩa vũ trang và chiến tranh cách mạng, gắn cứu nước với cứu dân, giải phóng Tổ quốc và xây dựng chế độ mới tốt đẹp"2 (Đại tướng Võ Nguyên Giáp: Tư tưởng Hồ Chí Minh với quá trình hình thành và chiến thắng của quân đội


Đầu năm 1930, Nguyễn Ái Quốc triệu tập Hội nghị hợp nhất các nhóm cộng sản, thành lập một Đảng Cộng sản duy nhất để lãnh đạo cách mạng Việt Nam. Sau những ngày làm việc khẩn trương trong hoàn cảnh bí mật, các đại biểu dự Hội nghị nhất trí thông qua các văn kiện: Chính cương vắn tắt, Sách lược vắn tắt, Điều lệ vắn tắt,... Chính cương vắn tắt "chủ trương làm tư sản dân quyền cách mạng và thổ địa cách mạng để đi tới xã hội cộng sản"1 (Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1998, t.2, tr.2). Nhiệm vụ cách mạng là đánh đuổi đế quốc Pháp và bọn phong kiến, làm cho nước Việt Nam hoàn toàn độc lập, nhân dân được tự do, lấy ruộng đất của thực dân Pháp và phong kiến chia cho nông dân nghèo. Thành lập chính phủ công nông binh. Tổ chức ra quân đội công nông. Các nhiệm vụ đó bao hàm hai nội dung dân tộc và dân chủ, trong đó nổi lên mục tiêu trước mắt là giành lấy độc lập, tự do cho toàn thể dân tộc Việt Nam.


Trong khi Nguyễn Ái Quốc xác định chính xác đường lối, mục tiêu, động lực cách mạng Việt Nam, xác định đúng đối tượng cách mạng thì Quốc tế Cộng sản do thiếu thông tin, thiếu thực tế về phương Đông và tình hình các nước thuộc địa; hơn nữa trong thời điểm sau Đại hội VI Quốc tế Cộng sản (1928), khuynh hướng "tả" giữ vai trò chủ đạo nên chưa thấy đúng khả năng và lực lượng các giai cấp, các tầng lớp khác ngoài hai giai cấp công nhân và nông dân, chủ trương không liên minh với tư sản dân tộc và phú nông. Theo sự chỉ đạo của Quốc tế Cộng sản, Trần Phú soạn thảo Luận cương chính trị (tháng 10-1930), đặt hai nhiệm vụ phản đế và phản phong đồng thời, ngang nhau1 (Đại tướng Võ Nguyên Giáp: Tư tưởng Hồ Chí Minh và con đường cách mạng Việt Nam, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1997, tr.94). Nhưng sau đó, Đảng đã điều chỉnh lại.


Quá trình chuyển hướng chiến lược đó biểu hiện tập trung ở các Nghị quyết Hội nghị Trung ương lần thứ sáu, bảy và tám của Đảng Cộng sản Đông Dương. Nghị quyết Hội nghị Trung ương lần thứ sáu (11-1939) nhấn mạnh: "Cách mệnh phản đế và điền địa là hai cái mấu chốt của cách mệnh tư sản dân quyền. Không giải quyết được cách mệnh điền địa thì không giải quyết được cách mệnh phản đế. Trái lại không giải quyết được cách mệnh phản đế thì không giải quyết được cách mệnh điền địa - cái nguyên tắc chính ấy không bao giờ thay đổi được, nhưng nó phải ứng dụng một cách khôn khéo thế nào để thực hiện được nhiệm vụ chính cốt của cách mệnh là đánh đổ đế quốc. Hiện nay tình hình có đổi mới. Đế quốc chiến tranh, khủng hoảng cùng với ách thống trị phát xít thuộc địa đã đưa vấn đề dân tộc thành một vấn đề khẩn cấp rất quan trọng. Đám đông trung tiểu địa chủ và tư sản bổn xứ cũng căm tức đế quốc. Đứng trên lập trường giải phóng dân tộc, lấy quyền lợi dân tộc làm tối cao, tất cả mọi vấn đề của cuộc cách mệnh, cả vấn đề điền địa cũng phải nhằm vào cái mục đích ấy mà giải quyết"1 (Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd, t.6, tr.538-539). Hội nghị Trung ương lần thứ bảy (11-1940) xác định kẻ thù chính của cách mạng lúc này là "phát xít Pháp - Nhật". Nghị quyết phân tích phong trào đấu tranh của nhân dân Đông Dương và nhận định: "Quần chúng đã bắt đầu dùng hình thức đấu tranh cao - đấu tranh chính trị và võ trang"; tuy vậy, "ta chưa đứng trước một tình thế trực tiếp cách mạng". Nhưng Nghị quyết cũng lưu ý rằng, một phong trào cách mạng nhất định sẽ nổi lên; do đó, "Đảng phải chuẩn bị để gánh lấy cái sứ mệnh thiêng liêng: lĩnh đạo cho các dân tộc bị áp bức Đông Dương võ trang bạo động giành lấy quyền tự do độc lập"2 (Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd, t.7, tr.58).
Logged

