Lịch sử Quân sự Việt Nam
Tin tức: Lịch sử quân sự Việt Nam
 
*
Chào Khách. Bạn có thể đăng nhập hoặc đăng ký. 20 Tháng Tư, 2024, 09:43:42 am


Đăng nhập với Tên truy nhập, Mật khẩu và thời gian tự động thoát


Trang: « 1 2 3 4 5 6 7 8 9 »   Xuống
  In  
Tác giả Chủ đề: Lịch sử tư tưởng quân sự Việt Nam - Tập 5  (Đọc 2685 lần)
0 Thành viên và 1 Khách đang xem chủ đề.
quansuvn
Moderator
*
Bài viết: 6599



WWW
« Trả lời #60 vào lúc: 12 Tháng Hai, 2022, 05:50:35 pm »

Sau thắng lợi, kế thừa và phát triển quan điểm vũ trang toàn dân, xây dựng lực lượng vũ trang từ nhân dân thời Lý, Trần và đúc kết kinh nghiệm xây dựng lực lượng vũ trang trong kháng chiến chổng Minh, các vua triều Lê Sơ đã tổ chức lực lượng vũ trang rộng khắp, nhiều thứ quân, bao gồm: quân triều đình, quân ở các lộ và các đạo, hương binh và dân binh ở làng xã. Vương hầu không có quân riêng. Triều Lê cũng thực hiện chính sách "ngụ binh ư nông", nhưng để phù hợp với điều kiện mới, Lê Thái Tổ chủ trương giảm bớt nhiều hơn số người thoát ly sản xuất. Việc chia phiên quân lính về làm ruộng được thực hiện thường xuyên và quy củ hơn so với triều Lý, Trần trước đó. Quân lính được "chia làm năm phiên, một phiên lưu lại, bốn phiên về làm ruộng"1 (Phan Huy Chú: Lịch triều hiến chương loại chí, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội, 1992, t.3, tr.31). Ngoài ra, triều Lê còn thực hiện chính sách đồn điền, tách hẳn một bộ phận quân đội chuyên trách làm ruộng gọi là nông binh. Việc thực hiện chế độ quân đội chia phiên về sản xuất như vậy làm cho quân số thường trực tại ngũ chỉ chiếm một phần nhỏ so với số dân cả nước; hơn nữa, quân lính vừa được thường xuyên luyện tập, sẵn sàng chiến đấu, vừa dành được nhiều thời gian lao động sản xuất, nhà nước không mất nhiều kinh phí nuôi quân mà còn có thêm nguồn của cải, lương thực dự trữ, đáp ứng nhu cầu giữ nước. Triều Lê Sơ cũng thực hiện chế độ kiểm kê dân đinh với phương châm kê rõ ở sổ hộ ba năm một lần duyệt nên không một người nào sót được. Khi có việc cứ chiếu sổ gọi ra thì hàng quân, hàng dân đều phải ra, trăm họ đều là binh. Do nhu cầu về quốc phòng, quy chế về tuyển chọn quân ngày càng được thể chế hóa và hoàn thiện. Lê Thánh Tông ý thức rất rõ rằng, muốn xây dựng được quân đội mạnh phải bắt đầu từ việc tạo dựng nguồn dự trữ nhân lực dồi dào trong nhân dân, qua đó tuyển lựa những đinh tráng khỏe mạnh nhất. Bởi thế, suốt 38 năm trị vì, ông đã 10 lần tổ chức tuyển chọn đinh tráng để bổ sung cho quân đội, thay những người già yếu. Nhận xét về chế độ tuyển binh thời đó, nhà sử học Phan Huy Chú đã viết: "Phép tuyển binh đời Hồng Đức rất rõ ràng chu đáo. Bấy giờ đinh không ai sót tên trong sổ mà số bình thường có nhiều là vì kén chọn được đúng số. Ba năm một lần xét lại tưởng như phiền phức, nhưng quy chế đã định, dân cũng yên lòng"1 (Phan Huy Chú: Lịch triều hiến chương loại chí, Sđd, t.4, tr.17). Do có quan điểm vũ trang toàn dân, xây dựng lực lượng vũ trang từ nhân dân và giải pháp sáng tạo trong việc "kén quân", nên quân đội trong thời kỳ này rất hùng mạnh, lập được nhiều chiến công trong công cuộc bảo vệ biên cương và giữ vững nền độc lập, chủ quyền quốc gia.


Khởi nghĩa Tây Sơn (thế kỷ XVIII) đánh dấu bước phát triển mới về sự kết hợp giữa dân chúng vũ trang với xây dựng quân đội. Với tư tưởng chỉ đạo lấy tiền của, thóc lúa của bọn nhà giàu chia cho người nghèo, nghĩa quân Tây Sơn được nhân dân hết lòng ủng hộ. Đội nghĩa quân đầu tiên là một tổ chức vũ trang gồm những dần chúng nghèo (nông dân, thợ thủ công) tham gia, tự trang bị bằng nhiều vũ khí thô sơ (gậy gộc, gươm giáo...). Để có thể xây dựng được quân đội mạnh cả về số quân và trang bị vũ khí, Bộ chỉ huy Tây Sơn thống nhất quan điểm "tận suất vi binh" (toàn dân tòng quân). Theo đó, tất cả nam giới từ 15 tuổi đến 60 tuổi đều tham gia việc quân1 (Xem Nguyễn Huệ - Phú Xuân, Nxb. Thuận Hóa, Huế, 1986, tr.77). Nghĩa quân đi tới đâu, các tầng lớp dân chúng lao động bị áp bức đều nổi dậy hưởng ứng và hăng hái gia nhập nghĩa quân. Điển hình là khi Hoàng đế Quang Trung trực tiếp cầm quân ra Bắc đánh quân xâm lược nhà Thanh, lúc xuất phát ở Phú Xuân lực lượng chỉ độ vài vạn quân, nhưng chỉ một thời gian ngắn trên đường hành quân, quân Tây Sơn được dân chúng nhiệt tình ủng hộ và hăng hái tham gia, nên khi đến Tam Điệp - Biện Sơn lực lượng nghĩa quân đã lên tới hơn chục vạn người. Thực tiễn đó là kết quả sinh động của quan điểm "tận suất vi binh", dựa vào dân để xây dựng quân đội. Có lực lượng mạnh, cách đánh giỏi, quân Tây Sơn đã lập nên nhiều chiến công, lần lượt lật đổ hai tập đoàn phong kiến Nguyễn, Trịnh, đập tan hai cuộc chiến tranh xâm lược của quân Xiêm ở phía Nam và quân Thanh ở phía Bắc, bảo vệ được độc lập dân tộc.


Kế thừa và phát triển tư tưởng "tận dân vi binh", "tận suất vi binh" đặc sắc của dân tộc, vận dụng sáng tạo học thuyết quân sự Mác - Lênin về vũ trang quần chúng và xây dựng quân đội thường trực kiểu mới của giai cấp vô sản, trong quá trình lãnh đạo nhân dân Việt Nam tiến hành đấu tranh cách mạng, Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh chủ trương động viên toàn dân, vũ trang toàn dân, để ra hình thức tổ chức lực lượng vũ trang thích hợp.


Với Chánh cương vắn tắt, Đảng Cộng sản Việt Nam đã chủ trương "tổ chức ra quân đội công nông"1 (Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Sđ d, t.2, tr.2), nghĩa là tổ chức đội quân công nông chiến đấu vì quyền lợi của tuyệt đại bộ phận nhân dân, công nhân và nông dân. Án nghị quyết về Cộng sản thanh niên vận động (10-1930) chủ trương tổ chức "thanh niên vệ đội", tức là "những đoàn thể có tánh chất bán võ bị cho quảng đại quần chúng thanh niên ở thành phố và nhà quê"2 (Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Sđ d, t.2, tr.172). Đại hội lần thứ nhất của Đảng (3-1935) ra Nghị quyết về đội tự vệ, đã nhấn mạnh: Nếu không huấn luyện quần chúng về đường quân sự, nếu không sớm dự bị vũ trang quần chúng thì cách mạng không thành công được. Đại hội một lần nữa khẳng định vai trò của đội tự vệ và chỉ ra rằng: Tự vệ đội càng mạnh thì tức là có điều kiện thuận tiện để sau này tổ chức du kích chiến tranh, võ trang bạo động, hồng quân. Đại hội chủ trương thành lập đội tự vệ công nông thường trực, coi đó là một tổ chức "có tính chất bán quân sự" để cùng quần chúng chuẩn bị những điều kiện cần thiết sau này, sẽ hóa thành những bộ phận tiên tiến chỉ huy các đội du kích trong cuộc bạo động võ trang giành chính quyền. Đến Hội nghị Trung ương lần thứ tám của Đảng (5-1941), Đảng nêu rõ quan điểm: Tổ chức Việt Nam nhân dân cách mạng quân và võ trang dân chúng. Do tầm quan trọng của vấn đề xây dựng lực lượng vũ trang, Hội nghị thông qua Điều lệ của Việt Nam tiểu tổ du kích cứu quốc, tập trung giải quyết tám vấn đề, trong đó có vấn đề xác định điều kiện kết nạp đội viên.
Logged

Ai công hầu, ai khanh tướng, vòng trần ai, ai dễ biết ai
Thế Chiến Quốc, thế Xuân Thu, gặp thời thế, thế thời phải thế
quansuvn
Moderator
*
Bài viết: 6599



WWW
« Trả lời #61 vào lúc: 12 Tháng Hai, 2022, 05:51:08 pm »

Để "động viên toàn dân, vũ trang toàn dân" và xây dựng được lực lượng vũ trang từ nhân dân, Nguyễn Ái Quốc nhấn mạnh phải chú trọng xây dựng lực lượng chính trị vững mạnh. Người luận giải: "Muốn có đội quân vũ trang, phải có đội quân tuyên truyền vận động, đội quân chính trị trước đã. Nên việc này phải làm ngay, sao cho đội quân chính trị ngày càng đông. Như ở ta muốn đánh Pháp - Nhật thì ai là người vác súng? Ta phải có quần chúng giác ngộ chính trị vác súng thì mới đánh thắng được"1 (Vũ Anh: Bác Hồ, Nxb. Văn học, Hà Nội, 1975, tr.148). Từ quan điểm đó, Người và Đảng đã đề ra nhiều giải pháp để thúc đẩy phong trào cách mạng phát triển nhanh. Đó là: đẩy mạnh công tác tuyên truyền, giác ngộ, cổ vũ quần chúng tham gia cách mạng; thành lập Mặt trận Việt Minh, tổ chức quần chúng vào các hội cứu quốc; từng bước đưa quần chúng ra đấu tranh với quy mô thích hợp; tổ chức các đội vũ trang tuyên truyền, mở "con đường quần chúng". Thực hiện thành công các giải pháp đó, cách mạng Việt Nam đã xây dựng được lực lượng chính trị hùng hậu, quần chúng cách mạng được huấn luyện, được tổ chức chặt chẽ thông qua các hội cứu quốc dưới sự lãnh đạo của Đảng. Trên cơ sở lực lượng chính trị phát triển, lực lượng vũ trang (tiểu tổ du kích cứu quốc, đội du kích tập trung) ra đời và ngày càng lớn mạnh. Trên cơ sở đó, cuối năm 1944, Hồ Chí Minh quyết định thành lập Đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân, sau ngày Nhật đảo chính Pháp, Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân hợp nhất cùng Cứu quốc quân thành Việt Nam giải phóng quân (5-1945). Đến đây, quan điểm vũ trang toàn dân, xây dựng và phát triển quân đội cách mạng từ nhân dân của Đảng có bước phát triển mới. Điểm mới đó là: Muốn xây dựng lực lượng vũ trang phải xây dựng lực lượng chính trị trước. Trên cơ sở lực lượng chính trị mà xây dựng lực lượng vũ trang quần chúng song song với xây dựng quân đội cách mạng.


Trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, Việt Nam giải phóng quân nhanh chóng phát triển, được đổi tên thành Vệ quốc đoàn (9-1945), rồi Quân đội quốc gia Việt Nam (5-1946) và sau đó là Quân đội nhân dân Việt Nam (5-1951). Trong giai đoạn này, đi đôi với việc tăng cường xây dựng quân đội thường trực của Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa (bộ đội chủ lực, bộ đội địa phương), Đảng hết sức chăm lo, củng cố và phát triển dân quân tự vệ, tức là lực lượng đông đảo của quần chúng được vũ trang, không thoát ly sản xuất. Đối với việc xây dựng và phát triển quân đội, Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định quan điểm: "Phải làm cho quân đội ta thành một quân đội chân chính của nhân dân"1 (Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.6, tr.171). Trong kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, trước tình hình và nhiệm vụ mới, Đảng Cộng sản Việt Nam hết sức lưu tâm đến việc xây dựng lực lượng vũ trang và đã chủ trương xây dựng quân đội nhân dân hùng mạnh, từng bước tiến lên chính quy, hiện đại; đồng thời, tiếp tục phát triển lực lượng dân quân tự vệ, du kích rộng khắp. Chính nhờ quán triệt sâu sắc quan điểm đó nên ta đã xây dựng được lực lượng vũ trang nhân dân lớn mạnh vượt bậc cả về số lượng và chất lượng, bao gồm lực lượng dân quân tự vệ, du kích mạnh mẽ, rộng khắp và quân đội nhân dân hùng mạnh, có nhiều binh chủng, quân chủng.


