Lịch sử Quân sự Việt Nam
Tin tức: Lịch sử quân sự Việt Nam
 
*
Chào Khách. Bạn có thể đăng nhập hoặc đăng ký. 28 Tháng Ba, 2024, 09:24:09 pm


Đăng nhập với Tên truy nhập, Mật khẩu và thời gian tự động thoát


Trang: « 1 2 3 4 5 6 7 8 9 »   Xuống
  In  
Tác giả Chủ đề: Lịch sử tư tưởng quân sự Việt Nam - Tập 5  (Đọc 2614 lần)
0 Thành viên và 2 Khách đang xem chủ đề.
quansuvn
Moderator
*
Bài viết: 6589



WWW
« Trả lời #70 vào lúc: 13 Tháng Hai, 2022, 05:15:42 pm »

Cùng với việc quan tâm giải quyết để có nguồn vũ khí đánh giặc, tổ tiên ta trước đây cũng như Đảng Cộng sản Việt Nam ngày nay hết sức quan tâm đến vấn đề xác định lối đánh của quân đội để đánh bại những đạo quân xâm lược to lớn.


Trong lịch sử, trên cơ sở đúc kết kinh nghiệm đấu tranh vũ trang của chính dân tộc mình và đúc kết "binh pháp mọi nhà", truyền thống quân sự Việt Nam đã có cách đánh giặc vô cùng sáng tạo. Nét độc đáo trong truyền thống đánh giặc của dân tộc Việt Nam là luôn luôn giành chủ động trong chiến tranh, buộc địch đánh theo sở trường của ta, không để địch phát huy sở trường của chúng; có khi thực hành những trận quyết chiến chiến lược, nhưng cũng có trường hợp vừa đánh vừa đàm, vây khốn quân địch, buộc chúng phải xin hàng, rút quân về nước. Trong quá trình tiến hành kháng chiến, tổ tiên ta có cách đánh độc đáo, sáng tạo; lấy ít địch nhiều, mưu cao, kế hiểm, đánh bại địch từng bước, cuối cùng đánh bại ý chí xâm lược của đối phương, giành thắng lợi trong kháng chiến, giữ gìn được nền độc lập dân tộc.


Kế thừa và phát triển cách đánh giặc đặc sắc của tổ tiên, suốt quá trình lãnh đạo khởi nghĩa vũ trang và chiến tranh cách mạng, Đảng Cộng sản Việt Nam và Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn chủ động chuẩn bị lực lượng, tạo ra và đón lấy thời cơ trong khởi nghĩa vũ trang, trong chiến tranh giải phóng dân tộc. Tiến hành hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ, Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh hoạch định đường lối kháng chiến toàn dân, toàn diện, trường kỳ; sáng suốt lãnh đạo toàn quân, toàn dân đánh địch, hạn chế ưu thế vũ khí của quân địch; thực hành chiến tranh nhân dân rộng rãi, kết hợp chiến tranh du kích với chiến tranh chính quy; vừa đánh địch vừa bồi dưỡng sức ta, khoét sâu chỗ yếu chí tử của quân xâm lược là tiến hành chiến tranh phi nghĩa, về cách đánh, Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ rõ cánh đánh giặc bằng mưu kế, bằng thế - thời. Đó là nghệ thuật tạo lực, tạo thế, tranh thời, chớp thời cơ; biết đánh địch bằng mưu, thắng địch bằng thế; lấy ít địch nhiều, lấy chất lượng cao thắng số lượng đông; trong những trường hợp cụ thể lại phải biết tập trung ưu thế đế đánh thắng địch những đòn quyết định giành thắng lợi. Chủ tịch Hồ Chí Minh nói: "Phương pháp dụng binh là phương pháp thiên biến vạn hóa. Tùy theo thời cơ, theo địa điểm, theo tình hình bên địch, người làm tướng lúc bày thế trận này, lúc bày thế trận khác. Mỗi lần chiến đấu lại có một thế trận riêng... Nói tóm lại, muốn được thắng trận, phương pháp đánh giữ và tiến thoái phải luôn luôn biến đổi hợp với thời cơ, hợp với tình hình trên mặt trận. Nhanh như chớp, biến hóa như thần, đó là bí quyết của phép dụng binh"1 (Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.4, tr.316-318). Trong chiến đấu, Người lưu ý quân ta về yếu tố thời gian và cơ mưu: "Phải quyết đoán, phải dũng cảm tiến đánh cho thật nhanh. Nếu trù trừ, do dự sẽ mất cơ hội tốt. Nhưng đánh thật nhanh không phải là hấp tấp vội vàng mà quên cả cơ mưu. Phải vừa nhanh vừa có mưu cơ mới quyết định được thắng lợi"2 (Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.4, tr.232). Người căn dặn, phải biết phát huy sức mạnh của tất cả các lực lượng, phải có hiệp đồng chặt chẽ. "Bộ đội chủ lực đánh, bộ đội địa phương, dân quân du kích cũng đánh. Các lực lượng phải phối hợp với nhau chặt chẽ để tiêu diệt sinh lực địch". Sau cuộc họp Bộ Chính trị ngày 28-12-1967 chính thức thông qua kế hoạch chiến lược 1968, Người chỉ thị cụ thể cho các chiến trường: "Kế hoạch phải thật tỉ mỉ. Hợp đồng phải thật ăn khớp. Bí mật phải thật tuyệt đối. Hành động phải thật kiên quyết. Cán bộ phải thật gương mẫu"3 (Vũ Kỳ: Bác Hồ với Tết Mậu Thân năm ấy, báo Văn Nghệ, số Tết Mậu Dần 1998). Người nêu rõ tư tưởng chiến lược về cách đánh là "Đánh cho Mỹ cút, đánh cho ngụy nhào". Tư tưởng chiến lược đó được Ngứời nói rõ hơn trong Lời kêu gọi quân và dân cả nước ngày 20-7-1969: "Quân và dân cả nước ta, triệu người như một, nêu cao chủ nghĩa anh hùng cách mạng, không sợ hy sinh, không sợ gian khổ, quyết kiên trì và đẩy mạnh cuộc kháng chiến, quyết chiến quyết thắng, "đánh cho quân Mỹ phải rút hết sạch, đánh cho ngụy quân và ngụy quyền sụp đổ hết, giải phóng miền Nam, bảo vệ miền Bắc, tiến tới hòa bình thống nhất nước nhà"1 (Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.12, tr.479). Hạt nhân trong tư tưởng của Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh về cách đánh là tiến công. Tuy nhiên, Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng đề cập đến phòng ngự, nhưng là lối phòng ngự thế công. Cả tiến công lẫn phòng ngự đều phải tuân thủ nguyên tắc nhanh chóng, thế trận chặt chẽ: "Tấn công, phòng ngự không sơ hở". Quán triệt sâu sắc tư tưởng đó, Đảng ta đã lãnh đạo quân và dân Việt Nam nỗ lực chiến đấu đánh thắng giặc từng bước, càng đánh càng mạnh, cuối cùng đánh thắng "hai đế quốc to", hoàn thành vẻ vang sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc, thống nhất Tổ quốc.


Nhìn chung, có thể thấy sự phân biệt sâu sắc nhất giữa tư tưởng trang bị vũ khí và đường lối tác chiến của thời phong kiến so với thời hiện đại ở Việt Nam chính là vai trò của nhân dân. Do hoàn cảnh và phương thức tổ chức hoạt động quân sự chính quy trong thời phong kiến, việc vũ trang quân đội cũng như binh pháp tác chiến chủ yếu được nhà nước thực hiện và được các tướng lĩnh tài ba sắp đặt. Về phương diện này, còn có thể thấy rằng, sự lớn mạnh của nhà nước phong kiến cũng biểu hiện ra ở sự phát triển trong công tác vũ trang quân đội. Còn trong thời hiện đại, vai trò sáng tạo của quần chúng nhân dân, sự đóng góp của mọi thành phần nhân dân về phương diện khí tài lẫn phương thức tác chiến đều được Đảng động viên tối đa. Trong đường lối đó, vũ trang quân đội cũng như phương thức tác chiến của bộ đội chính quy là một bộ phận trong công tác xây dựng chiến tranh nhân dân, chiến tranh cách mạng.


Ngày nay, cuộc cách mạng khoa học và công nghệ trên thế giới đã bước vào giai đoạn mới, phát triển nhanh, những thành tựu nghiên cứu mới đều được ứng dụng vào lĩnh vực quân sự. Khu vực Đông Nam Á, châu Á - Thái Bình Dương vẫn tiềm ẩn những nhân tố gây mất ổn định. Thực tiễn đó đòi hỏi quân đội Việt Nam cần khẩn trương hơn tiến vào lĩnh vực khoa học - công nghệ, bảo đảm cho nhu cầu phát triển mới, đồng thời khai thác hiệu quả hơn nữa di sản tinh thần vô giá mà ông cha ta để lại nhằm xây dựng quân đội nhân dân chính quy, hiện đại, làm nòng cốt cho toàn dân trong sự nghiệp bảo vệ độc lập dân tộc, chủ quyền quốc gia và toàn vẹn lãnh thổ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
Logged

Ai công hầu, ai khanh tướng, vòng trần ai, ai dễ biết ai
Thế Chiến Quốc, thế Xuân Thu, gặp thời thế, thế thời phải thế
quansuvn
Moderator
*
Bài viết: 6589



WWW
« Trả lời #71 vào lúc: 18 Tháng Hai, 2022, 04:54:39 pm »

Chương VI
TƯ TƯỞNG PHÁT HUY SỨC MẠNH ĐẠI ĐOÀN KẾT TOÀN DÂN, KẾT HỢP SỨC MẠNH DÂN TỘC VỚI SỨC MẠNH THỜI ĐẠI


Trong lịch sử của bất cứ quốc gia - dân tộc nào, tính chất toàn dân tộc hay sự đoàn kết giữa các bộ phận quốc gia - dân tộc đều là kết quả của một quá trình lâu dài, trong đó mỗi thành viên của dân tộc phải hợp tác với các thành viên khác để giải quyết những vấn đề chung. Cùng lúc đó, sự chia rẽ và bất đồng trong nội bộ một xã hội thường đến từ mâu thuẫn không thể giải quyết nổi giữa lợi ích của nhóm xã hội hay của cá nhân với các nhóm khác, các cá nhân khác hay của toàn xã hội. Do đó, một quốc gia muốn đoàn kết thành một khối thống nhất, vững mạnh, buộc phải thực hiện cùng lúc ba nhiệm vụ: Một là, phối hợp các lực lượng xã hội trong các hoạt động cộng đồng - quốc gia để vừa dựng nước vừa giữ nước, vừa phát triển xã hội, vừa chống lại kẻ thù xâm lược. Hai là, thực hiện các chính sách cổ vũ khối đại đoàn kết toàn dân cũng như liên tục đề cao và vận động các thành viên quốc gia có ý thức về chỉnh thể quốc gia - dân tộc. Ba là, thanh trừ các nhóm có xu hướng phá võ khối đoàn kết dân tộc. Từ mối quan hệ đặc biệt giữa quân và dân trong lịch sử quân sự Việt Nam, cũng như từ tính nhân dân sâu sắc của quân đội Việt Nam qua các thời kỳ, tư tưởng phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân, mà trong thời hiện đại phát triển lên với tư tưởng kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, là một trong những bộ phận quan trọng bậc nhất trong kho tàng tư tưởng quân sự Việt Nam từ cổ, trung đến hiện đại.


I- TƯ TƯỞNG VỀ PHÁT HUY SỨC MẠNH ĐẠI ĐOÀN KẾT TOÀN DÂN

1. Cơ sở của tư tưởng đại đoàn kết toàn dân tộc Việt Nam

Nhân dân Việt Nam, từ xưa tới nay đều có lòng yêu nước nồng nàn, mỗi khi Tổ quốc bị xâm lăng thì tinh thần ấy lại sôi nổi, kết thành một làn sóng vô cùng mạnh mẽ, vượt qua mọi khó khăn, nhấn chìm bè lũ bán nước và cướp nước. Đó là cơ sở của đoàn kết dân tộc. Tinh thần yêu nước biểu hiện ngày càng mạnh mẽ trong tiến trình lịch sử dân tộc, và được phát triển trở thành chủ nghĩa yêu nước Việt Nam hiện đại: "Chủ nghĩa yêu nước là một hệ thống nhận thức, tư tưởng, tình cảm đối với đất nước, Tổ quốc, biểu thị trong tình yêu quê hương, xứ sở, tiếng nói, văn hóa; trong sự gắn bó vì những lợi ích chung của cộng đồng quốc gia - dân tộc, trong ý thức trách nhiệm xây dựng và bảo vệ đất nước"1 (Phan Huy Lê (chủ nhiệm đề tài): Chủ nghĩa yêu nước - truyền thống và hiện đại (Báo cáo kết quả nghiên cứu), Hà Nội, 2002, tr.11).


Chủ nghĩa yêu nước bắt nguồn từ ý thức và tình yêu quê hương, xứ sở, nhưng không dừng ở đó, nó đã vượt lên, mở rộng thành ý thức trong mỗi người về việc bảo vệ chủ quyền lãnh thổ quốc gia, ý thức độc lập, tự chủ, ý thức về bản sắc và các giá trị văn hóa dân tộc, ý thức tự lực, tự cường trong xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Nguồn gốc của chủ nghĩa yêu nước Việt Nam, sự hình thành của nó xuất phát từ nhu cầu đấu tranh với thiên nhiên và giặc ngoại xâm để sinh tồn; cũng từ đó mà nhà nước ra đời sớm. Giải thích về sức sống kỳ diệu của dân tộc Việt Nam, giáo sư Trần Văn Giàu nhận định: Bị đô hộ hàng mười mấy thế kỷ bởi một nước có văn hóa cao hơn nhiều và số dân đông hơn gấp bội, mà sau ngàn năm "ta vẫn là ta", hẳn không phải là những mũi tên nhọn hơn, bắp thịt cứng hơn, mà chủ yếu là nhờ văn hóa, nhờ đạo lý, nhờ hệ giá trị tinh thần của riêng mình, chứ lấy sức đọ sức, lấy số đọ số, thì dân Việt Nam, nước Việt Nam chỉ còn là đối tượng của khảo cổ học2 (Xem Trần Văn Giàu: Giá trị tinh thần truyền thống của dân tộc Việt Nam, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội, 1980).