Ai công hầu, ai khanh tướng, vòng trần ai, ai dễ biết ai
Thế Chiến Quốc, thế Xuân Thu, gặp thời thế, thế thời phải thế
quansuvn
Moderator
*
Bài viết: 6599



WWW
« Trả lời #18 vào lúc: 09 Tháng Giêng, 2022, 01:44:09 pm »

Phát triển tư tưởng của Hội nghị Trung ương lần thứ sáu và bảy, Hội nghị Trung ương lần thứ tám Đảng Cộng sản Đông Dương (5-1941) khẳng định: "Trong lúc này khẩu hiệu của Đảng ta là trước hết phải làm sao giải phóng cho được các dân tộc Đông Dương ra khỏi ách của giặc Pháp - Nhật... Vấn đề giai cấp đấu tranh vẫn tồn tại mãi. Nhưng trong giai đoạn hiện tại, quốc gia trước hết, thì tất thảy những yêu sách của bộ phận mà có hại đến quyền lợi của toàn thể, của giai cấp mà có hại đến quyền lợi của dân tộc, thì phải gác lại để giải quyết sau"3 (Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd, t.7, tr.112-113). Để rõ thêm quan điểm mấu chốt này, Nghị quyết giải thích rõ: Vì cuộc đấu tranh trong lúc này, Đảng Cộng sản Việt Nam phải chú ý lãnh đạo cuộc đấu tranh chống Pháp - Nhật, chĩa tất cả mũi nhọn vào kẻ thù của dân tộc hơn là chú ý lãnh đạo cuộc tranh đấu giành quyền lợi cho giai cấp. Phải giải thích cho nhân dân biết rằng, lúc này quyền lợi dân tộc giải phóng cao hơn hết thảy, quyền lợi của bộ phận, của giai cấp phải đặt dưới quyền lợi của toàn thể dân tộc. Cho nên, trong lúc này "cuộc tranh đấu chống địa chủ, tư bản bản xứ không quan trọng bằng cuộc tranh đấu chống Pháp - Nhật"1 (Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd, t.7, tr.128). Tuy nhiên, Đảng xác định không bỏ qua quyền lợi của bộ phận. Mỗi khi quyền lợi của thợ thuyền và dân cày bị bọn tư bản và địa chủ thẳng tay đục khoét, mỗi khi quyền lợi của giai cấp xung đột nhau đến cực điểm mà Đảng xét cuộc tranh đấu là cần thiết thì Đảng phải cương quyết lãnh đạo cuộc tranh đấu ấy. Để lãnh đạo cuộc cách mạng thắng lợi, Nghị quyết Hội nghị nhấn mạnh: "Cần phải thay đổi chiến lược. Sự thay đổi về kinh tế, chính trị Đông Dương, sự thay đổi thái độ, lực lượng các giai cấp Đông Dương, buộc Đảng ta phải thay đổi chính sách cách mạng ở Đông Dương cho hợp với nguyện vọng chung của toàn thể nhân dân Đông Dương, cho hợp với tình hinh thay đổi, Đảng ta phải có một chính sách cách mạng thích hợp với tình trạng ấy, mới chỉ dẫn cuộc cách mạng đến thắng lợi chắc chắn được"2 (Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd, t.7, tr.118), về phương pháp cách mạng, Nghị quyết nêu rõ: "Cách mạng Đông Dương phải kết liễu bằng một cuộc khởi nghĩa võ trang"1 (Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd, t.7, tr.129). Do tầm quan trọng của vấn đề, lần đầu tiên Hội nghị Trung ương Đảng trực tiếp bàn về khởi nghĩa vũ trang và đã xác định những điều kiện thắng lợi của khởi nghĩa vũ trang một cách hệ thống.