Về việc động viên toàn dân tham gia lực lượng vũ trang, trước Cách mạng Tháng Tám và trong suốt cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, Đảng chủ trương dựa vào sự giác ngộ của quần chúng nhân dân, thực hiện chế độ tòng quân tình nguyện đế xây dựng quân đội, trở thành "nguồn gốc" của cuộc đấu tranh, hoàn thành sự nghiệp giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước. Sau ngày Hiệp định Giơnevơ được ký kết, đất nước tạm chia làm hai miền với hai chế độ chính trị - xã hội đối lập. Sau khi miền Bắc hoàn toàn giải phóng, tiến lên xây dựng chủ nghĩa xã hội, để kết hợp chặt chẽ giữa kinh tế với quốc phòng và nâng cao việc vũ trang toàn dân, quân sự hóa toàn dân lên một bước mới, Đảng chủ trương thay chế độ tình nguyện lên chế độ nghĩa vụ quân sự. Từ chủ trương đó, tháng 4-1960, Quốc hội nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ban hành Luật nghĩa vụ quân sự, quy định nghĩa vụ bảo vệ Tổ quốc của mọi công dân. Đồng thời, Nhà nước thực hiện đăng ký quân nhân chuyển ngành, phục viên, sắp xếp những người có đủ điều kiện vào ngạch sĩ quan và quân nhân dự bị, tiếp tục củng cố và phát triển lực lượng tự vệ, dân quân du kích. Đó là một bước phát triển mới của công cuộc xây dựng lực lượng vũ trang từ nhân dân, củng cố nền quốc phòng toàn dân.


Như vậy, xuất phát nhận thức vai trò và sức mạnh của nhân dân như Nguyễn Trãi đúc kết "nâng thuyền là dân, lật thuyền cũng là dân", nhiều triều đại phong kiến trước đây cũng như Đảng, Nhà nước Việt Nam ngày nay đều chủ trương dựa vào dân, vũ trang toàn dân, xây dựng lực lượng vũ trang từ nhân dân nhằm đương đầu thắng lợi trước các thế lực xâm lược to lớn để giải phóng dân tộc và bảo vệ Tổ quốc. Vũ trang toàn dân, xây dựng lực lượng vũ trang, nòng cốt là quân đội từ nhân dân đã trở thành nguyên lý tổ chức lực lượng chiến đấu sắc bén của dân tộc Việt Nam.
Logged

Ai công hầu, ai khanh tướng, vòng trần ai, ai dễ biết ai
Thế Chiến Quốc, thế Xuân Thu, gặp thời thế, thế thời phải thế
quansuvn
Moderator
*
Bài viết: 6599



WWW
« Trả lời #62 vào lúc: 12 Tháng Hai, 2022, 05:52:48 pm »

III- TỔ CHỨC CHẶT CHẼ, CƠ CẤU NHIỀU THỨ QUÂN

Để tiến hành thắng lợi khởi nghĩa vũ trang, chiến tranh giải phóng và bảo vệ Tổ quốc, dân tộc Việt Nam đã sớm có tư tưởng xây dựng lực lượng vũ trang có tổ chức chặt chẽ, cơ cấu nhiều thứ quân. Tư tưởng tổ chức quân đội nhiều thứ quân có hai phương diện cần chú ý: Một là phân chia các hạng quân đội là một bộ phận trong quá trình chính quy hóa, chuyên nghiệp hóa quân đội; hai là, phân chia các hạng quân đội, trong hoàn cảnh Việt Nam, còn để tận dụng nhân sự, kiểm soát được quân sự địa phương, không hao phí nhân sự vào hoạt động vũ trang, đặc biệt trong điều kiện đất nước cần nhân lực để gia tăng sản xuất. Trên cơ sở đó, tư tưởng này từng bước được bổ sung, phát triển qua nhiều triều đại và phát triển đến đỉnh cao trong thời đại Hồ Chí Minh.


Từ thời An Dương Vương đã có quân đội và dân binh. Trong thời gian dài đấu tranh chống ách đô hộ phương Bắc có nghĩa quân trong các cuộc khởi nghĩa; có quân đội sau khi khởi nghĩa thắng lợi như khởi nghĩa Lý Bí, Phùng Hưng. Đến thời Ngô, Đinh, Tiền Lê có quân đội và dân binh, nhưng mỗi vương triều lại có nét riêng. Nếu như dưới triều Ngô, lực lượng vũ trang của nhà nước mới tập trung ở Cổ Loa, chưa thành lập được hệ thống trong cả nước, lực lượng vũ trang ở các địa phương vẫn nằm trong tay các thủ lĩnh, thổ hào thì đến triều Đinh, Đinh Bộ Lĩnh đã khắc phục được tình trạng phân tán lực lượng bằng cách đưa các vùng trong lãnh thổ quốc gia vào một hệ thống đơn vị hành chính, chia cả nước làm 10 đạo và đến năm 974 thì "tổ chức quân đội trong 10 đạo"1 (Đại Việt sử ký toàn thư, Sđd, t.I, tr.139). Việc đặt quân trong 10 đạo, gắn tổ chức lực lượng vũ trang với tổ chức đơn vị hành chính là một bước tiến trong tư tưởng cũng như thực tiễn quá trình phát triển từ những tổ chức vũ trang phân tán đến tập trung thành một quân đội dưới quyền chỉ huy thống nhất của Thập đạo tướng quân. Sau khi lên làm vua, Lê Hoàn đứng đầu triều đình Đại Cồ Việt tiếp tục củng cố lực lượng vũ trang nhiều thứ quân, nhưng không chủ trương phân tán lực lượng quân đội, mặc dù phong vương cho các con và cử họ cầm quân đi đóng giữ ở các địa bàn trọng yếu. Lực lượng vũ trang triều Tiền Lê, bên cạnh quân đội tập trung vào tay nhà vua gồm thiên tử quân, thân quân, tứ sương quân ở triều đình và một bộ phận quân do các hoàng tử chỉ huy đóng giữ ở địa phương theo sự sắp đặt trực tiếp của nhà vua, còn có quân các phủ, lộ, châu thuộc hệ thống quản lý của nhà nước và dân binh ở hương, giáp, xã.


Kế thừa và phát triển tư tưởng xây dựng lực lượng vũ trang nhiều thứ quân của các triều đại trước, vương triều Lý, Trần chủ trương xây dựng lực lượng vũ trang rộng khắp, nhiều loại quân, phù hợp với hoàn cảnh một nước nhỏ mà phải thường xuyên đương đầu với những thế lực xâm lược lớn mạnh, sát biên giới phía Bắc. Lực lượng vũ trang triều Lý, Trần bao gồm quân chủ lực của triều đình, quân của quý tộc (vương hầu, tôn thất), quân của các lộ, phủ, châu (quân địa phương) và dân binh làng xã, động, bản. Quân chủ lực của triều đình do nhà nước trực tiếp quản lý, chỉ huy, gồm các thành phần cấm quân và sương quân. Cấm quân trong thời bình đóng ở kinh thành, có nhiệm vụ bảo vệ vua và triều đình; khi có chiến tranh là quân cơ động đánh giặc. Đây là công cụ bạo lực chủ yếu, chỗ dựa quan trọng nhất của chính quyển quân chủ, là trụ cột của an ninh, quốc phòng và là chủ lực quân trong các cuộc chiến tranh giữ nước. Sương quân là lính hạng nhì sau cấm quân. Đây là bộ phận quân trực thuộc quản lý của triều đình, bao gồm những tráng đinh tham gia nghĩa vụ binh dịch, nhập ngũ theo yêu cầu của từng thời kỳ. Thực hiện chính sách "ngụ binh ư nông", sương quân thay phiên nhau tại ngũ canh phòng, luyện tập hoặc trở về sản xuất tự túc lương ăn. Lực lượng bán chuyên nghiệp này đóng vai trò quan trọng trong chức năng bảo vệ, lao động lúc hòa bình cũng như chiến đấu, phục vụ chiến đấu lúc có chiến tranh. Lực lượng thường trực có quân bộ và quân thủy; trong quân bộ lại có nhiều thành phần bao gồm bộ binh, kỵ binh và tượng binh.


Nét đặc thù trong cơ cấu lực lượng vũ trang triều Lý, Trần là có quân vương hầu của các quý tộc thân thuộc nhà vua. Việc mộ quân, tuyển quân vương hầu thực hiện theo lệnh của triều đình, tùy theo sự cần thiết về phòng thủ của từng thái ấp. Nhìn chung, lực lượng này trong thời bình không nhiều; khi có chiến tranh, các vương hầu được phép phát triển lực lượng đó nhưng chịu quyền điều động, chỉ huy của triều đình. Quân địa phương nằm trong hệ thống ngạch quân do các lộ, phủ, châu tổ chức, quản lý, chỉ huy theo quy chế của triều đình. Lực lượng này ngày thường thì bảo vệ an ninh trong vùng, khi có chiến tranh thì làm nhiệm vụ đánh giặc tại chỗ hoặc có thể được điều động kết hợp với quân chủ lực đánh giặc giữ nước. Còn dân binh (hương binh ở đồng bằng, thổ binh ở miền núi) là bộ phận của lực lượng vũ trang cơ sở ở làng xã.


Tuy có bốn thành phần lực lượng nhưng thực chất chỉ có ba loại quân. Đó là quân chủ lực của triều đình, quân địa phương của lộ, phủ, châu và dân binh ở các làng xã, động bản. Ba loại quân đó kết hợp chặt chẽ với nhau. Khi có chiến tranh, quân chủ lực làm nòng cốt đánh giặc, hỗ trợ quân địa phương đứng vững trước quân giặc mạnh. Ngược lại, quân địa phương kiềm chế, đánh giặc làm tiêu hao lực lượng của chúng để cho quân chủ lực "rảnh tay" đánh những trận quyết định. Quân địa phương làm nòng cốt cho dân binh, dân binh làm nòng cốt cho toàn dân chiến đấu. Với cơ cấu lực lượng đó, thời Lý, Trần đã hình thành tư tưởng chỉ đạo và mô hình tổ chức lực lượng vũ trang ba thứ quân của quốc gia Đại Việt.


Tuy nhiên, ngoài những điểm chung, so với thời Lý, thời Trần có những nét đặc sắc riêng, phản ánh bước phát triển mới. Đó là do thời Trần phải thường xuyên đối phó với những nguy cơ tiềm tàng bị xâm lược và trên thực tế đã ba lần tổ chức kháng chiến chống quân Mông - Nguyên hùng mạnh bậc nhất thế giới lúc đó, nên để chiến thắng quân giặc mạnh về kỵ binh, vương triều Trần chủ trương xây dựng, phát triển lực lượng thủy binh để đánh giặc theo sở trường của ta. Chính nhờ có lực lượng thủy binh mạnh nên quân đội nhà Trần rất chủ động khi tạm thời rút lui để bảo toàn lực lượng cũng như cơ động nhanh khi tổ chức phản công chiến lược đập tan từng cánh quân giặc, tiêu biểu là trận quyết chiến trên sông Bạch Đằng lịch sử. Nét đặc sắc khác trong lực lượng vũ trang thời Trần là vai trò chiến lược của lực lượng dân binh. Do những nhà lãnh đạo quốc gia đã có nhận thức sâu sắc về tầm quan trọng của lực lượng đó nên đã thể chế hóa, động viên, tạo điều kiện để mọi người dân tham gia sự nghiệp đánh giặc giữ nước. Bởi vậy, trong cả ba lần kháng chiến chống Mông - Nguyên, họ là lực lượng đánh giặc tại chỗ đông đảo và có hiệu quả, góp phần to lớn vào thắng lợi chung. Ngoài ra, còn phải kể đến lực lượng quân vương hầu, quý tộc, phát triển mạnh ở triều Trần. Lực lượng đó, thời bình không nhiều nhưng khi chiến tranh xảy ra, được triều đình cho phép, các vương hầu, quý tộc không chỉ tuyển mộ các gia nô, thân thuộc mà còn tuyển mộ các tráng đinh ở các làng xã lân cận tạo thành các đạo quân cứu nước, có thể đông đến hàng nghìn, hàng vạn người. Các đạo quân đó không còn mang tính chất quân của các địa phương bảo vệ thái ấp nữa mà trở thành một bộ phận quan trọng của quân triều đình. Lịch sử đã ghi nhận đạo quân của Trần Quốc Toản với lá cờ thêu sáu chữ vàng: "Phá cường địch, báo hoàng ân" tung bay nơi chiến trận, chiến đấu lập công, góp phần vào thắng lợi chung của sự nghiệp cứu nước vẻ vang thời Trần.


Thời Lê Sơ, nhà nước phong kiến phát triển, quân đội vừa là công cụ thống trị của nhà nước, đồng thời cũng là lực lượng nòng cốt trong việc củng cố quốc phòng, bảo vệ nền độc lập, bảo toàn và mở rộng lãnh thổ quốc gia. Quân đội triều Lê Sơ được xây dựng và phát triển trên nền tảng lực lượng nghĩa quân thiện chiến làm nên thắng lợi của cuộc khởi nghĩa Lam Sơn. Do nhận thức đúng tầm quan trọng của lực lượng quân sự trong dựng nước và giữ nước, các vua Lê rất chú trọng đến xây dựng và phát triển về mọi mặt để có được quần đội hùng mạnh.