Nhân dân trong một quốc gia - dân tộc nào cũng có tinh thần yêu nước, đó là giá trị phổ quát của toàn nhân loại. Nhưng chủ nghĩa yêu nước Việt Nam có đặc thù riêng.

Ở Việt Nam, tình yêu xóm làng, quê hương, xứ sở là một nội dung của chủ nghĩa yêu nước truyền thống. Sự phát triển của làng xã, nhà nước ở Việt Nam, ở một chiều cạnh nào đó, có thể "mô hình hóa" thành biểu đồ: Làng - liên làng - siêu làng1 (Xem Hà Văn Tấn: Làng, liên làng và siêu làng - mấy suy nghĩ về phương pháp, in trong Một số vấn đề lý luận sử học, Nxb. Đại học quốc gia Hà Nội, 2007). Gia đình có tầm quan trọng và ở đó chứa đựng mọi quan hệ thu nhỏ của xã hội và tình yêu gia đình, giống nòi đã kết thành tình yêu đất nước. Từ gia đình, giống nòi, làng xóm, quê hương, con người đã gắn bó với nhau trong tình yêu đất nước và là một nội dung của chủ nghĩa yêu nước. Mặt khác, lịch sử đã tỏ rõ, nét riêng của Việt Nam là, nhà nước ra đời sớm do nhu cầu cố kết cộng đồng để đủ sức đương đầu với thiên tai và giặc giã. Nhà nước Văn Lang được thành lập cho thấy điều đó. Trong kháng chiến, trước kẻ thù lớn mạnh, dân tộc Việt Nam dựa vào địa hình hiểm trở, dựa vào sự liên kết - cố kết của gia đình, dòng tộc - làng xã..., dùng lối đánh du kích tiến lên đánh thắng quân thù. Như thế, cố kết cộng đồng hình thành từ nhu cầu cuộc sống, từ thực tiễn và là một nội dung của chủ nghĩa yêu nước Việt Nam.


Một nội dung quan trọng của chủ nghĩa yêu nước là ý thức về toàn vẹn lãnh thổ, về lịch sử, vàn hóa và độc lập, chủ quyền dân tộc. Chính vì sự toàn vẹn lãnh thổ, ý thức độc lập dân tộc mà biết bao thế hệ người Việt đã đứng lên đấu tranh chống xâm lược. Ý thức đó được phản ánh và ngày thêm củng cố qua hơn một nghìn năm chống Bắc thuộc, hàng trăm năm chống phong kiến phương Bắc và kháng chiến chống thực dân, đế quốc, trở thành một hằng số, một phẩm chất của chủ nghĩa yêu nước Việt Nam. Cùng với chống ngoại xâm, ý thức xây dựng đất nước, xây dựng đời sống văn hóa tinh thần mang bản sắc dân tộc cũng là biểu hiện sâu sắc của chủ nghĩa yêu nước Việt Nam. Việc Nguyễn Huệ quy định dùng chữ Nôm trong các văn bản nhà nước thay cho chữ Hán là thể hiện tinh thần và cũng là biện pháp phát triển văn hóa Việt, tinh thần của chủ nghĩa yêu nước. Vậy là, việc phát triển ý thức về độc lập dân tộc, lịch sử, văn hóa, toàn vẹn lãnh thổ là một biểu hiện thường xuyên nhất của chủ nghĩa yêu nước. Lòng yêu nước không dừng ở phạm trù tình cảm, tư tưởng, mà ở khía cạnh khác, đã trở thành một phạm trù thiêng liêng, ở hầu hết các làng xã, địa phương đều có các ngôi đình thờ thành hoàng, các vị thần thánh được thờ ở đền, miếu. Họ là những người có công trạng lớn với dân, với nước, những nhân vật lịch sử. Vào thời hiện đại, trong nhân dân đã xuất hiện bàn thờ Tổ quốc, với lá cờ đỏ sao vàng và ảnh Chủ tịch Hồ Chí Minh, đặt phía trên bàn thờ tổ tiên. Thực vậy, chủ nghĩa yêu nước đã trở thành cốt cách của văn hóa Việt Nam1 (Xem Ngô Đức Thịnh: "Văn hóa dân gian về nhà Trần trên đất Nam Hà", trong sách Thời Trần và Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn trên quê hương Nam Hà, Sở Văn hóa thông tin Nam Hà, 1996).


Tinh thần dân tộc, chủ nghĩa yêu nước, chủ nghĩa dân tộc đều là những nền tảng tinh thần quan trọng của khối đại đoàn kết dân tộc, và đó cũng là những phương diện khác nhau của tính dân tộc, được hình thành và phát triển trong quá trình dựng nước và giữ nước hàng nghìn năm, qua bao thăng trầm lịch sử của dân tộc Việt Nam. Đặc biệt, trong hoàn cảnh phải đối đầu với ngoại xâm, hay khi chủ quyền quốc gia bị ngoại xâm tước đoạt, chủ nghĩa yêu nước và khối đại đoàn kết dân tộc lại trở thành những động lực to lớn cho công cuộc đấu tranh giành, giữ và bảo vệ nền độc lập, tự chủ của dân tộc.


Nhưng tinh thần cộng đồng, đoàn kết dân tộc chỉ được nâng cao mỗi khi các nhà lãnh đạo kháng chiến đưa ra được một đường lối kháng chiến đúng đắn, hợp lòng dân - bởi chủ nghĩa yêu nước, trong vai trò là tinh thần của dân tộc, thì cũng còn là biểu hiện của mối quan hệ giữa nhân dân và những người đại diện cho đất nước. Hai Bà Trưng khởi nghĩa vì để trả "nợ nước thù nhà", vì mong muốn dựng lại "nghiệp xưa họ Hùng". Nhà Lý kháng chiến chống ngoại xâm cũng để bảo vệ "sông núi nước Nam". Lê Lợi và Nguyễn Trãi dựng cờ cứu nước, cứu dân, "việc nhân nghĩa cốt ở yên dân". Quang Trung - Nguyễn Huệ "đánh cho sử tri Nam quốc anh hùng chi hữu chủ"... Nhân dân Việt Nam kháng chiến vì độc lập, tự do, vì hòa bình và thống nhất đất nước. Mục tiêu, đường lối kháng chiến đúng đắn là nhân tố quyết định thắng lợi của sự nghiệp đoàn kết dân tộc.


Trong thời hiện đại, tư tưởng "đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết" của Chủ tịch Hồ Chí Minh là nguồn lực của sức mạnh đoàn kết dân tộc, là ngọn cờ tập hợp lực lượng với nhiều loại hình tổ chức vô cùng phong phú và sinh động. Tư tưởng trên của Hồ Chí Minh và cuộc đòi, sự nghiệp vì dân, vì nước của Người luôn là linh hồn của khối đoàn kết toàn dân trong sự nghiệp kháng chiến và xây dựng đất nước. Hồ Chí Minh đề ra nhiều hình thức tập hợp và tổ chức quần chúng rất đa dạng, phong phú trong Mặt trận dân tộc thống nhất, trong các đoàn thể, các hội quần chúng, nhằm thu hút đông đảo người Việt Nam vào sự nghiệp cứu nước, cứu nhà. Khi nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, Nhà nước dân chủ nhân dân đầu tiên ở Đông Nam Á ra đời đã tập hợp được những người tài đức trong cả nước cùng tham gia gánh vác việc chung. Hồ Chí Minh đã mời các nhà chí sĩ cách mạng, nhiều vị quan to trong triều đình Huế trước đó ra đảm đương việc nước; quy tụ về với cách mạng và kháng chiến có biết bao nhân sĩ, trí thức yêu nước có tên tuổi. Nhiều trí thức người Việt có tài năng ở nước ngoài đã về nước cùng toàn dân tham gia kháng chiến, kiến quốc. Thực hiện tư tưởng của Người, trong kháng chiến chống thực dân Pháp cũng như trong kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, Đảng Cộng sản Việt Nam đã tạo ra và hình thành nhiều hình thức tổ chức để tập hợp quần chúng phù hợp với các lứa tuổi, giới, ngành nghề, dân tộc, tôn giáo; đáp ứng yêu cầu của từng giai đoạn cách mạng và chiến tranh. Đó là những cơ sở tốt nhất cho sự hình thành và phát triển của tư tưởng đại đoàn kết ở Việt Nam.
Logged

Ai công hầu, ai khanh tướng, vòng trần ai, ai dễ biết ai
Thế Chiến Quốc, thế Xuân Thu, gặp thời thế, thế thời phải thế
quansuvn
Moderator
*
Bài viết: 6589



WWW
« Trả lời #72 vào lúc: 18 Tháng Hai, 2022, 04:56:00 pm »

2. Tư tưởng về xây dựng khối đoàn kết toàn dân thời phong kiến

a) Tư tưởng về đoàn kết các dân tộc trong lãnh thổ Việt Nam thời phong kiến

Đoàn kết cộng đồng cư dân là nhu cầu tự thân của cuộc sống, trong đấu tranh với thiên nhiên và chống giặc ngoại xâm. Cư dân Đại Việt có chung nguồn cội từ cư dân Việt - Mường và chiếm tuyệt đại đa số. Họ cư trú ở châu thổ sông Hồng, sông Mã, sông Lam và các thung lũng, nương đồi thuộc vùng rừng núi với trung tâm là Hòa Bình ngày nay; phía nam lan sang thượng du Thanh Hóa, Nghệ An, Hà Tĩnh; phía bắc đến khu vực Phú Thọ. Vùng biên thùy phía bắc là địa bàn cư trú chủ yếu của khối cư dân Tày - Nùng, có chung cội nguồn với người Tây Âu (Tây Việt) ở Quảng Tây, Quảng Đông Trung Quốc ngày nay. Vùng Tây Bắc là địa bàn của người Thái cổ, được bổ sung những đoàn người Thái tiếp sau di cư đến, trong khoảng từ thế kỷ VIII đến thế kỷ XIV, thời Lý - Trần. Khối Tày - Nùng với trung tâm là Cao Bằng, bắc Lạng Sơn ngày nay, đã từng cùng người Lạc Việt dựng nên nước Âu Lạc, do Thục Phán - An Dương Vương làm vua, đóng đô ở Cổ Loa từ thế kỷ III trước Công nguyên.


Từ buổi đầu dựng nước, do nhu cầu tồn tại và phát triển, các bộ tộc thuộc nòi giống Lạc Việt sinh sống trên cùng một địa vực - bao gồm châu thổ các dòng sông Hồng, sông Thái Bình, sông Mã, sông Lam - sớm cố kết lại, gắn bó với nhau trong một lợi ích chung. Sụ gắn bó này đã dẫn đến việc ra đời nhà nước sơ khai có tên là Văn Lang. Văn Lang là quốc hiệu đầu tiên của Việt Nam. Từ đó, bắt đầu một thời đại mới trong lịch sử Việt Nam: thời đại các vua Hùng dựng nước. Ngày nay, quan sát những trống đồng cổ - thành tựu nổi bật của văn hóa Đông Sơn thời đại các vua Hùng - người ta nhận thấy ánh lên từ những hình họa, những mô típ trang trí trên mặt trống, trên tang trông cảnh làm ăn, sinh sống thấm đẫm sự hòa đồng mộc mạc, sự cố kết bền chặt của cư dân thời đó. Ở một hướng tiếp cận khác, các nhà nghiên cứu thời đại các vua Hùng, bằng phương pháp chuyên ngành, đã chú ý lần gỡ, bóc tách những màng bọc hư thực bao quanh nhiều câu chuyện cổ xuất hiện ở thời kỳ lịch sử này để tìm ra lõi cốt sự thật tàng ẩn trong đó. Một cách tiếp cận như thế cho phép rút ra nhận xét từ các truyền thuyết như Âu Cơ - Lạc Long Quân, Thánh Gióng, Sơn Tinh - Thủy Tinh... là ý thức về cội nguồn chung, tinh thần cố kết cộng đồng trong cuộc sống chiến đấu, lao động của cư dân thời Hùng Vương đã rất đậm nét, rất bền chặt.


Trên thực tế, nếu những câu chuyện cổ như Âu Cơ, như Thánh Gióng đánh giặc Ân còn trong địa hạt huyền sử thì cuộc kháng chiến 10 năm của cư dân Việt cổ chống Tần vào thế kỷ III trước Công nguyên đã được ghi chép trong lịch sử thành văn. Trong cuộc kháng chiến đó, vai trò của nhân dân - cụ thể hơn là của người Âu và người Lạc - là rất to lớn. Điều quan trọng là qua cuộc kháng chiến này, tăng thêm tính chiến đấu và sâu sắc hơn sự cố kết giữa những cư dân Việt cổ. Đó chính là một trong những nhân tố rất căn bản làm xuất hiện nhà nước Âu Lạc thay cho nước Văn Lang của các vua Hùng mà người đứng đầu nhà nước mới này là Thục Phán - An Dương Vương. Ngay tên nước cũng đã phản ánh sự hợp nhất chặt chẽ giữa hai thành phần Việt tộc - hợp nhất trong một kết cấu chính trị - xã hội của văn minh Việt cổ...


Như thế, cùng với quá trình ra đời của nhà nước Văn Lang rồi Âu Lạc, sự cố kết trong nội bộ các bộ tộc Việt cổ đã thực sự trở nên bền chặt, ý thức cộng đồng, ý thức dân tộc trùm lên ý thức bộ tộc, đã hình thành. Đấy chính là lõi cốt của lòng yêu nước Việt Nam, văn hóa Việt Nam - điều kiện quan trọng bậc nhất để Việt Nam có đủ bản lĩnh, sức sống và sức mạnh vượt qua bao thử thách nghiệt ngã và khốc liệt của hơn nghìn năm đô hộ và đồng hóa của phương Bắc, giành lại chủ quyền, tiến lên xây dựng quốc gia phong kiến tập quyền tự chủ, tổ chức thành công các cuộc kháng chiến chống quân xâm lược Tống, Mông - Nguyên, Minh, Thanh, Xiêm... bảo vệ vững chắc biên cương, bờ cõi.