Hội nghị Trung ương lần thứ tám của Đảng có tầm quan trọng đặc biệt, đã hoàn chỉnh sự chuyển hướng chiến lược cách mạng của Đảng, khẳng định mạnh mẽ nhiệm vụ giải phóng dân tộc cao hơn hết thảy, chuyển hướng hình thức đấu tranh, từ đấu tranh chính trị tiến lên đấu tranh vũ trang và cách tiến hành tổ chức, phát triển lực lượng cách mạng.


Do tầm quan trọng của việc xây dựng lý luận cách mạng giải phóng dân tộc, mà trọng tâm lúc đó là lý luận khởi nghĩa vũ trang, đầu năm 1941, lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc đã hoàn chỉnh tác phẩm Con đường giải phóng2 (Trước khi về nước, Nguyễn Ái Quốc mở lớp huấn luyện cán bộ tại một địa điểm gần biên giới Trung - Việt. Người hướng dẫn đồng chí Phùng Chí Kiên, Phạm Văn Đồng, Võ Nguyên Giáp, Vũ Anh biên soạn các bài giảng. Tập tài liệu này về sau được Người bổ sung và hoàn chỉnh, in thành cuốn sách Cond dường giải phóng). Tác phẩm Con đường giải phóng đề cập đến nhiều nội dung, trong đó có việc trù liệu các công việc: Trước khởi nghĩa, phải lập những đội tuyên truyền để động viên đông đảo quần chúng tham gia khởi nghĩa, phải xây dựng lực lượng vũ trang làm "quân chủ lực" trong khởi nghĩa, phải chuẩn bị lực lượng cán bộ nắm chính quyền cách mạng; chia các địa phương và định nhiệm vụ cho các cấp ủy, các bộ nhận phụ trách; định ra kế hoạch tiến công, điều tra những mục tiêu cần nắm giữ hoặc phá hủy trong quá trình khởi nghĩa... Trong khởi nghĩa, phải kiên quyết tiến công, quân khởi nghĩa phải tuyệt đối tuân theo mệnh lệnh, cơ quan chỉ huy phải hăng hái, mưu trí; phải đề phòng bọn mật thám của đế quốc lẻn vào phá hoại... Sau khởi nghĩa thắng lợi, phải lập tức đem vũ khí chiếm được vũ trang cho quần chúng có tổ chức, đồng thời phải lập ngay chính phủ cách mạng thực hiện các nhiệm vụ: thủ tiêu chính quyền cũ, ban bố quyền tự do dân chủ cho nhân dân, lập quân đội cách mạng giữ gìn trật tự và tiếp tục chiến đấu bảo vệ chính quyền1 (Xem Bộ Quốc phòng - Viện Lịch sử quân sự Việt Nam: Hồ Chí Minh - Biên niên sự kiện quân sự (1919-1969), Sđd, tr.114-116).