Điểm mới so với các vương triều trước đó là triều Lê Sơ chủ trương xây dựng quân đội theo hướng thống nhất và tập trung, vua trực tiếp nắm giữ quyền điều hành quân đội; các quý tộc, quan lại không được phép lập các đội quân riêng. Đối với quân thường trực, Lê Thái Tổ chia làm hai loại: quân cấm vệ và quân các đạo. Quân cấm vệ được chia thành quân ngự tiền và quân thiết đột. Quân ngự tiền đóng ở kinh thành có nhiệm vụ bảo vệ vua và hoàng thành. Quân thiết đột làm nhiệm vụ bảo vệ kinh thành và cơ động chiến đấu. Quân các đạo đóng giữ ở các địa phương được chia thành vệ theo 5 đạo hành chính (Đông, Tây, Nam, Bắc, Hải Tây). Dưới vệ là các đơn vị sở, đội, ngủ. Đến triều vua Lê Thánh Tông, cùng với việc cải cách hành chính, chia cả nước thành 13 đạo, tổ chức quân đội cũng được cải tổ một cách toàn diện tạo thành một quân đội thống nhất với hệ thống tổ chức chật chẽ, quy củ. Theo đó, lực lượng quân đội được chia thành hai bộ phận: Quân triều đình và quân các địa phương. Quân triều đình gồm cấm binh (còn gọi là cấm vệ quân) và quân ngũ phủ. Cấm binh được chia thành vệ, sở, vẫn làm nhiệm vụ như cấm vệ của các triều trước đó, tức là bảo vệ vua, hoàng cung và kinh thành. Còn quân ngũ phủ được xác định rõ là bộ phận quan trọng của quân đội do triều đình trực tiếp quản lý, thường trực đóng giữ trên các địa bàn trọng yếu của đất nước. Lực lượng này không chia theo đơn vị hành chính mà chia theo phủ (phủ lớn hơn đạo, gồm 2 hoặc 3 đơn vị hành chính). Dưới phủ là vệ, sở, ty, đội. Nhận xét về tổ chức quân ngũ phủ, sử gia Phan Huy Chú viết: "Binh chế đời Hồng Đức, đại lược ngoài cấm binh ra thì binh các đạo chia thành 5 phủ, chức đô đốc đứng đầu nắm đại cương..."1 (Phan Huy Chú: Lịch triều hiến chương loại chí, Sđd, t.4, tr.Cool. Năm đô đốc thống suất lực lượng quân đội ở các phủ về phương diện sổ sách, quân số, nhưng không có quyền điều động binh lính. Bộ binh phụ trách tuyển bổ các quan võ, điều khiển và huấn luyện quân đội nhưng cũng không có quyền sai phái các tướng sĩ. Triều Lê Sơ không đặt chức tổng chỉ huy quân đội và bãi bỏ chức tể tướng nhằm tập trung quyền lực quân chính vào tay nhà vua. Trong những lần xuất quân lớn, vua là người trực tiếp cầm quân. Việc xây dựng được quân đội hùng mạnh, quân đội do nhà nước quản lý theo một hệ thống nhất quán, vua trực tiếp thống lĩnh điều hành quân đội là một bước phát triển mới trong tư tưởng xây dựng quân đội của quốc gia Đại Việt thời Lê Sơ.
Logged

Ai công hầu, ai khanh tướng, vòng trần ai, ai dễ biết ai
Thế Chiến Quốc, thế Xuân Thu, gặp thời thế, thế thời phải thế
quansuvn
Moderator
*
Bài viết: 6599



WWW
« Trả lời #63 vào lúc: 12 Tháng Hai, 2022, 05:53:34 pm »

Thời Tây Sơn, để phù hợp với cách tác chiến (nhanh, mạnh, thần tốc), kể từ khi trở thành Bắc Bình vương, Nguyễn Huệ quyết định phiên chế quân đội thành hệ thống: đội, cơ, đạo và doanh. Doanh là đơn vị đảm nhiệm tác chiến trên một hướng tiến công và thường do một đô đốc hoặc đại đô đốc chỉ huy. Trong những trường hợp cần thiết, Nguyễn Huệ còn tổ chức ra đơn vị có quy mô lớn hơn gọi là đại quân gồm 2 đến 3 doanh do một đại đô đốc thống lĩnh. Để tạo ra sức mạnh tổng hợp, đồng thời với việc phát triển lực lượng bộ binh, Nguyễn Huệ còn chú trọng đến việc phát triển các thành phần lực lượng khác như tượng binh, kỵ binh, pháo binh (đại bác thần công) và thủy binh. Chủ trương phát triển tượng binh và đại bác thần công, xem như hai "binh chủng" trong cơ cấu lực lượng quân đội là điểm mới trong xây dựng lực lượng vũ trang thời Tây Sơn. Trong thực tế, tượng binh là một thành phần đặc trưng. Khi hành quân, voi là phương tiện cơ động, chuyên chở lực lượng, vũ khí và trang bị nặng. Lúc tác chiến, trên lưng mỗi voi chiến đều bố trí hỏa hổ hoặc đại bác thần cơ; do đó, quân Tây Sơn vượt trội về sức mạnh đột kích mà quân Trịnh, quân Nguyễn và cả quân xâm lược nhà Thanh đều không có. Đại bác thần công của quân đội Tây Sơn cũng là bước tiến so với quân đội các triều đại trước đó. Lực lượng này có số lượng lớn đại bác các cỡ, tính năng và sức công phá của đạn đại bác Tây Sơn không thua kém đạn đại bác các nước, thậm chí cả Tây Âu. Đại bác thường được bố trí cơ động bằng thuyền lớn hoặc đặt trên lưng tượng binh làm tăng khả năng cơ động, góp phần quan trọng tiêu diệt sinh lực địch, giành thắng lợi trong chiến đấu.


Tiếp thu truyền thống quân sự dân tộc và tinh hoa quân sự thế giới, Đảng Cộng sản Việt Nam, đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh, đã giải quyết rất sáng tạo trên bình diện tư tưởng, lý luận cũng như trong thực tiễn xây dựng lực lượng vũ trang có tổ chức chặt chẽ, cơ cấu ba thứ quân. Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: Muốn tổ chức được lực lượng vũ trang vững mạnh, phải có "tổ chức vững chắc và nghiêm mật". Điều này thể hiện ở việc tổ chức hệ thống lãnh đạo, chỉ huy; cơ cấu lực lượng trong mỗi đơn vị và sự nghiêm minh về kỷ luật quân sự mà mọi cán bộ và chiến sĩ đều tự giác, chấp hành đầy đủ. Gắn với việc xác định các yếu tố bảo đảm cho lực lượng vũ trang có tổ chức chặt chẽ, Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng Cộng sản Việt Nam đã nêu quan điểm về tổ chức nhiều thứ quân, nhiều loại hình lực lượng.


Tại Hội nghị Trung ương lần thứ tám của Đảng (5-1941), lần đầu tiên khái niệm các thứ quân được nêu ra. Hội nghị xác định rằng, đội quân cách mạng trực tiếp chiến đấu với quân thù là đội du kích chính thức, dưới nó là tiểu tổ du kích cứu quốc và tự vệ cứu quốc. Theo tinh thần đó, Chỉ thị của Trung ương Đảng gửi các địa phương (21-12-1941) và Chỉ thị Sửa soạn khởi nghĩa của Tổng bộ Việt Minh (5-1941) đều nêu rõ cách thức tổ chức và cơ cấu lực lượng, bao gồm bộ đội du kích, tiểu tổ du kích và đội tự vệ cứu quốc. Tuy nhiên, mối quan hệ giữa các thứ quân ra sao, vai trò của từng thứ quân thế nào vẫn chưa được xác định. Phải đợi đến văn kiện Chỉ thị thành lập Đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quản, những vấn đề đó mới được bổ sung. Chỉ thị viết: "... trong khi tập trung lực lượng để lập một đội quân đầu tiên, cần phải duy trì lực lượng vũ trang trong các địa phương cùng phối hợp hành động và giúp đỡ về mọi phương diện. Đội quân chủ lực trái lại có nhiệm vụ dìu dắt cán bộ vũ trang của các địa phương, giúp đỡ huấn luyện, giúp đỡ vũ khí nếu có thể được... Đội Việt Nam Tuyên truyền giải phóng quân là đội quân đàn anh..."1 (Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.3, tr.507-508). Coi trọng xây dựng lực lượng vũ trang ngay cả trong quá trình diễn ra Tổng khởi nghĩa, Hội nghị toàn quốc của Đảng tại Tân Trào (8-1945) quyết định chỉnh đốn và phát triển bộ đội, chỉnh đốn tự vệ chiến đấu và tiểu tổ du kích, thêm các đơn vị quân giải phóng ở ngoài khu giải phóng. Hội nghị cho rằng, trong quá trình đó, phải thống nhất biên chế, thống nhất khẩu lệnh, tăng cường công tác chính trị, định rõ chiến khu, lập thêm trường quân chính.


Với tư tưởng chỉ đạo đó, trong những năm kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ xâm lược, Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh hết sức chăm lo xây dựng lực lượng vũ trang ba thứ quân (bộ đội chủ lực, bộ đội địa phương, dân quân du kích) làm nòng cốt cho toàn dân đánh giặc. Đối với lực lượng dân quân tự vệ, Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh đánh giá cao, coi đó là bức tường sắt, vô luận kẻ thù nào đụng vào cũng thất bại. Do đó, tháng 3-1947, Đảng chủ trương thống nhất về tổ chức lực lượng dân quân du kích, xây dựng lực lượng này thành một bộ phận đông đảo của lực lượng vũ trang nhân dân, đặt dưới sự chỉ huy trực tiếp của cấp xã đội, huyện đội, tỉnh đội với quy mô phổ biến là tiểu đội, trung đội, đại đội; vừa sản xuất, vừa chiến đấu ngay tại địa phương bằng các thứ vũ khí có trong tay với hình thức tác chiến linh hoạt, sáng tạo. Để hoàn chỉnh dần cơ cấu tổ chức lực lượng vũ trang, ngày 1-4-1949, Chủ tịch Hồ Chí Minh ký sắc lệnh thành lập bộ đội địa phương. Từ đây, lực lượng vũ trang của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đã có đầy đủ ba thứ quân: Bộ đội chủ lực, bộ đội địa phương, và dân quân... Thực hiện sắc lệnh đó, bộ đội địa phương bắt đầu được thành lập với quy mô đại đội hoặc tiểu đoàn, được cấp ủy đảng lãnh đạo, cơ quan quân sự địa phương chỉ huy; có khả năng tác chiến độc lập, làm nòng cốt phát triển chiến tranh nhân dân địa phương. Cùng với việc xây dựng lực lượng dân quân tự vệ, bộ đội địa phương, Đảng Cộng sản Việt Nam rất chú trọng tới việc xây dựng các đơn vị chủ lực và chuẩn bị các điều kiện tiến tới xây dựng các đơn vị cơ động cấp đại đoàn.


Theo phương hướng đó, trong những năm 1949-1952, các đại đoàn bộ binh chủ lực (Đại đoàn 308, 304, 312, 316, 320, 325) và Đại đoàn công pháo 351 lần lượt được thành lập. Đến giai đoạn kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, thực hiện chủ trương của Đảng, quân chủng (Hải quân, Phòng không - Không quân), binh chủng (Thông tin, Đặc công...) được thành lập và nhanh chóng trưởng thành. Đặc biệt, các đơn vị chủ lực của bộ binh có bước phát triển mạnh về tổ chức với quy mô từ cấp sư đoàn phát triển thành quân đoàn binh chủng hợp thành (Quân đoàn 1, 2, 3, 4, Đoàn 232) vào giai đoạn cuối của cuộc kháng chiến. Đây là lực lượng cơ động chiến lược hoạt động trên địa bàn cả nước, hoặc trên từng chiến trường theo yêu cầu nhiệm vụ để tiến hành tác chiến tập trung, đánh quỵ lực lượng chủ chốt của đối phương, giành thắng lợi trong chiến tranh cách mạng. Sự phát triển của lực lượng vũ trang nhân dân được tổ chức chặt chẽ, gồm ba thứ quân theo tư tưởng Hồ Chí Minh và đương lối quân sự của Đảng phản ánh tính chất toàn dân rộng rãi tổ chức quân sự kiểu mới. Qua đó, ta đã kết hợp xây dựng lực lượng vũ trang cơ sở với lực lượng thường trực, phát huy đầy đủ vai trò từng thứ quân, tạo nên phương thức đánh giặc có hiệu quả, góp phần to lớn vào thắng lợi chung của cách mạng.