Mối quan hệ các dân tộc anh em trong lãnh thổ Việt Nam chính là nền tảng đầu tiên cho sự ổn định chính trị cũng như bảo vệ lãnh thổ. Từ thực tế đó, để giữ vững cương vực lãnh thổ và chủ quyền quốc gia, quản lý chặt chẽ vùng biên viễn là nhiệm vụ trọng yếu đặt ra với các triều đại, có lẽ vấn đề bức thiết này đặt ra một cách mạnh mẽ từ thời Lý. Do những giới hạn của lịch sử, bộ máy nhà nước triều Lý chỉ mới trực tiếp quản lý được vùng đồng bằng châu thổ, miền trung du và một phần thượng du. Ở vùng biên viễn, rừng núi xa xôi, triều Lý (và ngay cả triều Trần ở phạm vi hẹp hơn) vẫn áp dụng chính sách "ki mi" qua những biện pháp mềm dẻo và hình thức linh hoạt. Các tộc người thiểu số được quyền tự quản, đứng đầu là tù trưởng. Tuy nhiên, cùng với việc trao chức tước, quyền hạn, trong nhiều trường hợp, hẳn là những trường hợp đặc biệt, nhà nước còn dùng quan hệ hôn nhân để gắn kết đại diện của các dân tộc như tù trưởng (và cư dân bản địa) với triều đình. Trong những năm từ 1036 đến 1167, ít nhất có 9 trường hợp vua Lý gả công chúa cho tù trưởng các châu thuộc vùng trung - thượng du Bắc Bộ ngày nay1 (Chẳng hạn, năm 1029, Lý Thái Tông gả công chúa Bình Dương cho châu mục châu (Lạng Sơn và một phần Bắc Giang ngày nay). Năm 1066, Lý Thánh Tông gả công chúa Thiên Thành cho Thân Đạo Nguyên châu Lạng. Năm 1082, Lý Nhân Tông gả công chúa Khâm Thánh cho châu mục châu Vị Long (Chiêm Hóa - Tuyên Quang), v.v...). Sự tôn trọng về địa bàn và quyền lợi giữa triều đình trung ương với các dân tộc miền biên viễn không chỉ là một biện pháp chính trị, mà còn trở thành một khía cạnh tinh thần, hay một đặc trưng văn hóa - tư tưởng trong khối đại đoàn kết toàn dân tộc Việt Nam.


Phương pháp được dùng để kết nối vùng biên giới xa xôi với chính quyền trung ương là phong quan tước (thừa nhận về chính trị) và giao cho các tù trưởng quyền quản lý địa bàn (tôn trọng sự phát triển bản địa). Đây là chính sách có tác dụng tích cực trong việc giữ gìn an ninh, bảo vệ lãnh thổ biên cương. Một số ít trường hợp các tù trưởng, vì nhiều lý do, nổi lên xung đột với triều đình, như trường hợp cha con Nùng Tồn Phúc, Nùng Trí Cao - nhưng những sự xung đột ấy không làm rạn nứt mối liên hệ và sự gắn bó giữa các dân tộc anh em với người Kinh, giữa các địa phương với trung ương.


Để củng cố khối đoàn kết vững chắc, vương triều Lý, vương triều Trần luôn ý thức rõ việc giữ vững an ninh chính trị và toàn vẹn lãnh thổ, kết hợp chính sách "ki mi" ở vùng biên viễn với dẹp yên các vụ xâm phạm, quấy rối. Ở phía nam, vùng đất Hoan Diễn (thuộc Nghệ An và Hà Tĩnh ngày nay) và ven biển phía đông nam là khu vực thường xuyên bị cướp phá, vi phạm và xâm phạm của Chămpa; ở phía tây, vùng Tây Bắc (Đà Giang) thượng du Thanh Hóa (đầu nguồn sông Mã), Nghệ An (vùng Kỳ Sơn, Tương Dương, Con Cuống) lại thường xuyên bị người Chân Lạp, Ngưu Hống, người Lão xâm nhập. Nhà Lý - Trần đã nhiều lần cất quân đánh dẹp, có lần chính nhà vua hoặc thượng hoàng trực tiếp cầm quân đến nơi trận tiền. Ví như Lý Thường Kiệt (1069, 1074), Tô Hiến Thành (1167), Phạm Ngũ Lão (1279, 1301, 1311), Trần Khánh Dư, Trần Quốc Chấn (1311), Hồ Quý Ly (1377, 1380, 1382, 1383)...


Nhờ có những chính sách, biện pháp, giải pháp vừa linh hoạt, mềm dẻo, vừa cứng rắn, kiên quyết, Đại Việt thời Lý - Trần đã đoàn kết các dân tộc miền xuôi, miền ngược, đoàn kết toàn dân mà chiến thắng kẻ xâm lược hung bạo từ phương Bắc, ổn định biên thùy phía tây, đẩy lùi âm mưu xâm lược - xâm nhập của Chămpa, mở rộng lãnh thổ. Những kết quả đó, đến lượt nó, lại làm tăng thêm niềm tin vào triều đình, tăng cường củng cố khối đoàn kết dân tộc.


Nếu không dựa trên khối đoàn kết toàn dân, không dựa vào sự ủng hộ mạnh mẽ và rộng lớn của nhân dân, quân đội Tây Sơn đã không thể thực hiện được các cuộc hành quân chiến lược, hành quân thần tốc để thực hành một lối đánh mãnh liệt, chớp nhoáng, khiến kẻ thù choáng váng, không kịp trở tay và nhanh chóng bị đè bẹp... Và quả thật như lịch sử đã cho thấy, ở một chừng mực nào đấy, bản thân quân đội ấy, phong trào ấy đã là hình ảnh thu nhỏ của khối đại đoàn kết toàn dân. Ngay từ những ngày đầu khi phong trào vừa khởi xướng, đứng trong hàng ngũ nghĩa quân có những người con của vùng đất Quy Nhơn, Quảng Nam... Bên cạnh quần chúng nông dân về tụ nghĩa và làm nên lực lượng cơ bản của phong trào, người ta còn thấy có các thổ hào như Nguyễn Thung, những đại phú như Huyền Khê. Bên cạnh người Việt, tham gia nghĩa quân còn có người Thượng, người Chăm, thương nhân người Hoa. Những ngày đầu ấy, lực lượng trực tiếp tham gia đội quân khởi nghĩa đã lên tới con số 3.000 người. Theo thời gian, cùng với sự phát triển của phong trào, đội quân ấy không ngừng trưởng thành và lớn mạnh về nhiều mặt. Nhiều sử liệu cho biết, đến trước khi Nguyễn Huệ lên ngôi Hoàng đế để "chính vị hiệu, giữ lòng người", quân đội Tây Sơn đã lên tới hàng vạn người. Bấy giờ, riêng ở Phú Xuân, Nguyễn Huệ có 60.000 quân. Tư liệu lịch sử đương thời cũng cho biết thêm rằng, thành phần của đội quân ấy bao gồm những tráng đinh ở mọi miền đất nước. Trong những trường hợp và ở vào thời điểm cần thiết, nhân dân các địa phương đều nô nức thực hiện chủ trương "tận suất vi binh", toàn dân tòng quân đánh giặc. Một giáo sĩ phương Tây từng nhiều năm truyền đạo ở miền Thuận Hóa, trong bức thư đề ngày 11-6-1788, đã viết: Nguyễn Huệ "đôi khi điều động được từ hai đến ba trăm nghìn quân"1 (Thư của giáo sĩ Bertrtte và Doussain, dẫn theo Viện Lịch sử quân sự Việt Nam: Quang Trung - Nguyễn Huệ với chiến thắng Ngọc Hồi - Đống Đa, Nxb. Quân đội nhân dân, Hà Nội, 1992, tr.155-156). Một giáo sĩ phương Tây khác hồi bấy giờ cũng có nhận xét rằng: "Cả dân tộc này đều làm lính cho Nguyễn Huệ, chẳng sót một người nào"2 (Nguyễn Thu: Lê quý dật sử, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội, 1974, tr.122). Xét trên nhiều khía cạnh, quân đội Tây Sơn là một hình ảnh thu nhỏ của khối đoàn kết toàn dân. Khối đoàn kết đó là nhân tố tạo ra và nhân lên sức mạnh của quân đội, bảo đảm cho nó trở thành một quân đội hùng mạnh, góp phần quyết định tạo nên những chiến công lừng lẫy của dân tộc Việt Nam thuở ấy.


Trên thực tế, cố kết dân tộc chưa bao giờ và không bao giờ là một nhân tố tự thân. Nói cách khác, quá trình hình thành và phát triển của nó luôn luôn gắn bó chặt chẽ với những điều kiện lịch sử cụ thể. Thời nào cũng thế, nếu người đứng đầu nhà nước và giai cấp cầm quyền thường xuyên chăm lo tới sự vững bền của quốc gia, có những chính sách động viên nhân dân trên toàn cõi Việt Nam bất kể thuộc tộc người nào, cùng ra sức cho đại nghiệp quốc gia, ra sức phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội, từ đó tăng cường sức mạnh quốc phòng từ trong thời bình..., thì khối đại đoàn kết toàn dân sẽ bền chặt, thế nước vững mạnh.
Logged

Ai công hầu, ai khanh tướng, vòng trần ai, ai dễ biết ai
Thế Chiến Quốc, thế Xuân Thu, gặp thời thế, thế thời phải thế
quansuvn
Moderator
*
Bài viết: 6589



WWW
« Trả lời #73 vào lúc: 18 Tháng Hai, 2022, 04:57:06 pm »

b) Tư tưởng đoàn kết quân - dân, đoàn kết trong nội bộ quân đội

Những triều đại tiến bộ, hưng thịnh đã coi trọng nhiều phương sách chiến lược quan trọng khác, trong đó có xây dựng tình đoàn kết quân dân và đoàn kết trong nội bộ quân đội. Và cũng chính nhờ vậy, thế nước mới vững, lòng dân không lìa, nền thái bình mới được giữ vững...


Như đã trình bày ở trên, một trong những chính sách cán cốt, có ý nghĩa trên nhiều phương diện trong việc củng cố tiềm lực và sức mạnh quốc gia là bảo đảm sản xuất ổn định và phát triển; xây dựng lực lượng vũ trang, củng cố quốc phòng; đồng thời, luôn chú trọng củng cố, tăng cường mối quan hệ gắn bó giữa triều đình và dân chúng, giữa quân và dân.


Chính sách "ngụ binh ư nông" được áp dụng từ thời nhà Đinh đến thời Lê Sơ phần nào đã là một biểu hiện tiêu biểu. Với chính sách đó, người dân (chủ yếu là nông dân) và người lính "đổi vai" theo luật định, khi chế độ binh dịch được thực thi. Ở nhà sản xuất, họ là nông dân; làm binh dịch, họ thành người lính. Chính sách đó chẳng những giúp lực lượng quân đội tự túc một phần lương thực, bớt gánh nặng về lương thực nuôi quân cho triều đình, bảo đảm cho triều đình có một lực lượng hậu bị đông đảo để có thể chuyển nhanh từ thời bình sang thời chiến khi cần, nhằm đáp ứng những đòi hỏi của công cuộc bảo vệ đất nước..., mà còn qua đó gia tăng mối quan hệ giữa quân và dân - một nhân tố bảo đảm sức mạnh của quân đội.


Một nhân tố nữa, có ý nghĩa rất cơ bản, bảo đảm sức mạnh của quân đội là sự đoàn kết gắn bó trong hàng ngũ binh lính, trong đội ngũ tướng soái. Hưng Đạo Đại vương Trần Quốc Tuấn, lúc sắp mất, đã nói với vua Trần, đại ý, dùng binh cốt phải đồng lòng như cha con một nhà thì mới có thể đánh được; cách ấy cốt phải từ lúc thái bình khoan thư sức cho dân để làm kế sâu rễ bền gốc, đó là thuật giữ nước hay hơn cả. Lịch sử Việt Nam cho thấy, triều đại nào mà dựa vào "thành cao hào sâu" thì sớm muộn cũng sẽ dẫn đến mất nước. Nghĩa quân Lam Sơn sở dĩ vượt qua bao thử thách ngặt nghèo, làm nên những chiến công vang dội "sấm vang chốp giật", "trúc chẻ tro bay"..., là bởi nhiều nguyên nhân, mà một trong những nguyên nhân quan trọng là "tướng sĩ một lòng phụ tử, hòa nước sông chén rượu ngọt ngào"...


Để có một đội quân như vậy, điều có ý nghĩa quyết định trước hết là phải xây dựng được đội ngũ tướng soái đảm lược, có phẩm chất trí - dũng - tín - liêm - trung. Vua Trần từng cho chọn tướng trong các quan viên, những người có tài năng luyện tập võ nghệ, tinh thông thao lược, không kể tôn thất. Bên cạnh những tướng lĩnh lỗi lạc trong giới quý tộc Trần, như Trần Quốc Tuấn, Trần Quang Khải, Trần Khánh Dư, Trần Nhật Duật..., phải kể đến Phạm Ngũ Lão, xuất thân bình dân. Được Trần Quốc Tuấn tin yêu, tuyển lựa và bồi dưỡng, ông trở thành một tướng giỏi. Ông rèn luyện và chỉ huy đạo quân, không chỉ nổi tiếng vì luôn chiến thắng khiến giặc khiếp sợ, mà còn được mệnh danh là đạo quân "phụ tử", tướng sĩ thân thiết nhau như cha con, anh em một nhà. Trần Quốc Tuấn với hai gia nô Yết Kiêu, Dã Tượng cũng là điển hình của quan hệ "phụ tử chi binh". Trong cuộc kháng chiến chống quân Mông - Nguyên lần thứ hai, khi giặc tràn vào các cửa ải Vĩnh Châu, Nội Bàng (Lạng Sơn), quân ta bất lợi phải lui về Vạn Kiếp (Hải Dương). Thủy quân vỡ trận, Trần Quốc Tuấn muốn rút theo đường chân núi, nhưng Dã Tượng khuyên ông: "Yết Kiêu chưa thấy Đại vương thì nhất định không dời thuyền". Quả nhiên, bất chấp hiểm nguy, Yết Kiêu vẫn đậu thuyền ở Bãi Tân đợi chủ tướng, nhờ đó thoát hiểm. Qua việc này, Trần Quốc Tuấn đã nói về quan hệ chủ tướng - quân hầu, về vai trò của người chiến đấu dưới quyền mình: "Chim hồng hộc muốn bay cao phải nhờ ở sáu trụ cánh. Nếu không có sáu chiếc trụ cánh ấy thì cũng là chim thường thôi". Sử thần nhà Lê ca ngợi tướng lĩnh thời Trần: "Giao cầm quân thì cùng nhau sống chết", "dụng binh tinh diệu, chiến tất phải thắng, đánh tất phải được"1 (Đại Việt sử ký toàn thư, t.II, tr.111).