Như thế, tư tưởng khởi nghĩa ở Việt Nam nửa đầu thế kỷ XX, với ảnh hưởng của chủ nghĩa Mác - Lênin và sự xuất hiện tư tưởng Nguyễn Ái Quốc về cách mạng Việt Nam, đã có một chuyển biến quan trọng: khởi nghĩa là một bộ phận của cách mạng, và khởi nghĩa là khởi nghĩa giành chính quyền, thay đổi chế độ, chứ không còn thuần túy là khởi nghĩa vũ trang, bạo lực quân sự xét như một công cụ của những người tiến hành khởi nghĩa. Cuộc chuyển biến quan trọng này đi liền với một bước thay đổi toàn diện của tư tưởng quân sự Việt Nam, đánh dấu sự ra đời của tư tưởng quân sự Việt Nam thời hiện đại.


Dưới ánh sáng tư tưởng quân sự Hồ Chí Minh và đường lối, phương pháp cách mạng đúng đắn, sáng tạo của Đảng, lại do chính Người và Đảng trực tiếp lãnh đạo khởi nghĩa vũ trang, nên cách mạng Việt Nam giành được thắng lợi vĩ đại. "Lần đầu tiên trong lịch sử cách mạng của các dân tộc thuộc địa và nửa thuộc địa, một đảng mới 15 tuổi đã lãnh đạo cách mạng thành công, đã nắm chính quyền toàn quốc"1 (Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.6, tr.159).
Logged

Ai công hầu, ai khanh tướng, vòng trần ai, ai dễ biết ai
Thế Chiến Quốc, thế Xuân Thu, gặp thời thế, thế thời phải thế
quansuvn
Moderator
*
Bài viết: 6599



WWW
« Trả lời #19 vào lúc: 09 Tháng Giêng, 2022, 01:45:54 pm »

II- KHỞI NGHĨA VŨ TRANG TOÀN DÂN, TOÀN DÂN TỘC TIẾN HÀNH

Trong hoàn cảnh Việt Nam bị xâm lăng, kẻ thù áp đặt ách thống trị và dùng mọi thủ đoạn tàn bạo để bảo vệ hệ thống chính quyền cai trị của chúng, bất cứ cuộc khởi nghĩa nào được khởi phát và để giành thắng lợi, ngoài việc xác định đường lối phù hợp, đúng đắn, nhất thiết phải tập hợp được đông đảo dân chúng tham gia, cuộc khởi nghĩa do toàn dân tộc tiến hành.


Ngay từ đầu Công nguyên, để tiến hành khởi nghĩa, Hai Bà Trưng đã tổ chức tại căn cứ Mê Linh một đội quân làm lực lượng nòng cốt và kêu gọi hào kiệt cùng dân chúng tham gia. Hưởng ứng lời kêu gọi, các Lạc tướng, Lạc dân không chỉ ở Mê Linh, Chu Diên mà còn ở các địa phương khác rầm rộ kéo về tụ nghĩa. Sách Hậu Hán thư cho biết: Những người Man, người Lý (chỉ chung các dân tộc phương Nam) ở 4 quận Giao Chỉ, Cửu Chân, Nhật Nam, Hợp Phố đều nhất tề nổi dậy hưởng ứng. Sách Đại Việt sử ký toàn thư viết cụ thể hơn là cuộc khởi nghĩa bùng nổ ở quận Giao Chỉ và "các quận Nam Hải, cửu Chân, Hợp Phố đều hưởng ứng". Phong trào nhanh chóng trở thành cuộc nổi dậy của toàn dân. Chỉ trong một thời gian ngắn, nghĩa quân và dân chúng tham gia khởi nghĩa đã đập tan bộ máy chính quyền đô hộ, giành lại quyền làm chủ trên tất cả 65 huyện thành (tức là toàn bộ lãnh thổ nước Việt Nam lúc đó). Nền độc lập dân tộc được khôi phục sau hơn 200 năm chìm đắm dưới ách đô hộ của phong kiến Trung Quốc. Nhận xét về tính chất toàn dân của cuộc khởi nghĩa, nhà sử học Lê Văn Hưu đã viết: "Trưng Trắc, Trưng Nhị là đàn bà, hô một tiếng mà các quận cửu Chân, Nhật Nam, Hợp Phố, cùng 65 thành ở Lĩnh Ngoại đều hưởng ứng, việc dựng nước xưng vương dễ như trở bàn tay"1 (Đại Việt sử ký toàn thư, Sđd, tr.156). Nhà sử học Ngô Sĩ Liên cũng viết: "Họ Trưng giận thái thú nhà Hán bạo ngược, vung tay hô một tiếng mà quốc thống nước Việt Nam cơ đồ được khôi phục"2 (Đại Việt sử ký toàn thư, Sđd, tr.157). Cuộc khởi nghĩa Hai Bà Trưng thực chất là cuộc đồng khởi của toàn dân trên phạm vi cả nước, phản ánh ý thức dân tộc của các Lạc tướng, Lạc dân trong các bộ lạc hợp thành nước Âu Lạc.