Như vậy, trong quá trình dựng nước và giữ nước, dân tộc Việt Nam đã sớm có tư tưởng xây dựng lực lượng vũ trang có tổ chức chặt chẽ, cơ cấu nhiều thứ quân. Lịch sử của tư tưởng xây dựng lực lượng vũ trang nhiều thứ quân có thể phân biệt làm hai thời kỳ lớn: thời phong kiến, trong đó việc xây dựng lực lượng vũ trang nhiều thứ quân thể hiện chủ yếu nhu cầu chính quy hóa quân đội và thời hiện đại - thời cách mạng, trong đó xây dựng lực lượng vũ trang nhiều thứ quân là một bộ phận trong tư tưởng chiến tranh nhân dân, toàn dân, toàn diện. Qua đó, có thể thấy, tư tưởng này không ngừng được bổ sung và phát triển qua các thời kỳ lịch sử, soi sáng cho việc xây dựng lực lượng vũ trang trong thực tiễn. Tổ chức chặt chẽ, có nhiều thứ quân là quy luật xây dựng lực lượng vũ trang của dân tộc Việt Nam.
Logged

Ai công hầu, ai khanh tướng, vòng trần ai, ai dễ biết ai
Thế Chiến Quốc, thế Xuân Thu, gặp thời thế, thế thời phải thế
quansuvn
Moderator
*
Bài viết: 6599



WWW
« Trả lời #64 vào lúc: 12 Tháng Hai, 2022, 05:56:03 pm »

IV- CHÚ TRỌNG XÂY DỰNG QUÂN ĐỘI "CỐT TINH", VỮNG MẠNH TOÀN DIỆN

Một quốc gia muốn giành thắng lợi trong chiến tranh giải phóng dân tộc, giữ vững nền độc lập, chủ quyền quốc gia và toàn vẹn lãnh thổ, nhất định phải xây dựng quân đội mạnh. Tiêu chí về một quân đội mạnh thường là khả năng tác chiến cũng như khả năng đánh bại các lực lượng chiến tranh mà quần đội ấy có thể thực hiện được. Trong truyền thống quân sự Việt Nam, nhân tố "chiến công" cũng được đề cao, nhưng nhân tố then chốt, quyết định quân đội mạnh vẫn luôn là tính thân dân và tinh thần dân tộc, lý tưởng quân sự của quân đội ấy. Trong lịch sử, dân tộc Việt Nam đã giải quyết "việc binh" rất sáng tạo với quan điểm "quân cốt tinh, không cốt nhiều". Điều đó có nghĩa là giữa số lượng và chất lượng thì chất lượng là yếu tố hàng đầu, có ý nghĩa quyết định tạo nên sức mạnh quân đội. Quan điểm này có mầm mống hình thành từ thời kỳ đầu xây dựng nhà nước phong kiến độc lập. Tuy nhiên, tư tưởng về một quân đội chính quy tinh nhuệ thường phát triển trong một nền chính trị có nhà nước trung ương mạnh với hệ thống chính trị được gia cố liên tục bằng các nỗ lực hành chính hóa để đẩy mạnh sự phát triển xã hội. Do đó, những biểu hiện rõ rệt và tác dụng tích cực của tư tưởng "quân cốt tinh, không cốt nhiều" (quý hồ tinh, bất quý hồ đa) chủ yếu là trong sự nghiệp giữ nước ở giai đoạn về sau, tiêu biểu là thời Trần, Lê Sơ, Tây Sơn. Trong các triều đại này, từ thực tiễn xây dựng quân đội và kinh nghiệm tổ chức quân sự đánh thắng các thế lực xâm lược to lớn, các nhà quân sự xuất sắc của dân tộc đã đúc kết nhiều bài học đánh giặc giữ nước, trong đó có bài học xây dựng quân đội thường trực của quốc gia với quan điểm cơ bản "quân cốt tinh, không cốt nhiều". Đó chính là quan điểm của Quốc công tiết chế Trần Quốc Tuấn trả lời một số triều thần khi họ xin chọn thêm tráng đinh để tăng số lượng binh lính vì được tin nhà Nguyên lại huy động 50 vạn quân chuẩn bị sang xâm lược Đại Việt lần thứ ba.


Ông nhấn mạnh: "Quân cốt ở tinh nhuệ, không cốt ở số đông. Dẫu đến 100 vạn quân như Bồ Kiên thì cũng làm được gì"1 (Đại Việt sử ký toàn thư, Sđd, t.II, tr.59). Vua Trần chấp nhận quan điểm đó, quyết định không tăng thêm số lượng quân so với số quân trước cuộc kháng chiến chống Mông - Nguyên lần thứ hai (1285).


Đó cũng là quan điểm của Lê Lợi và Nguyễn Trãi ở đầu thế kỷ XV khi cho rằng binh mạnh hay yếu không cứ ở nhiều, quân nhà Hồ trăm vạn người, trăm vạn lòng, quân chỉ vài chục vạn nhưng ai ai cũng một lòng thì tất thắng. Từ quan điểm đó, sau thắng lợi của cuộc kháng chiến chống quân Minh xâm lược, trong tổng số 35 vạn quân, vua Lê Thái Tổ giảm 25 vạn quân cho về nhà làm ruộng, chỉ để lại 10 vạn quân để "đề phòng việc nước"2 (Đại Việt sử ký toàn thư, Sđd, t.II, tr.269).


Hoàng đế Quang Trung, nhà quân sự kiệt xuất thế kỷ XVIII cũng nêu rõ quan điểm: "Quân cốt tinh nhuệ không cốt nhiều, binh lính cốt hòa thuận không cốt đông"3 (Thư của Nguyễn Huệ gửi Thang Hùng Nghiệp trong Tây Sơn bang giao tập). Như vậy, quan điểm xây dựng quân đội "cốt tinh nhuệ không cốt nhiều" được duy trì, bổ sung hoàn chỉnh qua nhiều triều đại khi chế độ phong kiến còn tiến bộ.


Quan điểm "quân cốt tinh, không cốt nhiều" là quan điểm hoàn toàn đúng đắn, sáng tạo, phù hợp với đặc điểm và điều kiện kinh tế Việt Nam. Tuy đã giành được độc lập, tự chủ từ năm 938 nhưng quốc gia Đại Việt thường xuyên bị các thế lực phong kiến phương Bắc dòm ngó và xâm lược. Từ thế kỷ X, chúng đã nối tiếp phát động nhiều cuộc chiến tranh quy mô lớn như cuộc xâm lược của giặc Tống (981; 1076-1077), của giặc Mông - Nguyên (1258, 1285, 1287-1288), của giặc Minh (1406-1427) và giặc Thanh (1788- 1789). Trong điều kiện địch lớn, nước Việt Nam nhỏ, các thủ lĩnh quân sự đều hiểu rằng không thể đua với địch về số lượng được. Do đó, đế làm nòng cốt cho toàn dân đánh thắng giặc, quân đội phải xây dựng rất tinh nhuệ, có chất lượng cao. Ngoài quân của triều đình, còn có quân địa phương và dân binh cùng phối hợp chiến đấu, phân tán lực lượng địch, tạo điều kiện cho quân chủ lực của triều đình có số lượng không nhiều, trong những trường hợp cần thiết có thể tập trung lực lượng ưu thế hơn địch, đánh thắng giặc ở những trận then chốt, quyết định. Mặt khác, nước Việt Nam dân không đông, nền kinh tế chủ yếu là sản xuất nông nghiệp, năng suất thấp. Điều đó đòi hỏi cần phải tập trung nhiều nhân lực cho sản xuất, có như vậy mới đáp ứng được yêu cầu phát triển kinh tế để cung ứng ngày càng nhiều sức của cho công cuộc kháng chiến cứu nước, bảo vệ độc lập dân tộc.


Quan điểm xây dựng quân đội "cốt tinh" chi phối việc xây dựng lực lượng vũ trang trong thực tiễn về các mặt: từ tuyển binh, tổ chức, đến huấn luyện, kỷ luật, đoàn kết tướng sĩ... nhằm nâng cao chất lượng chiến đấu của quân đội.


Ngay từ khâu tuyển binh, tức là đầu vào của quân đội, trên cơ sở đặt tất cả đinh tráng trong diện quản lý, hằng năm triều đình đều cho tuyển quân, chỉ chọn lấy những người trẻ, khỏe sung vào quân ngũ thay những người lính già yếu cho về nhà. Thời Lý, Lý Anh Tông xuống chiếu quy định khi tuyển quân thường trực (cấm quân), chỉ lựa lấy con nhà đông người, không bắt con nhà cô độc (con một). Thời Lê, Lê Thánh Tông quy định cụ thể hơn, định lệ nhà nào có ba đinh thì người khỏe nhất bổ vào hạng tráng làm quân thường trực, một người bổ vào hạng làm quân dự bị, một người bổ vào hạng dân; nhà có bốn đinh thì hai người bổ vào hạng dân; nhà có năm, sáu đinh trở lên, hai người bổ vào hạng tráng, một người bổ vào hạng quân, còn lại là hạng dân. Việc nhà nước ban hành chế độ binh dịch và cách thức tuyển quân như vậy đáp ứng được nhu cầu xây dựng đội quân thường trực có số lượng vừa phải trong tổng số dân, lại có lực lượng quân dự bị hùng hậu, sẵn sàng bổ sung vào quân ngũ khi có chiến tranh.


Về tổ chức, mỗi triều đại tuy có tổ chức biên chế khác nhau nhưng đều có "binh chế", "ngạch quân" rõ ràng và chặt chẽ. Để tạo nên chất lượng tinh của quân đội, các triều đại rất chú trọng giáo dục chính trị - tinh thần cho tướng sĩ. Từ nhà vua đến các vị tướng soái đều có ý thức chăm lo hun đúc lòng yêu nước, chí căm thù giặc, chỉ rõ mục đích chiến đấu để quân sĩ thông hiểu lẽ phải; từ đó nâng cao ý chí quyết chiến, quyết thắng giặc ngoại xâm. Trần Quốc Tuấn giáo dục tướng sĩ noi gương các "trung thần nghĩa sĩ" trong lịch sử để xả thân vì xã tắc. Lê Lợi và Nguyễn Trãi giáo dục nghĩa quân tinh thần đồng cam cộng khổ, ý chí quyết tâm "dám bỏ mình báo nước". Quang Trung động viên tướng sĩ noi gương các vị anh hùng dân tộc, quyết tâm đánh giặc giữ nước với ý chí "đánh là thắng".


Đồng thời với việc chăm lo giáo dục tướng sĩ, các triều đại Lý, Trần, Lê Sơ cũng hết sức coi trọng và tiến hành thường xuyên việc huấn luyện quân sự, coi đó là một yếu tố cơ bản tạo nên chất lượng tinh của quân đội. Chính vì thế mà triều Lý lập Điện Giảng Võ (nơi giảng binh pháp), lại có Xạ Đình (nơi quân đội thao diễn); triều Trần có Giảng Võ đường là trường đào tạo võ quan cao cấp; triều Lê Sơ xây dựng Điện Giảng Võ (1481) làm nơi đào tạo võ quan và "luyện điểm duyệt binh"1 (Đại Việt sử ký toàn thư, Sđd, t.II, tr.485). Nhằm nâng cao trình độ và bản lĩnh chiến đấu vững vàng của quân sĩ, triều Lý, Trần, Lê Sơ đều thi hành chế độ luyện tập quân sự thường kỳ theo những quy chế chặt chẽ.


Để giữ nghiêm quân ngũ, triều Lý, Trần, Lê Sơ và Tây Sơn đã ban hành nhiều luật lệ và quy định về kỷ luật, thưởng phạt trong quân đội. Đòi vua Lý Thánh Tông, chỉ trong ba năm (1042, 1043, 1044) đã ban hành ba luật, trong đó định rõ các thể lệ thưởng, phạt đối với tướng sĩ, nặng nhất là khép vào tội đồ. Thời Trần, Lê Sơ, triều đình cũng ban hành nhiều điều quân lệnh, quy định chế độ thưởng phạt rất chặt chẽ và công minh theo tinh thần "việc quân có luật, phép nước không thân".


Điểm đặc sắc trong việc xây dựng quân đội là nhiều triều đại đặc biệt quan tâm đến đoàn kết tướng sĩ. Trần Hưng Đạo cho rằng đoàn kết tướng sĩ là một yếu tố tạo nên sức mạnh để chiến thắng. Bởi thế, ông đã nói điều trăn trở đó với vua Trần Anh Tông: "Làm thế nào để thu hút được binh lính như cha con một nhà mới có thể dùng được"1 (Đại Việt sử ký toàn thư, Sđd, t.II, tr.105). Đó cũng là điều mà Binh thư yếu lược đã nhắc người tướng phải hết sức chăm lo đến quân sĩ, nếu "trong quân có người ốm, tướng phải thân hành đem thuốc đến điều trị"2 (Binh thư yếu lược, phụ: Hổ trướng khu cơ, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội, 1977, tr.65), còn "nếu tướng súy coi quân sĩ như cỏ rác, thì quân sĩ coi tướng súy như cừu thù, cần họ làm bộ hạ cũng khó, còn mong gì họ gắng sức liều chết để đánh địch nữa"3 (Binh thư yếu lược, phụ: Hổ trướng khu cơ, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội, 1977, tr.65). Nhiều tướng giỏi triều Trần, trong đó có Phạm Ngũ Lão đã xây dựng quân đội của mình thành đội quân "phụ tử chi binh". Tình gắn bó bền chặt giữa tướng lĩnh và binh sĩ như cha với con đã tạo nên sức mạnh chiến đấu của quân đội. Tiếp nối truyền thống tốt đẹp đó, Lê Lợi, Nguyễn Trãi và Nguyễn Huệ cũng hết sức chăm lo đoàn kết nội bộ. Nghĩa quân Lam Sơn, trong quan hệ thường ngày thì "vua tôi lấy nghĩa cử mà xử với nhau, thân như ruột thịt"4 (Lam Sơn thực lục, Nxb. Tân Việt, Huế, 1994, tr.146), lúc thết quân thì "nước sông hòa rượu, trên dưới một dạ cha con"5 (Nguyễn Trãi: Bình Ngô đại cáo, Sđd, tr.79); tướng sĩ Tây Sơn thì "huynh đệ chi binh", lúc đánh trận thì đồng lòng quyết chiến, quyết thắng quân giặc.
Logged

Ai công hầu, ai khanh tướng, vòng trần ai, ai dễ biết ai
Thế Chiến Quốc, thế Xuân Thu, gặp thời thế, thế thời phải thế
quansuvn
Moderator
*
Bài viết: 6599



WWW
« Trả lời #65 vào lúc: 12 Tháng Hai, 2022, 05:57:20 pm »

Thực hiện đồng bộ các khâu: tuyển binh, tổ chức, huấn luyện, kỷ luật và đoàn kết..., triều Lý, Trần, Lê Sơ, Tây Sơn đã xây dựng được quân đội tinh gọn, vững mạnh. Chính vì vậy mà quân đội đã cùng với toàn dân Đại Việt lần lượt đánh thắng quân xâm lược nhà Tống, Mông - Nguyên, Minh và Thanh, bảo vệ nền độc lập dân tộc.