Lịch sử Việt Nam còn ghi, Tả tướng quốc Hồ Nguyên Trừng đã từng phải thốt lên những lời bi thảm với vua cha Hồ Quý Ly khi đất nước đang đứng trước họa xâm lược của quân Minh: "Thần không sợ giặc, chỉ sợ đánh giặc mà dân không theo". Mất lòng dân là mất nước - vì từ trong sâu thẳm tâm thức dân tộc Việt Nam, quân với dân là một. Quân dựa vào dân, dân bổ trợ cho quần, nếu chính quyền mất lòng dân rồi, thì đạo quân bảo vệ quốc gia vốn đã thất bại ngay từ trước ngày chống xâm lược. Bi kịch lịch sử của nhà Hồ cũng đi liền với một giai đoạn mới trong lịch sử quân sự Việt Nam: quan hệ nội bộ quân đội chuyển hẳn từ ba hình thức tổ chức quân sự đan xen giữa trung ương - địa phương - gia trang, trong đó mỗi quy mô đều có lực lượng quân sự riêng, sang hình thức nhà nước - quân đội - chỉ còn nhà nước hợp pháp sử dụng quân đội. Sự đứt gãy trong nội bộ kết cấu của quân đội xuất phát từ quá trình chuyển giao đó, cùng với nhiều nguyên nhân chính trị - xã hội khác, đã khiến quân đội không thể đồng lòng nhất trí, đặc biệt khi tư tưởng thân dân đã không còn được trọng dụng bấy giờ.


Từ bài học đau xót đó của triều Hồ, Lê Lợi và Nguyễn Trãi - linh hồn của khởi nghĩa Lam Sơn - đã nêu cao đại nghĩa, "tập hợp khắp bốn phương manh lệ", biến cuộc khởi nghĩa từ chốn núi rừng Thanh Hóa thành cuộc chiến tranh giải phóng dân tộc, tập hợp sức mạnh của cả nước đánh tan quân Minh, khôi phục nền độc lập, mở ra thời kỳ phát triển mạnh mẽ và toàn diện đất nước, khiến cho suốt hơn 300 năm, đất nước vắng bặt bóng quân thù xâm lược. Trong Bình Ngô đại cáo, Nguyễn Trãi viết:


"Nêu hiệu gậy làm cờ, tụ tập khắp bốn phương dân chúng. Thết quân rượu hòa nước, dưới trên đều một bụng cha con"1 (Dẫn theo Ủy ban Khoa học xã hội Việt Nam: Lịch sử Việt Nam, Sđd, t.1, tr.259).

Là một đội quân mà những năm đầu khởi nghĩa, số lượng, trang bị kỹ thuật, cơ sở vật chất bảo đảm cho chiến đấu thua xa địch, để "lấy yếu chống mạnh", "lấy ít địch nhiều", cần phải thấy rõ thế mạnh của bản thân, thế yếu của đối phương. Sức mạnh của nghĩa quân bắt đầu từ lòng yêu nước, căm thù giặc, từ sự ủng hộ của nhân dân và tinh thần chiến đấu bền bỉ, dẻo dai của quân đội yêu nước. Vì thế, phải dựa vào dân mà xây dựng lực lượng, phải chăm lo giáo dục, rèn luyện phẩm chất chính trị, kỷ luật và trình độ tác chiến của nghĩa quân, trước hết của các tướng lĩnh.


Trong điều kiện lực lượng khởi nghĩa là "tập hợp khắp bốn phương manh lệ", Lê Lợi đã chú ý đến vấn đề kỷ luật nhằm tổ chức lực lượng nghĩa quân thành một khối thống nhất. Đối với các tướng lĩnh, những người trực tiếp cầm quân, tính kỷ luật càng phải được duy trì, tăng cường mạnh mẽ. Càng gần thắng lợi, kỷ luật chiến đấu càng phải tăng cường. Đồng thời, Lê Lợi luôn luôn coi trọng và tăng cường mối quan hệ giữa nghĩa quân với nhân dân. Ông dặn tướng sĩ của mình: "Dân khổ về ngược chính của giặc đã lâu rồi, phàm quân đi đến châu huyện nào không được xâm phạm một tý gì..., dù đói quẫn cũng không được lấy"1 (Đại Việt sử ký toàn thư, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội, 1968, t.III, tr.40, 20, 35-36).


Do được giáo dục và rèn luyện chu đáo trong chiến đấu, họ đoàn kết, phối hợp, hỗ trợ và nhanh chóng tiếp ứng cho nhau khi cần thiết như "cây rừng rậm rạp, răng lược khít nhau"2 (Nguyễn Trãi: Toàn tập, Sđd, t.3, tr.316). Giữa họ với binh sĩ khăng khít "tình thiết như cha con, thân cùng cam khổ". Vì vậy, "tướng sĩ dư sức hùng hổ, sắt luyện tâm can"1 (Ủy ban Khoa học xã hội Việt Nam: Lịch sử Việt Nam, Sđd, t.1, tr.243) trong quá trình chiến đấu. Trong những ngày gian khổ ở núi rừng Thanh Hóa, đánh trả quyết liệt các đợt vây quét của kẻ thù, bảo toàn lực lượng, chuyển hướng chiến lược vào Nam, chọn Nghệ An làm địa bàn đứng chân, từ đó tổ chức và tăng cường lực lượng, đến lúc tiến vào giải phóng Tân Bình, Thuận Hóa, tiến về giải phóng Tây Đô, đội ngũ tướng lĩnh đã thực hiện xuất sắc mọi ý đồ chiến lược và chiến thuật của chủ tướng.


Sau thời Lê Sơ, về căn bản, hình thức quan hệ trong lực lượng quân sự phụ thuộc vào môì quan hệ nhà nước - quân đội, trung ương - địa phương, do đó tính thân dân và truyền thống phụ tử chi binh không còn tác dụng mạnh mẽ. Nhưng biến động chính trị - xã hội - quân sự dữ dội từ thế kỷ XVI cho đến hết thế kỷ XIX với sự suy bại của nhà Nguyễn, cũng là giai đoạn nền quân sự Việt Nam không phát huy được sự thống nhất, dân tộc - quốc gia, tính thân dân vốn có từ trong bản chất của mình. Trong khoảng gần ba thế kỷ loạn lạc xen lẫn phát triển ấy, nền quân sự Việt Nam chứng kiến sự nổi lên của phong trào Tây Sơn vào thế kỷ XVIII, phục hồi những nền tảng quan hệ quân - dân, nội quân, với đội nghĩa binh mang theo đại nghĩa dân tộc, khát vọng của nhân dân.


Sở dĩ quân đội Tây Sơn có được sức mạnh như triều dâng, đủ sức đánh những đòn mãnh liệt, chớp nhoáng khiến kẻ thù dù có quân số đông, có kinh nghiệm trận mạc..., vẫn nhanh chóng bị đè bẹp là do nhiêu nguyên nhân, mà một trong số đó chính là có được sự đoàn kết toàn dân. Đây thực sự là nhân tô nền tảng bảo đảm cho phong trào Tây Sơn ngày càng phát triển, cho đội quân chiến đấu của nó không ngừng lớn mạnh. Đối với quân sĩ, Nguyễn Huệ luôn chủ trương: "Quân lính cốt hòa thuận, không cốt đông". Do đó, khác với quân đội nhà Nguyễn, nhà Trịnh, ông không tổ chức ra các loại quân như thân binh, ưu binh... Trái lại, mỗi khi tuyển mộ lính mới, những người lính mới ấy được phiên chế vào những đạo trung quân đặt dưới sự chỉ đạo trực tiếp của Nguyễn Huệ. Việc tuyển mộ và phiên chế số quân ở Nghệ An, Thanh Hóa lần ra Bắc dẹp Thanh đầu năm 1789 đã chứng tỏ điều đó. Thêm vào đó, giữa những người lính cũ và lính mới trong quân đội Tây Sơn hoàn toàn không có sự cách biệt nhau về đối xử, về quyền lợi. Thái độ ứng xử và cách thức tổ chức như thế khiến cho quân đội Tây Sơn thực sự tin cậy lẫn nhau, hợp thành một khối vững chắc.


Hàng nghìn năm dựng nước và giữ nước, qua bao phen binh lửa, đã hình thành, bồi đắp nên truyền thống quân sự Việt Nam, mà bộ phận quan trọng trong truyền thống ấy chính là mối quan hệ gắn bó, khăng khít quân - dân và mối quan hệ nội tại trong bản thân đội quân ấy. Mối quan hệ này được quy định bởi tính chính nghĩa của sự nghiệp kháng chiến vì nền độc lập, chủ quyền của dân tộc, bởi tư tưởng "thân dân", và "khoan thư sức dân" và những tư tưởng, chính sách tiến bộ của tập đoàn cầm quyền ban hành và thực thi, ngay từ trong thời bình, xem đó là "kế sâu rễ bền gốc" của thuật giữ nước.
Logged

Ai công hầu, ai khanh tướng, vòng trần ai, ai dễ biết ai
Thế Chiến Quốc, thế Xuân Thu, gặp thời thế, thế thời phải thế
quansuvn
Moderator
*
Bài viết: 6589



WWW
« Trả lời #74 vào lúc: 18 Tháng Hai, 2022, 04:58:06 pm »

3. Sự phát triển của tư tưởng đoàn kết dân tộc trong thời hiện đại

Ở thời hiện đại, cách mạng, chiến tranh cách mạng dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam và Chủ tịch Hồ Chí Minh, kế thừa truyền thống cố kết dân tộc và thấu triệt quan điểm Mác - Lênin về vai trò quần chúng trong lịch sử, vấn đề đoàn kết dân tộc đã phát triển lên một tầm cao mới với sự nhảy vọt về chất, cả về nội dung, tính chất và phong phú về hình thức thể hiện.


Gần một thế kỷ trước khi Cách mạng Tháng Tám năm 1945 thành công, dân tộc Việt Nam bị chủ nghĩa thực dân đô hộ. Đất nước mất độc lập, chủ quyền, bị chia cắt; nhân dân bị áp bức, bóc lột, sống trong cảnh nô lệ lầm than. Độc lập, tự do, hòa bình, thống nhất là đòi hỏi khách quan của toàn dân tộc, là ý nguyện của mọi giai tầng xã hội, là khát vọng của mỗi người Việt Nam yêu nước. Nhiệm vụ cấp bách thời gian này là giành chính quyền về tay nhân dân. Hội nghị Trung ương Đảng Cộng sản Đông Dương lần thứ tám (tháng 5-1941) quyết định "thay đổi chiến lược", vì "nếu không giải quyết được vấn đề dân tộc giải phóng, không đòi được độc lập, tự do cho toàn thể dân tộc, thì chẳng những toàn thể quốc gia dân tộc còn chịu mãi kiếp ngựa trâu, mà quyền lợi của bộ phận, giai cấp đến vạn năm cũng không đòi lại được"1 (Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd, t.7, tr.113), về sự thay đổi chiến lược trên, Chủ tịch Hồ Chí Minh nêu rõ dân tộc không độc lập thì giai cấp vạn năm không được giải phóng và nhân dân Việt Nam mãi mãi phải chịu kiếp ngựa trâu. Trong hoàn cảnh đó, Đảng Cộng sản Việt Nam và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đặt lợi ích dân tộc lên hàng đầu: Dân tộc trên hết, Tổ quốc trên hết; dù phải đốt cháy cả dãy Trường Sơn cũng phải giành cho được độc lập. Tư tưởng quyết giành độc lập, tự do cho dân tộc của Người đã đáp ứng khát vọng của toàn dân, đã khơi dậy mạnh mẽ chủ nghĩa yêu nước và khí phách anh hùng của dân tộc, nhân dân, con người Việt Nam, tạo nên thắng lợi "long trời lở đất" của cuộc Cách mạng Tháng Tám năm 1945 và trong sự nghiệp chiến tranh cách mạng tiếp đó.


Độc lập là vô giá, lợi ích tối cao của dân tộc là độc lập, tự do; nhiệm vụ trọng yếu của toàn Đảng, toàn dân là bảo vệ chính quyền cách mạng, bảo vệ chế độ, bảo vệ quyền dân tộc là thiêng liêng. Trong giờ phút lịch sử tồn vong của quốc gia, Đảng, Nhà nước Việt Nam đã gắn kết toàn thể dân tộc, gạt bỏ những mâu thuẫn giữa các xu thế chính trị, các tôn giáo, các giai cấp, thực hiện đại đoàn kết rộng rãi, thành thực, vững chắc. Thực vậy, Đảng giương cao ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội; Đảng chỉ rõ cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược (1945-1954) nhằm cứu nước, bảo vệ nền độc lập vừa giành được trong Cách mạng Tháng Tám; kế theo đó là cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước nhằm giải phóng miền Nam, bảo vệ miền Bắc, hoàn thành ước vọng độc lập, thống nhất Tổ quốc. Đây là chiến tranh chính nghĩa, chống xâm lược, giải phóng dân tộc, bảo vệ Tổ quốc, đem lại ruộng đất và quyền làm chủ cho dân cày, đem lại quyền lợi cho mọi người, đưa đất nước tiến lên chủ nghĩa xã hội. Đường lối kháng chiến đúng đắn, sáng tạo của Đảng đáp ứng quyền lợi và nguyện vọng cơ bản của toàn dân, từng bước hiện thực hóa khát vọng ngàn đời của toàn dân tộc. Đây chính là động lực cơ bản, có sức cuốn hút mạnh mẽ và tập hợp rộng lớn, toàn thể dân tộc Việt Nam tạo nên khối thống nhất toàn dân theo con đường cứu nước, cứu nhà, xây dựng xã hội mới.


Nêu cao sự nghiệp chính nghĩa, khơi dậy và phát huy tinh thần yêu nước của toàn dân, Đảng thường xuyên chú trọng xây dựng khối đoàn kết toàn dân tộc, xem đấy là nhân tố quyết định thắng lợi của sự nghiệp cách mạng giành độc lập, tự do và kháng chiến cứu nước.