Sau cuộc khởi nghĩa Hai Bà Trưng (40-43), hàng loạt các cuộc khởi nghĩa lần lượt nổ ra trong thời kỳ đấu tranh chống ách đô hộ phương Bắc, tiêu biểu là khởi nghĩa Bà Triệu (248), khởi nghĩa Lý Bí (542-548), khởi nghĩa Mai Thúc Loan (713-722), khởi nghĩa Phùng Hưng (766-791), khởi nghĩa Dương Thanh (819-820) và cuộc nổi dậy của Khúc Thừa Dụ (905). Các cuộc khởi nghĩa đó có tính chất toàn dân cao, có thanh thế và ảnh hưởng rộng. Điển hình là cuộc khởi nghĩa do Mai Thúc Loan tổ chức và lãnh đạo không những tập hợp được đông đảo các thành phần xã hội, từ những người dân phu, phường săn, nông dân và hào kiệt trong vùng mà còn mở rộng hoạt động chống quân Đường ra cả nưâc, liên kết với Chăm Pa phía Nam, Chân Lạp phía Tây Nam đế có thêm lực lượng. Ghi nhận về sự kiện đặc sắc này, sách Đại Việt sử ký toàn thư viết: "Mai Thúc Loan chiếm giữ châu, xưng là Hắc Đế, bên ngoài liên kết với người Lâm Ap, Chân Lạp, số quân là 30 vạn"1 (Đại Việt sử ký toàn thư, Sđd, tr.190). Sách Đại Nam nhất thống chí cũng cho rằng số quân của Mai Hắc Đế đông tới 30 vạn người2 (Xem Đại Nam nhất thống chí, Nxb. Thuận Hóa, Huế, 1992, t.2, tr.188). Tuy các cuốn sách đó không viết rõ số lượng quân Lâm Âp, Chân Lạp tham gia khởi nghĩa là bao nhiêu, nhưng rõ ràng là Mai Hắc Đế đã liên kết được với một số quốc gia trong khu vực cùng chống ách đô hộ phương Bắc. Sự tham gia đông đảo của dân chúng khiến cho cuộc khởi nghĩa có quy mô rộng lớn, tính chất toàn dân rộng rãi. Trên cơ sở đó, Mai Hắc Đế quyết định đưa quân ra Bắc đánh vào sào huyệt của chính quyền đô hộ nhà Đường, thu lại giang sơn, giữ nền độc lập được gần 10 năm.