Kế thừa và phát triển quan điểm "quân cốt ở tinh nhuệ" lên một trình độ mới, Đảng Cộng sản Việt Nam và Chủ tịch Hồ Chí Minh hết sức chăm lo xây dựng quân đội nhân dân vững mạnh toàn diện.

Để xây dựng quân đội vững mạnh toàn diện, theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, phải tạo dựng được cơ sở, nền tảng chính trị vững chắc. Nói cách khác, phương diện chính trị là yếu tố căn bản nhất lập nên sức mạnh của quân đội. Bởi vậy, Đảng đặc biệt quan tâm xây dựng bản chất cách mạng của quân đội. Quân đội nhân dân do Đảng tổ chức nên tất yếu phải mang đầy đủ bản chất giai cấp công nhân của Đảng. Đảng lãnh đạo quân đội, quyền lãnh đạo đó là tuyệt đối, không chia sẻ cho bất cứ giai cấp nào khác. Đây là nguyên tắc bất di bất dịch, bảo đảm cho quân đội luôn mang bản chất cách mạng của Đảng, đứng trên lập trường giai cấp công nhân, có phương hướng chính trị đúng. Sự lãnh đạo của Đảng đối với quân đội nhân dân là nhân tố quyết định mọi thắng lợi. Đảng quyết định các chủ trương, đề ra các nguyên tắc để định hướng cho mọi hoạt động xây dựng và chiến đấu của quân đội. Như vậy, sức mạnh của quân đội là sức mạnh tổng hợp của nhiều nhân tố, trong đó yếu tố chính trị - tinh thần là cơ bản nhất. Bởi thế, công tác xây dựng quân đội nhân dân về chính trị là vô cùng quan trọng.


Chủ tịch Hồ Chí Minh cho rằng, vấn đề có ý nghĩa quyết định trong xây dựng quân đội về chính trị là bảo đảm nguyên tắc Đảng lãnh đạo tuyệt đối quân đội. Muốn vậy, phải hết sức coi trọng công tác xây dựng Đảng. Có tổ chức đảng vững chắc làm nòng cốt và hạt nhân lãnh đạo thì Đảng mới thông qua các cấp ủy mà lãnh đạo việc thực hiện đường lối, chủ trương của Đảng. Đồng thời, phải xác lập cơ chế lãnh đạo của Đảng phù hợp, xác định vị trí, chức năng của công tác chính trị, của người chính trị viên. Hội nghị Trung ương lần thứ tám của Đảng (5-1941) xác định: Mỗi trung đội và liên tiểu tổ du kích có đội trưởng, đội phó chỉ huy quân sự, còn về mặt chính trị có một chính trị chỉ đạo viên. Khi quyết định thành lập đội quân chủ lực đầu tiên, Chủ tịch Hồ Chí Minh căn dặn: "Tổ chức đội phải lấy chi bộ đảng làm hạt nhân lãnh đạo"1 (Võ Nguyên Giáp: Từ nhân dân mà ra, Sđd, tr.130). Những quan điểm đó đặt nền móng vững chắc cho việc hình thành và phát triển đội ngũ cán bộ chính trị và hoạt động công tác Đảng, công tác chính trị trong quân đội.


Gắn liền với việc xác định các nguyên tắc cơ bản trong xây dựng quân đội về chính trị, xem chính trị là nền tảng, là "gốc" để tạo cơ sở xây dựng các mặt hoạt động khác, Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn quan tâm đến vấn đề tổ chức, lãnh đạo, chỉ huy quân đội. Chính vì thế, ngay sau khi Cách mạng Tháng Tám thành công, nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ra đời, Trung ương Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã lập ra Quân ủy Trung ương (có lúc gọi là Tổng Quân ủy), Bộ Quốc phòng, Bộ Tổng chỉ huy (về sau gọi là Bộ Tổng tư lệnh) để lãnh đạo, chỉ huy quân đội. Người chỉ thị thành lập Bộ Tổng tham mưu, Cục Chính trị, Phòng Quân nhu (7-9-1945).


Từ Cục Chính trị phát triển thành Tổng cục Chính trị để tiến hành công tác Đảng, công tác chính trị và từ Phòng Quân nhu phát triển thành Tổng cục Cung cấp, sau này là Tổng cục Hậu cần để chăm lo công tác bảo đảm đời sông vật chất và trang bị vũ khí cho quân đội. Dưới ánh sáng tư tưởng quân sự Hồ Chí Minh và đường lối quân sự của Đảng, quân đội ta đã không ngừng lớn mạnh, từng bước hình thành và phát triển hoàn chỉnh năm hệ thống lực lượng cơ bản: lãnh đạo chỉ huy; lực lượng chiến đấu; huấn luyện, giáo dục - đào tạo; bảo đảm hậu cần kỹ thuật; lực lượng dự bị động viên. Tất cả đều có tác dụng nâng cao sức chiến đấu của bộ đội.


Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh rất coi trọng công tác huấn luyện quân sự, một trong những vấn đề có tầm quan trọng quyết định đối với việc nâng cao chất lượng chiến đấu và sẵn sàng chiến đấu của quân đội. Đảng định hướng công tác huấn luyện quân sự, làm cho huấn luyện phù hợp với nhiệm vụ quân sự, nghệ thuật quân sự, sát với thực tiễn trong từng thời kỳ. Chủ tịch Hồ Chí Minh nhấn mạnh: "Phải tăng cường công tác quân sự, trước hết là phải luôn luôn xem trọng việc huấn luyện bộ đội"1 (Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.7, tr.14). Đối với lực lượng vũ trang cách mạng miền Nam, Người căn dặn: "Phải xây dựng lực lượng vũ trang địa phương cho mạnh. Lực lượng bổ sung chưa kịp thì càng phải huấn luyện cho tinh"2 (Bộ Quốc phòng - Viện Lịch sử quân sự Việt Nam: Hồ Chí Minh - Biên niên sự kiện quân sự, Nxb. Quân đội nhân dân, Hà Nội, 2011, tr.583).


Đảng ta cũng rất quan tâm xây dựng tinh thần dân chủ, kỷ luật, đoàn kết cho bộ đội. Chủ tịch Hồ Chí Minh dạy: Kỷ luật là sức mạnh của quân đội, "kỷ luật trong dân chủ, dân chủ phải có kỷ luật". Người căn dặn bộ đội: "Mình đánh giặc là vì dân, nhưng không phải "cứu tinh" của dân, mà mình có trách nhiệm phụng sự nhân dân"1 (Hồ Chí Minh với các lực lượng vũ trang nhân dân, Nxb. Quân đội nhân dân, Hà Nội, 1995, tr.150). Để làm tròn nhiệm vụ, cán bộ, chiến sĩ phải dựa vào dân, chỉ có dựa chắc vào dân, được nhân dân ủng hộ, giúp đỡ mới phát triển và sức chiến đấu không ngừng được nâng cao. Chăm lo cho khối đoàn kết nội bộ quân đội, Người luôn nhắc nhở: "Các chú cần phải đoàn kết hơn nữa, đoàn kết chặt chẽ giữa chiến sĩ với nhau, giữa cán bộ với nhau, giữa chiến sĩ và cán bộ"2 (Hồ Chí Minh với các lực lượng vũ trang nhân dân, Nxb. Quân đội nhân dân, Hà Nội, 1995, tr.271). Người căn dặn cán bộ phải quan tâm chăm sóc và đồng cam cộng khổ với chiến sĩ. Có như vậy, cán bộ và chiến sĩ mới hiểu biết nhau hơn, khi cán bộ dẫn chiến sĩ đi đâu, dù nguy hiểm mấy, chiến sĩ cũng vui lòng đi, khi bảo đánh, chiến sĩ sẽ hăng hái đánh. Một vấn đề nữa trong mối quan hệ giữa chỉ huy và chiến sĩ là thi hành mệnh lệnh. Trong quân đội, mệnh lệnh của cấp trên phải được triệt để thi hành, nếu không nghiêm túc, sự thống nhất bị vi phạm, dẫn đến sức chiến đấu không cao, thậm chí thất bại, phải trả bằng xương máu. Muốn mệnh lệnh được thi hành chuẩn xác, điều quyết định là người chỉ huy phải làm cho người chiến sĩ hiểu rõ nhiệm vụ và tự giác chấp hành mệnh lệnh. Để đạt được điều đó, cán bộ phải thương yêu chiến sĩ: "Cán bộ có thân đội viên như chân tay, thì đội viên mới thân cán bộ như ruột thịt. Có như thế thì chỉ thị, mệnh lệnh và kế hoạch cấp trên đưa xuống, đội viên sẽ tích cực và triệt để thi hành"1 (Hồ Chí Minh: Những bài viết và nói về quân sự, Nxb. Quân đội nhân dân, Hà Nội, 1985, t.1, tr.367).


Được Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh tổ chức, lãnh đạo và giáo dục, quân đội ta là quân đội kiểu mới mang bản chất cách mạng của giai cấp công nhân, không ngừng phát triển, vững mạnh toàn diện. Đúc kết về nguồn sức mạnh của quân đội ta, Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: "Quân đội ta có sức mạnh vô địch vì nó là một quân đội nhân dân do Đảng ta xây dựng, Đảng ta lãnh đạo và giáo dục"2 (Hồ Chí Minh với các lực lượng vũ trang nhân dân, Sđd, tr.359 ).


Như vậy, xây dựng quân đội "cốt tinh không cốt nhiều", vững mạnh toàn diện là quan điểm cơ bản trong hệ thống các quan điểm về xây dựng lực lượng vũ trang của dân tộc Việt Nam. Có thể thấy rằng, thực chất, tư tưởng xây dựng quân đội cốt tinh không cốt nhiều trong truyền thống quân sự Việt Nam tập trung vào hai nội dung chính: Một là, chuyên nghiệp hóa quân đội, xây dựng lực lượng quân sự chính quy có sức mạnh chiến đấu cao. Hai là, phát triển tính chính trị trong quân đội thông qua (a) quan hệ giữa quân đội với Nhà nước, (b) quan hệ giữa quân đội với nhân dân, và (c) quan hệ nội bộ giữa các bộ phận quân đội. Đề cao nội dung nào trong hai nội dung đó đều tùy thuộc vào điều kiện lịch sử và yêu cầu nội tại của công tác phát triển quân sự. Đặc biệt, trong thời đại Hồ Chí Minh, tính chính trị của quân đội, tinh thần của người lính, bản chất cách mạng của lực lượng vũ trang chính là nhân tố nền tảng nhất, then chốt nhất quyết định sức mạnh của Quân đội nhăn dân Việt Nam - từ nhân dân mà ra, vì nhân dân mà chiến đấu.
Logged

Ai công hầu, ai khanh tướng, vòng trần ai, ai dễ biết ai
Thế Chiến Quốc, thế Xuân Thu, gặp thời thế, thế thời phải thế
quansuvn
Moderator
*
Bài viết: 6599



WWW
« Trả lời #66 vào lúc: 13 Tháng Hai, 2022, 05:07:54 pm »

V- CHĂM LO XÂY DỰNG ĐỘI NGŨ CÁN BỘ TRUNG THÀNH, TÀI TRÍ

Để xây dựng quân đội mạnh, dân tộc Việt Nam đặc biệt quan tâm đến xây dựng đội ngũ cán bộ, tướng lĩnh trung thành, tài trí, có năng lực chỉ huy quân sĩ. Đây cũng là đặc điểm chung của toàn thể tư duy quân sự nhân loại trong mọi thời kỳ: quân đội mạnh cần đến những chỉ huy và cán bộ quân đội tài giỏi, dù tiêu chí đào tạo cán bộ quân đội và hình thức đào tạo ở mỗi quốc gia - dân tộc lại rất khác biệt nhau. Khâu then chốt này không những được đề cập trong binh pháp, trong các tác phẩm và văn kiện quân sự, mà còn được vận dụng nhuần nhuyễn trong thực tiễn xây dựng lực lượng vũ trang xuyên suốt các thời kỳ lịch sử, tiêu biểu là thời Trần, Lê Sơ, Tây Sơn và thời đại Hồ Chí Minh.