Để quy tụ, đoàn kết toàn dân, trong khi đề cao lợi ích dân tộc, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn luôn quan tâm đến lợi ích con người. Trong quá trình đấu tranh giành độc lập, Người luôn chú trọng lãnh đạo, chỉ đạo phong trào đấu tranh đòi quyền dân sinh, dân chủ: đòi ruộng đất cho dân cày; tăng lương, giảm giờ làm cho thợ thuyền; quyền tự do cho công chức, viên chức, học sinh, sinh viên... Đất nước vừa giành được độc lập, trước sức ép và sự phá hoại vừa công khai, vừa ngấm ngầm của thù trong giặc ngoài, ở tình thế ngàn cân treo sợi tóc, Đảng Cộng sản Việt Nam và Chủ tịch Hồ Chí Minh lãnh đạo toàn dân kiên quyết chống ngoại xâm, vừa ra sức chống giặc đói, giặc dốt. Kháng chiến toàn quốc bùng nổ, Đảng chủ trương vừa kháng chiến vừa kiến quốc, vừa đánh giặc vừa gia sức tăng gia sản xuất, thực hành tiết kiệm, lo bảo đảm đời sống nhân dân. Trong xây dựng chế độ mới và xây dựng chính quyền cách mạng non trẻ, Chủ tịch Hồ Chí Minh thường xuyên yêu cầu và căn dặn các cấp ủy đảng, chính quyền chăm lo cho dân - cho con người; từ cái kim sợi chỉ, tương cà mắm muôi, việc học hành, khám chữa bệnh, đến bảo đảm quyền tự do, bình đẳng và cơ hội tiến bộ, phát triển. Đây là tư tưởng xuyên suốt trong quá trình lãnh đạo cách mạng của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Ngay cả trước khi từ trần, trong Di chúc, Người căn dặn: "Đầu tiên là công việc đối với con người"1 (Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.12, tr.503), "Đảng cần phải có kế hoạch thật tốt để phát triển kinh tế và văn hóa, nhằm không ngừng nâng cao đời sống của nhân dân"2 (Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.12, tr.511).


Chính sách đại đoàn kết, ngay từ hồi đầu kháng chiến chống thực dân Pháp được Đảng đề ra trong Chương trình kháng chiến rất sâu, rộng. Bên trong, Đảng chủ trương đoàn kết thống nhất chặt chẽ mọi lực lượng của dân tộc, bao gồm tất cả các tầng lớp, giai cấp trong xã hội, tất cả các đảng phái, các thành phần dân tộc, kiều bào ta ở nước ngoài; đoàn kết thống nhất chặt chẽ trong Đảng, trong cơ quan chính quyền các cấp, trong quân đội, đoàn kết giữa các cơ quan lãnh đạo kháng chiến, lãnh đạo chính quyền với toàn thể nhân dân. Bên ngoài, liên hiệp với nhân dân Pháp, đoàn kết với nhân dân Lào, Campuchia, thân thiện với các dân tộc yêu chuộng tự do, hòa bình.


Đảng, Chính phủ và Chủ tịch Hồ Chí Minh xây dựng khối đoàn, kết toàn dân được tập hợp trong Mặt trận Việt Minh và các đoàn thể cứu quốc. Khẩu hiệu: "Dân tộc trên hết", "Tổ quốc trên hết", "Tập trung ngọn lửa đấu tranh vào thực dân Pháp xâm lược", đã thu hút, động viên được rộng rãi mọi tầng lớp nhân dân tham gia, bên cạnh chủ lực là công - nông, còn có cả các "quan đại thần" cũ, nhà tư sản, địa chủ yêu nước, nhân sĩ và trí thức tiến bộ. Để thu hút hơn nữa đông đảo đồng bào tham gia kháng chiến, Đảng chủ trương vận động thành lập Hội liên hiệp quốc dân Việt Nam (gọi tắt là Hội Liên Việt, ngày 29-5-1946). Cương lĩnh của Hội nêu rõ, mục đích là đoàn kết tất cả các đảng phái yêu nước và đồng bào yêu nước không đảng phái, không phân biệt giai cấp, tôn giáo, xu hướng chính trị, chủng tộc, làm cho nước Việt Nam độc lập, thống nhất dân chủ, phú cường1 (Xem Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd, t.8, tr.69-70). Nhiều đoàn thể cứu quốc trong Mặt trận Việt Minh và Liên Việt được thành lập như: Hội Công nhân cứu quốc, Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam, Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam, Việt Nam Công giáo cứu quốc hội, Phật giáo cứu quốc hội, Đảng Dân chủ, Đảng Xã hội... Chính sách mặt trận ngày càng đi vào bề rộng và chiều sâu, nhằm thu hút rộng rãi hơn các thành phần xã hội, gắn kết chặt chẽ các tổ chức yêu nước, tăng thêm sức mạnh và hiệu quả. Theo chủ trương của Đảng, Mặt trận Việt Minh thống nhất với Hội Liên Việt, lấy tên là Mặt trận liên hiệp quốc dân Việt Nam (gọi tắt là Mặt trận Liên Việt).


Cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp kết thúc thắng lợi. Mặt trận đoàn kết toàn dân có bước phát triển mới, đảm nhiệm sứ mệnh động viên và tổ chức toàn dân tiến hành đồng thời hai chiến lược cách mạng, thực hiện mục tiêu chung là hoàn thành giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước. Ở miền Nam dần dần hình thành một mặt trận rộng rãi tập hợp mọi lực lượng dân tộc, dân chủ và hòa bình. Trên miền Bắc, Đại hội Mặt trận Dân tộc thống nhất Việt Nam quyết định lấy tên là Mặt trận Tổ quốc Việt Nam (9-1955). Tiêu biểu cho ý chí mạnh mẽ, tinh thần đoàn kết và thống nhất hành động của toàn dân trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước là Hội nghị chính trị đặc biệt do Chủ tịch Hồ Chí Minh triệu tập (27-3-1964), một "Hội nghị Diên Hồng" trong thời hiện đại. Tại Hội nghị, đại biểu các bậc lão thành cách mạng, nhân sĩ yêu nước, những người tiêu biểu cho các giới, các ngành, đại biểu người Việt Nam ở nước ngoài... đã thay mặt toàn dân, dân chủ bàn việc nước.


Cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước ở miền Nam ngày càng phát triển, việc tập hợp lực lượng đáp ứng yêu cầu cách mạng - kháng chiến ngày càng mở rộng, đa dạng và phong phú. Tháng 12-1960, Mặt trận Dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam ra đời. Với cương lĩnh đúng đắn và chương trình hành động cụ thể, thiết thực, Mặt trận nhanh chóng tập hợp các tổ chức chính trị - xã hội, đảng phái, tôn giáo như: Hội Lao động giải phóng, Hội Liên hiệp sinh viên - học sinh, Hội các nhà giáo yêu nước, Hội Phụ nữ giải phóng, Hội những người Công giáo kính Chúa, yêu nước, Hội Lục hòa phật tử miền Nam, Đảng Xã hội cấp tiến của trí thức yêu nước, Đảng Dân chủ miền Nam của tư sản dân tộc... Khối đoàn kết dân tộc tiếp tục mở rộng khi Mặt trận chủ trương thành lập một chính quyền liên minh dân tộc, dân chủ rộng rãi ở miền Nam, thực hiện độc lập dân tộc, dân chủ, tự do, cải thiện dân sinh, giữ vững hòa bình, thi hành chính sách trung lập, tiến tới hòa bình thống nhất Tổ quốc.


Với Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng, đoàn kết dân tộc là chiến lược của cách mạng. Trước hết, lấy tin vào dân, dựa vào dân làm nguyên tắc cơ bản với những luận điểm chủ yếu: dân là gốc rễ, là nền tảng của khối đại đoàn kết; dân là chủ thể của khối đại đoàn kết; dân là nguồn sức mạnh vô địch của khối đại đoàn kết, quyết định thắng lợi của cách mạng; dân là chỗ dựa vững chắc của Đảng Cộng sản, của hệ thống chính trị cách mạng... Để xây dựng, củng cố khối đại đoàn kết toàn dân, ngoài những chủ trương, chính sách đúng đắn, hợp lòng dân, điều có ý nghĩa quyết định hàng đầu là cán bộ, đảng viên phải gắn bó máu thịt với nhân dân, "phải gìn giữ sự đoàn kết trong Đảng như gìn giữ con ngươi của mắt mình". Và chỉ có như thế, Đảng Cộng sản Việt Nam mới thực sự là hạt nhân lãnh đạo, hạt nhân của khối đại đoàn kết, thống nhất toàn dân tộc, mới biến sức mạnh của cả dân tộc thành động lực to lớn trong công cuộc xây dựng và bảo vệ đất nước Việt Nam, hòa bình, độc lập, dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.
Logged

Ai công hầu, ai khanh tướng, vòng trần ai, ai dễ biết ai
Thế Chiến Quốc, thế Xuân Thu, gặp thời thế, thế thời phải thế
quansuvn
Moderator
*
Bài viết: 6589



WWW
« Trả lời #75 vào lúc: 19 Tháng Hai, 2022, 07:16:15 pm »

II- TƯ TƯỞNG VỀ ĐOÀN KẾT QUỐC TẾ, KẾT HỢP SỨC MẠNH DÂN TỘC VỚI SỨC MẠNH THỜI ĐẠI

1. Tư tưởng đoàn kết quốc tế trong thời phong kiến

Đoàn kết quốc tế, kết hợp sức mạnh dân tộc và sức mạnh thời đại là những khái niệm xuất hiện ở thời hiện đại. Tuy nhiên, do nhu cầu tự thân của cuộc sống, các nội dung kể trên đã manh nha từ thời xa xưa trong lịch sử dân tộc Việt Nam. Với diện tích hẹp, dân số ít, dân tộc Việt Nam lại thường xuyên chịu mối đe dọa thôn tính, xâm lược của các thế lực bên ngoài, thực tế phải trải qua nhiều cuộc kháng chiến, việc đoàn kết với các nước cùng cảnh ngộ trong khu vực, các nước trên thế giới để bảo vệ độc lập, là lẽ tự nhiên và luôn đặt ra một cách cấp thiết. Vả lại, do triết lý sống hình thành từ văn hoá nước, từ việc phải thường xuyên đấu tranh chống ngoại xâm, nhân dân Việt Nam hiểu sâu sắc giá trị của độc lập và hòa bình, thực tế đó tạo nên tính cách sống hòa đồng, hòa hiếu, thân thiện với các nước, các dân tộc khác.


Sử sách còn ghi lại, năm 722, dưới cờ của thủ lĩnh Mai Thúc Loan chống nhà Đường xâm lược, nghĩa quân đã liên kết với các nước Chămpa, Chân Lạp, thậm chí rất xa như nước Kim Lân (Malaixia ngày nay). Đại Việt sử ký toàn thư viết: "Mai Thúc Loan chiếm giữ châu, xưng là Hắc Đế, bên ngoài liên kết với người Lâm Ấp, Chân Lạp..."1 (Đại Việt sử ký toàn thư, Sđd, tr.121).


Các thư tịch cổ của Việt Nam đều ghi chép sự kiện đầu tiên về quan hệ Việt Nam - Lào, Lào - Việt Nam từ rất sớm, vào năm 550 dưới thời nước Vạn Xuân nhà Tiền Lý. Khi đó, bị quân Lương ở phương Bắc đàn áp, Lý Nam Đế buộc phải lánh nạn và anh ruột của vua là Lý Thiên Bảo đã chạy sang đất Lào lập căn cứ chống ngoại xâm1 (Xem Lý Tế Xuyên: Việt Điện u linh, Nxb. Văn học, Hà Nội, 1972, tr.43-44, và Phan Huy Chú: Lịch triều hiến chương loại chí, bản dịch, Nxb. Sử học, Hà Nội, 1960-1964, t.1, q.6, tr.156). Hai bộ chính sử Đại Việt sử ký toàn thư và Khâm định Việt sử thông giám cương mục thì ghi nhận sự kiện quan hệ ngoại giao, thông hiếu đầu tiên giữa nước Đại Việt và Lào là vào năm 10672 (Xem Đảng Nhân dân cách mạng Lào - Đảng Cộng sản Việt Nam: Lịch sử quan hệ đặc biệt Việt Nam - Lào, Lào - Việt Nam (1930-2007), Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, tr.13). Thời Trần, nhận thức về tầm quan trọng của việc xác lập quan hệ tốt đẹp với các nước láng giềng, xem đó như một nhân tố cơ bản, lâu dài để ngăn cản và đối phó với sức ép của giặc phương Bắc và sự xâm lược của ngoại bang, tiến thêm một bước mới. Đại Việt sử ký toàn thư phản ánh rất rõ tư tưởng thống nhất của triều đình nhà Trần về sự cần thiết liên kết lực lượng đồng minh phía Tây (ở đây chỉ nước Lào) vào năm 1335, bằng câu hỏi nghiêm túc: "Nếu có điều gì chẳng may, mà giặc phương Bắc lại sang xâm lược thì kế sách như thế nào?"3 (Ngô Sĩ Liên và các sử thần nhà Lê: Đại Việt sử ký toàn thư, bản dịch, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội, 1972, q.2, tr.128). Quốc sử quán triều Nguyễn trong bộ Đại Nam chính biên liệt truyện ghi nhận: "Thời Lê Thái Tổ mới khởi nghĩa thường cùng nước này tức nước Lào - người Việt kết hảo"1 (Quốc sử quán triều Nguyễn: Đại Nam chính biên liệt truyện, bản dịch, lưu Viện Sử học, tr.1). Cho dù các triều đại phong kiến ở mỗi nước có sự thay đổi, biến động, thì quan hệ nương tựa vào nhau giữa nhân dân hai nước Việt - Lào luôn tiếp tục được giữ gìn, nuôi dưỡng. Cuốn Biên niên sử Lào đề cập cuộc tiến công của 3.000 quân Tây Sơn phối hợp với 3.000 quân Xiêng Khoảng năm 1788, đánh thẳng vào thành Viêng Chăn, buộc chính quyền do Xiêm dựng lên phải thả Chạu Xủmphu và thừa nhận chức Chạu mương Xiêng Khoảng của ông2 (Dẫn theo Đảng Nhân dân cách mạng Lào - Đảng Cộng sản Việt Nam: Lịch sử quan hệ đặc biệt Việt Nam - Lào, Lào - Việt Nam, Sđd, tr.16).