Cuộc khởi nghĩa Lam Sơn (1418-1427) cũng là cuộc khởi nghĩa có tính chất toàn dân rộng rãi, đánh dấu một bước chuyển quan trọng. Nguyễn Trãi - nhà tư tưởng lớn của thời đại đến với Lê Lợi bằng cuốn Binh Ngô sách, tác phẩm kết tinh những suy nghĩ sâu sắc của ông về kế sách đánh đuổi quân xâm lược. Bình Ngô sách là tập sách "hiến mưu chước lớn, không nói đến việc đánh vào thành mà lại khéo nói đến việc đánh vào lòng người". Lê Lợi đánh giá cao kế sách đó và phong cho Nguyễn Trãi chức Tuyên phụng đại phu Hàn lâm thừa chỉ, luôn giữ bên cạnh để cùng bàn mưu, tính kế lãnh đạo khởi nghĩa. Đáp lại niềm tin cậy của Lê Lợi, Nguyễn Trãi đem tất cả tài năng và nghị lực cống hiến cho sự nghiệp giải phóng dân tộc.


Tư tưởng lớn và bao trùm của Nguvễn Trãi là tư tưởng nhân nghĩa. Ông khẳng định: "Phàm mưu việc lớn phải lấy nhân nghĩa làm gốc, nên công to phải lấy nhân nghĩa làm đầu. Chỉ có nhân nghĩa thì công việc mới vẹn toàn"1 (Nguyễn Văn Nguyên: Những vấn đề văn bản học "Quân trung từ mệnh" của Nguyễn Trãi, Nxb. Văn học, Hà Nội, 1999, tr.297). "Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân. Quân điếu phạt trước lo trừ bạo"2 (Nguyễn Trãi: Bình Ngô đại cáo, Sđd, tr.282). Nội dung cơ bản của tư tưởng đó là lòng yêu nước, thương dân kết hợp với ý chí hòa bình và lòng nhân đạo cao cả. Theo ông, lòng yêu nước phải gắn liền với thương dân; bởi nước với dân là một và dưới bầu trời dân là "quý nhất". Vì vậy, ông luôn hướng về dân, cảm thông sâu sắc nỗi thống khổ của nhân dân dưới ách thống trị của quân xâm lược. Ông thấy rõ vai trò của nhân dân trong lao động sản xuất và ghi nhớ công ơn đó: "Ăn lộc đền ơn kẻ cấy cày"1 (Quốc âm thi tập, Nxb. Văn-Sử-Địa, Hà Nội, 1956, tr.126). Đồng thời, ông cũng thấy rõ sức mạnh vĩ đại của dân chúng, sức mạnh đó có thể "chở thuyền" và cũng có thể "lật thuyền". Sáng tạo lớn của Nguyễn Trãi là đã đề ra chiến lược "tâm công" đánh vào lòng người. Với chiến lược đó, ông quan tâm đến việc bồi dưỡng tinh thần yêu nước thiết tha và lòng căm thù giặc sâu sắc của mọi tầng lớp nhân dân. Theo ông, nếu khơi dậy niềm tự tôn dân tộc, niềm tự hào về nền văn hiến nước nhà, làm cho dân chúng nhận thức sâu sắc việc cứu nước cũng là cứu nhà, thì chắc chắn rằng lực lượng nghĩa quân lúc đầu nhỏ yếu nhưng được dân chúng ủng hộ và tham gia sẽ mạnh dần lên, không ngừng phát triển, đủ sức đánh bại đối phương. Đối với quân xâm lược, "tâm công" là đánh vào tư tưởng, tâm lý đối phương, làm cho chúng kiêu căng, mất cảnh giác hoặc hoang mang, giảm sút tinh thần chiến đấu; cuối cùng đạt được mục đích không đánh mà giặc hàng, chịu thua. Tư tưởng của Nguyễn Trãi được Bộ chỉ huy, đứng đầu là Lê Lợi, đánh giá cao và trở thành nền tảng tư tưởng lý luận của khởi nghĩa Lam Sơn.