Binh thư yếu lược nhấn mạnh: "Nước lấy binh làm gốc, binh lấy tướng làm chủ"1 (Binh thư yếu lược, phụ: Hổ trướng khu cơ (xuất bản lần thứ 2), Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội, 1997, tr.59). Do đội ngũ tướng lĩnh có vai trò như vậy, nên cũng theo Binh thư yếu lược, người làm tướng phải đủ năm phẩm chất không thể thiếu. Đó là: Dũng, Trí, Nhân, Tín, Trung. Có dũng thì không ai xâm phạm được. Có trí thì không có gì làm rối. Có nhân thì yêu dân, yêu quân. Có tín thì không lừa dối. Có trung thì không hai lòng. Người làm tướng không nên lấy giỏi cung, đao, cưỡi, bắn làm tài mà phải lấy thông suốt cổ kim làm giỏi. Đề cập đến phạm vi hiểu biết của người làm tướng, Binh thư yếu lược viết: "Hình gia và danh gia không cần kiêm binh gia, mà binh gia thì phải kiêm hình gia và danh gia; âm dương gia thì không cần kiêm làm binh gia, mà binh gia thì phải kiêm âm dương gia..."1 (Binh thư yếu lược, phụ: Hổ trướng khu cơ, Sđd, tr.37). Điều đó có nghĩa là người tướng phải có kiến thức toàn diện; ngoài kiến thức quân sự, phải hiểu biết sâu sắc chính trị và pháp luật (hình gia), phải có tư duy triết học (danh gia) và hiểu biết thấu đáo các mối quan hệ trong trời đất, thiên nhiên, xã hội (âm dương gia). Bên cạnh các phẩm chất và yêu cầu chung của người tướng, người tướng giỏi là những người "đứng đắn mà hay biến hóa, cứng cáp mà hay thương người, nhân từ mà hay quyết đoán, dũng cảm mà hay tường tất, lấy sách lược mà chế ngự quan và quân"2 (Binh thư yếu lược, phụ: Hổ trướng khu cơ, Sđd, tr.35). Những người như vậy bao giờ cũng "dựng được công nghiệp để dẹp yên họa hoạn".


Chọn dùng tướng giỏi (bạt dụng lương tướng) là một quan điểm lớn của triều Trần. Xuất phát từ quan điểm đó, mặc dù An Sinh Vương có mối hận hoàng tộc nhưng do Trần Quốc Tuấn là bậc kỳ tài, có lòng trung nên Trần Thái Tông vẫn chọn, phong ông làm đại tướng trấn thủ biên ải và Trần Nhân Tông đã phong ông làm Quốc công tiết chế thống lĩnh quân đội. Trong các năm 1267, 1283, vua Nhân Tông xuống chiếu chọn trong tôn thất, trong quân hiệu, trong các quan viên, người nào giỏi võ nghệ, tinh thông binh pháp, tài thao lược, đều cho làm tướng coi quân. Cùng với những chủ trương lớn của triều đình, Trần Quốc Tuấn đặc biệt nhấn mạnh đến chọn dùng tướng giỏi. Ông cho rằng: "Đời Đinh, Lê dùng được người tài giỏi, đất phương Nam mới mạnh... phá được quân Tống"1 (Đại Việt sử ký toàn thư, Sđd, t.II, tr.79). Bởi thế, khi được bổ nhiệm làm Quốc công tiết chế thống lĩnh quân đội, tháng 10-1283, ông đã ra lệnh tuyển lựa những người có tài quân sự để chỉ huy các đơn vị. Đi đôi với chủ trương đối đãi trọng hậu với các tỳ tướng, Trần Quốc Tuấn đồng thời chỉ cho họ hiểu rõ về mặt quyền lợi và trách nhiệm. Phẩm chất quan trọng hàng đầu mà Trần Quốc Tuấn đòi hỏi các tướng lĩnh là phải có năng lực chỉ huy, phải có sự trung nghĩa. Phẩm chất đó thể hiện ở thực tiễn, tức là gắn liền với những chiến công trong quá trình rèn luyện cũng như chỉ huy quân sĩ giết giặc, cứu nước ngoài chiến trận. Trần Quốc Tuấn không chỉ quan tâm rèn luyện năng lực chỉ huy, bồi dưỡng tư tưởng đúng, tình cảm tốt đẹp, ý chí quyết chiến, quyết thắng quân thù mà ông còn phê phán gay gắt tư tưởng cầu an và mọi biểu hiện bất tuân mệnh lệnh. Đồng thời, ông khích lệ tướng lĩnh chăm lo xây dựng quân đội, thao luyện quân sĩ, làm cho "người người giỏi như Bàng Mông, nhà nhà đều là Hậu Nghệ", có như vậy mới đánh thắng giặc, giữ gìn được đất nước. Với quan điểm coi trọng đội ngũ tướng lĩnh và chọn dùng người tài, rèn tướng, luyện sĩ, triều Trần thực sự đã xây dựng được đội ngũ chỉ huy trung thành, tài trí, mưu lược - yếu tố tạo nên quân đội thiện chiến, cùng toàn dân đánh thắng kẻ thù xâm lược sừng sỏ Mông - Nguyên.


Thời Lê Sơ, các vua triều Lê luôn khẳng định quan điểm đề cao vai trò của người làm tướng. Ngay khi đang còn kháng chiến chống quân Minh, Lê Lợi và Nguyễn Trãi đã nhấn mạnh rằng: "Thiên hạ được yên hay phải nguy, sinh dân bị họa hay hưởng phúc, thực do ở việc binh, mà binh quyền giữ lấy hay bỏ, cho hay cướp lấy, quan hệ ở người làm tướng. Cho nên có câu nói rằng: Tướng là người giữ vận mệnh của quân"1 (Nguyễn Trãi: Toàn tập, Sđd, tr.143). Khi đất nước hết chiến tranh, Lê Thái Tổ vẫn rất coi trọng người cầm quân. Trong một buổi bàn công việc đất nước (10-1429), ông đã nói với các quan đại thần: "Người xưa có câu: Vua không chọn tướng thì khác gì dâng nước mình cho giặc. Trẫm luôn suy nghĩ điều đó, ngày đêm không quên"2 (Đại Việt sử ký toàn thư, Sđd, t.II, tr.303). Do nhận thức đúng vai trò quan trọng của đội ngũ tướng lĩnh trong xây dựng quân đội, nên triều Lê Sơ có yêu cầu rất cao đối với việc tuyển chọn, đào tạo võ tướng. Lê Thái Tổ yêu cầu người làm tướng phải có đức và tài, phải hội đủ các phẩm chất: trung thành, nhân nghĩa, tài trí, dũng cảm. Theo ông, người làm tướng phải lấy nhân nghĩa làm gốc, trí dũng làm đầu. Xuất phát từ quan điểm đó, Lê Thái Tổ hết sức chú trọng xây dựng đội ngũ tướng lĩnh. Bởi thế, ông đã ban chiếu cầu hiền, cho tìm kiếm những người có đức và tài để trao chức vụ coi việc quân. Trong chiếu gửi các tướng thần có công trong sự nghiệp kháng chiến chống giặc Minh, Lê Thái Tổ đã viết: "Sáng nghiệp là khó, giữ cơ nghiệp sẵn có không phải dễ, cho nên phải tìm người hiền tài để bảo người sau"1 (Đại Việt sử ký toàn thư, Sđd, t.II, tr.303). Kế tục quan điểm đó, vua Lê Thái Tông cũng đã lệnh cho các quan phải vì nước mà tiến cử hiền tài. Đến đòi vua Lê Thánh Tông, khi nhà nước đã ở vào thời kỳ hưng thịnh, vấn đề bổ dụng nhân tài đế coi quân càng được coi trọng. Lê Thánh Tông nhấn mạnh rằng: "Chức quan tổng binh nhận ký thác trong một địa phương, không nên ủy nhiệm người không tốt..."2 (Đại Việt sử ký toàn thư, Sđd, t.II, tr.502). Theo ông, người làm tướng là phải làm hết chức phận với triều đình.
Logged

Ai công hầu, ai khanh tướng, vòng trần ai, ai dễ biết ai
Thế Chiến Quốc, thế Xuân Thu, gặp thời thế, thế thời phải thế
quansuvn
Moderator
*
Bài viết: 6599



WWW
« Trả lời #67 vào lúc: 13 Tháng Hai, 2022, 05:09:53 pm »

Để có được đội ngũ tướng lĩnh hội đủ các phẩm chất về đức và tài, vương triều Lê Sơ có nhiều giải pháp tuyển chọn, bổ dụng, thăng, giáng, về đối tượng tuyển chọn võ tướng, thời Lê Sơ không câu nệ vào đường xuất thân mà chú trọng vào người thực sự hiền tài. Lê Thái Tổ nói rõ quan điểm đó trong chiếu cầu hiền: "Bất kể ai, là người hiền, hoặc ở triều đình, hoặc ở nơi thôn dã, là người tài bị khuất trong hàng ngũ quan nhỏ, là người hào kiệt náu mình nơi đồng nội, lẫn ở hàng binh lính đều được trọng dụng và trao chức quyền xứng đáng"1 (Đại Việt sử ký toàn thư, Sđd, t.II, tr.303). Về giải pháp tuyển chọn, ngoài hình thức nhiệm cử, tức là triều đình bổ nhiệm những người tài thuộc hàng ngũ tôn thất quý tộc, những người có công, vương triều Lê còn sử dụng hình thức: tiến cử, bảo cử; khảo sát và thi cử. Tiến cử là giới thiệu những người có đức, tài để triều đình xem xét và bổ dụng. Giải pháp này chủ yếu được thi hành dưới triều vua Lê Thái Tổ. Đến đời Lê Thánh Tông, giải pháp tiến cử chuyển sang bảo cử. Bảo cử cũng là tiến cử nhưng thông qua Bộ Lại. Những người có đức và tài được đề cử lên Bộ Lại, Bộ Lại xem xét và tâu trình vua bổ dụng. Nhằm hạn chế "thiên tư" trong việc cử người, vua Lê Thánh Tông quy định rất nghiêm khắc: "Ai dám thiên tư cử người hèn kém, tham lười sẽ bị trị tội". Nhận xét về bảo cử mới đặt từ đời Hồng Đức, sử gia Phan Huy Chú đã viết: "Bấy giờ việc ấy làm rất thận trọng, trừng phạt lại rất nghiêm, cho nên không ai dám bảo cử thiên tư, các chức đều xứng đáng, rút cuộc thu được hiệu quả là chọn được nhiều người hiền tài cho nước"2 (Phan Huy Chú: Lịch triều hiến chương loại chí, Sđd, t.2, tr.84).


Để đội ngũ võ quan, tướng lĩnh vững mạnh, triều đình nhà Lê Sơ tiến hành khảo xét, thải bớt những người thiếu năng lực. Ngay từ năm 1428, triều đình đã mở đợt khảo xét, chia thành bốn bậc, các quan ôn luyện để chuẩn bị cho kỳ thi; quan võ thi võ kinh, pháp lệnh và kỳ thư. Đời Lê Thái Tông, việc thi cử và khảo xét quan lại được tiến hành chặt chẽ hơn. Nhà vua định phép sát hạch: Các quan văn, võ đều do tổng quản nơi trực thuộc sát hạch, kết quả chia làm 3 bậc; về sau, việc khảo sát võ quan được tách riêng đi sâu vào chuyên môn võ nghệ. Đời Lê Thánh Tông, các đợt khảo sát được tiến hành dưới hình thức đô thí, cứ 3 năm mở một kỳ thi bắt buộc đối với các võ quan, tướng lĩnh. Kết quả thi chia thành 5 cấp, lấy đó làm tiêu chuẩn thăng, giáng. Đến năm 1488 (Mậu Thân), triều đình định rõ phép khảo xét công trạng các quan; 3 năm thi sơ khảo, 6 năm tái khảo, 9 năm thông khảo, nếu ai có tài năng khác thường sẽ được nhà vua đặc cách cân nhắc, không tính niên hạn. Đồng thời, nhà vua còn ra sắc chỉ cho trưởng quan các nha môn ở ngũ phủ và các vệ kén chọn người thuộc quyền mình cai quản, ai có công, tài năng kiến thức, lão luyện võ nghệ, mẫn cán và thanh liêm thì giữ nguyên chức, còn những kẻ tham nhũng, làm việc yếu kém thì tâu lên để bãi chức.


Thực hiện các giải pháp đó, vương triều Lê Sơ chọn lọc được những người thực sự kiêm đủ đức và tài, thay những người non yếu trong thực thi trách nhiệm. Nhờ đó mà đội ngũ võ quan có chất lượng ngày càng cao, "các quan đều làm việc giỏi, gọi là đời thịnh trị"1 (Phan Huy Chú: Lịch triều hiến chương loại chí, Sđd, t.2, tr.84).


Thời Lê Trung Hưng, Nguyễn Phúc Nguyên chiêu nạp Đào Duy Từ làm quân sư. Đào Duy Từ không chỉ am hiểu thời thế, giúp chúa Nguyễn vạch ra kế hoạch quan trọng đối phó hiệu quả với chúa Trịnh ở Đàng Ngoài mà còn để lại một pho binh thư rất có giá trị. Đó là Hổ trướng khu cơ1 (Hổ trướng khu cơ chia làm 3 tập (tập Thiên, tập Địa, tập Nhân), không chỉ một soạn giả nhưng chắc chắn Đào Duy Từ là soạn giả đầu tiên. Đây là tác phẩm lý luận quân sự có giá trị, còn giữ nguyên vẹn đến ngày nay). Trong Hổ trướng khu cơ, Đào Duy Từ cho rằng: Tướng là vấn đề quan trọng của nhà nước. Tướng cần mưu hơn cần dũng. Đạo làm tướng lấy nhân nghĩa làm đầu. Điều cốt yếu là ở nhân tâm. Tướng không dốc lòng nhân thì không thể cố kết nhân tâm được. Tướng phải biết nghĩa. Nghĩa đã rõ thì dốc lòng trung báo ơn nước; xử sự đúng lẽ phải thì duy trì được lòng người2 (Binh thư yếu lược, phụ: Hổ trướng khu cơ, Sđd, tr.393). Cùng với nhân và nghĩa, người làm tướng phải có đủ sáu điều khác như: Tín, Trí, Minh, Tài năng, Cương dũng và Nghiêm. Đào Duy Từ rất khắt khe trong quan niệm chọn tướng, dùng người. Vận dụng binh pháp vào thực tiễn, ông đặc biệt lưu ý đến phương thức tuyển chọn tướng sĩ. Buổi đầu thế và lực còn yếu, ông trình chúa Nguyễn chỉ chọn tướng chủ yếu trong dòng tôn thất. Khi thế và lực đã vững lên rồi thì mở rộng sự tuyển chọn. Chính ông đã phát hiện và bồi dưỡng nhiều người trở thành tướng lĩnh tài ba, tiêu biểu là Nguyễn Hữu Tiến giỏi cầm quân.