Các thế hệ Việt Nam trong lịch sử có nhiều phương thức liên kết, tranh thủ sự đồng tình, ủng hộ của nhân dân nước khác, thậm chí cả nước đối phương, khi giai cấp thống trị những nước này động binh, cất quân xâm lược Việt Nam. Điều này diễn ra không chỉ ở thời hiện đại, mà xuất hiện ngay từ thời trung đại. Trong cuộc tiến công sang Ung, Khâm, Liêm đánh phá cơ sở hậu cần, chuẩn bị xuất phát tiến công xâm lược nước ta của nhà Tống, Lý Thường Kiệt đã cho truyền đi bản Lộ bố văn để nêu rõ lẽ phải trái, thiệt hơn với người dân đất Tống: "Bản chức vâng mệnh quốc vương, chỉ đường Bắc tiến, muốn dẹp làn sóng yêu nghiệt, chỉ có cái ý phân biệt quốc thổ, chứ không phân biệt chúng dân. Phải quét sạch cái bẩn thỉu hôi tanh để ca thuở đẹp của ngày Nghiêu, để hưởng hội lành của tháng Thuấn"1 (Theo bản dịch Lộ bố văn của Trần Văn Giáp, in trong Tuyển tập văn học Việt Nam, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội, 1980, tr.307). Bản Lộ bố văn có sức mạnh như một "đạo quân tinh thần", tác động vào tư tưởng - tâm lý chán ghét của dân Tống đối với chính sách của nhà nước, tranh thủ sự đồng tình của họ, tạo ra thuận lợi cho quá trình hành quân và tác chiến trên đất Tống. Chính vì vậy, Dân Tống thấy lời tuyên cáo đều vui mừng đem trâu, rượu khao quân ta. Từ đó mỗi lúc dân Tống thấy hiệu cờ Thường Kiệt đằng xa thì nói đó là quân của cha họ Lý nước Nam, rồi cùng nhau bày hương án bái phục bên đường. Nhờ đó mà uy danh của quân ta lan khắp2 (Xem Hoàng Xuân Hãn: Lý Thường Kiệt, Nxb. Văn học, Hà Nội, 1994, tr.123).


Các nhà lãnh đạo Việt Nam trong lịch sử trung đại không chỉ tranh thủ sự ủng hộ của các dân tộc "nhược tiểu" cùng cảnh ngộ và nhân dân các nước khi có chiến tranh, mà còn thể hiện rõ tinh thần, ý nguyện sống hòa hiếu - hòa bình, qua việc thiết lập quan hệ ngoại giao, quan hệ kinh tế..., với các nước lân bang. Trên thực tế, nhà Lý đã thiết lập mối quan hệ với Chămpa, với nhà Tống như trao đổi sứ giả, buôn bán... Quan hệ buôn bán của Đại Việt với các nước vùng Đông Nam Á như: Xiêm La (Thái Lan), Inđônêxia, Java, Malaixia, vùng Sumatra thời kỳ này cũng đã hình thành. Từ họ Khúc thế kỷ X, đến các vương triều Ngô, Đinh, Tiền Lê, sau khi lên cầm quyền, những người đứng đầu vương triều đều "xin mệnh" và nhận tước phong của Nam Hán, Tống và thường xuyên phái sứ giả sang triều cống, tỏ ý thần phục, giữ cho được hòa hiếu, yên bình. Thế nhưng, khi Nam Hán hoặc Đại Tống uy hiếp độc lập dân tộc, xâm lược lãnh thổ Đại Việt, thì lập tức bị quân và dân Đại Việt giáng trả, buộc phải rút quân về nước...


Nhà Trần, trong đối ngoại, tỏ rõ tầm nhìn xa, biết mình, biết người. Nước Đại Việt thời Trần là quốc gia hưng thịnh, có uy tín trong vùng. Trên cơ sở sức mạnh chính trị, kinh tế và quân sự, nhà Trần chủ trương thực hiện chính sách ngoại giao linh hoạt, thích hợp với từng đối tượng. Đó là sự mềm dẻo, nhún nhường kết hợp kiên quyết (về nguyên tắc) với nước lớn vì lợi ích, chủ quyền lãnh thổ và thể diện quốc gia; đồng thời khoan hòa, linh hoạt nhưng cứng rắn, nghiêm khắc với nước nhỏ.


Thời Tây Sơn, chiến thắng vang dội quân Xiêm ở Rạch Gầm - Xoài Mút (1785), quân Thanh ở Thăng Long (1789), đã làm cho thanh thế của Đại Việt lan ra khắp các quốc gia láng giềng. Đây là cơ hội thuận tiện để Tây Sơn - Nguyễn Huệ thực hiện tư tưởng hòa hiếu với bên ngoài, giữ yên biên cương, tạo ổn định cho công cuộc xây dựng đất nước, củng cố quốc phòng. Do vậy, ngoài nhà Thanh, trong quan hệ với Miến Điện, triều Tây Sơn - Nguyễn Huệ đã chấp nhận quốc thư giao hiếu của vua Miến Điện. Quốc thư có đoạn: "... Bên mặt trời lặn, bên mặt trời mọc, cũng là một trời, chẳng lấy gì làm xa lắm. Từ nay bắc cầu vàng, cầu bạc đi lại với nhau thì càng thêm bền chặt, tươi đẹp"1 (Phan Huy Ích: Dụ Am thi tập. Dẫn theo Phan Huy Lê: Tác động và ảnh hưởng của phong trào Tây Sơn trong bối cảnh khu vực cuối thế kỷ XVIII, Kỷ yếu Hội thảo khoa học: Phú Xuân - Thuận Hóa thời Tây Sơn, Huế, năm 2000, tr.21).


Sự kết kợp giữa sức mạnh nội tại - sức mạnh dân tộc, với sức mạnh bên ngoài, qua hoạt động đối ngoại khôn khéo, đã đem lại hiệu quả, góp phần quan trọng trong cuộc đấu tranh bảo vệ chủ quyền lãnh thổ, tạo ra không khí hòa bình, hòa hiếu để xây dựng đất nước, hoặc kéo dài hòa hoãn, đẩy lùi chiến tranh để xây dựng lực lượng về mọi mặt, chuẩn bị kháng chiến. Nhìn lại lịch sử dân tộc, có thể thấy rằng tư tưởng đoàn kết quốc tế thời phong kiến ở Việt Nam đã đặt nền tảng quan trọng cho truyền thống đoàn kết quốc tế và truyền thống quân sự Việt Nam: mục đích cuối cùng của nền quân sự cũng là ý chí chính trị của dân tộc: vì hòa bình, vì độc lập, tự do, vì chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ.
Logged

Ai công hầu, ai khanh tướng, vòng trần ai, ai dễ biết ai
Thế Chiến Quốc, thế Xuân Thu, gặp thời thế, thế thời phải thế
quansuvn
Moderator
*
Bài viết: 6589



WWW
« Trả lời #76 vào lúc: 19 Tháng Hai, 2022, 07:17:38 pm »

2. Tư tưởng đoàn kết quốc tế, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại trong thời hiện đại

Được soi sáng bởi quan điểm về đoàn kết giai cấp vô sản, đoàn kết giữa các dân tộc bị áp bức của chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, phát huy truyền thống hòa hiếu với các quốc gia, dân tộc khác của tổ tiên, Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo toàn dân xây dựng khôl đoàn kết quốc tế, gắn kết hợp sức mạnh dân tộc và sức mạnh thời đại, tạo nên sức mạnh tổng hợp to lớn, chưa từng có trong lịch sử thế giới, đánh bại "hai đế quốc to" là Pháp và Mỹ.


Đoàn kết các lực lượng cách mạng và tiến bộ trên thế giới là xu thế khách quan của thời đại, mở ra khả năng và điều kiện thuận lợi cho các nước kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, giành thắng lợi cho cách mạng. Đảng Cộng sản Việt Nam luôn nhận thức được tầm quan trọng và sự cần thiết kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại và thực hiện việc kết hợp chặt chẽ giữa phong trào cách mạng nước ta với phong trào cách mạng thế giới, với các lực lượng tiến bộ trên thế giới.


Cùng với sự phát triển của phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa, giai cấp tư sản và giai cấp vô sản ra đời. Giai cấp vô sản muốn chiến thắng giai cấp tư sản phải thực hiện đoàn kết vô sản trên toàn thế giới, phát huy sức mạnh đoàn kết quốc tế. C. Mác đưa ra khẩu hiệu: "Vô sản toàn thế giới, liên hiệp lại!". Trong thời kỳ đế quốc chủ nghĩa, hệ thống thuộc địa bao trùm cả thế giới, chủ nghĩa đế quốc thực hiện sự áp bức, nô dịch dân tộc đối với các dân tộc vừa và nhỏ. Từ thực tế ấy, V.I. Lênin phát triển khẩu hiệu trên thành: "Vô sản tất cả các nước và các dân tộc bị áp bức, đoàn kết lại!".


Mục tiêu, con đường độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội đã đưa cuộc cách mạng của dân tộc Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng hội nhập vào trào lưu giải phóng của nhân loại - trào lưu giải phóng giai cấp, giải phóng xã hội, giải phóng con người. Đất nước ta, dân tộc Việt Nam là một bộ phận của thế giới và các dân tộc trên thế giới; cách mạng Việt Nam là một bộ phận khăng khít, không tách rời của cách mạng thế giới. Cuộc đấu tranh của nhân dân Việt Nam vì độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội gắn kết chặt chẽ với cuộc đấu tranh chung của nhân dân thế giới vì hoà bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội. Vì thế, thực hiện đoàn kết quốc tế trên cơ sở chủ nghĩa Mác - Lênin và chủ nghĩa quốc tế vô sản chân chính là một vấn đề nguyên tắc, có quan hệ tới sự sống còn của cách mạng Việt Nam và sự thành bại của công cuộc cứu nước. Một tất yếu của sự nghiệp giữ nước dưới sự lãnh đạo của Đảng là phải thực hiện đoàn kết quốc tế, tranh thủ tới mức cao nhất sự đồng tình ủng hộ và giúp đỡ quốc tế, tăng cường đoàn kết toàn dân, kết hợp nội lực với ngoại lực, tạo ra sức mạnh tổng hợp của toàn dân tộc, phối hợp hoạt động của cách mạng nước ta với hoạt động của các lực lượng hoà bình, độc lập dân tộc, dân chủ trên thế giới chống kẻ thù chung, vì tiến bộ và hoà bình của riêng dân tộc và của toàn thế giới. Nắm bắt đúng xu thế và thấu hiểu quy luật đó, ngay từ khi ra đời, trong Cương lĩnh chính trị đầu tiên, Đảng khẳng định nhiệm vụ và tính tất yếu đoàn kết quốc tế của cách mạng Việt Nam: "Trong khi tuyên truyền cái khẩu hiệu nước An Nam độc lập, phải đồng tuyên truyền và thực hành liên lạc với bị áp bức dân tộc và vô sản giai cấp thế giới"1 (Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd, t.2, tr.4-5). Tư tưởng này là cơ sở cho sự phát triển quan điểm, chủ trương, chính sách đoàn kết quốc tế của Đảng. Chủ trương, chính sách đó luôn được bổ sung, hoàn thiện và là một trong những nguồn lực quan trọng làm tăng thêm sức mạnh cho cách mạng Việt Nam, là một trong những nhân tố làm nên thắng lợi của cách mạng Việt Nam. Nhất quán với tư tưởng đó, trong tất các cương lĩnh cách mạng sau này, Đảng luôn đặt ra nhiệm vụ đoàn kết quốc tế, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại thành một nhiệm vụ chiến lược.


Trong tư tưởng và hoạt động của Chủ tịch Hồ Chí Minh, đoàn kết dân tộc luôn gắn liền với đoàn kết quốc tế, chủ nghĩa yêu nước chân chính luôn hòa quyện và thống nhất với chủ nghĩa quốc tế trong sáng. Cuộc đời hoạt động, đấu tranh cách mạng của Chủ tịch Hồ Chí Minh có quan hệ rộng, gắn bó mật thiết với các giai tầng bị áp bức, tại nhiều châu lục, nhiều quốc gia, gắn bó với thực tiễn phong trào cách mạng thế giới, nhận thức và giải quyết những yêu cầu lịch sử đất nước mình tương đồng và thống nhất với sự nghiệp của nhân loại tiến bộ. Từ rất sớm, Hồ Chí Minh đã khẳng định, cách mạng Việt Nam là một bộ phận khăng khít của cách mạng thế giới; cách mạng Việt Nam muốn thắng lợi phải có một đảng chân chính lãnh đạo để trong thì tập hợp mọi lực lượng yêu nước, ngoài thì liên kết với giai cấp vô sản và các dân tộc bị áp bức, bóc lột ở khắp nơi. Người nhiều lần khẳng định: "Việt Nam chỉ muốn hòa bình và độc lập, để cộng tác thân thiện với các dân tộc trên thế giới"1 (Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.5, tr.22); Việt Nam là một bộ phận trong đại gia đình châu Á, một bộ phận trong nền hòa bình chung toàn thế giới; "Thái độ nước Việt Nam đối với những nước Á châu là một thái độ anh em, đối với ngũ cường là một thái độ bạn bè"1 (Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.5, tr.136), "làm bạn với tất cả mọi nước dân chủ và không gây thù oán với một ai2 (Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.5, tr.220). Tư tưởng đoàn kết quốc tế của Chủ tịch Hồ Chí Minh có sức thu hút và lan tỏa sâu rộng, bởi đó là tư tưởng vì hòa bình, công lý, vì tình hữu nghị giữa các quốc gia, dân tộc. Đây là tư tưởng kết hợp hài hòa đoàn kết để tranh thủ sự đồng tình, ủng hộ, giúp đỡ của nhân loại tiến bộ với việc thực hiện nghĩa vụ quốc tế cao cả theo tinh thần thủy chung, trong sáng. Ngươi căn dặn bộ đội Việt Nam trước khi lên đường sang giúp nước bạn: "Các chú nhận một nhiệm vụ quan trọng và vẻ vang như nhiệm vụ này, tức là giúp nhân dân nước bạn. Mà giúp nhân dân nước bạn tức là mình tự giúp mình"3 (Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.7, tr.64). Trong Hội nghị cán bộ Mặt trận liên minh nhân dân Việt Nam - Lào - Campuchia (9-1952), Người nói rõ thêm: "Sự thật là chưa tìm ra chữ gì để thay thế chữ giúp, chứ thật ra không phải là giúp, mà là làm một nhiệm vụ quốc tế. Kháng chiến của Việt - Miên - Lào là chung của chúng ta. Việt Nam kháng chiến có thành công, thì Miên - Lào mới thắng lợi, và Miên - Lào kháng chiến có thắng lợi thì Việt Nam mới hoàn toàn thắng lợi. Việt - Miên - Lào như anh em ruột thịt trong một nhà"4 (Dẫn theo Đảng Nhân dân cách mạng Lào - Đảng Cộng sản Việt Nam: Lịch sử quan hệ đặc biệt Việt Nam - Lào, Lào - Việt Nam 1930-2007, Sđd, tr.237).
Logged