Từ nhận thức sâu sắc vai trò và sức mạnh của nhân dân, Lê Lợi và Nguyễn Trãi chủ trương dựa vào dân để xây dựng lực lượng và thực hiện cuộc khởi nghĩa toàn dân. Theo hai ông, khi đất nước bị quân Minh xâm lược và thống trị thì tầng lớp chịu nhiều đau khổ nhất chính là "manh lệ", "dân đen" ở các làng xã. Vì vậy, Lê Lợi và Nguyễn Trãi chủ trương dựa vào lực lượng đông đảo này để xây dựng lực lượng: "Giương gậy làm cờ, dân chúng bốn phương tụ họp"1 (Nguyễn Trãi Toàn tập, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội, 1980, tr.79). Quá trình tiến hành khởi nghĩa, Bộ chỉ huy Lam Sơn, đứng đầu là Lê Lợi, đã khuyên dạy quân sĩ rằng: "Dân ta khổ vì giặc đã lâu, phàm đến châu huyện nào, mảy may không được xâm phạm"2 (Nguyễn Trãi Toàn tập, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội, 1980, tr.58). Do đó, nghĩa quân Lam Sơn đã tranh thủ được sự ủng hộ rộng rãi của dân chúng: "Quân đi đến đâu, nghĩa thanh vang dậy, dân chúng bốn phương dắt díu nhau mà đến theo"3 (Nguyễn Trãi Toàn tập, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội, 1980, tr.41), "gạo nước đưa rước, người theo đầy đường", "ai ai cũng muốn ra sức đền ân". Chính nhờ phát huy được sức mạnh tiềm tàng trong dân chúng, Bộ chỉ huy Lam Sơn đã có đội nghĩa binh đông tới 35 vạn quân. Họ là những "manh lệ" bốn phương tụ về "nguyện đồng lòng hợp sức, liều chết vây thành diệt giặc"4 (Nguyễn Trãi Toàn tập, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội, 1980, tr.59).


Tư tưởng dựa vào dân, phát động cuộc khởi nghĩa toàn dân là tư tưởng lớn của Lê Lợi và Nguyễn Trãi. Với tư tưởng đó, nghĩa quân không chiến đấu cô độc và lẻ loi như quân đội nhà Hồ trước đó, mà phát triển và lập công trong sự tham gia, ủng hộ nhiệt tình của các tầng lớp nhân dân yêu nước. Tất nhiên, trong thời đại phong kiến và dưới sự lãnh đạo của giai cấp phong kiến, khởi nghĩa toàn dân trong cuộc khởi nghĩa Lam Sơn không thể vượt qua hạn chế của thời đại và giai cấp, không thể đạt đến mức độ triệt để như khởi nghĩa toàn dân do giai cấp vô sản lãnh đạo. Nhưng trong thời kỳ phong kiến, khởi nghĩa Lam Sơn thực sự là một cuộc khởi nghĩa toàn dân rộng rãi. Thật thế, còn có thể thấy rằng, thế kỷ XV mở đầu với sự ra đời của tư tưởng khởi nghĩa toàn dân có tính nhân dân sâu sắc, với nhận thức rõ ràng về vai trò của "dân", nhân dân và dân tộc. Không ngạc nhiên gì, thế kỷ XV cũng là thế kỷ huy hoàng của chế độ phong kiến ở Việt Nam, với sự ra đời của một nhà nước phong kiến hùng mạnh, có tổ chức chặt chẽ, có quyền lực rộng khắp, trở thành trung tâm của sự liên kết toàn thể các cộng đồng trong lãnh thổ Đại Việt bấy giờ. Cũng còn có thể thấy rằng, sự phát triển của tư tưởng quân sự luôn gắn liền với sự phát triển của các tư tưởng chính trị, đó là đặc trưng trong lịch sử tư tưởng quân sự Việt Nam.
Logged

Ai công hầu, ai khanh tướng, vòng trần ai, ai dễ biết ai
Thế Chiến Quốc, thế Xuân Thu, gặp thời thế, thế thời phải thế
Trang: « 1 2 3 4 5 6 7 8 9 »   Lên
  In  
 
Chuyển tới:  

Powered by MySQL Powered by PHP Powered by SMF 1.1.21 | SMF © 2006-2008, Simple Machines

Valid XHTML 1.0! Valid CSS! Dilber MC Theme by HarzeM