Thời Tây Sơn, Nguyễn Nhạc, Nguyễn Huệ cũng rất chú trọng chọn dùng tướng giỏi và khi đã lựa chọn thì giao cho họ đủ quyền. Xuất phát từ quan điểm đó, khi lên ngôi Hoàng đế (1778), Nguyễn Nhạc xuống chiếu phong cho nhiều tướng lĩnh có công lớn. Đặc biệt, khi cầm quân ra Bắc lần thứ hai (1788), Nguyễn Huệ thành lập Bộ chỉ huy Tây Sơn đặt đại bản doanh ở Thăng Long để cai quản Bắc Hà. Trước lúc trở về Phú Xuân, Nguyễn Huệ dặn dò các tướng rằng: Sở và Lân là nanh vuốt của ta; Dũng và Ngôn là tâm phúc của ta; Tuyết là cháu ta; còn Nhậm thì vừa là bề tôi vừa là khách của ta. Nay ta giao cho các người cả 11 trấn trong toàn hạt. Những việc quan trọng đều cho tùy cơ mà làm1 (Xem Đại Nam chính biên liệt truyện, Nxb. Thuận Hóa, Huế, 1993, tr.119). Được tin tưởng, giao cho đủ quyền, các tướng lĩnh trong Bộ chỉ huy Tây Sơn đã đồng lòng, hiệp sức lo chung công việc, hoàn thành các nhiệm vụ, "xứng đáng với sự trông đợi" của Nguyễn Huệ.


Có thể thấy, tư tưởng về xây dựng đội ngủ cán bộ quân đội của thời phong kiến chủ yếu xoay quanh: Một: quan hệ tướng và quân, hai: tài điều khiển quân đội, ba: lòng trung thành với triều đình, quốc gia, dân tộc. Ba nhân tố này cho thấy tư tưởng quân sự về đội ngũ cán bộ quân đội thời phong kiến chủ yếu được đưa ra dưới quan điểm của triều đình, trong nhu cầu phát triển lực lượng quốc phòng. Trong khi đó, thời hiện đại, tư tưởng xây dựng đội ngũ cán bộ lại được đưa ra để đáp ứng nhu cầu cấp thiết của lịch sử: giải phóng dân tộc, bảo vệ thành quả cách mạng.
Logged

Ai công hầu, ai khanh tướng, vòng trần ai, ai dễ biết ai
Thế Chiến Quốc, thế Xuân Thu, gặp thời thế, thế thời phải thế
quansuvn
Moderator
*
Bài viết: 6599



WWW
« Trả lời #68 vào lúc: 13 Tháng Hai, 2022, 05:11:55 pm »

Kế thừa và phát huy di sản dân tộc về xây dựng đội ngũ tướng lĩnh và vận dụng sáng tạo tư tưởng của Lênin về xây dựng đội ngũ cán bộ quân đội kiểu mới, Chủ tịch Hồ Chí Minh đặc biệt quan tâm xây dựng đội ngũ cán bộ quân sự, vì "Tướng là kẻ giúp nước. Tướng giỏi... thì nước mạnh. Tướng xoàng thì nước hèn"1 (Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.3, tr.519). Người khẳng định: "Muốn việc thành công hoặc thất bại, đều do cán bộ tốt hoặc kém"2 (Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.5, tr.240), "Cán bộ là cái gốc của mọi công việc"3 (Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.5, tr.269). Xuất phát từ quan điểm đó, từ những năm 1925 - 1926, Người đã cử nhiều cán bộ đi học quân sự để chuẩn bị cho việc xây dựng lực lượng vũ trang trong tương lai. Khi về nước cùng Trung ương Đảng trực tiếp lãnh đạo cách mạng, Người chỉ thị cử nhiều cán bộ đi học quân sự ở nước ngoài và chú trọng mở nhiều trường đào tạo huấn luyện cán bộ quân sự ở trong nước.


Theo Người, đào tạo đội ngũ cán bộ phải toàn diện, cả đức và tài. Hai mặt đó thống nhất, gắn bó với nhau, tạo thành nhân cách của người cán bộ. Nhấn mạnh đến mặt đạo đức, Người nói: "Người cách mạng phải có đạo đức, không có đạo đức thì dù tài giỏi mấy cũng không lãnh đạo được nhân dân". Đạo đức cách mạng của người cán bộ quân đội là "trung với nước, hiếu với dân", suốt đời phấn đấu cho mục tiêu, lý tưởng của Đảng, ra sức làm việc, giữ vững kỷ luật; thực hiện tốt đường lối, chính sách của Đảng, hết lòng phục vụ nhân dân, đặt lợi ích của Đảng, của nhân dân lên trên lợi ích cá nhân; cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư. Người cũng rất coi trọng việc bồi dưỡng tri thức quân sự cho cán bộ quân đội. Người đề ra sáu yêu cầu đối với người tướng: "Trí, Dũng, Nhân, Tín, Liêm, Trung". Trí là trình độ giác ngộ chính trị, là tài thao lược, là năng lực lãnh đạo chỉ huy, biết giáo dục chiến sĩ; dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm. Cần nhấn mạnh rằng, trong hoàn cảnh phải chống những kẻ thù to lớn, để biểu thị ý chí quyết chiến, tổ tiên đã đặt chữ "Dũng" lên đầu. Trong điều kiện mới của lịch sử, để giành thắng lợi trong các cuộc kháng chiến chống những đạo quân xâm lược có trang bị vũ khí, kỹ thuật quân sự hiện đại của chủ nghĩa đế quốc, thì vấn đề đặt ra không phải chỉ quyết chiến mà quan trọng là biết thắng. Bởi vậy, trong trật tự phẩm chất của người tướng, Chủ tịch Hồ Chí Minh đặt chữ "Trí" lên hàng đầu. Hơn nữa, trong nội dung của mỗi phẩm chất, Người còn đưa vào những điểm mới. Theo Người, nếu thiếu một trong sáu điều "Trí, Dũng, Nhân, Tín, Liêm, Trung" tức là một khuyết điểm to và ảnh hưởng đến công tác. Để có đủ các điều đó, người cán bộ phải phấn đấu, rèn luyện không ngừng, bởi "sự học hỏi là vô cùng", "dốt nát cũng là kẻ địch".


Nói đến cán bộ có đức, có tài là nói đến tiêu chuẩn chung nhất của người cán bộ. Tuy nhiên, tiêu chuẩn đó lại được cụ thể hóa đối với từng loại cán bộ, từng cấp cán bộ. Đối với cán bộ chính trị, "phải cố gắng học tập về mọi mặt chính trị, quân sự. Phải học chính trị. Quân sự mà không có chính trị như cây không có gốc, vô dụng lại có hại... Riêng về các chú, chính trị biểu hiện ra trong lúc đánh giặc. Học chính cương, chính sách rồi thì phải thực hiện. Nếu thuộc lầu mà không biết đánh giặc thì vô dụng... Phải thương yêu chiến sĩ... Phải dạy cho đội viên biết cách dân vận"1 (Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.6, tr.318-320). Đối với cán bộ chỉ huy tham mưu, cần mạnh dạn "áp dụng những điều đã học được, nhưng cần áp dụng một cách thiết thực, thích hợp với hoàn cảnh của ta; chớ có giáo điều, máy móc". Đối với cán bộ cung cấp (ngành hậu cần), "phải làm thế nào một bát gạo, một đồng tiền, một viên đạn, một viên thuốc, một tấc vải, phải đi thẳng đến chiến sĩ. Đó là bổn phận của các chú"2 (Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.6, tr.514).


Để người cán bộ hoàn thành tốt nhiệm vụ, Đảng Cộng sản Việt Nam đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh chủ trương "phải ra sức bồi dưỡng cán bộ"3 (Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.7. tr.14). Người nêu lên yêu cầu đối với công tác đào tạo cán bộ quân đội là phải dạy cho cán bộ có bản lĩnh chính trị vững vàng, có ý chí mạnh mẽ, dám nghĩ, dám làm, thông thạo công việc để thực hiện đường lối của Đảng, nhiệm vụ của quân đội; có trình độ hiểu biết chủ nghĩa Mác - Lênin và khoa học quân sự, khoa học kỹ thuật, khoa học xã hội và nhân văn; nắm vững đường lối, chính sách của Đảng, có trình độ chiến thuật, kỹ thuật để chỉ huy bộ đội; có khả năng tổng kết thực tiễn để góp phần cụ thể hóa, bổ sung chủ trương, đường lối quân sự của Đảng. Cán bộ học ở trường, ở sách vở và trong thực tiễn đấu tranh cách mạng đều rất quan trọng và cần thiết. Học phải đi đôi với hành, lời nói phải đi đôi với việc làm, "quyết tâm phải biến thành hành động dũng cảm, chiến đấu kiên quyết, không sợ hy sinh gian khổ, triệt để chấp hành nghiêm chỉnh mọi chỉ thị, mệnh lệnh, trong bất kỳ tình huống nào cũng phải chỉ huy đơn vị quyết đánh, quyết thắng, cũng phải quản lý đơn vị chặt chẽ, giữ nghiêm kỷ luật, chấp hành tốt mọi chính sách"1 (Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.12, tr.465). Trong lãnh đạo chỉ huy, người cán bộ quân đội phải có tác phong dân chủ, tôn trọng tập thể, đoàn kết, gắn bó cán bộ và chiến sĩ như ruột thịt.


Dưới ánh sáng tư tưởng Hồ Chí Minh và đường lối quân sự của Đảng, đội ngũ cán bộ quân đội không ngừng trưởng thành và lớn mạnh. Nhiều tướng lĩnh, người chỉ huy lãnh đạo tài ba xuất hiện. Đội ngũ cán bộ quân đội ta trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ đã vượt trên đội ngũ tướng lĩnh, sĩ quan của các quân đội đối phương về trình độ nắm vững và vận dụng khoa học quân sự. Đội ngũ cán bộ quân sự xứng đáng là đội ngũ nòng cốt của Đảng và Nhà nước trong sự nghiệp cách mạng. Nghiên cứu về đội ngũ cán bộ lực lượng vũ trang cách mạng Việt Nam, học giả Gabrien Bonét đã viết: "Họ bao quái không những nghệ thuật quân sự mà còn hiểu biết tất cả những vấn đề như chính trị, kinh tế và đạo đức dưới góc cạnh chủ nghĩa Mác. Khoa học, khéo léo, mềm dẻo, tài năng đặc biệt của họ cho phép họ hoàn thành tất cả mọi nhiệm vụ, giải quyết những vấn đề quân sự phức tạp"2 (Tạp chí Lịch sử quân sự, số 18 (tháng 8-1986), tr.61).


Gắn liền với đào tạo, giáo dục cán bộ là khâu sử dụng, bố trí cán bộ. Bố trí đúng cán bộ vào các vị trí phù hợp là cực kỳ quan trọng, về điểm này, Đảng Cộng sản Việt Nam và Chủ tịch Hồ Chí Minh "trực tiếp lựa chọn những cán bộ chủ chốt của quân đội và khi đã giao nhiệm vụ thì hoàn toàn tin tưởng"1 (Đại tướng Võ Nguyên Giáp (Chủ biên): Tư tưởng Hồ Chí Minh và con đường cách mạng Việt Nam, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1997, tr.219). Những cán bộ chủ chốt trong thời kỳ đầu xây dựng quân đội cũng như các thời kỳ sau này là những người cộng sản kiên cường, có phẩm chất đạo đức cao, có năng lực tổ chức và chỉ huy, là nhân tố đầu tàu của sự phát triển lực lượng chiến đấu sắc bén của Đảng.


Như vậy, với quan điểm coi trọng đội ngũ tướng lĩnh, chọn dùng người tài, đào tạo và bồi dưỡng cán bộ, các nhà lãnh đạo quốc gia phong kiến trước đây cũng như Đảng Cộng sản Việt Nam ngày nay đã xây dựng được đội ngũ cán bộ, tướng lĩnh trung thành, tài trí, mưu lược làm nòng cốt để xây dựng quân đội qua các thời kỳ lịch sử.
Logged

Ai công hầu, ai khanh tướng, vòng trần ai, ai dễ biết ai
Thế Chiến Quốc, thế Xuân Thu, gặp thời thế, thế thời phải thế
quansuvn
Moderator
*
Bài viết: 6599



WWW
« Trả lời #69 vào lúc: 13 Tháng Hai, 2022, 05:14:19 pm »

VI- QUAN TÂM GIẢI QUYẾT TRANG BỊ VŨ KHÍ, XÁC ĐỊNH LỐI ĐÁNH GIẶC CỦA LỰC LƯỢNG VŨ TRANG

Chức năng chủ yếu của lực lượng vũ trang là đánh giặc giải phóng dân tộc và bảo vệ Tổ quốc. Bởi vậy, bên cạnh việc chăm lo xây dựng đội ngũ cán bộ, xem đó là nhân tố quyết định, dân tộc Việt Nam đồng thời coi trọng trang bị vũ khí và xác định lối đánh giặc cho lực lượng vũ trang đánh thắng các thế lực xâm lược.