Ai công hầu, ai khanh tướng, vòng trần ai, ai dễ biết ai
Thế Chiến Quốc, thế Xuân Thu, gặp thời thế, thế thời phải thế
quansuvn
Moderator
*
Bài viết: 6589



WWW
« Trả lời #77 vào lúc: 19 Tháng Hai, 2022, 07:18:34 pm »

Tình thế cách mạng đặt ra cho Đảng Cộng sản Việt Nam nhiệm vụ phải đồng thời giải quyết tốt hai nội dung cơ bản trong vấn đề đoàn kết liên minh: vấn đề cốt tử là phải tập hợp được lực lượng, phải đoàn kết liên minh với các nước láng giềng, cũng như tranh thủ sự đồng tình giúp đỡ của chính phủ và nhân dân yêu hoà bình. Nhưng để đoàn kết, liên minh được trong tình hình mới, một mặt - rất cơ bản - chúng ta phải tranh thủ, kiên trì thực hiện bằng được đoàn kết liên minh với nhân dân Lào, nhân dân Campuchia; mặt khác, phải tuỳ theo đối tượng, tuỳ theo lực lượng, tuỳ theo không gian, thời gian để chọn hình thức, nội dung, xác định nhiệm vụ đoàn kết, liên minh cho phù hợp.


Trên cơ sở nhận thức đó, Đảng chủ trương giương cao ngọn cờ độc lập dân tộc, đoàn kết quốc tế, phát huy truyền thống quý báu giữa ba nước Đông Dương trong kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ; kiên trì đẩy mạnh sự nghiệp đoàn kết, liên minh với nhân dân Lào, nhân dân Campuchia theo nguyên tắc luôn tôn trọng độc lập, chủ quyền, lợi ích và nguyện vọng chính đáng của mỗi dân tộc, đồng thời giữ vững tinh thần độc lập tự chủ của ta, cùng nhau đoàn kết, liên minh chống kẻ thù chung là các thế lực thực dân, đế quốc, bảo vệ độc lập, chủ quyền quốc gia cho cả ba dân tộc.


Đặc biệt, trong kháng chiến chống đế quốc Mỹ, qua gần 21 năm cùng hai nướcs bạn tiến hành kháng chiến, có thể khẳng định rằng việc kiên trì nhất quán, nỗ lực thực hiện bằng được việc đoàn kết, liên minh với nhân dân Lào, nhân dân Campuchia nhằm mục tiêu đánh thắng đế quốc Mỹ xâm lược, thực hiện giải phóng dân tộc, là nét nổi bật trong quá trình đoàn kết, liên minh với hai dân tộc anh em để chiến thắng đế quốc Mỹ. Tuy nhiên do đặc điểm, điều kiện tình hình phát triển ở mỗi nước không giống nhau, do chủ trương chiến lược, biện pháp, bước đi của Mỹ đối với từng nước và lực lượng so sánh trực tiếp trên từng chiến trường có khác nhau, một vấn đề lớn khác đặt ra với chúng ta là trong quá trình đoàn kết, liên minh phải biết tìm kiếm, lựa chọn các hình thức, nội dung, mục tiêu phù hợp với từng giai đoạn, từng lực lượng, với từng nước khác nhau. Nếu không khéo lựa chọn các hình thức phù hợp thì chủ trương đoàn kết, liên minh mặc dầu đúng đắn, cần thiết đến đâu vẫn gặp nhiều trở ngại trong quá trình thực hiện.


Đối với Lào, với Đảng bạn, phát huy truyền thống đoàn kết, liên minh trong chống thực dân Pháp, suốt cả quá trình chiến tranh chống đế quốc Mỹ, hai Bộ Chính trị thường xuyên hội đàm thống nhất đánh giá tình hình, vạch ra chiến lược chung, thống nhất phối hợp chiến trường và phân công chỉ đạo đấu tranh. Hình thức, nội dung liên minh vừa kế thừa những kinh nghiệm đã đạt được trong kháng chiến chống thực dân Pháp, vừa phát triển những vấn đề mới, bao gồm nhiều lĩnh vực, đặc biệt tập trung trên các vấn đề chiến lược chủ yếu giúp nhau xây dựng thực lực cách mạng, liên minh chiến đấu, phối hợp chiến trưòng, cùng nhau mở các chiến dịch, trao đổi học tập kinh nghiệm lẫn nhau... Có thể nói, tình đoàn kết, liên minh với Đảng Nhân dân cách mạng Lào là hết sức trong sáng, thuỷ chung, bền vững và đem lại hiệu quả cao cho cả hai bên, cũng như xây dựng nền móng vững chắc cho sự phát triển lâu dài về sau. Đi đôi với liên minh với Đảng bạn là xuyên suốt, là nền tảng, thì trong các thời kỳ hoà hoãn thành lập chính phủ liên hiệp, ta đều tranh thủ đoàn kết, ủng hộ đường lối hoà bình, trung lập hoà hợp dân tộc của Chính phủ Vương quốc Lào, nhằm từng bước đẩy Mỹ ra khỏi Lào, do đó mà tranh thủ được sự đồng tình ủng hộ của Chính phủ Vương quốc. Ngoài ra, Đảng còn chủ trương đoàn kết với các lực lượng trung lập khác của Lào nhằm cùng đứng lên chống Mỹ.


Đối với Campuchia, với Đảng Campuchia, từ sau Hiệp định Giơnevơ năm 1954, mặc dù trong quan hệ còn những vướng mắc, Đảng Cộng sản Việt Nam và nhân dân Việt Nam vẫn hết lòng giúp đỡ lực lượng trong nước của Đảng Campuchia, kể cả việc cử người sang giúp Đảng Campuchia chuyển phương thức hoạt động thích hợp và phát triển lực lượng. Đồng thời, Đảng tiếp nhận cán bộ dự trữ của Đảng Campuchia sang Việt Nam học tập cũng như phối hợp với bộ phận chỉ đạo của Đảng Campuchia lưu trú trên đất nước ta. Trong một thời gian dài, đại diện Đảng Campuchia vẫn thường xuyên có mặt bên cạnh Trung ương Cục miền Nam. Nhưng do thực lực, sự hoạt động của Đảng Campuchia chưa nhiều, đặc biệt do Đảng Campuchia chưa nhất trí với ta về đường lối chiến lược nên hiệu quả phối hợp không cao. Năm 1966, Đảng Campuchia rút cơ quan đại diện bên cạnh Trung ương Cục của Việt Nam về nước, và năm 1967, phát động đấu tranh vũ trang định lật đổ chính quyền Vương quốc, nhưng bị đàn áp và tổn thất. Từ đó, quan hệ Việt Nam và Campuchia ngày càng có nhiều trắc trở, gây cho ta nhiều khó khăn. Tuy vậy, một mặt, Đảng ta vẫn hướng vào sự nghiệp cao cả của nhân dân hai nước để đoàn kết với nhân dân Campuchia. Mặt khác, Đảng và nhân dân Việt Nam vẫn kiên trì nêu rõ với Đảng Campuchia những quan điểm đúng đắn của phía Việt Nam trong công cuộc chống đế quốc Mỹ chung của hai dân tộc. Từ năm 1970, khi đế quốc Mỹ mở rộng chiến tranh trên bộ sang Campuchia, Đảng ta chủ động mời Đảng Campuchia sang hội đàm để phân tích rõ đúng sai, đi đến thống nhất phối hợp hành động. Cơ quan đại diện Đảng Campuchia được đặt bên cạnh Trung ương Cục miền Nam, và ở Hà Nội, có người đại diện Đảng Cộng sản Campuchia bên cạnh Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam. Để có hoạt động lớn, Đảng ta chủ trương tiếp tục giúp đỡ Đảng Campuchia phát triển nhanh các lượng vũ trang rồi cùng Việt Nam phối hợp chiến đấu, mở các mặt trận mới, tổ chức các chiến dịch phản công, giải phóng nhiều đất đai, nối liền các căn cứ giải phóng, tạo ra một cục diện mới chưa từng có ở Campuchia, làm cho đế quốc Mỹ phải lúng túng đối phó trên cả hai chiến trường.


Để tạo và phát triển thế chiến lược chủ động tiến công địch trên cả ba nước, Đảng chủ trương xây dựng, phát triển tuyến đường Hồ Chí Minh - thực chất là một căn cứ kháng chiến hết sức quan trọng, một hậu phương chiến lược vĩ đại, trực tiếp gắn bó các chiến trường ba nước bằng hệ thống huyết mạch nối liền ba nước, cùng với hệ thống kho tàng, căn cứ vận chuyển từ hậu phương lớn miền Bắc Việt Nam đi tới các chiến trường quan trọng của ba nước, ở đó, vừa có bộ đội Việt Nam, bộ đội bạn liên minh chiến đấu, phân công phối hợp giữ vững vùng trời, vùng đất cho hệ thống giao thông được thông suốt trong chiến tranh. Nếu không có con đường Trường Sơn lịch sử - căn cứ địa dựa lưng vững chắc của ba nước - thì cũng khó bảo đảm được sự chi viện, hỗ trợ liên minh chiến đấu giữa ba dân tộc trong điều kiện chiến tranh ác liệt, trong hoàn cảnh các chiến trường xa nhau, mà địch thì tìm mọi cách chia cắt, cô lập từng chiến trường. Cho nên tuyến đường vận tải chiến lược Trường Sơn là biểu tượng trong sáng của mối tình đoàn kết, gắn bó liên minh giữa ba nước trong cuộc chiến đấu chung trên một chiến trường thống nhất. Ở đó vừa thể hiện sự chi viện giữa hậu phương lớn với các chiến trường, vừa biểu hiện sự hy sinh cao cả của ba dân tộc dựa lưng vào nhau chiến đấu chống kẻ thù chung.
Logged

Ai công hầu, ai khanh tướng, vòng trần ai, ai dễ biết ai
Thế Chiến Quốc, thế Xuân Thu, gặp thời thế, thế thời phải thế
quansuvn
Moderator
*
Bài viết: 6589



WWW
« Trả lời #78 vào lúc: 19 Tháng Hai, 2022, 07:19:24 pm »

Song song với việc tập trung đánh địch, trong quá trình liên minh, Đảng chủ trương giúp bạn xây dựng, phát triển lực lượng theo yêu cầu phát triển của chiến tranh ngày càng cao. Đảng và nhân dân Việt Nam đã làm hết sức mình, bằng mọi cách giúp bạn xây dựng, phát triển nhanh lực lượng vũ trang, đặc biệt là giúp bạn bồi dưỡng, đào tạo cán bộ đề tạo cho bạn có những bước tiến mới cả về số lượng và chất lượng trong việc xây dựng thực lực kháng chiến nói chung và xây dựng lực lượng vũ trang nói riêng.


Nhờ có chủ trương đúng đắn đó mà không ngừng tiến công địch đều khắp trên cả ba chiến trường, và cũng do đó mà phát triển được thế chủ động chiến lược trên từng chiến trường, hình thành thế chiến lược tiến công chung của cả chiến trường Đông Dương, làm chuyển biến cục diện chung cả ba nước trong giai đoạn chống Mỹ, cứu nước. Cho nên đánh địch để phát triển lực lượng, đẩy mạnh phát triển lực lượng để tiếp tục đánh địch đạt hiệu quả chiến lược cao hơn là một nội dung quan trọng trong quá trình đoàn kết, liên minh.


Thực tiễn chiến tranh ở cả ba nước, ở các chiến trường cho phép ta khẳng định: phát huy sức mạnh đoàn kết liên minh, tạo thế chiến lược tiến công chung đánh địch ở cả ba nước, miền Nam Việt Nam là chiến trường chính, miền Bắc Việt Nam vừa là chiến trường vừa là hậu phương lớn của các chiến trường là những nội dung lớn trong chỉ đạo chiến tranh. Công cuộc đoàn kết, liên minh với Lào, với Campuchia đã góp phần đem lại thắng lợi to lớn trong sự nghiệp đấu tranh chống kẻ thù xâm lược chung của ba nước Đông Dương để giải phóng dân tộc, bảo vệ Tổ quốc.


Bên cạnh mặt trận liên minh với Lào và Campuchia, Đảng ta luôn nắm vững mối quan hệ giữa việc tranh thủ sự giúp đỡ quốc tế với việc ra sức làm tròn nghĩa vụ quốc tế của mình. Cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của nhân dân ta lúc này đang tiến hành trong những điều kiện quốc tế hoàn toàn khác hẳn. Ngay từ đầu cuộc kháng chiến, Đảng ta đã nhận định cách mạng thế giới đang ở thế tiến công, từ nhiều phía tiến công liên tục vào chủ nghĩa đế quốc và giành được những thắng lợi to lớn. Đó là những điều kiện quốc tế đặc biệt thuận lợi cho cách mạng Việt Nam. Bên cạnh đó, chủ nghĩa xã hội đã trỏ thành một trào lưu phổ biến, tất yếu, phát triển thành hệ thống thế giới, trở thành nhân tố quyết định sự phát triển của cách mạng thế giới. Hệ thống xã hội chủ nghĩa là thành trì, là chỗ dựa vững chắc cho cuộc đấu tranh giải phóng của các dân tộc bị áp bức. Nhân dân Việt Nam có sự đồng tình ủng hộ và giúp đỡ rất to lớn của các nước xã hội chủ nghĩa, nhất là Liên Xô, Trung Quốc. Điều đó đã tạo ra cho cách mạng Việt Nam thêm sức mạnh về chính trị - tinh thần, cũng như về vật chất - kỹ thuật để đánh thắng kẻ thù có ưu thế vượt trội về mặt vũ khí trang bị. Như thế, cách mạng Việt Nam còn có một hậu phương rất rộng lớn là hệ thống xã hội chủ nghĩa. Việt Nam đánh đuổi đế quốc Mỹ với tiềm lực của đất nước, đồng thời với một phần tiềm lực của hệ thống xã hội chủ nghĩa.