Trong lịch sử, tổ tiên ta rất quan tâm đến việc rèn đúc chiến cụ, sắm sửa vũ khí để trang bị cho quân đội. Theo thư tịch cổ và truyền thuyết, sau khi xây dựng thành Cổ Loa, An Dương Vương giao cho Cao Lỗ chế tạo "nỏ thần". Công dụng của loại vũ khí này được sách Việt sử lược ghi: "Cao Lỗ làm được nỏ Liên Châu, mỗi lần giương nỏ bắn ra được mười phát tên". Đại Việt sử ký toàn thư cũng viết: "Cao Lỗ làm nỏ thần, lấy móng rùa làm lẫy đặt tên là Linh Quang kim trảo thần nỏ". Loại vũ khí "nỏ thần" có uy lực và hiệu quả chiến đấu cao hơn hẳn loại vũ khí thông thường và người phát minh ra nó được gọi là ông Nỏ1 (Xem Bộ Quốc phòng - Viện Lịch sử quân sự Việt Nam: Lịch sử tổ chức quân sự Việt Nam, Nxb. Quân đội nhân dân, Hà Nội, 2010, t.1, tr.49). Theo tài liệu khảo cổ, tại thành Cổ Loa (Hà Nội), các nhà khảo cổ cũng đã phát hiện được kho mũi tên đồng hàng vạn chiếc, khẳng định tài năng chế tạo vũ khí trang bị cho quân đội thời An Dương Vương.


Trong các cuộc khởi nghĩa chống ách đô hộ phương Bắc, ông cha ta đã tự tạo ra vũ khí, đóng chiến thuyền để đánh địch. Năm 938, nhân dân đã góp sức xây dựng trận địa cọc trên sông Bạch Đằng, đánh thắng quân Nam Hán, giành lại nền độc lập cho đất nước. Quân đội thời Lý được trang bị vũ khí tốt, trong đó có máy bắn đá, đã phát huy tác dụng trong trận công phá thành Ung Châu (1075), sau đó nhanh chóng lui quân về tổ chức tuyến phòng ngự trên sông Như Nguyệt, đánh bại cuộc chiến tranh xâm lược của nhà Tống. Thời Trần, quân đội được chú trọng xây dựng phát triển cả về tổ chức và trang bị vũ khí. Các công xưởng (quan xưởng) được xây dựng để sản xuất vũ khí, thuyền chiến cung cấp cho quân đội. Thời nhà Hồ, dưới sự chỉ huy và tổ chức của Hồ Nguyên Trừng, nhiều xưởng đóng chiến thuyền được thành lập. Chiến thuyền nhà Hồ thuộc loại lớn, sàn thuyền đi lại dễ dàng, vừa tiện cho việc tải lương, vừa thuận lợi cho việc chiến đấu. Chính nhờ kỹ thuật đóng thuyền tiến bộ, nên thủy binh nhà Hồ là lực lượng khá mạnh1 (Xem Tuổi trẻ nhân tài và tài năng quân sự, Nxb. Khoa học kỹ thuật, Hà Nội, 1993, tr.173). Đặc biệt, Hồ Nguyên Trừng đã sáng chế ra súng thần cơ và cho sản xuất hàng loạt loại vũ khí này. Súng thần cơ có nhiều cỡ, lớn nhỏ khác nhau, có sức công phá và sát thương hơn hẳn các loại súng đương thời, kể cả hỏa pháo nhà Minh (Trung Quốc), về việc chế tạo và sử dụng, sách Đại Việt sử ký toàn thư chỉ chép vắn tắt, nhà Hồ đã "đặt bốn kho quân khí. Không kể là quân hay dân, hễ ai khéo nghề đều sung vào làm việc"2 (Đại Việt sử ký toàn thư, Sđd, tr.209), nhưng sử sách nhà Minh lại chép khá rõ: "Dùng đồng đỏ ở mức giữa sống và chín, nếu lấy sắt thì sắt mềm. Súng to nhỏ khác nhau, thứ lớn dùng xe, thứ nhỏ dùng giá, dùng bệ, vác vai. Thứ lớn lợi cho phòng thủ, thứ nhỏ lợi cho chiến đấu, tùy nghi mà dùng"1 (Bộ Quốc phòng - Viện lịch sử quân sự Việt Nam: Danh nhân quân sự Việt Nam thời Hồ - Lê Sơ, Nxb. Quân đội nhân dân, Hà Nội, 2010, tr.14). Mô tả uy lực của súng thần cơ, sách Việt kiệu thư đời Minh viết: "Súng thần cơ có được gần đây, bắn đi bằng lửa, đi xa ngoài trăm bước, nhanh chóng kỳ diệu như thần, nghe thấy tiếng là lửa đã đến". Sách Trấn trạch kỷ văn của Vương Ngao (nhà Minh) viết rõ thêm: "Khi Thành Tổ thân chinh Mạc Bắc (chỉ Mông Cổ) dùng súng thần An Nam vừa bắt được, kẻ địch một người tiến lên, lại hai người nữa tiếp theo đều trúng súng (đạn lửa) mà chết"2 (Bộ Quốc phòng - Viện lịch sử quân sự Việt Nam: Danh nhân quân sự Việt Nam thời Hồ - Lê Sơ, Nxb. Quân đội nhân dân, Hà Nội, 2010, tr.15). Qua sử sách Trung Quốc đời Minh, chúng ta rõ thêm về thành tựu sáng chế vũ khí của nền kỹ thuật quân sự Việt Nam thời Hồ.


Trong cuộc khởi nghĩa Lam Sơn, Lê Lợi và Nguyễn Trãi cũng rất quan tâm đến việc rèn đúc vũ khí cho nghĩa quân, đồng thời coi trọng nguồn vũ khí thu được của giặc để đánh địch. Thời Tây Sơn, Quang Trung rất quan tâm đến việc chế tạo vũ khí trang bị cho quân đội. Bởi thế, kỹ thuật quân sự thời đó có bước phát triển mới. Thủy quân được trang bị các chiến thuyền có trọng tải lớn, hỏa lực mạnh. Bộ binh, kỵ binh, tượng binh được trang bị các loại hỏa hổ (súng phun lửa) và hỏa cầu. Đến thời Nguyễn, cùng với việc kế thừa kỹ thuật chế tạo vũ khí của các triều đại trước, nhà Nguyễn còn tranh thủ kỹ thuật phương Tây để chế tạo vũ khí. Các xưởng vũ khí sản xuất được súng điểu thương, súng kíp, súng hỏa mai, súng phun lửa bằng đồng, đại bác bằng gang; tuy số lượng không nhiều và còn lạc hậu, nhưng rất cần để trang bị cho quân đội. Trong các cuộc khởi nghĩa chống thực dân Pháp, các vị thủ lĩnh nghĩa quân cũng rất quan tâm đến việc chế tạo vũ khí thô sơ trang bị cho nghĩa quân. Tiêu biểu là Cao Thắng cùng nghĩa quân Hương Khê đã nghiên cứu và chế tạo được súng trường theo kiểu 1874 của Pháp (kiểu súng trường mới cỡ nòng 11mm), khiến cho không chỉ sĩ quan Pháp mà cả "các kỹ sư Âu châu cũng phải kinh ngạc"1 (Ch. Gosselin: L' Emfire d' Annam, Perin et Cie, Paris, 1904, p.313. Tài liệu lưu Bộ môn Lịch sử tư tưởng quân sự - Viện Lịch sử quân sự Việt Nam).


Ngay từ khi mới thành lập, Đảng Cộng sản Việt Nam đã chỉ rõ cách mạng Việt Nam phải thông qua đấu tranh vũ trang mới giành được chính quyền. Tại Đại hội lần thứ nhất của Đảng (3-1935), Đảng đã khẳng định: "Phải có binh khí ít nhiều, càng nhiều càng tốt để thao luyện, đế lúc điều kiện cần thiết phải xung đột với quân thù thì bảo tồn tính mạng của quần chúng, chiến sĩ, giữ gìn cơ quan cách mạng, hộ vệ cuộc cách mạng"2 (Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd, t.5, tr.9). Khi về nước cùng với Trung ương Đảng trực tiếp lãnh đạo cách mạng (đầu năm 1941), lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc khẳng định: "Khởi nghĩa thì phải có vũ khí. Đó là một trong những vấn đề quan trọng của cách mạng"3 (Bộ Quốc phòng - Viện Lịch sử quân sự Việt Nam: Sự nghiệp và tư tưởng quân sự của Chủ tịch Hồ Chí Minh, Nxb. Quân đội nhân dân, Hà Nội, 1995, tr.254).


Xuất phát từ quan điểm đó, Đảng Cộng sản Việt Nam và Chủ tịch Hồ Chí Minh hết sức quan tâm vấn đề trang bị vũ khí cho lực lượng vũ trang và đã chỉ ra các giải pháp giải quyết đúng đắn, cụ thể. Thứ nhất, phải "tự tạo ra vũ khí trang bị cho lực lượng vũ trang của mình". Thứ hai, phải vừa đánh vừa vũ trang: "Không súng thì lấy ở đâu. Lấy súng của địch bắn đầu địch nhân". Chỉ thị về sửa soạn khởi nghĩa (5-1944) của Tổng bộ Việt Minh giải thích rõ thêm: "Một phần lớn võ khí của quân khởi nghĩa là lấy của quân địch. Muốn dùng súng thù bắn thù, có hai cách: a) Đánh các đồn trại, các kho súng, các đội quân tuần tiễu của quân địch mà chiếm lấy võ khí... b) Hết sức vận động binh lính của địch... làm cho họ giác ngộ, đem súng của quân địch lại cho ta"1 (Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd, t.7, tr.496). Thứ ba, tìm cách mua vũ khí để trang bị cho lực lượng vũ trang. Thực hiện các giải pháp đó, vấn đề trang bị vũ khí cho lực lượng vũ trang được giải quyết, đáp ứng nhu cầu cần thiết trong khởi nghĩa vũ trang.


Cách mạng Tháng Tám năm 1945 thành công, theo đà phát triển của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược, ngành quân giới đã sản xuất được nhiều loại vũ khí như badôca, bom ba càng, lựu đạn, địa lôi... cung cấp cho toàn quân đánh giặc. Sau chuyên thăm bí mật Trung Quốc, Liên Xô đầu năm 1950 của Chủ tịch Hồ Chí Minh, ta đã tranh thủ được sự ủng hộ, giúp đỡ vũ khí của các nước anh em. Trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, việc cải tiến vũ khí - trang bị kỹ thuật của quân đội ta đã được thực hiện nhanh chóng khi Liên Xô, Trung Quốc và các nước xã hội chủ nghĩa khác viện trợ một khối lượng lớn các loại vũ khí tương đôi hiện đại như máy bay chiến đấu, xe tăng, tàu chiến, tên lửa, các loại pháo mặt đất và phòng không, các phương tiện chỉ huy, cơ động, thông tin... Sự giúp đỡ của các nước anh em cùng với phương hướng cải tiến đúng đắn, nghệ thuật sử dụng vũ khí - trang bị của cán bộ, chiến sĩ ta không ngừng được nâng cao đã tạo nên sức mạnh chiến đấu mới, vươn lên đánh bại quân xâm lược có ưu thế về vũ khí - trang bị kỹ thuật1 (Xem Ban chỉ đạo tổng kết chiến tranh trực thuộc Bộ Chính trị: Chiến tranh cách mạng Việt Nam 1945-1975 - Thắng lợi và bài học, Sđd, tr.436). Cũng cần phải nhấn mạnh rằng, trong quá trình kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ xâm lược, bên cạnh sự giúp đỡ to lớn của các nước xã hội chủ nghĩa anh em về vũ khí, trang bị, quân dân Việt Nam đã phát huy tinh thần chủ động, sáng tạo chế tạo nhiều loại vũ khí từ thô sơ đến tương đối hiện đại để đánh giặc. Nhằm ngăn ngừa khuynh hướng lệch lạc, ngay từ đầu Đảng Cộng sản Việt Nam đã chỉ rõ: "Phải chống khuynh hướng coi thường vũ khí thô sơ mà chỉ chú trọng vũ khí tối tân, đồng thời chống khuynh hướng về chế tạo vũ khí thô sơ mà không để ý hay không gắng sức chế tạo và học dùng vũ khí tối tân"2 (Nghị quyết quân sự của Đảng 1930-1960, Sđd, tr.77). Quan điểm chỉ đạo đó không chỉ soi sáng trong thời kỳ chiến tranh cách mạng mà còn soi sáng cho các thời kỳ cách mạng kế tiếp. Ngày nay, lịch sử đã sang trang mới. Để bảo vệ toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, trên cơ sở nền kinh tế của đất nước và nền công nghiệp quốc phòng, ta chủ động chế tạo các loại vũ khí, khí tài để trang bị cho quân đội, đồng thời lựa chọn mua những phương tiện, vũ khí tối tân cần thiết đáp ứng nhu cầu bảo vệ đất nước, bảo vệ chủ quyền biển đảo, ngăn chặn có hiệu quả mọi mưu đồ tiến công Tổ quốc ta từ hướng biển.
Logged

Ai công hầu, ai khanh tướng, vòng trần ai, ai dễ biết ai
Thế Chiến Quốc, thế Xuân Thu, gặp thời thế, thế thời phải thế
Trang: « 1 2 3 4 5 6 7 8 9 »   Lên
  In  
 
Chuyển tới:  

Powered by MySQL Powered by PHP Powered by SMF 1.1.21 | SMF © 2006-2008, Simple Machines

Valid XHTML 1.0! Valid CSS! Dilber MC Theme by HarzeM