Từ thực tiễn kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, một số kinh nghiệm chủ yếu được rút ra là:

Thứ nhất, đặt cách mạng Việt Nam trong thế chung của cách mạng thế giới, kết hợp lợi ích dân tộc với lợi ích chung của nhân dân các nước.

Trong kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, Đảng, Nhà nước ta luôn đặt cách mạng Việt Nam trong sự vận động, phát triển của các trào lưu cách mạng của thời đại, kết hợp đúng đắn yếu tố dân tộc và yếu tố quốc tế. Trong chỉ đạo thực hiện, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, xây dựng đoàn kết, hợp tác quốc tế, Đảng, Nhà nước Việt Nam đã tìm thấy sự thống nhất giữa lợi ích dân tộc và lợi ích quốc tế. Trên cơ sở đường lối chiến lược đúng đắn, nắm vững mục tiêu chiến lược lâu dài, Đảng đã đề ra mục tiêu cụ thể trước mắt phù hợp với mục tiêu cách mạng thời đại. Đảng nắm vững và vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin, phân tích từng hoàn cảnh lịch sử cụ thể, nhận rõ mâu thuẫn cơ bản của thời đại, nhận rõ kẻ thù và bạn đồng minh cùng xu thế phát triển của thời đại. Lợi ích cao nhất, mục tiêu chiến lược của nhân dân ta trong cuộc kháng chiến là độc lập, tự do, thống nhất đất nước, góp phần vào sự nghiệp đấu tranh chung của nhân dân thế giới, vì hoà bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội. Mục tiêu đó phù hợp với nguyện vọng của đại đa số các dân tộc trên thế giới, phù hợp với xu thế chung của thời đại. Trong kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, Đảng, Nhà nước không những nhận rõ sứ mệnh đối với dân tộc, đất nước, mà còn ý thức đầy đủ trách nhiệm góp phần vào sự nghiệp đấu tranh chung của nhân dân thế giới. Thực tiễn cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước cho thấy, Đảng ta đã giải quyết thành công mối quan hệ giữa chiến tranh cách mạng và hoà bình. Đảng ta nhận thức sâu sắc rằng, thắng lợi của cách mạng Việt Nam không chỉ là thành quả riêng của mình, mà là sản phẩm chung của thời đại, rằng thắng lợi của cách mạng Việt Nam góp phần vào thắng lợi chung của cách mạng thế giới. Đảng ta không bao giờ đặt lợi ích của dân tộc mình lên trên lợi ích của các dân tộc khác. Đảng coi thắng lợi của bạn như thắng lợi của chính mình. Đảng đã biết kết hợp sức mạnh của nhân dân ta với sức mạnh của nhân dân Lào và nhân dân Campuchia. Gắn cuộc chiến đấu của nhân dân Việt Nam với cuộc đấu tranh và ủng hộ của các lực lượng cách mạng và tiến bộ trên thế giới để đánh thắng đế quốc Mỹ hùng mạnh, thống nhất Tổ quốc, cả nước đi lên xây dựng chủ nghĩa xã hội. Phấn đấu cho độc lập, tự do, hạnh phúc thật sự của chính mình và của mỗi dân tộc là điều kiện để phát huy sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước vẻ vang.


Thứ hai, chăm lo giáo dục chủ nghĩa yêu nước chân chính, kết hợp với chủ nghĩa quốc tế của giai cấp công nhân.

Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn nhắc nhở: "Tinh thần yêu nước chân chính khác hẳn với tinh thần "vị quốc" của bọn đế quốc phản động. Nó là một bộ phận của tinh thần quốc tế". Trong kháng chiến chống Mỹ, cứu nước Đảng ta hiểu rằng, không có tinh thần yêu nước chân chính thì không thể có lập trường quốc tế đúng đắn. Trái lại, không có lập trường quốc tế đúng đắn thì cũng không thể có được đường lối kháng chiến chống Mỹ, cứu nước đúng đắn. Đó là hai mặt thống nhất của một đường lối cách mạng. Đảng luôn luôn tìm thấy sự thống nhất đó, do đó cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của nhân dân ta có được sức mạnh to lớn, vượt qua mọi trở lực, chiến thắng đế quốc Mỹ. Tăng cường đoàn kết quốc tế, đoàn kết ba nước Đông Dương, đoàn kết với các lực lượng tiến bộ hòa bình trên thế giới, trong đó có nhân dân tiến bộ Mỹ, Đảng ta đã cảnh giác, đấu tranh chống mọi âm mưu chia rẽ và thủ đoạn xảo quyệt của chủ nghĩa đế quốc và cảc thế lực phản động, luôn luôn giáo dục chủ nghĩa yêu nước chân chính cho nhân dân Việt Nam, giáo dục chủ nghĩa quốc tế vô sản. Trong những thời điểm khó khăn của các biến động quốc tế, của chính cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, chúng ta luôn thực hiện thành công nhiệm vụ đoàn kết quốc tế, gia tăng sức mạnh đáng kể cho cuộc kháng chiến.


Thứ ba, phát huy sức mạnh quốc tế trên cơ sở độc lập, tự chủ, nêu cao ý chí tự lực, tự cường của dân tộc.

Trong cuộc đụng đầu lịch sử giữa Việt Nam và đế quốc Mỹ, thế giới không ít người chỉ thấy sức mạnh của Mỹ, sợ Mỹ, khuyên chúng ta phải trường kỳ mai phục ở miền Nam. Đảng nhận rõ đế quốc Mỹ có tiềm lực kinh tế và quân sự mạnh nhất trong phe đế quốc, nhưng sức mạnh của Mỹ không phải là vô hạn, Mỹ đang đứng trước nhiều mâu thuẫn. Nắm vững chiến lược tiến công, giữ vững độc lập, tự chủ, nêu cao ý chí tự lực, tự cường của dân tộc, nhân dân ta đã đánh bại đế quốc Mỹ và chế độ tay sai, giải phóng miền Nam, thống nhất Tổ quốc.
Logged

Ai công hầu, ai khanh tướng, vòng trần ai, ai dễ biết ai
Thế Chiến Quốc, thế Xuân Thu, gặp thời thế, thế thời phải thế
quansuvn
Moderator
*
Bài viết: 6589



WWW
« Trả lời #79 vào lúc: 19 Tháng Hai, 2022, 07:21:16 pm »

KẾT LUẬN


Lịch sử tư tưởng quân sự và nghệ thuật quân sự thực tế không phải là đối tượng khoa học được chú trọng xứng đáng trong tổng thể khoa học xã hội ở nhiều quốc gia - dân tộc. Một trong những lý do của tình trạng ấy là vì những nhà tư tưởng quân sự xuất hiện trong lịch sử không nhiều như các lĩnh vực khác. Hơn nữa, người ta thường thích hòa bình hơn chiến tranh, mà lý thuyết quân sự thì thường cô đọng chứ hiếm khi xuất hiện dưới dạng thơ văn hay một tác phẩm dàn trải nặng về phân tích. Điểm nữa là, trong lĩnh vực quân sự, tính thực tiễn cao đòi hỏi sự chính xác hơn là sự luận giải, vì thất bại hay thành công trong nghệ thuật chiến tranh liên quan cả đến vận mệnh con người lẫn định mệnh một quốc gia. Thật vậy, tư tưởng và nghệ thuật quân sự phần nhiều ra đời từ trong và sau chiến tranh, vừa là thành tựu của những khối óc quân sự lớn, vừa là kết quả của bao nhiêu xương máu đã đổ trong chiến tranh. Nhìn lại lịch sử tư tưởng quân sự, có thể thấy rõ rằng, bất cứ nền hòa bình nào cũng đều cần được bảo vệ bởi một nền quân sự tương xứng, và dân tộc Việt Nam chính là minh chứng cho sự thật ấy.


1. Cũng như lịch sử quân sự nói chung, lịch sử tư tưởng quân sự Việt Nam từ thời Hùng Vương giữ nước đến thời hiện đại có tính lịch sử, trải qua những bước phát triển quan trọng, được đúc rút từ kinh nghiệm chiến tranh thực tế cũng như từ thực tiễn Việt Nam.

Có những giai đoạn, những triều đại, do hoàn cảnh lịch sử khác nhau, nên sự biểu hiện của tư tưởng quân sự có khác nhau; tư duy, tư tưởng quân sự có những thời kỳ hàm chứa những nội dung tiến bộ dẫn đến đường lối, phương lược thích hợp; do vậy, sự nghiệp đánh giặc giữ nước đã tiến hành thuận lợi. Nhưng cũng có những thời kỳ, triều đại, do hạn chế của người lãnh đạo, quan điểm tư tưởng quân sự biểu hiện những mặt hạn chế, yếu kém nhất định; chính vì thế mà một số cuộc kháng chiến bị thất bại, đất nước sa vào vòng nô lệ. Trong lịch sử hàng nghìn năm của dân tộc, mặc dù trước quân giặc mạnh, quân và dân Việt Nam đã phải trải qua nhiều gian khổ, hy sinh và mất mát, nhưng hầu hết những cuộc kháng chiến lớn đều thành công, ví như các cuộc kháng chiến chống Nam Hán (931 và 938), chống Tống (981 và 1075-1077), chống Mông - Nguyên (1258, 1285 và 1288), chống Thanh (1789), chống Pháp (1945-1954), chống Mỹ (1954-1975). Hoặc như cuộc khởi nghĩa và chiến tranh giải phóng dân tộc do Lê Lợi và Nguyễn Trãi lãnh đạo hồi đầu thế kỷ XV cũng vậy. Trong những giai đoạn lịch sử đó, đất nước đã xuất hiện những vị minh quân, hiền thần, những nhà lãnh đạo tài giỏi, những vị tướng tài năng kiệt xuất. Họ đã có những quan điểm tư tưởng quân sự tiến bộ để xây dựng nên một đường lối kháng chiến phù hợp với điều kiện và hoàn cảnh cuộc chiến tranh. Trong lịch sử, chỉ có ba lần quân và dân Việt Nam kháng chiến thất bại, đó là thời An Dương Vương chống Triệu Đà xâm lược (179 trước Công nguyên), thời Hồ kháng chiến chống Minh (1406-1407) và thời Nguyễn chống thực dân Pháp xâm lược (1858-1884). Tuy bối cảnh lịch sử mỗi cuộc kháng chiến khác nhau, nhưng nhìn chung trong cả ba lần kháng chiến này, các nhà lãnh đạo đã phạm những sai lầm nghiêm trọng về phương lược đánh phòng, trong đó trước hết là do sai lầm về tư tưởng chỉ đạo chiến lược quân sự, quốc phòng, chỉ cậy ở thành trì và quân đội mà không biết dựa vào dân, tiến hành kháng chiến trong thế bị động cả về chiến lược và chiến thuật. Vì vậy, lịch sử tư tưởng quân sự Việt Nam, song song với thực tiễn quân sự Việt Nam, đồng hành với những thăng trầm chính trị - xã hội Việt Nam, đã trải qua những bước phát triển khác biệt.


2. Có thể chia lịch sử tư tưởng quân sự Việt Nam này thành hai thời kỳ lớn: thời cổ - trung đại (từ thế kỷ III trước Công nguyên cho đến giữa thế kỷ XIX, năm 1858) và thời cận - hiện đại (từ 1858 đến 1975).

Tư tưởng quân sự Việt Nam thời cổ - trung đại chịu ảnh hưởng bởi ý thức hệ phong kiến, bởi quan niệm "trung quân ái quốc". Các cuộc chiến tranh yêu nước đều do các nhà nước phong kiến dân tộc lãnh đạo. Đối tượng tác chiến trong hầu hết các cuộc chiến tranh cứu nước của dân tộc


Việt Nam thời cổ - trung đại là các thế lực xâm lược bành trướng Đại Hán ở phương Bắc, có cùng phương thức sản xuất với ta, nhưng lại là những đế chế hàng đầu của châu Á bấy giờ. "Họa phương Bắc" chưa bao giờ là một chủ đề được giảm nhẹ tính nghiêm trọng trong lịch sử Việt Nam từ thời cổ - trung đại: Trung Quốc dù ở thời đại nào cũng là một đế chế tầm cỡ thế giới, với một nền tảng chính trị có tính bành trướng với chủ nghĩa Đại Hán. Trong giai đoạn đầu thời kỳ này, từ thời Hùng Vương - An Dương Vương đến hết thời Bắc thuộc và chống Bắc thuộc (đến thế kỷ X), tư duy, tư tưởng quân sự Việt Nam bắt đầu hình thành và định hình, phát triển. Đó là sự xuất hiện buổi đầu tư duy quân sự "lấy yếu chống mạnh" trong kháng chiến chống quân Tần xâm lược thời Hùng Vương; đó là tư duy, tư tưởng quân sự, quốc phòng thời An Dương Vương; là tư duy, tư tưởng khởi nghĩa và kháng chiến dưới thời Hai Bà Trưng, Lý Nam Đế, Triệu Việt Vương, của những nhà lãnh đạo khởi nghĩa như: Phùng Hưng, Dương Thanh, Mai Thúc Loan, Khúc Thừa Dụ..., và các anh hùng chống Nam Hán như Dương Đình Nghệ và Ngô Quyền.
Logged

Ai công hầu, ai khanh tướng, vòng trần ai, ai dễ biết ai
Thế Chiến Quốc, thế Xuân Thu, gặp thời thế, thế thời phải thế
Trang: « 1 2 3 4 5 6 7 8 9 »   Lên
  In  
 
Chuyển tới:  

Powered by MySQL Powered by PHP Powered by SMF 1.1.21 | SMF © 2006-2008, Simple Machines

Valid XHTML 1.0! Valid CSS! Dilber MC Theme by HarzeM